Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Tiểu Thu
Phượng Các
#1 Posted : Sunday, January 9, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Tiểu Thu


Tên thật: Nguyễn Thu Thu.
Bút hiệu: Tiểu Thu
Sinh năm 1947 . Sanh quán Cao- Lãnh, Kiến Phong.
Rời Việt Nam năm 1975 va` định cư tại thành phố
Montréal,
Québec, Canada.
Bắt đầu sáng tác năm 1987. Hiện là Tổng Thư ký Hội
Văn
Bút Québec. Cộng tác thường trực với Cỏ Thơm, Thời
Báo,
Văn Đàn( của nhạc sĩ Từ Công Phụng), Thẩm Mỹ ( của
nhạc
sĩ Phạm Mạnh Cương)...Trình làng một tuyển tập Truyện
Ngắn từ năm 2002 và dự định in cuốn thứ 2 một ngày
không
xa.
Rất thích đi làm nhưng sắp sửa bị bắt về hưu! Thích
du
lịch, mê đọc sách, mê đan, thêu và hội họa.
Phượng Các
#2 Posted : Friday, October 6, 2006 3:33:05 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Xóm Bình Hòa

Tiểu Thu



Khi gia đình Mai dọn về Ngã Tư Bình Hòa thì nhỏ vừa
lên tám. Anh Tú hai mươi và chị Thơ mười tám, đang
mang bầu thằng Phương. Trước đó hai năm, chỉ có một
mình ba lên Sài Gòn ở tạm nhà chú Sáu Tuấn bên Thị
Nghè. Ba giữ chân kế toán trưởng cho một viện bào
chế thuốc tây vào hạng lớn nhứt Sài Gòn thuở đó.
Ông chủ người Pháp quanh năm ở tuốt bên Kinh đô ánh
sáng. Năm thì mười hoạ mới giá lâm một lần để
xem nhân viên mần ăn ra răng? Mọi việc đều giao cho
một quản lý người Việt. Tuy vậy cái màn "vắng chủ
nhà gà mọc đuôi tôm" cũng có lúc xảy ra. Trong đám
phụ tá của ba có chú Thạnh, nhỏ hơn ba 5, 6 tuổi nhưng
số nhi đồng lại đông gấp đôi, nên nhà chú thường
xuyên thiếu trước hụt sau. Có lần thiếm vô nhà
thương mổ ruột dư, túng quá chú đành vô bureau của
ba, gãi đầu gãi tai một hồi mới ấp úng:

- Anh Thăng, vợ em nằm nhà thương Grall... (thở dài!),
em cũng biết là làm phiền anh lắm, nhưng mà... (chắc
lưỡi...), em hết biết tính sao?

Ba Mai không nói không rằng, rút đại một cái hoá đơn
của một nhà thuốc nào đó còn thiếu tiền, đưa cho
chú Thạnh:

- Nè, đi đòi đi. Rồi sau ráng trả lại cho đàng hoàng
nghe không.

Chú Thạnh hởn hở cầm cái hóa đơn cứu mạng, miệng
cám ơn rối rít. Ba thích giúp đỡ mọi người nên
được các đồng nghiệp yêu mến. Thỉnh thoảng mấy
chú kéo đến nhà Mai nhậu nhẹt, cả anh chàng dược sĩ
trẻ người Pháp từ Paris qua.

Sau này, thấy mỗi lần má dẫn Mai lên Sài Gòn thăm ba
vất vả quá, vì phải đi tàu từ Cao Lãnh qua Sa Ðéc.
Không muốn phiền người quen nên má và Mai phải ngủ
qua đêm trên mui tàu, sáng hôm sau mới lấy xe đò lên
Sài Gòn. Nội qua cái bắc Mỹ Thuận cũng mất mấy tiếng
đồng hồ. Thành thử quãng đường chỉ dài độ 140
cây số mà phải đi cả ngày mới tới. Má còn cụ bị
lủ khủ nào gạo, khô, gà vịt, trái cây... Lần nào cũng
bị lơ xe cằn nhằn. Ðó là chưa kể dưới quê tình
hình rất lộn xộn. Lính Quốc gia. Lính Hòa Hão. Việt
Minh. Người dân ở giữa giống như trái độn. Ðó là
chưa kể nạn cướp tới thăm. Lúc đó má và chị Thơ
chở một ghe xoài qua bán bên tỉnh Bến Tre, nên Mai phải
qua ở với ông bà nội.

Ðêm đó nhằm rằm nên trăng sáng vằng vặc. Mai ngủ
chung với bà nội ở gian giữa. Chị Yến con cô Hai ngủ
trên bộ ván gõ cạnh cửa sổ ngó ra vườn. Không hiểu
cao hứng gì mà đêm đó chị gác một chưn lên thành
cửa sổ. Nửa đêm giựt mình thức dậy vì có cảm
giác hai cánh cửa sổ nhúc nhích. Chị ngồi bật dậy
ngó qua khe cửa thấy một người mặc đồ đen, vai đeo
súng đang lấy sức kéo mạnh cho cánh cửa bật ra. Chị
la lên:

- Cướp! Cướp! Cậu bảy ơi, ăn cướp!

Cả nhà tỉnh ngủ tức khắc. Bà nội kéo Mai chun xuống
gầm giường, con nhỏ run như cầy sấy. Bà mò xuống
bếp lấy cái mâm thau (hay nồi đồng gì đó Mai cũng
quên mất), chun trở vô gầm giường, tay vừa gõ xèng
xèng, miệng niệm Phật lia lịa (ông nội có chỗ bí
mật để ngủ mỗi đêm nên không khi nào lên tiếng).
Nghe tiếng báo động của bà nội, cả xóm kẻ gõ nồi,
người gõ mâm, người khác lại gõ mõ - chị Yến gan
lì hết sức, vừa chạy vòng vòng vừa ngó qua khe cửa
(trong nhà tối, bên ngòai trăng sáng như ban ngày), mỗi
lần thấy bóng một tên cướp (có khoảng 3 tên, đi
xung quanh nhà, gặp cửa nào cũng giựt thử, nhưng cửa
nhà ông nội rất chắc chắn) chị lại thét lên (chắc
để cướp tinh thần địch):

- Nó nè cậu bảy ơi. Chĩa đâu đưa đây con đâm nó (!??)

Chú Bảy cũng phụ họa:

- Ðâu đâu. Ðể đó cho tao!

Lính ở đồn Mỹ An bên kia sông, xéo xéo nhà ông nội
nghe tiếng xèng xèng, cóc cóc bên Tân An liền bắn qua
mấy phát súng thị uy. Bọn cướp thấy không xong bèn rút
lui có trật tự... Mờ sáng hôm sau, vị hôn phu của chị
Yến (ở tuốt bên xã Mỹ Ngãi, cách Tân An một cánh
đồng rộng khoảng 2 cây số rưỡi. Ðứng ở lộ mới
bên này nhìn xuyên qua cánh đồng thấy thấp thoáng vài
mái nhà sau hàng cây bần, cây gáo) lật đật qua vần
an người yêu. Chị cười lỏn lẻn hỏi sao biết, thì anh
Dương cũng rất thiệt thà thổ lộ rằng, tối hôm qua,
lẫn trong tiếng xèng xèng, cóc cóc, anh còn nghe tiếng
cướp cướp được phát ra từ cái giọng Soprano "vượt
bức tường âm thanh" của chị, bay qua tuốt bên nhà của
anh. Vì vậy anh thấp thỏm đợi hừng sáng là qua "thăm
dân cho biết sự tình." Thấy chị bình an vô sự anh rất
mừng(Mai không biết khi khám phá ra cô vợ tương lai có
cái giọng "cao hơn người" này - chị Yến vốn cao chưa
tới thước rưỡi - anh Dương có lo sợ cho hai cái màng
nhĩ của anh không nữa?!). Cứ vài tháng cướp lại đến
hỏi thăm sức khỏe một lần. Tuy không tổn thất vật
chất, nhưng tinh thần lại thiệt hại trầm trọng. Ba thấy
vậy kêu cả nhà lên ở luôn trên Sài Gòn.

Ba má mua lại một căn nhà mái tôn, vách bổ kho nho nhỏ
trên đường Lê Quang Ðịnh (sau này buôn bán khá, ba má
mới nới rộng thêm ra). Nhà cách ngã tư độ trăm thước
đi về hướng chợ Cây Quéo. Cũng nhờ bác Ba Ðại của
Mai an cư lạc nghiệp tại xóm này hơn 20 năm rồi. Bác có
8 người con - 5 trai, 3 gái. Lớn nhứt là anh Hai Jean. Nhưng
bị mọi người "nhất trí" kêu là Răng (gia đình Bác dân
Pháp nên mang tên tây ráo trọi). Lúc ông Diệm lên chấp
chánh bắt phải đổi lại quốc tịch Việt. Không hiểu do
óc khôi hài cao độ hay vì lý do nào khác, anh lấy tên
là Nguyễn Văn Vàng. Từ đó tên anh trở thành Hai Răng
Vàng, tuy cả hai hàm, kiếm bảy ngày cũng không ra 1 cái
răng vàng nào hết. Anh giống bác Ba trai, đẹp như tài
tử Mỹ, cái miệng lại trơn như thoa mỡ. Mỗi lần anh
ghé thăm là cả nhà cười nghiêng cười ngửa. Ông bà
gìa vợ quý anh như vàng. Hai ông bà trước sau chỉ có
hai cô con gái rượu. Chị Tâm và chị Nguyệt. Anh lấy cô
em là chị Nguyệt. Tin tưởng tuyệt đối nơi chàng rể
quý, nên năm ba bữa bà má vợ lại nhờ:

- Răng à, chở dùm chị hai mày vô chợ Lớn khui hụi cho
má. Bữa nay má ể mình đi hổng được!

- Răng à, chở chị hai con vô nhà bà Tôn đòi tiền dùm
má. Trời Phật ngó xuống mà coi. Thiếu có năm ngàn mà
đi mòn đường cũng hổng chịu trả. Ứ hự!!

Cho tới một hôm chị Tâm khăn gói ra đi không một lời
từ biệt cha mẹ già. Tra khảo riết, cuối cùng anh Răng
cũng phải thú thiệt là đem chị Tâm dấu một chỗ chờ
ngày đập bầu. (Vì ngoài những chuyện bà má vợ nhờ
làm, anh còn thày lay làm luôn những chuyện bả không hề
nhờ mới là khổ!!). Bà già lăn ra sàn gạch khóc lóc
thảm thiết, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận
thương đau!! Từ đó hai chị em không thèm nhìn mặt
nhau nữa, nhưng cái mục sản xuất nhi đồng thì không bà
nào chịu thua bà nào. Cứ chị Tâm một đứa thì chị
Nguyệt một đứa (thiệt là công bằng hết chỗ nói!).
Nhà bác ba Ðại ở ngay mặt đường cái. Kế đó là quán
cà phê, hủ tíu của vợ chồng chú ba Lâm. Hai ông bà
không con, nuôi một con chó vàng khôn hết sức. Không
hiểu sao một bữa cao hứng, cẩu ta chạy băng qua đường
(chắc thấy một bóng hồng nào đó đang nhởn nhơ bên kia
chăng? Vì chỉ có tình yêu mới khiến cho muôn loài đâm
ra mù quáng! ) bị xe xích lô máy cán chết tươi. Thiếm
ba khóc quá chừng vì thương chú cẩu này như con... Nhà
Mai kế bên nhưng thụt sâu vô trong. Khoảng sân trước
tiếp giáp với quán cà phê. Mỗi buổi sáng, Mai chỉ cầm
cái ly bước vô sau bếp chú ba Lâm là có cà phê sữa
nóng hổi đem về cho ba ăn sáng trước khi đi làm. Gần
đường, sát vách quán má chất đống củi khô bán cùng
xóm, vì thời đó nhà nào cũng còn chụm củi hoặc than.
Mỗi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần ở chiếc
bàn tròn trước sân. Nói chuyện tầm phào hoặc nghe
ké mấy tuồng hát bội từ cái ra dô bên quán cà phê.
Vì vậy ngay từ nhỏ, Mai đã thuộc lòng chuyện Bà Chung
Vô Diệm với lão vua dê xồm Tề Tuyên Vương. Mỗi lần
nghe cái giọng khẩn cầu thảm thiết của lão khi giặc
tràn tới biên cương:

- Hậu ơi Hậu. Hậu ráng cứu trẫm chuyến này. Trẫm
thề sẽ...v.v. và v.v. để rồi sau đó, khi bà dẹp
xong giặc trở về, lão ta lại nghe lời mấy con Thứ
phi xí xọn dèm xiểm, kiếm mọi cách tống bà vô lãnh
cung là Mai lại tức cành hông.

Có lần hỏi má:

- Má à, sao bà Chung Vô Diệm giỏi võ như vậy, mà lúc
bị đày vô lãnh cung, bả hổng chém cho ông vua một nhát
để ổng chết phứt cho rồi?

Chị Thơ háy một cái lạnh lùng luôn:

- Vậy cũng nói! giết "thằng chả" chết rồi là hết
chuyện, lấy đâu cho mày nghe mỗi tối?

Má cũng nói:

- Ối, chuyện người ta đặt ra mà, hơi đâu thắc mắc!

Vậy chớ Mai cũng cứ ấm ức! Cái bà Chung Vô Diệm
ngoài chiến trường thì oai phong lẫm liệt, trước mặt
lão vua già lại ỉu xìu như cái bánh tráng ướt! Lão chỉ
cần "thở" ra vài lời đường mật là bà ta lại hồ
hỡi xông pha điều binh khiển tướng. Có lần vác cái
bầu gần ngày sanh ra trận,, bị vây khổn, bèn đẻ rớt
luôn một hoàng tử giữa trận tiền. Trong khi đó lão vua
già phây phây ở nhà ôm ấp mấy con Thứ Phi cà chớn!
Bà Chung Vô Diệm hiền chớ Mai là chém ráo trọi. Từ lão
dâm tặc cho tối mấy con vợ bé cà chua (ủa, hổng ngờ
sao hồi đó miệng còn hôi sữa mà Mai đã "bà chằng"
dữ vậy há? Chớ sau này lớn lên Mai hiền khô hà. Có
bị ông xã ăn hiếp cũng chỉ dám áp dụng đòn "chiến
tranh lạnh" (như Nga với Mỹ hồi nẩm), hoặc "bất hợp
tác chặt chẽ" với phe địch mà thôi. Ðâu bao giờ dám
dùng "ton" La hoặc "ton" Ré để cãi tay đôi?) Vậy mới
biết thân phận đàn bà bao giờ cũng bị thiệt thòi!!

Sát vách nhà Mai là nhà cô Bảy Huệ. Lúc gia đình Mai tới
thì bên nhà cô có bà mẹ độ 60 tuổi, tóc hoa râm, rất
đẹp lão. Cô bảy độ chừng 25, 26 tuổi và thằng Bảo là
con người anh ruột của cô. Nghe bác Ba gái nói ông này
theo lính Bình Xuyên đóng bên kia cầu chữ Y. Nó bằng
tuổi Mai mà sáng nào cũng ngồi trước hàng ba khóc nhèo
nhẹo cho tới khi bà Hai Cần (bà nội nó) xì tiền ra cu
cậu mới chịu nín. Ba cấm không cho Mai chơi với nó. Ông
nói ba nó là giặc Bình Xuyên. Mai thấy thiệt là vô lý.
Ba nó theo Bình Xuyên có phải tại nó xúi đâu mà bắt
lỗi nó? Vì vậy sau giờ học, Mai hay lén qua sân nhà cô
Bảy Huệ để chơi nhảy lò cò với thằng Bảo (trường
Mai ở gần nhà trong khi ba đi làm tuốt ngoài đường
Catinat), nhưng phải canh chừng, hễ thấy bóng chiếc Alcion
trờ tới trước cửa nhà nhỏ Kim Chi (cách nhà Mai 2 căn)
là phải lẹ lẹ nhảy phóc qua cái lan can mà về tức thì,
nếu bị bắt tại trận tối đó sẽ bị phạt quỳ...

Thật ra cho tới bây giờ, nghĩ lại tình cảnh cô Bảy Huệ
lúc bấy giờ, Mai không biết nên thương hay nên trách?
Cô Bảy người tầm thước, nước da bánh mật, miệng
hơi móm duyên, cười khoe hai hàm răng nhỏ rức. Không
phải sắc nước hương trời, nhưng là một nhan sắc
hiền diệu, ưa nhìn. Cô nói năng lại rất nhỏ nhẹ,
chừng mực. Sáng nào Mai cũng thấy cô mặc bộ đồ nữ
quân nhân, đúng giờ một chiếc xe nhà binh tới ngừng
trước ngõ, rước cô đi làm, chiều cũng chiếc xe nhà
binh đó đưa về. Ngoài giờ làm việc Mai chưa thấy cô
đi chơi với bạn trai bao giờ, tuy rằng thời đó, ở
tuổi cô, có thể nói là hơi... quá lứa! Mai không biết
lương hướng của cô ra sao, chỉ biết ngoài bà Hai Cần
(mắc bịnh ghiền đánh tứ sắc) cô phải cưu mang thêm
thằng Bảo, vì má nó mất sớm, ba nó đi lính Bình Xuyên
nên giao đứt luôn cho má con cô nuôịThấy nó côi cút,
nên đôi khi bà Hai cưng chiều quá đáng. (Sau khi quân
chính phủ dẹp tan đám Bình Xuyên, ba thằng Bảo bị bắt
ở tù). Vì vậy ngoài má con cô Bảy Huệ và thằng Bảo,
nhà không bao giờ có bóng đàn ông... Vậy mà một bữa
đi học về, mới tới đầu ngõ Mai thấy một người
đàn ông trọng tuổi từ trong nhà cô Bảy đi ra. Dáng
người hơi thấp, mập mạp, trắng trẻo, tóc hoa râm.
Nhìn ông, người ta đoán ngay được là dân có tiền.
Tò mò Mai đứng lại nhìn. Ra tới cổng, ông ta còn dòm
bên trái, bên phải như kiếm ai rồi mới đeo cập kiến
đen, bước hối hả ra đường, đi về hướng ngã Tư
Bình Hòa. Mai vô nhà gặp chị Thơ đang nấu cơm chiều,
nhỏ kể luôn:

- Em mới thấy có một "ông già" từ nhà cô Bảy Huệ
đi ra.

Chị Thơ thì thầm (vì bếp nhà Mai sát vách nhà cô Bảy):

- Ổng là "mèo" của cô Bảy đó.

Mai nhảy dựng như bị phỏng lửa:

- Cái gì? Mèo của cô Bảy?

Chị Thơ cú lên đầu Mai một cái đau điếng:

- Nhỏ họng chút coi. Mày la om sòm bên kia "họ" nghe được
làm sao?

Mai vừa vò đầu vừa nhăn nhó:

- Chị có lộn hông đó. Rủi ổng là "mèo" của bà Hai...

Chị Thơ xì một cái:

- Mày biết gì mà nói. Hôm kia bà Hai qua đây "tâm sự,"
khóc lóc một trận quá trời với má đây nè. Bả nói
tại nghèo, lại cần tiền lo cho ba thằng Bảo ra khỏi tù,
nên có người bà con làm mai cho cô Bảy làm bé ông này,
cổ đành ưng thuận. Ổng có vợ mà gần 20 năm nay bả
cứ trơ trơ, chẳng chịu chửa đẻ cho ổng đứa con nào
hết trơn. Mà ổng thì giàu quá trời. Chủ một hãng
taxi, tới mấy chục chìếc cho mướn lận đó. Ổng ham
con lắm nên chịu bảo bọc hết gia đình cô Bảy. Hổm nay
tao thấy ổng vô đây mấy lần rồi đó. Nghe đâu ổng
gần năm mươi tuổi, nhưng nhờ giàu có tẩm bổ nhiều
thành thử còn "chiến" lắm. Ủa mà mày hổng để ý lúc
này cô Bảy đâu còn đi làm nữa.

Ờ há, cả tháng nay Mai không thấy chiếc xe nhà binh mỗi
sáng ngừng rước cô Bảy như thường lệ. Nhưng ai đâu
để ý "chiện" người lớn? Bữa nay chị Thơ nhắc Mai
mới nhớ ra. Rồi sau những lần gặp gỡ lén lút tại
nhà cô Bảy (thường ông ta đến và đi đều trong giờ
làm việc, chắc để bà vợ khỏi nghi, đậu xe xa xa rồi
mới tà tà đi bộ đến cái "tổ oan ương." Mỗi lần
người khách quý này tới là bà Hai Cần phải kiếm cớ,
khi thì xách giỏ đi tuốt xuống chợ Bà Chiểu, lúc lại
dọt qua nhà Mai ngồi tán dóc với má ít lâu cho "đôi
trẻ" mần việc - Rất nghiêm chỉnh, vì đối với ổng,
thì giờ thật sự là tiền bạc!) - kết quả thấy rõ
là cô Bảy Huệ mang bầu. Ông Kiện (sau này Mai mới biết
ổng tên Kiện) mừng hết lớn. Có lẽ vì vậy mà đâm
ra bất cẩn. Một ngày đẹp trời đi học về, Mai thấy
một bà đứng tuổi - cỡ má - phốp pháp, mặt mày đầy
son phấn đứng trước cổng nhà cô Bảy (đương nhiên là
được cài móc phía trong rất kỹ để phòng hờ...). Bàn
tay có những móng sơn đỏ chót, đang xỉa xói vô nhà,
miệng chửi dòn tan. Lối xóm bu lại coi đông nghẹt. Bả
phân bua:

- Từ mấy tháng nay tui biết là thằng chả có mèo. Theo
dõi riết bây giờ mới bắt được tại trận. Tui biết
chắc là tụi nó đương hú hí với nhau ở trỏng.

Rồi bả nghiến răng trèo trẹo rít lên:

- Trời ơi thằng gìa dịch. Ðầu hai thứ tóc rồi mà còn
ngu (?) đem tiền cho "con ngựa" đáng tuổi con nó ăn. Trời
ơi là trời! Tui có lầm lỗi gì đâu mà bị đối xử
tàn nhẫn như vầy? Ðồ ác nhơn thất đức!!(Tội
nghiệp, bả quên là trong xã hội Việt Nam, vợ chồng
lấy nhau không con cũng là một vấn đề trọng đại. Có
được bao nhiêu người đàn ông rộng lượng? Hay chụp
ngay cái cớ đó để lập phòng nhì, phòng ba?!).

Réo đôi gian phu dâm phụ ra chửi tơi bời hoa lá mà thấy
trong nhà vẫn áng binh bất động, bả đâm mất hứng
đành lui binh, sau khi ném lại một câu đe dọa xanh dờn:

- Rồi tụi bây sẽ biết tay tao!

Nghe nói chiếc Peugeot 203 của ổng đậu tuốt ngoài ngã
tư, gần rạp Cao Ðồng Hưng bị bà Hoạn Thư đập tan tành
hết mấy cái kiếng (không bị đốt như chồng cô Hườn
là may rồi, nhằm nhò gì ba cái kiếng xe!).

Sau đó, không biết ổng về điều đình với bà vợ ra
sao mà không thấy bả trở lại đánh ghen cô Bảy Huệ nữa.
Thằng Toàn ra đời trong sự vui mừng tột cùng của ông
Kiện. Ðầy tháng của nó, cô Bảy cúng nguyên một con heo
quay to tướng. Bà Hai đem biếu hàng xóm mỗi nhà một
phần ăn lấy thảo. Mai còn nhớ lúc nó được đâu năm,
sáu tháng gì đó, ông Kiện bị tai nạn gẫy một chưn
phải nằm nhà thương. Vậy mà ngày nào ổng cũng bắt taxi
chở tới đậu trước cổng nhà, cô Bảy Huệ ẵm thằng
Tòan ra cho ổng nựng nịu, hun hít một hồi rồi mới
chịu quay trở vô nhà thương. Thấy đống đồ chơi của
nó mà bắt thèm. Chị Thơ sanh thằng Phương trước nó 5
tháng, mà tội nghiệp quanh đi quẩn lại chỉ có 2, 3 món
đồ chơi quèn. Bù lại nó là đứa cháu đầu nên được
cả nhà cưng như cưng trứng. Nó lại đẹp quá thể nên ba
lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng móc... hình thằng
cháu ngoại ra khoe!

Ngay phía sau hè nhà cô Bảy là gia đình bác Hân, người
Bắc, mới di cư vào Nam được gần năm nay. Bác trai độ
40 nhưng gầy còm, mặt mũi nhăn nheo như trái táo khô,
nên thấy như ngoài ngoài 50. (Con trai lớn nhứt mới 16
và đứa út mới 7 tuổi). Cả nhà từ lớn tới nhỏ (thêm
hai người thợ) suốt ngày đánh vẹc ni đờn. Ðủ thứ:
guitare, mandoline, violon. Chỉ đánh vẹc ni thôi, xong rồi
đem giao chỗ khác. Vì vậy hễ mở cửa sau là nghe "nồng
nàn" mùi vẹc ni, bắt nhức cái đầu! Mai không hiểu sao
cả nhà bác Hân có thể hít thở cái mùi khó ngửi này
quanh năm ngày tháng? Chị Thơ nói thì quen lỗ mũi chớ
sao. Giống như bác ba gái nhà mình ghiền dầu cù là, lúc
nào cũng thủ một chai trong túi áo. Bác Hân trai mắc bịnh
suyển. Ðôi khi đang làm, bác ngưng tay, vói lấy cái điếu
cầy rít thuốc lào ròng rọc, sau đó lại nổi cơn ho sù
sụ, cái lưng cong như con tôm! Bác Hân gái hiền, cũng ốm
o, hàm răng trên hô, chìa ra khỏi cặp môi dày lúc nào cũng
sẵn sàng toét ra cười. Tội nghiệp bác, tối ngày chúi
đầu trong bếp nấu ăn cho chồng con và đám thợ.

Cạnh bác Hân (tức ngay sau hè nhà Mai, chỉ cách cái sân
rộng độ 3 thước) là nhà bà cụ Hiền. Cụ cũng khoảng
sáu mươi (bây giờ gọi những người sáu mươi bằng cụ
dám bị vác chiếu ra tòa vì tội... phỉ báng lắm à!),
người nhỏ bé. Tóc còn đen mượt, được vấn trong chiếc
khăn nhung đen. Lần đầu, Mai giựt mình khi thấy cụ cười
khoe hai hàm răng đen thủi đen thui. Mai tưởng cụ bị hư răng,
nhưng sau má nói tại cụ nhuộm. Theo phong tục ngoài Bắc,
đàn bà phải răng đen mới đẹp. Hổng giống "người Việt"
mình, răng trắng chừng nào đẹp chừng nấy, má nói. Cụ
có một người con duy nhứt là cô Lành, trắng trẻo, mảnh
khảnh, trái với ông chồng tên Thịnh, mang lon trung sĩ, nghe
đâu lớn hơn cô cả một con giáp. Chú Thịnh to lớn, mặc
đồ nhà binh đầy vẻ oai vệ. Có lần cụ than với má:

- Khổ lắm bà ơi. Thân tôi góa bụa, lại chỉ có một mụn
con gái, không ở với nó thì ở với ai? Ông rể thì suốt
ngày lầm lầm, lì lì không nói một lời, nên mình cũng
chẳng biết nó thương hay nó ghét. Thôi thì cứ cắn răng
mà chịu!!

Nói xong cụ rơm rớm nước mắt. Ðều đều, sáng sớm cụ
bưng một thúng xôi bắp nóng hổi (người Bắc gọi là xôi
lúa. Có lần Mai ngây thơ hỏi: Cụ ơi, lúa làm sao mà nấu
thành xôi được hả cụ? Cụ cười khoe hàm răng đen: À,
thì từ xưa người ta vẫn gọi thế!), đi một vòng tuốt
vô xóm trong độ hai tiếng đồng hồ là hết nhẵn.

Nhà cụ còn một nhân vật mà Mai rất thích là chú Phong,
em họ chú Thịnh. Chú Phong thuộc loại bạch diện thư sinh,
tuổi chỉ độ ba mươi, ăn nói duyên dáng. Ðôi khi chú qua
nhà Mai chơi, gặp bữa cơm, má mời:

- Mời chú dùng ba hột cơm với gia đình tui cho vui.

Chú giả bộ sửng sốt:

- Trời, bà chị chỉ mời em đúng có ba hột cơm thôi à?
Chưa đủ cho em nhét kẽ răng nữa là!!

Cả nhà ai cũng cười má, vì tuy ở Sai Gòn mấy năm rồi
mà vẫn không bỏ được cái câu "ăn ba hột cơm cho chắc
bụng." Ba nói ba hột cơm của má bây chắc là ba hột cơm
Thạch Sanh! Cụ Hiền kể cho má nghe hồi còn ngoài Bắc,
gia đình chú Phong ở dưới quê. Chú bị tảo hôn nên mới
lên mười đã bị nhà cưới cho một cô vợ tới hai mươi
cái xuân xanh. Lúc hết tiểu học, chú phải lên Hà Nội ở
trọ để học tiếp. Mỗi lần về quê chơi trở lên, cô
vợ có phận sự phải theo hộ tống ông chồng hỉ mũi
chưa sạch này. Có điều rất mất mặt bầu cua là chú đi
vé trẻ con và cô vợ thì phải mua vé người lớn. Khỏi
nói, với làn sóng di cư năm 54, chú rất hồ hỡi đơn
ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ... khác. Chú âm thầm theo
gia đình chú Thịnh xuống Hải Phòng lên tầu há mồm đi
một lèo vô Nam.

Khít vách nhà cô Bảy Huệ là gia đình cô Tư Anh (em bà
con của thiếm Ba Lâm, chủ tiệm cà phê). Cô Tư ốm yếu
xanh xao, lúc nào cũng buồn rười rượi! Chớ vui sao
được mà vui? Mới ba mươi hai cái xuân xanh mà cô đã
phải "quản lý" một đàn con bảy đứa! Con Mỹ Linh lớn
nhứt lên mười và thằng cu út mới biết bò. Ông chồng
lính kín của cô tối ngày say sưa lại mắc chứng bịnh
ghen kinh niên. Ði làm thì thôi, về nhà là ổng kiếm
chuyện gây gỗ, đánh đập cô rất tàn nhẫn. Tiếng la
hét, khóc lóc từ nhà cô vọng ra hà rầm. Mới đầu chú
thiếm ba Ba Lâm còn nóng ruột em, chạy qua can gián, nhưng
bị ông em rể trời đánh này "xực" luôn:

- Bộ anh chị là đồng lõa của con vợ tui hay sao mà xía
vô? Muốn ở tù rục xương hả?

Chú thiếm đành phó mặc cô em với định mệnh đau thương!
Mai có gặp cái thằng cha ác ôn đó vài lần, mà lần nào
cũng thấy cặp mắt (chắc là đỏ ngầu) của hằn dấu kỹ
sau cặp kiến đen, mặt mũi sần sùi coi rất dữ dằn,
sặc mùi... lính kín!

Giữa tiệm cà phê chú Ba Lâm và nhà bác ba Ðại là con
hẻm chạy ngoằn ngoèo vô rất sâu trong xóm (sở dĩ nó
ngoằn ngoèo là vì bà con trong hẻm khi cất nhà không thèm
theo một nguyên tắc nào cả mà tùy hứng, lồi ra thụt vô
một cách "tự ro." Vì vậy mà tất cả càc con hẻm ở cái
đất Sài Gòn đều ngoằn ngoèo như những cái ruột gà!).
Phiá mặt đường, ngay góc tiệm cà phê là giang sơn của
bà Năm Hậu. Ðối với Mai lúc đó thì bà đã già lắm
rồi. Chiếc khăn rằn đỏ quanh năm trùm mái tóc bạc
trắng. Khuôn mặt và hai bàn tay nhăn nheo, đen sạm ví
suốt ngày dãi nắng, dầm mưa. Không chồng cũng chẳng
có con, bà thui thùi một mình trong căn nhà lá ngay phía
sau nhà bác Ba Ðại và sống nhờ vào cái sạp hàng nhỏ xíu
trước quán cô Ba Lâm. Cái sạp gỗ cao hơn mặt đường
độ hai tấc. Trên đó bày đủ thứ (mà trăm phần dầu
là nhằm vào các bà, các cô và các đấng... nhi đồng):
cóc (được gọt vỏ, tỉa ra từng cánh để xỏi cho lẹ),
ổi mân, chùm ruột, me, xoài sống... bên cạnh tô muối
ớt giã đỏ tươi và tô mấm ruốt để chấm những thứ
kể trên. Vài hũ đựng kẹo, thèo lèo cứt chuột, bánh in,
bánh tai heo... và cái món mà bà moi tiền tụi nhóc nhiều
nhứt là món khô mực nướng. Từng miếng khô cắt vuông
vức độ bốn ngón tay, được nướng trên lửa than (đựng
trong cái soong nhôm cũ). Lúc chín tới, bà để lên trên
một cái thớt me dày cộm, rồi dùng cái búa nhỏ đặp nhẹ
cho tới khi miếng khô mực tơi ra, sau đó mới phết lên
trên một lớp tương ớt mỏng (mới hồi tưởng lại đã
chảy nước miếng!). Tội nghiệp bà, bữa nào nắng ráo
thì khá, những hôm mưa dầm, chẳng có ma nào mua, lại còn
bị nước mưa tạt vô ướt nhẹp, phải dọn hàng về sớm.
Phần lớn, số tiền má cho Mai đều chạy tuốt vô túi bà
năm Hậu qua những trái cóc, ổi, khô mực nướng, phần
còn lại nộp mạng cho cái xe nước đá nhận trước nhà
con Bích Thủy (má không cho chơi với nhỏ này vì trên đầu
nó có nuôi khoảng... một triệu con chí! Chỉ cần vén
một nhánh tóc lên thôi, là cả một sư đoàn chí đực,
chí cái, chí mén rơi xuống ào ào như sao sa lá rụng! Về
sau nó phải cạo trọc đầu mới thanh toán nổi cái dám chí
khổng lồ đó. Vậy mà ở trường, thầy nào, cô nào cũng
cố gắng nhét cho bằng được vô đầu đám học trò vô
tội cái câu: ở đời có... chí thì nên! Hay có lẽ tại
má chưa từng nghe câu này nên mới cấm Mai không được
có chí? Hỡi ơi bà đâu có biết cái hậu quả tại hại
Mai phải gánh chịu là cho tới bây gìơ, Mai chẳng có một
ly ông cụ ý chí nào hết. Làm cái gì cũng bỏ dở nửa
chừng!!!)

Buổi tối, khi đèn đường bắt đầu bật sáng, không
biết từ đâu một chiếc xe mì được đẩy tới trấn
thủ ngay phiá trước nhà bác Ba Ðại, dưới tàn cây trứng
cá. Bao giờ cái tiếng tắc xịt, tắc xịt của hai thanh gỗ
cũng vang lên từ xa, trước khi bóng dáng chiếc xe mì
xuất hiện. Mùi thơm từ mấy thùng nước lèo xông lên
điếc mũi. Chiếc xe đẹp hết ý. Bên trên những thùng
nước lèo và dưới cái mái nho nhỏ che mưa nắng là một
giàn kiếng có bốn mặt. Một mặt được vẽ sự tích
Tề Thiên Ðại Thánh - Một mặt vẽ sự tích Tiết Ðinh
San cầu Phàn lê Huê và hai mặt nhỏ hai bên chỉ vẽ chim
chóc, hoa lá, tất cả đều tô mầu sắc rực rỡ. Chủ
nhân là chú Woòng, người dong dỏng cao, trạc độ ba mươi
ngoài, lúc nào cũng tươi cười, tay xóc mì lẹ như người
ta múa kiếm. Mỗi lần anh Hai Răng vô thăm bác Ba đều
được đám em út "queo - cơm" hết mình, vì mười lần
hết chín anh cho phép "xực" mì thả cửa.

Tới trễ hơn xe mì một chút là gánh cháo huyết của một
ông Tàu già. Mai không biết tuổi, nhưng thấy ông già lắm,
lại ớm yếu hom hem. Tuy vậy tiếng rao cháo... huyết... ết...
của ổng còn vang rất xa. Cho tới bây giờ, Mai chưa được
ăn lại một tô cháo huyết nào ngon như những tô cháo huyết
của Ông Tàu già ngày xửa ngày xưa. Những hạt gạo trắng
ngần, mở bung, đặc sánh lại với nhau. Những miếng huyết
màu đỏ sậm (không bao giờ vụn vỡ khi cháo bị khuấy lên)
mềm dịu trên đầu lưỡi. Cái kéo trong tay ông cắt xầm
xập những miếng dầu cháo quẩy vàng rợm, dòn tan nhanh
thoăn thoắt. Rắt chút tiêu, thêm chút hành lá đã có một
tô cháo huyết thơm ngon, béo ngậy dù chẳng có một miếng
thịt nào...

Sau này nghĩ lại Mai thấy thiệt hú vía. Vì ngoài hai cái
địa danh rất ư là bất lợi: ngã Ba Chú Ía và ngã Năm
Chuồng Chó, ba má lại chọn đúng cái ngã Tư Bình Hòa để
cư ngụ. Giống y như tên, cái xóm nhỏ của Mai thiệt là
hiền lành, dễ thương. Ngoài cái ông lính kín say sưa và
hay ghen ẩu kia, mọi người đối xử với nhau rất thân
tình (ngay cả cô Bảy Huệ, tuy mang tiếng làm bé ông Kiện
mà cả xóm cũng không ai nhìn cô bằng cặp mắt khinh khi rẻ
rúng). Mai không hề thấy chuyện trộm cướp xảy ra lần
nào. Khi cô út của Mai dọn nhà ra Nha Trang buôn bán, cô
nhường cái tiệm tạp hóa của cô lại cho má trông coi. Ba
má bán căn nhà ở Bình Hòa dọn về Bến Chương Dương,
gần nhà đèn Chợ quán. Mai không thích lắm, vì cái tiếng
u u từ nhà đèn phát ra rất là khó chịu. Má nói riết
rồi cũng quen. Tụi bây thử tưởng tượng những người
không nhà cửa ở dưới gầm cầu chữ Y, sát bên nhà đèn,
họ còn chịu được huống chi mình ở xa gần 2 cây số.

Thỉnh thoảng cả nhà trở về xóm cũ thăm bác Ba Ðại. Bác
gái "báo cáo": ông Kiện đã ly dị bà vợ, chia đôi số
taxi và bây giờ chánh thức ở luôn với cô Bảy Huệ. Ðể
đền đáp cái tình sâu nghĩa nặng này, Cô sanh thêm cho
ổng 2 nhóc tí nữa. Hèn chi đi ngang nhà cổ thấy đã lên
thêm một từng lầu. Thôi cũng mừng cho cổ. Bà cụ Hân theo
con rể đổi về miệt Hậu giang, mất liên lạc luôn (tuy có
lời đính ước giữa chị Thơ và cô Lành, cho đôi trẻ là
cu Phương với con bé Lan, sanh cùng lượt với cu Phương).
Cô Lành tốt sữa nên con bé tròn như cái hạt mít, cặp
mắt đen lánh như hai hột nhãn lồng. Chú Phong nhứt định
ở lại Sài Gòn, tiếp tục cuộc đời độc thân vui tính.
Gia đình bác Hân làm ăn khấm khá, đổi ra căn nhà ngoài
mặt tiền đường, có trương bảng hiệu đàng hoàng. Cô
Tư Ánh sau lần sẩy thai vì bị ông chồng lính kín "âu
yếm" hơi nặng tay, đợi thằng chả đi làm, cô dẫn bầy
con bảy đứa trốn luôn về nhà cha mẹ cổ ở tuốt dưới
Trà Vinh. Ông ta tìm xuống, năn nỉ cách mấy cổ cũng nhứt
định hát bài "Kiếp nào có yêu nhau" của nhạc sĩ Phạm Duy,
trong đó có những câu rất hợp với cô như: Ðừng nhìn
nhau nữa anh ơi - Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã quên rồi
v.v. và v.v.! Ông ta đành trở về Sài Gòn tiếp tục tìm
vui trong men rượu đắng...

Phần bà Năm Hậu sau một trận sưng phổi nặng vì trúng
mưa, cũng đã từ trần. Hàng xóm láng giềng kẻ ít người
nhiều, đóng góp lại, làm cho bà một cái đám tang nho nhỏ.
Vậy cũng xong một đời cô quạnh! Chỉ có xe mì chú Woòng
và gánh cháo huyết của ông Tàu già vẫn bền theo năm
tháng...

Ôi cái xóm nhỏ thân thương. Với muôn vàn nhớ nhung, nhưng
Mai không muốn sống lại cái cảnh ngỡ ngàng của Từ Thức,
khi giã biệt chốn Thiên Thai đế trở lại làng xưa...
Biết bao vật đổi sao dời. Xóm Bình Hòa muôn đời là
một kỷ niệm long lanh trong tâm tưởng của Mai!.

Phượng Các
#3 Posted : Friday, October 6, 2006 3:34:10 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
THƯƠNG HẬN



Sáng nay tuy thứ sáu nhưng được nghỉ ở nhà, sướng ơi là sướng. Từ khi bước qua cái lằn ranh "tri thiên mệnh", tôi quyết định chỉ làm việc bán thời gian. Chồng, con đều đi làm, căn nhà yên tĩnh đến nỗi mình phát ù cả tai!!! Nói cho vui chớ thiệt tình ngồi tà tà nhâm nhi ly cà phê phin, thay cho những ly cà phê instantané ở sở, thưởng thức chiếc bánh croissant mới nướng nóng hổi, dòn tan bỗng cảm thấy đời...đáng yêu quá chừng chừng!...
Nhưng tôi đã quên cái téléphone! Cái vật mà tôi cho là lợi hại nhứt trên đời. Lợi cũng nhiều mà hại thì...không đếm xuể! Đang lơ mơ thả hồn theo khói... cà phê thì bỗng giật bắn người vì tiếng chuông điện thoại. Tiếng bà chị thân mến bên kia đầu đầu dây:
- Thơ đó hả?
- Chính thị. Có chuyện gì mà kêu em sớm vậy? Tính đi "shop" hả. Tuần này em không có lương đâu nghen...
Nhưng chị Thủy cắt ngang:
- Shop gì mà shop. Thằng Phước, con trai lớn của chị còn ở Việt Nam, mới phone cho chị hồi nảy. Nó nói năm nay mực nước sông Cái cũng lên cao nhưng chưa đến nỗi lụt như năm ngoái! Vợ chồng con cái nó đều mạnh, nhưng có tin buồn là dì Liên vừa qua đời, cách đây một tuần. Vợ chồng nó có đi đưa đám...
Tôi cứ để mặc cho chị Thủy độc thoại. Tâm hồn tôi giờ đây đang trở về mấy mươi năm trước. Tại Sađéc, gia đình tôi ở sát cạnh hãng bánh phồng tôm Sa- Giang, dì Liên ở gần cầu Cái Sơn. Dì sống thui thủi một mình với một người lão bộc. Người dì xinh đẹp, hiền dịu và tài hoa của tôi nay đã ra người thiên cổ...
Dì vừa là con nuôi vừa là cháu kêu bà ngoại tôi bằng dì. Mẹ dì là em ruột bà ngoại. Năm dì lên ba tuổi, cha mẹ dì buôn bán bên Bến Tre, rủi bị dịch tả, cả hai đều qua đời, rất trẻ. Vậy là dì Liên mồ côi cả cha lẫn mẹ trong vòng có mấy ngày! Có câu không cha níu chân chú. Không mẹ bú vú dì. Bà ngoại tôi đem cháu về nuôi. Đã có bốn cô con gái rồi bây giờ thêm một cô nữa cho thành Ngũ Long Công Chúa càng tốt! Năm đó mẹ tôi đã lên mười ba. Bà cũng thương và săn sóc dì Liên như mấy cô em ruột. Càng lớn dì càng xinh đẹp và thông minh vô cùng. Ông ngoại tôi rất cấp tiến. Đối với con không hề phân biệt trai gái. Miễn học được là ông cho học. Hai ông bà rất thương dì Liên, vì ngoài tài học, dì biết kính trên nhường dưới, dịu dàng và khéo léo hết sức. Bà ngoại dạy làm món bánh mứt gì là dì làm được ngay. Chẳng những vậy mà đôi khi còn biết gia giảm cho ngon hơn, đẹp hơn. Ai có món gì hay, khéo là dì phải kiếm cách học cho bằng được. Trong họ nhà nào có đám giỗ, đám cưới dì đều chịu khó thức khuya dậy sớm, theo sát các bà cô, bà thiếm để học nghề. Trường ở Đốc Vàng thuở đó chỉ có tới lớp ba là hết, nên ông bà ngoại phải gởi mấy dì qua ở nội trú với các Sơ bên Cù lao Gieng học tiếp. Tại đây ngoài chuyện học chữ, các dì còn được mấy Sơ dạy thêu thùa, may vá. Như thường lệ, dì Liên vẫn là đứa học trò xuất sắc nhứt.
Năm dì Liên lên chín thì mẹ tôi đã lấy chồng về Cao Lãnh. Làm dâu đâu được hai năm, sanh đứa con đầu lòng là mẹ tôi phải theo ba lên Saìgòn. Ông nội có cho xây ba căn nhà liền nhau ở đường Lê Quang Định, sát Ngã Tư Bình Hòa. Bác Ba, bác Tư và ba tôi đều được mỗi người một căn. Bác Ba tôi mê xe còn hơn mê vợ, nên mượn nợ Chà mua hai chiếc xe vận tải. Ngờ đâu bị Việt Minh gán cho bác cái tội hợp tác với Tây, chận xe lại đốt cháy tiêu luôn! Bác trai sợ bị chủ nợ siết nhà, nên nói bác gái nhờ người bạn thân nhứt đứng tên giùm căn nhà của bác. Nhưng dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người. Một hôm trời mưa gió dầm dề, bác gái vừa mới sanh chị Cúc được hai tuần, thì bị bà bạn thân quý hóa cho người tới liệng đồ đạc ra đường, cướp căn nhà ngon ơ! Há miệng mắc quai, nên hai bác đành ôm hận chịu mất căn nhà. Bác Tư tôi cũng không khá gì hơn. Không mê xe nhưng lại mê cờ bạc. Cái đam mê này cũng nguy hiểm chết người chớ không chơi. Có bao nhiêu tiền bác đem nướng hết vô sòng bạc Đại Thế Giới. Hết tiền phải mượn nợ bọn đầu nậu. Tới khi tiền mượn và tiền lời lên cao như núi thì bác cũng phải kiếm người bán căn nhà. Người mua nhà bác Thái cùng quê với mẹ tôi. Bác Thái hành nghề đạc điền, tức chuyên đo đất đai. Hai bác mới ngoài ba mươi, cha mẹ mất sớm nhưng có để lại chút ít tiền của và một đứa em út mới lên mười sáu . Cho tới khi mua căn nhà của bác Tư, gia đình bác Thái vẫn ở Long Xuyên. Khi lên Sàigòn, chú Ú Hậu tiếp tục học trường Pétrus Ký. Chú rất hiền, biết bổn phận, nên học hành chăm chỉ, năm nào cũng lãnh thưởng. Bác Thái vì vậy mà quyết lòng nuôi em ăn học cho tới cùng.
Từ ngày có người cùng quê ở sát bên cạnh mẹ tôi vui lắm. Có món ngon vật lạ gì cũng mời nhau. Rảnh rổi hai bà ngồi tán dóc, nhắc chuyện dưới quê. Sài gòn hoa lệ tuy đẹp đẽ, văn minh thiệt, nhưng làm sao sánh được " dưới mình". Con cá con tôm đem lên tới đây cũng bớt mập, bớt béo. Chỉ ở miệt Tiền giang mình mới có cá linh. Tới mùa, cá từ trên Biển Hồ đổ xuống rào rào, mấy ghe đáy bắt không kịp thở. Rồi mấy chị bán cá tay chèo chiếc xuồng ba lá băng băng miệng rao lãnh lót:- Cá linh hôôôn? Mấy bà nội trợ đã xách rổ chờ sẵn hai bên bờ sông réo liền : - Cá linh, cá linh vô đâây. Người mua kẻ bán lẹ như chớp, vì cá linh tuy ngon, nhưng rất mau sình! Thuốc lá Cao-Lãnh nổi tiếng ngon nhờ vô phân cá linh... Còn cá bông lau ở đâu ngon bằng cá bông lau Sadéc? Nghĩ tới nồi canh chua thôi là cũng chảy nước miếng! Mắm ở đâu ngon nhứt? Châu Đốc. Nem ở đâu ngon? Nha mân...v.v...và...v.v... Nhắc tới đâu hai bà chắt lưỡi hít hà tới đó!
...Đến năm đệ tam niên thì ông ngoại tôi quyết định cho dì Nga và dì Liên lên Sàigòn ở với mẹ tôi để tiếp tục xin học trường áo tím. Ở nhà chỉ còn hai dì quyết định học tiếp nên ông bà cũng chìu. Hai bà dì tôi năm đó trổ mã coi rất mượt mà. Nhứt là dì Liên. Dì tóc dài da trắng, gương mặt thanh tú, dáng đi tướng đứng yểu điệu, thướt tha. Aên nói mềm mỏng, nhỏ nhẹ. Tóm lại ai gặp cũng có cảm tình. Dì Nga tuy đẹp nhưng hơi dữ. Đứa cháu nào không làm dì vừa lòng là dì phùng mang trợn mắt nạt đùa. Ỷ mình học cao dì cũng hơi phách lối chút đỉnh. Hai nhà thân như một, chú Hậu lại học trên mấy dì tới ba lớp, nên những khi "bí" bài, mấy dì thường cầu cứu chú Hậu. Chú thành thầy...kèm trẻ hồi nào hổng hay. Rồi cái màn lửa gần rơm lâu ngày cũng phải...phựt! Số là thằng Hiền con bác Thái, mới có tám cái xuân xanh, nhân một đêm trăng sao vằng vặc, tự nhiên nổi hứng ra sau vườn để đi...tè. Nhưng chưa kịp thực hiện ý nguyện thì bỗng thấy dưới gốc cây vú sữa ở cuối vườn có hai bóng đen. Thằng Hiền bở vía định bỏ giò lái thối lui vô nhà, thì bỗng nghe có tiếng thì thào. Không lẽ ma mà biết nói? Nó bèn định thần nhìn kỹ, té ra chú Hậu của nó đang nói chuyện với cô Liên! Nhưng từ bụi chuối hột tới cây vú sữa hơi xa nên nó không nghe hai người nói những gì. Nó tự hỏi sao người lớn kỳ cục quá sức. Trong nhà đèn đóm sáng trưng, cớ gì lại lôi nhau ra chỗ tối hù để nói chuyện? Đứng một hồi bị muỗi cắn, thằng Hiền đành trở vô nhà, định bụng sẽ hỏi chú Hậu. Vậy mà cũng tới cả nửa giờ sau chú Hậu mới vô nhà. Mặt mày chú lại rạng rỡ như trăng rằm, làm như có điều gì đắc ý lắm vậy đó! Thằng Hiền sán lại kéo tay chú :
- Chú Út à, hồi nảy Hiền thấy chú ngoài vườn với... Nó mới nói tới đây chú Hậu bỗng đổi sắc mặt, nắm tay nó lôi sềnh sệch vô phòng chú. Sau khi đóng cửa phòng cẩn thận, chú kề tai nó nói nhỏ:
- Đừng có nói lớn. Hồi nảy Hiền thấy chú với ai?
Thằng Hiền nói một hơi:
- Thì chú với cô Liên đó. Sao trong nhà hổng nói chuyện mà phải ra ngoài vườn. Bộ chú hổng sợ muỗi cắn hả?
Chú Hậu nắm hai bàn tay thằng Hiền, nhìn thẳng vào mắt nó rồi nói một cách nghiêm trọng:
- Hiền có thương chú với cô Liên không? Thằng nhỏ gật. Chú nói tiếp: Vậy Hiền đừng đem chuyện này ra kể với ai hết nghen. Nếu mọi người biết, chú với cô Liên sẽ bị rầy ghê lắm đó. Hiền hứa với chú đi.
Tuy không hiểu tại sao lại bị rầy, nhưng thằng Hiền cũng long trọng hứa sẽ giữ kín chuyện này. Chú Hậu thở ra như trút được gháng nặng và móc túi cho thằng Hiền năm mươi xu ăn bánh. Thằng Hiền được tiền ăn bánh là mê rồi, nên cũng không đem chuyện này kể với ai. Trước mặt mọi người, Hậu và Liên cố giữ vẻ mặt bình thường nên cũng chẳng ai nghi. Nếu đôi khi có một vài cử chỉ thân mật thì mọi người đều cho rằng tại tụi nó thân nhau như anh em ruột (!). Tới năm hai dì thi " đíp lôm" và chú Hậu lấy cái Tú tài toàn phần, thì bác Thái quyết định cho em qua Pháp học tiếp. Có đi du học sau này trở về mới nắm được những chức vị quan trọng. Hôm làm lễ ăn mừng cho cả ba ( chú Hậu, dì Nga và dì Liên), bác Thái long trọng loan báo cái quyết định này trước mặt mọi người. Tất nhiên ai cũng hoan hỉ trừ...nhân vật được chỉ định! (và dì Liên). Ngoài mặt tuy bình tĩnh nhưng trong lòng hai người đều chết điếng. Bởi ai đi du học cũng phải năm sáu năm mới về. Chuyện gì sẽ xảy ra trong khoảng thời gian đó? Nếu không muốn nhắc tới cái câu mà ai cũng biết: xa mặt cách lòng!
...Đêm đó, cây vú sữa cuối vườn một lần nữa lại được "nghe" những lời thì thầm của hai kẻ yêu nhau. Nhưng lần này có pha thêm những giọt lệ buồn của dì Liên!
Tội nghiệp chú Hậu, từ ngày cha mẹ qua đời, với sự đùm bọc thương yêu của người anh lớn, bác Thái có khác nào người cha thứ hai của chú. Làm sao chú dám cãi lời? Chú đành năn nỉ dì Liên ráng đợi cho tới ngày chú bái tổ vinh quy. Hai người sẽ chắc chắn loan phụng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp. Dì Liên tuy tan nát cõi lòng, nhưng trước tình cảnh nan giải của người yêu cũng đành bó tay. Dì hứa là sẽ chờ cho đến ngày chú thành tài trở về. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng tình của dì đối với chú sẽ mãi mãi không thay đổi. Trước những lời thề quyết liệt của người yêu, chú Hậu cảm thấy vững lòng, nên vài tháng sau chú thơ thới hân hoan xuống tàu trực chỉ trời Tây tiếp tục việc đèn sách. Rồi nhờ cái viễn ảnh nghìn trùng xa cách này mà đêm đó hai cô cậu mới có can đảm trao nhau nụ hôn đầu đời. Tuy vụng về nhưng cảm động biết bao... Mãi nói chuyện không để ý tới thời gian, nên khi tơ lòng đã được gỡ rối, họ mới thấy trời đã khuya lơ khuya lắc. Dì Liên rón rén vô nhà, không quên dùng nước thiệt lạnh rửa mặt cho tỉnh táo trước khi vào phòng. Dì Nga còn nằm đọc tiểu thuyết, thấy em vô thì hỏi:
- Mày đi đâu mất tiêu mà tao kêu Liên ơi Liên hỡi om sòm cũng không thấy trả lời. Hồi nảy có gánh chè thưng đi ngang, tính rủ mày ăn...Nói tới đây bỗng để ý tới khuôn mặt đầy vẻ u sầu và đôi mắt đỏ chạch của cô em, dì Nga vội hỏi:
- Ủa mày khóc hả Liên? Có chuyện gì vậy?
Dì Liên nằm xuống giường, kéo tấm mền trùm kín đầu rồi nói:
- Không có gì đâu, ngủ đi...
Nhưng cái thái độ kỳ quặc của cô em đã kích thích lòng tò mò của bà chị. Dì Nga ngồi dậy, bước qua giựt tấm mền xuống rồi nói như ra lịnh:
- Tao biết mày có chuyện giấu. Nghĩ sao dì bỗng đổi giọng dỗ dành:- Có chuyện gì nói cho chị biết đi. Chuyện buồn giấu trong lòng sẽ sanh bịnh đó nhỏ à. Dầu gì chị cũng lớn hơn em ( một tuổi!). Kể cho chị nghe rồi mình kiếm cách giải quyết...
Biết không thể nào "thoát" khỏi tay cái bà chị tò mò tọc mạch này. Ừ mà biết đâu cái bầu tâm sự đang đè nặng trong lòng sẽ nhẹ bớt khi mình chia xẻ với người thứ hai? Nghĩ vậy dì Liên bèn ngồi dậy rồi kể cho chị nghe hết cuộc tình của dì với chú Hậu. Nghe xong, dì Nga vừa cười vừa xỉ ngón tay lên trán dì Liên nhiếc:
- Kể ra mày cũng kín thiệt. Cả năm nay mà chẳng ai biết gì hết trơn. Còn cái ông Hậu nữa. Thấy lù khù vác lu mà chạy! Dì Liên phản đối:
- Thôi đi, em đang buồn muốn chết mà chị còn ghẹo!
Dì Nga thấy em giận lật đật nín cười, nói:
-Thôi rầu rỉ mà chi. Mấy năm qua lẹ lắm. Ráng chờ, chừng anh Hậu thành tài trở về, mày lên chức bà lớn khỏe re.
Nhưng dì Liên lắc đầu:
- Em đâu có mong chức bà lớn. Em chỉ lo ảnh qua đó gặp mấy cô đầm rồi sanh chứng. Em nghe nói mấy con đầm dễ lắm...Miễn vừa mắt là họ "chịu" liền! Đàn ông dễ xiêu lòng, vui đâu chuốc đó!
Dì Nga ráng an ủi em một hồi rồi cũng hết ý, đành tuyên bố:
-Thôi, đời biết sao mà nói. Cái gì tới sẽ tới. Lo trước cũng vô ích!
Nói xong dì nhắm mắt ngủ khò, trong khi cô em còn trằn trọc mãi mới ngủ được. Tánh dì Nga vô tư, thích gì làm nấy. Sau này dù cuộc đời đầy dẫy sóng gió, nhưng lúc nào dì cũng yêu đời. Dì cho rằng nổi buồn tàn phá nhan sắc nhanh chóng nhứt! Tội gì buồn?
Giữ bí mật được vài hôm, cuối cùng chịu không thấu, dì Nga kể hết cho mẹ tôi nghe. Mẹ tôi kể lại cho bác Thái gái và dĩ nhiên là hai bà rất vui. Cho rằng hai đứa nó thiệt là một cặp Tiên Đồng Ngọc Nữ. Xứng đôi vừa lứa hết chỗ chê!. Cuộc tình đã ra ánh sáng, nên trong thời gian chờ đợi sang Pháp, chú Hậu và dì Liên không còn phải chịu cảnh "hiến máu miễn phí" cho bọn muỗi ngoài vườn nữa. Họ đường hoàng nói chuyện trước mặt mọi người. Dì Liên thêu cả hai tá khăn mu xoa cho chú Hậu đem theo xài. Cái nào trong góc cũng có một đóa hoa sen màu hồng, tên dì là Hồng Liên. Góc đối diện dì thêu hai chữ H và L quấn vào nhau. Có cái tín vật này hằng ngày bên mình, làm sao chú Hậu có thể quên được bà dì của tôi?
Sau khi chú xuống tàu được một tuần thì hai dì cũng lo sửa soạn hành lý về Đốc Vàng. Bà ngoại tôi thấy hai dì đã tới tuổi cặp kê, cứ lo học riết chắc sẽ thành gái già, nên cứ cằn nhằn mãi. Hai dì cũng cảm thấy học tới đó làøđủ, có thể trở thành cô giáo gõ đầu trẻ. Đây cũng là tâm nguyện của dì Liên. Đối với dì, nghề dạy học cao quý nhứt. Cùng nộp đơn ở Ty Học chánh Long Xuyên, hai người may mắn được nhận, tuy hai trường khác nhau. Bà ngoại tôi mướn một căn nhà gần chợ và có dẫn qua một người đàn bà góa chồng trạc ngoài hai mươi, để lo cơm nước, giặt giũ cho hai dì.
...Ngày nhận được bức thơ đầu tiên của chú Hậu, dì Liên mừng tới rơi nước mắt. Đọc đi đọc lại mấy chục lần vẫn không chán. Chú báo cho dì biết chú đã chọn ngành Luật. Để ra tòa binh vực cho người nghèo. Dân mình còn dốt luật lệ nên cứ bị người của "mẫu quốc" ăn hiếp, chú nói vậy. Chú thêm, bác Thái còn gánh nặng gia đình, tuy mỗi tháng có gởi tiền qua, nhưng chắc chú phải đi làm thêm mới đủ. Bên Pháp thời tiết rất lạnh, mùa thu và mùa đông đều cần quần áo ấm, nếu không sẽ dễ bị bịnh. Vả lại đời sống tại thủ đô Paris cũng rất mắc mỏ. Dì Liên lo lắng lắm. Nếu chú Hậu đi làm thêm sẽ ảnh hưởng tới chuyện học. Nếu thi rớt hoài biết chừng nào chú mới về? Càng ở lâu chuyện bất ngờ càng dễ xảy ra...Sau vài đêm suy nghĩ, dì quyết định mỗi tháng trích ra một phần tiền lương của dì gởi qua Pháp giúp chú Hậu ăn học. Lúc đầu chú phản đối, nhưng dì Liên hết sức giải thích và thòng thêm câu : Coi như em cho anh mượn nợ, sau này thành tài sẽ tính cả vốn lẫn lời. Chú nhận, với lời hứa sẽ trả lại gắp trăm ngàn lần mới xứng đáng với món nợ này!!!
Tháng tháng dì ra nhà dây thép mua măng-đa, kèm thêm bức thơ, lời lẽ nồng nàn để khích lệ tinh thần chú Hậu...Đầu mùa thu là dì đã đan sẵn áo len thiệt ấm gởi qua Paris. Biết bao nhiêu tình ý dì tôi đã gói trọn trong những món quà tầm thường đó! Những bức thơ chú gởi về cũng không kém phần thiết tha, nhung nhớ. Nhờ món tiền dì phụ giúp thêm, chú không còn lo lắng nữa, nên học hành rất khả quan. Dì Liên mong đợi từng ngày. Cái viễn ảnh sau này sẽ cùng chú Hậu nên duyên cầm sắc giúp dì sống trong tâm trạng luôn vui vẻ. Học trò và đồng nghiệp đều yêu mến dì. Tất cả ai cũng nghĩ, một người tài sắc vẹn toàn như dì Liên đương nhiên cuộc đời phải hạnh phúc. Dì Nga, từ sắc đẹp cho tới tài nghệ, tính tình đều thua kém dì Liên, vậy mà đi dạy được hai năm thôi là đã có người rước! Nhiều đám đi hỏi dì Liên lắm chớ, nhưng đương nhiên bị dì từ chối. Đến năm thứ tư thì bà ngoại tôi có ý sốt ruột. Bà nói cái duyên con gái chỉ có một thời. Đừng thả mồi bắt bóng rồi ân hận. Dì Liên chỉ cười ráng trấn an bà. Riết rồi bà tôi cũng không nhắc tới chuyện chồng con của dì nữa...
...Rồi cái ngày mọi người mong đợi cũng phải tới. Dì Liên sung sướng đến độ quên ăn quên ngủ. Dì như đang sống trên mây. Đôi khi còn cười một mình trước sự kinh ngạc của những người chung quanh. Chắc dì đang tưởng tượng đến cái ngày bước chân lên xe hoa về với chú Hậu...
Ngày về của chú đúng vào kỳ hè, nên dì Liên đã có mặt trên Sài gòn trước cả tuần. Dì đem cho các cháu không biết bao nhiêu là quà bánh. Mẹ tôi mừng lắm vì dù sao dì Liên đã chờ đợi quá lâu. Hôm tàu cập bến, dì Liên cùng gia đình tôi và gia đình bác Thái đã có mặt sẵn từ sớm. Sau năm năm vắng mặt, chú Hậu bây giờ đã là một thanh niên chững chạc, dì Liên cũng mất cái vẻ ngây thơ, khờ khạo thuở xưa. Hai bên nhìn nhau mừng mừng, tủi tủi, nói không nên lời...
Buổi tiệc mừng do chính tay dì Liên sửa soạn. Dì ra sức nấu những món ngon nhứt cho chú Hậu thưởng thức. Có cả champagne để uống mừng cho tương lai sáng lạng của chú Hậu. Chú đem về rất nhiều quà cáp, nhưng món quà cho dì Liên đặc biệt nhứt. Đó là một xấp gấm nền đỏ, điểm những chùm hoa dệt bằng chỉ vàng thiệt, mà một lần có dịp ghé qua Lyon, trung tâm tơ lụa của nước Pháp, chú đã mua. Xấp vải này dành cho cô dâu Hồng Liên mặc trong ngày cưới của hai người. Dì Liên ôm xấp vải mà nước mắt lưng tròng...Dì quyết định sẽ mang xấp vải nhờ nhà may danh tiếng nhứt Sàigòn may chiếc áo cưới cho dì. Chưa bao giờ dì cảm thấy hạnh phúc đến như vậy. Buổi tiệc kéo dài tới khuya mới giải tán.
Sau khi mọi người đều đi ngủ, bác Thái nói chú Hậu nán lại ít phút, bác có chuyện quan trọng muốn cho chú biết. Hỏi vớ vẩn vài câu về đời sống của chú bên Paris, bác đi thẳng vào đề. Bác sợ để lâu sẽ khó giải quyết... Số là qua nghề nghiệp, bác có quen với một vị Trạng Sư danh tiếng, có văn phòng rất lớn tại Sàigòn. Ông này hồi trước học Luật ngoài Hà Nội. Sau mấy mươi năm hành nghề bây giờ giàu sụ. Nhà ngang dãy dọc khắp Sàigòn. Nghe bác Thái nói có em trai học Luật sắp về nước, ông ta thích lắm. Nói sẵn sàng nhận chú Hậu vô làm tại văn phòng của ổng và sẽ hết sức nâng đỡ cho chú thành công. Nhưng với một điều kiện...nói tới đây bác Thái ngập ngừng, tằng hắng hai ba tiếng mới tiếp...với điều kiện trở thành rể của ổng! Nghe tới đây chú Hậu giựt bắn người, há hốc miệng ra nhìn ông anh. Bác Thái cũng có vẻ bối rối, nhưng cố thuyết phục em:
-Anh biết em tình sâu nghĩa nặng với cô Liên, nhưng em nghĩ coi, nếu cưới con ông Trạng Sư Tôn có phải đúng câu "sẵn ổ đẻ " không? Tương lai của em coi như bảo đảm hoàn toàn. Ông còn hứa sẽ cho của hồi môn là một chiếc xe hơi và một căn biệt thự tọa lạc đường Sương Nguyệt Aùnh.
Chú Hậu nói với anh giọng thiểu não:
-Liên đợi em bao nhiêu năm qua không một lời than vãn. Lại còn giúp tiền cho em ăn học nữa. Anh biểu làm sao em phụ cổ cho đành?
Bác Thái tặc lưỡi:
- Anh biết cổ là người rất tốt. Nhưng em nghĩ lại đi, dù gì cổ cũng chỉ là con nuôi của ông bà Bá thôi mà. Lại là một cô giáo quèn ở dưới tỉnh. Làm sao sánh với cô Trâm con gái rượu của ông bà Trạng Sư Tôn được chớ? Em sánh duyên với cô Trâm thì đương nhiên đường quan lộ của em sẽ thênh thang ngay.
Nhưng chú Hậu vẫn lắc đầu:
-Em không thể bạc tình, bạc nghĩa với Liên đâu anh hai à. Ngoài món nợ tình, em còn món nợ tiền với cổ nữa...
Bác Thái cắt ngang:
-Ối, tưởng gì khó giải quyết. Khi lấy cô Trâm rồi, có tiền em lập tức cầm trả lại cho cổ là xong. Nói nào ngay, cổ còn trẻ đẹp. Em không cưới, sẽ thiếu gì người khác nhảy vô.
Mặc bác Thái nói gì thì nói, chú Hậu vẫn lắc đầu. Sau cùng Bác Thái giận điên lên, chỉ mặt chú Hậu:
- Biết rồi, bây giờ đã ăn học thành tài, em còn cần gì tới thằng anh này nữa phải không? đủ lông đủ cánh rồi mà...Thôi được từ nay kể như tao không có thằng em nào hết!
Nói xong bác hầm hầm đứng lên bỏ vô buồng. Đêm đó chú Hậu thức trắng. Bên tình bên hiếu, biết làm sao??? Ôi, bao nhiêu là mộng ước! Không lẽ sẽ tan tành như mây khói. Bây giờ ăn nói làm sao với dì Liên? Chú vò đầu bức tai, bối rối tột cùng...Lúc xuống tàu về nước chú sung sướng bao nhiêu bây giờ chú đau khổ bấy nhiêu. Chỉ mong đây chỉ là một giấc chiêm bao!
Sáng hôm sau dì Liên thức sớm nấu món bánh canh giò heo mà chú Hậu rất thích. Đợi mọi người thức giấc, dì dọn sẵn lên bàn rồi đi cửa sau qua nhà bác Thái mời cả nhà qua ăn sáng. Thấy chú Hậu ăn uống uể oải, mặt mày bơ phờ, mọi người đều cho là vì giờ giấc khác nhau, nên chú Hậu bị mệt. Nhưng sau đó bác Thái cứ hối đến gặp mặt ông bà Trạng Sư Tôn. Bác sợ để càng lâu dì Liên sẽ khiến chú Hậu bị "mê hoặc", hư chuyện lớn của bác, chú phải nghe theo. Hai ông bà Trạng Sư gặp chú thì đẹp dạ hết sức, đề cập liền đến chuyện hôn nhân. Về đến nhà chú như người mất hồn. Rồi mỗi lần nói chuyện với mẹ tôi và dì Liên, đôi khi chú trả lời không đâu vào đâu khiến hai người cũng phải ngạc nhiên. Cho tới một hôm, chịu không nổi cái thái độ kỳ quặc này, dì Liên hỏi thẳng chú Hậu có chuyện gì xảy ra, mà dường như chú đã thay đổi. Chú chỉ biết nhìn dì với cặp mắt vô cùng đau khổ, nhưng vẫn nín thinh. Dì Liên hứa chắc là dù có chuyện gì ghê gớm, dì cũng xin chia xẻ với chú. Biết không thể dấu lâu hơn nữa, chú Hậu đành thú thật hết với dì Liên. Lòng dì đau như cắt, nhưng ngoài mặt vẫn giữ bình tĩnh. Dì nói tất cả tùy theo chú. Dì không hề có ý định xúi chú bỏ gia đình để chọn dì. Nếu hai người có duyên mà không nợ thì dì cũng xin chấp nhận. Nói đến đây dì đứng lên vô buồng đóng chặt cửa. Chú kêu cách nào cũng không trả lời. Mẹ tôi hoảng hốt hỏi có gì, chú không nói, chỉ chào mẹ tôi rồi ra về. Chiều đó dì Liên bỏ cơm. Mẹ tôi dỗ dành hết lời dì mới chịu mở cửa. Vô buồng thấy em tóc tai bù xù, cặp mắt sưng húp, mẹ tôi hỏi tự sự dì Liên kể hết. Nghe xong mẹ tôi tức tràn hông, định chạy qua nhà bác Thái hỏi cho ra lẽ. Dì Liên níu bà lại, nói là mình không thể trách họ được, vì hai bên không hề có hôn ước trước. Bây giờ chú Hậu có quyền cưới ai cũng được. Mẹ tôi tức tối chưỡi:
- Thằng đó mà tên Hữu Hậu. Xí, phải đổi tên làVô Hậu mới đúng!
Sáng sớm hôm sau dì Liên xuống tàu Lục Tỉnh về Long Xuyên. Chú Hậu viết bao nhiêu lá thơ, dì không hề trả lời. Từ đó dì buồn dàu dàu, biếng ăn mất ngủ, người càng ngày càng tiều tụy. Đến khi cái tin đám cưới của chú Hậu cùng cô con gái ông Trạng Sư được cử hành trọng thể trên Sàigòn, thì dì buông xuôi...Dì đau một trận thừa sống thiếu chết, trong cơn mê dì cứ kêu tên chú Hậu. Dì Nga sợ em chết, đánh dâây thép lên Sàigòn kêu mẹ tôi về. Sau đó dì Nga cùng mẹ tôi hết lời khuyên lơn, an ủi, dì Liên từ từ bình phục. Nhưng nụ cười đã tắt hẳn trên môi và dì không còn thiết tha tới bất cứ cái gì. Từ một người xinh đẹp, yêu đời, dì tôi giờ đây chỉ là một cái xác không hồn. Nghe mẹ tôi trách vì chú mà dì tôi suýt chết, chú Hậu có tìm về Long Xuyên thăm. Nhưng dì Liên cứ nằm quay mặt vô vách, mặc chú quì bên giường năn nỉ ỉ ôi, dì ngậm câm không thèm trả lời một tiếng. Thử hai ba lần đều không có kết quả, chú Hậu đành buồn bã trở về Saìgòn. Từ đó dì tôi sống như một cái bóng. Thương càng nhiều thì hận càng sâu!. Đàn ông đối với dì tôi bây giờ là một sinh vật đáng sợ, cần phải tránh xa. Dì dồn hết tình thương vào đám học trò và đám cháu...
Sau này dì tôi đổi về Sađéc, ít năm sau tôi cũng lấy chồng về đó. Tôi có dịp tới thăm dì thường. Dì dạy tôi bao nhiêu là món ngon, món khéo. Có lần tới bất chợt, tôi bắt gặp dì đang cầm trên tay một xấp gấm đỏ dệt hoa bằng chỉ vàng, nét mặt dì buồn xa vắng. Thấy tôi dì như chợt tỉnh, đưa xấp gấm cho tôi xem, rồi cười gượng:
- Chiếc áo cưới hụt của dì đây. Thấy tôi ngạc nhiên, dì giải thích rằng ngày đó trước khi về quê, dì định trả xấp áo lại, nhưng không hiểu sao trong thâm tâm dì vẫn hy vọng...nên mang theo. Rồi sau đó những biến cố xảy ra dồn dập, dì quên luôn xấp gấm... Tôi chọc:
-Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng mà dì.
Dì tôi cười buồn:
- Trước kia mỗi lần nhìn xấp gấm, mối hận trong lòng dì lại dâng lên như sóng tràn bờ. Dì không còn lòng tin ở bất cứ một người nào. Như vậy mình sẽ không bao giờ bị thất vọng. Đời là một cõi "bắt" người ta phải sống, cháu à. Thi sĩ Tản Đà đã từng nói vậy. Bây giờ thì dì nguôi ngoai, tâm hồn bình thản, không còn vướng bận chuyện tình ái năm xưa nữa. Dì có ý định trong vài năm, khi về hưu rồi, sẽ ăn chay trường và tu tại gia. Cho hóa giải cái tâm sân hận của dì bấy lâu nay. Tôi nhìn mái tóc muối tiêu của dì mà thương đứt ruột. Đúng là Trời xanh ghen thói má hồng đánh ghen. Nhan sắc, tài hoa rồi sao? Dì tôi đã biết thế nào là một gia đình hạnh phúc? Suốt đời vò võ một mình. Đau yếu cũng chỉ có chị Năm săn sóc. Bà này cũng không chồng con gì hết, theo hai dì từ thuở mới dạy học ở Long Xuyên . Chỉ vì cái hư danh, cái gia tài kết sù của ông Trạng Sư Tôn mà khiến ba người đau khổ. Ngoài dì Liên, chú Hậu cũng chẳng có hạnh phúc bên người vợ giàu sang. Trong lòng chú, hình ảnh dì Liên không phai mờ, thì làm sao mặn nồng được với người vợ mà chú không hề yêu? Vợ chú sống như một cái bóng mờ bên cạnh người chồng mà tâm hồn đã gởi trọn cho người khác, thì làm sao vui?...
Năm bảy tám vợ chồng tôi vượt biên, có rủ dì đi nhưng dì từ chối, nói rằng dì ở đâu cũng vậy thôi. Dì còn mong gì trong tương lai? Nhứt là không muốn gởi nắm xương tàn nơi quê người... Sang đây chúng tôi có liên lạc và biết dì vẫn khỏe. Vậy mà...
Tiếng alô...a lô của chị Thủy kéo tôi về hiện tại. Tôi thở dài trả lời chị:
-Tội nghiệp dì quá. Em nghĩ Chúa Nhựt này chị em mình phải qua chùa Liên- Hoa xin cầu siêu cho hương linh của dì. Không biết lúc qua đời có ai bên cạnh dì không nữa?
Chị Thủy nói dĩ nhiên, dì như mẹ. Lúc còn nhỏ, dì Liên cưng tụi mình quá mà.
Tôi chợt giựt mình, nhớ lại cách đây mấy đêm tự nhiên có một giấc mộng thiệt kỳ lạ. Tôi thấy dì Liên, nhưng là một dì Liên trẻ đẹp, nét mặt rạng rỡ, tươi cười trong chiếc aó cưới gấm đỏ điểm hoa vàng. Dì cười với tôi, tôi kêu dì, nhưng càng kêu hình ảnh dì càng lùi xa. Cuối cùng thì nhạt nhòa như sương khói. Tôi kêu dì ơi một tiếng lớn thì giựt mình thức dậy, tâm thần hoang mang, xao xuyến. Bây giờ thì tôi đã hiểu... Một nén hương lòng cho người dì bạc mệnh của tôi...
TIỂU-THU




linhvang
#4 Posted : Saturday, November 11, 2006 5:40:40 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Dưới Cội Thông Già
Tiểu Thu

Sau bữa cơm tối, ăn xong chén chè đậu xanh tráng miệng, Liễu Nhu cầm ly nước trà vô phòng tính đọc tiếp cuốn tiểu thuyết đang xem dở dang từ tối hôm qua thì con Lành, đứa ở gái trạc mười ba mười bốn tuổi, từ ngoài chạy vô, mặt mày dớn dác:
-Cô Ba ơi, con mới đi ngang căn “nhà hoang”. Mà kinh khủng lắm ...
Con nhỏ nói tới đây thì ngừng lại nuốt nước miếng hai ba lần một cách khó khăn, Liễu Nhu cau mày hỏi:
-Cái gì mà giống như gặp ma vậy hả?
Con Lành gật đầu lia lịa:
-Dạ, chắc là ma thiệt đó cô Ba ơi. Con thấy trong nhà đó có ánh sáng. Mà cái ánh sáng này đi từ chỗ nọ qua chỗ kia nữa. Con hoảng kinh chạy về cho cô Ba hay.
Liễu Nhu cười:
-Làm sao mày biết chắc là ma? Biết đâu mấy đứa chăn trâu, chăn bò ban ngày hái trộm cây trái gì đem giấu trong đó, tối mò tới lấy.
Con Lành lắc đầu:
-Hổng có đâu. Con biết mà. Từ hồi nào tới giờ ai cũng ớn cái nhà đó, đâu có dám vô. Ai cũng sợ oan hồn của ông Hậu bắt ...
Nghe tới đây Liễu Nhu cau mày, chắt lưỡi:
-Nói bậy không hà. Ông Hậu chết mấy chục năm rồi mà có thấy “bắt bớ” gì ai đâu mà cứ đồn. Thiệt tình. Ổng đã bị chết oan mà còn bị mang tiếng oan nữa! Mà hồi nào tới giờ mầy thấy ổng bắt ai chưa?
Con Lành cười lỏn lẻn:
-Dạ, thì tại má con dặn đừng có léo hánh tới căn nhà hoang đó. Ông Hậu linh lắm. Lộn xộn ổng bắt nhẹ thì cũng nóng đầu, nặng thì hộc máu lận!
Liễu Nhu bật cười:
-Mày mới có mười bốn tuổi, còn cô ở đây đã hơn hai chục năm rồi có thấy ổng vật ai hồi nào đâu. Thôi lo đi phụ má mầy dọn dẹp rồi đi ngủ. Đừng có tin nhảm nhí nữa. Cô ra ngồi hoài bên cái ao sen gần hàng rào nhà đó đọc sách mà có thấy ma cỏ gì đâu nà.
Con Lành dạ rồi đi ra. Tuy nói vậy nhưng Liễu Nhu cũng tự hỏi ai mà cả gan trời tối lại dám léo hánh tới cái nhà bỏ hoang cả hai chục năm nay? Nàng tư lự nhìn ngọn đèn ống khói, thả hồn chơi vơi về cái dỉ vãng mờ nhạt như khói sương...
Theo lời vú Chín kể lại thì chủ căn nhà đó là ông Hậu. Gia đình ông ta từ mấy đời trước giàu lắm, nhưng truyền đến đời ổng thì chỉ còn chừng trăm mẫu ruộng và căn biệt thự này mà thôi. Ngôi nhà khá bề thế, cách nhà Liễu Nhu độ hai trăm thước. Căn nhà nền đúc nàng đang ở cũng là do ông nội để lại, vì cha của Liễu Nhu là con trai duy nhứt. Hồi còn trẻ, tức là cách đây phải hơn ba mươi năm, ông Hậu và ông Lãng, cha của Liễu Nhu là hai người bạn rất thân. Đồng trang lứa lại học cùng trường. Hai gia đình ngoài điền sản dưới tỉnh, họ đều có nhà trên Sàigòn. Ngoài dịp gặp ở trường, mỗi lần nghỉ hè hai cậu lại gặp nhau ở dưới quê. Năm nào họ cũng không quên rủ thêm một đám bạn về chơi thiệt là tưng bừng... Hai người đều là những thanh niên khôi ngô anh tuấn, nhưng Hậu có phần lôi cuốn hơn ở tài chọc cười rất có duyên. Tưởng rằng dòng đời cứ êm ả trôi, không ngờ giông tố tới khi hai chàng trai cùng yêu một cô gái. Cẩm Vân là bạn thân với Lệ Anh, cô em họ của Hậu. Nhà cô dưới chợ SaĐéc, nhưng hai cô quen nhau khi học chung trường nữ công Mỹ Ngọc. Một lần qua chơi nhà Lệ Anh, Cẩm Vân gặp cả hai chàng. Cái nước da trắng như sữa đọng, cặp mắt tròn, đen lóng lánh và nụ cười tươi ơi là tươi của Cẩm Vân khiến hai trái tim sôi nổi kia phải thổn thức, rụng rời. Nhường đâu thì nhường chớ trên chốn tình trường, mạnh ai nấy chạy để tới đích. Tức nhiên là Hậu chiếm thượng phong, vì ngoài cái tài chọc cười duyên dáng, chàng còn có vũ khí lợi hại mà Lãng không có. Đó là cô em họ của chàng ta. Những lời ong tiếng ve cứ rót hoài vô lỗ tai có ngày cũng phải có kết quả mỹ mãn. Cuối cùng Cẩm Vân về làm vợ Hậu. Tuy ôm mối hận thấu xương nhưng ngoài mặt Lãng vẫn tươi cười như không. Vừa hận vì mất người mình yêu, vừa bị tổn thương tự ái. Xưa nay chàng vẫn tự hào là nhà mình giàu hơn, mình thông minh hơn, học giỏi hơn “thằng” Hậu, vậy mà Cẩm Vân lại chọn nó!? Mất mặt bầu cua quá trời!
Lập gia đình rồi Hậu về quê trông coi ruộng nương, vườn tược phụ cho song thân , bên cạnh người vợ yêu xinh đẹp. Nhưng chỉ một năm sau cha chàng qua đời vì bịnh tim. Từ đây Hậu phải thay cha quản trị mọi việc.
Bị thua đậm trên chốn tình trường, Lãng đâm ra xao lãng việc học hành. Tệ hơn nữa lại hay theo đám bạn xấu đi nhậu nhẹt, bài bạc lung tung. Hậu quả là ông bà thân sinh của chàng phải ra tiền trả một món nợ khá lớn và bắt chàng về quê cưới vợ để lo làm ăn. Ông bà có tuổi rồi, đã đến lúc Lãng phải gánh vác việc nhà phụ cho cha. Lãng đành bấm bụng nghe lời. Sau khi đi coi mắt vài đám, chàng bằng lòng cưới cô Mai là con gái một ông Cai Tổng bên Long Xuyên. Mai tuy nhan sắc không bì được với Cẩm Vân, nhưng cũng thuộc loại trung bình và là một người con gái rất thùy mị, nết na. Vả lại món hồi môn cũng đủ nặng ký để cái cán cân phải nghiêng về phía nàng. Vợ chồng Hậu ẵm thằng con trai gần đầy năm,trắng trẻo, mập mạp, giống Hậu như đúc đến chúc mừng Lãng. Nhìn cái hình tượng “gái một con trông mòn con mắt” của Cẩm Vân, mối hận trong lòng Lãng càng ngùn ngụt như lửa chế thêm dầu. Nhưng có thấm vào đâu khi một lần về chơi bên vợ, chàng tình cờ khám phá ra Mai chỉ là con một nàng hầu của ông Cai Tổng. Nhưng ván đã đóng thuyền, huống chi chuyện này đổ bể, chỉ mang tiếng cho gia đình của chàng mà thôi. Đã không yêu, bây giờ cái tình của Lãng đối với Mai càng lạt lẻo. Lãng coi vợ như một cái máy đẻ và có người hầu hạ sớm hôm cho cha mẹ. Mai biết thân nên cũng cắn răng chịu đựng những lần chồng đi sớm về khuya. Mỗi lần Lãng thua nơi sòng bạc hoặc trong trường gà, Mai lặng thinh không một lời than trách. Những lần đi chơi Lãng đều rủ Hậu đi theo. Từ chối vài lần thì cũng phải “nể mặt” một lần. Từ từ thành thói quen. Hơn nữa ở nhà quê không nhiều thú tiêu khiển. Vợ chồng đi ra đi vô đụng mặt hoài cũng phát nhàm. Vì vậy chuyện đi chơi với bạn cũng là bình thường. Mà cái nghề cờ bạc rất dễ nghiện. Càng thua càng lậm. Cẩm Vân hết sức can gián chồng. Nhưng Hậu ở nhà được ít hôm thì cảm thấy bức rức, tay chân ngứa ngáy và bao nhiêu lời hứa với vợ đều như nước đổ lá khoai! Hơn nữa đàn ông rất kỵ bị bạn bè ngạo là theo đạo thờ bà. Cẩm Vân có kiếm Lãng để năn nỉ đừng rủ Hậu đi cờ bạc nữa thì Lãng làm ra vẻ ngạc nhiên:
-Trời ơi, vậy là chị đổ oan cho tôi. Thằng Hậu đủ lớn, đủ khôn để biết mình làm cái gì. Nó không muốn thì ai mà ép được phải không ?
Nhìn Cẩm Vân quay đi với gương mặt buồn rầu, tuyệt vọng Lãng không dấu được nụ cười mãn nguyện, tuy trong lòng có hơi áy náy một chút. Ai biết được trong thâm tâm Lãng đang nghĩ gì?
Mai đã sanh cho chàng một thằng con trai rất dễ thương. Nhưng đứa con cũng không làm Lãng yêu vợ thêm lên. Từ ngày có thằng nhỏ Mai cũng cảm thấy đời bớt vô vị. Vú Chín vô làm cho gia đình này từ khi thằng Đức ra đời, vì vậy vú biết rất nhiều chuyện xưa để kể cho Liễu Nhu nghe sau này. Nàng ra đời sau thằng anh tới 4 năm và hai năm sau, khi khai hoa nở nhụy thằng Út thì người vợ, người mẹ tội nghiệp này đã vĩnh viễn giã từ cái thế giới chỉ đem nhiều muộn phiền tới cho mình. Mai sanh rồi bị làm băng ào ào mà Lãng thì không biết đang ngồi trong sòng bạc nào nữa. Khi chàng ta về tới nhà thì đã quá muộn, chỉ còn kịp vuốt cặp mắt người vợ bất hạnh của mình. Sau khi bị ông bà già chưởi cho một trận vuốt mặt không kịp, Lãng cũng cố gắng ở nhà một thời gian coi như ăn năn hối lỗi.
Phần Hậu thì như con ngựa bất kham, con chim sổ lồng sau khi mẹ qua đời vì bịnh thương hàn. Trong sòng bạc cũng như trong trường gà, chàng không còn bị gò bó như trước. Hậu cáp độ những món tiền lớn khiến thiên hạ phải sầm xì. Chàng nghĩ phải có gan mới hòng thắng lớn. Nhưng mấy ai làm giàu với nghề cờ bạc ngoài những tên cờ gian bạc lận? Những mẫu ruộng màu mỡ cứ lần lượt sang tay người khác. Cẩm Vân khuyên mãi cũng chán, nên để mặc Hậu muốn làm gì thì làm, nhưng cô nhứt quyết không sanh thêm cho Hậu đứa con nào khác ngoài thằng Tú. Có lẽ nàng sợ cho cái tương lai không có vẻ gì sáng lạn của mình! Có những lần nhìn bộ mặt đờ đẫn, thất thần của chồng sau một đêm sát phạt, Cẩm Vân tự hỏi không biết có phải cùng một người mà nàng đã yêu thương, tin cậy đến độ trao gởi cả cuộc đời của mình chăng? Cái hạnh phúc tưởng chừng như đã nắm bắt được trong tay ngờ đâu chỉ là ảo vọng. Trong vòng sáu bảy năm thôi mà sao đời người có nhiều đổi thay tới như vậy?! Bây giờ nàng mới biết cái uy vũ của ông thần đỏ đen. Nó bỏ xa cái tình vợ chồng, tình phụ tử. Vợ đẹp con khôn gì cũng thua mấy con bài! Ở nhà thì cứ lờ đờ như đom đóm đực, nhưng trong trường gà hay trong sòng bài họ lại tràn trề sức sống. Cặp mắt người nào cũng sáng quắc, chiếu những tia nhìn như muốn xoi thủng cái bí mật trên những quân bài của địch thủ. Hình như họ chỉ thật sự “sống” ở những chỗ đó và những giây phút cực kỳ kích thích đó mà thôi.
Lãng cũng chơi nhưng không cay cú và mạnh tay như Hậu. Nhứt là sau khi vợ qua đời, nhìn mấy đứa con thơ thiếu mẹ, Lãng cũng cảm thấy bức rức, xốn xang và ít đi hơn trước. Hai người đàn ông vẫn qua lại bình thường, nhưng Cẩm Vân thì hầu như tránh mặt Lãng. Nàng cho rằng chính Lãng đã dẫn dắt Hậu vào con đường đam mê cờ bạc. Lãng biết nhưng chỉ cười một cách bí hiểm! Trên đời thiếu gì người dễ tha thứ nhưng không bao giờ quên!
Cho tới một ngày, cái ngày kinh hoàng nhứt trong cuộc đời của Cẩm Vân. Từ khi Hậu lậm vào vòng cờ bạc, Cẩm Vân dọn căn phòng cũ của cha mẹ chồng cho Hậu ngủ. Thằng Tú ngủ chung phòng với mẹ. Hôm đó bữa cơm trưa đã dọn rồi mà mãi vẫn không thấy chồng ra ăn, Cẩm Vân sai con vô kêu. Tiếng thét kinh hoàng của thằng Tú khiến mẹ nó thất kinh hồn vía, vội vàng chạy vô phòng của Hậu. Cái cảnh tượng hiện ra trước mắt khiến Cẩm Vân khựng lại như bị trời trồng, miệng há hốc, kêu không nên lời. Hậu ngồi trên ghế, hai tay buông thõng, đầu nghẽo trên mặt bàn, cặp mắt trợn trừng trắng dã, một dòng máu đen kịt rỉ ra nơi khóe miệng. Định thần lại Cẩm Vân kéo vội thằng Tú ra nhà ngoài, sai con nhỏ ở chạy kêu cô Lệ Anh qua tức thời. Thằng Tú lúc này mới úp mặt vào lòng mẹ khóc nức nở. Cẩm Vân mắt vẫn ráo hoảnh, nhìn vào khoảng không, tâm tư rối loạn như không biết mình đang chiêm bao hay đang ở ngoài thực tại? Cho tới khi tiếng hỏi đầy vẻ lo lắng của cô em chồng mới khiến nàng sực tỉnh. Cẩm Vân không trả lới chỉ kéo tay Lệ Anh đi vô buồng sau khi đã giao thằng Tú cho con nhỏ ở. Lệ Anh cũng không ngăn được tiếng kêu trời thảng thốt khi thấy cảnh tượng trước mắt. Nhưng cô còn bình tĩnh hơn Cẩm Vân nên bước lại gần thi thể của Hậu. Chợt thấy lá thơ trên bàn, Lệ Anh run rẩy cầm lên đưa cho chị dâu. Té ra là lá thơ tuyệt mạng của Hậu... Tối hôm qua khi những đồng bạc cuối cùng dứt áo ra đi, Hậu thất thểu về nhà. Một mình ngồi trong phòng vắng, tiếng cười đắc thắng của những kẻ được bạc còn văng vẳng bên tai, Hậu ôn lại quãng đời sau này của mình, rồi cảm thấy cái tội đối với vợ con tày trời quá, con người của mình đáng ghê tởm quá, nước sông nước biển nào có thể gội sạch đây? Cả cái cơ nghiệp hàng trăm mẫu ruộng thượng đẳng ông bà để lại bây giờ ở đâu? Mặt mũi nào nhìn thấy vợ con nữa? Rồi như trong cơn mộng du, Hậu đã pha thuốc chuột vào ly sữa để kết liễu đời mình. Chàng cầu xin vợ con thứ lỗi và mong rằng sau này Cẩm Vân sẽ gặp người xứng đáng hơn chàng...
Biết bao nhiêu thứ tình cảm xung đột dữ dội trong lòng Cẩm Vân: yêu hay hận. Thương hay ghét? Nàng chỉ biết là với tấm nhan sắc trời cho đáng lẽ cuộc đời mình phải sung sướng lắm, ai ngờ đâu ông trời lại chơi khăm, dung rủi nàng gặp Hậu! Trời xanh ghen gái má hồng chăng?
Một tay Lệ Anh lo đám tang cho Hậu, Cẩm Vân cứ lơ lơ lửng lửng như người mất hồn. Nàng từ chối không gặp những người bạn cờ bạc của chồng. Trong khi xảy ra chuyện tày trời này thì Lãng đang ở trên Sàigòn, đến chừng nghe tin vội vã tới chia buồn với Cẩm Vân. Trong bộ tang phục màu đen, đôi mắt u hoài, làn da trắng xanh xao càng tăng thêm nét đẹp liêu trai của nàng khiến con tim của Lãng đang ngủ yên bỗng bàng hoàng thức dậy. Cẩm Vân yên lặng nghe Lãng nói những lời chia buồn với một giọng điệu đầy vẻ chân thành. Cuối cùng nàng ngước lên, cặp mắt bỗng sáng rực nhìn sâu vào mắt Lãng:
-Bây giờ chắc anh hài lòng rồi phải không?
Câu hỏi khiến Lãng choáng váng. Chàng ấp úng:
-Tại sao chị lại hỏi tôi câu này?
Cẩm Vân nhìn khuôn mặt đầy bối rối của Lãng, cười gằn:
-Anh cần phải hỏi tôi nữa hay sao? Mấy năm dài tôi đã có đủ thời gian để suy nghĩ. Mà thôi tất cả đã qua rồi, nhắc lại cũng vô ích. Cám ơn anh đã tới chia buồn với chúng tôi.
Nói xong Cẩm Vân đứng lên tỏ ý muốn tiễn khách. Trên đường về, lòng Lãng xao động mạnh vì câu hỏi của Cẩm Vân. Không ngờ. Phải, không ngờ Cẩm Vân lại tinh ý đến như vậy. Nhưng nói có Trời làm chứng, Lãng không bao giờ mong muốn cái chết của Hậu. Điều đó xảy ra ngoài dự tính của chàng. Bỗng dưng Lãng thấy mình quá sức bỉ ổi. Chỉ để thỏa mãn lòng thù hận mà chàng đã vô tình đẩy Hậu vào chỗ chết. Để Cẩm Vân mất chồng và thằng Tú mất cha. Nhưng nói có trời làm chứng, thâm ý của Lãng là muốn Hậu tán gia bại sản, vợ chồng con cái phải sống trong cảnh bần cùng mà thôi. Có ngờ đâu...!
Mấy hôm sau Lãng cho người đem một số tiền lớn tới đưa cho Cẩm Vân, viện cớ giúp mẹ con cô trong lúc này, nhưng bị nàng cương quyết chối từ. Lãng còn đang chưa biết tính sao thì nghe tin Cẩm Vân muốn bán luôn năm mẫu đất còn sót lại. Lãng mừng lắm vội lòn tiền nhờ người em bà con đứng ra mua giùm. Cẩm Vân bán đất xong xuôi thì một thời gian sau trở về bên SaĐéc luôn. Căn nhà đóng cửa bỏ không. Thằng Tú năm đó mới 7 tuổi. Trong những giấc mơ, thỉnh thoảng khuôn mặt chết chóc kinh hoàng của ba nó lại hiện về khiến nó sợ đến toát mồ hôi. Ở Sađéc đâu được nửa năm thì Cẩm Vân dẫn con theo người chị họ lên Nam Vang phụ coi sóc cái tiệm vải rất lớn của bả. Vài năm sau nàng tái giá với một người khách trú giàu sụ trên đó. Trước khi đi Nam Vang, Cẩm Vân có ý muốn bán căn biệt thự, nhưng cái chết không bình thường của Hậu và những lời đồn đãi từ miệng con nhỏ ở khiến ai cũng sợ, không dám mua. Mẹ con Cẩm Vân từ ngày đó cũng không bao giờ đặt chân trở lại căn nhà xưa. Càng ngày ngôi nhà càng hoang vu với cỏ dại mọc lan tràn. Cây cối không được xén tỉa nên mặc sức chen vai thích cánh, càng làm tăng thêm vẻ âm u cho khu vườn khá rộng. Chỉ có gia đình Lệ Anh là còn dám vô đây hái trái cây, tuy rằng mấy năm sau này, cô đã dọn hẳn xuống chợ tỉnh mở tiệm may, hàng ngày chỉ có lũ chim chóc, dơi, chuột vãng lai đùa giỡn thoải mái. Qua mấy mươi năm phơi mình với gió sương, mặt tiền ngôi nhà phủ đầy rêu phong khiến nó có vẻ già nua, bịnh hoạn...
Vậy mà bữa nay con Lành nói có ánh đèn trong căn nhà đó. Chắc chắn là có điều gì là lạ đây. Liễu Nhu đứng lên vươn vai ngáp dài, sửa soạn đi ngủ, tự nhủ chuyện gì thì cũng để ngày mai hẳn hay.
Sau một đêm ngon giấc, Liễu Nhu đã quên mất cái chuyện con Lành kể tối qua vì nàng vốn không tin chuyện ma cỏ gì hết. Dù sao nàng cũng là một cô gái tân học. Sau khi mẹ mất, anh em cô sống rất hạnh phúc với bà nội, cha và vú Chín. Còn quá nhỏ nên kỷ niệm của người mẹ quá cố không sâu đậm lắm trong lòng mấy đứa nhỏ. Vú kể sau cái thảm kịch của ông Hậu, cha cô hối hận lắm, nhứt định từ giã ông thần đỏ đen để săn sóc mẹ già và ba đứa con thơ dại. Khi thằng Đức tới tuổi vào trung học, ông Lãng cho cậu lên Sàigòn với cặp vợ chồng người làm thân tín. Riêng ông thì đi đi về về, vì còn phải trông nom ruộng vườn dưới quê. Sau đó Liễu Nhu và thằng Út cũng lần lượt lên theo. Thấy Sài gòn càng ngày càng phồn thịnh, ông Lãng bán một mớ ruộng đem tiền lên mở một tiệm bán vật liệu xây cất, rất thành công. Lúc đó ông đã tái giá với một cô giáo lở thời, sanh thêm một đứa con gái. Tình trạng mẹ ghẻ con chồng không thích hợp với Liễu Nhu nên sau khi trợt vỏ chuối mảnh bằng Thành Chung, cô lấy cớ không thích học nữa, về quê phụng dưỡng bà nội. Cái cảnh “nhìn lên thì chẳng bằng ai, mà nhìn xuống thì chẳng có ai bằng mình” của cô cũng ngặt lắm. Bao nhiêu công tử vườn tới rắp ranh bắn sẻ cô đều cho de hết, nên bây giờ đã hăm hai cái xuân xanh rồi mà vẫn phòng không chiếc bóng. Bà nội hay vú Chín có cằn nhằn thì nàng lại nũng nịu “Bộ bà nội hổng muốn nuôi con nữa hả?” là bà lại thở dài, ra trước bàn thờ...tụng kinh tiếp! Nói đúng ra căn nhà có Liễu Nhu cũng vui hẳn lên. Bà nội thì già, tối ngày lo lần chuỗi niệm Phật. Vú Chín có tuổi rồi cũng đâm ra biếng nói biếng cười. Má con con Lành tối ngày lúc thúc làm việc dưới bếp. Nếu không có Liễu Nhu với những tiếng cười ròn rã của cô thì căn nhà rộng minh mông này chẳng khác gì cái nhà mồ!
Ăn sáng xong, Liễu Nhu xách cái giỏ trong có cuốn tiểu thuyết đang đọc dở dang tối hôm qua, mớ bông băng, ve thuốc đỏ và mấy cái bánh ít trần ăn sáng còn dư lại. Cô thong thả đi vòng ra sau hè, băng qua vườn xoài, đi thẳng ra hướng lộ mới. Buổi sáng không khí còn mát rượi, trong veo. Những chùm bông xoài vàng óng phe phẩy trong gió mai, tỏa hương thơm nhè nhẹ theo bước chân của Liễu Nhu. Nàng mỉm cười khi tưởng tượng ra nét mặt đau khổ của thằng Hưng lát nữa đây, khi nhìn thấy nàng bày bông băng ra. Tới trước cửa căn nhà lá của thím hai Lầu, Liễu Nhu lên tiếng:
-Chị Hai ơi, có nhà không?
Một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi, ốm nhom, mặc cái áo túi bằng vải ú bông cũ rích, mặt mày đen đúa từ trong nhà hấp tấp bước ra, miệng cười đưa hàm răng hô chìa:
-Cô Ba mới tới.
-Sao, thằng Hưng khá không chị? Nhu hỏi người đàn bà.
-Dạ, nhờ cô băng bó thuốc mấy bữa nay mà thằng ôn hoàng dịch vật đó đêm rồi ngủ yên, bớt rên rỉ!
Nghe chị ta rủa thằng con khiến Liễu Nhu bật cười. Mà cái thằng liến khỉ thiệt. Dám theo tụi trẻ lén vô ăn cắp sa bô chê trong vườn nhà ông Hương Sư Nhiên, bị người giữ vườn xịt chó rượt cắn. Nó mới tám tuổi, nhỏ nhứt trong đám, chạy không kịp bị con chó táp một miếng vô bắp chuối. May mà không sâu lắm. Nghe tiếng nó la, tụi kia quay lại đuổi con chó rồi dìu nó chạy thục mạng,vì sợ bỏ nó lại, rủi bị người nhà ông Sư Nhiên bắt được, nó khai ra thì chết cả đám. Thím hai Lầu góa chồng từ khi thằng Hưng mới lên ba tuổi. Nghèo rớt mồng tơi, tối ngày mắc đi nhổ cỏ mướn, đi cấy, đi gặt hoặc làm bất cứ chuyện gì người ta mướn thím. Vì vậy thằng Hưng ở nhà cứ thoải mái “ tự lực cánh sinh”. Mỗi sáng trước khi đi làm (nếu có người mướn) má nó nấu sẵn một ơ cơm. Trách cá vụn kho quẹt mặn quéo lưỡi, hoặc ơ mấm kho, khi thì tô ba khía để sẵn bên cạnh, nó cứ tự động bới ăn khi đói bụng. Ở nhà một mình buồn, nó thường nhập bọn với tụi thằng Ban ngoài vàm. Khi đi bắn chim, khi đi tát vũng, bắt cá về cho má nó nấu ăn. Hôm rồi không biết trời xui đất khiến gì mà nó lại theo tụi này đi hái trộm sa bô chê! Mấy đứa kia thấy thằng Hưng bị thương sợ lắm nhưng đâu biết làm sao, chỉ dẫn nó về bỏ đó, rồi mạnh đứa nào đứa nấy lủi về nha trốn biệtø. Thằng Hưng cắn răng chịu đau, không dám than với má nó lời nào. Thím Hai đi làm về mệt cũng lo ăn qua quít rồi đi ngủ đâu có dòm tới thằng con. Bữa sau đi nhổ cỏ trên đất bà Cả Phương về trời đã chạng vạng. Bước vô nhà không thấy thằng Hưng đốt cây đèn trứng vịt như mọi hôm, thím Hai lấy làm lạ cất tiếng kêu Hưng ơi Hưng hỡi mà trong nhà vẫn im lặng như tờ. Thím tức mình tưởng nó đi chơi chưa về nên rủa thầm trong bụng. Nào ngờ khi đốt được đèn lên thì thấy thằng Hưng nằm chình ình trên chiếc chõng tre. Lấy làm lạ, thím bước lại định kêu nó dậy, nhưng lay hoài mà vẫn không mở mắt, chỉ ú ớ. Rờ đầu thấy nóng như lửa, thím hoảng kinh cắm đầu chạy một mạch tới nhà Liễu Nhu cầu cứu. Vì trong làng này không ai còn lạ cái tánh hay thương người của cô. Mỗi lần ông Lãng từ Sàigòn về thế nào cũng phải đem cho con gái nào thuốc Aspirin, nào thuốc Dagénan...Những người nghèo trong làng đều đã từng thọ ơn của cô Ba. Đối với Liễu Nhu đây chỉ là chuyện tự nhiên. Rất giản dị, người ta cần thì nàng giúp. Vui vẻ, sung sướng mà giúp.
Liễu Nhu trấn an thím Hai rồi xách túi thuốc đi theo thím ta. Nàng nghiền nát viên Aspirin trong chén nước, biểu thím nâng đầu thằng con dậy đổ vô miệng cho nó uống. Thấy áo nó nhơm nhớp mồ hôi, Liễu Nhu kêu lấy bộ đồ sạch ra thay. Trong khi thay đồ hai người mới khám phá ra vết thương nơi bắp chuối thằng Hưng. Chỗ này máu đã khô và sưng vù lên đỏ hỏn. Liễu Nhu cau mày tỏ vẻ lo lắng. Nàng biểu thím Hai Lầu đi nấu một nồi nước sôi. Sau đó lấy bông gòn rửa thiệt sạch vết thương, bôi thuốc đỏ. Sau cùng là nghiền nhuyễn một viên Dagénan rắc đều lên trên, lấy băng sạch băng lại. Sở dĩ Liễu Nhu biết cách săn sóc như vậy vì hồi thằng Út đau phải nằm nhà thương Đồn Đất hai tuần, nàng vô nuôi em, có thì giờ rỗi rảnh thì theo quan sát mấy cô y tá. Có thắc mắc gì thì hỏi mấy cổ nên nàng cũng biết chút đỉnh. Sau đó về quê Liễu Nhu đem những điều học được áp dụng cho dân nghèo, nên được mọi người cảm mến đặc biệt. Mấy bữa rày ngày nào cô cũng tới thay băng cho thằng nhỏ.
Thằng Hưng thấy Liễu Nhu thì nhăn mặt. Nó bị cô lau rửa vết thương mỗi ngày đau lắm. Nhưng mỗi lần rên rỉ thì má nó lại chưởi:
-Đáng đời cho mầy. Ai biểu mới nứt mắt đã bày đặt trộm cắp. Ông Hương mà bắt được ,ổng đem đóng trăn thì tụi bây chết luôn cả đám!
Bữa nay mở băng ra, Liễu Nhu vui vẻ nói:
-Vết thương gần khô mặt rồi. Ít bữa nữa sẽ lành. Nhớ đừng có dại dột đi ăn cắp đồ nữa nghe không. Cô có đem cho mầy mấy cái bánh ít trần đây nè.
Thằng Hưng được ăn bánh mừng quá không còn thấy đau đớn gì nữa hết. Thím Hai Lầu rơm rớm nước mắt nói:
-Thiệt mẹ con tui đội ơn cô suốt đời. Hổng có cô chắc thằng khỉ đột này chết queo rồi.
Liễu Nhu cười:
-Thôi chị nói chi tới chuyện ơn nghĩa. Tôi chỉ giúp chút đỉnh có đáng gì.
Nói rồi nàng từ giã mẹ con thím Hai Lầu. Giờ này mặt trời đã lên khỏi ngọn tre. Nhờ đi dưới hàng me keo nên không bị nắng. Độ mười phút sau thì Liễu Nhu theo con đường mòn tới ao sen. Cái ao nho nhỏ nằm trong đất làng, gần giáp ranh mặt sau nhà ông Hậu. Chỗ này rất yên tĩnh vì ít người dám léo hánh tới. Bên cạnh ao là một cây sung già, tàn lá sum suê. Dưới ao, sen do ai đó thả từ đời nào thi nhau nở hoa tỏa hương thơm ngát. Lẫn trong những đám cây dại mọc xung quanh bờ ao, Liễu Nhu đem vài thứ bông trong vườn nhà ra trồng cho thêm phần mỹ lệ. Nàng thích ra đây ngồi dưới gốc cây sung, khi thì đọc sách, khi thì chỉ ngồi đó ngắm những đám mây lãng đãng trên bầu trời, tai nghe tiếng chim hót trong vườn bên, thả hồn phiêu du... Bữa nay, cũng như thường lệ, Liễu Nhu ngồi xuống gốc cây, đưa mắt nhìn một vòng cái thế giới mà từ lâu nàng đã tự coi là của riêng mình. Bên kia bờ, mấy bụi vạn thọ vàng rực rỡ đang cười cợt với đám mồng gà đỏ thiệt vui mắt. Đám bông móng tay đủ màu hồng, trắng, tím cũng đâu chịu thua, thi nhau khoe sắc thắm. Mấy con bướm xí xọn đuổi bắt nhau, đôi cánh chấp chới trong nắng vàng. Con chim chìa vôi đậu trên cây sậy ốm yếu, đong đưa, liếc mắt nhìn Liễu Nhu rồi hót lên một tràng như muốn chào hỏi khiến nàng bật cười. Con chim nhún mình cất cánh bay đi...Cái không khí tĩnh lặng, thơm tho khiến Liễu Nhu cảm thấy tâm hồn nhẹ nhỏm, yêu đời. Tựa lưng vào gốc cây, nàng cầm quyển truyện lật ra đọc tiếp. Câu chuyện hấp dẫn khiến Liễu Nhu không thể rời mắt khỏi quyển sách...Không biết bao nhiêu lâu, bỗng nhiên nàng có cảm giác nhột nhạt rất lạ lùng. Ngước mắt nhìn lên không thấy gì, Liễu Nhu hơi rờn rợn tự nhủ không lẽ có...ma thiệt? Nghĩ tới ma, nàng hơi quay đầu ngó về hướng cổng sau căn biệt thự cách đó độ hai chục thước. Liễu Nhu giựt mình suýt đánh rơi quyển sách đang cầm trong tay. Đứng tựa lưng vào cánh cổng là một chàng thanh niên, hai tay khoanh trước ngực đang đưa mắt nhìn nàng chăm chú. Thấy Liễu Nhu đã ngó thấy mình, chàng ta hơi nhếch môi cười, rồi thong thả tiến lại gần cô gái. Liễu Nhu đã lấy lại bình tĩnh, đưa mắt quan sát chàng lạ mặt. Anh chàng trạc độ hai mươi ngoài. Dong dỏng cao, mày thanh mắt sáng, nước da rám nắng như người thường chơi thể thao. Anh ta mặc quần tây màu nâu nhạt, áo sơ mi ngắn tay màu vỏ trứng bỏ trong quần. Chân đi đôi săn đan da màu nâu sậm. Liễu Nhu nhủ thầm: không tệ! Dừng lại cách cô gái độ ba thước, anh chàng gật đầu:
-Chào cô. Tôi là Hoàng. Hân hạnh được biết cô...a...
-Tôi tên Liễu Nhu. Nàng trả lời mắt không rời khuôn mặt chàng thanh niên.
Hoàng kêu lên thích thú:
-Ô, tên cô đẹp quá. Đẹp như...người.
Đôi má Liễu Nhu hơi hồng lên:
-Ông khen quá lời- Rồi cô nhìn về hướng căn nhà hoang- À mà hình như ông...từ trong đó đi ra phải không?
Hoàng cũng quay nhìn ngôi nhà rồi thong thả trả lời:
-Phải, tôi đang mướn người sửa sang lại ngôi nhà cho sạch sẽ.
Liễu Nhu không dấu được sự tò mò:
-Ông...ông không sợ sao? Căn nhà...bỏ hoang từ lâu lắm rồi. Ở đây ai cũng sợ...
Hoàng nhìn cô gái, cười nửa miệng:
-Ai cũng sơ ma, chỉ trừ cô phải không? Nếu một cô gái dám ra đây ngồi một mình, tôi thân đàn ông đại trượng phu mà sợ ma thì...ẹ quá!
Nghe Hoàng tự xưng mình là đại trượng phu, Liễu Nhu bật cười:
-Ông nói có lý. Nhưng tối hôm qua ông đã làm cho đứa ở nhà tôi chạy vắt giò lên cổ đó. Thấy nét mặt ngạc nhiên của Hoàng, cô giải thích- Đi ngang qua thấy có ánh đèn trong nhà, nó cứ đinh ninh là ma nên chạy thục mạng về nhà.
Hoàng nghe xong cũng cười rồi hỏi:
-Chắc cô Nhu cũng ở gần đây?
Liễu Nhu chỉ tay về hướng nhà mình:
-Tôi ở cách đây độ hai trăm thước thôi. À, mà ông mua lại căn nhà này sao?
Hoàng trả lời mơ hồ:
-À, nhà này của một người bà con. Tôi ở Saigòn, chỉ thỉnh thoảng mới về đây thôi. Thấy căn nhà đẹp mà bỏ hoang uổng quá nên tôi xin...à mua lại. Khi nào chán không khí ồn ào, bụi bậm ở Đô Thành, về đây thở không khí trong lành cũng tốt. Đứng xa nhìn cái cảnh cô ngồi đọc sách dưới gốc cây, bên ao sen, có hoa thơm bướm lượn thiệt đẹp không thua gì một bức tranh.
Nghe anh chàng tả cảnh mê ly rùng rợn quá Liễu Nhu đâm mắc cỡ, cầm cái túi xách lên nói:
-Thôi trưa rồi tôi phải về kẻo bà nội tôi chờ cơm lại quở. Nhà tôi là căn nhà nền đúc có trồng hai cây cau lửa ở trước cổng. Khi nào rảnh mời ông lại chơi.
Hoàng nói vội như muốn níu kéo cô gái lại:
-Khoan đã. Cô Nhu phải giải thích cho tôi hiểu thêm một chút. Cây cau thì tôi thấy đã nhiều, nhưng cây cau lửa thì chưa bao giờ. Chắc khi có người tới gần nó phun...lửa phải không?
Liễu Nhu không nhịn được cười:
-Trời ơi, nếu hai cây cau biết phun lửa như ông nói thì căn nhà của chúng tôi cháy thành tro từ tám kiếp rồi! Kêu là lửa vì những cái mo cau ốp vô thân cây màu đỏ như lửa. Cũng như tên dừa lửa là vì trái dừa màu đỏ thay vì màu xanh. Thôi tôi phải đi đây. Về trễ là bị rầy đó.
Nhìn theo sau tấm lưng yểu điệu của cô gái, anh chàng tên Hoàng gật gù cái đầu, vẻ mặt bỗng đổi thành đăm chiêu như có điều gì suy nghĩ. Khi bóng cô khuất khỏi tầm mắt, Hoàng quay bước trở vô nhà. Một tốp thợ đang làm việc. Kẻ lau chùi, người sơn quét. Hoàng muốn cho trong nhà sạch sẽ trước, ngoài mặt tiền để tính sau. Đồ cũ còn lại trong nhà đã cho đi hết. Tất cả những vật dụng chàng sẽ đem từ Sàigòn xuống. Hoàng muốn một căn nhà hoàn toàn mới từ trong ra ngoài.
Liễu Nhu về tới nhà bữa cơm trưa cũng vừa dọn lên. Vú Chín lại cằn nhằn:
-Chèn ơi, trời nắng như vầy mà cứ dang cái đầu trần đau cho mà coi. Rồi đàn bà con gái mà cứ ra ngồi cạnh bờ ao hoài coi chừng...
Liễu Nhu cười ngắt lời bà vú:
-...mắc đàng dưới phải hôn vú? Vú à, chừng nào vú mới bỏ được cái tật mê tín dị đoan đó hả vú? À, bữa nay con mới gặp cái con...ma làm con Lành chạy thục mạng tối hôm qua rồi. Vú biết hôn, con ma đó tên là...Hoàng!
Nói xong Liễu Nhu cười giòn tan. Vú Chín nghe vậy bèn hỏi tới. Liễu Nhu đem chuyện gặp chàng trai kể cho cả nhà nghe rồi kết luận:
-Kể ra con ma đó cũng không đến nỗi ...dễ sợ lắm!
Vú Chín hứ cái cốc, mắng yêu:
-Thiệt tình. Chồng ngồng cái đầu rồi mà cứ như con nít, hổng sợ người ta cười.
Bây giờ bà nội mới xen vô:
-Nhu à, con gái phải cẩn thận mới được nhen cháu. Người lạ mình chưa biết gốc gác không nên gần gũi. Lỡ có bề gì thì ân hận.
-Nội à, cháu của nội lớn lắm rồi không ai ăn hiếp được đâu. Anh chàng này cháu thấy mặt mày không đến nỗi bất lương.
-Ừ dò sông dò biển dễ dò chớ lòng người khó đọ. Mình cứ cẩn thận là hơn.
Liễu Nhu dạ cho bà nội vui lòng rồi bắt qua chuyện khác.
...Đang ngồi dưới bếp bắt bông đường lên những cái bánh men tròn, trắng xinh xinh thì con Lành chạy xuống kêu là trên nhà có khách hỏi cô Ba. Liễu Nhu lấy làm lạ nhưng cũng rửa
tay sạch sẽ rồi đi lên nhà trên. Nhìn cái dáng cao cao ốm ốm của người thanh niên đang đứng quay lưng ngắm mấy bức tranh thêu trên tường, Liễu Nhu hơi ngờ ngợ. Đến chừng người đó quay lại thì cô kêu lên đầy ngạc nhiên:
-Ô, ông Hoàng!
Hoàng mỉm cười:
-Chào cô Nhu. À, xin cô làm ơn bỏ cái tiếng ông nặng nề đó được không? Nó làm tôi có cái cảm tưởng mình già ghê lắm. Mà tôi thì mới có hai mươi bảy cái xuân xanh mà thôi!
Liễu Nhu cũng cười:
-Dạ nếu...anh muốn. Mời anh Hoàng ngồi. Sao, căn nhà đã sửa sang xong chưa mà anh rảnh rỗi ghé đây chơi?
-Cũng sắp xong hoàn toàn rồi. Hôm nào mời cô Nhu ghé qua thăm cho biết.
Nghe lời mời Liễu Nhu mừng lắm. Vì từ hồi nào tới giờ nghe vú Chín kể lại cái thảm kịch năm xưa, trí tò mò bị kích thích dữ dội, nhưng nàng vẫn chưa bao giờ dám làm một màn phiêu lưu một mình vô ngôi nhà đó. Bà nội và vú Chín còn cấm tuỵêt ba đứa nhỏ không được léo hánh tới gần. Họ nói căn nhà bỏ hoang lâu năm sợ có chuột bọ rắn rít rất nguy hiểm. Nhưng bây giờ thì khác, có chàng trẻ tuổi đẹp trai này hướng dẫn thì còn gì bằng. Vì vậy Liễu Nhu cười tươi rói:
-Dạ, tôi thì lúc nào cũng sẵn sàng..
Đang nói nàng bỗng ngưng ngang vì có tiếng tằng hắng của bà nội sau lưng. Liễu Nhu quay lại thấy bà thì lật đật chạy lại nắm tay, miệng líu lo:
-Nội à, đây là anh Hoàng. À, mà cũng là... con ma khiến con Lành chạy gần chết hôm trước đó.
Nói xong cô cười. Tiếng cười giòn, trong như thủy tinh. Bà lão lắc lắc cái đầu có mái tóc trắng như sương chép miệng:
-Thiệt là như con nít! Cậu Hoàng đừng chấp nhứt.
Hoàng lật lật đỡ lời:
-Dạ thưa bà cháu đâu dám. Cô Nhu nói giỡn càng vui. Cháu ở đây chưa quen ai. Hôm trước tình cờ gặp cô Nhu ngoài ao sen, bữa nay mạo muội tới thăm bà.
Bà lão đưa mắt quan sát ngầm chàng thanh niên. Rồi có lẽ thấy chàng ta không có vẻ họ Lưu tên Manh nên bà bèn phán:
-Ừ, bà con xa không bằng láng giềng gần. Rảnh rỗi cậu cứ tới chơi. Nhu à bà nội đi thăm bà Tư Tâm một chút. Tội nghiệp bả bị trúng gió mấy bữa nay.
Nói rồi bà đội cái khăn rằn lên đầu đi ra cửa. Hoàng nhìn theo rồi quay lại nói với Liễu Nhu:
-Bà nội cô có vẻ hiền lắm.
-Dạ bà nội tôi ăn chay trường. Nhu trả lời. Nhưng mà dễ hay khó cũng còn tùy trường hợp. Hôm mới gặp anh lần đầu, về kể lại, bà tôi nói phải coi chừng. Biết đâu anh thuộc thành phần...nguy hiểm! Không hiểu sao bữa nay...
Hoàng ngắt lời:
-Bữa nay bà thấy tôi dễ thương quá nên không cần coi chừng nữa phải không?
Hai người cùng cười. Nói chuyện một lát rồi Hoàng cũng từ giã ra về sau khi hẹn sẽ cho Liễu Nhu biết khi nào tới nhà chàng được. Trên đường về, Hoàng mỉm cười có vẻ hài lòng về mình lắm.
...Tối hôm qua trời nóng quá, Liễu Nhu cứ trăn trở không ngon giấc nên dậy muộn. Ăn xong chén cháo đậu đen với tép chấy nàng xách giỏ sửa soạn ra nhà thím Hai Lầu. Vết thương của nó coi như đã lành. Vú Chín bắt phải đội nón lá, sợ cô bị trúng nắng. Liễu Nhu phụng phịu:
-Vú à, vú đừng coi con là con nít nữa có được không?
-Phải, phải. Bây giờ tập làm người lớn đi là vừa. Biết đâu sắp có người rước rồi đó.
Liễu Nhu dẩu mỏ:
-À ha. Vú lại muốn đuổi con đi nữa rồi há? Cho vú biết, con sẽ ở vậy săn sóc bà nội cho tới già luôn.
-Ừa, vú chống mắt lên chờ coi đây nè. Bà vú nhìn Liễu Nhu âu yếm.
Nàng nguýt yêu bà vú một cái rồi đội cái nón lá đi ra nhà thím Hai Lầu. Thằng Hưng ngày nào cũng trông cô Ba tới, vì lần nào cô cũng đem cho nó một món gì đó. Mấy bữa nay cô còn đem một cuốn vần dạy nó tập đọc. Thím Hai nghèo quá đâu có tiền sắm quần áo, tập vở cho con tới trường. Nhiều khi đứng ngoài ngó vô lớp, thấy đám trẻ kia học nó thèm lắm. Cô Ba còn hứa nếu nó chịu khó học, mùa tựu trường năm tới cô sẽ mua sách vở cho nó tới trường đàng hoàng. Cô nói với thím Hai là nếu cứ để nó lêu lổng có ngày sanh hư.
...Sau khi quan sát vết thương lần chót và dạy cho thằng Hưng học độ một tiếng, Liễu Nhu xách giỏ tà tà đi ra ao sen. Dưới cái nắng gay gắt, mấy bụi bông đứng gục đầu chịu trận xem rất thảm hại. Liễu Nhu lấy cái gáo cán dài làm bằng sọ dừa khô múc nước dưới ao lên tưới. Xong nàng tới ngồi dưới gốc cây sung thở ra khoan khoái. Chỗ này Liễu Nhu có trải một chiếc chiếu manh cũ nên ngồi không sợ dơ. Nàng lấy cuốn Những Kẻ Khốn Nạn của nhà văn Hồ Biểu Chánh ra đọc. Ôi thôi, những mảnh đời khốn khó trong sách khiến nàng nhỏ không biết bao nhiêu là giọt lệ! Xem đây mới thấy đời mình may mắn quá! Cơn gió hiu hiu lau khô mấy giọt mồ hôi trên trán, nhưng cũng kéo sụp mí mắt của Liễu Nhu. Bàn tay cầm cuốn sách từ từ hạ xuống, cái đầu cũng từ từ nghẻo một bên tựa vô gốc sung già. Cô đã gởi hồn mình vào cơn mộng, đâu biết rằng có một chàng trai đang bước những bước rất nhẹ đến bên cô...
Sợ làm kinh động đến Liễu Nhu, Hoàng bước những bước thật khẽ khàng. Nhìn nàng thật trẻ thơ trong giấc ngủ bất chợt. Rèm mi đen khép nhẹ làm tăng nét trắng hồng của đôi gò má hây hây. Nàng mơ thấy gì mà cặp môi hồng như he hé cười? Vài lọn tóc đen nhánh phất phơ trước trán. Càng nhìn Liễu Nhu, Hoàng càng cảm thấy bất an trong lòng. Tuy đã ngoài...
Phượng Các
#5 Posted : Sunday, November 12, 2006 7:18:35 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)





Bạn đọc muốn có tập truyện trên đây của nhà văn nữ Tiểu Thu, xin liên lạc với tác giả theo điạ chỉ :

Thu Nguyen
7860 D'Aubigny
Anjou,Quebec
Canada, H1K 1S4

Sách bán giá 20 dollars kể cả cuớc phí.
Phượng Các
#6 Posted : Tuesday, November 14, 2006 3:27:54 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Ðàn Ông Năm Bảy Lá Gan

Tiểu Thu


Dưới ánh mặt trời chói chang, ruộng lúa chín
trải dài từ con lộ mới vô tít trong làng Mỹ Nghĩa
như một tấm thảm vàng khổng lồ. Những bônglúa
no tròn rạp lên nhau theo chiều gió. Từng đàn chim
dòng dọc, se sẻ bay lên, sà xuống từ chỗ nọ sang
chỗ kia như những đám mây nhỏ... Tại nhà ông Cả
Phương, đám thợ gặt ở nơi khác tới cũng đã
tề tựu đông đủ. Họ ăn ở luôn tại nhà chủ.
Những thợ gặt trong làng, mỗi buổi chiều xong
việc ai về nhà nấy.

Mợ tư Tâm dâu ông bà Cả đang mang thai đứa con
thứ ba. Cái bầu bảy tháng khiến mợ đi đứng
nặng nề, chậm chạp. Tuy vậy mợ vẫn phải chỉ
huy đám hỏa đầu quân nấu cơm cho thợ ăn ngày ba
buổi. Chẳng phải cao lương mỹ vị gì, nhưng món
mắm lóc chưng đường hủ, nước đặc quánh, rắc
hành tiêu thơm phức được mọi người chiếu cố
đặc biệt. Bầu, bí, rau cải đầy vườn nên họ
cũng được ăn thả cửa. Mợ Tư đãi ngộ đám
thợ gặt rất rộng rãi nên ai cũng ráng hết sức,
không hề than van.

Mỗi bữa trưa, con Ni với thằng Ban, đứa đội
thúng cơm, đứa đội thúng đồ ăn, tay xách bình
trà huế ra đồng. Dưới tàn cây gáo cổ thụ tỏa
bóng mát như một cây lộng khổng lồ, hai đứa bày
cơm nước trên chiếc đệm cói. Ðám thợ gặt bu
xung quanh, vừa ăn vừa cười giỡn râm ran. Thúng cơm
gạo nàng tây trắng nõn không mấy chốc đã hết
sạch. Sau khi tráng miệng mỗi người một trái chuối
lá xiêm chín vàng lườm, họ quay ra người ăn miếng
trầu, kẻ vấn điếu thuốc rê, hút phun khói mịt mù...
Sau chén trà huế đã đời, họ tiếp tục gặt cho tới
xế chiều...

Chỗ mang cá giáp con lộ mới, ông Cả dùng làm chỗ
đạp lúa. Hai con bò làm phận sự, vừa đạp lúa vừa
nhơi rơm nhóc nhách. Sau đó lúa được giê cho sạch
hột lép, rồi đổ trên những tấm đệm trải dài
hai bên con lộ đá xanh. Sau vài nắng, hột lúa thiệt
khô mới đổ vô bồ, chờ lái tới mua. Rơm được
chất xung quanh một thân tre khô cao độ ba, bốn
thước thành cây rơm. Rơm dùng cho trâu bò ăn vào
mùa nước, hoặc nướng bánh phồng, bánh tráng trong
dịp Tết. Ðôi khi dùng nướng cá lóc, cá bông bọc
đất sét cũng rất tiện lợi.

Cứ cách một hai tối, mợ Tư lại đãi đám thợ gặt
một nồi chè, đậu xanh hoặc đậu đỏ. Nhà có vườn
dừa bát ngát nên nồi chè nào cũng được nêm nước
cốt dừa béo ngậy. Bà Cả có cằn nhằn sao hoang phí
thì mợ Tư chỉ cười chống chế:

- Tội nghiệp họ làm cực khổ quá má à. Nồi chè
đối với mình đâu có đáng bao nhiêu.

Mà thiệt năm nào ông bà cũng cho trồng vài công đậu
ở miếng đất giáp với nghĩa địa của đại gia đình
họ Nguyễn. Miếng đất có độ hai công nên không
đáng trồng lúa. Thiệt tình mà nói, những gia đình
giàu dưới quê gia sản càng ngày càng lớn, bởi quanh
năm họ không phải chi tiêu nhiều cho vấn đề ăn uống.
Gia đình ông Cả Phương có vườn dừa bán trái quanh
năm. Cam, quít, xoài mỗi mùa đều có lái tới đặt
cọc trước. Lúa ruộng góp mỗi năm vài ngàn giạ. Nếu
được giá thì bán cho lái. Không thì cậu mợ Tư Tâm
mướn ghe chài chở lên Chợ Lớn bán cho mấy chành lúạ
Sau mùa lúa bắt đầu tát đìa. Ông Cả có vài cái đìa
khá lớn rải rác trong ruộng nhà. Mùa nước lớn, ngoài
đồng nước ngập mênh mông. Tôm cá đủ loại từ sông
Cái lội vô kiếm ăn. Ðến khi nước giựt, cá từ từ
tụ lại sống trong đìa. Ngoài cá tôm, trong đìa còn có
sen, súng mọc đầy. Mùa sen nở rộ, mỗi luồng gió
thoảng qua, mang hương thơm bay lồng lộng khắp cánh
đồng. Cứ vài hôm bà Cả sai thằng Ban ra đìa cắt hoa
sen về cho bà cúng Phật. Cọng bông súng, mợ Tư bóp
dấm làm gỏi trộn khô cá lóc, cá sặc, hoặc trộn với
bông điên điển, lá lụa, lá xoài non chấm mắm kho cũng
ngon tuyệt vời!.. Năm nào tát đìa xong, tôm cá nhiều
quá ăn không hết, mợ Tư và con Ni phải đem xuống chợ
Cao Lãnh bán bớt. Gà, vịt lúc nào cũng sẵn vài chục
con trong sân. Heo vài con trong chuồng. Mợ Tư lại có tay
trồng rau. Vạt rau sau hè lúc nào cũng xanh tươi. Mợ
cảm thấy lòng thư thái, êm ả khi ngắm đàn bướm đủ
màu bay lượn trên những luống cải lấm tấm hoa vàng.
Tai nghe tiếng vo ve của đám ong bầu, ong vò vẻ lượn
lờ trên giàn bầu, giàn bí cũng khiến lòng mợ vui như
mở hội...

Không tốn kém cho việc ăn uống nên đồng tiền thâu
vô phần lớn dùng để mua thêm ruộng, thêm vườn. Căn
nhà nền đúc đồ sộ của ông Cả được chưng bày hực
hở. Bàn ghế, tủ thờ, hoành phi, trường kỹ... được
đám thợ mộc thiện nghệ từ ngoài Trung đi ghe bầu vô
đóng tại chỗ. Gian giữa thờ sắc Thần. Phía trước
buông rèm từ trên trần nhà xuồng tới nền gạch bông
xem thiệt uy nghi và không kém phần huyền bí( đối với
lũ cháu nội, cháu ngoại của ông bà Cả!). Mỗi năm tới
mùa cúng đình, hương chức hội tề cùng dân làng tựu
lại nhà ông Cả làm lễ rước Sắc Thần ra đình. Cúng
bái liên tiếp trong ba ngày. Tối đến có hát bội tưng
bừng náo nhiệt. Nhứt là những đêm hát tuồng có đào
đẹp như Lưu Kim Ðính giải giá Thọ Châu, Mộc Quế Anh
dưng cây đầu Tống, Lữ Bố hí Ðiêu Thuyền thì thiên
hạ coi chật rạp. Ngược lại nếu diễn tuồng Chung Vô
Diệm thì khán giả rất thưa thớt! Năm nào mợ Tư Tâm
cũng bị chia phần chỉ huy ban ẩm thực. Từ người có
chức lớn nhứt cho tới kẻ cùng đinh trong làng đều
được ăn uống no say nên mọi người ai nấy đều hể
hả...

Ông Cả Phương muốn cậu Tư sau này ra tranh cử Hội
Ðồng nên bắt cậu lãnh chức Xã trưởng, là nấc
thang bắt đầu cho sự nghiệp chánh trị về sau. Năm
đó cậu mới ba mươi. Ðẹp trai, ăn nói có duyên lại
có chức tước nên cậu được phái nữ hâm mộ hết
mình, báo hại mợ Tư đánh ghen mệt nghỉ!

Mấy ngày trước khi mùa gặt bắt đầu, cô hai Trâm là
chị bà con của cậu Tư Tâm tới gặp mợ Tư, xin cho
người em bà con bên chồng vô giúp việc. Cô hai nỉ non:

- Tội nghiệp cổ lắm mợ ơi. Mới hăm hai tuổi đã
góa chồng. Không nghề ngỗng lại bị bà má với đám
em chồng ăn hiếp. Cổ chịu hết nổi nên ôm quần áo
trốn lên nhà tui ở đậu. Tui thấy mợ bụng mang dạ
chửa nặng nề, lại sắp tới mùa lúa, chắc cần
người phụ, nên mới đánh liều tới hỏi mợ cho cổ
làm, kiếm miếng cơm qua ngày. Tùy mợ muốn cho bao
nhiêu cũng được, cổ không dám đòi hỏi.

Sẵn tánh hay thương người, thấy cảnh góa bụa lại bị
ức hiếp, mợ Tư đâm thương cảm nên đồng ý mướn
liền. Cô Hà thuộc loại mình dây, người dong dỏng.
Tuy mặc cái áo bà ba vải bông, quần ú đen, nhưng
không dấu được làn da trắng hồng. Mái tóc đen
nhánh bới gọn sau ót. Cặp mắt lá răm có đuôi, tuy
hay nhìn xuống, nhưng cũng không dấu được vẻ long
lanh. Lúc chào mợ Tư cô chỉ hé đôi môi, nhưng mợ
cũng thoáng thấy đôi hàm răng trắng ngà đều đặn.
Nếu một mình cô ta tới xin giúp việc chắc mợ Tư
không dám mướn. Nhưng là em chồng cô hai Trâm, vướng
trong tình trạng trái ngang, phải tạm đi làm nuôi thân
thì lại khác. Mợ Tư an ủi cô Hà vài câu rồi kêu
con Ni dẫn cổ xuống nhà dưới, dành cho người làm,
dọn một căn buồng nhỏ kế buồng con Ni cho cổ. Hành
trang của cô người làm mới chỉ gọn gàng một bọc đồ
nho nhỏ...

Mới có mấy ngày mà cô Hà đã được lòng hết mọi
người trong nhà. Chịu khó thức khuya dậy sớm, làm
lụng chăm chỉ, lại nói năng ngọt ngào. Khó tánh như
bà Cả mà cũng không bắt bẻ vào đâu được. Chỉ có
hôm đầu, vừa mới thấy mặt cô Hà, Bà Cả châu mày
ngạc nhiên, kêu mợ Tư lên nhà trên nói:

- Vợ thằng Tư thấy sao, chớ má dòm tướng con nhỏ
này đi ở mà sao mướt rượt hà!
`
Mợ Tư cười hiền:

- Tại cổ là em bà con với anh hai chồng chị Trâm đó
má. Hoàn cảnh ngặt nghèo mới đi ở tạm kiếm cơm. Thôi
mình cũng ráng giúp cổ ít bữa xem sao...

Bà Cả nói xuôi:

- Ừ, nhà mình đương neo người, bây tính sao đó
tính. Con Ni chịu lắm, vì từ ngày có Hà, nó có thì
giờ rảnh để tò tí với thằng Ban nhiều hơn. Con
Ni năm nay mười bảy. Thằng Ban mười chín. Gia đình
Ban ba đời đều làm cho ông Cả. Ông nội, rồi tía
nó đều là tá điền làm ruộng, riêng nó được
giao cho giữ bầy bò và làm công việc lặt vặt trong
nhà từ năm mới lên mười bốn. Phần con Ni quê ở
Hồng Ngự. Lúc mợ Tư sanh đứa con thứ hai, bà Phủ
Bá, má ruột mợ trên Ðốc Vàng Thượng, mướn nó
lúc đó mới mười ba tuổi, dắt xuống coi em. Nhà nó
đông con lại nghèo thê nghèo thảm. Có bữa ăn cơm chỉ
có rau cải trời, rau tập tàng luộc chấm nước tương.
Lúc mới tới giúp việc, con Ni ốm lòi cả xương sườn
xương sống. Rồi nhờ ăn uống đầy đủ chất bổ,
từ từ nó trổ mả coi cũng đẹp gái. Với thân hình
tròn lẳn, chắc nịch, mái tóc dài xức dầu dừa mướt
rượt, kẹp gọn trong chiếc kẹp ba lá. Nước da nó ngăm
ngăm nhưng hồng như trái bồ quân. Cái mặt tròn lấm
tấm mụn trứng cá, mà hễ hở tay là nó len lén móc
túi áo, lấy cái kiếng nhỏ xíu ra, đưa ngang mặt
ngắm nghía, mân mê mấy cái mụn. Có lần ngứa tay
nặn lầm caí mụn bọc, mặt sưng vù hết cả tuần.
Miệng nó tươi lại cười toe toét suốt ngày, nên
đám trai làng đã nhiều đứa thả lời ong bướm.
Rốt cuộc nó kết thằng Ban. Thằng này ngoài tướng
tá vạm vỡ, lại ở chung nhà, có nhiều cơ hội gặp
gỡ, chuyện trò với con Ni nên chiếm thượng phong. Khi
nhà có khách nó còn dám dấu mấy món ngon, lén đem cho
thằng Ban ăn. Có lần bị chú Tám Tiểu (... Người phụ
trách lau chùi bàn ghế nhà trên. Khi ông bà Cả đi công
chuyện thì phụ chèo ghe hầụ Chú hơn bốn mươi, góa
vợ đã năm sáu năm nay) bắt gặp. Chú vừa cười vừa
điểm mặt con Ni:

- Chết bây nghen. Dám dấu đồ ăn cho thằng Ban. Mà cái
thằng mạnh như trâu cần gì ăn đồ bổ? Ốm yếu như
chú đây mới cần tới mấy món nầy. Ðưa chú ăn dùm
cho.

Con Ni nguýt:

- Chú mà yếu! Chú kêu yếu sao đêm nào cũng "chầu"
nhà cô năm Liễu tới khuya lơ khuya lắc mơí về?

Chú Tám trợn mắt:

- Sao bây biết tao ở đằng cô năm tới khuya?

Con Ni cười đắc thắng:

- Thôi chú đừng chối. Mới sáng hôm qua tui lên nhà
trên thay dĩa trái cây trên bàn thờ thấy chú ngồi
dưới gạch, tay cầm miếng giẻ lau mấy cái chưn tủ,
tay chú kéo qua kéo lại mà mắt nhắm hít, cái đầu
gục lên gục xuống. Hổng thức khuya sao chú ngủ gục?

Chú tám cười xòa:

- Thôi tao sợ cái miệng bây luôn!

Mợ Tư Tâm tuy la con Ni chằn chằn, mợ chỉ sợ nó lỡ
dại ôm cái bầu, nhưng trong thâm tâm mợ cũng muốn tác
hợp cho hai đứa nó sau này.

Trong thời gian gặt lúa, người nào cũng bận rộn từ
hừng đông tới tối mịt. Làm không hở tay nên sau bữa
cơm là lăn ra ngủ, không còn biết trời đất gì ráọ
Mợ Tư vác cái bụng bầu tròn vo đi tới đi lui cả ngày,
tới tối có khi hai bàn chưn sưng vù, mệt đứt hơi.
Leo lên giường là mợ đánh một giấc no nê tới gà
gáy canh một. Cậu Tư lấy cớ không muốn phá giấc
ngủ của mợ nên tạm thời di tản lên ngủ nhà trên, cạnh
phòng ông Cả (phòng cậu mợ ở nhà ngang, nhà dưới cho
người làm và nhà bếp). Mợ lệch bệch xuống nhà
dưới, kêu con Ni dậy nhúm lửa nấu bữa sáng cho cả
nhà và đám thợ gặt ăn dằn bụng.

Cậu Tư ngoài việc làng cũng lăng xăng ra đồng đôn
đốc mọi ngườị Tối tối sau bữa cơm cậu cũng tham
gia ăn chè với đám thợ gặt. Tài kể chuyện tiếu
lâm của cậu được tán thưởng nhiệt liệt. Riêng lũ
con trai mới lớn, còn khờ khạo về mục trai gái, được
cậu ban cho những lời khuyên rất bổ ích!

Mùa gặt qua. Giạ lúa cuối cùng cũng đã được cho
vô bồ. Ðám thợ gặt sau khi lãnh tiền công hậu hỉ,
ai về xứ nấy, trả lại sự yên tĩnh cho gia đình ông
bà Cả. Nghỉ ngơi vài ngày mọi người sẽ bắt tay vào
mục bánh mứt, lo cho cái Tết sắp đến...

Bữa nay trăng tròn vành vạnh, đổ xuống vạn vật một
thứ ánh sáng trong như thủy tinh, êm mát như nhung lụa.
Cơm tối xong, cậu tư Tâm nói với mợ rằng cậu phải
lại nhà ông Hương sư Mậu họp, chắc về trễ. Chuyện
cậu Tư đi chơi sau bữa cơm tối là thường, nên mợ
cũng không cần thắc mắc. Mợ chỉ nhắc cậu như thường
lệ:

- Mình nhớ đừng nhậu nhẹt quá chén, rủi về dọc
đường té bờ té bụi không ai hay rồi mang họa.

Cậu Tư trấn an vợ:

- Anh biết rồi. Mình cứ yên tâm ngủ ngon. Ðừng lo,
anh họp chút xíu về liền.

Ðang ngủ say, mợ Tư chợt giựt mình tỉnh dậy, vì hình
như có ai đang khều. Ðịnh hồn nhìn kỹ té ra con Ni.
Mợ định mở miệng hỏi thì nó ra hiệu biểu đừng
lên tiếng, rồi kề tai nói thì thào:

- Cô Sáu (con nhỏ kêu theo thứ của mợ Tâm lúc còn con
gái) theo con xuống nhà dưới liền. Dượng Sáu đang ở
trong buồng chị Hà.

Nghe tới đây mợ Tư bật dậy như bị điện giựt.
Miệng há hốc nói không nên lời. Con Ni thì thào tiếp:

- Hồi nảy con thức dậy đi tiểu. Ngang buồng chị Hà
nghe có tiếng nói chuyện nho nhỏ. Con tưởng anh Ban nên
áp tai vô vách lắng nghe. Té ra tiếng của dượng Sáu.
con lật đật lên kêu cô. Cô nhớ đừng để cho
dượng biết là con cho cô hay, không thì chết con đó.

Mợ Tư nói thôi mầy về buồng trước đi rồi tao
xuống. Nhưng trước khi xuống, mợ cầm cái đèn trứng
vịt đi kiếm cây chổi lông gà. Mợ nhè nhẹ mở cửa
buồng rồi bất thần vén mùng lên. Chu mẹt ơi, dưới
ánh trăng sáng lồng lộng từ cửa sổ hắt vô, bộ
ngực trần của cô Hà trắng nhễ nhại. Lại còn gối
đầu trên cánh tay cậu Tư, mái tóc huyền xổ tung coi
mười phần gợi cảm. Máu ghen tràn ứ cổ, mợ Tư tay
vừa quất túi bụi, miệng rít lên:

- Ðồ gian phu dâm phụ. Dám dở trò khốn nạn trong nhà
này. Cho mấy người giỏi hú hí nè...

Cậu Tư vừa đỡ đòn cho tình nhân, vừa nhảy xuống
giường, a lại ôm mợ Tư cứng ngắt:

- Thôi mà mình... Thôi mà mình...

Rồi quay qua phía cô Hà đang ngồi chết trân trong góc
giường, tay kéo hai vạt áo cố che bộ ngực trần đang
phập phồng vì quá sợ hãi! Cậu la lên:

- Trời ơi chạy lẹ đi. Còn ngồi đó làm chi nữa!

Cô ta như chợt tỉnh, phóng xuống giường, chạy một
mạch ra cửa sau rồi biến dạng trong đêm tối. Bây
giờ con Ni mới lò dò bước vô, làm như mới vừa
thức giấc. Lúc đó cậu Tư mới dám buông mợ ra. Mợ
bật lên khóc nức nở. Kể lể bù lu bù loa, mắng
cậu lòng lang dạ sói, mặt người lòng thú v.v. và v.v...

Cậu không ngớt vuốt ve năn nỉ. Nhưng cậu càng nói mợ
càng sôi máu la lớn thêm. Trên nhà ông bà Cả nghe ồn
ào cũng lật đật xuống coi có chuyện gì. Chừng nghe
mợ Tư kể đầu đuôi, ông Cả nổi tam bành, kêu cậu
Tư theo ông lên nhà trên "làm việc"! Bà Cả ở lại
khuyên nhủ mợ Tư. Khuyên một hồi mà thấy con dâu
cứ "ngoan cố" khóc lóc mãi, bà đâm bực mình, phán
cho một câu xanh dờn:

- Ối bây khóc chi cho mệt. Ðàn ông dù năm thê bảy
thiếp cũng có hao mòn gì đâu mà sợ? Nó chơi chán
rồi cũng mò dìa với vợ cái con cột. Bây lo cái gì
chớ? Ni đâu, dẫn cô mầy lên phòng nghỉ.

Mợ Tư đang khóc nỉ non chợt nín ngang vì quá đổi
ngạc nhiên! Mợ có sợ hao mòn cái gì đâu chớ? Bằng
cớ là những lần mèo chuột trước, mợ chỉ to nhỏ
với cậu trong phòng ngủ của hai vợ chồng mà thôi.
Nhưng lần này cậu quá quắt, dám dắt nhân tình về
tận nhà gạt mợ. Vậy cậu còn coi mợ ra cái thể
thống gì nữa chớ?! Tội lỗi đã sờ sờ ra đó mà
bà già còn binh! Mợ. ấm ức không nói không rằng,
đi một nước lên nhà ngang, vô buồng đóng chặt
cửa... khóc tiếp. Gần sáng mệt quá mới thiếp
đi...

Sáng hôm sau mợ sai con Ni tom góp mớ quần áo của con
"dâm phụ" (tối hôm qua ăn chổi lông gà, sợ quá bỏ
của chạy lấy người!) đưa cho mợ. Cầm bọc quần áo,
mợ Tư hầm hầm đi tới nhà cô hai Trâm. Bà này đoán
biết thế nào giông tố cũng tới, nên đã sẵn sàng
trong tư thế... ứng chiến. Mợ Tư liệng bọc đồ cái
bịch xuống chiếc chõng tre, rồi đưa cặp mắt toé lửa
nhìn cô hai:

- Sao chị dám dẫn con quỉ cái đó tới gạt tui? Tui làm
mích lòng chị chuyện gì mà chị nỡ nhẫn tâm hại tui
như vậy, chị nói đi.

Cô hai Trâm chấp tay năn nỉ, giọng đầy nước mắt:

- Tại cậu Tư dẫn cổ tới nhờ tui nói vậy, chớ có
ăn gan trời tui cũng hổng dám tự ý gạt mợ đâu. Bị
mang ơn cậu mấy lần giúp tiền đóng giấy thuế thân
cho ông nhà tui nên thiệt khó lòng từ chối đó mợ.
Mợ mở lượng hải hà tha lỗi cho tui lần này, tui thề
không bao giờ dám tái phạm...

Cô hai nói tới đây bèn đưa chéo khăn rằn đỏ (dùng
để lau cổ trầu) lên chặm chặm cặp mắt đỏ hoe.

Mợ Tư đã mềm lòng, nhưng còn cố gằn giọng:

- Bây giờ chị dấu con quỉ cái đó ở đâu?

Cô hai Trâm lật đật nói:

- Chèn ơi, tối hôm qua khuya lơ khuya lắc nó tới đây
đập cửa. Tui thấy điệu bộ hớt hơ hớt hãi của
nó là biết chuyện đã đổ bể. Sáng nay gà mới gáy
canh một là tui đã kêu ông nhà tui lấy xuồng chở nó
xuống chợ Cao Lãnh rồi. Ứ hự, thiệt khi không lãnh
nợ giữa đường!!!

Biết nói thêm cũng vô ích, mợ Tư ra về, lòng nặng
trĩu ưu phiền. Mợ không hiểu sao ông Tơ, bà Nguyệt
cắc cớ gì mà xe duyên cho mợ với một ông chồng quá
đỗi bay bướm như vậy? Mà ngặt nỗi với cái miệng
dẻo quẹo như kẹo mạch nha, ngọt như đường phèn cộng
với cái tài nịnh hót thần sầu của cậu, mợ không
thể nào giận lâu được! Tuy lần nào phạm lỗi cậu
cũng thề nặng:

- Anh mà tái phạm cho Bà Chúa Xứ vật anh hộc máu, chết
không nhắm mắt, không toàn thây... v.v...

Mợ đâu có muốn cậu chết... yểu, bỏ mợ bơ vơ một
mình, nên lật đật bịt miệng cậu lại, rồi nói giọng
yếu xìu:

- Thôi mình đã biết lỗi em tha. Từ đây nhớ đừng
làm em giận nữa đó.

Dĩ nhiên là cậu đưa cả hai tay lên trời thề một cách
rất chân thành, rất tha thiết. Nhưng một thời gian sau,
cậu lại quên mầt lời thề độc (có gì lạ? một nhà
tư tưởng lớn, sau nhiều năm "nghiên kíu" đã đi đến
kết luận: loài người là một giống rất mau quên!).
Cậu vẫn thường diễu với bạn bè:

- Tui là một phật tử thuần thành mà. Ðức Phật dạy
chúng ta phải thương người như thể thương thân. Ai
thương mình mình không thương lại ắt... mang tội lớn!

Mợ Tư thở dài não nuột. Trong thâm tâm mợ biết cái
màn bi hài kịch trên sẽ lại tái diễn và sẽ còn tái diễn
dài dài. Cũng bởi: một là mợ thương quá là thương
cái tên chồng mất nết đó, hai nữa cái chuyện con gái
lộn nài bẻ ống, bỏ chồng về nhà cha mẹ ruột coi...
hổng có đặng! Cho tá túc vài ngày rồi cha mẹ mợ cũng
sẽ xỏ mũi cô con gái "dẫn độ" về trả lại bên chồng,
kèm theo một núi quà cáp. Chưa kể cái màn háy nguýt của
bà mẹ chồng cũng... nhức nhối lắm lắm! Ðối với bà
Cả, đàn ông năm thê bảy thiếp là thường. Hồi xưa bà
đã từng phải chấp nhận vài đứa con ngoại hôn của ông
Cả. Rồi có chết ai đâu??? Hy vọng một ngày nào đó,
cậu mỏi gối chồn chân, chán cái mục trăng hoa, quay về
với mợ vĩnh viễn. Ôi thân gái mười hai bến nước.
Mợ lỡ rơi vào bến đục thì đành chấp nhận thương
đau! Má ruột mợ đã từng khuyên:

- Ðàn ông năm bảy lá gan. Lá ở cùng vợ lá toan cùng
ngườị..

Thôi con ráng ngọt ngào với nó. Làm dữ quá nó chán, bỏ
đi luôn thì mất cả chì lẫn chài!

Suy nghĩ lan man về tới nhà hồi nào hổng hay. Y như mợ
dự đoán, vừa bước vô buồng là cậu Tư đã a thần
phù ôm mợ vô lòng, miệng mở máy:

- Mình ơi cho anh xin lỗi. Tía la anh một trận kinh thiên
động địa rồi. Anh hối hận lắm. Anh thề với mình
nếu tái phạm...

Mới nghe tới cái điệp khúc này, mợ Tư vội vàng bịt
miệng cậu:

- Thôi làm ơn tắt dùm cái dĩa hát rè này đi. Tui thuộc
lòng hết bài bản của mấy người rồi! Nhiêu đó đồ đi
đồ lại hoài bộ hổng chán hả?

Cậu Tư cười mơn:

- Vậy mình tha lỗi cho anh nghe mình. Anh hứa từ nay...

Mợ Tư thở dài đánh sượt, tỏ dấu chán nản tới cùng
cực:

- Làm ơn đừng thề cũng đừng hứa. Tui không muốn bán
lúa giống đâu!

Mợ cố vùng ra khỏi lòng cậu. Nhưng phần cái bụng lớn
cồng kềnh, khó xoay trở, phần đôi tay rắn chắc của
cậu cứ nhứt định ôm mợ khít rịt, mợ không tài nào
thoát ra được. Rồi những lời rủ rỉ rù rì bên tai,
cùng với những nụ hôn, những mơn trớn đầy kinh nghiệm
của cậu khiến mợ Tư dần dần cảm thấy từ tâm hồn
tới thể xác mềm dần... mềm dần và cuối cùng, một
lần nữa mợ lại thua một cách thảm hại trước ông
chồng có tới năm bảy lá gan này! Mợ khép hờ đôi mi,
thở ra: Cũng tại kiếp trước mình tu quá lố!!!

PC
#7 Posted : Monday, March 8, 2010 7:18:30 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
MÙA XUÂN TRÊN CAO





TIỂU THU



Chiếc máy bay của hãng American Airlines đáp xuống phi trường Nội Bài êm ru. Hành khách nhộn nhịp đứng lên lấy hành lý xách tay từ trên những khoang chứa hành lý trên đầu. Thư đợi mọi người xuống gần hết, nàng mới từ từ đứng lên. Đi đâu mà vội. Rồi cũng phải ra chờ lấy valises mà thôi. Đường nào cũng tới La Mã mà.

Tính Thư vẫn không thay đổi. Lúc nào và làm gì cũng chậm rãi. Hồi còn đi học, nàng đã từng bị đám bạn gán cho cái biệt danh tiểu thư. Sau mấy chục năm định cư ở Canada, những cô bạn học ngày xửa ngày xưa, mỗi lần gọi phôn, vẫn mở đầu: "tiểu thư đó hả?".

Thư về thăm Việt Nam lần này là lần thứ ba. Hai lần trước nàng về Sài Gòn. Nhưng lần này, Thư ra Hà Nội trước rồi mới lấy vé máy bay vào Sài Gòn sau. Nàng thay mặt mẹ về thăm bà dì ở Hà Nội. Năm năm tư, gia đình dì không vào Nam vì tiếc cơ ngơi quá lớn ở Hà Nội. Gia đình bên chồng dì giàu có nhất nhì Hà Nội thời bấy giờ. Bố mẹ Thư dẫn anh chị nàng vào Nam và Thư chào đời trong Nam. Lần đầu tiên ra Hà Nội, Thư không ăn được thức ăn ngoài ấy vì đã quen cái gu ngòn ngọt của miền Nam. Tất cả những món lừng danh của Hà Nội như Chả cá Lã Vọng, bánh tôm chiên Tây Hồ, Bún chả...Thư đều thấy không ngon như trong tưởng tượng. Chỉ mê nhất là thong thả đi dạo quanh Hồ Gươm, vào những buổi sáng sớm. Đẹp như trong tranh.



Dì Thư ở Phố Hàng Bạc. Căn phố rộng bát ngát ngày xưa, sau năm năm tư đã bị chia ra từng mảnh. Cả gia đình bà dì còn được ở trong một căn nhà tuốt đằng sau, vốn là nhà thờ họ. Muốn đi vào phải đi qua một hành lang hẹp, sâu hun hút, lờ mờ tối. Bà dì tâm sự: "cũng còn may đấy cháu ạ. Chú dì bị ghép vào thành phần tiểu tư sản. Họ đã hành hạ chú dì khổ sở, đau đớn biết sao mà kể! Nhà cửa mình họ lấy sạch. Mình đã phải bị bắt đi làm những công việc cực nhọc nhất. Thế mà suốt ngày cứ phải nghe những lời sỉ vả của bọn sâu bọ lên làm người mới là khổ! Cháu nghĩ xem, chú là công tử Hà Nội, quen ăn ngon mặc đẹp, kẻ hầu người hạ. Thế mà đùng một cái...Bảo chú làm sao đối phó được? Thế là dì phải cáng đáng tất cả!"

Tội nghiệp dì. Bà đẹp nhất trong gia đình nên lấy được chú là công tử giàu nức tiếng Hà Nội. Sau cuộc đổi đời, chìm đắm trong cái địa ngục trần gian, dì Thư cũng ráng tảo tần nuôi chồng con và giờ đây con cái cũng đã yên bề gia thất. Gặp lại dì cách đây ba năm, Thư đã sửng sốt vì thấy dì dù ở tuổi bảy sáu, vẫn còn đẹp lắm. Làn da trắng hồng không một nếp nhăn. Cặp mắt bồ câu vẫn tinh anh. Nụ cười tươi khoe hàm răng đều và còn nguyên. Mái tóc tuy bạc khá nhiều nhưng còn dầy lắm. Nghe Thư khen, dì bảo:

- Cháu không biết chứ ngày xưa tóc dì dài chấm gót!".

Hai cô con gái không cô nào đẹp bằng dì. Tuy nhiên tính tình rất dễ thương và đôn hậu.

Hai lần ra Hà Nội, lần nào Thư cũng ở khách sạn Bảo Khánh. Gần Hồ Gươm, đi bộ đến phố Hàng Bạc cũng không xa. Thư rất thích tản bộ trên những con đường ngắn ở Phố cổ. Nhưng phải công nhận ở đây, đi bộ rất nguy hiểm, vì cửa hàng nào cũng bày biện bít cả lề đường. Thậm chí nhiều nơi họ còn bày hàng lấn ra cả lòng đường. Người đi bộ cứ phải chen chúc, vừa đi vừa tránh xe sát bên cạnh. Lắm phen hú vía! Lần đầu Thư từ Sài Gòn ra Hà Nội với Nhung, cô bạn thời Trung Học. Nhung cảnh cáo: "mày cẩn thận. Dân ngoài này gấu hơn trong Nam nhiều. Lạng quạng là bị mắng như tát nước vào mặt. Mà với những danh từ không có trong tự điển đâu nghe tiểu thư!". Quả thực, nghe nhiều tiếng lạ lẫm khiến Thư ngẩn tò te! May mà gia đình dì vẫn còn nói giọng Hà Nội xưa và các em được giáo dục rất nề nếp khiến Thư thấy gần gũi ngay.

Lần này, sau khi mang quà cáp đến biếu gia đình dì xong, Nhung và Thư ra văn phòng của hãng du lịch Sinh Café lấy tours đi Vịnh Hạ Long. Nhung đi nhiều lần nên thấy thường, duy Thư thì rất háo hức. Đọc bao nhiêu tài liệu, xem bao nhiêu là hình ảnh về hai thắng cảnh lừng danh này, Thư rất nôn nao được nhìn thấy tận mắt. Hôm qua, Nhung đi máy bay từ Sài Gòn ra để đi chơi với Thư.

Con đường từ Hà Nội ra tới Vịnh Hạ Long rất tốt. Không như cách đây chục năm. Chị Hằng của Thư ra thăm dì cũng đi chơi Hạ Long. Chị tả con đường đang làm cực kỳ xấu. Bụi đỏ bay mù mịt. Ổ gà ổ voi đầy ra, khiến chị về đến Hà Nội mà mình mẩy rêm như bị tra tấn!

Lần này Nhung và Thư ngủ lại đêm trên du thuyền. Hai người được đưa lên một chiếc du thuyền cỡ trung bình. Tầng trên là chỗ du khách ngồi ngắm phong cảnh. Phía sau là quầy bán nước uống. Tầng dưới gồm có hai dãy cabin, có lối đi ở giữa. Mỗi cabin có hai giường nhỏ, toilette và douche. Vách ốp gỗ trông cũng khá sang trọng và sạch sẽ. Trên mui có hai dãy ghế dài cho du khách nằm chơi. Ngắm cảnh và tắm nắng. May mà lần này chỉ có vỏn vẹn mười lăm du khách, kể cả người ngoại quốc.




Thư ngây ngất trước vẻ đẹp hùng vĩ của Hạ Long. Nước ở đây xanh một màu ngọc bích. Những hòn núi đá nhô lên từ lòng biển, thiên hình vạn trạng ẩn hiện đó đây. Đậm nhạt, mơ hồ, đẹp kỳ diệu như trong tranh vẽ. Thuyền đi len lỏi giữa những hình thể tuyệt đẹp và du khách tha hồ tưởng tượng. Đây là hai con gà, kia là con voi..vv.... Rải rác trên biển là những bè nuôi ngọc trai. Những căn nhà nổi bên trên được sơn màu sắc tươi rói, xem thật vui mắt. Nhiều chiếc xuồng con con của người dân sống dọc bên bờ biển chở đủ thứ bánh kẹo, chips, nước uống... cặp theo du thuyền để bán cho du khách. Họ chèo thoăn thoắt từ chổ nọ sang chỗ kia như những con thoi.

Sau nửa ngày leo núi để thăm hang động, mọi người vừa mệt vừa đói nên dùng cơm tối thật ngon miệng. Những người phục vụ còn rất trẻ. Hỏi ra Thư mới biết họ là những sinh viên đại học. Cuối tuần đi phục vụ trên du thuyền để kiếm thêm tiền. Ngay cả đầu bếp cũng là sinh viên. Thông cảm cho hoàn cảnh của họ nên khi rời du thuyền, Thư đã kín đáo để lại món tiền típ khá hậu hĩnh. Nàng cũng mua giúp cho cô bé bán ngọc trai một đôi bông tòng teng thật xinh. Đến chiều, Thuyền trưởng cho neo tàu trong lòng vịnh kín đáo. Có những hòn núi nhỏ bao bọc chung quanh. Cơm nước xong màn đêm đã buông xuống. Nhung và Thư mặc áo thật ấm lên mui tàu. Chung quanh du thuyền của Thư còn có khoảng chục chiếc khác đậu rải rác khắp nơi. Nhiều chiếc có đôi cánh buồm màu đỏ khiến Thư nhớ tới phim L'Indochine, với nữ tài tử Pháp lừng danh Catherine Deneuve.

Đèn từ những chiếc du thuyền hắt xuống mặt nước đẹp lung linh như sao sa. Những hòn núi chung quanh chỉ còn là những hình thù màu đen. Nhiều cái trông giống như những con khủng long thời tiền sử. Thư nói điều này với Nhung, cô bạn cười:

- Mày chỉ khéo tưởng tượng. Ừ, mà nếu là thật, chắc tụi mình không chạy thoát. Nó chỉ há miệng là nuốt chửng chiếc du thuyền!". Hai cô cười khúc khích trước cái ý tưởng kỳ quái này!

Sương bắt đầu xuống. Nhung vươn vai ngáp:

- Tao buồn ngủ rồi. Xin lỗi xuống trước nha.

Còn lại một mình, Thư dõi mắt nhìn ra xa, trong lòng đầy xúc cảm. Tự hỏi không biết hồn thiêng của những người lính chống giặc Tàu xâm lược nghìn xưa có còn lẩn khuất nơi đây?...

Sương xuống nhiều, trời lạnh dần nên Thư xuống cabin sửa soạn đi ngủ. Chiếc giường nhỏ khiến Thư trằn trọc không ngon giấc. Nhìn đồng hồ thấy 5 giờ sáng, Thư nhè nhẹ ngồi dậy mặc hai ba lớp áo rồi lên mui tàu. Trời còn tối mờ mờ, sao trên bầu trời đã nhạt dần. Đèn của những du thuyền chung quanh vẫn còn sáng lấp lánh. Có tiếng cười khúc khích từ chiếc du thuyền đậu sát bên cạnh. Thư đưa mắt nhìn sang. Một cặp vợ chồng (hay tình nhân?) người da trắng ngồi chung một chiếc ghế, quấn chung một tấm chăn ấm. Thấy Thư nhìn sang, họ giơ tay chào. Thư cũng cười, chào lại. Nàng cảm thấy tâm hồn thư thái lạ lùng. Thư ngồi đó, lặng yên, không nghĩ ngợi đến bất cứ điều gì. Cõi lòng rộng mở, đón một thứ hạnh phúc thật đơn sơ, thật nhẹ nhàng đang tràn ngập. Một điều hiếm xoi xảy ra khi ta sống giữa sự ồn ào của chốn đô hội.

Đáng tiếc là tàu đậu không đúng hướng mặt trời mọc, nên Thư không được ngắm nhìn cảnh tượng huy hoàng của vừng đông chui từ từ dưới mặt biển lên, ném hàng vạn tia sáng rực rỡ lên mặt biển. Điều mà nàng đã từng chứng kiến ở bờ biển Nha Trang ngày nào! Những người bạn đồng hành từ từ bước lên mui tàu. Người nào cũng khoan khoái hít thở đầy phổi không khí trong lành của buổi ban mai.

Thư rời Hạ Long với nỗi luyến tiếc trong lòng. Thầm hứa một ngày nào đó sẽ quay trở lại. Đêm Hạ Long vừa huyền bí vừa kỳ diệu!



Chặng thứ nhì của Nhung và Thư là thăm Sapa. Nhưng không may trước ngày lên đường, Nhung nhận được điện thoại của chồng từ Sài gòn gọi ra báo tin con gái bị sưng ruột thừa, phải vô nhà thương gấp. Thế là đôi bạn đành chia tay. Nhung đổi vé máy bay về Sài Gòn. Thư vẫn tiếp tục cuộc hành trình lên thành phố sương mù Sa Pa. Mới đầu Thư hơi ngại đi một mình, nhưng Nhung bảo trong đoàn có mười người, sợ gì.

Tám giờ rưởi tối xe lửa bắt đầu chạy. Thư nằm chung toa với ba mẹ con bà Hân từ Pháp về. Bà mẹ ngoài năm mươi, nhưng trông trẻ và sang. Hai cô con gái sinh đôi Aline và Alice giống hệt nhau. Cả hai đều mới hai mươi bốn tuổi. Vừa tốt nghiệp Đại học. Mẹ thưởng một chuyến du lịch về Việt Nam trước khi đi làm. Bà Hân và Thư nằm giường dưới. Hai cô nằm 2 giường trên. Ba người thấy Thư mở chiếc túi ngủ màu tím may bằng tơ chui vào, thì cứ suýt soa khen đẹp rồi hỏi Thư mua ở đâu? Thư trả lời:

- Ở phố gần Nhà Thờ Chính Tòa. Chỉ có ba đô la. Bạn tôi nói nằm trong túi ngủ này vừa sạch vừa ấm. Biết đâu được chiếc mền này họ có đem giặt sạch sẽ sau mỗi chuyến đi hay không?

Aline và Alice nghe Thư nói, bất giác rú lên, hất tung chiếc mền đang đắp trên người. Bà Hân mắng yêu:

- Hai con bé này! Tồng ngồng cái đầu rồi mà cứ như con nít! Trời lạnh không đắp chăn, nhỡ bị cảm khỏi đi chơi.

Thư cười rồi chúc mọi người ngủ ngon. Nhịp tàu xình xịch đều đều kéo Thư đi vào giấc ngủ nhanh chóng. Khi nàng giật mình thức dậy thì bên ngoài trời còn tối lắm. Ba mẹ con bà Hân vẫn ngủ ngon lành. Nằm một hồi không ngủ lại được, Thư khe khẽ ngồi dậy, vén màn nhìn ra ngoài. Tàu lên dốc nên chạy với tốc độ rất chậm. Nhiều nơi, Thư có cảm giác mình chỉ đưa tay ra ngoài là chạm phải cây cối lờ mờ ở hai bên đường. Thỉnh thoảng mới thấy một căn nhà với ánh đèn khuya leo lét. Phần nhiều có lẽ là nhà của người thiểu số. Nhìn đồng hồ thấy bốn giờ sáng. Hình như năm giờ mới tới Lào Cai. Thư nhẹ nhàng lấy túi đồ làm vệ sinh, rón rén mở cửa đi ra ngoài. Lúc nàng trở vào, bà Hân cũng vừa thức dậy. Bà nói "cô Thư thức sớm thế". Thư cười "Em ngủ được một giấc rất ngon cô ạ. Nhưng mình đi làm vệ sinh bây giờ còn vắng, sạch hơn". Bà Hân khen phải rồi cũng lấy túi đồ trang điểm, mở cửa đi ra ngoài.

Aline và Alice vẫn còn ngủ say sưa. Thư nhìn nét mặt hồn nhiên của Alice trong giấc ngủ, chợt nhớ tới mình lúc còn ở cái tuổi ăn chưa no, lo chưa tới này. Mới đó mà đã hai mươi năm! Biết bao nhiêu điều đã xảy ra. Cả vui lẫn buồn. Nhưng hình như buồn nhiều hơn vui! Bất giác Thư buông tiếng thở dài! Thư về đây, đi chơi với Nhung cốt để trốn nỗi cô đơn. Một cuộc hôn nhân thất bại. Lấy được chồng tử tế, những tưởng cuộc đời sẽ bình lặng mãi. Nhưng sau hai lần hư thai, cả hai đành chia tay. Gia đình Dư chỉ có chàng là con trai. Họ muốn có cháu nối dõi tông đường. Dù Dư vẫn còn yêu Thư, nhưng nàng chịu không nổi những lời chì chiết của mẹ chồng. Thôi thì đành trả tự do lại cho Dư. Để chàng làm tròn chữ hiếu với gia đình. Hai năm đã trôi qua. Cũng có những lời ong bướm vo ve, nhưng Thư đã chán ngán. Một mối tình không trọn vẹn lúc còn thơ ngây và một cuộc hôn nhân thất bại khiến nàng trở nên lạnh nhạt với tất cả những gì gắn liền với hai chữ tình yêu! Trời ơi, buồn cái là nàng mới vừa bước qua ngưỡng cửa của tuổi bốn mươi!

Bây giờ sống thui thủi một mình trong một thành phố nhỏ, cách Montrél hai tiếng lái xe. Trong tuần đi làm, cuối tuần có khi về thăm mẹ và chị. Sau khi bố mất, mẹ Thư về ở chung với chị gái của Thư. Nghỉ hè đi du lịch đó đây. Năm nay Thư lấy ngày nghỉ về Việt Nam và quyết định đi thăm Hạ Long và Sapa cho biết. Nàng mê thành phố mù sương của vùng Tây Bắc và vịnh Hạ Long qua những hình ảnh xem trên internet. Sapa có cái gì đó rất gần gũi với thành phố sương mù Đà lạt của những ngày xưa thân ái. Lòng không muốn khơi dậy nỗi đau của quá khứ nên Thư chưa dám đặt chân trở lại nơi đầy ắp kỷ niệm xưa. Nàng nhất quyết vùi sâu chôn chặt. Nhưng oái oăm, càng muốn dìm, muốn quên, nó lại cứ chực trào lên như sóng biển tràn bờ! Nhất là giờ đây sống một mình, có những đêm dài trằn trọc, dù không muốn, kỷ niệm xưa vẫn ám ảnh không nguôi. Hai tiếng "tiểu thư" từ miệng người ấy sao mà êm ái, ngọt ngào!

Tiếng bà Hân gọi hai cô con gái thức dậy đã kéo Thư về thực tại. Nàng nhìn ra ngoài cửa. Xa xa có nhiều ánh điện nhấp nháy. Thư đoán có lẽ là thành phố Lào Cai. Xem thì tưởng gần, nhưng tàu ì ạch cả gần cả tiếng đồng hồ mới tới ga. Mọi người lục tục xuống tàu. Sương mù còn dày đặc, hơi lạnh khiến Thư rùng mình. Giá bây giờ mà có một ly cà phê sữa thật nóng thì tuyệt quá. Thư nói và bà Hân cũng đồng tình:

- Ừ nhỉ! Tôi cũng thèm ly cà phê nóng quá đi mất. Sáng thức dậy không có cà phê, người mình cứ làm sao ấy cô Thư ạ. Tôi không ngờ trên này vẫn còn lạnh đến thế!

Có người cầm tấm cạt tông mang tên khách sạn Gold Sea bước tới tập trung tất cả những người sẽ ở khách sạn này. Chiếc xe hăm bốn chỗ đưa mười hành khách và hành lý lên đường ngay. Vì ngủ chung toa tàu, giờ đây Thư trở nên thân với mẹ con bà Hân. Đường lên thị trấn Sapa ngoằn ngèo như ruột gà. Những cua gắt cánh chỏ khiến du khách thót ruột vì sợ, nhưng chú tài xế thì vẫn bình thản như không. Mỗi ngày anh ta lên xuống vài lượt, nên những con đường này chú ấy rành như lòng bàn tay!

Mới rạng đông nên mây mù còn giăng khắp núi đồi. Nhà cửa hai bên đường ẩn hiện trong màn sương như hư như thực. Trời mới đầu tháng hai nên còn lạnh lắm. Đến khách sạn vẫn còn sớm. Mọi người lấy phòng xong ới nhau xuống phòng ăn để ăn điểm tâm. Thư ngồi chung bàn với ba mẹ con bà Hân. Những cô tiếp viên rất trẻ và dễ thương. Họ nói năng lễ độ và tươi cười, không giống dưới Hà Nội. Ăn điểm tâm xong lại tập họp để nghe chương trình đi viếng Sapa. Hôm nay đi thăm suối Cát Cát. Về khách sạn ăn trưa. Nghỉ ngơi, buổi chiều đi chợ Sapa. Hướng dẫn viên tên Luân là một chàng tuổi trẻ. Mới hai mươi và là người Hà Nội. Chương trình ngày mai đi thăm vườn lan và núi Hàm Rồng...

Luân nói:

- Các cô chú thật may mắn. Tin dự báo thời tiết nói tuần này trời đẹp lắm. Giờ còn sương mù, nhưng buổi trưa mặt trời lên sẽ đẹp và ấm. Tuy nhiên xin quý vị nhớ mang theo áo lạnh nhé.

Mọi người vui vẻ lên đường. Trước cửa khách sạn, bên kia đường là một hàng tre thật cao. Thân mập tròn màu xanh đậm, thẳng tắp và lá rất to lại không có gai. Chẳng giống tre miền Nam tí nào. Nghe Thư nói, Luân cười bảo:

- Thưa cô đây là cây bương. Bương khác cây tre dưới đồng bằng, tuy rằng chúng có họ hàng với nhau. Trên này người ta dùng cây bương để làm nhà, làm ống dẫn nước. Họ còn dùng lá bương để gói bánh nữa cô ạ.













Trên đường "xuống" suối Cát Cát phải đi qua một bản làng người H'Mông. Nói xuống, vì thị trấn nằm trên cao, con suối ở tít dưới thung lũng. Sương mù làm đất ướt khá trơn trợt. Trời lạnh khoảng 10o C. Những đứa trẻ H'Mông ăn mặc phong phanh, mặt mũi lem luốt, chỉ một số ít có mang giày dép và quần áo lành lặn. Nhìn những chiếc áo len rách te tua không đủ ấm và những bàn chân trần tím tái vì lạnh, Thư cảm thấy xót xa vô cùng. Ông Trời sao bất công. Vợ chồng nàng mong mỏi đến tuyệt vọng một đứa con mà không được. Đến nỗi phải keo rã hồ tan. Nơi đây họ sinh hàng đàn rồi mặc kệ. Chúng cứ thế mà sống, mà lớn lên như cây, như cỏ dại trong rừng! Những đứa trẻ năm, sáu tuổi đeo dính theo đoàn du lịch. Nài nỉ bán những dây đeo tay bằng chỉ xanh đỏ, những chiếc ví con con thêu tay. Thư cầm lòng không nổi, mua dùm cho chúng nó. Luân cười nói "nếu ai cũng như cô Thư, chắc mấy đứa trẻ này sẽ giàu to!". Thư nhớ tới mấy cậu công tử, tiểu thư của các ngài cán bộ, các đại gia xài tiền như rác, mà không khỏi đau lòng cho những đứa trẻ bất hạnh này! Cũng là con người. Vậy Thượng Đế có công bằng không?



Suối Cát Cát quả là đẹp. Giòng nước từ trên cao đổ xuống lòng suối như một tấm lụa trắng. Rồi chảy rì rào, len lỏi qua những tảng đá to. Những tảng đá thiên hình vạn trạng. Có hòn trông giống như một con hải sư. Thư nhờ người chụp cho nàng và mẹ con bà Hân vài tấm ảnh kỷ niệm. Aline và Alice cũng bấm máy lia lịa. Hai cô bé này nói cười luôn miệng vì thấy cái gì cũng lạ, cũng hay. Nhìn lên triền núi cao, hoa lê, hoa mận nở trắng xóa. Đó đây những cành đào cũng thi nhau khoe sắc hồng rực rỡ. Luân chỉ lên đỉnh núi:

- Thưa các các cô chú, trên đỉnh núi có một loại cây trà gọi là trà tuyết. Mùa đông những đỉnh núi này thường có tuyết phủ. Người dân tộc leo lên đó hái lá trà xuống rất vất vả. Vì thế trà tuyết rất ngon và rất đắt. Khi về, các cô chú nhớ mua làm quà nhé.

Đoàn du lịch trở về khách sạn bằng ngả khác và thay vì đi xuống, giờ đây mọi người phải ì ạch leo dốc đi lên! Con đường độc đạo nhỏ xíu, ôm vòng theo triền núi. Hai bên đường hoa dại nở tưng bừng, đẹp như một bức tranh thêu. Có một loại cây lá rất xanh, hoa tím tuyệt đẹp. Thư tò mò hỏi tên và Luân nói đó là hoa của cây Chàm (indigo). Người dân tộc vùng cao dùng lá của loại cây này để nhuộm vải may quần áo. Thảo nào lúc đi ngang qua nhà của người H'Mông, thấy sân nhà nào cũng phất phơ những tấm vải nhuộm màu chàm xanh đậm.

Sau khi qua một chiếc cầu nho nhỏ bắc ngang thung lũng, nhiều người, trong đó có bà Hân, đã chọn con đường khỏe nhất để về khách sạn: leo lên những chiếc xe ôm đang đậu chờ sẵn ở đầu cầu! Nhưng Thư và Aline, Alice tiếp tục đi bộ suốt quãng đường còn lại. Luân và ba chị em cứ tiếp tục đi lên. Con dốc bây giờ thoai thoải dễ đi và hai bên đường không có cây cối gì cả, chỉ thỉnh thoảng có một vài nếp nhà của người H'Mông và những con heo mọi thân hình đen sì, bụng ỏng xuống gần sát mặt đất trông rất buồn cười. Chúng tha thẩn gặm cỏ non hai bên đường.




Lên tới đỉnh đồi (hay núi Thư cũng không biết), một cảnh tượng hiện ra trước mắt, đẹp đến nỗi Thư phải ngẩn ngơ! Xa xa, những đám ruộng bậc thang xanh rì uốn luợn thật nhịp nhàng, yểu điệu. Điểm xuyết bởi những bản làng người Dao đỏ, trông xa nhỏ như đồ chơi của trẻ con. Mặt trời đã lên cao, tỏa hơi ấm dịu dàng. Trời xanh ngắt, không khí trong như pha lê. Dãy Hoàng Liên Sơn xa xa xanh một màu lam thẩm. Từng dải mây trắng lướt thướt vắt ngang. Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt tác. Ba người chụp không biết bao nhiêu là ảnh. Đến chừng Luân dục lên đường họ mới chịu tiếp tục đi. Thấy Thư cứ nức nở khen cảnh đẹp, Luân tâm sự:

- Cô và hai chị biết không, cách đây hai năm cháu thi rớt Đại Học. Buồn quá cháu theo một đứa bạn lên đây chơi. Không ngờ cảnh sắc tuyệt vời ở đây đã giữ chân cháu luôn từ đó đến giờ. Trở về Hà Nội, cháu không chịu nổi không khí ô nhiễm, ồn ào dưới đó. Vả lại cảnh bon chen dười đó khiến cháu...chóng mặt. Có lẽ cháu sẽ lập nghiệp luôn trên này. Cô thấy không, mùa xuân nơi đây đẹp như cảnh thiên thai!

- Thế thì xin chào ngài Lưu Nguyễn!

Luân ngơ ngác:

- Ngài Lưu Nguyễn nào thế Cô?

- Thì cái ông ngày xưa đi ngoạn cảnh. Bất ngờ gặp các nàng Tiên và nhập Thiên thai luôn, không thèm trở về trần gian nữa đó!

Vỡ lẽ, Luân và hai cô gái cười vang, thích thú. Từ đó hai cô gọi Luân là ông Lưu Nguyễn.






Bữa cơm trưa thật ngon miệng. Có lẽ chuyến leo núi đã vắt hết sức lực của mọi người! Thư không ngờ nơi này có người đầu bếp nấu ăn ngon như vậy. Những đĩa thức ăn lại còn được trang trí rất mỹ thuật. Dùng cơm xong, thay vì lên phòng nằm nghỉ như mọi người, Thư bước ra trước cửa khách sạn. Vừa thấy nàng, một đám đàn bà người Dao Đỏ, rất trẻ, đứng chực sẵn bên kia đường ùa sang. Họ vây lấy Thư và tranh nhau mời nàng mua hàng cho họ. Ai cũng muốn nhét vào tay Thư nào là túi xách thêu tay đủ màu, đủ cỡ. Nào là vòng bạc, áo gối thêu, mũ thêu...khiến nàng tối tăm mặt mũi, không biết đường nào mà rờ! Nhưng Thư cương quyết lắc đầu, nói còn ở chơi lâu, chưa vội mua hàng. Thế là các nàng Dao Đỏ đành thu hàng hóa lại, bỏ vào chiếc gùi mang sau lưng và quay ra "điều tra lý lịch" của Thư: nàng ở đâu tới, bao nhiêu tuổi, có chồng chưa?...Khi nghe Thư trả lời nàng bốn mươi hai tuổi mà...chưa chồng, thì cả bọn rú lên đầy vẻ kinh ngạc! Nơi đây con gái mười lăm, mười sáu tuổi là có chồng, có con rồi! Họ cứ suýt soa khen Thư trẻ, bảo rằng họ tưởng nàng mới hai mươi lăm! Nhìn khuôn mặt cháy nắng của những người phụ nữ Dao, Thư cũng đoán được nỗi cơ cực của họ. Nhưng lạ là không tìm thấy một nét u buồn nào trên những khuôn mặt chất phác này. Tất cả đều cười vui.

Thư khen bộ quần áo của họ đẹp quá. Một cô nói với Thư mỗi bộ phải thêu cả năm mới xong. Mỗi cô gái trước khi lấy chồng đều phải thêu hai bộ như thế. Ở tuổi mười hai là các cô đã bắt đầu chuẩn bị cho mình. Các cô phải tự tay trồng cây lanh, tiếp theo là đập cho tơi, se chỉ, rồi dệt thành vải. Người H'Mông thì nhuộm chàm. Sau đó may quần áo và khâu cuối cùng là thêu. Quần áo các cô gái H'Mông Hoa thêu sặc sỡ hơn của người H'Mông Đen. Ban sáng, đi qua bản H'Mông, Thư thấy những người đàn bà lớn tuổi ngồi túm tụm chung quanh một đống lửa, vừa sưởi ấm vừa thêu. Một hình ảnh vừa linh động vừa đẹp tuyệt vời!

Nhìn dáng điệu vui tươi của họ, đột nhiên Thư chạnh lòng khi nhớ đến một bài báo nàng đả đọc ở đâu đó. Tác giả ghi lại cái hủ tục quái ác của người Dao Đỏ. Thư đã thảng thốt, rụng rời khi biết rằng những người đàn ông Dao lấy vợ, có khi cô gái chỉ mới mười bốn, mười lăm. Cô gái về nhà chồng làm nương làm rẫy quần quật như trâu bò. Anh chồng thì suốt ngày tụ tập bạn bè uống rượu. Vài năm sau chán, muốn lấy vợ khác, anh ta chỉ việc rao bán cô vợ với một giá nào đó. Y như bán một con gà, một con lợn! Ác nghiệt là người vợ không có quyền phản đối! Có những người đàn bà bị rao bán như thế đến hai, ba lần! Trời ơi, cứ như là còn ở thời ăn lông ở lỗ! Giống hệt như thời kỳ nô lệ của những thế kỷ trước bên Âu Mỹ. Nhưng chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ Hai mươi mốt mà! Thư kêu thầm, lòng xốn xang thương cảm cho thân phận người phụ nữ Dao Đỏ!

Nói chuyện một lúc, Thư trở vào khách sạn chuẩn bị đi viếng chợ. Khách sạn cách chợ độ năm phút đi bộ. Phía dưới là hàng trái cây, rau cải và thịt cá. Nhìn rau cải tươi non thấy bắt thèm. Nơi đây hoa cũng đẹp, nhưng không đa dạng như Đà Lạt. Bên trên bán vải vóc, có một khu dành riêng cho người dân tộc buôn bán, đa số là người Dao Đỏ. Họ bán quần áo, túi, nón thêu và đồ trang sức bằng bạc. Những bà người Dao khi lấy chồng rồi, họ đội một thứ khăn màu đỏ làm bằng sợi, có những chùm ngù tròn như nắm tay trẻ con tòng teng coi rất đẹp mắt. Buồn cười là họ nhổ sạch tóc trước trán và cả lông mày! Trụi lủi trụi lơ!

Con đường chính của Thành phố khá rộng, tấp nập người đi lại. Một số là du khách, số còn lại là người dân tộc thiểu số. Họ cứ bám lấy du khách mời mua hàng. Có rất nhiều người Âu Mỹ. Hỏi ra họ thích Sapa vì nơi đây tương đối còn hoang dã. Nhưng được bao lâu nữa? Thư hỏi thầm! Cửa hàng bán đồ lưu niệm hai bên phố, nhiều cái rất sang. Gặp một cô bán hàng dễ thương, Thư đã mua năm cái áo gối thêu tay. Mẹ con bà Hân cũng mua nhiều thứ lưu niệm. Aline và Alice mua những chiếc móc chìa khóa có con búp bê tí hon mặc quần áo người dân tộc thiểu số rất xinh.

Từ bàn ăn, Thư nhìn thấy lò sưởi. Lửa đỏ rực tỏa hơi ấm khắp phòng. Thế mà từ sáng nàng không để ý. Đang ăn, Alice, đang ngồi trước mặt Thư bỗng chồm lên, vừa nói nho nhỏ vừa liếc mắt nhìn vào trong góc phòng. Xéo phía sau lưng chỗ Thư ngồi:

- Chị Thư, từ nảy giờ em thấy ông kia cứ nhìn chị chăm chăm. Chắc là người quen của chị đó. Ông ta ngồi ăn một mình.

Thư nhướng mày ngạc nhiên, vừa định quay lại nhìn thì Alice vội bảo:

- Chị đừng quay lại ngay. Tí nữa giả bộ đi toilette, ngang ổng chị hãy nhìn. Em biết toilette ở phía đó.

Thư phì cười. Gì mà con bé làm quan trọng dữ thế! Chắc anh chàng nào đó thấy nàng độc thân, muốn làm quen chứ gì?

Ăn xong, Alice đứng lên rủ Thư đi toilette. Alice đi trước, khi Thư ngang qua bàn người đàn ông đang uống cà phê, nàng chợt sửng người. Hai chân như tê liệt, không nhấc nổi. Người đàn ông cũng đứng lên:

- Thư! Không ngờ gặp em nơi đây!

- Anh Văn!

Sự xúc động bất chợt khiến Thư bủn rủn. Văn kéo chiếc ghế trước mặt, mời Thư ngồi. Nàng làm theo như một cái máy. Thấy mặt Thư tái nhợt, Văn bảo:

- Để anh gọi cho em ly cà phê sữa nóng.

Thư vẫn chưa lấy lại bình tĩnh. Chỉ biết ngồi đó, đưa mắt nhìn Văn đang loay hoay bỏ đường và sữa vô ly cà phê bốc khói thơm phức vừa được bưng ra. Anh dịu dàng bảo:

- Em uống đi. Anh vẫn nhớ em thích cà phê sữa thật nóng. Bây giờ em vẫn còn thích chứ?

Thư gật đầu. Nàng cầm ly cà phê đưa lên môi. Sau vài hớp, Thư đã lấy lại được bình tĩnh:

- Em nghe Nhung nói anh sang Mỹ đã lâu. Anh về đây chơi? Sao lại đi một mình, còn chị ấy đâu?

- Anh sang Mỹ gần mười lăm năm. Bà xã anh mất năm ngoái. Bị ung thư gan.

Thư kêu lên:

- Ô! cho em xin được chia buồn với anh. Vậy mà không nghe Nhung nó nói gì cả!

- Tại anh buồn nên không liên lạc với bạn bè cũ. Anh mới về cách đây một tuần. Sàigòn nóng và bụi bặm quá nên anh muốn lên đây tìm chút không khí lạnh. Anh nghe mọi người ca tụng Sapa nên muốn đi cho biết. Không ngờ gặp em ở đây. Còn Thư, sao em cũng đi một mình?

Giọng Thư bỗng chùng xuống:

- Em và Dư chia tay đã hai năm rồi anh ạ. Lỗi tại em không sinh được đứa con nào cho anh ấy. Em vô dụng quá phải không anh?

- Em đừng nói thế. Không phải là lỗi của ai cả. Anh tin có số mệnh. Đến lúc hết duyên thì phải đành! Anh và Thúy Loan cũng thế. Gia đình đang yên ấm, đùng một cái, Thuý Loan bị bệnh ung thư cướp đi. Và có lẽ cũng là định mệnh xui khiến nên Thư và anh cùng đến Sapa!

Thư nhìn Văn, cười buồn:

- Định mệnh bao giờ cũng nghiệt ngã đối với em. Ngày xưa đã vậy. Bây giờ cũng thế!

Văn đưa tay nắm nhẹ bàn tay của Thư đang đặt trên bàn:
- Anh tin rằng Định Mệnh đang cười với chúng ta. Thư thấy không, tại sao chúng mình có cùng ý định đi đến nơi tận cùng của xứ sở để rồi gặp lại nhau? Anh cũng tin rằng, trong cuộc đời, không có gì gọi là tình cờ. Tất cả đã được xấp xếp trước bởi cái gọi là Định Mệnh. Trưa nay, anh nhìn thấy Thư ngồi ăn cơm với ba mẹ con bà gì đó. Thư chen vào "Bà Hân". Ừ, mẹ con Bà Hân. Anh đã không tin là mình có cái may mắn gặp lại Thư. Đến tối nay thì anh mới chắc.

Cả hai nói chuyện, chừng nhìn lại chung quanh, thấy tất cả thực khách đã rời phòng ăn, kể cả mẹ con bà Hân. Lửa trong lò sưởi cũng sắp tàn. Văn đề nghị:

- Còn sớm. Anh mời Thư đi uống cà phê với anh. Ngoài phố có một quán cà phê rất ấm cúng.

Cả hai lên phòng lấy áo ấm và rời khách sạn. Bên ngoài trời tối om. Đèn hai bên đường tỏa ánh sáng vàng vọt. Văn dìu Thư lên dốc, như ngày xưa ở Đà Lạt. Nàng cảm thấy ấm áp và hạnh phúc. Ngày xưa ở Đà Lạt thì tuy ấm áp, nhưng cả hai đều đau khổ quắt quay! Nước mắt và nước mắt!

Hai người chọn một bàn nhỏ trong góc. Quán nhỏ nhưng trang trí khá sang trọng và đẹp mắt. Nhạc êm dịu vừa đủ nghe. Thư muốn một ly cà phê sữa nóng. Văn nhăn mặt:

- Em không sợ tối nay mất ngủ sao mà còn uống cà phê?

Thư cười nhẹ:

- Đàng nào thì em cũng sẽ không ngủ được. Thêm một ly cà phê cũng thế thôi!

Bây giờ Thư mới có thì giờ nhìn Văn kỹ hơn. Vẫn mái tóc nghệ sĩ bồng bềnh, nhưng giờ đã có nhiều sợi bạc. Vẫn cặp mắt hạt dẻ, to đến lạ lùng đối với một người đàn ông. Tinh anh ngày xưa, giờ đây nhuốm chút mệt mỏi. Vầng trán rộng với vài nếp nhăn. Nhưng nụ cười vẫn thế. Nụ cười ngày nào đã làm mê đắm bao nhiêu con tim, trong đó có nàng.

- Thế nào Tiểu thư? Thấy anh thay đổi nhiều lắm không?

Tim nàng như ngừng đập. Thư nhắm mắt. Hai tiếng "Tiểu thư" của những ngày xưa thân ái khiến nàng xúc động đến nghẹn ngào. Thư mím môi, cố ngăn giòng nước mắt chực trào ra. Tiếng Văn nhẹ nhàng:

- Em làm sao thế? Anh nói gì để em buồn phải không?

- Trái lại, em đang vui lắm. Nhưng không biết sẽ vui được bao lâu?

- Bao lâu là tùy ở chúng ta em ạ. Đối với anh, gặp lại em là một hạnh phúc bất ngờ và lớn lao. Anh bây giờ không có gì ràng buộc. Con trai của anh và Thúy Loan năm nay mười ba tuổi. Cháu ít tuổi nhưng tâm hồn rất già dặn đối với tuổi của cháu. Em giờ đây cũng như anh. Nếu không có gì cản trở, chúng ta liên lạc lại với nhau. Em thấy thế nào?

Thư đã cười trở lại, giọng lạc quan:

- Mẹ em giờ đã già. Bố em mất cách đây năm năm. Em tin rằng mẹ em vẫn còn cảm tình đối với anh như xưa. Hồi đó chỉ có bố em là phản đối mãnh liệt. Nhưng anh biết đó, gia đình em sắp đi diện đoàn tụ. Em mà lấy chồng thì kẹt lại, nên Cụ không muốn...

- Em còn quên, ngày ấy anh chỉ là một thầy giáo nghèo kiết. Lại còn mang thêm bệnh ...nghệ sĩ chơi đàn! Ai dám gả con cho anh! Văn ngắt lời. Em theo gia đình sang Mỹ, tương lai sẽ rực rỡ hơn là lấy một anh giáo nghèo như anh.

- Thôi anh! Nhắc làm gì những chuyện không vui. Giọng Thư nhuốm trách móc. Thật ra lúc đó em còn quá trẻ để cãi lại bố em. Nếu như bây giờ...

- Thì "tiểu thư" sẽ nổi loạn chứ gì? Văn âu yếm ngắt lời Thư.

- Em không nổi loạn, nhưng ít nhất cũng sẽ tranh đấu, không như ngày xưa chỉ biết khóc!

Giọng Văn bỗng ngậm ngùi:

- Khi bố em nói với anh "nếu yêu nó thật lòng thì cậu hãy để nó đi với chúng tôi. Sống ở đây tương lai chỉ là con số không to tướng" thì anh biết rằng, dù yêu em cách mấy anh cũng phải để em ra đi.

- Thì ra vậy! Ngày đó em cũng chẳng hiểu sao bỗng dưng anh biến mất. Biệt tăm, sau khi chúng ta vừa ở bên nhau suốt một tuần trên Đà Lạt. Một tuần đẹp và buồn nhất đời em! Em đã thất vọng ghê gớm.

- Anh biết. Dù lời xin lỗi bây giờ quá muộn màng, nhưng anh phải nói xin lỗi em! Ngày đó anh cũng đau lắm chứ. Đau đến chẳng thiết sống. Nhưng phải để ra em đi với gia đình thôi.

- Rồi sau đó anh làm gì?

Giọng Văn bỗng trở nên xa vắng, như chìm vào quá khứ mịt mùng:

- Anh làm gì ư? Anh xuống miền tận cùng của đất nước. Ở Cà Mau, anh sống nhờ nhà một người bạn suốt thời gian chờ em xuất cảnh. Anh vẫn liên lạc với Nhung. Nhưng dặn cô ấy không được hở cho em biết.

- Con nhỏ này! giọng Thư đầy trách móc.

- Đừng trách Nhung em ạ. Cô ấy thương chúng ta, nhưng có thay đổi được gì đâu? Nhờ cô ấy mà mình đã có một tuần lễ tuyệt vời ở Đà Lạt. Em nhớ không Thư?

Nhớ không? Sao mà không nhớ! Trước khi xuất cảnh, Thư xin phép bố mẹ lên Đà Lạt chơi một tuần với Nhung. Gia đình Nhung ở Trại Hầm. Hai cô là bạn chí cốt, tuy chỉ học với nhau từ lớp mười, nên bố mẹ Thư không hề nghi ngờ Văn cũng lên Đà Lạt. Chàng ở nhà một bạn học cũ. Còn chỗ nào là không ghi dấu chân của hai người? Những con đường quanh co vàng rực hoa dã quỳ. Mộc mạc, đơn sơ, nhưng không kém phần lộng lẫy. Cũng từ thuở đó, Thư yêu nhất dã quỳ vàng. Những ngọn đồi lộng gió, những con suối rạt rào, rừng thông xanh vi vu... đã chứng kiến bao nhiêu nụ hôn đắm đuối, bao giòng nước mắt bi thương. Yêu nhau là thế, nhưng vẫn gìn giữ cho nhau. Ôi, Đà Lạt!




Đang thả hồn miên man về quá khứ, Thư bỗng có cảm giác ấm áp của một bàn tay đang bóp nhẹ tay mình, kéo nàng về thực tại:
- Kỷ niệm đẹp quá phải không em? Anh đã mang nó theo suốt cuộc đời. Dù sau này có lập gia đình với Thúy Loan cũng vậy.
- Anh chưa kể em nghe anh gặp Thúy Loan lúc nào? Thư ngắt lời, không dấu được sự tò mò. Nàng muốn biết về người đàn bà đã thay thế nàng trong tim của Văn.

- Sau khi em đi Mỹ rồi, anh trở về Saigòn. Anh làm đủ thứ nghề có thể kiếm tiền nuôi thân. Rồi một ngày đẹp trời, anh đang ngồi ăn cơm bụi trên đường Pasteur, một em bé bán vé số cứ lẩn quẩn theo năn nỉ anh mua. Thương tình anh mua giúp nó 5 tấm. Thế mà Thần Tài lại chiếu cố anh. Trúng độc đắc em ạ! Anh đã...
PC
#8 Posted : Wednesday, August 25, 2010 2:54:33 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)


Hôm qua ra vườn ngắm hoa và tự nhiên có hứng viết 1 mạch bài văn ngắn này. Gởi em đọc cho dzui nghen. Thăm em
TB: Quên, cách đây 2 tháng anh Thành leo lên thang sơn trần nhà, bị té gãy 3 cái xương sườn. Nay thì khỏe rồi, lâu lâu hơi đau tí thôi.
chị tt


một ngày bình yên
tiểu thu

Sau những ngày mưa dầm dề, bao nhiêu hoa lá trong vườn nhà tôi đều ủ rủ, gục đầu đến thảm thương. Riêng cái sân cỏ thì ôi thôi mọc nhanh như thổi, có bông phất phơ! Sáng nay thức dậy, tiếng chim hót líu lo trên cành cây đào bên cửa sổ phòng ngủ khiến tôi thấy người ngợm cũng sảng khoái. Bước đến cửa sổ, vén màn nhìn ra ngoài sân. Ôi chao nắng rải vàng khắp nơi. Hoa lá trong vườn cũng vui vẻ vươn mình trong nắng sớm. A ha! Có vẻ là một ngày tuyệt vời đây. Mình sẽ làm gì hôm nay:
- Không thể thiếu ly cà phê sữa nóng hổi buổi sáng. Chắc như đinh đóng cột!
- Một lát bánh mì nâu. Bữa nay không kèm bơ cũng không mứt miết gì cả. Qua đám cưới cô cháu + party hè lu bù, bề ngang đã tăng ào ào so với chiều cao khiêm nhường! Nhất định phải giảm cân. Nhưng sao mà khó thấu mây xanh trời ạ! Cố gắng lên nào!
- Thanh toán cái sân cỏ! Một ngày nắng ráo như hôm nay, không làm, mai mưa là...lúa vàng. Ồ! Chuyện nhỏ!
Rồi sau đó...? À, sau đó sẽ viết tiếp bài tối hôm qua viết chưa xong.
A lê hấp! Nói là làm. Vừa uống cà phê vừa liếc sơ qua tờ nhật báo. Trời, toàn tin tức ác ôn: giết vợ rồi tự sát. Bắt giữ con tin làm thiệt mạng tám người. Bốn mươi chiếc xe đụng dồn cục bên Ý cũng chết mấy mạng (là ít), rồi nhà cháy (may quá, mọi người nhảy qua cửa sổ từ lầu hai, nhưng không ai sứt cùi gãy gọng chi cả!) thợ mỏ bị sụp hầm (tuy sâu hơn 70 m dưới mặt đất, nhưng không ai chết nhờ được tiếp tế thức ăn bằng một sợi dây thừng)... Ứ hự! Sinh mạng con người càng ngày càng rẻ như bèo. Ngày nào cũng có người chết như rạ. Không tai nạn xe đụng, máy bay rơi, tàu hỏa trật đường rầy, thì tai bay vạ gió cũng từ trên trời rớt xuống lu bù như lũ lụt bên Tàu, bên Ấn...khiến dân chúng lầm than. Khổ!
Nhiều người bạn đã nói với tôi "Ta cứ sống vui, sống thoải mái. Đàng nào đến năm 2012 cũng tận thế!". Gì chứ triết lý sống vui, sống thoải mái thì chúng tôi (ông xã và tôi) đã áp dụng từ lâu rồi. Mỗi lần có chuyện lo nghĩ, cái bao tử của tôi tiết ra hàng lít a xít khiến tôi đau đớn oằn oại. Đó là chưa kể bệnh đau đầu thống cũng làm tôi điêu đứng. Trông bề ngoài ai cũng lầm, tưởng tôi khỏe lắm, đâu biết rằng coi dzậy mà hổng phải dzậy. Trường hợp của tui chỉ là "trong héo ngoài tươi" mà thôi! Cho nên "nửa kia" của tôi vẫn khuyên "quẳng gánh lo đi mà vui sống". Ai thương thì cám ơn, ai ghét cũng ...cười! Ở sao cho vừa lòng người phải không quý vị? Hơn nữa nhăn nhó hoài tất da mau nhăn. Mà da nhăn thì ...mau già. Đến tuổi lục tuần, ai cũng muốn thời gian chậm (nếu không muốn nói là ngừng) bước kia mà!
Sân cỏ phía sau nhà tôi không lớn lắm. Chỉ nửa giờ là thanh toán xong. Nhưng chăm sóc cái đám hoa lá cành kia mới mất thì giờ bộn. Hầu như ngày nào tôi cũng phải bỏ ra hai tiếng đồng hồ cho cái vườn.Tỉa, tưới, nhổ cỏ và ngắm hoa. Cũng như mọi năm, hoa cỏ nhà tôi bước vào tháng tám là nở rộ. Trong vườn trồng vài chục loại hoa, nhưng thú thật tôi chỉ biết tên vài thứ. Còn thì nhiều loại tôi "chôm" hột từ vườn nhà người ta nên mù tịt tính danh! Hơn nữa, dù có biết tên tây, cũng không thể dịch ra tiếng Việt.
Cách đây lâu lắm, lúc còn đi làm (tôi về hưu được gần bốn năm), buổi trưa sau khi ăn xong tôi hay đi dạo loanh quanh cho nhẹ bụng. Bên hông sở làm là một con hẻm rộng, hai bên là sau hè nhà của hai con đường lớn chạy song song. Người Ý rất thích trồng hoa và rau. Sau khi ăn trưa, tôi thường thả bộ dọc theo con hẻm, ngắm hoa lá, rau cỏ trồng hai bên hè. Đến mùa thu, thích hoa nào là tôi xin hạt giống, nếu sát hàng rào, không thấy chủ nhà thì...chôm! Vì vậy trong vườn nhà tôi có một loại hoa mà tôi không thấy nhà nào quanh đây có trồng (và dĩ nhiên là không biết tên!).
Hoa có thân giống như cây trúc, lá gần giống lá bồ đề, to hơn bàn tay, màu xanh tươi như ngọc thạch. Hoa rủ xuống từng chùm, do hàng trăm hạt màu hồng tươi kết thành, đẹp vô cùng. Đến cuối thu, hạt chín trở thành màu nâu, chim chóc kéo đến ăn dài dài cho đến mùa đông...Thật là một loài hoa quý. Vừa đẹp vừa hữa ích.
Còn một cây nữa tôi rất yêu, ngắm hoài không biết chán tên Tamaris. Thân và lá hơi giống cây phi lao. Lá màu xanh biêng biếc, hoa từng cọng dài mảnh mai, kết thành một chùm to màu hồng tươi, rất ẻo lả. Mỗi lần gió thoảng qua là hai loại hoa này đong đưa theo gió đẹp không tả được!
Cắt xong hai bãi cỏ và dẹp máy cắt cỏ vào nhà kho xong, đứng ngắm tới ngắm lui, thấy nhiều hoa cúc tàn, tôi phải dùng kéo tỉa. Trong vườn có năm sáu loại cúc. Phần lớn màu vàng. Có loại hoa cánh nhỏ, vàng một màu. Loại hoa cánh to, ngoài vàng trong nâu. Loại có lá vừa xanh vừa trắng. Loại có lá nhọn. Loại có lá bầu. Cúc hoa đỏ đậm và lợt. Cúc vàng sinh sôi nảy nở nhanh không thua cỏ dại là mấy. Chả thế mà sân trước, sân sau nhà tôi vàng một màu hoa cúc. Tôi định bụng đặt tên cho căn nhà mình là "Tư gia Hiên Cúc Vàng". Tất nhiên là "chôm" tựa đề của một bản nhạc mà tôi được xem PPS trên net. Đùa thôi, chứ tôi mà làm thật chắc không ít bạn bè sẽ nhìn tôi với ánh mắt...thiếu thiện cảm, sau khi phán cho một câu xanh dờn: "vẽ chuyện!".
Dợt xong đám cúc, nhìn những bông hồng tàn cũng kém nghệ thuật ra gì. Hồng đẹp thật nhưng rất khó săn sóc. Năm nào cũng vậy, đầu xuân những cụm hồng nhà tôi xum xuê hoa lá. Hoa đủ màu rực rỡ một góc sân. Chớm thu là lá đổi vàng và rụng kín gốc. Thân cây cũng ốm khẳng khiu. Trước kia trong vườn có trên ba chục gốc hồng. Nhưng chết lần hồi, giờ chỉ còn chín gốc. Trong đó đặc biệt nhất là loại rằn ri. Cánh hoa màu đỏ, sọc trắng, nên có tên là Hồng Cọp! (Tiger Rose). Cạnh đó là cụm hồng có cánh màu hồng nhạt bên ngoài, trong đậm hơn tỏa mùi thơm nhẹ nhàng. Bên cạnh là một loại hồng rustique. Thân cao đầy gai, mạnh mẻ nhất trong đám hồng (gái quê mà lị!). Loại này cho những đoá hoa rất nhiều cánh, thơm dịu dàng. Nhìn nó ta liên tưởng ngay đến những đóa hồng trong tranh cổ xưa mà ta thường thấy bên Âu Châu và đây là loại hồng thuần giống. Bước qua bên kia chiếc cầu gỗ tí hon là hai cụm hồng. Một cụm có hoa màu đỏ mặt trên và mặt dưới màu vàng. Cụm kia hoa màu hồng đậm. Thẳng góc hai cây này là một gốc hồng màu cam, cánh dầy, hết hàm tiếu là nỡ bung trông hệt như hoa Trà (Camélia), lâu lắm mới tàn. Cạnh cây này là một gốc hồng có cánh màu đỏ đậm, ánh như tuyết nhung. Hai cây này hữu sắc vô hương. Giống như người đẹp lộng lẫy mà thiếu sự duyên dáng! Bên kia sân cỏ có hai gốc hồng. Một gốc của bà chị tặng cách đây hơn mười năm. Cây này cánh hoa phía ngoài màu hồng, trong màu vàng, tỏa mùi thơm ngào ngạt. Bao giờ đi ngang, tôi cũng phải đặt lên những đóa hoa vài chiếc hôn (hít!). Cây bên cạnh hoa màu hồng đậm khá đẹp. Tôi có cây hồng tím, nhưng đã chết.
Từ khi chiết bớt cành của cây Mộc lan phía gần hàng rào và chặt bỏ cây cerise trong góc vườn, đám cây nhỏ phía dưới vui vẻ hẳn lên. Bằng chứng là cây Đỗ quyên màu tím năm nay cho nhiều hoa hơn năm ngoái. Tôi cũng chặt bỏ luôn cây cerise trái màu vàng chua lè, chim chóc còn chê không thèm ăn, bên trái hông nhà nên cây Đỗ quyên trắng và cây Clématis tím cũng tươi tỉnh hẳn, hoa nở tưng bừng. Cây Hoàng đậu (Glycine) thì ôi thôi, bỏ vòi leo tứ tung, tôi phải "xử lý" mệt nghỉ. Chẳng thế mà nó còn tràn qua làm phiền cây cối nhà hàng xóm. Tôi căn dặn ông bà ấy cứ thẳng tay thanh trừng nếu không thích. Mà thích sao nổi khi nó cứ "vô tư" bỏ vòi qua siết cổ đám hồng leo nhà người ta cơ chứ?!
Cái cây miền ôn đối này lạ lắm quý vị ơi. Số là một lần sang California thăm cô bạn thân. Sân sau nhà cô ấy có trồng một cây Hoàng đậu tím. Gặp ngay mùa xuân, hàng trăm chùm hoa tím buông lòa xòa dọc theo hàng rào. Tôi ngắm ngây ngất. Trở về nhà là hối cậu con trai phải đi tìm cho mẹ một cây giống vậy cho bằng được. Đằng đẳng sáu năm trời, mỗi mùa xuân dù có căng mắt ra tìm cũng chỉ thấy lá là lá! Trong lúc tuyệt vọng, bỗng một hôm đọc trong mục cây cỏ của báo La Press, nhà chuyên môn khuyên ta nên đối xử thật tàn tệ với nó. Không bao giờ bón thuốc bổ và một điều khiến tôi không khỏi sửng sốt, là ông ta khuyên nên chưởi bới nó thậm tệ thì mới hy vọng nó ra hoa! Ui cha, sao mà giống bên An nam ta thế. Ngày xửa ngày xưa, dưới quê ấy mà, cây nào không cho hoa trái, gia chủ cầm con dao, dứ dứ vào thân cây, đe dọa sẽ chặt bỏ nếu nó còn ngoan cố, ỳ ra không đơm bông kết trái!.
Tôi thầm nghĩ cứ làm thử, có mất mát gì đâu. Vậy là tôi đã thực hành y chang bài bản đó. Mắng mỏ và đe dọa kịch liệt. Thế mà phép lạ đã xảy ra quý vị ơi. Năm đó cây Hoàng đậu cho chúng tôi hơn ba mươi chùm bông tím. Nhưng những năm sau thì bổn cũ soạn lại: lá, lá và lá!!! Tôi chắc nó sợ quá nên cố gắng một hơi "đẻ" ra được mấy chục chùm bông rồi...tịt ngòi! Thôi thì cho nó nghỉ mệt ít lâu. Mùa thu năm ngoái, sau ba bốn năm chờ đợi, tôi hết kiên nhẫn nói với cậu con trai, hai mẹ con đang đi thăm vườn, chắc mẹ chặt cây Hoàng đậu. Để đây um tùm muỗi nhiều quá. Không ngờ mùa xuân năm nay nó nở liền tù tì mấy chục chùm và đầu tháng tám lại ra thêm hơn chục chùm nữa. Thế là thế nào? Chỉ có trời hiểu chứ tôi thì đầu hàng. Chẳng lẽ mỗi năm tôi phải dỡ giọng găng tơ hăm dọa, mắng mỏ thì nó mới chịu ra hoa?! Và một điều quái dị nữa, không lẽ cây Hoàng đậu nhà tôi già quá thành tinh nên biết nghe? Hơi Liêu Trai Chí Dị đó nha! Không chừng trong một đêm trăng sáng lung linh, một cô con gái đẹp như tiên, mặc áo tím yểu điệu từ trong cây Hoàng đậu bước ra!
Nhìn mấy con cá màu đỏ, trắng, đen...nhỏ xíu lội tung tăng trong cái hồ (cũng nhỏ xíu, cậu con đào cách đây gần hai mươi năm) cũng vui vui. Trong hồ thả hoa súng. Mỗi năm cho vài đóa màu hồng xinh xinh. Cá trong hồ có lần lớn được bằng ngón tay cái, đêm xuống bị lũ chồn hôi bắt lên chén sạch. Cách đây một tuần, trận mưa như trút làm tràn nước trong hồ sang tận nhà hàng xóm, khiến bà ta chạy qua mắng vốn. Mở cửa sau nhìn ra vườn. Ôi thôi, nước ngập lênh láng cả sân cỏ sau nhà. Hoa lá chìm trong biển nước! Mẹ con phải sắn quần múc từng thùng đem đổ chỗ khác. Mấy con cá theo dòng nước lội tứ tung. Phải vạch cây túm cổ từng chú đem thả lại trong hồ. Nhưng vẫn thiếu vài con. Có lẽ chúng đã khăn gói quả mướp di cư sang nhà hàng xóm!
Trong góc vườn bên trái là vườn rau. Cũng chẳng có gì ghê gớm. Vài cụm hành, hẹ. Trồng nhưng không ăn, để ra hoa cho đẹp mắt. Chúng tôi bắt chước nhạc sĩ Trường Sa, cho đất vào những chậu to bằng nhựa rồi trồng tía tô, húng quế, kinh giới, ngò gai, rau chua...Vậy mà tốt ra trò. Cây nào cũng lên phơi phới. Dưới đất có húng lủi và dấp cá. Thứ này nhiều người không thích ăn, chê tanh nhưng nếu biết ăn thì ghiền. Lúc sinh tiền, ký giả Trường Kỳ ăn rau dấp cá thay sà lách. Ngay cả "nửa kia" của tôi, dù là dân BK 54 chính cống cũng thích ăn dấp cá. Chỉ có đám con "lai" giá sống và rau muống của chúng tôi không bao giờ dám đụng đủa! Điều kinh hoàng là "NÓ" luồn dưới đất rồi chui lên bất cứ nơi nào, ngay cả hóc bà tó! Tràn lan như cỏ dại. Vừa ăn vừa biếu cả làng cũng không hết!!!
Năm nay tôi được bà chị cho một cây khổ qua. Tôi thích cây này vì lá nó đẹp, hoa vàng nhỏ nhắn xinh xinh. Cây leo lên hàng rào rất mạnh mẻ. Nhưng tôi đi du ngoạn vắng nhà sáu ngày, vì cây trồng bên hông nhà, con gái không thấy nên không tưới. Lúc tôi về lá đã vàng. Cuối cùng thu hoạch được hai trái. Tôi để chín đỏ mới hái lấy hạt gầy giống. Thật đáng tiếc!
Đầu xuân, anh chị Trường Sa mang từ Toronto lên cho mấy cây dâm bụt tím. Tôi trồng thế vào chỗ cây Tú cầu vừa mới chết. Vậy mà nó đã có vài nụ. Mỗi ngày nhìn những nụ hoa tim tím lớn dần, trong lòng thấy vui thật vui. Năm nay lần đầu tiên chúng tôi trồng mấy dây hoa bìm bìm màu xanh da trời. Mỗi ngày tôi chăm bón, tưới nước và ngắm nghía say sưa những bông hoa màu xanh biếc. Nếu có cảm giác, chắc chúng nó cũng phải e thẹn vì bị Chiếu tướng kỹ quá!
Vừa ngắm, vừa cắt tỉa một lúc, mệt quá tôi bèn kéo ghế ngồi. Trước kia giữa sân này có trồng một cây thông màu xanh lơ (sapin bleu). Nó là nơi trú ẩn của vài chục chú chim đủ loại. Đẹp nhất là cặp chim áo đỏ Cardinal, một chú chim Vàng anh toàn thân màu vàng, cánh có vệt đen. Đứng trong bếp nhìn ra, thấy lũ chim chui ra chui vào nhộn nhịp thật vui mắt. Nhưng một mùa đông cách đây khoảng hơn mười năm, giữa tháng hai một trận bão tuyết dữ dội đánh bật rễ cây thông già, khiến lũ chim mất nơi trú ngụ, bay đi tứ tán. Tôi buồn một thời gian. Vừa mất cây thông đẹp, vừa mất lũ chim đáng yêu!
Dọn xong cây thông, chúng tôi bắt chước gia đình bên cạnh cất một cái nhà mát, bên trên cho dây leo rợp bóng, nền lát gạch. Bốn cây cột bốn góc cũng trồng cây leo. Mỗi năm đổi một loại hoa cho khỏi...chán!. Nơi này chúng tôi đặt một bàn dài ngồi được khoảng hai mươi người. Thỉnh thoảng mời bạn hoặc họ hàng đến làm BBQ.
Từng làn gió nhẹ mơn man, mơn man... Trên bầu trời xanh thăm thẳm, những đám mây trắng như bông lững lờ trôi. Chung quanh tôi cả một khu vườn rực rỡ sắc màu. Đám ong bay nhẹ nhàng, vờn hết hoa nọ tới hoa kia hút mật. Mấy chú bướm cũng chập chờn, loang loáng cặp cánh màu vàng nhạt trong nắng tươi, tôi thấy tâm hồn bình yên đến lạ lùng và quyết định mình sẽ ngồi đây, sẽ không làm bất cứ chuyện gì khác. Đơn giản ngồi đây để ngắm nhìn thỏa thích hoa lá trong vườn đang cùng nhau phô trương tất cả sự lộng lẫy của chúng.
Hôm kia nhận được Email của một người bạn. Đọc bài "Một Ngày Không Vội Vã" và thấy thấm thía lạ lùng. Tại sao cứ phải tất bật chuyện nọ chuyện kia vậy cà? Nhiều lúc thở không ra hơi. Ai bắt mình vậy? Thì mình bắt mình chớ ai vô trồng khoai đất này! Vậy người nào buộc, người ấy ráng gỡ nhá.
Cho nên hôm nay, một này chan chứa nắng vàng, gió thổi hiu hiu, mát rượi đến tận tâm can tì phế. Cả lũ ong bướm cũng hân hoan, hoa cỏ reo vui, hà cớ gì tôi phải giam mình trong bốn bức tường, cặm cụi viết???
Và tôi ngồi đó, dựa lưng vào chiếc ghế nhựa màu xanh, hai chân gác lên một chiếc ghế khác, bâng quơ nhìn trời mây và những con ong vo ve bay giữa những bụi hoa đủ màu, rồi bỗng dưng thắc mắc: "Ủa, sao mình chưa bao giờ thấy tổ ong. Vậy chúng từ đâu tới kìa?" Những chú bướm thì tôi biết, chúng bay từ vườn nọ sang vườn kia. Có lần tôi còn bắt gặp một chú bay băng qua đường. Từ vườn nhà tôi sang vườn nhà hàng xóm đối diện.
Tôi ngồi trong khu vườn yên tĩnh, lòng bình yên và hạnh phúc.
Thật đơn giản phải không quý vị?

Tiểu Thu
Montréal 24-08-2010








Phượng Các
#9 Posted : Tuesday, March 13, 2018 12:13:44 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.