Rank: Advanced Member
Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 1,407 Points: 48 Location: California, Santa An a Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
|
Hết Tầu, hết Tây, hết Nhật phận nước lại trầm luân khi Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã đem cái chủ thuyết ngoại lai của Karl Marx tròng vào cổ dân Việt gây ra bao thảm cảnh "núi xương, sông máu." Từ cuộc tàn sát "cải cách ruộng đất" làm hàng trăm ngàn người bỏ mạng, biết bao gia đình tan nát, biết bao phụ nữ bị đấu tố, bị giết vì tội "phú nông, địa chủ." Có những bà đã từng đem lúa gạo nuôi quân, đem hết vàng bạc, nữ trang nộp cho "tuần lễ vàng" do Hồ Cí Minh phát động rồi cũng chết thảm dưới tay họ Hồ. Tồi đến hiếp định Geneve năm 1954 hàng trăm ngàn phụ nữ miền Bắc đánh liều bỏ hết ruộng vườn, mồ mã tổ tiên, bồng bế, dắt dìu con thơ di cư vào Nam theo tiếng gọi của Tự Do chỉ vì "chúng tôi muốn sống." Dưới bầu trời Việt Nam Cộng Hoà, những người đàn bà với đôi tay đảm đang đã cùng ngưới thân xây lại mái ấm gia đình, dựng lại đời mới. Phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn nầy dù không phải là hoàn toàn đẩy đ3nhưng đã có cơ hội học hành và thăng tiến. Các trường đại học, trường huấn nghệ...đâu đâu cũng có sự góp mặt của nữ giới, ngay cả các ngành tư pháp, lập pháp cũng có những "khách má hồng" tham gia. Thế nhưng giặc Hồ phương Bắc nhất quyết không tha cho họ, cuộc chiến tương tàn cáng ngày càng diễn ra ác liệt. Đàn ông, thanh niên trai trẻ đã phải tòng quân diệt Cộng, người phụ nữ Việt ở lại hậu phương phải gánh vác gia đình, phụng dưỡng cha mẻ già, nuôi nấng con thơ: "Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân"> Không những thế, những người mẹ, người vợ, nguời yêu, em gái và con gái lại ngày ngày lo âu khi nghe tin chiến sự, đêm đêm cầu khẩn Chúa, Phật cho người thân mình đuợc bình yên. Nhiều phụ nữ bất hạnh đã phải đi nhận xác chồng, xác cha, xác anh em. Một số không nhỏ khác đã phải âm thầm nhỏ lệ vì người thân thương của họ nay đã trở thành thương phế binh cũng chỉ bởi những kẻ chạy theo cuồng vọng quyền lực chỉ biết theo đuổi chiến thắng bằng mọi giá, coi sinh mạng của dân tộc rẻ hơn cả bọt bèo cũng như kéo lùi dân tộc hàng nữa thế kỷ. Một sồ thanh nữ Việt Nam trong giai đoạn khốc liệt nhất cũng đã gia nhập các ngành trở tá hoặc các quân binh chủng trực tiếp góp phần bảo vệ miền Nam tự do. Người ra đi nời tuýen đầu lửa đạn, người ở lại cũng đâu được an lành: những vụ đắp mô giật mìn xe đò, những vụ pháo kích bừ bãi vào chợ, vào trường học, những vụ bắc cóc, ám sát ở nông thôn càng làm cuộc sồng người phụ nữ thêm lo âu, khốn khổ. Bao nhiêu dòng lệ đã đổ xuống, bao nhiêu dải khăn sô đã quấn lên đầu những thiếu phụ tóc còn xanh, những bà mẹ già run run đi nhận xác con mà nước mắt đã khô cạn trên gò má nhăn nheo. Những vành khăn tang quấn vội trong ngày Tết Mậu thân, những phụ nữ ngất lịm đi khi tìm thấy xác thân nhân bị chôn sống. Những người vợ yếu đuối phải nuôi một bầy con nheo nhóc khi chồng tử trận. Nói sao cho hết, tả sao cho vừa những thương đau, thống khổ mà dân tộc nói chung và người phụ nữ nói riêng phải chịu trong cuộc chiến mà vì cuồng vọng của một nhóm người muốn đem chủ ngiã cộng sản phi nhân áp đặt trên toàn cõi Việt Nam này. Phụ nữ miền Nam đã vậy, miền Bắc còn lầm than bội phần. Bao nhiêu tài lực, nhân lực đ63 vào cuộc chiến làm hậu phương đêu tàn xác xơ, kinh tế thì lạc hậu nghèo đói. Người phụ nữ ở lại đã phải oằn vai gánh vác mọi việc từ trong nhà đến ngoài xã hội. Có gia đình cả hai ba thế hệ phải làm việc không công trong các nông trường hay xí nghiệp tập thể. chỉ được ban cáp cho những khẩu phần vừa đủ để không phải chết vì đói lạnh. Đàn ông thanh niên phải vào miền Nam, lớp bỏ mạng trên đường mòn Hồ Chí MINh, lớp chết teong rừng Trường Sơn, lớp sống sót rồi cũng "SINh Bắc tử Nam." Gia đình ở lại túng thiếu, đói khổ, cùng quẩn, thất học trong cái gọi là "Thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc," với "giấy báo tử rơi đầy mái rạ." Đa sồ dân miền Bắc, nhất là phụ nữ miền Bắc đều đã bị tuyên truyền nhồi sọ, nhiều người đã hy sinh tất cả cho đảng, có người cả đời chỉ biết chạy theo cách mạng chiến đầu, theo bộ đội vào Nam từ lúc tuổi còn thanh xuân làn các công tác cứu thương tải đạn, trợ y trợ lý. Đến khi cuộc chiến chấm dứt thì họ đã bị vắt chanh bỏ vỏ, trở về không biết làm gì để kiếm sống nuôi thân; thân tàn ma dại, tuổi ngày một già đi sau hàng chục năm chiến đấu, không còn khả năng sản xuất hoặc học hỏi t=để thích ứng với thời bình, và đã trở thành những thành phần vô dụng, đàn ông thanh niên không ai muốn lấy họ nữa, nh774ng phụ nữ bất hạnh này nay đành phải sống đời lầm than cô độc và đói nghèo. Không kể các thành phần nữ phế binh miền Bắc cuộc đời cònb lầm than đến đâu nữa. Than ôi! cuộc chiến tự vệ đầu chính nghĩa của miền Nam đã có một kết cục bi thảm vì nhiều nguyên nhân ngoài tầm tay của chúng ta, những người dân một nước nhược tiểu. Cộng sản đã nhuộm đỏ toàn quốc, người người tháo chạy từ Trung vào Nam trên "Dại lộ kinh hoàng," rồi từ Nam lại ùn ùn trốn chạy bằng phi cơ, bằng tàu biển ra ngoại quốc trong những ngày định mệnh cuối tháng tư năm 1975. Một lần nữa người phụ nữ Việt lại "khăn gói lên đường" cùng gia đình trốn chạy làn sóng đỏ. Bao nhiêu thiếu phụ đã bỏ mình trên đường chạy loạn trong những ngày miền Nam hấp hối đó, bao nhiêu người đã đau xót bỏ lại gia sản lần thứ hai để xuống tàu xa rời đất nước quê hương! Nhưng dẫu sao những người thoát đượơc vào dịp đó cũng vẫn may mắn hơn người ở lại. (Còn tiếp) Viethome magazine
|