Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

4 Pages«<234
TẢN MẠN VỀ PHÚ
chieuduong
#61 Posted : Wednesday, May 18, 2005 2:19:07 AM(UTC)
chieuduong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 442
Points: 0

quote:
Gởi bởi HV

quote:
Gởi bởi tonka

9 nói đúng rồi, xuống hàng thì phải double enter. Sau dấu chấm thì double space Tongue TK cũng phải lấy một lớp typing đó 9. Còn gì nữa 9 biết không? Đánh máy nhiều hay chơi đàn bấm dây như guitar thì dễ bị đau tim vì máu đen nhiều quá đi về tim (ông thầy vạn vật hồi xưa nói vậy á Wink)


tonka, 9U ơi
Không biết là những rules này có phải chỉ là cho typing với size giấy lớn hay không?
Trong những cuô'n chuyện dài của Danielle Steel Tongue lại khác đó.
Lâu lâu hv cũng đọc D.S Blush

hv





Chiêu Dương thân chào chị HV Rose
chieuduong
#62 Posted : Wednesday, May 18, 2005 2:21:31 AM(UTC)
chieuduong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 442
Points: 0

quote:
Gởi bởi Chín Út

Ngày xưa hồi em mớI bắt đầu xài máy computer khoảng năm 90, có 1 bà dì đi học nghề thư ký bả chỉ lại mấy chiêu về kỹ thuật đánh máy, theo em thấy mấy cái rules chị PC nêu ra đây là căn bản nè:
http://www.phunuviet.org...topic.asp?TOPIC_ID=1602

Xin bổ sung 1 điều nữa là sau dấu chấm xuống hàng thì phải gỏ 2 cái enter (double interline (?)) Tongue



Chiêu Dương chân thành cám ơn Anh Chín , Chị Tonka !

Sự góp ý của anh chị là điều hữu ích cho cd thật nhiều

Cám ơn anh chị !
Vũ Thị Thiên Thư
#63 Posted : Wednesday, May 18, 2005 2:24:26 AM(UTC)
Vũ Thị Thiên Thư

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,033
Points: 2,430
Woman
Location: Thung Lũng Lá Rơi

Thanks: 231 times
Was thanked: 87 time(s) in 84 post(s)
Anh Chiêu Dương
Thật ra thì TT đâu có khắc phục
Chỉ khi nào cần post lên thì ngồi chỉnh laị thôi
Còn thì vẫn type như thói quen...
Tonka
#64 Posted : Wednesday, May 18, 2005 2:32:27 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,649
Points: 1,542

Thanks: 95 times
Was thanked: 204 time(s) in 192 post(s)
Anh CD chưa rượt tk chạy là mừng lắm rồi đó. Có người réo anh ở bên mục "Bớ Các Chị..." của Hoài Yên đó. Mong anh giúp cho. Smile
chieuduong
#65 Posted : Wednesday, May 18, 2005 2:58:26 AM(UTC)
chieuduong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 442
Points: 0

quote:
Gởi bởi tonka

Anh CD chưa rượt tk chạy là mừng lắm rồi đó. Có người réo anh ở bên mục "Bớ Các Chị..." của Hoài Yên đó. Mong anh giúp cho. Smile



Mèn..

Chị đừng nói vậy chớ !

Chị là niềm vui của các bạn PNV, người thẳng thắn vui tính , được làm bạn cùng chị là một niềm vui của cd...

Cho...em cd này chạy , mổi lần nghe ai kêu tên là mặt mày như...lá chuối non !
HV
#66 Posted : Wednesday, May 18, 2005 6:16:34 AM(UTC)
HV

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 256
Points: 0

Chào anh CD
Lâu nay hv cứ theo nghe lén nhạc, đọc lén thơ của anh mà Shy quá nên chưa dám chào anh.
Tại,... vì..., bị...., bởi,...từ nhỏ mẹ dặn.... không được tự làm quen mí các anh trước...Tongue
Lại thêm cái tật hay quên nên cứ lộn Chiêu Dương với Chiêu Hoàng. Sợ loạng quạng, anh...rượt...cú đầu, nên cứ dựa cột nhà nghe lén Big Smile
hv xin được chào anh Rose
Tonka
#67 Posted : Wednesday, May 18, 2005 12:38:58 PM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,649
Points: 1,542

Thanks: 95 times
Was thanked: 204 time(s) in 192 post(s)
quote:
Gởi bởi HV
Tại,... vì..., bị...., bởi,...từ nhỏ mẹ dặn.... không được tự làm quen mí các anh trước...Tongue


Chị HV ơi, chị ngó anh Chiêu Dương kìa, mặt ảnh đỏ còn hơn ánh mặt chời nữa. Nếu mình không làm quen với ảnh trước thì ảnh cứ ngồi ở cái góc của ảnh hoài à Wink
chieuduong
#68 Posted : Wednesday, May 18, 2005 7:56:56 PM(UTC)
chieuduong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 442
Points: 0

quote:
Gởi bởi HV

Lâu nay hv cứ theo nghe lén nhạc, đọc lén thơ của anh mà




Mong chị hãy tự nhiên !

Thơ và Nhạc là của các danh sĩ thời tiền chiến , không phải của cd.

Ðó là " mục chân dung " của chị Phượng , cd chỉ góp sức mọn mà thôi !

Ðã là bạn , thì hãy cứ tự nhiên !

Chiêu Dương vô cùng hân hạnh biết chị Hiền Vy !
Bà Bóng
#69 Posted : Sunday, June 26, 2005 1:49:45 PM(UTC)
Bà Bóng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 20
Points: 0

Dựa theo bài viết của anh Chiêu Dương về Đường phú, Meta xin phân tích một bài mẫu và sáng tác một bài văn tế vì văn tế chính là một trong những thể phú. Theo Meta Đường phú rất khó làm, nhất là loại độc vận vì ngoài các câu phải đối với nhau chặt chẽ, toàn bài chỉ dùng một vần. Nó là một thách đố và Meta muốn nếm mùi của nó. Sau đó, là hát nói, Kiều lẩy toàn những thi ca đang dần dà mai một.
Khác với bài của anh Chiêu Dương, bài của Meta chỉ sơ lược qua phần niêm luật vì anh Chiêu Dương đã trình bày cặn kẽ, Meta chú trọng đến việc phân tích mỗi câu trong bài và thú vị hơn cả là làm thế nào chính chúng ta sáng tác.
Không biết các bạn có nhã hứng không?
Liêu thái thái
#70 Posted : Sunday, June 26, 2005 3:56:27 PM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)
Approve Ltt giơ tay xin một gốc cột để dựa, phía trước gần gần á, già cả hơi bị mơ huyền (& nghễnh ngãng) zồi!
cám ơn Bà Bóng
Bà Bóng
#71 Posted : Monday, June 27, 2005 1:05:54 AM(UTC)
Bà Bóng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 20
Points: 0

Quy ước cửa Meta dùng trong bài phân tích :

Quy ước 1: Một liên là một câu giới hạn bằng một chấm xuống hàng. Một liên có 2 vế đối.
Quy ước 2: Hai vế đối trong một liên được phân biệt bằng một dấu chấm phẩy. Để rõ ràng Meta xin phép không dùng cách chấm câu theo lối văn phạm thông thường là dấu phẩy dùng để ngắt đoạn mà ý vẫn còn tiếp nối sang đoạn sau, dấu chấm dùng để ngắt câu đã trọn ý . Meta đặt ra quy ước chấm câu như sau : Mỗi 1 đoạn trong vế cách nhau bằng dấu phẩy, mỗi vế cách nhau một dấu chấm phẩy và hai vế (tức một liên) thì xuống hàng . Nhắc lại hai vế trong một liên phải đối với nhau . Bằng cách này tuy có chỗ phi lý, chẳng hạn câu :
-Sao rằng gian, sao rằng nịnh, ai muốn hỏi hãy nhìn tiêu trên mả Ngụy Khôi; Đâu là họa, đâu là tai , ai muốn hỏi nên xem bảng tại làng Đa Phước .
Đoạn "Sao rằng gian, sao rằng nịnh" và đoạn "Đâu là họa, đâu là tai" phải được đánh dấu hỏi mới hợp lý nhưng Meta chỉ đánh dấu phẩy để cho rõ nó là tiểu đoạn trong vế . Sau dấu chấm phẩy là bắt đầu vế sau, đến khi xuống hàng là hết một liên. Cách chấm câu này làm cho việc phân tích bài phú thêm rõ ràng . Xin đừng bắt lỗi chấm câu theo cách thông thường nhé.
Quy ước 3: Những chữ in nghiêng là phần trích dẫn bài viết của anh Chiêu Dương. Trích lại vì nó ở tuốt trang một, khó tham khảo.
Quy ước 4: Mỗi liên đều được đánh số cho tiện phân tích.

______________________________________________

Mùa xuân năm Kỷ Mùi 1859, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lăng nước ta . Đồng bào lục tỉnh miền Nam đang sống an bình bỗng trở nên nghiêm trọng . Cuộc chiến tranh Việt Pháp diễn ra, triều đình phải ký kết nhường ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường cho Pháp . Theo tinh thần bản ký nhượng này, triều đình phải ngưng các cuộc nổi dậy đề kháng của các sĩ phu và dân chúng lại .
Tuy nhiên mặc cho lệnh triều đình, dân ta vẫn nổi lên chống lại . Bài cáo thị Cần Vương ra đời vào khoảng thời gian ấy với nội dung là kêu gọi lòng yêu nước trong nhân dân, nổi lên chống Pháp . Chúng ta chưa biết tác giả là ai, nhưng hẳn tác giả là một bậc sĩ phu miền Nam, kêu gọi đồng bào chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược . Cùng với nhân dân và đi trước nhân dân, bậc sĩ phu nước ta đã góp phần lớn lao trong công cuộc chống ngoại xâm bền bỉ, liên tục nhiều ngàn năm. Hãy phân tích bài Cáo thị Cần Vương sau đây :

Cáo thị Cần Vương (Liên vận)

1 - Lời truyền cáo thị; Nói với sĩ phu .
2 - Nước Nam ta có mối xung thù; Cùng giặc Tây là loài di địch .
3 - Bởi chúng nó đem lòng bội nghịch; Kkhiến dân mình gặp thuở loạn ly .
4 - Chẳng qua là Trời bắt gian nguy; Cho nên nỗi nước nhiều tai nạn .
5 - Đường trị loạn sách xưa còn bản; Lẽ chánh tà đời trước treo gương .
6 - Làm người khôn nghĩ xét cho tường; Thà đứa dại lỗi đường cũng đáng .
7 - Nọ thủa Hung Nô đánh Hán, tướng mạnh như hùm, binh đông như cỏ, cướp ải Lang, dành ải Hổ, tới mãn tuồng Nô cũng về Nô ; Kìa khi Đột Quyết quấy Đường, xe đi chật đất, ngựa tế đầy đồng, phá trấn Bắc, đốt trấn Đông, chừng rã đám Đột hoàn lại Đột .
8 - Xa thơ mới hãy còn lộn một; Phong cương này há để chia ba .

Nay Tây cùng Ta :

9 - Muôn trùng non nước cách xa; Trăm việc ở ăn lạ thói .
10 - Tuy lắm tàu đồng ống khói; Dẫu nhiều súng thiếc đạn chì .
11 - Trải sáu tỉnh qua dẹp cõi biên thùy; Hơn trăm trận liền hao ngôi tướng soái .
12 - Đòi xin ba tỉnh , lời nào rằng phải; Bắt họa muôn dân, của mấy cho vừa .
13 - Ta hiệp lòng há nhịn thua ư; Mọi lấn chỗ sao đành để vậy .
14 - Ở đâu mà chẳng thấy phá miễu chùa, đào mồ mả, làm những việc bất nhân; Ở đâu mà chẳng thấy đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo .

Hỡi ơi !

15 - Thành xiêu quách đổ bởi ai gây; Ruộng nát vườn tan do lũ ráo .
16 - Lồng lộng cao xanh, há nỡ để dân ta búng xáo; Mênh mông soi xét, lẽ nào cho chúng nó ăn chơi .
17 - Xưa nay ai mạnh qua Trời; Đâu đó vật đều có chủ .

Ngỏ nay :

18 - Nơi Thần Kinh ấy nơi thiên phú; Đức Kim Thượng là đức Thánh Tông .
19 - Hơn ba mươi tỉnh hội đồng; Dư sáu chục năm huệ dưỡng .
20 - Văn võ hiếm người làm tướng; Man di nhiều nước đến chầu .
21 - Nhớ xưa kia chúng đã cúi đầu; Đến nay lại tay nào trở mặt .

Ớ các tổng làng !

22 - Chớ thấy chín từng hòa nghị mà tấm lòng địch khái vội quên; Chớ rằng ba tỉnh trọn vong mà công cuộc báo cừu nỡ bỏ .
23 - Nhớ mới thuở rèn mác trường, đương nón gỗ, lên đường hăm hở ra oai .
24 - Há buổi nay chạy bạc nén, vén tiền trăm, vào cửa lom khom tạ nó .
25 - Mặt đâu tới lãnh bằng ngày nọ; Xác nào ra đầu thú hôm nay .
26 - Đã thề nguyền hết sức đánh Tây; Đâu sợ chết cúi mình theo giặc .
27 - Một đường cái há phân nam Bắc; Một tóc tơ nỡ nhuộm xanh vàng .
28 - Đừng cho thày Địch thở than; Chớ để họ Nhạc cay đắng .
29 - Ơn thủy thổ thảy đều mang nặng; Việc thần dân chớ khá lỗi nghì .
30 - Cố bảo nhau gắng giữ lòng bền; Đừng nghe chúng ra mà đầu thú .
31 - Chớ thấy Gò Công thất thủ, mà trở mặt hại nhau; Đừng rằng Bến ngher' an cư, mà đành lòng theo mọi .
32 - Sao rằng gian, sao rằng nịnh, ai muốn hỏi hãy nhìn tiêu trên mả Ngụy Khôi; Đâu là họa, đâu là tai , ai muốn hỏi nên xem bảng tại làng Đa Phước .
33 - Oan nhường ấy, tình nhường ấy, căm thù nhường ấy, tính sao trả được mới hài; Công bấy lâu, nghiệp bấy lâu, lao khổ bấy lâu, đâu nỡ bỏ đi sao phải .
34 - Dẫu có lỡ sát thời hãy tìm nơi sơn trại mà tụ tập anh hùng, sống vì Vua, thác vì Vua, dốc cùng lòng trước sau chẳng trái ; Dẫu có rủi sa cơ phải xuống dưới tuyền đài cũng phụng thờ hương khói, tên còn chép, họ còn chép, để nức danh thơm rọi sáng hoài .
35 - Chớ để xóm làng cho Bạch Quỷ vãng lai; Chớ để phần mộ cho Tây Dương phá hại .
36 - Khá ra tay mà vùa cột cái; Tua gắng sức chống đỡ tường xiêu .
37 - Để nghìn năm dằng dặc, vững đất Thuấn trời Nghiêu; Ngõ muôn kiếp miên miên, bền sự nghiệp thư son khoán sắt .
38 - Chữ đới thiên bất cộng, nghĩ căm căm ruột tím gan bầm; Câu giữ quốc đồng ưu, phải khăng khăng lòng ghi dạ tạc .

ooOoo



Phân tích.


BỐ CỤC:
Một bài Ðường phú gồm có 6 phần :

• Lung bao quát ý toàn bài sẽ suy diễn.
• Biện Nguyên là nói nguyên ủy , gốc tích cho rõ ý đầu bài
• Thích thực là giải thích cho hết ý nghĩa
• Phu Diễn bày tỏ thêm cho rộng
• Nghị luận là bàn bạc
• Kết là tóm tắt lại ý đầu bài.
Chiêu Dương.
(xin nhắc lại quy ước, chữ in nghiêng là nguyên tác của anh Chiêu Dương.)

Bố cục:

Câu 1 - 4 là Lung , trình bày tổng quát đề bài .
Câu 5 - 8 là Biện nguyên, xác nhận đầu bài, nêu rõ nguyên ủy gốc tích, giải thích rõ ý của đề bài mà chuyển vào bài.
Câu 9 - 14 là thích thực: Mô tả hết ý nghĩa của đề.
Câu 15 - 21 là phô diễn : Suy rộng ý của đề bài.
Câu 22 - 36 là nghị luận : Phê phán, đánh giá, bàn bạc ý nghĩa của đề bài .
Câu 37 - 38 Kết : Gói ghém chung ý tứ của đề bài lại.

Gieo vần:

Ta thấy mỗi một câu (tức một liên, chia theo cách Meta) gồm hai vế đối với nhau chặt chẽ . Cách gieo vần thì chữ cuối một liên (gọi là chữ đậu câu ), nếu là vần trắc, sẽ bắt vần với chữ cuối , vần trắc của vế trước giữa liên kế . Chữ cuối liên kế là vần bằng, bắt với vần bằng chữ cuối vế trước của liên kế tiếp. Cứ như thế đến hết bài . Ví dụ :

-Mặt đâu tới lãnh bằng ngày nọ; Xác nào ra đầu thú hôm "nay".
-Đã thề nguyền hết sức đánh "Tây"; Đâu sợ chết cúi mình theo "giặc".
-Một đường cái há phân nam "Bắc"; Một tóc tơ nỡ nhuộm xanh "vàng".
-Đừng cho thày Địch thở "than"; Chớ để họ Nhạc cay đắng.

Chữ "vàng" ở cuối câu lại bắt vần bằng với chữ đậu câu của câu kế, chữ "than". Lối gieo vận này gọi là liên vận.

Cách đặt câu trong Phú và Văn Tế :

Cái mà ta gọi là câu bây giờ , trong phú ( hay văn tế ) gọi là liên , và ở đây tiếng “ câu “ dùng để chỉ một thành phần của một liên , theo lối trình bày của Học giả Ưu Thiên Bùi Kỷ ( Quốc Văn Cụ Thể ) thì như sau :

Có 4 lối đặt câu hay 4 thứ liên :

• Bát tự gồm 2 vế , mỗi vế 4 chữ :

Thí dụ :
Tình dưới viên mao ,// phận trong giáp trụ

• Song quan gồm 2 vế , mỗi vế trên ( > ) 4 chữ

Thí dụ :
Cho hay sinh là ký mà tử là qui // mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ .

• Cách cú gồm 2 vế , mỗi vế 2 câu :

Thí dụ :
Dấn thân cho nước / son sắt một lòng //
Nối nghĩa cùng thầy / tuyết sương mấy độ .

• Hạc tất gồm 2 vế , mỗi vế 3 câu trở lên ( >)

Thí dụ : Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc / mịt mù gió lốc / thổi dấu tha hương //
Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan / lập loè lửa trơi / soi chừng cổ độ .

Chúng ta …có quyền chọn lựa một trong 4 lối đặt câu trên , hay tài hoa hơn là dùng hết cả 4 lối này , hay dùng xen kẽ , tự vì Phú thi ( hay Văn tế ) không khe khắt số câu như thơ …Miễn sao đạt yêu cầu cách cấu từ và phép biền ngẫu làm nền là đã thành tựu một bài Phú thi …
Chiêu Dương.


Phép đặt câu trong Cáo thị Cần Vương:

Câu 1 đặt câu theo lối tứ tự , mỗi vế 4 chữ .
Câu 2 - 6 đặt câu theo lối song quan, mỗi vế có từ 5 đến 9 chữ đi liền một mạch .
Câu 7 đặt câu theo lối hạc tất . Mỗi vế có từ 3 đoạn trở lên, dài ngắn khác nhau .
Câu 8 - 11 là song quan .
Câu 12 đặt câu theo lối bát tự, mỗi vế có 8 chữ chia thành hai đoạn bằng nhau , mỗi đoạn 4 chữ .
Câu 13 theo lối song quan .
Câu 14 hạc tất .
Câu 15 là song quan .
Câu 16 đặt theo lối cách cú , mỗi vế chia làm hai đoạn dài ngắn khác nhau .
...
...

Meta chỉ liệt kê từ câu 1 tới câu 16 thôi . Tới đây hẳn bạn đọc phân biệt được phép đặt câu theo lối gì từ câu 17 cho đến hết bài rồi . Xin miễn nói thêm về lối đặt câu để tránh dài dòng .

ooOoo

Dẫu biết chép một bài phú nữa thì quá dài dòng, nhưng để bạn đọc biết về độc vận, Meta xin phép chép một bài nữa, dùng độc vận .

Phú Gia Định thất thủ ( độc vận)

Thương thay đất Gia định!
Tiếc thay đất Gia Định!
Vực hóa nên cồn; Đất bằng nổi sóng .
Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến trâu ; Dây thép giăng nhấp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng .
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mờ; Non sông dời đổi họa mi, tưởng tới dường mê dường mộng .
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng; Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà Trời dậy sấm .
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca; Tò le kèn thổi tối Trời nam, man mác năm canh không tiếng trống .
Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh (1); Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ thêm lúng túng .
Từ Bến Thành trải qua Chợ Đũi loài tinh chiên (2) loạn xạ biết bao nhiêu; Nơi Chợ Lớn sấp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm .
Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán, quân tham tàn đắc ý vênh râu; Chùa Cẩm Thảo trải tới Cây mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng .
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây; Chốn chốn lập đồn canh ụ súng .
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô , thân thế đều khô ; Bát ngát nhỉ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng .
Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp tan tành; Đòi nơi Rạch Giá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống lỗng .
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu; Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống .
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng yên phần; Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ còn khôn nỗi sống .
Sau trước vầy đoàn bạch Quỷ, dân ta đòi bữa đòi suy; Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng .
Cờ Thành Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chông gai; Áo Võ Vương sao chẳng thấy gầy, nỡ để dân đen bùn lấm .
Đầu Trung nguyên tóc hỡi còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân Thu xin chớ kiếm Hoàn Công; Tay tả nhẫm(3) áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng .
Bóng xế dậm ngàn mây man mác, nước non này ai thấy cũng buồn; Trời chiều chim chóc nhẩy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động .
Ta nay nhân cảm với cuộc đời, Vậy nên tả một vài ngẫu vận .

ooOoo

(1) Tức là nghe gió thổi, chim hạc kêu mà phập phồng lo sợ tưởng như giặc tràn đến nơi . Tích Bồ Kiên, vua nhà Tần trước khi bị quân nhà Tấn đuổi đánh, quân sĩ tới đâu nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu cũng giật mình tưởng quân nhà Tấn đã tới .
(2) Tinh chiên là hôi tanh . Chỉ bọn cướp nước .
(3) Tả nhẫm là khép vạt áo sang bên trái, tục mọi rợ . Khổng Tử nói : "Không có Quản Trọng thì chúng ta khép vạt áo sang bên trái hết " . Nghĩa là không có Quản Trọng thì phong hóa suy đồi, văn minh thành mọi rợ ngay .

Bài này dùng chỉ một vần "ộng" hay "ụng" , âm trắc . Không cần bắt yêu vận với chữ cuối của vế trước ở giữa câu kế .
Tới đây chúng ta có thể sang phần Văn Tế được rồi.

Còn tiếp.


Bà Bóng
#72 Posted : Monday, June 27, 2005 1:14:14 AM(UTC)
Bà Bóng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 20
Points: 0

VĂN TẾ

1 - CÁC LỜI VĂN TẾ :
Theo sách Thọ Mai thì Văn Tế có nghĩa rất rộng bao gồm các loại văn dùng để tế thần thánh, tế người sống kẻ chết và cả chúc tụng nữa. Nhưng về sau Văn Tế chỉ dùng để tế người chết, kể lể tính nết, công đức kẻ quá cố và nỗi thương nhớ của người còn sống đối với người đã mãn phần. Văn Tế thường được làm theo nhiều hình thức như :
a) Văn xuôi.
b) Lối tán, mỗi câu 4 hay 5 chữ . Có vần, có đối hoặc không đối.
c) Lối Phú cổ thể (dùng chữ hề, đã nói ở trên) hoặc lưu thủy.
d) Lối Phú Đường luật.
e) Trong văn Nôm, Văn Tế còn có thể làm theo thể song thất lục bát ( Như văn tế Thập loại chúng sinh của Nguyễn Du).
Tuy vậy ta có thể qui thành 2 loại : Thể tự do và thể phỏng theo phú Đường luật.

2 - VĂN TẾ PHỎNG THEO ĐƯỜNG PHÚ :
a) Qui tắc hiệp vần. Cách đặt câu và luật bằng trắc của bài Văn Tế theo đúng thể thức của Phú Đường luật đã trình bày trên. Ta có thể lấy bài Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Nguyễn Đình Chiểu làm tiêu biểu cho thể loại Văn Tế theo qui tắc Phú Đường luật sau đây:


Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc


-- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)


Hỡi ơi !
1 - Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ .
2 - Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây,thân tuy mất tiếng vang như mõ .

Nhớ linh xưa !

3 - Côi cút làm ăn; Riêng lo nghèo khổ,
4 - Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung;chỉn biết ruộng trâu ở theo làng hộ .
5 - Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen; Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó .
6 - Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như nắng hạn trông mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ .
7 - Đêm thấy bòng bong che trắng lớp, những muốn ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen xì, toan ra cắn cổ .
8 - Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi huơu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó .
9 - Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ .

Khá thương thay !

10 - Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo giòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân làng, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11 - Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố .
12 - Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bao ngòi; Trong tay dùng một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ .
13 - Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ .
14 - Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như khộng; Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có .
15 - Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mả tà, mả ái hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ .
16 - Những lăm lòng nghĩa sau dùng , đâu biết xác phàm vội bỏ; Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây .
17 - Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mô; Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng .
18 - Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số .

Nhưng nghĩ rằng

19 - Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó ?
20 - Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; Vì ai xui hào luỹ tan hoang, xiêu mưa ngà gió ?
21 - Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, nghĩ lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mả tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ .
22 - Thà thác mà đặng câu dịch khái, về sau tổ phụ cũng vinh; Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ .

Ôi thôi thôi !

23 - Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Đồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
24 - Đau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế vật vờ trước ngõ .

Ôi !

25 - Một trận khói tan; Nghìn năm tiết rỡ .
26 - Binh tướng nó rày đóng sông Bến Nghé, còn làm cho bốn phía mây đen; Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ .
27 - Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ .
28 - Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó .
29 - Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ .

Hỡi ơi !
Có linh xin huởng !

ooOoo

Bài này theo qui tắc Phú độc vận , dùng vần "ổ" . Meta đã đánh số cho mỗi "liên", mời các bạn phân tích mỗi câu dùng lối tứ tự, bát tư, song quan, cách cú hay gối hạc nhé. Dễ thôi mà.

b) Bố cục bài Văn Tế : Chia làm 4 phần như sau :

1 - Phần mở bài, thường bắt đầu bằng câu than : "Than ôi", "Than rằng" hoặc "Thương ôi", "Hỡi ôi" . Trước hết đặt một câu cách cú hoặc gối hạc rồi một câu song quan . (xin đọc lại phần giải thích gối hạc, song quan trong phần nói về Phú ở trên) .
2 - Phần kể về đức tính, công nghiệp của người chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ "Nhớ cha xưa", "Nhớ linh xưa" ... Trước hết đặt vài câu tứ tự hoặc bát tự rồi đến những câu cách cú, song quan, gối hạc nhiều ít tùy ý .
3 - Phần than tiếc người đã khuất, thường bắt đầu bằng chữ :"Ôi" hoặc "Ôi thôi", "Ai tai" ... Cách đặt câu cũng như trên .
4 - Cuối cùng là phần tỏ tình thương nhớ của người đứng tế, thường bắt đầu bằng mấy chữ : "Con nay", "Bản chức nay", "Tôi với ông nay" ... Cuối phần này là 2 chữ :"Thượng hưởng" có nghĩa là mong ước hưởng cho dùng kết thúc bài Văn Tế .

3 - VĂN TẾ THỂ TỰ DO :
Đây là 1 bài tiêu biểu cho văn tế tự do, nghĩa là chẳng theo luật nào cả . Không đối, không bằng trắc, không giới hạn số chữ, số câu . Meta xin đơn cử bài Văn Tế Ngạc Nhi cho các bạn tường lãm .
Ngạc Nhi tức Francis Garnier, tên tướng thực dân Pháp, đem binh ra Hà Nội can thiệp vụ Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) không được nhà cầm quyền ta cho phép chở hàng lên Vân Nam bằng đường sông Hồng, để xâm chiếm Bắc Kỳ . Ngạc Nhi đánh thành hà Nội, và sau đó bị liên quân Cờ Đen và nghĩa binh ta phục kích giết chết ở ô Cầu Giấy . Theo cụ Phạm Trung Hợp (tức Đồ Huyên) người làng Dũng Quyết, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định là môn đệ cụ Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền, và đã từng tham gia phong trào Văn Thân kể lại thì bài Văn Tế Ngạc Nhi là của cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến, người làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam . Sau khi ký hòa ước Việt Pháp các quan ta tại Hà Thành tổ chức lễ truy điệu Francis Garnier để lấy lòng người Pháp . Quan tổng đốc Hà Nội là Trần Đình Túc, người sợ Tây khét tiếng, cử cụ Nguyễn Khuyến làm một bài Văn Tế . Cụ đành nghe lời, vì đây là lệnh cửu trùng qua miệng quan tổng đốc .
Bài Văn Tế rất ngắn, nhưng rất lạ , nhất là thoát hẳn với các thể tài Văn Tế khác xưa nay, kể cả nội dung lẫn hình thức, và rất sát với thực tế, với những nét đặc biệt của một tên thực dân . Lời văn bình dị và mỉa mai, toàn bài không có một điển tích hay sáo ngữ nào .
Bảo rằng tế nhưng thực ra là chửi . Nhất là lại bảo "ăn no uống say" để rồi "nằm cho yên ổ" thì khác nào như bảo lũ chó chết . Meta chịu khó gõ cho các bạn xem, không phải Văn Tế nào cũng cầu kỳ rắc rối như đã kể trên đâu .

Văn Tế Ngạc-Nhi

Than ôi !

Một phút sa cơ
Ra người thiên cổ

Nhớ ông xưa:

Cái mắt ông xanh,
Cái da ông đỏ,
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Đít ông cưỡi lừa .
Miệng ông huýt chó .
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giầy có mỏ .
Ông ở bên Tây,
Ông sang đô hộ .
Đánh giặc Cờ Đen,
Để yên con đỏ .

Nào ngờ:


Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ .
Cái đầu ông đây
Cái mình ông đó .
Khốn nạn thân ông,
Đù cha mẹ nó !

Tôi :

Vâng lệnh quan trên,
Cúng ông một cỗ,
Này chuối một buồng
Này rượu một hũ,
Này xôi một mâm,
Này trứng một rổ,
Ông có linh thiêng,
Mời ông xơi hộ,
Ăn uống no say,
Nằm yên một chỗ .
Ối ông Ngạc Nhi ôi !
Nói càng thêm khổ .

Nguyễn Khuyến .

Còn tiếp.


Bà Bóng
#73 Posted : Monday, June 27, 2005 1:34:43 AM(UTC)
Bà Bóng

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 20
Points: 0

PHẦN ỨNG DỤNG :

Thưa các bạn một bài biên khảo chỉ có sao chép, cắt xén tư liệu gộp lại thì không mấy giá trị mà cũng khó lãnh hội. Theo tôi, muốn viết một bài biên khảo, người viết ít nhất phải sáng tạo ra cách trình bày mới, dễ hiểu hơn, dẫn chứng nhiều thí dụ chính mình sáng tác, bởi bài sáng tác trong tiết đoạn đó có ý hướng làm sáng tỏ thêm vấn đề mình đang nói tới. Đọc một bài lượng giác học mà không nêu vài ứng dụng, lắm khi con trẻ chẳng biết sin, cosin ngoài việc làm bài tập chẳng biết dùng vào việc gì ngoài đời. Trong mọi biên khảo của Meta, sau khi trình bày tường tận vấn đề, đều có phần ứng dụng. Gần đây một thi gia Cộng Sản sau khi dâng hiến trọn đời cho Bác và Đảng, từng ca ngợi Staline, 1 lãnh tụ Cộng Sản khát máu người Nga, giết hại hàng chục triệu dân Nga trong các Gulag. Thiết tưởng không nên để chính trị xen vào bài này nhưng theo ý cố học giả Nguyễn Hiến Lê khi đề cập đến nhà thơ Tố Hữu, một thi gia ca ngợi một ông chủ tịch Đảng người Nga, so sánh vị ấy với công ơn dưỡng dục của cha mẹ, nó có vẻ hèn không đáng với sĩ khí người cầm bút.
Nắm được quy luật của văn tế, Meta sáng tác bài dưới đây.


Văn tế ông Tố Hữu.

Ối giời cao đất dầy ơi!

Thuở kháng chiến Tây đi Mỹ đến, cơm hẩm gạo thiu ông tồm tộp, một nồi to ông hốc phưỡn dạ dày; Thời mở cửa Nga cút Tàu nhào, rượu thơm thịt béo ông ỉm im, ba tấm ván ông nằm ngay cán cuốc.
Kém một ngày chẳng đi, hơn một ngày chẳng ở . Nghĩ rằng : hồi xuân chi lão, tốt củ mà xấu dây, ngữ ấy thánh đâm chẳng chịu chết, đỉa chịu thua răng ấy dái này; Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi kẻ một mồ. Ai ngờ : đòi nọc lơn choai, đẹp lòng thêm đẹp mặt, giống này giời đánh vẫn đi tơ, thuốc hết chữa mỏ xuôi cẳng ngược.
Ông với lợn tôi, chẳng xóm giềng xóm tỏi, đường gió mây sao khéo rủ rê; Mác với Hồ già, ấy đứa tớ đứa thầy, lối địa ngục cùng nhau lần lượt.

Nhớ ông xưa !

Thương bác Sì mười; Thương cha mẹ một.
Lọt lòng mẹ ông khóc giọng Liên Xô; Bước vào đời ông làm thơ Trung Quốc.
Tim ông có ba lỗ, đựng tình yêu một lỗ, chẳng chỗ nào ông chứa đựng mẹ cha; Ruột ông cuộn tám khoanh, lưng chữ nghĩa nửa khoanh, còn tất cả ông dồn cho tổ quốc.
Nức tiếng văn hay; Lừng danh chữ tốt .
Thời giặc giã hôm xưa từng bỏ bẫng thê noa; Dạo đấu tố năm nào chửa giết xong dòng tộc .
Khi dưới thác trên ghềnh, phen đầu non cuối bãi, chữ trung trinh Bác Đảng sắt son; Lúc chân mây góc bể, dạo cữ gió tuần mưa, bài nghĩa bộc Nga Hoa làu thuộc.
Hết khóc Sì Ta Lin, Sì Ta Lỉn lại khóc bác Mảo, bác Mao; Vừa than vãn bác Hổ bác Hồ, chưa kịp điếu chú Pôn, chú Pốt .

Khá thương thay!

Dịch thổ tả năm kia ông vẫn sống trơ trơ; Thượng mã phong phút nọ ông đành dông tuốt luốt .
Giận cho lão Trời già; Căm thay ông thầy thuốc.
Bẽ bàng sao hoa liễu trụ sinh; Trơ trẽn bấy xuyên tâm liên thần dược.
Tài như ông chạy mặt Nguyễn Du; Dũng như ông đứng tim Thái Học .
Già tám mươi cật dai bụng dẻo, thú trần ai sao vội buông xuôi; Non nửa tá vợ dại con thơ, mắt lợn luộc thôi đành trợn ngược.

Tôi nay !

Giận thì giận mà thương thì vẫn thương; Cười chẳng cười mà khóc không ra khóc.
Bó hành đưa lợn xa chơi; Nắm nhang kính ông thẳng bước.
Đừng tính thiệt ra hơn, bước chân đi cấm kỳ giở lại, nẻo âm dương quay lộn tới lui; Chớ nghĩ dại hóa khôn, vụng nước cờ hạ thủ bất hườn, thế chiếu bí phản hồi sau trước.
Khổ cho tôi mà cũng nhục cho ông; Tủi thằng dân mà cũng đau cho nước.

Thôi thì :

Bát cơm hẩm, thịt ôi cúng các đảng, cho chó chó chê; Đĩa muối dưa, cà khú thí cô hồn, kính ông ông đớp.

Tố Hữu sống khôn thác thiêng ra mà hốc.

Thượng hưởng!

ooOoo

Bài này khó vì dùng độc vận "ớc" hay "ột". Mỗi vế phải đối với nhau chặt chẽ về bằng trắc và ý nghĩa . Phải mất hai ngày gạn lọc từng chữ, Meta mới viết xong. Liên vận như bài Cáo Thị Cần Vương còn khó hơn nữa vì ngoài việc đối còn phải gieo vận cho mỗi vế nữa. Thảo nào khó khăn như vậy, ngày nay ta chỉ thấy các bài văn tế thuộc loại tự do hoặc ngẫu vận thôi. Trái lại, bài Văn tế ông Ngạc Nhi tương đối dễ vì chẳng lề luật gì cả.

Sang qua Hát Nói.

Còn tiếp.
Thăng Long
#74 Posted : Monday, June 27, 2005 4:07:34 PM(UTC)
Thăng Long

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18
Points: 0


HÁT NÓI.

Thưa các bạn.

Nhận thấy trong văn học Việt Nam , bộ môn Hát nói càng ngày càng chìm vào quên lãng. Trước nguy cơ ấy tôi không ngại bỏ thì giờ sưu tầm, tham khảo để cùng các bạn ôn lại thể thơ Hát nói . Gọi là bộ môn thay vì gọi là thể thơ, tôi cũng có dụng ý. Ngày xưa bậc tao nhân mặc khách sáng tác những bài thơ Hát Nói lưu truyền cho tới ngày nay không chỉ để sáng tác vì nghệ thuật mà còn là thú tiêu khiển của kẻ thích chơi trống bỏi.
Kẻ hay chữ thời xưa thường luống tuổi, người hiển đạt cũng như kẻ sách đèn đều đã hoặc đang nhờ cậy vào sự đảm đang tần tảo của hiền nội. Dĩ nhiên dù 1 thời có sắc nước hương trời, thời gian và sự làm lụng vất vả cũng làm cho nhan sắc phai tàn, các cụ đành đi tìm của lạ. Bộ môn Hát nói ra đời từ hồi nào ta không biết chính xác, nhưng bắt nguồn từ duyên do đó.
Ta có thể ví Hát nói như Karaoke ôm bên VN. Cái này thì tôi rành lắm Bạn có thể đi cùng 1 hay 2 người bạn, người được gọi là quản lý sẽ dẫn bạn đến 1 phòng được thiết trí để nghe nhạc, nghĩa là kín và ấm cúng. Cũng vẫn người quản lý dẫn "các em "vô, số em tuỳ theo số khách. Lúc này bạn có thể yêu cầu quản lý cho đổi "em" khác nếu không vừa ý . Sau đó là tới màn uống bia. Bạn không biết uống bia ư? No problem ! Ly của bạn luôn đầy tràn, bạn không uống thì các em, lấy lý do thay đá mới cho lạnh hoặc đá làm loãng bia, đổ ly của bạn vào cái chậu dưới gầm bàn. Chai bia mới cứ khui soành soạch . Chẳng mấy chốc bạn cũng "cạn" 20 lon bia như chơi. Dĩ nhiên các em cũng uống cầm chừng chiều khách. Trong lúc ca hát bạn trả giá cho 1 đêm "chiến đấu". Thoả thuận , bạn có thể chấm dứt ca hát bất cứ lúc nào. Trả tiền bia, tiền tips cho các em lẫn quản lý ($5.00 1 người, kể cả tiền bia tổng cộng khoảng $100.00) rồi chia tay bạn bè, mỗi ông 1 em về khách sạn để "mở mang trí tuệ".
Các cụ xưa cũng thế. Chủ chứa khi có khách lo bắt gà làm thịt, có khi đích thân tiếp khách, có khi phải đi gọi nếu có vị khách khó tính đòi cho được "em" quen. Ăn nhậu, hút thuốc phiện, sáng tác tại chỗ hay đã sáng tác từ trước, đưa cho cô đầu hát. Phải có đàn đáy và trống bỏi. Trống bỏi là cái trống con nhỏ như trống lắc của thợ nhuộm, gõ kêu "tom tom" để giữ nhịp hay tỏ ý tán thưởng. Có câu : Già mà còn ham trống bỏi , chế diễu người già mà dê dẩm. Buồn ngủ thì mỗi cụ 1 em chui vào cái mùng giăng sẵn, tha hồ mà "tom chát". Văn học Việt Nam đã có nhiều áng thơ Hát nói được lưu truyền đến ngày nay, đều phát xuất từ những cuộc ăn chơi như thế. Xin xem phần đọc thêm để thưởng thức các bài Hát nói nức danh thời đó.
Cần giải thích thêm về luật bằng trắc nếu có bạn thắc mắc sao lại có luật lệ nhiêu khê đến thế. Các bạn hẳn rõ, thi ca từ Đường thi, cho đến Hát nói được sáng tác không phải để đọc mà là để ca ngâm. Thi luôn đi đôi với ca. Tiếng sáo sẽ lạc lõng lắm nếu 1 bài Đường thi lỏng lẻo niêm luật. Cũng như vậy, tiếng nhị sẽ ngang phè nếu bài Hát nói sai luật bằng trắc, nhịp trống sẽ ra sao nếu 2 câu thơ không đủ 7 chữ hay câu keo không là 6 chữ? Để dễ hiểu, tôi xin dẫn giải bằng tân nhạc. Tân nhạc khác cổ nhạc ở chỗ 1 bản nhạc phải được sáng tạo cả nhịp điệu, cung âm và cả lời nhạc nữa. Cổ nhạc thì nhịp điệu đã có sẵn, ta chỉ sáng tác lời thôi, ví dụ điệu cò lả, quan họ, trấn thủ lưu đồn, xàng xê, lưu thuỷ hành vân.Thử đọc câu :" Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn". Nếu câu này được 1 nghệ sĩ cổ nhạc sáng tác, ông ta chỉ thay lời rồi chú thích : Hát theo điệu Người cô đơn là đủ. Tuy nhiên ông ta phải tôn trọng luật bằng trắc, nếu không đàn cũng sai và người ca cũng chẳng biết ca thế nào nữa. Ví dụ : "Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn đau khổ" thì ca thế nào, đờn làm sao? Cho nên luật bằng trắc và đủ mọi lề luật khác ra đời làm cho những kẻ ngang ngược như tôi phải lận đận lao đao vì nó. Tóm lại, luật là để giữ tấu tức âm điệu . Số chữ hạn chế trong câu là để giữ tiết tức là nhịp. Bây giờ bắt đầu phần đào sâu vào luật nhé.

I /- SỰ XUẤT HIỆN CỦA THỂ HÁT NÓI :

Hát nói xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ 18 nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ thứ 19 mới có những tác phẩm lưu truyền đến nay như các tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát ... Nguồn gốc của thể Hát nói trong văn chương Việt Nam được giải thích bằng những nguyên nhân và các sự việc sau đây :

1- Hát nói là sự phàm tục hoá những thể thánh ca. Trước khi có Hát nói, nói rộng ra là trước khi có những bài hát ả đào hay ca trù, ở nước ta đã có những bài hát cửa đền, cửa chùa, những bài thét nhạc (bài hát có âm nhạc phụ hoạ). Những thể ca trong các dịp tế lễ đó chuyển dần công dụng và được các tao nhân, mặc khách tổ chức ngay trong những cuộc giải trí riêng của họ . Các bài hát ả đào bắt đầu từ đó.

2- Hát nói là sự cụ thể hoá ảnh hưởng của học thuyết Lão - Trang. Xưa kia văn chương Việt Nam về nội dung phải gò bó trong những tư tưởng Khổng Mạnh, về hình thức phải đem theo những qui luật khắt khe, những lối diễn tả nhất định. Cuối thế kỷ thứ 18, do hoàn cảnh rối ren trong xã hội, học thuyết Lão - Trang có cơ hội bành trướng và Hát nói chính là sáng tạo của các nhà nho phóng khoáng, thích tự do, ở đấy họ có thể gửi gấm những tư tưởng, cảm xúc vượt ra ngoài khuôn phép với cách diễn đạt cởi mở, rộng rãi hơn.

3- Hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách thời xưa cho rằng Hát nói là một hình thức biến đổi cu/a thể ngâm Song thất lục bát: Trong hát nói có Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu 7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước vận, yêu vận . Nhưng khi đã phát triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối ...

Trong lối Hát ả đào có nhiều loại như: Dâng hương, Giáo trống, Gủi thư, Thét nhạc thì Hát nói là lối thông dụng và có tính văn chương lý thú nhất.

II /- QUY TẮC CỦA MỘT BÀI HÁT NÓI :

a) Số câu. Hát nói có các loại :

- Đủ khổ gồm 3 khổ , mỗi khổ gồm 4 câu, riêng khổ cuối gồm 3 câu. Đây là thể chính thức của Hát nói. ( Xem thí dụ bài Vịnh Thuý Kiều ở sau).
- Bài Hát nói thiếu khổ dưới 11 câu, thường là chỉ có 7 câu .
-Bài Hát nói dôi khổ thì có khổ dôi ra thường chen vào giữa, số câu nhiều hơn 11 .

Trong bài Hát nói đủ khổ 11 câu được đặt tên như sau :

- Khổ đầu: Câu 1, 2 gọi là Lá đầu; câu 3,4 - Xuyên thưa .
- Khổ giữa: Câu 5, 6 gọi là Thơ; câu 7,8 - Xuyên mau .
- Khổ cuối: Câu 9 là Dồn, câu 10 là Xếp, câu 11 là Keo .

b) Số chữ trong một câu :

- Số chữ trong các câu của bài Hát nói là không nhất định , thường một câu có 7, 8 chữ, câu ngắn có 4, 5 chữ, câu dài 12 tới 18 chữ. Ví dụ:

Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
Làm chi cho mệt cuộc đời.

Nhưng 2 câu 5, 6 gọi là Thơ thì phải theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn.

c) Vần:

Trong bài Hát nói dùng cả 2 vần, vần bằng và vần trắc. Nếu một câu Hát nói đổi từ vần bằng sang vần trắc hoặc ngược lại thì có yêu vận và cước vận, những câu mang yêu vận là những câu chẵn, trừ câu thứ sáu chỉ có cước vận mà thôi.
Theo luật thì trong mỗi khổ, cước vận của câu đầu và câu cuối phải dùng tiếng trắc, cước vận 2 câu giữa phải dùng tiếng bằng. Yêu vận câu thứ nhì dùng tiếng trắc, yêu vận câu thứ tư thì dùng tiếng bằng . Yêu vận gieo vào chữ cuối đoạn thứ nhì.

d) Luật bằng trắc :

Theo luật hiệp vận , cước vận của câu đầu trong mỗi khổ hợp với yêu vận của câu thứ hai, yêu vận của câu thứ hai hợp với yêu vận của câu thứ ba, cước vận của câu thứ ba hợp với yêu vận của câu thứ tư . Hợp đây xin được hiểu là cùng tiếng bằng hay trắc chứ không phải hợp là cùng vần . Những chữ thứ nhất, ba, năm trong mỗi câu Hát nói không cần theo đúng luật bằng trắc ( gọi là nhất tam ngũ bất luận). Ta có:

- Câu 1. t T b B t T
- Câu 2. b B t T b B
- Câu 3. b B t T b B
- Câu 4. t T b B t T

Trong đó không kể những chữ gác ra ngoài luật vì số chữ trong mỗi câu hát là không nhất định . Câu 6 chữ phải theo đúng luật kể trên. Còn những câu dài hơn 6 chữ thì muốn ứng dụng luật này phải chia làm 3 đoạn con, trong mỗi đoạn con, chữ cuối phải theo đúng luật bằng trắc. Những chữ gác ra ngoài không kể, được tuỳ ý sử dụng. Những câu ít hơn 6 chữ thì chia làm 2 đoạn mà đoạn thiếu là đoạn đầu không kể còn 2 đoạn sau thì phải theo đúng luật.

Thí dụ 1 . (Chia câu làm 3 đoạn con bằng dấu / )

Đài tước / mở toang / cơn tạo hoá ----------------------- t T b B 0 t T
Phím loan xe / trải mối / cương thường ---------------------0 b B t T b B
Ngán cho Kiều / khi lỡ bước / Sâm Thương ----------0 b B 0 t T b B
Cung đàn nguyệt / dây loan / còn mắc mãi ----------------0 t T b B 0 t T

Thí dụ 2 .

Tài tình / chi với -------------------------------------------------------- b B t T
Đau đớn thay / chút phận / hồng nhan ------------------- 0 b B t T b B
Mười lăm năm / đầy đoạ / cõi trần hoàn ----------- 0 b B t T 0 b B
Khôn trọn vẹn / chũ tình / chữ hiếu ----------------------- 0 t T b B t T

Thí dụ 3 .

Ta xét thêm bài Hát nói Vịnh Thuý Kiều ( tác giả khuyết danh thế kỷ 19 ) sau đây là bài đủ khổ với 11 câu :

VỊNH THUÝ KIỀU

Khổ đầu :

1- Cơ Trời dâu bể ------------------------------------------------ Lá đầu .
2- Khách hồng nhan xiết kể nỗi gian truân ------------ B
3- Mang tấm son đeo đuổi khách hồng quần ------- B - Xuyên thưa .
4- Lời vàng đá dám lỗi cùng non nước --------------- T

Khổ giữa :

5- Ngọc diện khởi ưng mai thuý quốc -------------------- T - Thơ .
6- Băng tâm tự khả đối Kim lang --------------------------- B
7- Mười lăm năm thương xót kẻ đôi phương --- B - Xuyên mau .
8- Ruột tằm bực đã đành nơi chín suối ----------- T

Khổ xếp :

9- Duyên tái ngộ bởi Trời đâu đem lại ------------- T - Câu dồn .
10- Lứa ba thu một mối rõ ràng ---------------------------- B - Câu xếp .
11- Mới hay con Tạo khôn lường ------------------------- B - Câu keo .

Ta thấy câu đầu không tính vần, các câu sau cứ 2 vần bằng lọt vào giữa khổ ( mỗi khổ 4 câu, khổ cuối 3 câu ), lại 2 câu trắc bắc cầu từ khổ này qua khổ kia và bài Hát nói tận cùng là 1 câu 6 chữ vần bằng . Toàn bài Hát nói trên đều dùng cước vận .

YÊU VẬN: Còn yêu vận thì không bó buộc ( NHẮC LẠI, KHÔNG BÓ BUỘC), có thể là bằng hoặc trắc, đặt ở vị trí không nhất định trong câu .

Thí dụ 4 .

CÔ ĐẦU TỰ THÁN

Mưỡu (ddầu, kép) :

1- Cùng chung một tiếng tơ đồng
2- Nào ai tích lục tham hồng là ai ?
3- Nghĩ đời mà ngán cho đời
4- Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa ?

Nói :

1- Yêu đào một đoá ----------------------------------------------- Lá đầu .
2- Bấy lâu nay nấn ná chốn Bình Khang -------------------- B .
3- Nghĩ tài tình nên trọng cũng nên thương ------------ B - Xuyên thưa .
4- Ngờ chi nữa mà khách qua đường hờ hững -- T .

5- Lầu bậc ngũ âm êm tưởng những ----------------- T - Thơ .
6- Chọn người tri kỷ khách hay chăng ------------------------ B .
7- Ấy những ai hẹn ngọc thề vàng -------------------------- B - Xuyên mau .
8- Duyên đằm thắm hoá bẽ bàng sao thế nhỉ ? -------- T .

9- Hàng thưa mối phải chăng xấu vía ? ---------------------- T - Dồn .
10- Ngụ tính tình ta kể một đôi câu ------------------------ B - Xếp .
11- Người buồn cảnh có vui đâu ! ------------------------- B - Keo .

Khuyết Danh .

Bài này có thêm 4 câu Mưỡu đầu (kép) . Hai câu lá đầu yêu vận ( vần lưng là trắc : đoá, ná ), 2 câu xuyên thưa yêu vận ( vần lưng là bằng : thương, đường. Các khổ sau cũng lập lại như thế). Ngoài ra, các câu khác vần có cước vận 2 câu bằng lại 2 câu trắc xen kẽ.

III /- THƠ VÀ MƯỠU TRONG BÀI HÁT NÓI :

a) THƠ:
Trong bài Hát nói bao giờ cũng có 2 câu thơ hoặc bằng chữ Hán mượn của người xưa hoặc do chính tác giả làm ra viết theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Trong bài Vịnh Thuý Kiều ở trên, 2 câu Thơ chữ Hán lấy ở bài Đề Từ của Phạm Quý Thích. Bài Cô đầu tự thán, 2 câu Thơ 5, 6 do tác giả (khuyết danh) tự làm ra. Vị trí thông thường của 2 câu Thơ là câu 5 và 6, tuy nhiên khi phá cách 2 câu Thơ này có thể đưa lên đầu bài hay đến 1 vị trí khác như trong bài Thuý Kiều lưu lạc ( xin xem PHẦN ĐỌC THÊM) thì 2 câu thơ ở vị trí câu 9 và 10 :
Đoạn tràng mông lý căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường

( Xin xem toàn bài Thuý Kiều lưu lạc ở cuối bài ).

b) MƯỠU :
Mưỡu (hay mão có nghĩa dạo đầu, introduction) là những câu thơ lục bát mượn trong ca dao hay thơ của người xưa hoặc do chính tác giả làm ra đặt ở đầu bài (gọi là Mưỡu đầu) hay cuối bài nhưng trước câu keo (gọi là Mưỡu hậu). Mưỡu có thể gồm 2 câu ( Mưỡu đơn) hay 4 câu (Mưỡu kép). Bài Vịnh Kiều của Nguyễn Công Trứ dưới đây dôi khổ (dài hơn 11 câu) và có Mưỡu hậu đơn :

VỊNH KIỀU

1- Đài tước mở toang cơn Tạo hoá
2- Phím loan xe trái mối cương thường
3- Ngán cho Kiều khi lỡ bước Sâm Thương
4- Cung đàn nguyệt dây loan còn mắc mãi

(4 câu dôi khổ):
Đêm thanh vắng gọi Vân ngồi dậy
Bức khăn là phong mở ngồn cơn
Đem lời thệ hải minh sơn
Non nước ấy cậy em gánh vác

5-Thơ rằng : Vì hiếu để tình nên chếch mác
6- Chưa duyên mà nợ khéo đa mang
7- Mảnh gương thề soi với khách văn chương
8- Mùi hương ngát cũng nhờ em rơi đến chị

9- Này con tạo ghét ghen chi lắm bấy ?
10- Cái hồng nhan gẫm lại cũng buồn cười (câu xếp)

(2 câu Mưỡu hậu đơn):
Ấy ai trâm quạt thề bồi
Thấu tình hay chẳng hỡi người Liêu Tây ?

11- Trăng già khéo quấy chi ai ? (câu keo)

Nguyễn Công Trứ

CHÚ Ý : Những câu Mưỡu có thể làm sai lạc qui tắc về cước vận đã trình bày ở trên , tuy nhiên, có điều bắt buộc phải theo là : Mưỡu hậu phải tiếp tục vần của câu xếp để chuyển vần sang câu keo ( cười, bồi, người, Tây, ai ở cuối bài) .

Thăng Long.
Thăng Long
#75 Posted : Monday, June 27, 2005 4:09:52 PM(UTC)
Thăng Long

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18
Points: 0

Cuối cùng là phần lý thú nhất của bài biên khảo. Nắm vững quy luật Hát nói rồi, chúng ta hãy ứng dụng vào trong thơ hiện đại. Đây là bài thơ của Tử Ngôn :


Trăng Giữa Tháng

Mảnh trăng nhỏ nằm nghiêng bên mành trúc
Giống giận hờn, như khúc nhạc thở than
Ngồi bên nhau cùng tơ tưởng mơ màng
Anh em đó, nửa vầng trăng giữa tháng .
Mảnh tình hờ em gác nặng vai anh
Kề môi hôn cho ấm đượm ân tình
Để nhung nhớ giết dần trăng giữa tháng
Và cô độc làm úa cánh môi xinh .
Chiều bên em nắng đang liếc mắt nhìn
Hoa hồng nở chẳng ai thèm, muốn hái
Chỉ có anh một vì sao xa mãi
Muốn ươm đầy nhuỵ ngọt của hoa em ...

Sau đây tôi xin hoán chuyển sang Hát nói :

Trăng Giữa Tháng

Mảnh trăng nhỏ nằm nghiêng bên mành trúc
Giống giận hờn, như khúc nhạc thở than
Ngồi bên nhau cùng tơ tưởng mơ màng
Anh em đó, nửa vầng trăng giữa tháng .

Vân lâu bán khai bích tà bạch (1)
Ngọc luân trát lộ thấp đoàn quang
Mảnh tình hờ em gác nặng vai chàng
Để nhung nhớ giết dần trăng giữa tháng .

Và cô độc làm cánh môi xinh khô hạn
Xót đời hoa chờ tay hái chẳng ai thèm
Chỉ tình anh ngọt nhụy em

Thăng Long.

Chú Thích :
(1) Tường bạc hững hờ cung mây hé
Vành ngọc ngộp sương bóng ướt đầm - Hai câu này không đòi hỏi phải là Hán Văn, Việt văn cũng được nhưng phải là thơ 7 chữ .




Anh Phạm Doanh, một nhà thơ và cũng là 1 nhà khảo cứu về văn học Việt Nam đã làm bài Tương tư theo thể Hát nói để đóng góp vào trong bài viết này :

Tương tư .

Hát Mưỡu :
Tương tư từng sợi đan dài
Giọt buồn đọng lại bờ vai muộn phiền
Về đi, về cố tìm quên
Chuyện tình mờ mịt trong miền cát bay

Hát Nói :
Mười năm đã chia tay ngày ấy
Mà bây giờ còn tấy vết thương
Ta và em mỗi đứa một con đường
Kỷ niệm cũ vấn vương hoài tâm tưởng

Ta lưu lạc đời vô định hướng
Em về đâu ? sung sướng, khổ đau ?
Có những đêm sau cơn rượu nát nhàu
Ta tuyệt vọng, ta ôm đầu, ta khóc

Rồi năm tháng chuyển màu trên mái tóc
Vùng rong rêu bám chặt cả tâm hồn
Ngoài kia trời lại mưa tuôn .


Phạm Doanh
______________

Trên đây là bài Hát nói đủ khổ (11 câu) với mưỡu đầu kép . Tổng cộng 15 câu . Nhằm sáng tỏ hơn những điều trình bày trên, tôi xin sửa để chuyển bài Tương Tư thành bài hát nói dôi khổ nghĩa là dư ra một khổ nữa) không Hát Mưỡu .

TƯƠNG TƯ

Tương tư dài sợi nhỏ
Giọt buồn làm mưa đổ phiến vai nghiêng
Về đi về cố tìm quên
Trong mù cát miền tình yêu nào thấy

Mười năm đã chia tay ngày ấy
Mà bây giờ còn tấy vết thương
Ta và em mỗi đứa một con đường
Kỷ niệm cũ vấn vương hoài tâm tưởng

Ta lưu lạc đời vô định hướng
Em về đâu ? sung sướng, khổ đau ?
Có những đêm sau cơn rượu nát nhàu
Ta tuyệt vọng, ta ôm đầu, ta khóc

Rồi năm tháng chuyển màu trên mái tóc
Vùng rong rêu bám chặt cả tâm hồn
Ngoài kia trời lại mưa tuôn .

Thăng Long._
________________________________

Và đây là một bài thơ lục bát của một bạn gốc Nha Trang được tôi chuyển sang thể Hát Nói :

NHA TRANG

Quê em cát trắng thuỳ dương
Dòng sông trôi nhẹ vấn vương chữ tình
Luỹ tre , xanh ngát bên dình
Thông reo với gió xinh xinh bầu trời
Biển xanh trao nhẹ lời mời
Hiền lành hiếu khách , lòng người miền Trung
Người di ,kẻ ở thuỷ chung
Lòng người xa xứ nhớ mong quê nhà .

Chuyển sang Hát Nói :

NHA TRANG

Biển xanh cát trắng
Đây quê em miền nắng thuận mưa hoà
Có dòng sông, dừa rũ bóng la đà
Khi gió thổi là ngàn thông vi vút tiếng

Ngang tàng Cầu Đá đâm toạc biển
Sừng sững Tháp Bà chọc thủng trời
Dừng chân đây nhé viễn khách ơi
Trong tiếng sóng thiết tha lời mời gọi

Dù vui chân đường sông hồ vạn lối
Thân tha phương nhưng tâm tại cố hương
Nha Trang quê cũ mến thương .

Thăng Long

Vũ Thị Thiên Thư
#76 Posted : Monday, June 27, 2005 9:09:54 PM(UTC)
Vũ Thị Thiên Thư

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,033
Points: 2,430
Woman
Location: Thung Lũng Lá Rơi

Thanks: 231 times
Was thanked: 87 time(s) in 84 post(s)
Cảm ơn các anh chị có nhả hứng

Một phần cuả Hát Nói


http://www.phunuviet.org...m/topic.asp?TOPIC_ID=731
Thăng Long
#77 Posted : Tuesday, June 28, 2005 7:57:44 AM(UTC)
Thăng Long

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18
Points: 0

Vậy là hát nói đã có bài rồi mà Thăng Long không biết. Còn Kiều Lẩy và câu đối, không biết Phụ Nữ Việt đã có chưa?
Users browsing this topic
Guest
4 Pages«<234
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.