Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Miêng
Phượng Các
#1 Posted : Friday, November 26, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Miêng



- Tên thật: Võ Thị Xuân Sương
- Sinh quán Quảng Ngãi, Việt Nam
- Sang Pháp cuối năm 1982
- Tốt nghiệp Luật (Sài gòn 1971) và Hoa ngữ (Pháp, 1987)
- Quản đốc thư viện (Thư Viện Quốc Gia Pháp, trách nhiệm phòng Việt ngữ)
- Giải nhất truyện ngắn do tuần báo "Hoa Tình Thương" tổ chức năm 1972

Đã xuất bản:

- Đôi Mắt, tập truyện ngắn, Sài gòn, 1973
- Tuyển tập truyện ngắn, 1998, Văn Mới, Hoa Kỳ
- Tuyển tập truyện dịch, 2001, Văn Mới, Hoa kỳ
- Cộng tác thường xuyên với Văn, Văn Học, Hợp Lưu (Hoa Kỳ), và Diễn Đàn (Pháp)







Phượng Các
#2 Posted : Monday, November 29, 2004 10:22:26 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)



phỏng vấn nhà văn miêng

lê quỳnh mai


Phát thanh ngày 8-6-2002
trong chương trình Văn Học Nghệ Thuật
Đài Tiếng Nói Việt Nam
(FM-103.3 - Montreal, CANADA).



Lê Quỳnh Mai (LQM): Miêng vừa cho xuất bản tác phẩm thứ nhì: Tuyển Tập Truyện Dịch. Nghe các bạn văn nói rằng chị rất giỏi chữ Hán. Miêng có theo khoa ngôn ngữ học hay không?

Miêng (M): Bạn văn nào mà... "nói bậy" vậy Quỳnh Mai? Cũng xin nói rõ là tôi học tiếng Tàu giản thể, được bắt đầu phổ biến từ những năm 50 sau khi đảng Cộng Sản Trung Hoa lên nắm chính quyền - mình gọi là quan thoại hay bạch thoại, cách viết giản dị hơn, ví dụ chữ "ái" không có chữ "tâm" bên dưới, người ta thường đùa là "yêu mà không có tim". Tiếng giản thể này khác tiếng Tàu phồn thể mà mình gọi là chữ Hán. Và cũng không thể nói tôi "rất giỏi" được, vì những quyển tự điển tiếng Tàu ở trình độ đại học cũng đã có ít nhất từ 10000 đến 16000 chữ, dù vẫn chưa phải là đầy đủ. Tôi học chắc chỉ được vài ba phần, và cũng đã trả lại cho Thầy hết rồi! Tôi rất thích tiếng Tàu và từ bên nhà đã có học lan man với bạn bè, qua Pháp thì học thực sự, có cắp sách đến trường, rất bài bản. Ở Tây phương nói chung, bất cứ học thứ tiếng nào cũng phải biết vài khái niệm về ngôn ngữ học, và tôi chỉ được dạy những khái niệm thiết yếu chứ không theo ngành này, vì đó là một chuyên khoa riêng. Mặc dù ngôn ngữ học có ảnh hưởng rất nhiều đến các khoa học xã hội, kể cả văn học, nhưng chắc vì lười, tôi thường nghĩ có lẽ đối với người làm công việc phê bình nó quan trọng hơn là đối với người sáng tác. Điều chắc chắn là tôi không đến với văn chương từ ngôn ngữ học.

LQM: Nhà văn Avray Wilson đã nói "Công việc nghệ thuật có hai chu kỳ. Có khi sức sáng tạo lại bừng bừng. Có khi lại cạn kiệt"(1) . Có phải vì sức sáng tạo của Miêng đi vào chu kỳ thứ nhì nên chị đã hướng ngòi bút sang lãnh vực chuyển dịch tác phẩm ngoại quốc?

M: Có thể Wilson nói đúng. Riêng tôi thì sau khi ra mắt quyển đầu ở hải ngoại, tôi hiểu là quyển thứ nhì khó lòng gây ấn tượng như quyển trước, nếu thật sự Miêng đã gây đước "ấn tượng". Nhưng Quỳnh Mai xem, tôi viết rất ít, nên khi đọc truyện ngoại quốc nào khiến mình xúc động thì tôi dịch, vì vậy có thể nói là cùng lúc chớ không phải là chuyển hướng. Truyện nào tôi cũng có đề ngày tháng.

Viết hay dịch đều có cái thú vị của nó. Viết là diễn tả tình cảm, nhân sinh quan của mình. Dịch là cố lột tả điều đó của người khác. Khi viết, tâm hồn mình bị chi phối bởi cảm xúc và tư duy, nó trào ra ngọn bút tạo hình nhân vật. Nhưng khi dịch thì chẳng những sự sáng tạo đó không còn nữa, mà còn phải sống với cảm xúc, tư duy của người khác. Vì vậy người ta thường cho dịch là công việc bạc bẽo. Nhưng tôi nghĩ không ai dửng dưng với những truyện có một số nhân vật rất người, những hoàn cảnh rất gần gũi với cuộc đời, không ai làm ngơ với những tâm trạng giằng xé giữa các giá trị trái ngược phải lựa chọn, bởi vì chính giữa những lựa chọn khó khăn đó mà bản chất con người mới lộ rõ. Vì vậy tôi muốn giới thiệu với độc giả Việt Nam những mẩu đời thấy thì như xa lạ, mà rất quen thuộc gần gũi đó. Và nếu đúng như người ta nói "chính độc giả mới hoàn thành tác phẩm" thì độc giả truyện dịch sẽ làm công việc đó hai lần: một lần cho tác giả và một lần cho dịch giả.

LQM: Hệ thống dịch không chuyên nhất, không có đường hướng rõ rệt trong việc phiên âm tên địa danh, mỗi dân tộc lại có một cách phát âm riêng. Khi chuyển dịch một tác phẩm, Miêng có nghĩ đến vấn đề này không?

M: Tôi cũng có bị hành hạ chút đỉnh về vấn đề này, và giải quyết theo cách riêng tạm bợ của mình, trong khi chờ đợi một giải pháp hợp lý được mọi người chấp nhận. Tức là tôi giữ nguyên tên người và địa danh theo bản tiếng Anh hay tiếng Pháp mà tôi đọc. Ví dụ vẫn giữ nguyên tên Edouard, Hector, không theo các cụ nhà mình bắt chước Tàu, đổi Montesquieu thành Mạnh Đức Tư Cưu, cũng không phiên âm từ nguyên ngữ ra tiếng Việt, ví dụ Hector thành Héc-to, hay Mexico thành Mê-hi-cô, v. v... Bởi vì khác gì nhau nếu trong truyện Tchekhov, địa danh Katchabrov tôi viết thành Kát-sa-bờ-rốp, ngoài chuyện chỉ gây thêm rắc rối cho người đọc? Nếu phải phiên âm vì sợ rằng độc giả không biết cách phát âm thì đánh giá trình độ người đọc thấp quá, nếu nghĩ là tạo theo kiểu Việt Nam, thì thế nào là kiểu Việt Nam chính thống? Có lần một thực tập sinh Hà Nội sang Paris, có nhờ tôi tìm một địa danh Pháp dĩ nhiên đã được phiên âm. Tôi phải nhắm mắt lại lẩm nhẩm đọc các chữ Việt đó, cố tìm cái âm Pháp ngữ gần nhất! Tôi chỉ đặt một ngoại lệ cho truyện các nước Á đông. Như trong truyện Bà Goá của Đại Hàn, vì là câu chuyện ở làng, toàn thể khung cảnh là đồng ruộng, là cóc nhái, là bí bầu... như ở Việt Nam, nên tên bà Han thì tôi thêm dấu huyền, tên bà Park tôi gọi thành bà Phúc, cho có vẻ Việt Nam và tự nhiên hơn. Giữa đủ các kiểu thực hành không nhất quán như hiện nay, Miêng có quyền sử dụng cách riêng của mình chứ hả Quỳnh Mai?

LQM: Miêng nghĩ sao về câu: Traduire c'est trahir? (dịch là phản bội)

M: "Traduttore, traditore", ai cũng đồng ý về câu này của Ý. Mỗi ngôn ngữ là một thế giới riêng biệt, không thể nào dễ dàng bê nguyên vẹn thế giới này qua một thế giới khác. Và chắc chắn mình không thể nào phục nguyên (restituer) hoàn toàn những điều tác giả viết ra, vừa về ý, vừa về lời, nhất là hình thức. Một anh bạn dịch giả nói: "nước chảy róc rách", làm sao dịch chữ róc rách? Hay như "mưa phùn rơi lún phún", dịch cách nào nguyên vẹn được? Mà quả thực, nếu dịch là phải phục nguyên hoàn toàn chính xác như tác giả thì sẽ không ai làm nổi. Bởi vì dịch là kể lại chuyện người bằng ngôn ngữ của mình, nên dịch giả chỉ có thể "tái tạo" được một phần nào tác phẩm thôi. May mà tác phẩm không phải chỉ có mặt ngôn ngữ, mà còn có nhiều mặt khác về cuộc đời. Ví dụ truyện Bà Goá trong tập dịch của Miêng, một người Tây phương như Jean-Noel Juttet, dù không biết gì về tục tảo hôn, vẫn có thể kể lại được câu chuyện, khi nghe người bạn Đại Hàn cùng dịch giải thích.

LQM: Người ta nói muốn dịch cho hay một tác phẩm, dịch giả phải hiểu rõ phong tục tập quán của sắc dân trong tác phẩm đó. Hoặc khi chọn một tác phẩm, dịch giả phải rung động trước tác phẩm ấy thì sự chuyển dịch mới thành công. Xin nhà văn Miêng phát biểu về hai ý kiến trên?

M: Tôi nghĩ là đúng như vậy. Mặc dù văn chương không phải là dân tộc học hay xã hội học, nhưng nếu biết phong tục tập quán của sắc dân trong tác phẩm thì mới không bỏ quên các chi tiết có ý nghĩa trong câu chuyện. Ví dụ truyện Bà Goá vừa nêu trên, vì sống trong xã hội trọng chữ nghĩa, người Á châu sẽ thấy thấm thía hơn lòng trân trọng mấy tờ giấy nháp của chồng mà cô vợ goá luôn luôn gìn giữ, để rồi sau đó cô cũng đã dùng chính những tờ giấy ấy gói đứa con sơ sinh trước khi rời bỏ nó. Và cũng vì quen với truyền thống muôn đời là các bậc cha mẹ có toàn quyền như Thượng đế, người Á châu mới cảm nhận lòng nhân đạo cao quý vô bờ của ông bố chồng hơn, khi ông can đảm nhận lỗi với cô dâu, trong khi chi tiết này đối với người Tây phương chỉ là chuyện mặc nhiên. Một ví dụ khác, trong truyện của Tchekhov, nếu Génia Canac không hiểu phong tục xã hội thôn quê Nga mà chú thích, thì chắc chắn tôi đã mất công hỏi đồng nghiệp người Nga "góc đỏ" là cái gì, mới hiểu được đấy là nơi thiêng liêng nhất trong nhà, ăn cắp đồ đạc để nơi này là nghịch đạo. Tôi cũng cho rằng dịch hay không phải chỉ cần rung động, mặc dù cảm xúc thường là động cơ chính để người ta dịch. Có nhiều người vừa đọc một tác phẩm vừa khóc, nhưng dịch hay thì chưa hẳn! Tôi nghĩ rằng muốn dịch hay, trước hết phải hiểu được, từ đó đưa tới rung cảm và rồi phải diễn xuất được bằng ngòi bút, truyền đạt tới người đọc những tình cảm của tác giả bằng ngôn ngữ của mình. Kinh nghiệm bản thân, khi tôi cảm thấy xúc động thực sự thì ngòi bút hầu như được hoàn toàn giải phóng, có thể diễn tả dễ dàng những lời rất Việt Nam mà không phản bội tác giả. Tôi nghĩ dịch thế nào cho thoát mà vẫn giữ được ý chính, làm thế nào để người đọc không cảm thấy cái gượng gạo, khúc mắc của văn dịch, làm thế nào để người đọc có được cái cảm xúc tự nhiên, và cùng với những cái đó, người dịch phải tôn trọng cách hành văn của tác giả - được như vậy, theo thiển ý, tôi nghĩ đó là dịch hay.

LQM: Miêng có ý định dịch thơ không?

M: Không, tôi không dịch thơ vì không có khả năng. Thơ là một thể loại đặc biệt, ngoài âm nhạc và hình ảnh, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đọc thơ phải có cảm giác cá bơi trong nước thì mới đủ thấm mà dịch, còn tôi đọc thơ tiếng nước ngoài thì cứ như cá bơi trên cạn. Với lại người dịch thơ ít ra cũng phải có khả năng làm thơ nữa thì dịch mới hay. Mà Miêng không phải là thi sĩ!

LQM: Một số bài thơ của Hồ Xuân Hương đã được chuyển sang Anh Ngữ qua dịch giả John Ballaban. Tác phẩm Số Đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng được chuyển dịch qua vợ chồng giáo sư Sử học đại học Berkeley Peter Zinoman và Nguyệt Cầm. Một số tác phẩm của các nhà văn Việt Nam cũng được dịch sang Anh hoặc Pháp ngữ. Là một dịch giả và cũng là một nhà văn nổi tiếng có những truyện ngắn với cấu trúc truyện hoặc nhiều suy tư, trăn trở hoặc hóm hỉnh duyên dáng, Miêng có ý định dịch tác phẩmViệt Nam sang tiếng ngoại quốc không? Và chị có mong tác phẩm của mình sẽ được chuyển sang Anh hoặc Pháp ngữ bởi một dịch giả ngoại quốc không?

M: Tôi chưa được đọc bản dịch Số Đỏ, nhưng tôi đã đọc John Balaban dịch Hồ Xuân Hương rồi. Ở đây chắc tôi lại phải trở lại câu Quỳnh Mai đã nói ở trên, dịch là phản. Mặc dù rất quý trọng và cảm phục những người đã dịch văn thơ Việt Nam ra tiếng ngoại quốc, tôi cũng không thể nói là John Balaban ít nhiều không "phản bội" ngôn ngữ Hồ Xuân Hương. Riêng thơ tục Hồ Xuân Hương, tôi nghĩ có hai cấp. Cấp thứ nhất, bà dùng những hình ảnh rất thông thường để diễn tả tài tình chuyện phòng the, trai gái. Ví dụ như các bài Dệt Cửi, Vịnh Quạt, Giếng Nước, v. v... John Balaban dịch rất chính xác những hình ảnh này và chắc là độc giả Tây phương hiểu được. Ở cấp thứ hai, như các bài Vịnh Chùa Quán Sứ, Vịnh Ni Sư, Vịnh Sư Hoạnh Dâm, v. v..., trong kỹ thuật chữ nghĩa của bà còn có nói lái nữa. Mà ngay cả người Việt Nam, không phải ai cũng hiểu nói lái được, nên những bài này thì tôi e là John Balaban chưa diễn tả nổi hết ý Hồ Xuân Hương. Bây giờ bớt "nói hành" John Balaban, trở lại chuyện của mình, tôi không có ý định dịch truyện Việt Nam ra tiếng ngoại quốc. Việc đó đã có nhiều người có khả năng chuyên môn lo, ngược lại tôi có viết thử bằng tiếng Pháp một ít truyện ngắn, chỉ để cho bạn bè Pháp xem cho vui. Phần tôi vẫn tiếp tục viết truyện ngắn bằng tiếng mẹ đẻ và dịch những truyện ngoại quốc mà tôi thấy hay thôi - dĩ nhiên sự chọn lựa hoàn toàn có tính cách chủ quan. Ngoài ra, có tác phẩm được dịch ra tiếng ngoại quốc thì người viết nào mà không thích thú hãnh diện hả Quỳnh Mai? Riêng tôi, nó không phải là điều ám ảnh. Tôi viết trước hết cho mình và cho người Việt Nam, để cùng nhau chia sẻ vài điều, nếu đóng góp được chút gì cho văn học Việt Nam hải ngoại thì đã là quý quá rồi!

LQM: Người ta không thể viết nếu không đọc. Nhà văn Miêng thường chọn tác phẩm ở thể loại nào để đọc?

M: Thể loại mà tôi thích nhất là tiểu sử và du ký, và cho tới bây giờ thì nó chưa giúp gì tôi trong chuyện viết lách cả. Cái khó tin nhưng có thật là tôi viết truyện mà lại không ưa đọc tiểu thuyết. Không biết có phải vì ảnh hưởng khi còn nhỏ, chị em tôi bị ông anh cả cấm đọc tiểu thuyết hay không. Và không đọc thì không viết được, mà tôi thì đọc không nhiều, hèn chi tôi viết ít quá, nên nếu đúng như Quỳnh Mai vừa khen thì tôi quả thật là... thiên tài!

LQM: Nhà văn Avray Wilson đã viết "Biết bao nghệ sỹ ngoài đời thì bất cần, vô kỷ luật, vậy mà khi bước vào phần đất nghệ thuật của mình, lại hành động có phương pháp, có trật tự vô cùng"(2). Nhà văn Miêng có thể cho biết, để thành công chị đã tự đặt ra cho mình một phương pháp, cách thức nào trong lúc đặt bút viết?

M: Nếu muốn thành công thì có lẽ phải nghiêm túc như vậy thật. Riêng tôi thì vì không bao giờ cảm thấy mình là nhà văn nên chẳng có một quy luật hay phương pháp nào cả. Tôi chỉ là một người thích kể chuyện, may có người nghe thì không bị cảnh "nói chuyện một mình". Viết, đối vói tôi là một niềm vui thú. Dĩ nhiên lời khen cũng như nước hoa, chỉ ngửi chứ không nuốt được, nhưng mấy ai chẳng thích nước hoa hả Quỳnh Mai, kể cả các ông. Đành rằng được khen thì vẫn thích hơn bị chê, nhưng không bao giờ tôi bị ảnh hưởng về những cái đó. Không phải được gọi là "nhà văn" mà tôi cảm thấy mình đã là nhà văn, trái lại tôi còn thấy buồn cho mình nữa là khác. Mới đặt vài viên gạch đã thành cái "nhà" rồi, đủ thấy cái nhà của tôi chỉ là một túp lều!

LQM: Tại sao Miêng chọn ngành thư viện? Việc làm này có phải đã giúp chị không ít trong công việc tay trái -viết văn- hay không?

M: Trên nguyên tắc, làm việc thư viện là một lợi thế cho những người muốn viết. Nhưng cho tới bây giờ thì nó chưa giúp gì tôi cả, ngoài cái được đọc một số tác giả mà bạn bè ít biết hoặc không biết đến. Cho tới nay, những gì tôi đã viết là từ kỷ niệm hoặc kinh nghiệm sống, hoặc hoàn toàn do tưởng tượng, không cần tài liệu. Còn đối với ngưòi viết tiểu thuyết lịch sử hay xã hội, thì làm việc ở thư viện quả là "chuột sa hũ nếp".

LQM: Tại sao chị chọn viết văn thay vì làm thơ? Sự thành công đã mang lại gì cho bản thân chị? Miêng có hài lòng hãnh diện về những sáng tác đã thật sự đóng góp một phần cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam hải ngoại nói riêng không?

M: Về quan hệ văn-thơ, chúng tôi có người bạn đã lập thuyết rằng người ta viết văn vì không làm thơ được. Không biết điều đó có đúng cho mọi người không, và đúng tới mức nào. Riêng tôi thì có thử làm thơ nhưng không hài lòng, rồi bỏ luôn, và không tha thiết trau dồi thể loại này. Có lẽ vì tôi vẫn bị lôi cuốn bởi nghệ thuật kể chuyện hơn là dũa mài ngôn ngữ. Còn sự thành công? Nếu có, nó đã mở đường dẫn đến cho tôi những người bạn mới. Tôi rất trân trọng điều này bởi vì hình như sống nơi xứ người, tình bạn có hệ số gấp đôi. Và cùng lúc, nó cũng mở cửa tâm hồn bạn bè qua những câu hỏi họ đặt ra từ những truyện tôi viết, giúp chúng tôi hiểu nhau và gần gũi nhau hơn. Về những sáng tác của mình, nói hãnh diện thì hơi quá, nhưng tôi có hài lòng. Khi viết, trước hết là viết cho mình, không bao giờ tôi đặt câu hỏi viết làm gì, viết cho ai. Viết ra, có người đọc, có người chia sẻ, "mua vui cũng được một vài trống canh" là thấy mình cũng đã mang lại chút đỉnh gì cho đời sống hàng ngày rồi. Ở đây, nếu thích phóng đại thì có thể nói rằng mỗi một ngón đàn, cây cọ, cây bút... đều như một bông hoa hương sắc khác nhau, tất cả tạo nên vườn hoa cho mọi người thưởng ngoạn trong phút giây nhàn hạ. Mà vườn hoa có phong phú thì mới mong tìm ra vài loại kỳ hoa dị thảo. Tôi rất mong mỏi điều này cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại, không chỉ thu hẹp trong lãnh vực văn chương nghệ thuật, mà nói chung trong mọi lãnh vực.

LQM: Ngược lại nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã từng phát biểu rằng : "Ở hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp, và trên thực tế cũng không phải là một danh phận.Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực". Nhà văn Miêng có ý kiến gì về lời tuyên bố trên?

M: Chắc chắn không phải là nghề nghiệp, có lẽ cũng chẳng ai lập nên danh phận gì từ chuyện viết văn. Nói "hành lạc đau đớn" thì chắc cũng đúng cho nhiều người, thậm chí cho tất cả mọi người. Nhưng cái kết quả khách quan do những cuộc "hành lạc" đó, dù muốn dù không, cuối cùng vẫn cứ làm nẩy sinh một khu vườn văn học Việt Nam hải ngoại. Mà khu vườn thì mình có thể bỏ hoang hay chăm sóc. Ngoài giá trị nhân chứng của một thời đại, biết đâu về sau nó sẽ không được nhìn nhận như một bộ phận độc đáo của nền văn học Việt Nam nói chung?

LQM: Ở nước có điều kiện tốt, các hội nhà văn liên tục tổ chức những buổi hội thảo, những đại hội, những buổi học để người viết có dịp gặp gỡ , trao đổi, trau dồi thêm cách thức sáng tác, viết lách. Riêng nền văn học Việt Nam hải ngoại, hoặc vì thời gian, không gian, phương tiện, đã không cho phép chúng ta gặp gỡ trong các buổi hội thảo như vậy. Để viết hay hơn, sáng tác mới lạ hơn, Miêng có ghi danh theo học những lớp tu nghiệp hoặc tìm cách trao đổi ý kiến với các bạn văn để nâng cao trình độ sáng tác hơn không?

M: Tiếc là không có những cuộc hội thảo trao đổi ý kiến trong giới cầm bút. Các tổ chức mang danh nghĩa văn học còn bị chi phối quá nhiều bởi chính trị, nên không tập hợp được mọi người, do đó không đóng được vai trò tương xứng với nhiệm vụ của mình. Những cuộc gặp gỡ thường là giữa các nhóm nhỏ bạn bè, dù không có mục đích "tu nghiệp" như Quỳnh Mai nói, nhưng cũng ít nhiều giúp cho việc thông tin và khích lệ lẫn nhau.

LQM: Truyện ngắn "Ai Thương"(3) của Miêng đã lột trần tình yêu với một giọng văn đau đớn nhưng trong trầm tĩnh. Chị nghĩ thế nào về tình yêu? Về sự phản bội trong tình yêu? Về sự thất vọng trong tình yêu mà nhân vật chính phải chuyển hướng tình cảm qua người đồng phái tính?

M: Tôi không có khuynh hướng lập thuyết và rất sợ lập thuyết, bởi vì tất cả các lý thuyết đều có giới hạn, đều đơn giản hoá cuộc đời nhiều lắm. Không ai chối cãi là tình yêu, nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, đều rất quan trọng; đối với một số người, tình yêu nghĩa hẹp lại còn quan trọng tới nỗi nó chi phối, đưa đẩy và quyết định hết thảy mọi điều. Dầu vậy không phải hoàn cảnh nào cũng giống hoàn cảnh nào, và mỗi người có cách ứng xử khác nhau. Ví dụ khi thất tình, người có thể đi tu, người có thể tự tử, người có thể hận đời đến nỗi trả thù lên bất kỳ một người nào khác. Ngược lại, cũng có người bản lĩnh hơn, ... "điểm phấn tô son lại, ngạo với nhân gian một nụ cười". Truyện ngắn Ai Thương, tôi chỉ muốn diễn tả một cô gái không quyết đoán, cứ để cuộc đời đẩy đưa bằng những bước tình cờ. Cô "theo" người đàn ông thứ nhất vượt biên, cô "gặp" người đàn ông thứ nhì bảnh trai, mắt ướt môi mọng, cô "bẽn lẽn" với người đàn bà và làm theo lời ngoại dặn: "ai nói thương thì theo nó đi, đừng hòng ai mang trầu rượu...". Tôi không hề tỏ ý rằng vì bị bỏ rơi mà cô phải chuyển hướng tình cảm qua người đồng phái tính, cũng không cản đường nếu lúc đó cô gặp và yêu một người đàn ông khác. Tôi nghĩ là không có quy luật, mà chỉ có những trường hợp cá biệt thôi.

LQM: Iris Murdoch là khuôn mặt văn học lớn nhất của Anh quốc trong thế kỷ 20. Bà qua đời ngày 8 -2- 99 vì bệnh Alzheimer. Đề tài của Murdoch rất rộng rãi, luôn khai thác về vấn đề dâm tình. Nhân vật thường đam mê trong quan hệ ngoại tình, loạn luân, đồng tính luyến ái. Ở vào cuối thế kỷ 20 và đầu thiên niên kỷ thứ ba, Pháp quốc cũng có một số tác phẩm trở thành best-seller viết về vấn đề này (ví dụ cuốn "Lilas Says" của Chimo). Miêng định cư trên đất Pháp đã lâu, hẳn rằng chị cũng đọc qua một số tác phẩm ấy. Có bao giờ Miêng bị ảnh hưởng và đã viết vài truyện ngắn như vậy nhưng chưa gởi đến độc giả hay không?

M: Thú thực là tôi chưa hề đọc hai tác giả này. Dâm tình có thể là một đề tài văn học lớn của thế kỷ 20 ở Tây phương, nhưng đó không phải là lãnh vực mà tôi muốn đào sâu, khai thác.

LQM: Theo Miêng, nền văn học Việt Nam hải ngoại sẽ đi về đâu khi các tác giả lão thành ngưng sáng tác, các tác giả thế hệ kế tiếp sáng tác ít đi vì nhiều lý do khác nhau, và các thế hệ trẻ hiện nay sáng tác bằng ngoại ngữ?

M: Đây là vấn đề làm khổ tâm rất nhiều người trong chúng ta. Văn học Việt Nam là nền văn học viết bằng tiếng Việt, không phải là văn học viết bởi người Việt Nam. Ở hải ngoại, khi các thế hệ lão thành ngừng sáng tác, thế hệ chúng ta cũng viết ít đi và các thế hệ sau chỉ còn viết bằng ngoại ngữ, thì sẽ không còn văn học Việt Nam hải ngoại nữa, dù rằng tác giả có máu thịt Việt Nam và lấy chủ đề về Việt Nam. Đồng ý, chúng ta đã mất Mai Thảo và chắc chắn sẽ tiếp tục mất những đàn anh khác, nhưng có thật là thế hệ chúng ta có ít người viết hơn, hay đang viết ít đi không? Cách đây năm bảy năm, làm gì có Nam Dao, Mai Ninh, Lê Thị Thấm Vân, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh .. v. v... Vậy thì văn học Việt Nam hải ngoại hiện nay có "càng ngày càng èo uột" đi như người ta đã từng lo ngại không? Chuyện đáng lo ngại thực sự là chuyện thế hệ sau. Tôi nghĩ nếu chúng ta còn muốn duy trì một nền văn học Việt Nam hải ngoại, thì điều nên tránh là vô tình hoặc cố ý khuyến khích con em viết bằng ngoại ngữ, mà nên tạo cơ hội cho các em nối lại liên hệ với cội nguồn. Ở Pháp, đã có lúc phụ huynh học sinh phải tranh đấu để tiếng Việt được duy trì như một sinh ngữ cấp Trung học. Nếu ở nơi khác phụ huynh học sinh lại khuyến khích con em bỏ rơi tiếng Việt thì thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược!

LQM: Sau Tuyển Tập Truyện Ngắn xuất bản năm 1999 và Tuyển Tập Truyện Dịch xuất bản năm 2001, nhà văn Miệng có ý định xuất bản một truyện dài hay không? Nếu không, xin chị cho biết lý do. Nếu có, chị chọn đề tài nào, tình yêu hay chiến tranh?

M: Nhà tôi và bạn bè vẫn khuyến khích viết truyện dài, cũng thích, nhưng tôi chưa thử. Và nếu viết, tại sao không phải là tình yêu trong thời chiến? Viết thì phải có kinh nghiệm sống, mà trong ba mươi năm chiến tranh ở Việt Nam, tôi may mắn không sống trong vùng bất an, nhưng bây giờ cần kinh nghiệm để viết truyện dài về nó thì mới thấy là một thiếu sót lớn. Và tiếc là nói về đề tài này, người mình vẫn phải dẫn chứng những tác phẩm ngoại quốc, chưa có một quyển tiểu thuyết Việt Nam nào có tầm vóc để khi nhắc tới, nó hiện ra ngay trước mắt những điển hình sống động. Thêm vào đó, đáng buồn là đất nước đã nối liền gần ba mươi năm nay chỉ trên phương diện hành chính và cai trị, còn lòng người thì vẫn phân tán như xưa. Ngay cả về văn học, vẫn còn những dèm pha vô bổ đôi khi khôi hài.

LQM: Miêng có ý kiến gì về vấn đề đang tranh luận sôi động hiện nay: một phần lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam đã rơi vào tay Trung Quốc?

M: Tôi đã đọc các bài nói về vấn đề này, và khi xem hình thác Bản Giốc thì tôi đau tới nỗi không muốn nhìn, không muốn nghe nhắc tới nữa - có phải vì nó đẹp quá, hùng vĩ quá, lộng lẫy quá khiến mình tiếc rẻ hơn không? Con số mét vuông phần đất bị cắt, bên chống đối và bên binh vực chính quyền đưa ra không giống nhau, dĩ nhiên. Nhưng dù ít dù nhiều, dân ta có câu "tấc đất, tấc vàng", thì dẫu bao nhiêu cũng là mất mát. Điều đau đớn là người ta không thấy nhục mà còn có thể tranh cãi nhau về những con số! Rốt cuộc cả triệu thanh niên đã bị hy sinh cho cái gì?

Lê Huỳnh Mai
Paris, 11-5-2002

Ghi chú:

(1) Hợp Lưu số 43/1998, trg 212
(2) Hợp Lưu số 43/1998, trg 231
(3) Hợp Lưu số 47/1999, trg 150
Phượng Các
#3 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:24:16 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
BIỂN

Miêng
(Audio)

Người đàn bà theo cô y tá vào phòng. Trên giường, người đàn ông nằm nhìn trần nhà, mắt thao láo. Ánh đèn lạnh nhạt rọi khuôn mặt bạc nhược vô hồn. Cô y tá lay nhẹ vai anh, nói bằng tiếng Pháp :

- Ông Nguyễn, ông Nguyễn, đoán xem ai đây ? ... Nhìn kỹ đi, vợ ông tới thăm ông nè.

Người đàn bà đưa tay muốn nói gì, vừa lúc người đàn ông hướng ánh mắt về phía chị. Anh kêu lên thều thào nhưng hớn hở :

- Em ! Trời ơi ! Anh loạng quạng chìa bàn tay khẳng khiu, chị ngần ngại một giây rồi nắm lấy, cầm nhẹ nhàng trong hai tay mình. Anh mỉm nụ cười héo hon :

- Lạnh không ? Bám, chặt vào ! Chị khẽ khàng đặt tay lên ngực anh. Rồi bỗng bạo dạn hơn, chị choàng qua, siết vòng tay lại. Nụ cười ngây ngô trên môi anh kéo dài như vô cùng :

- Con đâu, em ?

- Con… đang ngủ. Anh cũng ráng ngủ một chút đi cho khoẻ.

Giọng anh bỗng thất thanh :

- Sát lại. Bám chặt anh. Khéo tuột.

Chị áp sát vào tấm thân gầy gò run rẩy, bận bịu. Anh gật gật đầu. Tóc lưa thưa muốn dựng ngược lên từng sợi. Chị dịu dàng vuốt những sợi tóc mùa thu của anh, âu yếm như một người mẹ. Mắt chị buồn thiu, xa vắng.

- Em nè, vợ chồng, có, những lúc, cơm không, lành, canh không, ngọt, anh có, lỡ, giận la em, cái gì, em bỏ, qua, cho anh, nghe, đừng, giận, bỏ anh, tội, nghiệp, cái chính, là, biết, anh thương, em vô, cùng, nghe em, đời anh, chỉ, có em, và, con ...

Chị khóc :

- Anh đừng nghĩ quẩn quanh nữa. Em không giận anh đâu. Em cũng... thương anh lắm ! Chị kéo chăn ngay ngắn. Hai bàn tay hiền dịu vẫn vuốt ve anh. Ngoài đêm, trời hối hả rải tuyết...

Sáng sớm hai người y tá vào phòng. Ông y tá đen to lớn dềnh dàng phủ lên người anh tấm ra trắng muốt. Cô y tá đỡ chị đứng lên lặng lẽ mở ngăn kéo lôi ra các thứ giấy tờ bọc trong bao ny lông :

- Ông nhà đi như vậy đỡ khổ cho ông hơn, nhất là có bà bên cạnh. Bao nhiêu lần rồi bịnh viện cố tìm bà mà không ra.

Chị hỏi, hơi tần ngần :

- Lần cuối ông ấy vào đây là lúc nào ?

- Thứ sáu tuần rồi. Bà coi, trời như vầy mà lại trần truồng đứng múa ở vườn Luxembourg ! - Lần này sao bịnh viện lại tìm ra tôi ?

Cô y tá cười :

- Cái khó là cạy răng để ông cho biết địa chỉ của bà. Khi ông nói "biển" thì giản dị thôi, cứ bấm minitel lục lọi các vùng có biển là tìm ra bà ngay ! Chị cũng cười :

- Phải, giản dị thật ! Hai người y tá đẩy băng ca đi. Ngang qua cửa sổ, tấm ra pha lẫn vào vùng tuyết ngoài kia. Căn phòng trống trơn. Chị ra hành lang, lặng lẽ mở bao ny lông và đọc. Những tia nắng đầu ngày đông u ám rọi lên các thứ giấy tờ và một số thư từ cũ nhàu. Chị vừa đọc vừa khóc. Xong xếp lại vào bao, thở dài. Chị quàng lại khăn, kéo cao cổ áo măng-tô. Trời rất lạnh.

Vào ca-bin, chị để cạc vào máy điện thoại, bấm số.

- Anh hả ? Em đây ... Trẻ nhỏ dậy hết chưa ? ... Xà-va anh à.

Một người đồng bào ... (chị thở dài) Không, dĩ nhiên là không bà con gì với mình cả. Khi em tới thì tối rồi và coi bộ ông ta lẫn lộn hết cả, tưởng em là vợ ... Ơ thì anh coi, cứ Nguyễn Thị Ngọc gì gì có vần "ương" theo sau mà chả là em.

Mình đã nhận bao nhiêu thứ rồi ... Có, cô y tá đưa hết giấy má thư từ của ông ấy cho em ... Em đọc rồi, vợ con đều chết biển khi vượt biên, chỉ còn ông ta sống sót với mấy người thôi ... (chị khóc) ... Xong rồi anh ạ ... Vâng, lúc năm giờ sáng, trong tay em ...

MIENG Paris, 23 Sept. 1994



Phượng Các
#4 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:26:28 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
ÐIÊU THUYỀN

Chị bước đi với bước chân chơi vơi vô hồn. Cũng không phải lần đầu trong đời hai chân đong đưa chị vào nỗi u mê vô định, nhưng lần này thì quả thực chẳng khác chiếc lá khô để cơn gió mặc tình cuốn đi lơ lửng, ngập ngừng.

Thỉnh thoảng một bác xích lô tấp tới gần, cô hai ơi xích lô cô hai. Chị đủ bình tĩnh mỉm cười đáp lễ. Cái mỉm cười của một Ðiêu Thuyền sắc nước hương trời nhưng chưa bao giờ làm xiêu lòng Lữ Bố - Lữ Bố của chị. A, Lữ-Bố-của-em ! Chị khựng lại giữa trời Sài gòn nắng chang chang tháng sáu, tay đưa lên đầu, vẻ sững sờ như bất chợt vừa khám phá ra điều gì. Chị nhíu mày kêu lên, mắt reo vui :

- Thì ra là tại anh chớ ai ? Anh đã cướp đi mất tiếng hát của em rồi chớ còn tại sao nữa ?

Tay tự động buông xách, chị ngồi bệt xuống đường bắt đầu làm điệu bộ hát. Không ai nghe gì nhưng cứ nhìn chị trong tư thế đó thì người đi đường quay lại cười, bảo điên. Phải, điên. Hồi mười sáu tuổi hát văn nghệ cho xã, bạn cũng bảo điên sao mà chịu đóng nhiều màn như vậy, mất bao nhiêu ngày giờ tập dượt. Nhưng khi khán giả ra về, người đàn ông đứng tuổi chờ chị trước cổng trường, bảo :

- Cháu gái, cháu có giọng ca rất hay. Nếu gua mở gánh hát, cháu làm đào chánh chịu hông ?

Chị tròn mắt nhìn, không nghĩ đến chuyện trả lời. Ðó là cái mộng vẫn nuôi từ hồi mới biết hát tập tành. Ông cười :

- Ðừng lo, có cái cháu thiếu tập dợt kỹ thực thôi. Rồi gua sẽ chỉ thêm cho cháu.

Chị về mừng rỡ khoe với mẹ và cười vang vang. Mẹ bảo :

- Cái con này, cười gì mà cứ như con điên vậy. Bao giờ ổng lập gánh hát thiệt hẵng hay chớ chưa gì mà đã cỡn lên.


Ông là nghệ sĩ già về vườn, nói là làm. Gọi gánh hát nghe cho sang chớ chỉ có ông già ôm cây đờn kìm, anh kép trẻ cũng chẳng hay ho gì hơn chị, và ông ta thôi. Tuồng Con Tấm Con Cám anh kép trẻ hoá trang thành con gái làm đứa em độc ác hành hạ chị. Tuồng Trầu Cau thì ông già dồi thật nhiều phấn lấp các rãnh nhăn nheo, làm ông anh hoài công đi tìm người yêu và em trai. Tuồng Phạm Công Cúc Hoa thì ông cạo nhẵn râu đóng vai bà mẹ, ngồi bắt chấy cho hai con trên nấm mộ chính mình. Và tuồng Thạch Sanh Lý Thông ông cố vẽ cặp mắt đã sụp cho rõ to với vẻ dữ dằn đanh ác, mặc dầu chưa ai biết Lý Thông thật có bộ mặt thế nào... Bộ bốn nương vào nhau mà sống. Hát hết đình này miễu nọ, nào có tốn tiền thuê rạp. Cảnh chiến trường thì bẻ vài nhánh cây dắt lên, cảnh khuê phòng thì dùng tấm chăn của ông già đã mòn rã tự muôn đời. Vậy mà cũng có người coi, cũng được thiên hạ vỗ tay và cuộc đời vẫn tiếp tục. Chị cũng tậu được mấy cái áo lụa nội hoá đủ màu, tạm thay đổi cho các vai chị đóng. Mà nào có ai đòi hỏi chi nhiều !

Họ đi gần hết xóm làng miền Nam để hát. Cũng vẫn chừng đó tuồng hát đi hát lại. Ðược một năm, bạn anh kép trẻ là lính ở Huế về thăm nhà. Mấy hôm đó trời mưa tầm tã, các đường làng lầy lội nên gánh hát tạm nghỉ vì không ai đi xem. Nhưng nếu có khán giả, diễn viên cũng không đủ hơi sức gào thi với gió. Anh kép trẻ rủ bạn lính đến tán gẫu. Chuyện lính có gì để kể ngoài đời sống phong trần quân nhân và các trận đánh nhau. Và làm sao chuyện tày trời như Tết Mậu Thân ở Huế mà một người lính từ đó trở về lại không lấy làm cái tin sốt dẻo nhất. Kể nhiều chuyện xong, anh lính bảo :

- Ðu mẹ, tui có kể tới tháng sau thì cũng hổng tả hết cái ác độc, cái rùng rợn của tụi nó được. Mấy ông bà là nghệ sĩ thì diễn tả mới hết ý chớ tui nói thì nhằm nhò gì. Nhai đi nhai lại chi hoài ba cái tuồng cũ chán thấy mẹ !

Phải ! Phải ! Hai ông kép hì hục hơn tuần lễ soạn ra tuồng mới. Ông kép già chỉ vào mặt anh kép trẻ :

- Thằng sĩ guan ngụy ác ôn kia, mày đã tới ngày đền nợ máu nhân dân rồi.

- Ðồ Việt cộng khát máu...

Nhưng ông đâu để anh nói hết lời rủa sả quân miền Bắc, ông bắn anh kép trẻ sĩ quan. Gọi "sĩ quan" cho cái chết của anh xứng đáng với viên đạn bộ đội mà tiếng nổ là do ông đờn kìm tạo ra, chớ trên cổ áo bộ đồ lính anh bạn cho, đâu có lon lá gì. Sau đó thì xác chết lăn vào trong, đội lên đầu cái mũ bộ đội đan bằng tre sơn xanh chạy ra, và cùng với người vừa giết mình xăng xái đào hố chôn tập thể hàng loạt người. Ðêm đó chị bận nhiều áo, mỗi lần chạy vô là cởi bớt một lớp rồi chạy ra, như thể người đàn bà khác đang kêu gào cảnh thân nhân bị nạn. Cuối cùng tóc xoã tung, ràn rụa nước mắt, chị chạy hẳn xuống đám khán giả, chạy tuốt ra khỏi cổng đình. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm :

- Hoan hô ! Hoan hô cô Diệu !

Bẵng đi mấy năm không nghe tin tức gì của anh bạn lính. Ðùng cái, năm bảy hai anh trở về Nam. Cái hàm chỉ lính quèn mà cái mạng lại to, to hơn rất nhiều ông tá, ông úy. Trải bao truân chuyên, anh vẫn còn đủ tay chân chạy về thăm mẹ, thăm bè bạn xóm giềng. Anh lại kể về mùa hè đỏ lửa, về con đường Quốc lộ số 1 đầy xác người nằm tênh hênh cho ruồi nhặng đậu, về những thân thể nhầy nhụa máu me cố lê lết từng tấc đường, về những bàn chân còn sống chạy như qủy ám, về những đứa bé đi lang thang thất thểu chẳng khác ma Hời, về những trẻ sơ sinh ngậm hoài vú mẹ hãy còn dính trên thân thể quánh máu...

Lại tuồng khác ra đời. Lại những lời đanh thép tàn mạt anh kép trẻ sĩ quan nhổ vào mặt ông kép già Việt cộng, và lần này thì anh ta bắn chết ông kép già. Nhưng ông kép già Việt cộng kiên trì với ý chí quyết giải phóng miền Nam, nếu chưa xong thì không chịu chết, ông đờn kìm phải tạo ba tiếng nổ chát chúa, ông mới chịu ngã gục thực sự ! Kết quả là ba năm sau, chính cái anh đạp xe ba gác chở hàng trong xóm, ngày nào vẫn đi xem tuồng say sưa, vẫn vỗ tay hăng hái, bây giờ dẫn công an khu vực từ Bắc vào, tới còng tay hai người kép hát.

- Ði, các anh vào trại mà hát với hỏng.

Người đứng xem chật ngõ. Ai đó thậm thụt nói :

- Uả, họ có làm gì đâu, họ chỉ hát thôi mà ?

Anh công an cười gằn, giọng vẫn đều nhưng rất lạnh :

- Chỉ hát thôi chớ làm nên trò trống gì. An nhàn thế sao không muốn yên, lại hát điều bậy bạ phỉ báng cách mạng ?

Ngày ấy cũng như bây giờ, chị không khóc. Ðã khóc quá nhiều trong các tuồng chị đóng. Chị đứng sững, mắt mở to nhưng không thấy gì, hai tay đưa lên rồi hạ xuống, môi mím chặt. Dưới cái nắng chói chang mùa hạ, mắt đua với ánh mặt trời túa đom đóm vì uất, vì bất lực. Nhưng chị chỉ lặng lẽ nhìn theo, quên cả khấn Trời Phật phù hộ cho họ mau về, để đứa con trong bụng khi chào đời không những có cha mà còn có ông ngoại nữa.

Chị về quê với mẹ. Ngày qua ngày, túi tiền dành dụm teo đi và bụng căng ra, chị vẫn một mình. Rồi thằng con ra đời, vẫn một mình, vẫn chờ đợi, chờ đợi mỏi mòn như thiếu phụ Nam Xương. Thằng nhỏ bụ bẫm một hôm nóng sốt, bà bác sĩ trưởng trạm y tế ngoài Bắc vào, bảo nó bị lao. Bà chích hai ngày hai mũi thuốc, vào cái mông da mỏng như giấy quyến. Ba tháng sau chị tê dại thấy chân con mình cứ teo tóp ngày một ngày hai...

Ông đờn kìm tới tìm chị :

- Diệu à, hay là chú cháu mình ra chợ, tao đờn mày ca kiếm tiềng.

Chị không hát nổi. Chị không quen hát một mình. Với lại giọng chị cứ lạc đi, không ăn nhịp nữa. Chị mua bộ bài ra ngồi ké túp lều người bạn hàng xén ngoài chợ, bói. Những ngày mưa gió không hát, ông kép già thường bày chị :

- Cứ con rô là có tinh tức, tinh dui hay buồng còn tì con gì đi theo. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Con chuồng là tiềng mới dô hay sắp dô. Cứ nói sắp dô cho bà con sướng. Họ có nói dô rồi thì nói nó còn lấp ló ngoài cửa, chờ dô nữa. Còn con cơ thì do chữ Tây mà ra, là con tim, là có chiệng yêu đương tình cảm gì đây.

Rồi ông cười khà khà :

- Bói cho ai, tao cứ trông mặc mà bắc hình dong, mừ lần chắc mẫm hết chính. Hồi đó trong đàng, ngay cả ông bà bầu cũng tinh goẻ tao bói. Mẹ, cái thời dàng son thiệc !

Nhờ ông truyền cái "thời-dàng-son" đó, chị cũng đủ nuôi con qua ngày. Nhưng chẳng bao lâu thì công an lại cấm, bảo gieo rắc mê tín dị đoan, nếu còn tiếp tục sẽ bắt đi cải tạo, cạo rửa cho sạch cái đầu u mê nhớp nhúa đi. Chị đành gởi thằng bé nhờ bà ngoại trông nom, lên Sài gòn đất rộng mênh mông không ai kiểm soát xuể thì hy vọng có thể sống bằng nghề này được...

Chị quỳ xuống trước mặt Lữ Bố. Bàn tay mặt cầm ly rượu với ngón út cong lên như cánh ngọc lan. Tay từ từ nâng ly rượu lên khỏi đầu một chút - cánh tay không được thẳng, phải giữ dáng điệu cái gì cũng cong cong, thật mềm mại, thật đàn bà, thật ỡm ờ, thật gợi cảm, thật quyến rũ và thật đài các. Tay trái theo câu hát vẽ thành nửa vòng tròn, từ dưới đưa lên rồi dừng lại kề bàn tay mặt, trong tư thế dâng rượu bằng cả hai tay, trang trọng, phục tùng. Ðôi mắt mà cách hoá trang làm cho thêm to, thêm xếch, thêm tình tứ đẩy đưa thì liếc xéo Lữ Bố, vừa lẳng lơ, vừa âu yếm, vừa ra vẻ e ấp thẹn thùng.

Bao nhiêu tuồng đã diễn rồi, bao nhiêu vai tiểu thư công chúa đã thủ rồi, nhưng chỉ có màn này, màn Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền, là chị ăn ý nhất. Chị đóng vai đó nổi bật, tuyệt vời, cực kỳ thành công mãn nguyện. Chị sống trong Ðiêu Thuyền và là Ðiêu Thuyền, để chuốc rượu nồng cho Lữ Bố. Chị cũng thích tiểu thư Mỵ Nương, ẻo lả trong căn bịnh tương tư để khi gặp Trương Chi thì vỡ mộng, truyền bịnh lại cho chàng chèo đò khốn khổ ấy. Chị cũng thích công chúa Mỵ Châu, trong đêm thướt tha chạy với cái áo choàng trắng trong suốt tơ trời, với mái tóc xổ tung, khi gặp vua cha nũng nịu dỗi "Con tìm phụ vương đi nơi nơi. Vì sao cha yêu trán hoen sầu ? Phải chăng vì thành xây không...". Ô, không mê lắm. Ðã rứt hết lông ngỗng chiếc áo ngự hàn để đánh dấu đường đi, nhưng Trọng Thủy tìm không ra, vì chị không gặp... Không gặp anh ấy đâu cả, trừ ở Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền...

Người đi đường bắt đầu để ý. Họ dìu chị vào ngồi dưới bóng râm nói với nhau :

- Tội nghiệp, bây giờ sao lắm người quẫn trí quá !

Chị gật đầu, đưa tay sờ soạng vừa tìm vừa hỏi :

- Bà coi chuyện gì ?

Người ta nhìn nhau ái ngại. Nhớ rồi, cặp vợ chồng ấy sang trọng, anh chồng ít nói. Khi quẻ bài lật ra, chị nhìn họ chăm chăm chẳng biết nói gì. Vì nó lạ quá. Ai tới bói bài cũng với một ước mơ giản dị là đi xa, coi cho biết tới nơi tới chốn bình yên không. Cơn sốt đi. Ai cũng muốn, ai cũng liều, cầm bằng đánh cá mạng người. Nhiều người cũng vì đi mà sạt nghiệp trắng tay. Nhiều người cũng vì đi mà gia đình tan nát. Nhiều người cũng vì đi mà làm mồi cho cá biển. Nhiều người cũng vì đi mà đem thân nô lệ xứ người... Rồi họ lọc lừa gạt gẫm nhau, tán tận. Ban đầu gạt người dưng, rồi tới gạt người quen và cuối cùng gạt người thân. Ai vẫn thường nói Việt Nam ta không có thói quen đi xa, không bao giờ muốn rời khỏi lũy tre làng ?

Nhưng cặp này không coi để đi xa. Chung quanh anh có rất nhiều bè bạn, nhưng lúc nào lật ra cũng có con xì bích. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Chị nói :

- Hôm nay bài không lên. Thôi mời ông bà bữa khác trở lại.

Người ta lại nhìn nhau, lại bàn tán không biết có nên đưa chị đi nhà thương không. Vài người lắc đầu vẻ thương hại, bỏ đi. Cặp vợ chồng sang trọng ấy cũng bỏ đi. Họ vừa tới cửa, không biết cái gì xui giục, chị bỗng dưng cất giọng :

- Ðờn kêu tích tịch tình tang, Ai đem công chúa lên thang mà dìa !

Lạ ! Chị giật mình vì cái ngân nga của chính giọng mình. Vậy mà bao lâu nay cất tiếng không lên ! Hai vợ chồng kia cùng quay lại. Rồi chị theo họ, ông bà bầu gánh hát lớn ở Sài gòn. Và từ đó, chị sống đổi đời, không thấp thỏm nay căn gác này mai căn gác nọ trốn công an vì tội gieo rắc mê tín dị đoan nữa.

Chị tập dượt chăm chỉ, hết lòng. Buổi trình diễn đầu tiên run lập cập từ đầu đến chân bởi chỉ quen bầu không khí thoáng giữa trời sân đình sân miễu, với tiếng ồn ào la ó con nít. Bây giờ sân khấu thênh thang kín bưng và khán giả im phắc, nghiêm chỉnh đợi chờ. Khi tấm màn nhung đỏ sẫm trịnh trọng kéo lên, chị khép nhẹ mi, tự nhủ thầm không thể lùi lại phía sau. Trước mặt không phải nét mặt thuần hậu lo âu của bà mẹ tiểu thư Mỵ Nương, mà là khuôn mặt võ vàng mẹ già chờ từng ngày đồng bạc chị gởi về.

My Nương uyển chuyển như sương khói, hờ hững trễ tràng như mây trời, mềm mại tươi thắm như nụ hoa vừa nở, ẻo lả thướt tha trong chiếc áo lụa xanh đến ngồi ở cửa sổ chờ nghe tiếng hát Trương Chi. Cô gái hầu sửa lại cái trâm trên tóc nàng và quạt nhẹ - nhẹ tới nỗi cứ như thể nếu quạt mạnh hơn sẽ làm bay mất My Nương. Mi nàng hơi sụp xuống, che dấu ánh mắt u buồn như đêm đông. Tay nàng mềm nhũn nuột nà như bún, e ấp ôm lấy vai như thể muốn níu giữ chính mình. Rồi mông lung nhìn qua cửa sổ là đám đông khán giả, nàng cất tiếng than não nùng, day dắc buồn và truyền cảm đến rợn người... Nếu quả thật nỗi buồn là vẻ đẹp sang cả nhất mà hoá công chỉ dành riêng cho đàn bà, thì rõ ràng mối u tình của My Nương đã được bộc lộ một cách cực kỳ quý phái, làm não lòng người. Tiếng vỗ tay vang lên sấm nổ. Và từ đó, tai chị quen với lời ca tụng. Từ đó, mắt quen nhìn tên mình viết trên áp phích nhan nhản khắp đường.

Ông bầu vẫn ít nói. Nếu có dịp mở miệng thì luôn luôn kèm theo câu "thà chết trẻ hơn sống già vô ích". Và anh có biệt danh ông "thà chết trẻ". Ngoài lúc đóng tuồng, anh có cuộc sống khép kín hoàn toàn. Vãn hát là cùng vợ ra về ngay, có khi vội vã còn cả son phấn hoá trang. Với chị, anh giữ khoảng cách đúng mực giữa đàn ông đàn bà, giữa nữ diễn viên và ông chủ. Gặp nhau anh chỉ mỉm cười, chào thật ngắn rồi thôi, như thể họ chưa bao giờ quen nhau, chưa bao giờ chị là Ðiêu Thuyền ngồi trên đùi anh là Lữ Bố. Bà chủ bầu thì lúc nào cũng bặt thiệp, duyên dáng và tốt bụng với tất cả mọi người. Bà quán xuyến hết mọi việc, từ việc trả lương cho diễn viên, người làm, tới việc ra hầu toà như có lần anh hề làm reo đòi tăng lương không thì nghỉ. Bà thản nhiên thay thế màn hề bằng màn tân nhạc. Anh hề mất việc khơi khơi, kiện. Ra toà, bà bầu bình tĩnh nền nã đoan trang mệnh phụ, nhìn thẳng vào ông chánh án, mỉm cười :

- Tôi phận đàn bà mà nếu không cứng rắn thì mạnh ai nấy làm reo, làm sao tôi điều khiển nổi gánh hát cả ba bốn chục người ?

Nhưng rồi một lần, chỉ một lần thôi mà sẽ đánh dấu trong em trọn đời. Lữ Bố đưa quạt che cho quan Tư Ðồ không thấy là chàng đang âu yếm hôn Ðiêu Thuyền. Mặt anh kề sát mặt em, mắt anh mỉm cười. Em hoảng hốt tự hỏi làm sao có thể gần nhau đến vậy. Và tâm hồn em dãn ra, cái kỳ diệu ấy thấm lịm vào người. Em nhắm mắt lại, giữ hoài hình ảnh đôi mắt anh cười thật sát bên em. Mắt anh nói quá chừng làm em bối rối không hiểu hết thứ ngôn ngữ riêng tư của nó - một thứ ngôn ngữ kín đáo, đằm thắm, nồng nàn. Nó reo vui trong mắt anh làm em nín thở, chìm đắm nỗi u mê ngan ngát tuyệt vời . Anh gần em quá, gần em quá chừng. Không gì có thể gần hơn như vậy nữa. Nó vừa khiến em sợ, vừa làm em hân hoan vô tả. Môt mùi hạnh phúc tinh thuần làm em nao lòng. Hình như trái đất ngừng quay, sao em choáng váng. Hình như vũ trụ ngừng thở, nên em như chết ngộp. Lúc đó em quên hết đất trời. Em cũng quên mất hình ảnh mẹ tiều tụy vừa nhóm lửa vừa trông chừng thằng cháu ngoại lê lết dưới sàn. Em cũng quên mất là nó không bao giờ bước đi được với đôi chân tàn tật...

- Lại làm bộ điệu như đang đóng tuồng. Bà con có nghe cổ hát gì không ? Sao cổ nói thì ra tiếng mà hát thì lại không ra ? Nè cô, cô muốn nói cái gì ?

Em muốn nói cái gì ? Về chuyện gì kia ? Về cái đêm kinh hoàng tài xế anh hớt hải trở lại rạp, báo tin cho cả đoàn biết là anh vừa bị công an bắn hạ ? Họ nói khám phá trong nhà anh chị có vũ khí và truyền đơn chống chính quyền. Chống chính quyền ! Anh ơi, nghe ghê gớm quá. Anh có làm chuyện đó thật sao ? Nhưng anh chống cự làm gì cho họ bắn anh tức tưởi vậy chớ ?

- Nè cô, nhà cô ở đâu để tui đưa cô về giùm ?

A, nhớ ra rồi. Nhà chị ở rạp hát. Nhưng ngay cái đêm hãi hùng ấy thì mọi thứ đều bị niêm phong. Bà chủ vào tù. Thế là mảnh đời riêng tư của họ đã gắn liền với số phận chung của bao sinh mạng. Ðoàn hát tan rã, mỗi người một nơi, nín thở, nghe ngóng. Ðám tang của ông bầu bị cấm tổ chức rình rang, nhưng mấy ông bà nghệ sĩ mà, cứ họ chường mặt ra đường là cả khối người mê hát đi theo. Thành ra thiên hạ vì lòng ái mộ tò mò đi theo người chết đã đông, đi xem người sống còn đông hơn nữa. Nhiều kẻ sụt sùi. Xe tang nhích từng bước. Nhiều con đường tắc nghẽn. Nhân đám tang này, người ta xầm xì bàn tán về cái chết nữ nghệ sĩ Thanh Nga trước đó không lâu.

Rồi bà bầu đoàn khác mời chị, đầu tiên là Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền. Cũng hay, đời chị lúc nào cũng có người mời đóng tuồng. Hai tay nâng ly rượu ngang mày, giọng chị thánh thót ngân nga :

- Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu...

Chữ "trước kính" chị lên thật cao, sau đó giọng xuống dần và tới chữ "hoàng" thì phải xuống thật thấp. Chữ "chấp" chị lại lên thật cao để chữ "hèn bồ" xuống thấp rồi giọng lại rướn cao lên ở chữ "liễu" với giọng rung rung kéo dài vô tận.

Nhưng còn tệ hơn mấy hôm dượt thử với anh kép đoàn này, bởi dù với tất cả điêu luyện hồi giờ, giọng chị vẫn không thoát ra khỏi cổ. Chị chỉ nghe loáng thoáng vài tiếng đứt quãng. Lữ Bố và Quan Tư Ðồ đều trợn mắt nhìn, che quạt nhíu mày bảo hát to lên. Chị lại hát, vận hết sức mình. Họ lại nhăn mặt. Một tiếng huýt sáo. Rồi nhiều tiếng huýt sáo vang lên từ phía khán giả. Tấm màn nhung bàng hoàng hạ xuống. Tiếng la nho nhỏ, tiếng chân chạy tới kéo chị dậy. Chỉ còn là cái xác, chị ngẩn ngơ không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Bởi vì anh ơi, người Lữ Bố mới đó không phải là anh. Có cái gì trong em chối từ những ve vuốt ấy. Ðôi mắt anh ta cũng nhìn sát bên em nhưng không cười, nó câm nín, vô hồn, em không nghe lời nào và em dửng dưng không cảm xúc.

Nhưng em đâu biết mình đón nhận cái nhìn đó nơi anh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ? Vãn tuồng, trong khi anh ra về vội vã hơn mọi ngày thì em vẫn ngồi uể oải bên cánh gà, nhìn mông lung xuống rạp vắng teo. Từng hàng lưng ghế chẳng khác những tấm bia mộ lạnh lẽo chạy dài, chạy dài ra mãi. Rạp hát thênh thang buồn như nghĩa trang. Em ngồi đó, lặng lẽ nâng niu ánh mắt cười của anh, nó mới mẻ quá làm em vẫn còn choáng váng, nó thân ái quá làm em lịm người, nó đẹp quá làm em sững sờ. Và anh ơi, nó là của anh dành cho em, cho riêng em thôi !

Chợt một nỗi phiền muộn không tên, một nỗi bồn chồn vô cớ, một cảm giác hụt hẫng ngột ngạt xen lẫn với niềm hạnh phúc đứt quãng xâm chiếm em. Em vẫn còn trong bộ áo Ðiêu Thuyền. Rồi em nghe cái tin khủng khiếp ấy. Vậy em là Ðiêu Thuyền nhận hạnh phúc và bất hạnh từ anh. Ðầu óc em ráo hoảnh, đặc cứng trước hung tin đó. Em không tin vào tai mình, em không tin chú tài xế của anh, em không tin ai cả, nhưng em biết là anh thực sự xa em nghìn trùng. Những quẻ bài sau này bói một mình cho anh, nghĩ tới anh, em thấy có chiếc quan tài... Vậy mà trong đầu óc chằng chịt buồn phiền, chưa bao giờ em nghĩ rằng ngày nào đó, trên cõi đời này lại không còn có anh, và như vậy thì cũng không còn có em nữa - bởi vì làm sao người ta sống mà không có tình yêu tiếp sức ? Thà chết trẻ...

Thiên hạ rầm rập chạy tới bên em. Có người la lên giựt tóc mai cho cổ tỉnh. Ba, chạy đi lấy cho chị hộp cù là. Họ muốn lột quần áo em ra, em ráng thều thào đừng... đừng... để Ðiêu ... Ơ thì Ðiêu Thiềng điêu bè gì cũng được, mà cũng phải cởi bớt ra ở cổ cho dễ thở chớ, hổng thấy đang xỉu hay sao. Em muốn gượng ngồi dậy, muốn nói là em đâu có xỉu. Việc gì mà xỉu ? Chỉ tại trên tóc Ðiêu Thuyền đủ thứ trâm cài lược dắt làm đầu em nặng quá chao đi, chao đi... Anh ơi, đầu em nặng quá, nặng quá, em không chịu nổi sức nặng... không chịu nổi...

Không biết sau khi mắc kế liên hoàn của quan Tư Ðồ, cuộc đời Lữ Bố ra sao. Còn anh thì đã bỏ em rồi, bỏ em mãi mãi. Anh thật xa, thật xa, xa em quá chừng - nhưng ánh mắt anh ở lại, vẫn còn đó, vẫn theo em ngọt ngào. Nó sẽ theo em hoài hoài, khi em cười hay khi em khóc, trên sân khấu đời cũng như sân khấu tuồng. Ôi kỳ diệu thay là cái cười của mắt !

Bây giờ thì ngồi sát lại em thêm chút nữa đi anh, và nhìn em, và cười với em nữa đi... Ðó, như vậy, để em dâng cho Lữ Bố của em một ly rượu nồng. Ðây, uống đi anh, uống cho hạnh phúc ngắn ngủi của em, uống cho nỗi buồn trầm mặc của em. Và uống đi anh, cho giọt yêu đương hiếm muộn tựa giọt cam lồ nuôi em bớt khổ ải nhọc nhằn với cuộc đời còn lại...

Người tò mò đứng xem càng lúc càng đông. Xe hơi cũng dừng lại làm giao thông bị nghẽn một khúc đường. Chị mỉm cười nhìn mọi người - nụ cười của một Ðiêu Thuyền sắc nước hương trời. Và chị qùy xuống, tay phải làm như cầm ly rượu, với ngón út cong lên như cánh ngọc lan, tay trái vẽ nửa vòng tròn từ dưới đưa lên rồi tựa kề tay mặt. Mắt lim dim mơ màng liếc xéo đưa tình, chị cất tiếng - và lạ chưa, người ta nghe giọng chị ngân nga lảnh lót, truyền cảm đến rợn người :

- Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu...

Bỗng người đứng xem kêu lên :

- Trời ơi Ðiêu Thuyền chớ ai ! Nữ nghệ sĩ Diệu Lan chớ ai !

Vài người ứa nước mắt :

- Trời cao đất dày ơi, sao cổ lại nên nông nỗi này trời ?

Và không hẹn, mọi người đồng thanh kêu lên :

- Ðiêu Thuyền ! Ðiêu Thuyền !

Chị nhìn lên ngơ ngác, thức dậy sau một cơn mơ. Nắng Sài gòn chang chang tháng sáu bỗng tối sầm lại, vài giọt thánh thót rơi, ban đầu còn ngập ngừng rồi bỗng túa ào ra. Nhưng không phải trời mưa. Mà là Ðiêu Thuyền bật khóc.

MIÊNG

Paris, Juillet 1994
Phượng Các
#5 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:27:47 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
SONG SINH

Như thường lệ, tôi đứng dang chân dang tay trên tấm ván, miệng cười thật tươi kiểu sẵn sàng đón tiếp người yêu.

Nhưng đêm nay có điều gì khiến tôi xốn xang bứt rứt vô cùng.

Trong tích tắc, tôi ao ước phải chi mình được nhắm mắt nghỉ ngơi chốc lát. Thói quen phải sắp nụ cười thật duyên dáng luôn luôn bắt tôi chôn mọi ưu tư khác xuống tận đáy lòng. Tất cả những gì dưới lớp da bụng trùng xuống, tan ra, còn lại trong tôi nỗi trống trải bàng hoàng, lo âu vô cớ. Miệng tôi vẫn cười, tay chân vẫn dang rộng trên tấm ván, mắt vẫn mở to nhìn xuống đám thực khách Paris dư dả đến đây ăn uống xài tiền, mà lòng thì không cảm thấy gì ngoài nỗi hoảng loạn không tả xiết.

Tiếng vỗ tay rầm rộ khi ông chủ vừa bước ra, tiếng cười nói và tiếng muỗng nĩa như xé nát lòng tôi. Ông cúi chào khán giả với cái chào nghề nghiệp và bỗng dưng, tôi lạnh cả người khi tưởng tượng rằng nếu một trong những con dao mà ông sẽ ném chung quanh thân tôi như mọi lần, có một con vô tình hay cố ý đi lạc ?

Ông chủ nhận con dao thứ nhất từ tay anh phụ việc, với vẻ ung dung hình như hơn thường lệ. Và ông nhìn tôi. Tôi cũng nhìn ông ta. Thời gian đọng lại và giữa hai cái nhìn, không gian vừa gần gũi vừa bao la kỳ dị. Ông lui một bước. Bằng động tác nhanh nhẹn, ngoạn mục và dẻo dai, con dao thứ nhất bay đi cắm bên cánh tay phải tôi giữa tiếng vỗ tay tán thưởng. Có tất cả mười lăm con dao và lần nào, tôi cũng tự nhủ con này đây sẽ phập vào tay mình tựa Chúa bị đóng đinh, con này đây sẽ phập vào trán mình, con này đây sẽ phập vào tim mình...

Cho đến con dao cuối cùng, sẽ bay tới cắm vào kẽ hở giữa hai đùi, cái nhìn rất lạnh của ông chủ khi thấy tôi cười vui vẻ với anh nhạc công cách đây hai hôm, bỗng sắc nét hơn trong trí nhớ. Tôi biết ông ta không hài lòng mảy may. Ông không muốn tôi vui cười với ai cả, trừ với ông thôi, nhất là khi không có bà chủ bên cạnh. Và tôi mặc nhiên chấp nhận điều này, cố quên là bên trong lồng ngực còn có con tim vẫn đập, bởi vì thân thể tôi cũng cần ngày ăn hai bữa, cũng cần áo quần đẹp đẽ lên sân khấu, và cần nhiều hơn để trả tiền cho trung tâm nuôi người khuyết tật tâm thần ở miền Nam nước Pháp.

Tôi chờ đợi con dao cuối cùng lao tới, tự nhủ thầm không được run, bởi cử động nào dù nhỏ trong giờ phút này cũng có thể gây ra tai nạn. Hai chân tôi không vững lắm. Tôi có cảm tưởng mình sắp khuỵu xuống, chới với, lung lay. Tôi muốn rút hai tay khỏi vòng dao, ôm ngang ngực ghì thật chặt. Tôi muốn gục đầu xuống, nhìn sâu vào lòng để tìm xem điều gì đã khiến mình bải hoải lo âu đến thế. Tôi muốn khóc một lát. Tôi muốn nói cái gì đó. Tôi muốn... Nhưng vẫn bất động, miệng vẫn giữ nụ cười không biết có méo mó lệch lạc không. Giây phút cuối này kéo dài như vô cùng. Bất giác tôi cầu nguyện, hy vọng con dao không tim, không tình người, nhưng ông chủ thì có. Và ông ta còn sự nghiệp phải bảo vệ. Nếu ông cố ý ném vào phần thân thể ấy, cội nguồn sự sống, cố gây thương tích để trừng phạt rằng ngoài ông ra, tôi không được phép làm quen với ai khác nữa, thì cuối cùng ông sẽ được gì hơn ? Mắt tôi tìm mắt ông ta với cái nhìn cầu khẩn, nhún nhường và cố tạo niềm âu yếm ngọt ngào. Nhưng không thấy, ông ta mải làm vài cử chỉ cho thêm phần hấp dẫn, cho khán giả hồi hộp hơn trước khi kết thúc. Tôi bỗng sợ hãi lạ lùng.

Tiếng huýt sáo nổi lên làm tôi tê liệt, nghĩ đến những trò chơi vô đạo thời La Mã. Người ta vừa huýt sáo với ngón tay cái chĩa xuống đất, bảo hạ nó đi hạ nó đi, phải không ?

Mặt mày đám thực khách trông dữ dằn đanh đá. Rồi nhiều tiếng huýt sáo, nhiều tiếng la man rợ của dân tiền sử vang vang khắp phòng. Anh đèn chớp nháy khi mờ khi tỏ ánh mắt tử thần cố tình trêu ngươi đồng loã với cảnh trạng vô tâm bạc bẽo. Một nỗi chua xót cày xới lòng tôi. Một nỗi bức xúc mãnh liệt quằn quại châm cay điếng đôi mắt. Ðầu óc tôi cuồng loạn. Tim tôi dại đi. Và kìa, con dao cuối cùng. Sao trông nó sáng quắc đến lạ lùng vậy, mũi dao nhọn hoắc đe doạ sống sượng. Và ông chủ, nụ cười trông sao mà đểu, đôi mắt rực ánh lửa quái gở khát máu, bàn tay mềm mại vẫn sờ soạng khắp thân tôi cho đê mê nhục cảm cuồng loạn dâng trào, bỗng nổi đầy gân đồ tể. Lăm le con dao cuối cùng trong tay, ông ta quay lại, và với nụ cười khó lòng định nghĩa, ông nhìn tôi rất nhanh rồi dang tay ném... Ðúng vào lúc con dao tung ra và trong cái hỉ hả điên cuồng của thực khách, bụng tôi buốt lên. Vô thức, tôi rú thất thanh, nhắm nghiền mắt lại rồi đổ xuống hệt thân cây bị chặt...

x Giọng bà giám đốc trung tâm đều đều với những âm tiết đặc biệt miền Nam nước Pháp làm tôi buồn ngủ. Tôi thèm được ngủ chốc lát. Những gì dù giản dị nhất, đối với tôi sao vẫn cứ là niềm ao ước. Tôi mệt mỏi quá, cả tinh thần lẫn thể xác.

Tôi nhìn mông lung ra cửa sổ, hình dung lại thân hình tiều tụy xanh xao của chị mình vẫn thường ngồi trên bãi cỏ với cái nhìn vô cảm, xa vắng. Lần cuối tôi xuống thăm cách đây bảy tháng, vào một ngày mùa thu gió hiu hiu thổi tóc chị vướng víu lên nét mặt cẩm thạch nhợt nhạt. Mặt trời buổi chiều còn rực đỏ cũng không đem lại cho chị chút sinh khí nào. Chị tôi ngồi đó, giữa những chiếc lá úa nhặt hoài không biết mỏi tay.

Trên bãi cỏ cắt xén với hai bìa đầy các loại hoa, chị tôi như thứ đồ chơi nhân tạo vụng về, vô hồn chỉ làm rối mắt. Tôi đến bên cạnh gọi chị, cố nhắc nhở sự hiện diện của mình, cô em song sinh. Nhưng chị không nhìn. Tôi như một chiếc lá chị vừa nhặt, để bên cạnh, không hề quan tâm tới nữa. Mắt chị ngó đâu đâu, nhìn không thấy. Môi chị mấp máy, nói không lời.

Suốt buổi chiều ngồi nhìn chị mình với những trò chơi vô nghĩa, với cái đầu không còn gì lại bên trong, tôi hiểu phải tự sắp đặt tình cảm mình khác đi. Chị có thế giới của chị mà tôi không có chìa khoá để vào. Và tôi không còn gì trong chị. Như vậy tốt hơn.

- Chỉ là cơn sốt xoàng. Tối qua chị cô không chịu ăn gì, chỉ uống cốc nước. Khoảng mười giờ, nghe tiếng lục đục trong phòng, cô y tá tới xem...

Mười giờ ? Giờ đó tôi đang đau nhói vì lo sợ con dao cuối cùng. Sáng nay thức dậy, tôi sờ mó khắp thân thể và ngạc nhiên thú vị không tìm thấy vết thương nào, trừ cảm giác rần rật khắp người của đàn kiến đang gặm nhấm. Người ta nói bác sĩ bảo tôi có trái tim mệt mỏi của người đứng tuổi. Bà chủ ái ngại báo tin trung tâm dành cho người khuyết tật tâm thần nhắn tôi xuống gấp. Và tôi đi. Một mình.

- ... thấy chị cô đang xếp các hình puzzle.

Rồi bà mỉm nụ cười trang trọng : - Cũng lạ, bao nhiêu năm nay rồi cô ấy không hề đụng tới nó, và đó là cái duy nhất cô ấy không vứt đi.

A, chơi puzzle. Món quà Mẹ mua cho hai đứa trong ngày sinh nhựt lên mười. Hình puzzle với cái hoa hướng dương vàng tươi có hai nhụy. Hôm đó Mẹ hỏi một nhụy có con sâu và một nhụy không, thích mua cái nào. Chị tôi thích nhụy có sâu, tôi thì không. Mẹ bảo : - Ai cũng nói chị em sinh đôi giống nhau từng chút mà hai đứa bây lại khác nhau từng chút.

Mẹ bảo tôi ra sau chị khoảng mười phút. Và khi bắt đầu biết nhìn, mắt tôi láo liên tìm kiếm trong khi chị dửng dưng không thèm nhìn tôi mãi gần cả năm trời. Không bao giờ chúng tôi đòi bú hay la khóc cùng lúc. Và từ tuổi lên ba, trong mọi cử chỉ tôi nghiễm nhiên luôn luôn là người bảo vệ chị mình. Có cái duy nhất chúng tôi cùng thích như nhau là hoa hướng dương, thì đấy, lại có cái nhụy phải khác đi. Mẹ mua cả hai. Mỗi lần tôi sắp gần xong thì chừa miếng cuối cùng cho chị lắp cái nhụy có sâu. Nếu chị sắp thì chừa chỗ cho tôi lắp cái nhụy không sâu...

- Rồi lát sau chị cô ra đi nhẹ nhàng như mơ.

Bà nhìn tôi, nói khẽ khàng chẳng khác lời tạ tội : - Chúng tôi vẫn giữ nguyên cái hình puzzle chị cô đã sắp đêm qua.

Ngày hôm sau chị tôi vĩnh viễn nằm trong chiếc giường đất êm ái bao dung. Trước khi đặt vào quan tài món quà sinh nhựt năm hai đứa lên mười, tôi run rẩy lắp vào miếng cuối cùng mà chị luôn luôn dành lại cho tôi. Lần này, mọi miếng rời rạc đều được dán chặt với nhau bằng tất cả tình yêu và nước mắt.

MIENG Paris, 10 Sept., 1996.
Phượng Các
#6 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:29:34 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
AI THƯƠNG

Bây giờ thì tôi thức dậy với cái đánh thức nhẹ nhàng của người đàn bà. Chị thường bảo nhìn tôi ngủ rất dễ thương nhưng chị thấy cô đơn. Chẳng như hồi xưa anh ấy thường đánh thức tôi vũ bảo : Dậy. Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày. Dậy. Anh dậy sớm mà vẫn không giàu, không say sưa mà chẳng sang chút nào. Ðược cái bảnh trai, mắt ướt môi mọng. Bà chủ thì bảo mặt anh trông điếm.

Anh thức ngủ theo giờ giấc loài gà. Ðêm nào muốn thức với nhau, anh phải uống hai ly cà phê đen. Sau mỗi đêm thức, anh thường đòi làm đám cưới, bảo là đã tìm ra người đàn bà đời mình. Nhưng thỉnh thoảng vẫn nhắc đến cô bồ cũ và câu ca dao chín con chưa gọi rằng chồng, rằng anh em như tay chân vợ chồng như quần áo... làm tôi khựng.

Chúng tôi sống với nhau như những cành tầm gửi, không đứa nào là thân cây chính. Nhưng xa nhau không nổỉ. Xứ này một năm thời tiết vui vẻ chỉ có ba bốn tháng. Tôi sợ một mình. Hôm tình cờ gặp nhau khu chợ Tàu, cô bồ cũ anh thản nhiên mời tôi vào tiệm ăn trưa. Thản nhiên tới nỗi tôi không dám từ chối. Tôi lúng túng với đôi đũa vì mang mặc cảm mình đang đầm ấm với người xưa của chị, trong khi chị lại thui thủi một mình. Chỉ khi xong bữa ăn, tôi mới hiểu là chị bỏ anh hay những vị đàn ông trước đó vì chán, lại bỏ thêm thằng bồ Tây sau anh cũng vì chán. Như thể chị tìm kiếm hoài mà người đàn ông đời chị cứ trốn chui trốn nhủi xó xỉnh nào hoặc dám chưa ra đời. Tôi thấy chị may mắn sung sướng quá, tha hồ cứ lựa xong lại chán bỏ. Nếu chị không chán hẳn có người mang trầu tươi rượu ngon tới thỉnh về.

- Có hạnh phúc không ?

Tôi không biết trả lời sao. Có cũng không hẳn đúng mà không cũng chẳng sai.

- Ðều đều hai ly cà phê đen không ? Và tìm ra người đàn bà lý tưởng ?

Tôi cho như vậy là ác miệng, là muốn phá thối niềm kiêu hãnh của mình, nhưng vẫn cười. Chị nhìn tôi cười thẳng thắn. Người đàn bà này có cái gì làm tôi rất thích. Chả trách anh vẫn còn lưu luyến.

Tôi không kể anh nghe buổi gặp gỡ ấy với cái nháy mắt chia tay lúc ra khỏi tiệm ăn. Có cái gì đồng loã ngầm giữa hai đứa quen hơi một thằng đàn ông mà không ghen tị. Sau đó chị thường điện thoại rủ nhau ăn trưa. Không có gì phải khai ra với ai, nhưng sao cứ như lén lút.

Rồi anh muốn về Việt Nam vì sở gửi đi. Anh nói sống ở Việt Nam mà ăn lương Tây thì như vua. Em về với anh đi, khỏi phải làm công, mà làm bà. Chỉ cần ở nhà lo cơm nước cho anh. Không chừng cứ ngày ngày ra tiệm kéo ghế vì rẻ, lại ngon. Em vẫn thèm như vậy mà ? Tôi ngần ngại. Chín con chưa gọi rằng chồng mà ! Lại là thời buổi Việt kiều đang có giá, ông nào về cũng được các cô mơn mởn ve vãn. Bà nào cũng bị mất chồng mất bồ dễ hơn mất ví - rồi tôi sẽ ra sao ? Bà chủ khuyên không nên cho anh về. Mà tôi thì quyền hạn gì. Vẫn cứ phân vân. Chỉ có chị là khuyên nên để lủy đi đi, cho yên thân (cứ như thể lủy phiền hà tôi lắm vậy !).

Buổi chia tay cũng bịn rịn như những cặp vợ chồng chân chính. Anh hứa khi nào thu xếp xong xuôi bên ấy thì tôi về, ta về ta tắm ao ta. Sở gửi đi chỉ hai năm chớ sau đó có thể gia hạn nếu muốn. Anh hứa thỉnh thoảng trở qua Pháp thăm tôi, người đàn bà đời anh. Tự nhiên tôi thấy có gì không ổn. Chắc chỉ vì mỏi mệt. Hay do những cái mà bà ngoại vẫn gọi là "linh tính" ? Cái thứ con hoang như mày ấy mà, chẳng hy vọng gì được ăn miếng trầu héo uống miếng rượu nhạt đâu. Lớn lên cứ đứa nào nói thương thì theo nó, đừng hòng ai mang trầu rượu. Tôi thường hỏi mẹ con hoang là gì. Mẹ làm thinh giây lâu, xong chỉ tay lên trời, bảo con hoang là con của trăng. Cha tôi thỉnh thoảng mới xuất hiện và chẳng bao giờ về nhà chơi với tôi như cha lũ bạn cùng xóm. Khi tôi giới thiệu cha, tụi nó trầm trồ cha mày sáng trưng, cha mày đẹp quá, mày sung sướng quá, mà sao cha mày ở chi tuốt trên cao vậy, sao không về. Người lớn thì cười. Rồi mẹ một hôm theo cha, cũng không bao giờ về với tôi và ngoại. Tôi hỏi nếu cha là trăng, thì mẹ là cái gì, có ở cạnh cha không. Ngoại lặng người, không trả lời. Rồi ngoại cấm tôi khóc hỏi về mẹ. Và cho đến ngày mất, ngoại vẫn mang trong lòng nỗi thương khắc nghiệt và niềm hận tôi vì sự "dại dột" của mẹ. Lớn lên tôi mới hiểu là ngoại nát cả lòng.

Tôi đi theo người đàn ông thứ nhất vượt biên. Tới Pháp, anh bảo em triệt sản đi, anh không muốn có con nữa. Chẳng biết anh nói gì với bịnh viện. Người ta đưa tôi lên bàn mổ rồi hai tuần sau thì thả về. Ba năm sau anh bảo lãnh vợ con qua, may là tôi tìm được chân bán hàng. Rồi tôi gặp anh khách bảnh trai mắt ướt môi mọng. Bà ngoại vẫn bảo đứa nào nói thương thì cứ theo nó, anh nói anh thương, tôi theo...

Tháng đầu anh đi, chị và tôi gặp nhau tuần hai lần. Tháng thứ hai, chúng tôi gặp nhau tuần ba lần. Tháng thứ ba anh bắt đầu vắng tin tức, tôi vẫn còn khóc, (không, khóc nhiều hơn chứ, vì biết là đôi mắt ướt đã nhìn đôi mắt khác, cặp môi mọng đã hôn đôi môi khác), chị bắt đầu qua đêm trong căn phòng chật chội của tôi. Ðêm đầu tôi nhường giường cho chị. Ðêm hai chị bảo tôi cùng nằm, âu yếm vuốt tóc tôi. Ðêm ba giữa đêm tôi thức giấc, mơ hồ cảm giác tay anh sờ soạng khắp người. Ðêm tư tôi bẻn lẽn như cô dâu mới về với chồng. Ðêm năm nhớ tới lời ngoại dặn : đứa nào nói thương thì theo nó đi, đừng hòng ai mang trầu rượu...

MIÊNG

Paris, 02 Janv., 1999.
Phượng Các
#7 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:30:48 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
ỠM Ờ

Hồi trẻ, tương đối tôi được lắm anh vờn. Ðến nỗi có lần hết tiền xin chân chạy bàn tiệm phở, chạy được mấy vòng chưa tới đâu bà chủ bèn chi tiền rất hậu cho thôi việc, sợ anh thái thịt sẵn dao chém anh rửa chén, sợ anh rửa chén lấy mảnh sành lột da anh thái thịt. Trong vòng bạn bè vòng loại phải kể cả tá, vòng bán kết khoảng dăm anh, vòng chung kết ba. Mỗi anh có đặc điểm riêng và nói chung chung, anh nào cũng đáng yêu hết cả.

Anh thứ nhất đôi mắt lẳng lơ, máu nghệ sĩ đầy mình, cầm kỳ thi hoạ đều có. Cầm thì ghi ta anh vặt ngược ra sau vẫn đàn được. Kỳ thì chiếu tướng khá bất ngờ người thua thường nóng mặt chê «cờ rình» . Hoạ thì anh vẽ gì cũng hình thù nhà cổ, ngay cả chim chuột - chẳng qua vì học kiến trúc chuyên vẽ chùa chiền đền miễu. Còn thi nói sau cùng bởi có lần, viết cho tôi lá thư tình, anh chép nguyên bài «Nguyện» của Xuân Diệu, nói hai câu « Nguyện tâm hồn như chim chắp cánh, Nguyện thân thể như cây liền cành» thống thiết quá, anh thích hai câu «Nguyện xin trời đất làm hai bản, Nguyện lúc xa nhau vẫn vẹn hình». Tôi bèn đề nghị sửa chữ «nguyện» thứ hai thành chữ «để» , kết quả lời nguyện, xa nhau mà vẫn vẹn hình không thích à. Anh bằng lòng. Dĩ nhiên tôi bảo gì anh chả vâng.

Anh thứ nhì nhà hoá học, gốc gác Phan Thiết. Ăn chay trường với nước mắm, mang kính cận gọng đỏ rất nổi. Thường giảng giải nhiều thứ rất ly kỳ, ví dụ thịt có nhiều protéine, trong không khí cũng có protéine nên hít thở khí trời cũng có phần nào như... ăn thịt ! Mà loại thịt này dễ tiêu, «thịt thiệt» nặng bụng lắm. Dĩ nhiên tôi nghe chỉ với vành tai. Ví dụ nhất định lần này dây bí nhà anh sinh ít nhất phải hai mươi hai trái mới đủ biếu bạn bè mỗi người một trái, bằng cách thấy hoa cái anh vội vàng xát hoa đực vào, cho chúng gặp nhau, trao thân gửi phận cho nhau. Thế là nó đậu. Anh dặn nước mắm phải mua loại ít nhất ba mươi lăm phần trăm chất đạm mới tốt, mới có chất cá chất biển trong người. Rằng ... dài dòng nhiều thứ «phải» thế này thế nọ lắm lắm, nhớ gì hết.

Còn anh thứ ba, hàng lông mi dày đặc biệt trên đôi mắt tròn vo hột nhãn, ánh mắt ngây thơ đến động lòng, chơi chơi lại hái khối tiền : đánh billard artistique. Lúc không bận bịu thi cử, tôi tháp tùng anh ngang dọc đó đây. Anh co giò lên bàn bi da là tôi muốn sụp giò van vái Trời Phât dắt trái banh đi đúng đường đi lối về. Sau hai lần thử anh không thành công tim tôi đập đến nỗi làm ồn người ngồi cạnh. Nếu nó rộn rã vì yêu thì hay biết bao ! Cũng chẳng phải sợ anh thua sẽ lượm được ít tiền - ngoài chỗ thân tình ra, cho tới bấy giờ anh là người da vàng duy nhất được tham dự trò này mức độ quốc tế. Lại thuận tay trái, mỗi lần tới phiên anh người ta phải vẽ đường đối xứng. Cái thuận trời cho này có dịp hành hạ ban tổ chức thêm một chút làm tôi chịu quá. Nên chi mỗi lần anh cầm đứng hay đặt nằm nghiêng nằm ngửa cây «cơ» , đẩy nhẹ hay thật mạnh làm sao trái banh đi đúng đường vẽ lúc cong lúc thẳng, tôi phục sát đất, cho anh là người Việt Nam tài ba lỗi lạc lắm lắm rồi. Mỗi lần ai dấm dớ không xem chương trình hay không nghe lời giới thiệu, hỏi « Japanese ? », tôi hét lên « No, Vietnamese ! », khoái lạc !

Hồi đó bạn bè dục chịu ai thì lựa lè lẹ, còn giải phóng bớt. Nhưng tôi đi đâu mà vội mà vàng cơ chứ, cứ chầm chậm nhặt hoa rơi, thỉnh thoảng gặp anh thứ nhất nghe chơi bản đàn, vẽ chơi cái nhà tưởng tượng cho hai đứa mai sau (cái tủ lạnh thì ra đống rác lượm về xài, nhắm rồ) ; thỉnh thoảng gặp anh thứ hai bắt địa chai mắm ngon đủ ba mươi lăm phần trăm chất đạm, mùa hè được ít nhất nửa trái bí đỏ cây nhà lá vườn, bảo đảm nuôi tự nhiên không bón hoá học (anh nửa trái, chia tôi nửa trái, theo lời anh thì vậy «cho nó tình» chớ không phải hà tiện không cho trái nguyên) ; và dại gì không chạy theo anh ba thường ngược xuôi Ðức, Tây Ban Nha coi đánh bi-da ạc-tít-tíc ? Nữ sinh độc thân cũng khá nhiều dễ chịu.

Tôi đu đưa giữa ba anh, cầm chắc trong tay sinh mạng và linh hồn họ, không bị vắt ra nước là phước đức lắm rồi. Nghĩ bụng hôm nào đẹp trời sẽ cho nhà hoá học đi tìm la-bô khác, đàn ông sành sõi quá lại đo lọ nước mắm, ngắm hũ dưa hành, làm sao sống nổi, thà cứ vụng vịu cho em nhờ. Gượm đã, hãy còn cần nước mắm, chẳng vội vã gì.

Một hôm sau khi gặp anh bi-da, tôi nói với bạn :

- Mày à, chắc anh ấy thương tao thật.

Cô bạn gắt :

- Anh nào ? Mày thì lắm anh, cứ anh ấy với anh đó thì tao biết là anh nào.

Tôi cười nhỏ nhẹ :

- Anh Hùng ấy mà.

- Anh hùng anh dũng gì tao cũng cóc nhớ. Tao chỉ nhớ thằng đạo thơ, thằng lẩm cẩm và thằng bi-da. Thằng nào ?

- Thằng bi-da. Mà tội, anh bi-da.

Bạn bĩu dài môi :

- Anh với chả anh. (Cao giọng) Mà hồi nãy mày nói cái gì ? Làm sao mày biết nó thương mày thật ?

Tôi nói lý do. Lý do gì cũng chẳng nhớ. Chỉ biết có cái gì đó chứng tỏ tấm chân tình anh làm cảm động. Bạn tôi trót một lần thất tình nên tội nghiệp quá, mất hết niềm tin, nghi ngờ hết thảy - kể cả đám đàn ông của tôi ! - ngúyt dài :

- Rõ vớ vẩn. Thằng nào gặp gái chẳng nói cái điều như mình không thương là nó chết bất đắc kỳ tử ngay. Rốt rồi thằng nào cũng đùm đề thê tử trước mình cho coi.

Dĩ nhiên tôi cười độ lượng ra điều «mày chưa đủ khôn để hiểu».

Cô bạn coi vậy mà độc mồm. Ðùng một cái, hai tháng sau miệng tôi vẫn mở mà tiếng cười tắt ngấm khi anh nghệ sĩ vừa báo tin tiểu đăng khoa vừa rỉ rả bài «anh khóc trên vai em, anh khóc trên vai em, một lần cuối, một lần cuối cùng, để còn thấy lòng thương lần cuối, một lần cuối cùng thôi em ơi !» . Bấy giờ bắt đầu vẽ nhà và chó mèo cho cô gì gì đó (cóc cần biết). Nghe nói bên nhà hai họ đã làm đám linh đình, thằng em trai mười chín tuổi phải đóng vai chú rể, ôm con gà trống qua nhà gái, nó mắc cỡ không chịu, dỗ mãi, phải tốn bộ vó mới tinh và cái vé khứ hồi nó rong chơi Huế mười ngày.

Không thể vặn tại sao bởi nghĩ cho cùng, anh ấy chỉ «nguyện» chớ có hứa hẹn gì ? Lại là ông Xuân Diệu tự nguyện với lòng hay với ai đó, anh ấy «đạo» chút đỉnh, chết con kiến nào ? Chỉ tôi dại tưởng bở, hầm lắm. Mình không cho ai đi tàu suốt thì thôi chớ sao bị «cắm sừng» như vậy được. Nuốt mãi giận cũng còn. Con chó sinh được ba ngày, mắt tôi bắt đầu hé mở.

Rồi trời ơi, mùa đông năm ấy mới lạnh lẽo làm sao ! Bởi vì tấp tểnh người đi tớ cũng đi, nhà hoá học không đợi mời, cũng đi tìm la-bô khác ! Hôm ấy trời mưa tầm tã như thể muốn chứng tỏ gì chớ nước trời có thừa. Anh ấy đội mưa, tội quá (dù sao !), đem cho thùng nước mắm :

- Thùng mười hai chai, hy vọng em ăn được cả năm. Thứ anh vẫn thường mua, ngon và đủ ba mươi lăm độ chất đạm, bổ lắm.

Rồi kể tỉnh bơ về vợ sắp cưới. Anh có tật đãng trí không nhìn rõ tấm nhan sắc cô vợ (xấu hơn «Con ma nhà họ Hứa»), không nhận thấy vẻ sững sờ thất vọng trên mặt tôi. Ô, vậy mà mình cứ tưởng... dù sao... Và tôi làm như thể chúc mừng anh thật sự.

A, chó đã được sáu ngày, mắt mở to thêm một chút, tiếng ư hử rõ ràng tiếng sủa. Ngay hôm sau tôi tìm tới anh bi-da. Phải ra tay trước chớ còn vỏn vẹn một chàng, để anh ta có cơ hội dở chứng thì còn mặt mũi nào. Anh đang tập dượt. Tôi la to : tôi chán đàn ông con trai, rằng muốn thôi không liên lạc với anh nữa, rằng các anh là một lũ ba xạo... Rằng đối với anh tôi cũng chẳng thương yêu gì, chỉ chơi giải trí cho vui, rằng dù vậy tôi vẫn muốn làm trái banh đỏ, trái banh trắng vòng vo bở hơi cũng phải chạm tới nó chớ không thì vẫn cứ là hỏng... vân vân.

Chẳng nhớ nói gì và cũng chẳng hiểu lắm mình muốn nói cái gì, chỉ nhớ ngúng nguẩy bỏ đi anh chạy theo nắm tay nhưng tôi giằng ra. Tối đó không trả lời điện thoại, không chịu gặp anh và tuần sau em gái anh tìm tôi ở trường, báo tin anh đang ở tù bên Thụy Ðiển.

Ðã nói ở trên, đó là « hồi trẻ», nếu xem ông trời bằng cái vung đã tốt phước cho ông lắm rồi ! Thích nghe đàn ghi ta và thơ đạo tán hươu tán vượn, thích ăn nước mắm đủ ba mươi lăm độ chất đạm không phải chạy đi mua, thích du lịch đó đây chút đỉnh không tốn tiền. Ðàn bà con gái mà, cứ tự cho quyền đá thiên hạ như đá banh, mình thì phải được sùng bái như thần thành hoàng !

Tuần sau nhận thư anh bi-da từ Thụy Ðiển, bảo rất mong gặp nhau. Tôi trả lời còn hai tháng nữa thi xong sẽ qua thăm ngay, vì dù sao anh bị giam tới một năm, vội gì (lúc đó thầm cám ơn quan toà đã xử anh tới một năm, dù chần chờ, cũng còn dịp đi thăm được). Không quên nói rất tiếc lỗi anh phạm phải. Nó giản dị thôi : mỗi lần bực bội chuyện gì thì cầm trái banh ném lên trời, thường anh chạy ra sân nên ông trời chộp được ném trả lại lựa chỗ không người. Ðằng này anh còn trong phòng có khán giả mà ném, trần nhà liệng trả lại, trúng phải một bà. Thế là bị «giam lỏng» bên đó (dù lỏng cũng vẫn là bị giam) và treo giò một năm. Ðời anh không cầm gậy chọc chọc mấy trái banh trắng đỏ, không ngang dọc nay đây mai đó hơn thua giải này giải nọ thì coi như tàn. Tôi tương lai cũng tàn nếu lần này hỏng nữa.

«Ðộ này kiện cáo khách hàng thưa

Thấy trẻ tiêu như có vẻ thừa

Kiệm ước ra đời sao chẳng kiệm

Con Thầy thông cảm ý Thầy chưa ?»

Lá thư lần đó Thầy tôi gửi, không mấy hiệu nghiệm. Nhưng :

«Con tưởng Thầy hái ra tiền dễ lắm hả ? Cãi thắng thì phải nhắc khéo cho thân chủ trả tiền lè lẹ. Thua thì phải tìm cách dụ ngọt ngào sao cho thân chủ phải móc hầu bao mà đừng buồn. Ai đưa thiếu thì hết cãi ở toà xong lại về cãi ở nhà. Thầy khổ lắm con ơi !», thống thiết bi ai quá, tôi không thể làm ngơ.

Ba tuần sau nhận được thư anh bi-da :

Em thương,

Anh chán phải chơi trò ú tim lắm rồi. Cũng vì bực mình em mà hôm đó anh bị thua và bị phạt. Có một gia đình Thụy Ðiển rất qúi mến anh, anh sắp làm đám cưới với cô con gái nhà đó. Anh muốn yên thân để còn lo sự nghiệp lâu dài về sau hơn là cứ phải điên đầu vì em. Chúc em may mắn.

MIÊNG

Paris 22 Aout, 1995

Phượng Các
#8 Posted : Tuesday, December 7, 2004 3:32:16 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Cu Bợm



Cu Bợm vẫn chờ đợi khoảng thời gian này - lúc mà mẹ nó hãy còn đang bận bịu xắt chuối thì nó chưa có gì phải làm, và chú Thân dì Huệ đều đi vắng - để dán mũi vào chỗ rào đã vạch sẵn, nhìn lén qua nhà dì chú.

Từ chỗ này, Cu Bợm có thể nhìn thấy hết mọi chuyện bên kia. Thằng Cu có lẽ vẫn còn say ngủ, con Chi Chi ngồi ở hè gãi sột soạt khắp người, gãi một cách say sưa và bỏ chấy rận gì đó vào mồm nhai. Gãi đã rồi nó ngồi thừ, một lát lại đứng bật lên lấy chổi quét sân, cứ y như có dì Huệ hét bên tai. Xong nó ném cây chổi vào xó, ngồi đờ ra lần nữa. Ðôi mắt màu hạt dẻ bỗng nhìn đảo điên. Nó vụt chạy ra sau nhà, nhìn thật lâu trầm ngâm vào cái chuồng heo đã trống. Nó nhảy tới, nhảy lui, nhắp nhắp miệng kêu chanh chách. Nó huơ tay như mỗi lần muốn nói gì với chú Thân, rồi lại quặp tay ra sau đít, miệng không ngớt phát ra những tiếng kêu chói tai. Mãi lâu sau khi nghe tiếng thằng Cu khóc, con Chi Chi chạy vụt lên nhà. Nó có cái nhìn giống thằng Tị con ông Tư, láo liên.

Cu Bợm biết là chú Thân thương con Chi Chi bao nhiêu thì dì Huệ ghét con Chi Chi bấy nhiêu. Dì cứ thường cằn nhằn với mẹ là hay ho gì mà nuôi khỉ trong nhà.

- Nhưng mày cũng sai nó làm được khối việc đó chớ.

- Ơ thì tàm tạm, thấy mình làm sao thì nó làm vậy. Ðồ khỉ ý mà, chỉ giỏi bắt chước. Sai biểu được chút đỉnh mà sao tui cũng không ưa.

Dì Huệ ghét Chi Chi ngay hôm đám cưới. Ðông người quá làm nó sợ, vào rừng trốn biệt tới tối mới về và theo thói quen, leo lên giường ngủ với chú Thân. Ðuổi mãi nó không ra, dì Huệ lấy cây roi doạ đánh. Nó vừa nhảy xuống khỏi giường vừa hậm hực. Sáng hôm sau dì Huệ mới ló mặt ra cửa buồng là đã thấy nó chờ sẵn với cây roi rồi !

Chú Thân rất ít nói, cả ngày nếu nghe thì chỉ nghe dì Huệ thôi. Dì Huệ gọi:

- Chi Chi, vào quạt cho em ngủ, mày làm cái gì mà nhởn nhơ ngoài đó.

Dì Huệ khoe :

- Nhà ơi, mới mua cho thằng Cu cái áo ca rô đỏ vừa rẻ vừa đẹp, Tết này nó diện vào thì nhất định là bảnh nhất xóm.

Dì Huệ bảo :

- Nhà này, bữa hăm ba Tết, thịt con heo bán cho kịp. Bán rồi ghé chị Thạnh lấy áo mới cho nhà, may rồi.

Chẳng nghe chú Thân nói gì, chỉ nghe dì Huệ gạt đi :

- Nhà nói lạ chưa, năm nay mình có con, Tết nhứt phải ra gì hơn mọi năm chứ lại...

Cu Bợm thuộc làu những chuyện chú Thân kể, nó nghe và hiểu được, vì nó cũng sống trong cảnh nghèo. Co ro trên ổ rơm, nó hiểu. An củ mì luộc trừ cơm, nó hiểu. Nhưng những chuyện dì Huệ nói thì nó không hiểu nổi. Dì Huệ nói nhiều chuyện về "sau này thằng Cu sẽ" lắm. Thằng Cu đi học, nó hiểu. Nhưng "học ít nhứt tới tú tài", tú tài là gì, nó không hiểu.

Mỗi lần dì Huệ bàn tính, thỉnh thoảng nghe chú Thân ừ, hoặc chẳng nghe gì cả. Hễ có dịp mở miệng là chú chỉ nhắc lại những chuyện đã nói rồi, mà Cu Bợm vẫn cứ há hốc mồm ra nghe, ghiền. Chú thường kể chuyện nhà cụ Bá ăn đạn, mang luôn cả cụ theo vì lúc ấy vào khoảng giữa khuya. Cụ Bá uất hận, đêm đêm vẫn hiện về trên nền đất cháy đen, đi tới đi lui, hai tay chắp sau đít kêu to lên :

- Cu Bợm đâu, về bằm chuối cho heo. Cu Bợm !

Cu Bợm giật bắn lên, một nhánh gai ở bờ rào cào tay nó. Nhưng nó tỉnh người vì nhận ra giọng mẹ nó chớ không phải cụ Bá. Nó rời hàng rào, tiếc rẻ. Mẹ nó nói to hơn :

- Cả ngày cứ long nhong lêu lổng, muốn tao bỏ đói chắc. Cu Bợm !

Cu Bợm chạy về, mẹ nó la :

- Bộ muốn thành bợm thiệt hay sao mà cứ rình mò nhà người ta hoài vậy ?

Cu Bợm vào bếp, nơi có nong chuối xắt đang chờ nó bằm cho nhuyễn, nói có vẻ thèm thuồng :

- Mẹ mẹ, hồi sáng chú Thân làm con heo đi bán Tết rồi thì chắc con Chi Chi khỏi phải bằm chuối nữa hể mẹ ?

- Sao khỏi. Nhà Thân nói tính mua hai con heo con lận đó. Rồi bằm gấp đôi chớ không à.

Cu Bợm thèm thuồng nói :

- Cha mà bắt cho con một con khỉ như Chi Chi thì mẹ nuôi mấy con heo cũng được.

Không nói gì, mẹ Cu Bợm lấy cái nón gác trên dàn bếp, vừa bước ra cửa vừa dặn con :

- Bữa nay ăn cơm với còng um trong chạn. Gần Tết rồi nên nhà ông Tư xay lúa nhiều hơn, mẹ về trễ. Chiều dặn cha nấu cơm trộn củ mì nhiều hơn hôm qua, để dành gạo ăn Tết.

Cu Bợm ngồi xuống bên cạnh nong chuối xắt, bắt đầu làm việc. Nó vừa bằm chuối vừa ngó qua nhà chú Thân. Nó bắt đầu cái trò rình mò này từ hồi chú đem con khỉ con về nhà. Mẹ nó bị chú bắn chết vì sương mù dày quá, chú tưởng lầm là con nai. Tiếp theo chú cưới dì Huệ và có thằng Cu, nó lại càng rình chăm hơn nữa vì mê cả con khỉ lẫn thằng Cu.

Bên kia nhà, không biết con Chi Chi đang làm gì mà nghe thằng Cu cười sặc sụa. Bỗng con Chi Chi lại chạy ra sau nhà, lại nhìn cái chuồng heo trống, lại nhảy tới nhảy lui, lại nhấp môi kêu chanh chách. Trong khi đó thằng Cu không còn ai chơi, nổi lên khóc.

Có lần Cu Bợm hỏi mẹ :

- Trao thân gởi... cái gì đó, là gì mẹ ?

- Trao thân gởi phận chớ gởi cái gì.

- Là sao mẹ ?

- Là ờ... là người này về ở nhà người kia. Như dì Huệ về ở với chú Thân vậy.

- Con hiểu rồi. Chú Thân nói con Chi Chi trao thân gởi phận cho chú. Con biết là thằng Cu lớn lên sẽ trao thân gởi phận cho ông ngoại nó. Dì Huệ nói. Ðể nó đi học cho gần.

Không nhìn chuồng heo nữa, Chi Chi vào bếp lấy con dao lớn, chạy tốc ra vườn, huơ dao lia lịa chặt nhanh mấy tàu lá chuối, bắt chước y hệt chú Thân sáng nay. Chà, nó cũng biết lựa mấy tàu nguyên vẹn.

Cu Bợm kéo tấm phên cửa bếp rộng ra để vừa sáng, vừa có cái nhìn rộng hơn. Nó ngồi soải hai chân trên nong đầy chuối bằm bằm nhát gừng vì mắt mải theo dõi Chi Chi. Con Chi Chi lên nhà. Vẫn với con dao xắt chuối. Từ bếp nhìn qua nhà chú Thân thì không trông rõ như ngoài rào, Cu Bợm ráng đổi đủ kiểu ngồi cũng không thấy khá hơn. Buổi trưa ở nhà quê cực kỳ im lặng, Cu Bợm không nghe gì khác ngoài tiếng bằm phập phập của chính con dao mình. Con Mực mà chú Thân đã cột trước khi đi vì sợ nó cắn lộn với con Chi Chi cũng đang im ngủ. Trong khi chờ con Chi Chi ra sân, Cu Bợm bằm chăm chỉ.

Bỗng nó nghe thằng Cu khóc ré lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Chắc thằng Cu giận lắm vì còn đói. Rồi im. Mẹ Cu Bợm thường khen thằng Cu được cái khóc to nhưng không khóc dai. Tiếng ré của thằng Cu làm con Mực bị cột ở cửa đang ngủ bỗng thức dậy, kêu toáng lên. Nó nhảy đông đổng, uất ức vì bị cột. Nó nhe nanh, mắt đảo ngược, gầm gừ sủa dữ dội, nó kêu ăng ẳng nghẹn ngào. Bốn chân cào bấu vào cửa một cách vô vọng, con Mực vặn vẹo thân mình như đang bị tra tấn. Nó quằn quại trăn trở đủ kiểu, hướng vào nhà sủa hết sức mình chửi con Chi Chi đã phá giấc ngủ trưa của nó. Rồi nó tru lên từng hơi dài. Giữa trưa im vắng, tiếng tru của con Mực gây cho Cu Bợm cảm giác ớn lạnh ở lưng. Người ta bảo chó tru vì thấy ma. Hay con Mực đang thấy ma hiện ra bên nhà chú Thân ? Nó tru lanh lảnh rợn người. Và nếu có ma, liệu con ma có qua đây không ? Trời ơi, Cu Bợm đang chỉ một mình !

Cu Bợm bằm nhanh tay hơn. Bên kia rào lặng câm. Chắc con Chi Chi đang quạt cho em ngủ. Con Mực thì cứ gầm gừ, cổ họng kêu rên, bốn chân không yên, bứt rứt. Nó không tru to nữa, mà kêu ư ử như than khóc, kiểu khóc của mẹ hôm bị cha đánh.

Nhìn nong chuối, Cu Bợm hài lòng. Chuối sắp nhuyễn, cha cũng sắp về. Cả chú Thân dì Huệ nữa. Chỉ có mẹ là phải tới chiều.

Mỏi nhừ, nó bằm chậm lại và phản ứng là nhìn qua rào. Bỗng nó giật bắn người : bên kia, con Chi Chi vừa bước ra sân với con dao lóng lánh ướt đỏ chói dưới ánh mặt trời. Nó đi hiên ngang, cười cười một mình vẻ hài lòng. Bộ lông màu cỏ úa của nó bê bết ướt át cái gì đỏ rực...

Chú Thân thường nói chưa bao giờ thấy cụ Bá hiện về và chưa bao giờ chú sợ. Trừ có một lần, hồi hãy còn trai trẻ, một hôm đem thịt nai đi bán ở làng Hạ, chú chợt giật bắn người vì một trái bom rớt gần chợ. Ðang điếng hồn, chú thấy một thằng nhỏ ở đâu chạy ngang qua, vừa la khóc vừa chửi thề om sòm. Thằng nhỏ cháy như ngọn đuốc. Ðến góc chợ, nó ngã qụy. Không một tiếng động. Mọi người sợ hãi ngơ ngáo, quên cả cái chết của thằng nhỏ. Chú chưa kịp hoàn hồn thì một trái bom khác rơi đúng trên nóc chợ. Chú thấy tận mắt một thân hình đàn bà tung bắn lên cao rồi rơi xuống trước lều chỗ chú đang ngồi. Những chiếc xương sườn chĩa ra khỏi chiếc áo bà ba bê bết máu. Những mảng thịt nát ngấu lòi ra ở bụng. Chú lặng người đi, quẫn trí, không biết phải làm gì, quên cả chạy...

Cứ mỗi lần nghe chú Thân kể chuyện đó là Cu Bợm có phản ứng nhìn xuống hông mình. Bây giờ nó cũng làm động tác đó. Không, không có cái xương sườn nào chĩa ra khỏi áo nó. Bên kia sân, con Chi Chi cười sặc sụa, ném con dao loáng đỏ xuống sân và hai tay nhớp nhuá xoa vào nhau. Cu Bợm bật lên một tiếng kêu. Vừa lúc đó nó chặt nhằm phải chân mình. Con dao Cu Bợm vừa dính một chút nước gì cũng màu đỏ...

Máu chảy rỉ rả ở chân, Cu Bợm cà nhắc lao ra sân, ngóng nhìn về phía đầu làng với tất cả sôi nổi của lo âu lần thứ nhất trong đời. Trời trong vắt. Khoảng mênh mông trống trơn trải dài ra trước mặt nó ngút ngàn. Không một bóng người. Cây đa đầu làng như rũ xuống dưới cái nóng cháy da muôn đời của làng Thượng. Hơi nóng tạo một màn ảnh mù mờ lung linh làm Cu Bợm thấy choáng váng. Nó muốn chạy đi nhưng chân nó như dính chặt xuống đất, nặng nề quái đản.

Ðúng lúc đó bóng dáng vợ chồng chú Thân đang tất bật bước ở khúc đường quẹo về nhà. Bên kia, con Chi Chi không có vẻ gì cà nhắc hay bị thương như Cu Bợm, đang ngồi dưới gốc cây gạo chợt chạy biến vào nhà rồi nhảy phóng ra như chớp, hai tay bê cái rổ lót lá chuối như sáng nay dì Huệ đã làm. Từng giọt nước đỏ tươi rải xuống khi nó nhảy tưng tưng vẫy tay về phía hai người. Con Mực sủa inh ỏi, chồm lên, lồng lộn như muốn bứt đứt sợi dây xiềng. Trong cái tĩnh mịch của miền quê, những âm thanh ấy tạo nên một cảm giác hoảng loạn bất an cùng cực. Cu Bợm muốn gào lên cho chú Thân dì Huệ về nhanh chân hơn chút nữa, nhưng cổ họng nó tắt nghẽn, lưỡi quíu lại, tay chân tê liệt.

Trời im sững. Nắng gay gắt không hây một chút gió. Mặt mày Cu Bợm tái mét. Nó đứng bất động như trời trồng, đôi mắt ngây thơ chết câm, khô cứng.

MIÊNG Paris, Avril l994
Phượng Các
#9 Posted : Friday, December 10, 2004 12:37:03 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

BỨC MÀN


Miêng (dịch)

Nguyên tác: Curtain của Jim Phelan


« Nhà tù Fenfield, bên phải ». Chiếc xe ca chạy chậm lại và du khách dán mắt vào cảnh tượng quái dị : giữa phong cảnh xanh tươi dễ chịu của đồng quê, một toà nhà khổng lồ bằng gạch đỏ sừng sững đứng chen mấy dãy nhà nhỏ san sát nhau càng làm nó tăng thêm vẻ bao la.
« Tù khổ sai, bên trái ». Hướng dẫn viên du lịch biết rõ việc mình làm, biết đúng chỗ nào có gì đáng xem trên con đường anh ta đi qua mỗi ngày. Khoảng hai chục cái đầu quay từ nhà tù sang tù nhân, đúng y như những du khách khác đã làm trong các cuộc hành trình khác. Họ há mồm ra nhìn với vẻ ngỡ ngàng, nhíu mày hay rùng mình quay mặt đi tùy tính khí mỗi người, trong khi chiếc xe ca từ từ lăn bánh xuống đồi.
Vài trăm người đang làm việc rải rác trên đồng và đường làng. Trang bị bằng cày, cuốc, rìu và bay thợ nề, người của nhà lao đang bù đầu với công việc khổ sai của họ. Chỗ này một nhóm người kéo cây đã đẵn, chỗ kia một nhóm khác đang cố kéo cái xe mà chính họ bị móc vào đấy. Nhiều nhóm khác, mỗi nhóm có một người bận đồ xanh trông chừng, đang xây một bức tường sắp xong. Gần đó một đứa con nít chơi đùa và một cô gái đứng bên đường cái, nhìn du khách đi qua.
Thỉnh thoảng một du khách bình phẩm rằng Fenfield đã đổi khác. Họ luôn luôn chờ thấy một bức tường, một bức tường cao khép kín cái im lặng và điều bí ẩn bên trong nhà lao. Các hướng dẫn viên biết rõ điều ấy, nên luôn luôn giới thiệu nhà tù trước, rồi sau mới cho du khách cái cảm giác rờn rợn với câu « Tù khổ sai, bên trái ». Thông thường du khách bị xúc động mạnh khi nhìn thấy tù nhân lác đác khắp nơi - phía bên ngoài bức tường kinh dị đó.
Xe ca vừa chạy nhanh vừa rít lên và du khách hướng cái nhìn về chỗ khác. Tù nhân các nhóm làm việc hơi ngẩng đầu lên. Mấy cái trò đó đã quen thuộc quá rồi. Mỗi ngày, nhiều xe ca chạy qua với cùng một thứ khẩu hiệu « Nhà tù Fenfield, bên phải. Tù khổ sai, bên trái ». Mỗi ngày, du khách dán cái nhìn vào tù nhân đang làm việc trên đồng, nhìn vào những người cai tù, nhìn vào bức tường chưa hoàn thành.
Bức tường bao một vòng thô ráp chung quanh nhà lao. Có lẽ dài khoảng một dặm. Hàng trăm năm nay, nơi đó vẫn mở ngỏ cho mọi người. Tù khổ sai làm việc trên đồng cỏ hay trên đường, trong khi cư dân quanh vùng chăm lo công việc của mình, không ai để ý ai. Rồi từ mấy năm nay, bức tường được bắt đầu xây lên. Chậm chạp trong cái vòng tròn bất thường, nó bò dài ra tới các đầu ranh giới của nhà lao. Cuối cùng, bây giờ nó hầu như gặp lại điểm khởi đầu. Cái vòng tròn gần như toàn vẹn.
« Fenfield... bên mặt... Tù khổ sai... bên trái ». Cô gái đứng gần đường cái quay bỏ đi khi một chiếc xe ca khác đang chầm chậm xuống dốc. Cô đi ngang qua trước nhóm người đang làm việc chỗ bức tường và tiến về phía một căn nhà lớn nằm cạnh cửa nhà lao. Nhóm người lo việc xây cất không để ý gì đến cô, có lẽ cô là người qua lại thường xuyên. Cô gái có vẻ người giúp việc, mang giỏ thức ăn và tờ báo ; cả cô cũng vậy, cô cũng có vẻ quen thuộc với khung cảnh này lắm rồi.
Khi đi qua lỗ hổng bức tường, cô chậm bước. Viên cai tù quay lại nói chuyện với tù nhân. Một gói nhỏ từ tay cô gái rớt ra trên đống đá. Rồi cô quay trở lại lối đi dẫn về nhà.
Lỗ hổng trên tường nhỏ, rộng khoảng hơn hai mươi bộ, hai mươi bộ cuối cùng của một dặm. Một con đường nhỏ băng qua đó, dùng cho cả cư dân quanh vùng và tù nhân. Sắp tới, khi bức tường hoàn thành, cư dân sẽ phải tìm một lối đi khác và sẽ không thấy tù nhân xuất hiện nữa. Nhưng hiện tại con đường cũ vẫn còn đó, điểm tiếp xúc cuối cùng giữa hai thế giới - tù tội và tự do.
Khoảng hai mươi người làm việc trong nhóm xây cất, đang nâng từng tảng đá to, trộn vữa, đẩy xe cút kít. Xa hơn, một người làm việc một mình với cái bay và cái bàn xoa. Chàng thanh niên có lẽ vào khoảng hai mươi bảy tuổi, cao lớn, tóc hoe vàng, mang nẹp xanh trên tay áo và con số thêu xanh trên mũ cát két. Khi cô người làm đi ngang qua, anh không ngẩng đầu lên. Nhưng khi cô vừa đi khỏi, anh đặt cái bay xuống và băng qua lỗ hổng của tường.
Viên cai tù không để ý gì. Ngay cả cư dân vùng đó cũng thừa biết là một người « mang nẹp xanh » có thể di chuyển đó đây không hề bị theo dõi. Người tù khổ sai nâng vài tảng đá trong đống đá bỏ lên xe cút kít rồi đẩy đi qua lỗ tường. Sau mấy phút anh lại trát vữa với vẻ chuyên cần, nhưng bàn tay cầm cái bay có dấu một gói con con. Lén lút, nghe ngóng như một con chim hoảng sợ, anh chọn lúc người cai và các tù nhân khác đang bận bịu, nhét nhanh cái gói nhỏ vào dây nịt.
Vài phút sau, cô gái ra khỏi lối đi và bước chầm chậm xuống đường. Cô ngần ngừ một giây rất ngắn gần đống đá, lấy lại tờ báo rơi dưới đất rồi rảo chân rời xa sau khi liếc một cái tới « anh chàng mang nẹp xanh ».
Trên băng đá gần lối đi công cộng, trong khi những du khách đi ngang qua, cô đọc mảnh giấy mà anh đã thả rơi trên đống đá, anh viết : « Maeve yêu quí, vì Chúa, xin em đừng lo lắng quá như vậy. Ngay cho dù anh có bị ở đây suốt đời chăng nữa thì mình vẫn còn có thể gặp nhau kia mà. Em yêu, khi thành hôn, mình không hề nghĩ rằng chưa đầy một năm sau anh lại bị tù. Tuy vậy sáu năm nay anh cảm thấy gần như sung sướng ở đây, nhờ vào tình yêu và lòng can đảm của em. Sẽ có, sẽ phải có cách nào đó để mình gặp nhau ».
Cô gái làm một cử chỉ sốt ruột rồi vẫn ngồi, với cái nhìn trống vắng, đầu óc cô chú mục nghĩ tới câu chuyện đã xảy ra. Sáu năm trước, đang ở tột đỉnh hạnh phúc thì tai hoạ giáng xuống đầu họ. Buổi tối liên hoan ai cũng uống nhiều, rồi cãi cọ, một tiếng súng nổ và cuộc điều tra tiến hành. Vụ kiện xử qua loa và được án giảm khinh nhờ lòng khoan hồng. Rồi những năm tinh thần bị dằn vặt với giải pháp tuyệt vọng là đi làm con sen cho người ta để được gần anh.
Họ rất cẩn trọng. Không bao giờ, chưa một lần nào dám liều lĩnh. Một mẩu giấy vứt xuống đất hay một lời nói nhanh ; đôi khi nếu tình hình thuận lợi, họ trao nhau vội vã một cái hôn nồng nàn. Chỉ thế thôi. Tuy nhiên như anh đã nói, là anh hầu như hoàn toàn sung sướng. Nhưng bây giờ - cô làm một cử chỉ nhỏ lần nữa rồi chụp vội mảnh giấy trên đùi, với vẻ bứt rứt.
Trở lại gần bức tường mọc cao dần lên, người tù mang nẹp xanh quỳ trong một góc vắng để đọc mảnh giấy anh vừa nhặt khi nãy. Maeve viết : « Jack, anh phải nghe em. Ðây là cơ hội cuối cùng của anh. Anh không có gì để mất cả, bởi nếu anh bỏ qua dịp này, chúng ta sẽ xa nhau vĩnh viễn. Nếu anh nắm lấy cơ hội và thất bại thì điều tệ nhất có thể xảy ra là sự xa cách thôi. Chiều nay, trước khi mọi người đi về thì anh đến nhé. Thật là tuyệt vọng, em biết, nhưng chúng ta cũng đang tuyệt vọng lắm rồi ».
Người tù khổ sai nhìn quanh một cách lén lút với vẻ gì còn nặng nề hơn là nỗi lo âu trong mắt anh. Anh loáy hoáy viết vội vã trên mảnh giấy còn giữa chừng, rồi ngừng lại, thở dài rít lên và bắt đầu viết tiếp. Còn đủ thời gian vừa đúng cho một lần chuyển đá nữa trước khi các nhóm làm việc đi ăn trưa. Mấy phút sau, tù khổ sai về từ các cánh đồng và bià đường, nối tiếp nhau vượt qua lối đi của bức tường ; người ta nghe một tiếng gầm nặng nề, tiếng xì xào nổi lên trong nhà lao lớn rồi sự im lặng của buổi trưa rơi xuống Fenfield.
Trong sự yên tĩnh của bữa ăn trưa, Maeve nhặt mảnh giấy thứ hai không khó khăn gì, trước khi nhanh chân trở về với những bận rộn thường ngày trong căn nhà bên cạnh. Nhiều lần trong suốt buổi chiều, những khi nghỉ chốc lát giữa các việc làm, cô cố kềm chế tiếng nức nở khi đọc lại mảnh giấy cuối cùng. Anh viết : « Maeve yêu quí, anh tin chắc là em có lý. Nhưng không cần gì phải vội em ạ. Gượm đã, Maeve ạ, hãy gượm đã. Vẫn còn ngày mai, hay một ngày nào đó, trước khi bức tường hoàn thành. Liều lĩnh hấp tấp có khi là điên rồ. Ngày mai - hay ngày kia - nói với các anh ấy hãy sẵn sàng. J. »
Chiều xuống, khi xong mọi việc, Maeve trở lại chỗ lỗ hổng nơi con đường băng qua. Cô nhìn thẳng phía trước, không hề liếc về phía các tù nhân đang làm việc. Rồi, thình lình, cô dừng lại, nhìn sững, kinh hãi.
Phía bên trong lỗ hổng có rất đông người đang làm việc. Tất cả nhân sự tù khổ sai của Fenfield đều ở đó, một đám đông khổng lồ đang ở gần lỗ hổng. Không một người bận đồ xám nào có mặt trên đồng hay trên đường. Mọi người đều ở bên trong và bức tường mọc lên rất nhanh. Lỗ hổng khép lại.
Jack ở đó. Cô thấy anh bên kia thành lũy đang mọc dần lên trong khi anh đang làm việc giữa đám đông. Nơi lỗ hổng đã cao lên khoảng bốn bộ rồi, một bức tường dựng lên trước mắt cô. Số người làm việc đông hơn trước gấp năm lần và những tảng đá được đưa lên như có phép lạ.
Maeve nhìn chồng, đưa tay lên giữa chừng rồi buông thõng xuống. Cô kêu lên cục cục ngớ ngẩn vô nghĩa, trong khi chính anh đẩy tảng đá cuối cùng vào chỗ. Hàng cuối cùng trải dài ra hết sức nhanh đến khi chỉ còn một khoảng trống nhỏ, chỉ một ô vuông vừa đủ lồng khuôn mặt anh trong chốc lát. Anh nhìn không nói gì, nhưng đôi mắt như bật lên một tiếng kêu thảng thốt. Rồi tảng đá bịt kín khoảng trống cuối cùng và Maeve im sững, chết lặng trước bức tường khổng lồ khép kín muôn đời sự im vắng và bí ẩn bên trong.

MIÊNG
Paris, Aout 1995



PHELAN, Jim (1895-1960)
Viết truyện và tự truyện. Sinh trong một gia đình nghèo ở Dublin, Jim Phelan lần lượt làm diễn viên, thợ rèn, nhân viên nhà băng, ký giả... Ông sống cuộc đời lang thang, đôi khi phải vào tù. Từ kinh nghiệm sống này ông đã viết « Letters from the Big House » (London, Cresset, 1943) một tuyển tập truyện ngắn miêu tả thế giới lao tù với một cái nhìn sắc bén của thảm cảnh đôi khi xen lẫn khôi hài đen, như trong truyện « The Curtain » ở đây. Jim Phelan cũng viết « Bog Blossom Stories » (London, Sidgwick & Jackson, 1948), nhiều tiểu thuyết, và một quyển tự truyện « The Name's Phelan » (London, Sidgwick & Jackson, 1948).
Phượng Các
#10 Posted : Saturday, December 18, 2004 1:34:16 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Hải Nữ

Miêng




Khi tôi trở về thì em đã chết rồi, giản dị như một cơn mơ.

Tôi thấy em mỗi chiều, nằm trên các tảng đá chất chồng, nhìn ra xa, trong tư thế cô độc, kiêu sa và tự tin của loài hải nữ.

Căn nhà bạn tôi cao hơn mặt biển ít nhất vài mươi thước, từ cửa sổ phòng khách nhìn xuống, chưa bao giờ tôi trông rõ mặt em. Tôi chỉ thấy lờ mờ một vùng mắt mày sâu thẳm, đen tuyền và trong đầu óc tôi, em như một bức tranh tố nữ. Trông em mảnh khảnh như con chim chìa vôi nhỏ, và vẻ xa vắng lặng lẽ cô đơn của em như một quyển truyện tình hãy còn khép kín.

Hầu như chiều nào cũng vậy, nằm một lát rồi em lại bỏ đi dọc theo bờ đá. Em thường đi như thế với vẻ cô đơn lạ lùng, và chúng tôi như có cái gì gần nhau, cùng một mẫu số chung trong nỗi cô đơn cao khiết đó. Em đi, hờ hững khua nước ngấp nghé hai chân chim nhỏ nhắn, mắt dõi mông lung ra xa vẻ chờ đợi, tìm kiếm một cái gì và như biết nó sẽ không bao giờ đến. Tới một lúc nào đó thì em khuất khỏi tầm nhìn của tôi từ cửa sổ phòng mình.

Chiều nay cũng vậy, em nằm đó, trên các tảng đá màu chì, thân thể nổi bật căng phồng trong chiếc áo tắm màu hổ phách. Nhưng khi tôi xuống tới nơi thì không còn thấy em đâu nữa. Tôi nhìn lên cửa sổ phòng khách ra dấu hỏi mẹ em đi đằng nào, nhưng mẹ lắc đầu, khoát tay ra cái điều không thấy.

Nhiều lần như vậy liên tiếp, tôi đâm nghi ngờ bực bội mẹ. Cái cảnh một mẹ một con không bao giờ rời nhau và tôi có cảm tưởng là mẹ không muốn tôi có liên hệ với ai, gây cho tôi cảm giác mình là anh chàng Bates trong phim Psychose của Hitchcock. Người vợ mà cụ đã chọn cho tôi với tiêu chuẩn là nền nếp Việt Nam một chút, - chớ " cái thứ dở đầm " thì sẽ ăn ở không ra gì - đã đưa đến kết quả là một cuộc ly hôn sau ngày cưới chưa đầy năm. Tôi luôn luôn khoác tấm áo cô đơn vào người, kể cả khi mẹ cưới cho cô vợ. Đối với tôi, niềm rung cảm của con tim tựa hồ như một cánh cửa kho tàng mà tôi đã đánh mất chìa khoá từ khi mẹ không chấp nhận người tôi lựa chọn. Và tình yêu là cái gì còn xa lạ mơ hồ hơn nữa. Làm sao gây đổ máu cho một thân thể đã chết rồi ? Nên bây giờ thì tôi là một loại trai già gàn dở, bẳn tính, vụng về, ngoài mẹ ra là không ai chịu đựng được.

Cho đến một chiều trời rắc từng hạt nước nhỏ mịn xuống trần, tôi nhìn xuống các tảng đá và thấy em vẫn nằm đó, lơ đãng như không biết dù mưa bụi cũng có thể làm em thấm lạnh. Tiếng mưa mỏng nhẹ như hơi thở, như tiếng em thì thầm bên gối, như nũng nịu gọi tôi hãy đến bên em. Một nỗi thôi thúc kỳ lạ như dồn tất cả sinh lực hối hả lên tim và chạy dài xuống chân bảo tôi phải bước đi. Một nỗi ham muốn được đối diện nhìn ngắm em mãnh liệt như dồn hết máu lên mặt làm tôi cảm thấy cả người bừng bừng thiêu đốt. Tôi lao ra cửa như bị thôi miên, như có một động lực vô hình khích lệ.

Bầu trời xám xịt hạ thấp xuống. Thỉnh thoảng một vài tia sấm chớp xẹt ngang dọc chằng chịt như những lằn gân máu bao trên óc. Mặt biển lầm lì bao la và bí hiểm dâng lên, nối liền với chân trời cùng một màu và cùng một vẻ đe doạ như nhau. Thiên nhiên như đồng tình trêu ngươi chế diễu cái bé nhỏ bất lực nhân sinh. Mưa vẫn lất phất rơi, ẻo lả đẩy đưa theo từng cơn gió.

Tôi chạy như lao xuống mấy dãy đá để đến chỗ em nằm. Khi gần tới thì em nhổm dậy, và với bản năng e ấp của phái yếu, bỏ chạy đi. Tôi đuổi theo. Tôi muốn bảo là mình không làm gì để em phải sợ, rằng có thể trời sẽ mưa lớn hơn và thay vì về nhà, em có thể lên trú mưa nhà tôi và nhìn biển. Nhưng tôi chỉ chạy theo, âm thầm như một cái bóng. Gió thổi thốc từ sau tới, nâng thân hình mỏng manh của em như bay bổng, gió xoắn nhẹ làm em chạy với vẻ uyển chuyển khoan thai như không chấm đất.

Chúng tôi tới bãi biển cách nhà không biết bao xa. Ban nhạc địa phương hồi sáng diễu hành qua các phố nhân kỷ niệm ngày đổ bộ của quân đội đồng minh, bây giờ đang hoà tấu trên biển. Tôi không để ý là trời đã ngưng mưa tự bao giờ. Bây giờ là cái choạng vạng của ngày vừa hết chớ không phải vì thời tiết xấu. Tôi vẫn ghét nhất khoảng thời gian này, lúc mà ngày chưa đi hẳn và đêm thì chưa tới. Một thời điểm giao hợp buồn bã nản lòng. Nhưng sao lúc này tôi lại thấy vui vô tả. Các nhạc công đứng trong nước, sóng vỗ nhè nhẹ vấp váp hai chân. Một ánh đèn xanh dịu yếu ớt toát ra từ dưới nước không soi rõ mặt ai cũng cho phép tôi thấy những cặp mắt khép hờ, say sưa trong điệu nhạc. Họ đàn điêu luyện, đam mê quên mình. Thế nên không ai trông thấy tôi, dù tôi là người duy nhất giờ này còn làm khán giả.

Ban nhạc đàn hay một cách mê hồn. Tiếng nước reo khe khẽ tấp vỗ vào bờ hoà nhịp một cách kỳ diệu. Cái kỳ diệu làm tôi nửa như xúc động muốn khóc, nửa như rạo rực muốn gào lên để diễn tả lòng ái mộ tận cùng. Chưa bao giờ tôi được nghe những bản đàn huyền nhiệm đến thế. Tâm hồn tôi như thoát tục, như phiêu lãng giang hồ tới nơi nào không biết chuyện trầm luân, bần hàn vụn vặt. Thân thể tôi muốn tan loãng ra hoà vào nước, quyện vào những bàn chân đang đẩy đưa theo điệu nhạc.

Tôi dõi mắt tìm. Em đứng ngoài xa, trầm mình trong nước, nháy mắt cười và ngoắc đầu, rủ tôi cùng ra bơi. Em cứ bơi cách trước tôi một quãng, chốc chốc lại quay đầu như khuyến khích tôi theo em ra xa chút nữa...

Và bây giờ thì em nằm đó. Trên chiếc giừơng đàn bà, em kiều diễm đến lịm người.

Tôi đứng ở cửa, không dám gây tiếng động, rõ ràng là Không gian như có giây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu. Hai mắt tôi dán vào giường, phần dưới thân thể em mờ mờ sau tấm màn tuyn màu hồng gợi cảm. Trông em bình yên như mơ. Một tay luồn vào mái tóc mượt mà trải dài trên gối, cánh tay kia tròn lẳn làm dấu gọi tôi, uể oải gợi tình. Như bản năng loài rùa vừa chui ra khỏi vỏ là trườn người bò ra phía biển, tôi bước vội về phía em, nôn nao hạo hực lẫn ngần ngại vu vơ.

Bên giường, tôi vụng về lột bỏ lớp quần áo ướt át dính chặt vào người rồi cuống quýt trân trọng ngồi xuống mép giường. Khoảng mắt mày vẫn đen tuyền kín đáo, mũi miệng nhạt nhoà trong ánh đèn cùng một màu hồng thật nhạt như màn. Không biết đôi mắt thăm thẳm kia có nhìn tôi trìu mến thương yêu không mà tôi cảm thấy chơi vơi trong mắt em. Tim tôi run rẩy. Tôi muốn nói những lời gan ruột, những lời chưa một lần nào thốt với ai trong đời. Thời gian như ướp lại. Mùi hương của gối chăn và da thịt đàn bà làm tôi ngây ngất. Tôi lướt đôi môi hoảng loạn của mình lên cổ em, cái cổ của chiếc bình sứ. Trên thân thể ngọc ngà quyến rũ, mắt tôi ràn rụa hạnh phúc. Loài cỏ cây khóc trên da người. Tôi cảm thấy một nỗi đắm đuối bí ẩn, say mê rờn rợn. Da thịt em mát lạnh, nồng nàn như giải đất phì nhiêu nhuận đạt hương đêm. Một luồng hơi mơ hồ quyện lấy tôi kéo xuống người em đang lặng lẽ chờ đợi, ung dung tự tại. Tôi như một ông thầy tu trẻ say men rượu lễ. Và trước em, tôi cảm thấy mình nhỏ nhoi hèn mọn - có phải vì vụng khờ nên tôi trở thành bé nhỏ ?

Tôi có cảm giác sống gấp rút mê man như lên đồng. Đầu óc tôi điên đảo trong niềm tin và tự mãn có em trong tay. Tôi không còn cô đơn buồn phiền và khép kín như con sò nữa. Vì vậy mà tôi phải giữ em, giữ em bằng tất cả tấm lòng cô đơn bao nhiêu năm tháng, giữ em với tất cả cái ngông cuồng của một đời trai cô độc, giữ em bằng tất cả các sợi gân máu sôi nổi làm thừng, giữ em thật chặt trong đôi tay hãy còn rắn chắc của mình... Tới lúc tôi cảm thấy rằng trên đời không còn gì hiện hữu nữa cả, không còn sĩ diện hay danh thơm tiếng xấu gì, chỉ còn có em, không còn cả con người, không còn chim muông thú vật gì, chỉ còn có em, không còn sông biển hoa cỏ gì, chỉ còn có em, không còn sách vở nghiên bút báo chí gì, chỉ còn có em, và tôi không còn cả sức lực, không còn gì chung quanh để bám víu vào, tôi chơi vơi hụt hẫng như bị rơi vào khoảng không mênh mông trống vắng, chỉ còn có em... một cái gì như vừa thoát khỏi người làm tôi tê điếng sững sờ, thì tôi càng ghì chặt em hơn nữa, và thốt ra một tiếng kêu thất thanh, mê đuối, hoang dại của loài thú trong cơn say mồi... Em - lần đầu tiên từ lúc gặp nhau tới giờ - thì thầm :

- C’est bien !

Tôi hé mắt nhìn. Đôi mắt em mở to nhìn tôi chăm chú qua cặp kiếng. Tôi khép hờ mắt lại vì mệt rồi chợt nhớ, lại mở hết sức ra để nhìn. Bây giờ thì tôi thấy cả mẹ đứng bên cạnh. Mẹ mừng rỡ :

- Con, con thấy trong người ra sao ?

Tôi dáo dác tìm em vì chợt nhận ra người mang kiếng bận áo choàng trắng là người xa lạ. Màu trắng lạnh lẽo của căn phòng làm tôi dại cả người, em có sao không ? Tôi hấp tấp hỏi mẹ :

- Cô ấy đâu rồi mẹ ?

Mẹ tôi ngạc nhiên :

- Cô nào ?

- Cái cô vẫn thường nằm trên bãi đá đó.

Mẹ tôi lắc đầu :

- Rõ khổ. Con cứ nói về cô ấy mà có bao giờ mẹ trông thấy cô ấy đâu !

Tôi chán đời, chán mẹ, xoay mặt vào tường không nói gì nữa. Mẹ tôi sụt sùi :

- Có cô nào đâu kia chứ. Trời thì mưa như trút nước, gió như bão vậy mà mày một mình băng mưa băng gió chạy ra biển. Rồi còn bơi nữa, sóng đập trồi lên trồi xuống. May mà tao gọi cấp cứu tới kịp lúc mày bị tấp vào đá, cái chỏm đá vẫn lòi lên mỗi lần nước rút ấy, chớ không thì giờ này chắc chết mất rồi ! (thở dài) Ba cái thứ nhà văn nhà báo rõ là khéo !

Tới đó thì tôi bực bội quay người lại, gắt :

- Thế còn ban nhạc ? Con có xem ban nhạc chơi đàn ngoài bãi với cô ấy mà !

Mẹ tôi tròn mắt lên :

- Ban nhạc ? Nhạc gì ? Nước dâng lên gần bờ tường không còn bãi bung gì nữa. Phố xá vắng teo ai cũng lo núp mưa núp bão chưa xong mà còn ban nhạc ! Cả nhà thương này nói mày có điên thì mới ra biển với thời tiết như vầy.

Tôi im lặng. Mẹ vẫn thường lo nếu tôi có vợ thì cụ sẽ bị bỏ rơi.

Tôi khăn gói trở lại Paris. Cứ mỗi lần mất một người bạn thì con đường mình sẽ bị cắt ngắn đi một khúc. Tôi biết là từ nay sẽ không bao giờ trở lại vùng biển này nữa, và vẫn sẽ tiếp tục kiếp trai già dở hơi, cô quạnh.

Bởi vì bây giờ thì em đã chết rồi, giản dị như một cơn mơ.

Phượng Các
#11 Posted : Saturday, December 18, 2004 1:36:07 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Huyễn Hoặc
Miêng


Đó là một buổi sáng an lành. Bà Trời khoác chiếc áo màu xanh dịu điểm ít hoa trắng nhỏ. Mặt dây chuyền to tướng màu mã não lửng lơ giữa hai bầu ngực căng tròn, loang loáng vô vàn tia sáng mềm ấm áp. Hơi thở bà ngọt ngào hương hoa đồng nội, mơn man dính lên những bông sơn lựu còn ẩm sương mai. Xa xa, chập chùng dãy núi đen màu xanh thẫm làm thành bức tường bao bọc các trang trại bên trong. Nằm khuất vào tả ngạn thung lũng đầy hoa dại và các bãi cỏ xanh um hân hoan đón chào tiếng róc rách con suối nhỏ bên bìa thung lũng, hai cánh cổng gỗ khép hờ yên tịnh. Ông chủ tới lui, tiếng xập xình đôi ủng làm nhộn nhàng buổi sáng. Bước tới con cừu nằm buồn thiu uể oải không ăn, ông vỗ về:

- Ăn đi con. Sao ủ dột vậy? Mày ăn thì cứ lười!

Ông đưa tay vuốt ve mặt mũi nó, đập nhè nhẹ vào má nó chách chách môi nựng nịu. Con cừu lim dim mắt, ngoe nguẩy đuôi. Rồi ông chủ đi thăm cả trại như vẫn làm mỗi sáng. Chuồng nào ông cũng ngừng lại chốc lát chuyện trò, thăm hỏi, khi trách móc khi đùa cợt, khi đe dọa khi khen ngợi, khi khuyến khích khi âu yếm... Cái nhìn giữa người với vật là một sự cảm thông và chia xẻ ngầm, tuyệt diệu. Xong ông vào nhà, bỏ áo khoác ngoài, loay hoay sửa mấy cái ghế long đinh...

Con cừu đực lơ đãng nhóp nhép. Một con gà trống nhảy lên thanh ngang chuồng cừu cười rổn rảng:

- César, sao trông anh buồn thiu vậy? Giả đò bịnh làm nũng với ai đó?

César mắt vẫn khép hờ, miệng vẫn cử động chậm chạp, dửng dưng không trả lời. Mấy con cừu khác cùng quay lại nhìn César, một con nhún vai:

- Hay đang mơ màng Cléopâtre?

César ngừng nhai, cặp mắt tròn đen nhánh nhướng lên nhìn sững đâu đâu như ngỡ ngàng trưóc nỗi đau thời thế. Con gà trống vễnh mũ trạng nguyên đỏ chói, lúc lắc đầu vỗ đôi cánh xanh rờn bóng bẩy, cao giọng trêu:

- Thôi, đích thị rồi! Thất tình khẳm rồi!

Chị gà tha thướt cánh áo vàng tươm dắt đàn con lau nhau áo lụa, loại lụa gì tươi mát bóng bẩy mềm mại ngọt ngào như lụa Hà Đông, nên bỗng nhiên bầu trời chợt mát, nháy mắt trách móc chồng:

- Chantecler ơi, nhà cứ hay chọc phá! Trông anh César có vẻ buồn quá kià, hỏi xem ảnh có chuyện gì không?

Con ngựa ở chuồng bên cạnh ngưng cạ lưng gãi vào cột, nhìn qua chuồng cừu vươn vai hí cười một tràng dài rồi nháy mắt hạ giọng:

- Chắc không phải bịnh. Nó mà bịnh thì cũng chẳng chịu nằm bẹp co ro như vậy. Trông lại ngơ ngơ ngân ngẩn thì chắc là chỉ vì tình thôi! Ui cha, đã ngứa cái lưng!

Con heo đang ăn gần đấy chạy tới, miệng hãy còn nhồm nhoàm vừa chắp lấy chắp để, nuốt vội góp lời:

- Anh Joly Jumper tâm lý gớm há! Em tưởng chỉ một mình em nghĩ vậy nên không dám nói ra, sợ bị anh César lại cho là em già chuyện và ngu như em thì biết gì mà đoán già đoán non!

Trong phút chốc nào gà nào vịt nào heo nào bò nào thỏ nào ngựa... bỗng rộn rã rời chuồng - những cái chuồng ngăn nhau bằng thanh ngang không cửa - tới vây chung quanh chuồng cừu, chú mục vào César. Joly Jumper đứng thẳng lên lúc lắc toàn thân, bộ vó cao ráo phương phi với chiếc áo khoác đen bóng sa tanh trong tư thế nghiêm trang dể nễ, đằng hắng:

- Có tâm sự gì thì kể ra cho anh em nghe, may có gỡ rối gì được không chớ giữ trong lòng làm chi hở César ?

Mấy con bò ngừng nhai, nhìn César vẻ trân trọng. Con thỏ trắng chui cái mũi nhỏ xíu màu hồng, đôi mắt như hai hạt nhãn long lanh ướt át nhìn César với cái nhìn êm dịu nhất đời, rụt rè:

- Chú César, kể đi chú! Kỳ trước cháu có chuyện buồn, chính chú khuyên cháu nên kể ra mà!

César rùng mình đảo nhìn bạn bè không nói gì, thớ thịt run rẩy dưới lớp lông dày trắng toát như đang lên cơn sốt. Các con vật im lặng chờ đợi. Mỗi đôi mắt là chiếc cửa sổ của những linh hồn thân thiện. Lâu lắm, rồi César mím môi, mắt đỏ rực mọng nước:

- Cái Juliette sắp chết tới nơi!

Cả bọn nhao nhao:

- Tại sao? Tại sao chớ? Chưa tới tuổi mà?

Một giọt nước mắt rơi. César lúc lắc đầu nhỏ nhẹ thì thầm:

- Hôm qua tớ nghe ông chủ nói trại nhà Juliette sắp giết cả đám!

Cả bọn đồng kêu lên bất mãn. Chị heo Bianca với mái tóc râu bắp khô lưa thưa, với làn da đã hết mịn màng và lớp mỡ bụng sồ sề sau nhiều lần sinh nở, hối hả:

- Tại sao vậy anh César?

César khóc thực sự, tiếng nấc thoát ra từ cổ họng như những cơn giông bão:

- Tại bị bịnh gì đó, bịnh gì do ăn bột gì đó! Joly Jumper, cậu có biết bịnh gì đó không?

Joly Jumper chưa trả lời thì vừa lúc hai anh chó săn chạy tới:

- Ê, tụi bay làm gì mà tụ tụ tụ... tụ họp ở đây vậy?

Không đứa nào trả lời mà cũng chẳng nhúc nhích. Chị Bianca ngúyt một cái ra gì, cố chắp miệng ồn ào chọc tức. Nhà này heo và chó rất không ưa nhau, mặc dù không nằm trong vòng tứ hành xung dần thân tỵ hợi, thìn tuất sửu mùi. Nhìn quanh thấy César khóc, một anh chó áy náy:

- Có chuyện gì vậy? (Vẫn im) Ê, mấy bồ phải nói nói nói... nói cái gì đi chớ? Mấy bồ muốn tụi tớ gặm gặm gặm gặm... đòn à?

Tiếng đám chuột trên sà nhà ríu ra ríu rít cười, Mickey nhảy ra đứng trên cây cột cho bên dưới thấy mình, nhún nhẩy múa trên hai chân sau và chiếc đuôi dài quay tròn trong không, vừa múa vừa nói như hát:

- Gặm một trận đòn đã đau bỏ mẹ rồi, ngon lành gì mà gặm gặm gặm cho lắm thế!

Cả bọn cười rũ, ngay cả Joly Jumper nghiêm trang, ngay cả César đau buồn. Chú chó săn cà lăm liếc lên sà nhà sủa tức tối nhưng chẳng làm gì được. Con sóc trên cây táo quạt qua lại chiếc đuôi nãu dài rậm lông lốm đốm chấm đen rất đẹp, nhảy xuống một cành gần hơn, nhanh nhẩu:

- Bác Milou ơi, chị Juliette bồ anh César sắp bị giết.

Milou nhìn đồng nghiệp, con chó kia nhướng mi mắt đã sụp, quên giận bật cười:

- Ối, bồ với chả bồ! ngày nào mà chẳng có đứa bị bị bị... giết! Biết vậy tên cậu nên là Ro Ro Ro Roméo, hoặc cô nàng của cậu tên Clé Clé Clé Cléo... pâtre mới phải nhẩy! Thôi, giải tán, tớ không muốn bị ông chủ phạt phạt phạt phạt... vì những chuyện lẩm cẩm tình cảm vớ vớ vớ ớ... va vớ vẩn của mấy bồ. (Chách chách miệng) A lê, giải giải giải tán! Dọt, Milou!

Milou cau mày:

- Tintin, cậu không có tim à?

Tintin quay lại trợn mắt nhìn bạn, đuôi vểnh lên. Milou biết đánh trúng điểm nhược, có lần trong một phút mềm lòng Tintin đã tâm sự là nói nó không tim nó hận hơn là nói nó không chim, mặc dù cu cậu đã bị hoạn từ thời mới đăng ký nhập khẩu làm quan cai trang trại. Hai con chó gườm nhau, mắt từ từ đổi sang màu lửa. Tháng ngày đã làm các thớ thịt trên mặt Tintin chảy xuống, cơn kình địch với Milou kéo lên, bất phân thắng bại. Cánh mũi Tintin phập phồng và hai chiếc răng nanh bắt đầu lộ ra, tiếng gừ gừ như tàu sắp nhổ neo, mấy sợi râu mép rung rinh như động đất. Cả bọn im lặng. Bỗng con thỏ xám nhảy mũi, nó bối rối:

- Ơ... xin lỗi... các chị Hồng đánh phấn nhiều quá, em bị dị ứng.

Đám hồng xa xa ngoài sân nghiêng người qua trái, tránh chiều gió thổi tới thỏ, một đoá khe khẽ giọng trìu mến:

- Xin lỗi Bug Bunny nghe! Tụi chị sẽ để ý hơn. Hồng Ba, em khép bớt cánh áo lại. Con gái gì mà cứ tênh hênh váy lên, làm gì mà phấn không bay tứ tung!

Đám hồng ba đỏ rực má, bẽn lẽn cúi xuống vuốt lại váy rồi vẫn ẻo lả quay tới quay lui, nhìn chăm chăm vào hai con chó. Joly Jumper đằng hắng, ánh mắt dịu dàng nhưng nghiêm nghị:

- Thôi, xin hai bồ! Chả là vui buồn cùng chia sẻ với nhau cho nó trọn tình. César sắp mất người yêu thì mình cùng nên an ủi một lời cho phải lòng thú-đạo.

Mắt xếch ngược như dân á Châu, hai đồng tử xẹt điện sấm chớp, César ho khan như bị nghẹn rồi cao giọng uất hận:

- Cái kiếp cừu tụi tui khổ hơn các anh nhiều. Các anh là chó săn nên chẳng những được ưu đãi mà chẳng ai làm thịt các anh cả! Còn tụi này sống nay chết mai. Bộ áo lông vừa độ đẹp thì chẳng mặc được bao lâu là chủ xén mất hoặc tới tuổi bán làm thịt là xong đời!

Tintin nhướng mày, gõ chân xuống đất:

- Ủa bồ ơi, nói nghe triết lý quá, biết đời bấp bấp bấp bấp... bênh quá, sao buồn làm gì nhẩy?

César bậm môi lắc đầu, mắt long lanh căm phẫn:

- Nếu họ cho mình sống tự nhiên theo bản năng mình thì chết chẳng nói gì. Đằng này...

- Sao? Ai làm gì Ju Ju Ju Ju... liette của cậu?

- Làm gì, họ cho nó ăn thứ bột gì đó. Bột gì hả Joly Jumper? Cậu không nghe ông bà chủ nói hôm qua à? Chính cái thứ bột đó làm Juliette và cả đám bạn sẽ phải bị giết tập thể ngày mai, vì sợ nguy hiểm cho con người!

Tintin hất hàm:

- Thế cậu có ăn bột đó không?

- Có. Dân bò thì bọn đàn ông không sao, chỉ đàn bà mới bị bịnh. Còn bọn tớ...

Tintin e hèm một lát rồi có vẻ tư duy, đôi mí mắt nhão sụp xuống, dịu giọng:

- Bột gì quái dị vậy ta, sao lại ghét ghét ghét ghét... các bà bò nhẩy? (Vẻ ngẫm nghĩ) Nhưng mà mình làm gì gì gì gì được bây giờ? Vậy là dân nào cũng cũng...ăn mà. Mình có ăn không, Milou nhẩy?


Milou trề môi nhún vai. César bỗng hăng hái:

- Mình phải phản đối! Dân bò đã bị giết hàng loạt rồi, dân gà cũng bị, bây giờ tới phiên dân cừu chúng tôi...

Vợ chồng mới cưới nhà cừu nhảy cẫng lên:

- Cái gì anh César, bọn mình cũng bị gì à?

Cô dâu cừu Dolly nép sát vào lang quân, ánh mắt nồng nàn như thể tình yêu sẽ thắng mọi điều bất hạnh, tay trái bấu chặt tay phải chồng giằng co với thứ bột tai ác đó. Chú chồng cừu son trẻ hôn lên vai vợ, cắn cắn khiến cô nàng nhột cười khúc khích, và chẳng biết chú chàng nói gì mà mặt cô nàng đỏ rực lên, vừa cúi xuống vừa cấu vào sườn chồng. César nhìn đồng bào gật đầu:

- Ừ, nghe đâu cũng đã bị gì rồi. Trường hợp Dolly ra đời do ghép qua ghép lại cái gì đó, đặc biệt quá, không biết có bị ảnh hưởng xấu như tụi này không. (Quay về phía chó) Rồi sẽ tới lượt dân heo, dân ngựa, dân chó các anh... Nếu mình không phản ứng gì, con người cứ tự tiện áp đảo mình thôi! Tụi tui đáng lẽ phải ăn cỏ thì họ cho ăn bột! Chính họ cho mình ăn loại thức ăn không phải của mình, rồi mình chưa bị bịnh thì họ cũng giết, vì sợ nguy hiểm cho họ! Có vô lý không?

Mặt César đỏ gay, đuôi bất động, tai dựng ngược, mép sủi bọt. Joly Jumper nhìn sững César một lát rồi phá ra cười, hàm răng trắng tinh ngời ánh dưới mặt trời, chiếc giò dài khoẻ mạnh đá nhẹ thằng bạn ngựa bên cạnh và nháy mắt:

- Đúng là chỉ có tình yêu mới cho sức mạnh và miệng lưỡi cường điệu như vậy! Nhưng tớ đồng ý hoàn toàn!

Cả bọn vỗ tay như pháo và Tintin cuối cùng cũng thuận tình. Chúng chụm đầu lại bàn tán kế hoạch với giọng thật thấp chẳng khác con người bàn chuyện quốc gia đại sự. Tintin và Milou ban đầu có vẻ ngần ngừ, vai trò chúng là canh chừng rồi báo cáo, còn chuyện này... Nhưng sau cùng hai đứa hăng hái lắm. Cả bọn rầm rĩ hoan hô quyết định cuối cùng của Joly Jumper và César, đứa giơ nắm tay, đứa nhảy dựng, đứa chồm về phía trước như muốn lao đi... Coi chúng khí thế ra gì. Cuối cùng Joly Jumper hạ giọng, âu yếm trêu:

- Thôi thì César, nhân dịp đông đủ bá quan, cậu kể cho anh em nghe chuyện tình của cậu đi nào!


Tiếng reo vui đồng tình khiến César bẻn lẽn đỏ mặt, đuôi ngoe nguẩy, hai tai nhấp nhỏm như hai cánh bướm. Cu cậu đi tới đi lui tủm tỉm, ngoẹo đầu qua phải qua trái rồi rụt cổ vào vai, híp mắt cười rúc rích. Chờ bạn bè thúc giục lần nữa, César lim dim mắt mơ màng chậm rãi:

- Tháng ba vừa rồi, tớ đại diện trại mình đi Đô Vin Đô Vật gì đó, thi sắc đẹp, bà con biết rồi. (nhiều tiếng trả lời ờ biết, ờ biết). Bên trại kia thì cái Juliette... (nhoẻn cười) Buổi sáng sau ngày tới nơi, trên đường ra sân chính, tớ nhìn thấy cái Juliette... (ngập ngừng) Kỳ cục nghe bà con, đang đi, tự nhiên tớ có cảm giác ai nhìn mình, tớ thấy nhột nhột ở đít (cả bọn cười ào, rồi vài tiếng suỵt suỵt), tớ vội vàng khép đuôi xuống che đít rồi quay lại... Trời đất ơi, tớ bắt gặp ánh mắt cái Juliette dán vào đít tớ, tớ khựng lại... (cả bọn cười rộ lên) Trời đất, tớ tưởng mình chiêm bao...

Chị heo với ánh mắt thèm thuồng tò mò chen lời:

- Anh César ơi, lúc đó chị Juliette bận cái gì, chắc chỉ đẹp lắm hả?

- Còn phải nói! Tóc Juliette cột cái nơ hồng. Bà con biết là được đại diện đi thi thì phải đẹp rồi. Bộ áo lông của cái Juliette, trời ơi, chưa từng thấy!

- Đẹp hơn áo lông anh à?

- Thì cổ thắng tức cổ đẹp hơn tớ rồi! Ông chủ Juliette mặt nhơn nhơn sung sướng kể gì, ẵm cái... cái cốc hả Joly Jumper?

- Cái cúp, nhà ơi!

César cười híp mắt:

- Ờ thì cái cúp. Cúp hay cốc hay ly gì thì cũng vậy, giống cái ông bà chủ nhà mình uống rượu ấy mà!


Bianca mơ mộng suýt soa:

- Chu cha, vậy thì chỉ đẹp phải biết! (Có vẻ tư duy) Thiên hạ nói nếu cái mũi Cléopâtre dài một tị hay ngắn hơn một tị thì cục diện thế giới đã thay đổi, còn đây là Juliette...

Hai tai dài thẳng đứng bất động, Bug Bunny mải há hốc mồm nghe, miếng cà rốt trong miệng rơi ra. Nó nuốt nước bọt, vất củ cà rốt ra xa, đưa tay quẹt mồm rồi tới nằm dài cạnh César, hai chân sau chéo lên nhau, tay trái chống cằm thúc giục:

- Rồi sao nữa anh César, kể tiếp đi anh!

Tiếng cần trục kéo nước từ giếng kẽo kẹt vọng lên trong bầu không khí an lành. Tiếng chim líu lo ở góc vườn rộn rã ban mai. Tiếng bà chủ mắng chú mèo Grosminet trong bếp vang vang. Ngay cả mắng mỏ, mọi âm thanh nơi đây đều mang màu sắc hiền lành than thản. Nắng đã lên cao. Lá cây đoạn tươi non chao lượn rộn ràng in bóng lên những khuôn mặt dài dại say mê nghe chuyện. ở trang trại chưa một mối tình nào u uẩn long đong đầy chất thơ đến thế trong khi nhiều cái chết đã gây bao xáo trộn, như cái chết của con gái Bianca và sáu đứa con Chantecler trong ngày cưới con trai ông bà chủ. Trong khi một cô gái mới từ đâu về trang trại ở, suốt ngày nghe tiếng cô cười thì tiếng than khóc của Bianca kéo dài hai ba tuần và từ đó, vòng eo và bộ ngực Bianca giảm đi trông thấy. César lúc lắc đầu tủm tỉm, mắt long lanh trữ tình:

- Rồi sao nữa hả, rồi thì ông chủ kéo đi, tớ cứ ì ra, không nghe gì cả... Tớ mải dán mắt vào cái Juliette, mà không phải vào đít nghe bà con (cả bọn lại cười), vào mắt hẳn hoi, kiểu mắt trong mắt í mà!. ừ, kéo mãi mà tớ vẫn không nhúc nhích, ông chủ mình và ông chủ cái Juliette cùng cười, chọc tớ và Juliette. Họ nói sẽ cho chúng tớ cưới nhau! (tiếng ồ thích thú nổi lên) Từ khi về, mỗi ngày ra đồng tớ thường rảo cạnh rào nhà cái Juliette, rình. Mà sao ít thấy cổ lắm ta ơi! Cái ông bà chủ nhà đó giữ kỹ cách gì!

Joly Jumper tròn mắt ngạc nhiên:

- Thế cô cậu chả bao giờ gặp nhau cả à?

- Có chứ! Không gặp mà tớ sống được tới ngày hôm nay à! Giỡn hoài, thánh chắc!

Gà Chantecler cười khành khạch vỗ cánh rầm rĩ, ngoáy mông nhảy tuýt. Bộ áo rực rỡ màu vàng màu cam màu xanh lá màu đen màu nâu trộn lẫn chồng chéo vào nhau theo mỗi cái lắc mông. Chú chàng rướn thân hình cao lớn vạm vỡ, cất giọng sảng khoái oang oang:

- Chà, cu cậu cũng kín miệng gớm ta, bữa nay không bịnh tương tư thì đố ai biết! Rồi sao nữa César, mỗi lần gặp nhau có hun hít rờ rẫm gì không cừ thú thiệt đi. Chà, tới giai đoạn ly kỳ hấp dẫn nghe bà con!


Bỗng một con bồ câu tách đám sà tới:

- Ê bà con ơi, ông chủ tới kìa!

Vội vàng, các con vật ai về chuồng nấy, tiếc rẻ chưa thưởng thức được khâu ly kỳ hấp dẫn nhất của những kẻ yêu nhau - nhất là những kẻ yêu nhau giấu giếm. Tintin và Milou bổ ra sân quắn quít bên chân ông chủ...




Buổi chiều, Milou chạy biến đi đâu một hồi rồi về hổn hển chạy ào vào chuồng thú vật. Tintin đang đánh hơi quanh đụn rơm phóng theo bạn. Thấy bóng Milou, từ heo gà bò ngựa... đều rầm rập kéo tới chỗ César. Mặc cho mọi cặp mắt sốt ruột dò hỏi, Milou đảo mắt nhìn những con khác đang ào ào kéo tới, chờ đợi. Khi đã đông đủ, Milou phập phồng mũi đánh hơi, e hèm vài tiếng rồi dõng dạc:

- Ngày mai, sau bữa ăn sáng của ông bà chủ.

Như vừa hít phải một mùi thơm quyến rũ mà xa lạ, các con thú hỉnh mũi, mím môi, có đứa đưa tay dằn ngực. Tintin gật gù:

- Bên đó họ ăn sáng lúc mấy mấy... y giờ? Không biết có cùng lúc như chủ chủ chủ chủ... nhà mình không nhẩy? Cậu có hỏi không?

Milou tròn mắt:

- Ờ quên, tớ không hỏi. Thuyết phục tụi nó đủ bở hơi!

Joly Jumper minh triết:

- Thường thường cũng vào giờ đó chớ không trễ hơn đâu.


César bồn chồn bước tới lui trong chuồng, không ngừng ngoe nguẩy đuôi, mắt sôi nổi. Cả bọn đều có vẻ kích động, thì thầm qua hơi thở. Bỗng con sóc chép miệng:

- Anh César ơi, anh nói tụi em thì không sao, nhưng mà buồn chết anh ơi!

Con thỏ hồng đôi mắt càng tròn hơn và mọng nước, hai tai dài rung rung xúc cảm mếu máo:

- Sống gì nổi hả chú. Biết vậy hôm trước cháu làm đám cưới cho rồi, cần gì coi ngày mà chẳng mấy ai tham dự!

Không nói gì, cả bọn nhìn nhau rất lâu có vẻ trầm tư. Một sự im lặng kéo dài nặng nhọc. Cuối cùng heo chồng bảo khẽ vợ:

- Kíp lắm rồi, nhà lo thu dọn, coi món gì quý giá...

Vợ chồng nhà heo kéo đi, cả bọn cũng từ từ giải tán với vẻ vừa đăm chiêu vừa náo nức. Nắng chỉ còn vương những sợi tơ mềm trên các đỉnh cây cao thung lũng. Gió hiu hiu khuấy lao xao lá và trên trời, mây lửng lơ bay về nơi vô định...




Sáng hôm sau, đàn cừu không be be tán gẫu rộn ràng, đàn bò không tản mác xa nhau, mấy con ngựa không xôn xao triết lý, gia đình heo không chắp chắp ồn ào, đàn gà mái không la mắng các con tranh ăn... Nếu là ở chiến trường thì một ngày yên tĩnh như vậy sẽ khiến quân đội lo âu. Ông bà chủ trang trại ngồi ăn sáng trong bầu không khí êm đềm, không để ý là hơi khác mọi ngày. Ông chậm rãi thưởng thức món trứng tráng con gà mái đẻ lần đầu, thơm ngon hơn trứng khác. Bánh mì hôm nay cũng dòn hơn xốp hơn và miếng phó mát gia truyền sữa dê thả rong trên núi ngon lịm đời trại chủ. Vợ chồng còn đang nhâm nhi trò chuyện nắng mưa bỗng giật mình vì tiếng sủa dữ dội của con chó săn. Ông chủ bước ra vừa lúc con chó chạy ào tới sân, nhướng mắt ngạc nhiên:

- Cái gì vậy Milou?

Milou sủa rất hăng mấy tiếng nữa rồi chạy đi. Ông chủ quay vào lấy cây súng săn trên tường, hấp tấp bảo vợ:

- Tui chạy theo con Milou đây. Nhà ra xem con cừu có ăn khá hơn không.

Bà chủ dọn dẹp chén đĩa rồi ra chuồng súc vật, đi thẳng đến chuồng cừu. Từ xa, bà đã thấy nó đứng ở cửa chuồng quay đầu qua chuồng ngựa. Bà tới, nhìn máng ăn rồi vuốt ve nó, bảo mày ăn chưa đủ con ạ, bữa nay mà mày vẫn ăn ít thì chiều nay tao phải mời bác sĩ. Bà vuốt lớp lông dày mềm mại của nó, bà xoa cái đầu nhỏ nhắn dễ thương của nó, bà hôn lên đôi mắt ngây thơ đáng yêu của nó, rồi bà ôm nó vào lòng, vỗ về. Con cừu lòng như lửa nổi nằm im trong lòng bà. Chợt bà hoảng hốt nghiêng đầu nhìn:

- Sao mày run dữ vậy con? Thôi mày bịnh thiệt rồi. Tao phải gọi thú y ngay thôi!

Chưa kịp buông cừu ra thì con chó săn chạy tới sủa vang lừng, bà quay lại lo âu:

- Chuyện gì mà hết con Milou tới mày ồn ào vậy Tintin?

Con Tintin quẩy đuôi tới tấp và cắn váy bà níu đi. Bà chủ lụp chụp bảo ờ thì tao theo mày, tao theo mày. Chó chạy trước người chạy sau vội vàng ra khỏi cổng trang trại...

Chạy một lát, bà chủ thở hổn hển, mồ hôi thấm áo gây gây lạnh trong sương mai:

- Tintin ơi, thong thả một chút được không, tao chạy làm sao kịp mày!

Và bà dừng lại bên bìa thung lũng, tựa thân hình tròn trịa nặng kí vào cây hoa sứ rực màu hồng sẫm. Từng bông hoa như muốn nhô người ra khỏi màn sương khi trời chưa tỏ đất, im lìm mà cương quyết, khe khẽ mà dứt khoát. Suốt dọc dài thung lũng cỏ hoa lặng lẽ trong màu vàng rất nhạt ưng ửng yếu ớt từ xa, cạnh đấy thanh tao tiếng suối róc rách như những lời thì thầm của cô gái nhỏ. Tấm thảm nhung cỏ non mềm mại lượn lờ theo triền dốc, ngai ngái thơm mùi ẩm sương đêm. Con Tintin quắn quýt bên bà rồi bỏ chạy, tiếng ăng ẳng sốt ruột phá tan cái tĩnh mịch ban mai. Bà chủ đưa tay dằn ngực:

- Tintin! Tintin! Mày lại chạy đâu rồi?

Bà chạy theo nhọc nhằn. Hai bắp đùi phục phịch lội ngược sườn đồi theo tiếng sủa Tintin càng lúc càng xa. ì ạch lên tới lưng chừng con suối, bà nghe thoang thoảng trong gió ban mai tiếng người than trách. Bà ngừng lại dáo dác, lo âu khe khẽ gọi Tintin, Tintin, mày đâu rồi? Thay cho tiếng Tintin trả lời, tiếng người càng lúc càng rõ hơn và hình như không chỉ một khiến bà sợ hãi. Đưa tay dằn ngực, bà cắn môi cố nhìn chọc thủng màn sương hãy còn dày đặc. Trời vẫn chưa giúp đất nhìn rõ chính mình và sinh linh vạn vật. Bà thấy lo âu. Có cái gì đó bất thường, bất ổn. Cái yên tĩnh hiền lành của thung lũng chỉ là bề ngoài che dấu cái gì đó ghê gớm lắm, mạnh mẽ lắm, đảo lộn lắm. Bà e ngại ngay cả hít thật sâu cho con tim dập dịu nhịp bình thường, như thể không khí chứa đầy chất độc, e ngại cả ngồi xuống đất cho chân đỡ run, như thể dưới chân toàn là cỏ gai nhọn sắc. Cả màn sương thường ngày rười rượi tươi non là thế, sao hôm nay bỗng rờn rợn lạnh. Chỗ này đã rất xa trang trại...

Bỗng tiếng sủa Tintin vang lên, cả Milou, và cả hai ba con chó nhà ai nữa. Rồi tiếng người rõ mồn một tới gần. Tiếng đàn ông thoang thoảng trong gió mai, có cả đàn bà... Bà chủ chăm chú nghe, bước nhanh về phía ấy. Và kià trước mắt bà, xa xa trên một khu đồi trọc, mập mờ bóng dáng chồng bà cùng ông bà chủ trại nhà bên. Họ nói chẳng hiểu vì sao sáng nay chó săn hai nhà đều sủa rộn ràng và lôi kéo họ lên đây. Không ai ngờ trong khi đó...

Mọi cánh cổng đều mở toang. Từng đoàn từng đoàn súc vật túa ra cánh đồng giữa hai trang trại. Tiếng gọi nhau tíu tít, tiếng than thở tiễn biệt, tiếng chào, tiếng hôn nhau, tiếng chép miệng... Tất cả hoà trộn vào nhau, rộn rịp xôn xao buổi sáng. Buồn, cái buồn thời tao loạn. ở một góc cạnh đám oải hương lồ lộ màu hoa cà, cừu đực César đắm đuối nhìn cừu cái Juliette:

- Em khoẻ không? Trông em hơi xanh. Em đi xa được chứ?

Juliette bẽn lẽn cúi xuống rồi ngước lên, sôi nổi gật đầu:

- Với anh thì đi bao xa em cũng theo được. Mà anh này...

- Gì cưng?

Juliette nũng nịu lúc lắc đầu:

- Anh thích em cột nơ. Anh nhớ cái nơ màu hồng...

- Nhớ chứ! Em cột nơ đẹp như tiên!

Juliette tiếc rẻ, mắt buồn buồn:

- Mà bữa nay em không có nơ. Phải là bà chủ hay ông chủ buộc cho em cơ...

César âu yếm cạ đầu mình vào đầu Juliette và hôn phớt lên môi:

- Không cần nơ nữa em ạ, vì mình sẽ không còn ông bà chủ nào trên đầu nữa. Mình sẽ làm chủ lấy mình. Em có sợ không?


Juliette lắc cái đầu nhỏ bé dễ thương, ánh mắt dịu hiền mà cương quyết:

- Không, với anh em chẳng sợ gì cả!

César dắt Juliette tới trước mặt bạn bè hai trang trại, chúng chào từ giã nhau, những cái đầu gật gật đong đưa và các ánh mắt trìu mến nhìn nhau. Tiếng thút thít của đám đàn bà con gái cố nén lại, tiếng cạ sừng rin rít thân thiện... Gia đình bò vẫn được tiếng là tử tế thú-hậu, tới cạnh vợ chồng heo:

- Tớ vui lòng với cái quyết định của cậu và Bianca. ừ, tốt hết là nên ở lại, tổ sư cậu không có truyền thống phiêu lưu...


Két Jacko suýt rơi khỏi cành vì nén cười run lên, rồi không chịu được, nó phá cười khạch khạch, cành hoa cúc trắng trong miệng rơi xuống đất. Jacko bay xuống bảo khẽ vào tai bò:

- Tổ tiên chớ không phải tổ sư cậu ơi!

Bò chớp chớp đôi mắt to hiền lành, những sợi lông mi dài thướt tha khiến hai con ngươi bò có sọc, tủm tỉm nói chữa:

- Ý là tớ muốn nói... giống nòi cậu không quen đi xa ấy mà! ở nhà vẫn hơn, có ăn có để. (Nói với con heo nhỏ màu hồng đứng nghiêng đầu buồn thiu bên cạnh Bianca) Đừng lo thất nghiệp nghe Babe, không còn đàn cừu này thì ông chủ sẽ tậu đàn khác cho cháu chăn mà!

Bianca mắt hấp háy sột soạt hỉ mũi, đưa tay quẹt ngang và dù đang sụt sùi vẫn không quên già chuyện:

- Không có các anh, ở lại với bọn Milou Tintin chán chết, thế nào chúng cũng hiếp đáp tụi em!

Bò dịu dàng cười, ai dám chê răng bò không trắng, nó liếm Bianca an ủi:

- Không đâu mà, sống ít người dễ hoà thuận hơn. Cứ mỗi người nhịn nhau một miếng, sáu bỏ làm mười thì êm thôi. (Bò đằng hắng) Với lại Bianca à, xin lỗi bà chị đừng giận mình nghe, bà chị cũng nên bớt... ngồi lê đôi mách đi, bỏ tánh cái gì cũng phê bình, học đi học lại chuyện đứa khác...

Trong khi mọi con vật đang làm bộ nhìn lơ chỗ khác cho Bianca đỡ ngượng (mặc dù nhiều đứa nghe vậy gật đầu lia lịa vẻ khoái chí), thì một con chồn từ trong bụi rậm lững thững đi ra. Gia đình nhà gà la quang quác rồi các mẹ gà vội chụp con nhét vào dưới nách, cánh đàn ông bố gà và đám thanh niên xửng cồ lên gầm gừ trong tư thế một mất nhiều còn. Chồn Renard ngừng lại, giọng chân thành vội vã phân bua:

- Em... em tới để xin lỗi anh chị!

Chantecler huơ cựa lên phùng mang giận dữ:

- Xin lỗi? Xin lỗi cái gì? Thứ của mày...

- Em biết, em biết gia đình anh chị hận em tới cỡ nào. Hồi nãy nghe thằng chèo bẽo nói anh chị sắp đi xa, em nghĩ... em nghĩ chẳng còn dịp nào để xin anh chị tha lỗi cho em. Vì vậy em tới. (Cúi đầu giọng buồn buồn) Tuần rồi em mất đứa con gái, em mới hiểu thấm thía cái đau của anh chị ngần nào khi em... khi em...

Con gà trống nâu to lớn rung rinh cái đầu đặc biệt không mào, huơ cựa vàng ươm về phía chồn, giọng lanh lãnh như chuông, quát:

- Im ngay! Mày không được phép nhắc lại chuyện vô thú-đạo của mày trước mặt gia đình tao. Cút đi, nếu biết ân hận thì từ nay lo ăn năn hối cải, đừng gây ác nghiệp như vậy nữa! Xéo!

Ánh mắt hơi bối rối, Renard lùi lại vài bước, cố thuyết phục:

- Nếu đi, em khyên anh chị nên đi về hướng Nam, đừng theo hướng Bắc. Bà con em ở hướng Bắc đông lắm! Thôi chúc anh chị lên đường bình an!

Vẫn chưa một con vật nào tách đám, chưa tới hồi kết thúc. Sương vẫn là là mặt đất, nắng vẫn chưa lên và ban mai không có gió. Trong cái se se buổi sớm, mọi thứ tình cảm êm đềm muốn bộc lộ hết ra. Không như vợ già chuyện lắm lời, chồng Bianca ít nói, nhưng mở miệng ra là ưa nói những điều vĩ đại, học lóm từ ông bà chủ. Anh ta đằng hắng vài tiếng cho mọi đứa chú ý rồi nhiu nhíu mũi:

- Vợ chồng tụi này ở lại. Chúc qúy anh chị an vui lên đường tìm độc lập, tự ti, hạnh hạnh...

Jacko lại ré lên cười, lông vàng lông xanh rung rinh đan chéo vào nhau. Từ đầu bò, nó sà qua đầu heo:

- Tự do hạnh phúc, cụ ạ! Tội quá, cứ ưa nói chữ!

Và vẫn cứ cười, nó bay đến bụi cúc trắng đầy hoa:

- Margueritte ơi, cho em xin cành khác nghe chị. Hai lần cười làm rớt, dập mẹ hết mấy cánh rồi! Quà cưới ai mà tặng hoa dập phải không chị. Mấy thằng cha nói bậy làm mình cười hoài, phổi nở quá lại bịnh thì cũng khổ.


Trong khi nhóm cúc lúi húi đưa hoa cho két thì Joly Jumper hễnh mũi hít thở không khí tươi non buổi sáng, nhún nhẩy bốn chân và e hèm vài tiếng, cao giọng:

- Thôi các bạn ơi, đã tới lúc phải chia tay thôi. Các bạn chó săn hai bên đều đã thoả thuận là sẽ dẫn các ông bà chủ lên tới con suối rồi về. Vậy thì mình cũng không nên chần chờ nữa! Thôi, chúc mọi gia đình ta an vui may mắn, tớ đi đây!

Joly Jumper hí lên sảng khoái, sải đôi chân dài và thân hình vạm vỡ bảnh trai lao xuyên qua đám sương mù. Hai con ngựa khác sải vó lao theo. Tiếng khóc đám thỏ đám sóc đồng thanh một bản nhạc chia ly. Mặt trời chưa lên nhưng chân trời đã sáng dần. Chen chúc giữa các ngọn đồi, mây trải từng hàng dài màu tím thẫm trên bầu trời trong vắt gần như màu xanh của cây rừng lá núi. Trên nền đất còn ẩm sương mai, bềnh bồng từng cụm hơi sương để nhô lên đỉnh đầu các đám oải hương, đám tường vi, đám pampa đang lí nhí sụt sùi. César xúc động:

- Juliette và tôi xin hết lòng cám ơn các bạn. Xin cầu chúc tất cả bà con gặp nhiều may mắn!

Sột soạt trên cây, đàn chim muôn màu đủ loại đồng loạt sà xuống, từ miệng mỗi con thả ra nhúm đất nhỏ rải thành cơn mưa bụi. Một con đầu đàn líu lo:

- Xin chúc bà con may mắn. Mỗi hạt đất này sẽ vui lòng chào đón bà con trở về nếu chẳng may bà con không được an vui nơi đất lạ...

Và chúng ríu rít vừa hát vừa vỗ cánh nhịp nhàng, bay lên lượn xuống trên những đám hoa đồng và bãi cỏ xanh rờn rung rinh cảm xúc.

Trước viễn ảnh phiêu lưu vào một cuộc đời hoàn toàn xa lạ, ánh mắt các kẻ sắp viễn du hãy còn e dè ngần ngại đã ánh lên niềm vui vẻ tin tưởng là chúng sẽ có tự do và với bản năng tự nhiên, sẽ thích ứng dễ dàng với cuộc sống mới. Chúng bịn rịn nhìn nhau, áp má vào nhau, lần đầu cũng là lần cuối. Chào nhau một lần nữa rồi tất tưởi mỗi nhóm chạy mỗi nơi, xa xa các sinh vật đáng yêu còn ngoái đầu nhìn lại...

Giữa màu xanh trời đất bao la, giữa màu xanh cây cỏ ngút ngàn, giữa mây khói mù sương huyễn hoặc, nổi bật hai cụm bông gòn nhỏ xinh xinh trắng toát đang rong ruổi. Trang trại chỉ còn là những chấm li ti. Cừu đực César hân hoan bên cừu cái Juliette, mỉm cười sung sướng:

- Em coi, trời chỉ vừa sáng. Mình còn cả ngày để chạy thật xa và làm lại cuộc đời!


Paris, Aout 2001-Mars. 2002
Phượng Các
#12 Posted : Saturday, January 8, 2005 12:32:53 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
ĐÈO ĐÔI CÂU

Tôi cũng gọi ông cậu của nhỏ bạn bằng cậu, cậu Ba. Không phải vì thấy giàu sang bắt quàng làm họ, nhưng lần đầu tiên gặp, ông cứ thản nhiên ngọt như mía lùi xưng cậu, đâm cũng tiện.

Cậu Ba có thằng nhỏ sai vặt cùng tuổi với tôi, con bà Tám. Bà chỉ có mỗi mình nó, hiếm hoi muộn màng. Chồng bà trước khấm khá, cầu khẩn mãi nó chẳng chịu ra. Đến chừng làm ăn với cậu Ba rồi dần dần lụn bại thì nó lại ra, muốn sống cảnh nghèo. Chẳng hiểu hẹn hò gì, trước khi quy tiên ông lại bắt bà hứa phải cho thằng nhỏ đi giúp việc nhà cậu. Lúc nào nó cũng như cái bóng của cậu, chăm nom đèn đóm và phe phẩy quạt cùng làm trăm thứ việc lặt vặt không tên cho cậu. Cậu thường bảo ông đi đâu thì con cũng theo nghe. Xưng "ông" cho ra vẻ chứ cậu còn trẻ hơn mẹ nó nữa. Mỗi lần cậu bảo gì nó cũng dạ. Ngôn ngữ nó nghèo nàn một chữ dạ, chẳng biết nói thêm chữ không bao giờ.

Thế rồi nó có dịp biết Đà lạt vì cậu Ba lên đó dưỡng bịnh. Bà Tám hí hửng kể cho mẹ tôi nghe là bà mừng, vì như vậy nó có dịp biết đó biết dây, chớ ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn vì mẹ chưa hề biết chỗ nào xa hơn cổng chợ. Ba tháng sau thằng con về, hỏi Đà lạt có lạnh không, nó nói không vì nhà có sưởi, hỏi Đà lạt bông hoa nhiều lắm phải không, nó dạ ngay, trằm trồ vườn nhà ông nhiều hoa đẹp lắm... Chẳng mấy thuở về với mẹ, ngay cả dịp Tết nó cũng chỉ vù về thăm sáng mồng một, rồi lại phải đi hầu ông. Con cậu Ba thì nhiều, những mười bốn ngườI (năm người du học), hai vợ. Nhưng con nhà giàu thì mải bận học chữ, học đàn và đi chơi, vợ nhà giàu phải lo thù tiếp, đi đó đi đây, không ai rảnh để hầu hạ cậu. Mà cậu Ba đã đến giai đoạn thổ huyết ngày mấy bận, nên không thể sống mà không có thằng nhỏ hầu bên cạnh.

Chẳng biết gia đình tôi quen biết bà Tám từ khi nào. Chỉ biết bà ngày ngày gánh rau ngang trước nhà hay dừng lại. Trả giá xong xuôi, luôn luôn mẹ lựa trái xấu, lấy mấy trái cà chua hơi dập hoặc trái bầu sướt dọc sướt ngang. Hỏi tại sao, mẹ bảo từ đây xuống chợ còn xa, người ta lựa tới lựa lui còn bầm dập hơn nữa, lỡ bà Tám bán không được, tội. Chắc từ từ cảm cái đức ấy của mẹ, bà Tám hay chuyện trò, tâm sự. Tánh tình bà lúc nào cũng yêu đời, ưa kể chuyện vui và thích thú nhìn chúng tôi cười.

Thế rồi bẵng đi rất lâu không thấy bà Tám gánh rau ngang nhà nữa. Một hôm chúng tôi đang ăn trưa thì bà xuất hiện, khệ nệ ôm trái bí đỏ. Bà khoe là năm nay nhờ trời dây bí sai trái, lại to, tui nhứt định phải đem kỉnh thím một trái. Mẹ mời bà gặp bữa ăn chén cơm. Mãi bà mới chịu cho, nói khi chị tôi xới cơm :

- Cho tui nửa chén thôi cô. Già cả rồi ăn chi cho lắm.

Chúng tôi vui vẻ hỏi thăm đủ chuyện, thằng con ra sao, bà có đau ốm gì không mà sao lâu nay không đi bán... Bà nói có dạo sâu rầy nhiều quá cắn nát hết vườn rau nhà bà. Mà thuốc trừ sâu thì mắc và pha bột nên chẳng giết được con sâu nào. Rốt cuộc bà không có gì để bán, để ăn, phải theo bạn đi làm nghề khác. Lần này thấy dây bí xanh tươi, bà lấy nước tiểu của minh cho nó uống, sâu rầy chê hôi bỏ đi sạch, dây bí không có mũi nên ngửi được, lớn như thổi. Rồi bà chép miệng :

- Làm nghề nông cực lắm thím à. Ông trời thương thì chớ, không thương thì chịu chết. Quanh năm suốt tháng lệ thuộc vào trời.

Nghe bà Tám nói, tôi chợt nhớ câu ca dao học ở trường : Hai tay bưng chén cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần... Và mẹ thường bảo gạo là hột ngọc của trời, ngọc đã qúy rồi mà ngọc của trời thì còn qúy phải biết, nên không được phung phí. Ngày ngày mẹ chăm chỉ ép chúng tôi nuốt nhiều nhiều ngọc cho mạnh khỏe học hành, để lớn lên không làm người gieo ngọc.

Hỏi nghề mới của bà là gì, bà Tám trệu trạo nuốt miếng cơm rồi nhìn anh em chúng tôi, tủm tỉm :

- Cô cậu có biết đèo đội cậu không ?

Anh tôi hơi nhíu mày :

- Đèo gì bà Tám ?

- Đèo đội cậu.

- Ở đâu ?

- Ở mình đây nè.

Anh tôi nhìn bà mỉm cười âu yếm ra điều an ủi bà già nhà quê không chữ nghĩa :

- Đi ra thì có đèo Hải Vân, đi vô thì có đèo Cù Mông, đèo Cả, đèo Rù Rì, làm gì có đèo Đội Cậu bà Tám ?

- Có. Có đèo đội cậu.

Chưa hề đi khỏi quê nhà, tôi chẳng biết đèo Đội Cậu Đội Mợ ở đâu. Nhưng nghe bà trả lời cứng cỏi quá, anh tôi đâm nghi ngờ khả năng đại học của mình, lưỡng lự :

- Quái, nó ở đâu ?

- Đã nói ở mình đây.

Rồi mắt nhương nhướng diễu cợt, bà nói một hơi :

- Đèo đội cậu chay chựn mạo riêng, bách chú khớ bạnh hồ meo kụa thùa mơi.

Tuy chẳng hiểu gì nhưng nghe ngộ quá, chúng tôi phá ra cười . Bà đọc như đọc thần chú mà mặt mày tỉnh bơ. Bị giục hỏi là gì, bà gật đầu :

- Thủng thẳng rồi tui cắt nghĩa. Vừa ăn vừa nói dễ bị nghẹn. Người già hay nghẹn lắm.

Chị tôi mau mắn :

- Bà chan canh cho dễ ăn.

- Dạ, cô cho tui miếng canh.

Mẹ ôn tồn :

- Đừng dạ với cháu, nó mang tội bà Tám à.

- Dạ.

Mặc dù trẻ hơn bà Tám, nhưng chắc mẹ cho rằng bà dạ với mình là phải đạo không tội lỗi gì, không sửa nữa. Bà Tám húp miếng canh, đằng hắng :

- Đèo đội cậu là đầu đội kẹo, chay chựn mạo riêng là chưn chạy miệng rao, bách chú khớ bạnh hồ là bớ chú khách bộ hành, meo kụa thùa mơi là mua kẹo thơì mua !

Mấy hột cơm lúng búng trong miệng tôi nhảy vọt ra ngoài. Mặt mẹ đỏ gay, người gập lại, cổ kêu hưng hức. Anh tôi buông đũa, ngả người ra ghế. Hai chị em tôi thiếu điều lăn đùng dưới đất. Bà Tám nhìn chúng tôi, cười theo hỉ hả. Trông bà đủng đỉnh. Lúc nào bà cũng có vẻ đủng đỉnh. Người ta nói như vậy là số giàu sang, an nhàn sung sướng.

Hiểu rồi, bây giờ bà làm nghề đội kẹo gừng đi bán ở bến xe. Thằng con thì thỉnh thoảng chạy thoáng về đưa tiền lương cho mẹ. Một năm hai mẹ con gặp nhau mười hai lần, lần nào cũng chốc lát. Vậy mà bà cũng vui, thường bảo dành dụm cho sau này nó có đôi có bạn.

Mùa đông năm đó gío nhiều và trời hay trở. Cậu Ba mỗi ngày một tiều tụy bạc nhược. Thuốc tây thuốc tàu dồn dập, cậu nuốt thuôc nhiều hơn nuốt thức ăn. Tới một ngày không món gì chịu chui xuống cổ nữa, cậu Ba thở khò khè suốt mấy ngày, mắt dựng ngược lên trắng dã, đứng tròng. Rồi cậu chỉ yếu ớt ngoắc ngón tay trỏ ra dấu từ giã hai vợ và mười bốn con, sáu người làm trong nhà kể cả thằng con bà Tám, bốn con chó bẹc giê, ba cái biệt thự và bốn chiếc xe hơi. Cậu tịch diệt. Thằng con bà Tám buồn hơn cha chết.

Cậu Ba chưa được chôn cất ngay vì đi nhằm ngày trùng, phải chờ chọn ngày tốt, chờ bà con xa gần và năm người con du học bên Tây về thọ tang. Gia đình cậu mướn phòng lạnh ở nhà quàn, ngày ngày kinh kệ tụng niệm khói nhang nghi ngút. Không ngày nào không có hơn chục bà con bạn bè tới lui phúng viếng. Thằng con bà Tám vẫn túc trực ngày đêm bên cạnh quan tài trong phòng lạnh ngắt, khi nào đông người quá thì nó âm thầm ra ngồi ở góc vườn hoặc rút về căn phòng nhỏ dành cho người trông nom. Trong khi đó mẹ già nó vẫn ngày ngày đèo đội cậu chay chựn mạo riêng...

Nhưng hôm tôi theo mẹ đến phúng thì không thấy nó đâu nữa. Mẹ chép miệng hài lòng : ờ tội nghiệp, cũng phải cho nó nghỉ ngơi chút chớ !

Ngày trước hôm chôn cậu, tôi theo nhỏ bạn đến thăm, cốt chỉ để nhìn mấy người con du học bên Tây về, nghe nói một chị đẹp như đầm, sống như đầm, nói tiếng Việt đã bắt đầu lơ lớ và không chịu ăn nước mắm nữa, chê hôi.

Trong khi bạn nhang đèn trò chuyện với thân nhân, tôi lẩn thẩn dạo dọc hành lang. Ngang qua vài phòng đóng kín, tôi bỗng khựng lại trước căn phòng hẹp bỏ ngỏ, tối tăm. Từ đó nghe tiếng thở hổn hển, dồn dập ngắt quãng, tiếng nấc khe khẽ, tiếng kêu ư ứ trong cổ họng như chợt muốn thoát ra, chợt gượng giữ lại, tiếng chiếc giường sắt rên siết, nhún nhẩy, tiếng đập nhẹ vào da thịt dịu dàng vỗ về ... Tôi vừa tò mò vừa lo âu vô cớ nhìn vào : trong cái lờ mờ chập choạng buổi chiều, một thân hình mảnh dẻ ngồi trên giường, đầu gục lên vai người đàn bà ngồi bên cạnh. Và cũng trong màu đen ám chướng dị kỳ ấy, cái gì đỏ tươi rải loang lổ lên tấm ra trắng, lên vai người đàn bà như mặc chiếc áo thêu hoa... Cái đó rơi vãi dưới sàn... thành vũng nhỏ... Cổ tôi thốt ra âm thanh gì đó lạ lùng rõ to làm hai người rời ra, và người đàn bà quay lại... Cái gì chận ngang cổ làm tôi ngộp thở đau nhói ở lồng ngực, bụng cồn cào quặn lên... Tôi ù té chạy...

Và tôi vấp ngã, nằm sấp trên bãi cỏ khu nhà quàn. Đau quá, tôi úp mặt xuống đất khóc rấm rức, thảm thiết, nghẹn ngào... Trong cái tranh tối tranh sáng, tôi thấy rõ hai hố mắt bơ phờ ráo hoảnh, môi nhăn nhúm khô quắt không run rẩy. Vẻ mặt sao mà ngơ ngáo, dửng dưng. Không, không phải mẹ con bà Tám ! Đó chỉ là hình vẽ rất vụng trên miếng giây nhàu nát màu lá úa...

MIÊNG

Paris, le 8 Oct.obre 1999
Phượng Các
#13 Posted : Saturday, January 8, 2005 12:34:30 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
BÓNG CHÂN

Nhà xoay lưng vào bià núi. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo bên sườn cắt mái đá xám làm đôi. Ruộng hoa cải dầu vàng tươi bao quanh nhà và trong sân, nào mẫu đơn, nào mận nào đào rực hoa cạnh rào xanh mượt như tấm thảm Ba Tư đầy màu sắc.

Cô gái như tìm gặp căn nhà trong mơ, đảo mắt chiêm ngưỡng chung quanh lần nữa trước khi đưa tay nhấn nút chuông ẩn dưới vòm che sứ trắng. Hồi hộp vu vơ mặc dù không phải lần dầu tiên đi thuê nhà xứ lạ. Tiếng chim líu lo trên cây bên đường nghe vui tai và xa xa đâu đó, con cú cất giọng đùng đục như thể cằn nhằn ngủ suốt mùa đông chưa đẫy giấc. Cô hân hoan ngửa mặt lên đón nắng khép hờ mi, mỉm cười vô tư với buổi sáng xuân bình an thơm mùi hạnh phúc...

- Bonjour, mademoiselle.

Cô gái giật mình, chào người đàn ông đứng tuổi đang nhoẻn cười và qua lớp kính, ánh mắt thẳng thắn dìu dịu của ông khiến cô yên bụng. Màu da sậm với mái tóc muối tiêu hơi bồng bềnh ôm khuôn mặt xương xương khắc khổ. Có cái gì nơi ông gợi lên lòng tin cậy dễ gần. Cô nói ý định mình, ông tự giới thiệu là quản gia và đưa cô vào nhà trên lối đi nở vô số uất kim hương và iris...

- Cô là người Việt Nam ?

Ông quản gia bất chợt hỏi. Rồi không chờ câu trả lời, trỏ tay vào ngực :

- Vợ tôi cũng người Việt. Còn tôi chà và.

Thấy vẻ ngỡ ngàng của cô gái, ông cười vui vẻ tiếp :

- Tức là người Ấn Độ, bán vải ở Sàigon. Cô còn trẻ quá, chắc không biết.

Bỗng nhớ đến câu hát ''Chà và ma ní tí te, Cái bụng chè è con mắt ốc bươu'' sao mà khác xa với người trước mặt, cô gật gật đầu nhìn ông, hồn nhiên nở nụ cười thân mật. Bốn bực thềm men đỏ dẫn vào căn phòng khách rộng rãi bày biện kiểu xưa. Cô thầm nhủ nếu có Thu Hà ở đây, chị sẽ nói mình nghe bộ xa lông này, chiếc bàn ăn và tủ sách cao nghệu sát tường kia thuộc thời Louis thứ mấy. Nhưng chắc vẫn không ghê gớm bằng hai tủ cẩm thạch chị đặt mua từ bên Tàu. Lại còn những bức tranh và vô số đồ xưa ! Ồ, một ngày nào mình sẽ cố thuyết phục Thu Hà cùng lên đây để chị ngắm nhìn và đánh giá. Cái gì chớ đồ cổ là chị mê, mình quê mùa nên ngược lại...

- Trên lầu, mời cô...

Ông đưa tay về phía chiếc cầu thang gỗ bóng nhẵn đã bắt đầu hơi lõm. Bước rất khẽ nhưng cũng nghe tiếng gót giày vang dội khắp nhà, cô chợt e ngại mình khuấy động một cái gì đang yên tĩnh lắm...

Cô gái. Tuần thứ nhất.

Nhận phòng sáng chúa nhật, chiều cô dạo phố. Thành phố nhỏ miền núi trông thân mật dễ thương, nhà lên xuống theo triền dốc và hầu hết là cửa hàng, mùa này thưa khách. Khác với các vùng biển hay đồng bằng miền Nam, ở đây các bà không tụm năm tụm ba, cũng chẳng ngồi trước hè nói vọng qua bên kia hàng xóm, con nít không chơi banh ngoài đường và các ông già không đánh boules trên khu đất trống. Cô tha thẩn suốt buổi chiều nhìn ngắm mọi điều trước mắt. Một thành phố sống nhờ vào du khách không bao giờ thấy ai lạ mặt. Thầm nghĩ trên xứ người mà mình không cảm thấy là ngoại quốc như năm kia về quê hương...

Ra khỏi khu phố nhỏ, hai bên đường mọc đầy hoa dại, loại hoa miền núi chẳng bao giờ biết mùi cửa kiếng. Ánh vàng rực mặt trời buổi chiều hãy còn lưu luyến rong chơi và vài con chim chiều xa xa trên bầu trời trong vắt. Trong lòng thung lũng, hai chiếc deltaplanes đỏ nổi bật giữa màu rừng, đang chao lượn. Cô nghe tiếng sỏi lạo xạo dưới chân như tiếng trẻ con đùa nghịch nghiến răng và tiếng lá rì rào trong gío to nhỏ tự tình. Hít thật sâu bầu không khí trong lành để chuẩn bị sức lực cho ngày mai bắt đầu làm việc.

Căn nhà chìm trong yên tĩnh hoàn toàn khi cô về sau bữa ăn tối. Chỉ phòng ông quản gia còn sáng, và âm thanh đài truyền hình yếu ớt vọng ra. Cô lên cầu thang rất khẽ...

Người đàn ông. Tuần thứ nhất.

Theo lời ông quản gia thì cô ấy đẹp khoẻ mạnh và vui vẻ tự nhiên. Sáng nào cô cũng chay bộ lên đồi sau nhà rồi về tắm xong là đi mãi tới tối mịt mới về. Cả tuần qua ông thấy cô mỗi sáng nhưng chỉ có dịp trò chuyện vài lần trước khi cô trở lại Paris.

Tôi vào phòng buổi chiều hôm đó, lười biếng ườn người lên giường với chăn gối của cô. Hơi hướm đàn bà hãy còn phảng phất ngập ngừng khiến lòng tôi nao nao ngây ngất. Cố tưởng tượng hình dáng cô nằm : nghiêng, hai chân hơi co ôm chiếc gối vào lòng hay thẳng, duỗi dài chân và tay đặt hờ lên ngực ? Và mắt nhìn đâu, phía cửa sổ trước nhà với xa xa ngọn núi mờ trong mây hay phía cửa sổ bên hông với đỉnh rừng phong đang mùa đơm lá ?

Sáng hôm sau nắng mai trườn lên người đánh thức tôi giọng ấm áp nhẹ nhàng. Bở ngỡ trong căn phòng hầu như xa lạ, tôi đảo mắt nhìn quanh. Chiếc mũ đàn bà móc trên tường nhìn đăm đắm muốn kể niềm vui suốt tuần đã theo cô tới đâu và bảo vệ mái tóc làn da thế nào. Tôi mỉm cười với nó, làm quen. Những cộng lát sơn trắng tranh cãi gì đó với lát màu xanh biển, phải nhờ giải lụa màu trời làm trọng tài đứng giữa. Giải lụa nhu mì, vừa hoà giải hai màu lát đa đoan vừa nháy mắt mỉm cười với tôi trong ánh nắng...

Cô gái. Tuần thứ hai.

Cô trở lại vùng núi chiều chúa nhật tuần thứ ba của tháng. Trên bàn hãy còn vài tờ báo địa phương và quyển Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà của Victor Hugo. Trên bệ sưởi, hai bức tượng nhỏ kiểu Hy Lạp đầu người mình thú, ông quản gia bảo của người thuê phòng xen kẽ với cô. Quái, nhà này, ngay cả người thuê cũng có "gu" cổ điển !

Cô sắp các thứ ấy vào một góc vì không sính những hình thể bất thường dù là nghệ thuật. Đối với cô người đẹp là người cân đối, không phải một khuôn mặt nhỏ xíu nằm chót vót trên chiếc cổ dài ngoẵng kiểu Modigliani. Cũng rút cái đèn đọc sách đầu giường dẹp đi. Kiểu cái đầu người méo mó màu đen để ánh sáng toát ra từ miệng và hai hốc mắt làm cô ghê người. Và khi tháo tấm khăn giường với bao gối có hình cá sấu há miệng thật lớn, gớm ghiếc, cô nhún vai mỉm cười...

Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế để làm ít nhất hai cái hồ nhân tạo cho parcours. Parcours ba cây số hai là quá dài, với đường núi lên xuống gập ghềnh chóng mệt. Cô dự định sẽ bắt đầu parcours từ tee thứ hai, chỗ tee thứ nhất sẽ sửa lại thành nơi practice. Như vậy hợp lý hơn, banh sẽ văng ngược lên chỗ dốc và phải phá mấy bụi rậm cho banh không mất. Tiếp theo phải tính farway cần bao nhiêu đất lấp những chỗ lồi lõm đầy sỏi làm bước đi khập khiễng khó chịu. Golf là môn thể thao thư dãn, sau khi đi một vòng parcours người ta phải thấy thoải mái dễ chịu. Ngoài ra phải đào thêm một bunker và chữa lại cái đã có, vừa nhỏ vừa dốc quá.

Và cô bước đi dưới nắng, giấy bút trên tay, vừa chỉ trỏ cho hai đồng nghiệp đi bên cạnh.

Người đàn ông. Tuần thứ hai.

Tôi không phật lòng khi thấy đồ đạc mình bị gom vào một xó, bơ vơ dưới đất. Vây mà khi bày ra, tôi chỉ hy vọng chút nghệ thuật sẽ làm vui lòng cô gái thuê nhà. Cũng lịch sự không dẹp bức tượng Đức Mẹ bày trên bệ sưởi. Người có niềm tin vào thánh thần, theo tôi, vẫn là người đạo đức.

Nhìn quanh phòng : bình hoa hồng đỏ sẫm vẫn còn tươi trên bàn, đôi giày đi núi màu da bò nằm cạnh chân giường, sọt rác đầy giấy nháp... Có cảm giác như người ăn vụng, tôi hôn mấy đoá hoa và nghĩ đến đôi môi son trẻ. Ôm đôi giày vào lòng vuốt ve đôi chân xinh đẹp của cô. Và cầm những tờ giấy kéo từ sọt rác đầy hình, mỗi tờ vẽ một mẫu đất với nhiều ghi chú. Tôi ôm chúng vào lòng như ôm lấy nghị lực và sức sống của cô... Bỗng dưng tôi ao ước được gặp. Thèm được nhìn thấy cô mặc dù trong thâm tâm chẳng biết để làm gì. Chưa bao giờ tôi thoải mái khi đối diện với đàn bà. Thực ra tôi chẳng thích trò chuyện với ai cả. Thường gửi gấm nỗi lòng mình cho mây chiều hờ hững chẳng biết về đâu. Thường tâm sự với sương mù vây quanh đỉnh núi mỗi sáng nắng chưa về hay mỗi chiều nắng đi vội vã. Và xa xa, những mây những sương với hình thù kỳ ảo chập chùng sẽ che dấu nỗi niềm tôi rồi mang đến mở ra cho người nào đọc được cùng ngôn ngữ- thứ ngôn ngữ mà đối với cô hẳn rất xa lạ. Và tôi đâm ra thèm muốn thứ tiếng cô dùng...

Buổi chiều ngồi hằng giờ nhìn mông lung qua cửa sổ. Ráng ửng hồng các bià mây và xa xa, đỉnh núi nhô lên thân cây nhỏ trơ trọi, cô đơn. Tôi như thân cây kia, lúc nào cũng xa cách mọi người. Nhưng nếu nó trốn chạy, vượt lên cao rồi buồn rầu ngạo nghễ nhìn xuống nhân gian có bao sinh linh đang sống đang chết- thì tôi, một con người tầm thường vượt lên được tới đâu và nhìn xuống cái gì, ngoài sự cô đơn vừa cao khiết vừa quằn quại của mình ? Bởi tôi sống mà một nửa đã chết rồi, niềm vui nỗi buồn chẳng ảnh hưởng gì tới nữa. Mọi thứ tình cảm đều mơ hồ không thật. Vậy mà tôi lại mong gặp người con gái thuê phòng, dù chẳng biết để làm gì ! Chắc tại ý nghĩ ra vào cùng một cửa, nằm cùng trên một giường- còn có sự đụng chạm nào gần gũi thân mật hơn thế nữa ?

Cô gái. Tuần thứ ba.

Vừa bước vào phòng, cô ngạc nhiên thú vị thấy bình hoa hồng tươi thắm trên bàn (mà sáng hôm sau được cám ơn, ông quản gia tỏ vẻ bối rối nói không phải của mình). Đống đồ "nghệ thuật" vẫn nằm lặng lẽ ở góc nhà và thêm vào căn phòng là cái máy truyền hình, máy vidéo với cuốn phim Cái Trống theo tiểu thuyết của Günter Grass. Vở Con Mèo Cái Trên Mái Tôn Cháy Bỏng của Tennessee Williams nằm ngơ ngáo trên mặt bàn đêm. Máy nghe nhạc của cô được đặt cẩn thận trên chiếc tủ nhỏ cạnh giường.

Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế gần cổng ra vào để nới rộng căn phòng vừa cho thuê dụng cụ, vừa thu tiền. Căn phòng hiện tại nhỏ như cái hộp chỉ vừa đủ chỗ cho cái bàn con với khoảng chục bộ đồ golf. Ngộ nhỡ trời mưa thình lình thì khách nấp vào đâu ? Khách khát nước phải tìm chỗ nào ? Khách cần điện thoại ? Và cần phải có máy cho thuê banh...

Cô dạo một vòng xuống Saint Martin, ngôi làng e ấp nằm lọt trong thung lũng đẹp nên thơ. Đường vòng khu phố râm bóng mát, nhà cửa khang trang và các loại hoa muôn màu nằm ngoan ngoãn như con nhà lành trong vườn rào thấp. Con đường phố chính hẹp dốc theo triền núi, giữa lòng đường có rãnh, nước suối chảy xuống trong veo mát rượi. Nhà hai bên thường là cửa hàng cho du khách, trông kín đáo, trang nhã và thân tình. Nhưng suốt làng chỉ có một bảng quảng cáo sân golf !

Người đàn ông. Tuần thứ ba.

Tôi sung sướng săm soi mẫu giấy nhỏ trong tay, tim muốn nứt ra. Cô viết cho tôi ! Nét chữ mềm mại mà mạnh mẽ, đầy cá tính. Chỉ mấy chữ thôi, gọn quá, mà tôi thấy cả một rừng văn học. Văn chương là nơi tôi ẩn mình tìm lãng quên, an tịnh. Mỗi tác phẩm, tôi tìm kiếm hình ảnh nhân vật có cái gì chung với mình rồi chuyện trò bắt đầu bằng tâm sự mà họ đã bày ra trên giấy. Nhưng chẳng bao giờ ai tỏ ra lưu tâm tới sự ân cần đầy thiện cảm của tôi. Ngay cả trong sách, con người cũng lạnh lùng cách biệt. Và như một cái bóng, tôi theo dõi họ âm thầm mà dai dẵng.

Nhưng bây giờ đã có người lưu ý sự hiện diện của tôi ! Tôi sung sướng hổn hển choáng ngợp hạnh phúc. Ấp mảnh giấy nhỏ lên môi, cảm giác như chạm vào môi cô- trinh nữ. Nhắm mắt tưởng tượng giờ này cô đang làm gì, ở nơi chưa bao giờ chân tôi đặt đến ? Những chữ viết cho tôi có làm cô bối rối- hay biết đâu, biết đâu cũng chẳng nhớ gì đến mẩu giấy con con này nữa ? Cùng lúc thấy giận dỗi và ghen tị vu vơ. Muốn biết cô đang làm gì nơi ấy ?

Tôi lại lôi trong giỏ rác, những tờ giấy vẽ căn nhà nhỏ cạnh cổng ra vào, mấy ngọn đồi lên xuống với nhiều chú thích chuyên môn tôi không hiểu hết. Cùng với những tờ tuần trước, tôi cất chúng cẩn trọng như những lá thư đầy kỷ niệm. Ngày nào có dịp, sẽ trải dài chúng ra, từng tờ cho cô xem, gợi cô nhớ lại những ngày đầu thuê chung phòng với một người khác phái, xa lạ. Và chúng tôi sẽ nói cho nhau nghe những gì đã nghĩ về nhau trong thời gian thuê cùng căn phòng mà chẳng bao giờ gặp nhau, như chơi trò cút bắt.

Tôi thành kính nâng chiếc gạt đầy tàn thuốc và run rẩy vụng dại nhặt một mẫu có dấu môi son hồng nhạt, châm lửa. Hít khói thuốc như hít hơi thở đầy sinh lực của cô. Rồi tôi ho, sặc sụa, bị cô trừng phạt. Mím chặt môi trên đầu thuốc, tôi cắn, răng môi xé nát đầu lọc nhỏ tội nghiệp, như môi ai...

Mở tủ áo, váy ngắn váy dài khiến tôi băn khoăn tội lỗi. Ông quản gia nói ngay cả đầm, ít ai có cặp giò đẹp như cô. Ðặt chiếc váy ngắn với chiếc áo cánh mỏng lên giường. Rồi tôi nằm bên cạnh. Và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Kể cô nghe những gì tôi làm trong ngày, chẳng nhiều nhặng, bởi cũng dấu nhẹm những bài thơ vụng về dù rút tận cùng xương tủy lòng chân thật. Và chờ đợi nghe kể những việc cô làm, hẳn là lý thú...

Hẹn nhau trên ngọn đồi thấp sau nhà. Tôi mang theo giá vẽ, nhẩn nha ngồi nhìn mây bông gòn đùa nghịch đuổi bắt nhau trong gió chiều, chờ cô đến. Không gian yên ắng đến nỗi nhịp tim tôi dồn dập quá ồn ào. Gió vi vu nhè nhẹ và cây lá xạc xào hỏi tôi đang làm gì ở đây, đơn chiếc. Vội vàng phơi trải lòng mình với thiên nhiên, bảo rằng tôi chờ đợi như chưa từng chờ đợi, nôn nao như chưa từng nôn nao. Và pha màu, hồng rực rỡ để tô lên đôi má xuân thì, đen huyền nhiệm để tô lên mái tóc trẻ trung và xanh biêng biếc như bầu trời cho chiếc áo mỏng lộ cánh tay trần...

Chợt hoa lá reo vui đón mời bước chân ai đang đến, hơi ngập ngừng rồi dừng lại. Tôi hối hả quay nhìn trên lối đi : cô bước nhún nhẩy bất an như con sóc nhỏ, tay kéo cao váy tránh bụi gai rừng... Bỗng tất cả lặng im, hoa tái nhợt cúi đầu muốn xỉu và lá đỏ mặt quay đi, không ba hoa nữa. Và tôi nhìn... và tôi nhìn... trời ơi, đôi chân cô ...

Cô gái. Tuần thứ tư.

Cô nhìn bức tranh nằm ơ hờ trên tường, ngọn núi xa xa với thân cây trơ trọi, cô đơn. Và tường bên kia bức tranh bình hoa hồng nhung sẫm, tách trà bên cạnh, bốc hơi. Màu sơn còn mới. Biết rồi, anh chàng vẽ ngọn núi trước nhà chứ gì ! Cô lắc đầu mỉm cười, không thích tranh tĩnh vật, và phong cảnh thì không thể vẽ cái gì tươi tắn hơn sao ? Màu sắc gì mà u ám !

Cô muốn viết vài giòng nói về hai bức tranh, nhưng suốt tuần bận quá, còn khối việc phải làm và buổi tối về nhà quá trễ, mệt nhoài tắm xong là ngủ vùi rồi sáng hôm sau lại bắt đầu một ngày mới đầy bận bịu. Cô làm việc cật lực, tối đa ba tuần nữa phải xong. Chưa chi đã được đề nghị một dự án khác. Đôi chân dài bước nhanh trên đường sự nghiệp.

Người đàn ông. Tuần thứ tư.

Hơi buồn khi thấy trên bàn, mấy CD nhạc vẫn chưa bóc giấy. Cầm mẩu giấy nhỏ cô viết cho mình trên tay, tôi mang cảm giác kẻ thất bại. Giỏ rác đầy giấy nháp, tràn lan ra ngoài. Tôi gom hết lại, nhìn ngắm từng tờ và cẩn trọng vuốt thẳng từng nếp, xếp cất như nhặt nhạnh linh hồn đau đớn của mình. Căn phòng hơi bừa bộn, vài món đồ dùng vương vãi và trong phòng tắm hãy còn mấy món riêng tư... Tôi thu dọn, âu yếm như chồng giúp vợ trong nhiều bận bịu hằng ngày.

Gần chín giờ tối cô mới về nhà. Biết là khoảng năm ba phút sau cô sẽ tắm...Tôi hồi hộp nhìn vào lỗ khoá, cô đang trần truồng dưới vòi sen, mờ ảo qua lớp kiếng và ánh sáng đèn màu hồng. Cô ngửa mặt lên, nước chảy dạt dào lên tóc cô, chảy dạt dào lên bóng của mái tóc cô ép sát da đầu... Nước tràn lan lên mặt cô sáng trưng, tràn lan lên bóng khuôn mặt cô nhạt nhoà bồng bềnh trong ẩm ướt... Nước xối xả xuống tấm thân cô nõn nà màu sữa đặc, xối xả lên bóng thân hình cô đu đưa như liễu... Đôi gò ngực thanh tân cao vút núm vú nhỏ màu hồng, từng luồng nước lăn tăn vội vã đuổi bắt nhau tranh giành độc quyền ve vuốt. Và nước chảy xuống, chảy xuống khu rừng nhỏ rộn rã niềm hoan lạc. Và nước chảy xuống, chảy xuống len lách vào khe rạch như người đi săn tìm kiếm con mồi. Và nước như thác tuôn ào ạt, ào ạt, xuống đôi chân, trời ơi, trời ơi, xuống đôi chân mỗi lúc mỗi cong queo, khẳng khiu, xấu xí đến nao lòng !

Tôi nín thở, nhìn. Tôi nghẹn ngào, nhìn. Tôi sung sướng, nhìn. Tôi ngộp thở. Có cái gì cắt ngang cổ họng, đau điếng. Tôi nuốt nước bọt ở đâu dâng trào như suối ngàn mùa lũ lụt. Tôi cắn môi đến bật máu rồi nuốt ực những giọt tanh tanh mằn mặn hoà cùng nước mắt... Thương cô quá đỗi. Mãn nguyện quá đỗi. Và tôi ung dung mở cửa bước vào phòng tắm, ôm chầm lấy tấm thân tràn trề sinh lực. Nước trên cao đổ xuống hai chúng tôi da thịt chạm vào da thịt, mềm mại, gợi tình. Mắt hai đứa nuốt trững nhau, môi hai đứa cắn xé nhau, tranh giành với nước từng ly từng phân thân xác. Tôi lơi vòng tay để nhìn xuống vùng núi đồi ngạo nghễ, vùng đồng bằng đụn cát mịn màng và bãi cỏ non e ấp thẹn thùng. Tôi quấn chân mình vào đôi chân tàn tật của cô, hoàn toàn hả dạ... tôi kêu lên sung sướng và giật mình vì chính tiếng mình kêu, bước ra khỏi phòng tắm người ướt đẫm vì mồ hôi trong cơn bàng hoàng tỉnh giấc...

Lòng chùng xuống, trằn trọc thâu đêm. Thật lâu, rồi tôi rũ rượi khập khiễng bước vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đang đêm, chợt thức giấc tiếng mèo gào tìm đực. Tiếng gào nghe sao mà dữ dội, bức thiết và buồn như ai khóc. Tiếng gào xuyên thủng núi rừng, xuyên suốt trăng miền núi vằng vặc trên cao. Tiếng gào kêu cứu, van xin, cùng đường, gây hấn, đe doạ... Con mèo cái bên ngoài và người đàn ông bên trong cùng một nỗi niềm. Chỉ khác là người đàn ông gào thét âm ỉ trong lòng và trong phòng. Con mèo cái gào lên thành lời, giữa trời không dấu diếm. Muốn bước ra xua đuổi như xua đuổi lòng mình, nhưng chân tay bỗng nhiên bủn rủn. Một luồng điện chạy qua làm tôi tê liệt rồi chạy ngược về thiêu đốt hực hở. Toàn thân run rẩy, quờ quạng trong đêm. Chị Hằng lấp ló nhìn trộm từ cửa sổ, rồi bỗng trêu ngươi rực rỡ lách người vào, khoan thai mà trần tục, tươi thắm đĩ thỏa trườn lên người tôi, trườn lên, trườn lên... Tôi bật dậy như lò xo rồi lại nằm vật xuống. Mắt chị sáng trưng, nồng nàn ham muốn, như thể gần gũi tôi chị sẽ được hoá thân. Một phần thân thể đau đớn , nhức nhối, hoảng loạn... Tôi tự cào cấu lên tay, lên ngực. Tôi vò đầu, giựt từng chùm tóc. Úp mặt xuống gối, trăn trở. Rồi ghì chặt gối vào lòng, chặt hơn, chặt hơn nữa. Và lăn lộn như một con thú bị thương. Tôi lên cơn sốt. Tôi lên cơn đồng thiếp. Tôi kêu rên. Tôi bập bẹ những lời không đầu không đuôi. Tôi hổn hển đứt hơi. Tôi cuống quýt vụng về ... Tôi giúp mình qua cơn đau đớn... Phải giúp mình qua cơn đau đớn... Tôi và cô gái... Tôi và chị Hằng... Cô gái và chị Hằng... Tôi với cô gái và chị Hằng... Ba chúng tôi quấn vào nhau như những sớ dừa bện sợi. Ba chúng tôi siết vào nhau như những lọn tóc dài thắt bín. Ba chúng tôi vật vã, rên siết, quay cuồng... Cuối cùng tôi rú lên như con thú hoang, như con mèo cái...

... Bàn tay nhớp nhúa đưa lên ôm mặt, xấu hổ, tủi nhục, lặng lẽ khóc như bao lần...

Cô gái. Tuần thứ năm.

Cô hơi khựng nhìn đóa hồng nhung nằm trên gối. Bình hoa, đĩa nhạc hay hộp kẹo chỉ khiến cô mỉm cười vu vơ, biết là có người quan tâm tới mình nhưng chỉ là cảm giác hời hợt thoáng qua. Nhưng đóa hồng nằm đây, nó biểu hiện một cái gì khác hơn là sự chỉ quan tâm tới một người không hề quen biết. Cảm giác đó làm cô hơi ngẩn ngơ, vừa thắc mắc thú vị vừa thấy bâng khuâng nhè nhẹ.

Cầm đóa hoa, phản ứng là đưa lên mũi, không, đưa lên môi, một sự động chạm khe khẽ khiến cô bối rối. Bỗng dưng cô thở dài. Có thể như bạn bè thường nói là cô hơi lạnh nhạt, nhiều tham vọng, chỉ biết lưu tâm đến công việc và thành công trong đời. Chưa hề để tâm tới một người đàn ông nào nếu không nói là sự tán tỉnh làm cô khó chịu. Có người còn nói cô bị chứng lãnh cảm hoặc con tim ngoài nhiệm vụ hô hấp chẳng dùng được vào việc gì. Nhưng bây giờ, cầm đoá hồng của một người xa lạ, bỗng dưng lòng hơi chùng xuống, rộn ràng.

Đoá hoa vẫn trong tay, cô bước tới cửa sổ nhìn mông lung ra ngoài như thể bất chợt sẽ nhận ra người ấy. Ý nghĩ đó khiến cô nhìn sững một người đàn ông đảo mắt nhìn căn nhà rồi dừng lại nơi cửa sổ có người con gái đang áp đoá hồng lên môi. Bốn mắt gặp nhau. Một cái nhìn trong tích tắc xui khiến cô lao xuống thang lầu, chạy băng ra đường dáo dác kiếm tìm. Nhưng trong bóng chiều, người đàn ông không để dấu tích gì trên con đường làng nhỏ...

Cô trở về phòng, cẩn trọng đặt đoá hồng lên bàn rồi thay tấm trải giường. Bỗng cô giật bắn người khi dời cặp gối : chiếc xi-líp nhỏ màu hồng mà tuần trước đó vội vàng bận bịu, cô đã bỏ đâu đó trong phòng tắm... Cô nhìn sững. Có phải của mình không ? Đúng là của mình ! Có phải mình bỏ quên trên giường không ? Không ! Một cảm giác ghê tởm khiến cô lợm giọng. Tức tối như bị sỉ nhục. Thế là suốt cả tuần, người đàn ông kia đã ôm ấp một phần thân thể mình ! Chỉ người bịnh hoạn mới có thể làm điều đó. Chỉ là thằng đàn ông không ra gì, ngu xuẩn, bẩn thỉu, vô lại... Nghẹn và uất, không biết tìm từ ngừ nào nữa. Cô vẫn nhìn sững, bàng hoàng đến nỗi e không phải đồ dùng của mình, sợ phải nhặt nó lên. Chợt rùng mình nhìn quanh, cảm tưởng có ai bên cạnh, đang theo dõi từng cử động. Vô thức, cô quàng hai tay trước ngực và bấu chặt vai, mắt vẫn dán vào chiếc xi-líp vô tội màu hồng...

Cô hậm hực, khinh bỉ, điện thoại tâm sự với bạn rất lâu xong xuống phố, thành phố đã lên đèn. Và cô lang thang tìm kiếm, bất mãn vì thấy người đàn ông nào cũng mang dáng dấp của người đã nhìn cô trên cửa sổ. Không hiểu nếu gặp, mình sẽ phản ứng ra sao, sẽ nói gì, sẽ có tình cảm thế nào. Nhưng cô muốn gặp, cứ gặp rồi hẵng tính. Đi suốt dãy phố vắng vẻ, vào hết mấy tiệm ăn, quán cà phê, nhìn từng người. Chợt trong quán cà phê cuối phố, người đàn ông đứng ở quầy có cái nhìn làm cô giật mình. Chỉ một cái nhìn rất nhanh, rồi người ấy bỏ đi, phía cửa sau. Vội bước theo nhưng không kịp nữa. Có cảm tưởng hắn biết và tránh mặt mình. Cô uể oải ăn tối, uể oải ra về và cuối cùng, uể oải vất chiếc xi-líp hồng vào giỏ, uể oải thay ra trải giường...

Nhìn lên hai bức tranh buồn thiu cô đơn, cô nhớ tới lời bạn nói khi chiều và suy nghĩ. Ờ, Quyên có lý phần nào (dù có kèm theo tiếng cười chọc phá) khi bảo nếu hắn bịnh hoạn thì chắc đã vẽ theo bức tranh "Nguồn gốc nhân loại" của Gustave Courbet rồi ! Đây chỉ là người kín đáo, cô độc, buồn và thiếu dạn dĩ tự tin. Bất chợt cô thở dài. Một thứ tình cảm là lạ khó định nghĩa nhen lên làm cô xốn xang- lần thứ nhất trong đời.

Nhìn qua cửa sổ, vầng trăng khuyết treo lửng lơ trên bầu trời đêm trong vắt sậm màu như ngả tím, đỉnh cây thông lồ lộ màu đen, song cửa sổ khắc hình người đang đọc sách ... mọi cái đều mang hình ảnh nghiêm trang thanh tịnh làm cô chột dạ. Cô vùng dậy xới tung đống sách đặt bên lò sưởi : toàn về cuộc đời ẩn cư của tu sĩ, về người cô độc và kẻ tài hoa nhưng bất hạnh...

Thở dài, nhìn lại lòng mình, một cảm giác êm đềm gần như lòng trắc ẩn dấy lên làm cô khó ngủ...

Sáng thứ sáu, cô điện thoại về sở ở Paris, nói chuyện rất lâu.

Người đàn ông. Tuần thứ năm.

Tôi chờ cô trên đồi. Vẫn nắng chiều vùng núi êm ả vắng người và mây thì lang thang vô định. Tôi ngồi bên gốc thông già tróc vỏ sần sùi như mụt ghẻ, như linh hồn tôi trầy trụa. Những trái thông khô nằm nghiêng ngả hớ hênh rải rác trên bờ đường đầy sỏi, bất trắc như con tim tôi yếu đuối. Muốn gom góp các trái thông khô, nhóm lửa. Ngọn lửa thông sẽ thiêu đốt những gì đang chất chứa trong tôi. Khói thông sẽ mang đến cô lời tạ tội thành kính tận cùng. Và tro thông sẽ làm chất keo dán hai tôi gần lại. Ô, lẽ ra, lẽ ra tôi phải cẩn trọng hơn. Lẽ ra không được bỏ quên một phần đời mình trên gối...

Tôi vẫn chờ, lòng muôn ngàn tổ kiến. Một tiếng chim kêu cũng làm rùng mình và chiếc lá rơi cũng làm tôi thấy hụt. Gió nhè nhẹ đùa nghịch từng nhóm tóc trên đầu bốc lửa, tôi dáo dác nôn nao. Từng giọt rồi từng giọt lệ âm thầm chảy ngược vào tim. Từng tiếng rồi từng tiếng nấc rưng rức ngập hồn. Tôi chắp hai tay thành khẩn nguyện cầu. Lời nguyện cầu thổn thức quặt què...

Chẳng biết bao lâu, không còn khái niệm gì về thời gian nữa, cuối cùng cô đến, như hào quang từ trời hiện xuống. Chói vì nước mắt long lanh trước cô rực rỡ. Nghẹn vì muôn nghìn tiếng tranh nhau muốn trào ra cùng lúc. Ðau đớn khó thở vì không gian như chỉ quanh quẩn bên cô. Muốn chạy đến ôm đôi chân khẳng khiu, cong queo xấu xí đến nao lòng của cô, nhưng hai chân tôi có gì vướng víu, bận bịu gỡ không ra khỏi đất. Tôi loay hoay cuống quýt. Còn cô, lạnh lùng dửng dưng, sải dài từng bước về hướng đâu đâu. Tôi muốn kêu lên, muốn khóc to cho cô nghe, nhưng cái gì chận ngay ở cổ... Tôi chới với đưa tay về phía cô... Chẳng thèm đoái hoài, cô cứ sải dài bước chân, rồi từ đỉnh núi này bước tới đỉnh núi kia nhẹ nhàng khoan thai như đi dạo, cô hơi chồm người về phía trước nhổ thân cây nhỏ trơ trọi cô đơn... Tôi kêu lên như chính linh hồn mình bật gốc. Đá ở bià núi vỡ ào ào đổ xuống tung bụi mịt mù ... Đất trời trải qua cơn cuồng nộ, sâm sét, tiếng cây cối, tiếng đá đổ ầm ầm vang rền nghe đến rợn người...

Ông quản gia quýnh quáng mang nhầm dép. Vùng núi chẳng ai gọi cửa giờ này, và nếu là cảnh sát... nhưng việc gì mà cảnh sát tới tìm ?

Ông chạy xuống thang lầu, bật đèn khắp nơi rồi vừa lật bật mở cửa vừa lên tiếng bảo chờ một chút. Khi cánh cổng mở ra, ông hốt hoảng như gặp ma : cũng nơi này, vào buổi sáng cách đây mấy tuần, ông đã đón tiếp một cô gái tươi cười hồn nhiên rất thánh thiện. Giờ thì cũng cô gái ấy nhưng trong đêm, sắc mặt có vẻ khẩn trương, hổn hển :

- Cho tôi lên. Tôi muốn gặp người thuê cùng phòng.

Ông quản gia lúng túng khép cổng :

- Không được đâu cô... chắc ông ấy ngủ rồi !

- Mặc kệ, tôi sẽ xin lỗi.

- Không ! không được...

Xô mạnh ông quản gia qua bên, cô vụt chạy lên lầu. Ông quản gia già đáng thương lật bật chạy theo, hốt hoảng, rụng rời... Cô mở cửa phòng như một cơn lốc, bật đèn :

- Đâu ? Người nào thuê phòng này ?

Nhìn chăn nệm vẻ có người nằm, cô sờ thấy còn hơi ấm. Cô bước nhanh tới phòng tắm bật đèn, hoàn toàn trống vắng. Ông quản gia bối rối tránh ánh mắt giận dữ của cô, im lặng. Cô bước qua phòng bên cạnh :

- Và phòng này là một bà nhân viên kế toán thuê ? Và phòng này là cô tiếp viên hàng không thuê ? (Cô gào lên như hụt hơi) Ông nói dối ! Mà tại sao ông nói dối ? (Cô cắn môi) Ông trả lời đi chứ ? Tôi không về Paris, tôi ở khách sạn góc đường kia để nhìn : ba ngày nay không một bóng người nào ra vô ngoài ông thôi !

Cô hổn hển tuyệt vọng, căm tức. Mặt đỏ gay, mắt long lanh như người lên cơn sốt, hai tay bấu chặt cầu thang. Té ra người đàn ông này đã ôm ấp chiếc xi-líp của mình ! Cô đã đem lòng tin cậy một người tưởng đồng hương. Nhưng giờ thì cô nhìn, thấy đôi mắt như con thú bị thương kia đang hăm hở lật từng trang sách Kamasutra. Cô ngồi bệt xuống thang lầu như người bị ngất. Một cảm giác kỳ lạ làm cô nghẹn. Nước mắt bỗng trào ra. Không biết mình đang ghê tởm hay thương hại người đàn ông này, hay thương hại chính thân mình. Ông quản gia bở ngỡ lấm lét nhìn cô, mắt ươn ướt.. Ông ngần ngại bước tới đưa tay, môi run run muốn nói điều gì. Nhưng cô vùng đứng lên, không, không thể để cho người ta thấy mình yếu đuối. Cô chạy vào phòng quơ nhanh áo quần hãy còn treo trong tủ và một số vật dụng cá nhân, nhét vội vào xách. Cô lao xuống cầu thang như mũi tên. Ông quản gia buồn rầu gọi với theo, tuyệt vọng... Ông chạy theo sau như con chó lạc đường, luống cuống, vụng về... Cô gái xẹt như tia chớp, xuống nhà, ra cửa, ra vườn, ra khỏi cổng. Không một tiếng cửa nào đóng sầm lại : chẳng phải cô tức giận, mà trốn chạy, như thể ở thêm giây phút nào ông cũng có thể làm hại đời mình...

Ông quản gia bước ngược lộ trình, từ cổng lên lầu. Trông ông thiểu não như vừa đánh mất cái gì ghê gớm lắm. Ông hổn hển nặng nề. Trong phút chốc, ông già sụm hẳn đi. Ông vào căn phòng tối om, bật đèn. Ánh đèn vàng vọt cho thấy một người đàn ông ngồi ở bàn, quay lưng lại. Ông quản gia nói như rên :

- Cô ấy...

Một bàn tay đưa ra ngăn ông nói tiếp. Ông bước tới sau lưng ghế, im lặng. Người đàn ông quay mặt nhìn phía cửa sổ. Hiểu ý, ông quản gia đẩy chiếc ghế bành- không, đó là chiếc xe lăn- về phía ấy và vén màn. Từ cao nhìn xuống làm ông đau lòng : mái tóc rậm đen mượt hơi quắn, đỉnh mũi cao, thẳng... E dè một lát rồi ông nói như xưng tội :

- Con nghe hết cổ nói không ? Cổ tưởng ba có ý gì mờ ám, cổ sợ. (Thở ra) Thôi, con đừng buồn...

Con trai ông không trả lời. Ông nhìn qua vai, nhìn xa xuống chút nữa, hai ống quần cột lại đong đưa, đong đưa... và nhớ ngày con trai vừa lên tám, một hôm đã chạy băng qua đường gọi Tí ơi, hàng về, hàng về, ba tao lột vải ra nhiều lắm, qua lượm hình... Hình mấy cô đầm tươi cười trong cây vải bỗng nhăn mặt khi con trai ông chạy trở về vẫn kích động réo Tí ơi, quên không nhìn trước sau như ông dặn. Chiếc xe thắng gấp. Một tiếng rú, nhiều tiếng rú nổi lên. Ông chạy ra điên dại ôm con- một thằng con lên tám chỉ còn hai chân nhão toét đong đưa sũng máu... Và ông cũng đã gọi thất thanh, mẹ nó đã gọi thất thanh, nó như chết rồi, không trả lời... Người cha chép miệng ngập ngừng :

- Chẳng mấy thuở gặp người cùng quê...

Người con trai vẫn im lặng.

- May là tuần rồi cổ nhờ ba đem hình đi rửa, ít nhứt mình cũng còn kỷ niệm ...

Nhưng con ông bỗng bẵn gắt chua chát ngắt lời:

- Không ! Mấy tấm hình đó không thật ! không thật ! xé hết đi !

Dưới đường, phố đêm miền núi vắng teo. Ở góc ngã ba con đường nhỏ, ánh đèn yếu ớt rọi lên phần dưới đôi chân dài di động vội vàng. Người con trai xốn xang nhìn theo bóng chân càng lúc càng nhạt nhoà xa- đôi chân khẳng khiu, cong queo, xấu xí đến nao lòng đang khua gót nhỏ trên đường phố vắng...

MIÊNG

Paris, Juin 2000

Phượng Các
#14 Posted : Saturday, January 8, 2005 12:36:55 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
GƯƠM ĐÀN

Gío luồn qua những thớ đất ẩm ngai ngái sau trận mưa rào. Ngồi xổm, Bổn cầm cây que nhỏ vẽ dọc ngang bất định. Anh thấy xốn xang, một nỗi xốn xang kỳ bí không giải thích nổi, cũng chẳng thể tâm sự với ai.

Bỗng dưng Bổn lo sợ. Thủ phó có ý gì khi lành lạnh nhìn anh thòng câu "Lạ, hai lần cậu trực đêm thì đúng ngay hai mạng đi đứt !". Bổn thở dài, bất giác nhìn lên trời. Bầu trời sau cơn mưa trong xanh, ngun ngút xa vời. Bổn nhìn mãi, tìm kiếm chờ đợi cái gì có thể giải thích nỗi lo sợ hoang đường. Nhưng càng nhìn anh càng sợ, thấy trong cái mênh mông sâu thẳm của thìên nhiên có cái gì kỳ bí mà con người không thấu hiểu nổi, mà con người chỉ là nạn nhân, mà con người phải chấp nhận dù ngờ là không thực. Trời sao mà xanh, một màu xanh huyền ảo không mây. Nhưng trong cái trong suốt của buổi chiều, Bổn có cảm giác như trăm ngàn con mắt đang dọi xuống mình cái nhìn hững hờ mà nghiêm khắc, không xôn xao mà hàm ý. Gió đuổi nhẹ hàng keo bên hè, thầm thì chỉ trỏ nói gì anh. Rùng mình, Bổn tự hỏi không biết vì trời chiều se lạnh hay vì hồn mình bất định ? Anh bỗng thấy cô đơn kỳ lạ...

Chợt Bổn đứng bật dậy nóng ran người, mắt long lanh rảo bước về phía nhà ông Từ. Phải rồi, chỉ có cách ấy, ừ, ít nhất cũng giải thích được cái gì...

- Dạ chào ông !

Ông Từ hấp háy qua cặp kính lão rồi ngừng tay nặn tượng, gỡ điếu thuốc khỏi môi :

- A ! Chú lại tới lục soát gì nữa chớ gì ?

- Dạ không. Cháu... cháu có chút chuyện muốn hỏi ông.

Dửng dưng, ông Từ gắn điếu thuốc vào hai môi nhão toét, bập bập rồi thong thả phà làn khói mỏng manh như giải lụa mềm lên mũi. Bổn bước tới bức tượng đàn ông :

- Ông nè, cái tượng này là ai hả ông ? Có râu quai nón, mắt sáng, cầm kiếm, coi oai quá !

- Ai đâu. Nặn chơi vậy mà.

Dù ông Từ vẫn chỉ chăm chú vào con bò đang nặn trên tay mà tự nhiên Bổn nhìn tránh sang chỗ khác, ngập ngừng :

- Ơ... có bao giờ ông nghĩ là mấy cái tượng này di chuyển được không ông ? Ơ... ý cháu muốn nói như... như chuyện cổ tích vậy mà !

Ông Từ nhướng mắt nhìn anh công an trẻ : chú chàng này có ý đồ gì đây ? dọ ý để kết án là mình mê tín dị đoan rồi cấm không cho nặn tượng nữa chăng ? Quai xăng-đan bầm dập ôm mấy ngón chân móng dài cáu bẩn, bộ đồ vàng bệch bạc với một cúc áo đùt, chiếc nịt sờn gãy, hai bàn tay thư sinh lấm láp và nét mặt dù có vẻ thật thà nhưng ánh mắt bối rối, môi run run ... Nói chuyện với ông già thì có gì mà dao động ? Không, chắc chắn chú chàng có ý đồ gì. Đây là thành phần nguy hiểm.

- Tui không biết chú ơi, nặn thì nặn cho vui. Già cả chẳng biết làm gì.

Khẽ khàng đặt con bò xuống đất, ông Từ vớ tay lấy chổi quét nhà. Bổn bối rối, biết ông Từ muốn đuổi khéo mình. Mà Bổn thì chưa muốn về. Tự nhiên anh cứ muốn hỏi chuyện ông Từ, về người đàn ông anh đã gặp ở cơ quan trong hai đêm bất hạnh, về bức tượng, về chính cuộc đời ông. Tự nhiên Bổn muốn cạy miệng ông, muốn ông phải thốt những điều minh muốn nghe. Tự nhiên anh nghĩ trong cái đầu lưa thưa tóc bạc kia hẳn che dấu rất nhiều điều. Nên làm như không hiểu, Bổn giả vờ thản nhiên hỏi tiếp :

- Hồi giờ ông chuyên môn nặn tượng hả ông ?

Lại gỡ điếu thuốc khỏi môi, cái điếu thuốc ố vàng, đuôi mỏng tang lúc nào cũng dính một bên mép như chút thịt thừa, ông Từ dấm dẳn :

- Trước kia giữ chùa thì ngày ngày nhang đèn cho Phật. Từ ngày gia đình bộ đội vô lấy chùa, đập phá hết tượng thì nặn cho vui. Gọi là quen tay, có gì đâu mà vặn !

Ông lại dán điếu thuốc bên mép. Bổn vẫn kiên trì, giọng nằn nì dỗ dành :

- Không phải cháu vặn. Cháu xin lỗi ông. Nhưng mà ông à... trong vùng này có... ai giông giống bức tượng này rồi ông nặn theo, hay chỉ là ông tưởng tượng ?

- Tui không biết !

Bổn không cách nào tìm hiểu gì trên khuôn mặt sạm nắng lẩn cùng màu với chiếc cột góc nhà. Một màu nâu đồng trầm tĩnh, kín đáo không sẵn sàng cho tình cảm nào bộc lộ. Đôi mắt hãy còn tinh anh như hai cửa sổ khép, không để ai rình mò dòm ngó bên trong. Nhưng đôi môi nhăn nhúm kia đang run run mà tự nhiên Bổn có linh tính vì xúc động âm thầm chớ không vì giận. Vừa hoang mang vừa sợ hãi muốn khóc, Bổn quên cảnh giác, bước tới nắm hai bàn tay dính đầy đất sét nói nhỏ nhẹ như một lời thú tội :

- Ông ơi, không biết cháu có bị ma ám hay gì không, mà sao hai lần cơ quan có người bị giết cháu đều thấy thủ phạm đi vào nhà ông, mà giống bức tượng này ghê lắm. Cháu sợ quá ông ơi !

Lặng lẽ rút tay ra, ông Từ thè lưỡi gỡ điếu thuốc dán lên cột - cây cột đầy rẫy những đuôi tàn thuốc như sò hến bám lưng cá voi. Mặc Bổn với lời tâm sự bất ngờ, ông bỏ ra sân...

x

Bầu không khí đặc quánh như hồ lỏng, ngay cả trăng cũng khó nhọc bước xuống trần. Chưa bao giờ cái nóng lại tức tưởi đến độ. Ngay cả mảnh sân sau nhà, ngay cả bốn bức tường loang lổ, ngay cả các bức tượng cũng ứa mồ hôi, hâm hấp thở nhọc nhằn. Tất cả đều rín rít, ngầy ngật, rũ rượi.

Ông Từ tựa lưng vào cây ổi còi, cây ổi bất động sửng sốt dưới cái nóng dộp da. Thỉnh thoảng ông với tay múc nước trong lu tu ừng ực xong xối lên người. Nước rớt xuống làm mặt đất sủi lên, phừng phực hăng hăng. Trong đời, ông ít thấy cái nóng gì mà kinh khiếp. Ông ngước nhìn trăng cầu cứu, chú Cuội đang tất bật quạt cho chị Hằng và hai má chị ửng hồng, cũng rạc người vì nóng. Cả bầu trời trong vắt từ từ mang màu lửa, lửa nhen nhúm, lửa reo vui, rồi lửa hừng hực bao trùm vạn vật. Mi mắt ông Từ sụp xuống nặng nề...

Trong cái mê mê tỉnh tỉnh, chợt đâu đây thoang thoảng một mùi hương. Thú vị, ông Từ nhủ thầm đã bao năm rồi chưa được ngửi mùi hoa bưởi ? Không, mà không phải hoa bưởi, chắc hoa lài. Lại cũng không phải, chắc dạ lý hương... Gì thì gì, mùi thơm ngon lành quá muốn ăn được, muốn ôm vào người, muốn nhốt vào lòng. Trong đêm đặc quánh, mùi hương mang lại chút gío hây hây dịu ngọt, một cảm giác lâng lâng sảng khoái, một hơi hướm giãn nở mời mọc. Tất cả mọi chân lông trên người ông nở ra, tiếp luồng hương thơm vào từng tế bào, từng mạch máu. Lớp da nâu đồng cằn cỗi của ông được mùi hương mơn trớn hồi sinh tái tạo. Con tim già nua được mùi hương xoáy loạn lên sống động, nôn nao...

Rồi mùi hương đến gần ông, gần lắm khiến khối óc mù mờ chợt nhớ nó đã từng len lách giữa các viên gạch trong nhà, giữa những sợi tranh trên nóc, giữa những hiu hắt gió đêm... và nhất là, nhất là giữa tiếng nấc nghẹn ngào bi thiết đàn bà dập dờn trong khuya vắng. Thỉnh thoảng lại văng vẳng tiếng đàn dìu dặt khi nhặt khi khoan dúng dắng, ngập ngừng. Các thứ trêu ngươi ấy quyện lấy nhau, nhịp nhàng sôi nổi, đã làm một người chai đá như ông cũng phải cảm thấy lạnh buốt ở lưng. Ông đã thức bao đêm chờ đợi, rình mò tìm kiếm mà chưa bao giờ gặp. Ông biết cái thứ mùi ma quái và tiếng khóc tỉ tê âm hồn ấy có đâu đó trong nhà, trong vườn, rất gần gũi ông mà cứ tránh né hù doạ, lúc nổi lúc chìm cho ông búc rức. Đêm nay nó còn ngát hơn, ngọt hơn khiến giữa cơn thiêm thiếp, mũi ông phập phồng như hai cánh bướm đêm. Rồi ông Từ cố hé mắt tìm hướng cái mùi sung mãn ấy. Bỗng mắt ông mở to ra, to mãi, nhìn sừng sững trước mặt mình một màu gì trắng toát không phải màu trăng...

Ông sẽ giữ mãi kỷ niệm tuyệt diệu ấy cho riêng mình - một cõi riêng tư đã khiến những ngày cuối đời ông rực rỡ, một điều bí mật làm giàu nỗi cô đơn và cuộc đời quạnh quẽ của ông, một chút nồng nàn hâm nóng con tim giá lạnh. Mùa trăng đó tưởng chừng vô tận...

Tới mùa trăng sau ông Từ vẫn chưa hết bịnh. Hàng xóm bảo hậu quả người ướt sũng mà ông nằm suốt đêm ngoài sân của đêm nóng trời tháng trước, là ác. Để đáp công những bò cái bò nghé và gà vịt ông Từ đã nặn, cha mẹ thằng Cu cho con qua để ông có bạn. Thằng Cu đặt bàn tay học trò vụng dại lên trán ông nóng hổi, vừa kể ông nghe chuyện lặt vặt ở trường. Ông ậm ừ với nó mà mắt thì dán trên khung cửa sổ sứt mẻ chờ đợi. Ánh trăng nhàn nhạt non nớt bò từ từ lên phần cao khung cửa. Màu trăng chưa trang điểm, chưa mãn khai, chưa kiêu hãnh. Ông Từ vẫn nằm im, vẫn thở khò khè nghe thằng Cu kể chuyện.

Nhưng khi vầng trăng tròn trịa đêm rằm ung dung ngự giữa trời, ông Từ bị một luồng điện chạy qua, bật dậy bất ngờ mạnh mẽ và tựa vào đôi vai nhỏ bé của thằng Cu, mằn mò ra sân. Với bước chân yếu đuối chậm chạp nhưng cương quyết, ông tới ngồi tựa vào cây ổi còi, thở hổn hển đứt hơi và ngước mặt nhìn trời...

- Cu à, chỗ, này nè, con, bà ấy, ngồi đây, áo, trắng tinh, tóc xoã, dài đen, nhánh...

Thằng Cu dáo dác nhìn quanh rồi áp thân hình bé bỏng sát vào tấm thân xiêu lệch :

- Ai hở ông ?

- Ờ, tội quá, bà, lạy ông, nói cám, ơn, ông, đã cứu, mạng, hai vợ, chồng, bà, rồi đàn...

- Ông cứu ai vậy ông ?

Ông không còn sức kể và cũng không tả được cảm giác lúc nghe đàn. Tiếng đàn não nùng mà kinh động, lạ lẫm mà quấn quýt, tỏ bày mà kín đáo, trăn trở mà ngọt ngào... Tiếng đàn lúc thanh tao thoát tục như hạc như mây, lúc sầm sập giục giã như thác sa gềnh đổ. Tiếng đàn lúc vướng víu như sương khói tơ trời lúc rạch ròi như gió quất... Tiếng đàn lúc diệu vợi đuổi xô lúc cận kề mơn trớn... Tiếng đàn tựa quả ngọt mùa xuân, tựa giá tuyết mùa đông, đổ xuống, đổ xuống che lấp cõi người... Lưng rờn rợn lạnh. Tóc dựng trên đầu. Da phồng lên, mỗi chân lông là một lỗ tai căng ra hứng tiếng đàn huyền nhiệm. Rồi nước mắt đã khô bỗng tựa tiếng đàn tuôn ra, tuôn ra ướt đẫm khuôn mặt đã trải qua trọn kiêp nhân sinh...

Mắt long lanh, ông Từ lúc lắc đầu kiểu sắp lên đồng, thân hình co giật, hai cánh tay khẳng khiu quờ quạng trong không tựa người mù tìm lối đi. Rồi bằng động tác nhanh gọn như có người vô hình lôi kéo, ông bò lết vào bực cửa. Thằng Cu cuống quýt lẽo đẽo theo sau. Ông Từ nằm dài ở đó, mắt đăm đăm vào dãy tượng góc nhà, đôi môi quắt queo run rẩy rất khó nhọc :

- Rồi bà, vào, đây, lạy, chồng...

Thằng Cu nghi ngờ :

- Toàn là tượng đất chớ chồng gì đâu ông ?

Ông Từ cố gượng chắp hai tay :

- Sau đêm, đó, ông, tướng không, còn, nữa...

Một con chim đêm ngoài sân vô tình kêu thét lên. Thằng Cu giật bắn người mếu máo :

- Ông ơi đừng làm con sợ !

Quên bẵng thằng bé, ông Từ dán mắt vào góc nhà và sống với thế giới riêng bí mật của mình. Ông đã nắn tượng người đàn ông với lòng trân trọng và trách móc không nguôi. Già tưởng chỉ một mình già ngu, nghe lời xúi dại của đàn bà. Té ra tướng công đường đường một đấng anh hùng mà cũng nhẹ dạ ! Nên già nặn tướng công cho có bạn, cho vui. Một mình một cõi ngang dọc tung hoành, bao nhiêu quân dưới trướng, đi đến đâu triều đình khiếp vía đến đấy... Chỉ một cái quắc mắt của tướng công là bao nhiêu người run sợ, chỉ một lời tướng công đủ làm máu đổ đầu rơi, chỉ một cái vẩy tay đủ ban bố bao nhiêu ân huệ... Vậy mà trời ơi, chỉ vì lời lẽ đàn bà đã làm tướng công mất hết, mất hết công lao năm năm oanh liệt ! Cái đời hèn mọn của già này bị đàn bà xúi dại, cho là hay ho gì cái nghề nặn tượng, cho là sống sao nổi với nghề nặn tượng... Rốt cuộc già thất bại hết, rồi bị phụ bạc, phải nương nấu cửa chùa. Chuyện cũng thường. Còn tướng công... trời ơi !

Hết trách móc, ông Từ lại tủm tỉm lẩm bẩm... râu hùm, được, hàm én, được, còn mày ngài thì chẳng đẹp đẽ gì cho bậc tướng đâu, nhưng cũng được đi. Có điều chẳng hiểu thước tấc ngày xưa làm sao mà vai chỉ năm tấc rộng mà thân tới mười thước cao lận ? Già phải làm sao cho tướng công đường bệ đẹp trai chớ ! Với lại ... (ông e hèm vài tiếng) thuở xưa cứ quân triều đình là tướng công xuống tay. Bây giờ (ông bật cười dòn tan) thì chỉ có công an thôi !... Và ông đã sơn phết cho bức tượng một màu da phong trần - màu da dính đủ bốn mùa thời tiết...

Rồi một lần, hai lần, ông Từ thấy đôi mắt ông tướng quắc lên giữa bóng đêm, đảo điên. Cho là vài giọt rượu buổi cơm chiều làm quáng mắt, ông Từ cười cười :

- Được như vậy thì già này mừng lắm. Xin mời tướng công một ly !

Đêm đêm, ông yên lặng chờ đợi, tắt đèn, hai ly con con đầy rượu. Trong hơi men với đôi tai không còn tinh tế nữa, ông Từ nghe tiếng giáp bào rộn rã, tiếng chân nặng nề chậm chạp, và ánh mắt ai long lanh trong đêm tịch mịch... Rượu hực ấm người tuồng hơi thở ai bên cạnh muốn to nhỏ điều gì. Và đom đóm vào nhà hay ánh kiếm loé xanh trong căn nhà xiêu vẹo ? Ông Từ cũng cười cười :

- Tướng công thuận tay trái à ? Xin lỗi, để già sửa.

Nhiều lần tiếng dao loảng xoảng rơi trong bếp. Tiếng ai thở gấp và mạnh. Tiếng di chuyển về đêm của thú trong chuồng. Tiếng kim khí rộn rã nhọc nhằn. Gío bật tung cửa. Một luồng khí lạnh xoắn vào lưng làm ông Từ sởn ốc. Một luồng sáng xẹt lên. Đôi mắt mèo linh hoạt ngời ánh dữ dằn. Rồi bước chân ai vang vang xa dần trong đêm yên tĩnh... Nhưng ngoài những lúc ấy, ông Từ nghe bên tai tiếng phàn nàn bất mãn. Có uẩn khúc nào trong hơi thở khắc khoải đứt khúc, dồn dập, nghẹn tức. Những âm thanh phẫn nộ của tiếng nghiến răng, chát chúa nhọn sắc. Rồi những luồng âm khí mịt mù đen đậc bao trùm căn nhà nghèo nàn, biểu lộ nỗi căm phẫn tột cùng. Có cái gì không lời khiến con tim già nua đau đớn, thổn thức. Ông Từ chợt hiểu...

Rồi một đêm đông tối như bưng, ông Từ bỗng nghe có tiếng sột soạt ngoài hiên. Ban đầu tưởng mèo hàng xóm săn chuột, nhưng tiếp theo là tiếng rên rỉ nhẫn nhục đàn bà làm ông ngạc nhiên lần mò ra cửa. Dưới ánh sáng vài lằn chớp trên cao, ông hoảng hốt lùi lại, dụi mắt nhìn người đàn bà đang quỳ, áo mây, sương khói , ẩn hiện với cây quỳnh bên góc. Lá quỳnh ốm yếu chao chao trong bóng đêm tựa bộ xương người. Mặt bà cúi xuống, vai rung rung vì nấc. Cố định thần, ông Từ khe khẽ hỏi bà là ai, làm gì ở đây vào đêm khuya khoắc ? Văng vẳng bên tai ông lời thầm thì trách móc :

- Vì Người tạo ra thiếp với lòng căm giận, thiếp không mang một linh hồn trọn vẹn...

Ông Từ chau mày. Người đàn bà này ông chưa gặp bao giờ. Ông cố chọc thủng bóng đêm bằng đôi mắt không mấy tinh anh. Vài giọt mưa bắt đầu lộp độp trên mái, ngập ngừng. Gío khe khẽ rít. Người đàn bà chợt ngẩng lên. Dưới cái mờ mờ của lằn chớp trong mưa, mặt bà nhạt nhoà phẳng lì không mắt mũi, không môi miệng. Vậy mà ông Từ cảm nhận hai vành môi kia mếu máo. Đôi mắt là hai hốc đen sâu hoắm vừa đón giọt mưa vội vã hắt vào. Vậy mà ông Từ cảm nhận cái nhìn bà thấu suốt vào mình. Tóc bời bời ngang dọc vướng víu một vành tang trắng, gío ở đâu cứ đong đưa giải vải về ông. Toàn thể người đàn bà toát ra những mũi kim nhỏ sắc chích vào da thịt ông rờn rợn... Trong cơn hãi hùng, tai nghễnh ngãng của ông Từ vẫn nghe rõ mồn một những lời than thở :

- Phận hèn đức mỏng... Nhờ trời cho gặp người tri kỷ rộng lòng thương xót... Thiếp nào dám tráo trở hai lòng... Những tưởng là cơ hội cho tướng quân hiên ngang đường bệ, xứng đáng kiếp anh hùng...

Gan dạ như ông Từ mà cũng quỵ xuống, bất tỉnh. Theo những giọt mưa, bóng người đàn bà tan loãng. Chiếc áo không màu hắt lại lời nhẫn nhục :

- Xin Người bớt giận, cho thiếp được nên người...

Sáng hôm sau tỉnh lại, ông Từ chột dạ đốt ba nén nhang, lòng dịu dàng cầu nguyện : "Bà sống cho nên người đi, ơn đền nghĩa trả..."

Phải rồi, khi biết ông Tướng sống trong cô đơn và uất hận, ông Từ đã vừa nắn tượng người đàn bà vừa quở trách, kết án, rằng cho bà sống mười lăm năm trong cảnh đoạn trường, để cái đẹp sắc sảo chết người của bà phải mang nét đau đớn ân hận, cho tiếng đàn tài hoa chỉ đem cho bà tủi nhục, cho cái yểu điệu dẫn dắt bà vào những nơi mà không người đàn bà nào muốn sa chân... Bà ham làm mệnh phụ triều đình vào luồn ra cúi, hơn làm hoàng hậu một cõi ư ? Tướng quân vì tin yêu nghe lời bà để phải chết tức tưởi không nhắm mắt được ! Tôi sẽ cho bà một linh hồn để sống dằn vặt, lương tâm bà sẽ dày xéo đau đớn, tâm khảm bà sẽ in khắc hình ảnh chết đứng của tướng quân... Chết đứng ! Trời ơi cổ kim chỉ một !

Bây giờ, dưới ánh sáng chênh chếch trăng nghiêng, mặt ông trắng bệch, mắt dìu dịu và đôi tay run rẩy, môi mấp máy khe khẽ gọi "bà, bà..." làm thằng Cu tông cửa chạy đi vì sợ. Bà ngồi đây, âu yếm nhìn ông với nụ cười thanh thản vì ông đã hiểu lòng bà trong mùa trăng tháng trước. Đêm đó, ông Từ chỉ ra khỏi cơn nửa tỉnh nửa mê khi người đàn bà áo trắng khóc tạ lỗi với chồng. Ông không nghe rõ vì tiếng than chan hoà tiếng nấc, nhưng ông hiểu nỗi niềm. Đôi mắt tướng từng quắc lên ánh giận dữ đã từ từ dịu lại, bao dung. Tiếng gầm gừ nghiến răng của thú trong chuồng đã hạ xuống trầm trầm rồi thở dài não nuột. Thanh kiếm chợt văng khỏi tay rơi dội lên nền đất. Tiếng giáp bào xào xạc tựa gío đuổi lá chiều khe khẽ nín. Rồi người đàn bà tháo trâm, gỡ lược, mái tóc đen như đêm tràn xuống đôi vai nhỏ rung rung, tràn xuống chiếc lưng ong tội nghiệp, che mất một phần áo màu sương tuyết. Và khi dáng ngọc ẻo lả đứng lên rồi chợt như mũi tên lao đầu vào vách, cùng lúc bức tượng người cầm kiếm đỗ xuống, tan tành - thì ông Từ hiểu là một mối oan tình vừa kết thúc ...

Chạy trong bóng đêm, thằng Cu làm đổ một bức tượng...

Khi cha mẹ thằng Cu và hàng xóm xôn xao kéo tới thì ông Từ đã sõng soài. Người ta cúi xuống và ông gượng thều thào : "Nhắn, chú Bổn, là, được, bà ấy, vừa, chết..." xong mi mắt sụp xuống, bất động.

Mẹ thằng Cu quét hốt mãnh vỡ bức tượng đàn bà. Trăng chầm chậm bước đi với nụ cười hiền dịu. Một mùi hương nhè nhẹ đong đưa làm thiên hạ trầm trồ ông Từ được Phật mở tay tiép đón. Ngoài hiên bóng ai cao lớn hiên ngang sừng sững dưới trăng. Từ trong nhà, bóng ai tha thướt áo lụa thinh không, vòng khăn tang trên tóc mây rớt xuống. Những bước khoan thai đưa đẩy bà vào vòng tay người ngoài cửa. Mọi người trố mắt nhìn. Nhưng chỉ còn là trăng và trăng...

MIÊNG

Paris, Décembre 2000
Phượng Các
#15 Posted : Saturday, January 8, 2005 12:40:36 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
BẤT CHÍNH

Đáng lẽ tôi không nên dính vào những cái người đời thường gọi là bất chính. Nói "đáng lẽ" bởi vì tôi thường dính vào. Và thường dính vào bởi không biết phân biệt thế nào là bất chính. Tôi vẫn được cái nhà Phật gọi là vô minh, tiếng dân gian nôm na là dốt.

Cái dốt đó, tôi đổ thừa tại mắt kém. (Ai chẳng biết người sành sõi nhìn đời với con mắt tinh tường ? Mắt không tinh, sao tường được ?) Việt Nam mình mới bảy tuổi đã phải mang kính là chuyện cổ kim hiếm cực kỳ. Chuyện bắt đầu từ một chiều đi học về, tôi ra vườn chơi với con bò đang gặm cỏ, vừa lúc nó phất cái đuôi. Bò mà, muốn phất đuôi lúc nào thì phất. Có phải người ta phất cờ khởi nghĩa đâu mà phải lựa thời cơ. Hậu quả là sáng hôm sau, cả nhà kinh hoàng tưởng đêm qua tôi hoá thân làm con gái qủy : hai hồ thu trở thành hai hồ máu. Hai hồ máu tròng trành chắc chắn hãi lắm !

Thôi thì hết thỉnh bác sĩ này tới thày thuốc kia. Ai cũng cho vài ba món rồi chuồn. Bố mẹ phải cầu tới tiên tới thánh. Tiên thánh nhập vào cái ông ngồi giữa chiếu trước bàn thờ, đầu trùm khăn đỏ ủ khăn đóng bên trong. Áo dài the đen phần dưới nổi bật khăn đỏ phủ xuống ngang lưng lắc lư nghiêng ngả, đũa cầm tay gõ gõ viết viết lên chiếc mâm đồng, ồn ào nhộn nhịp tạo cơ man hy vọng ! Bằng giọng lơ lớ âm dương, ông phán tôi lạy tất cả mọi người chễm chệ trên bàn thờ. Nào ông Tổ ông Tằng ông Cao ông Cố... Ai cũng nụ cười nửa miệng, khinh khỉnh, thách thức sao sao. Và cái nhìn các cụ trông khiếp lắm : bước sang phải sang trái gì các cụ cũng trừng trừng rõi theo, ý muốn thấu suốt coi lòng mình có thực sự thành kính hay không. Xong tôi ực chén nước lạnh mà ông tiên ông thánh đã huơ huơ đũa thần vào đấy. Rồi tiên thánh cũng chịu thua, vất đũa, thăng. Thường trước khi thăng, tiên thánh hay cười khanh khách, ta đây lắm, hất ông trùm khăn đỏ ngã lăn quay, chỏng trơ bất động hồi lâu. Nhưng lần này tiên thánh chỉ cười khúc khích (bởi vì không cười thì bớt vẻ "tiên" đi), không quên hất nhào cái xác phàm mình đã nhập vào, đủ hiểu tiên thánh cũng "tri bỉ tri kỷ" lắm, biết chắc lần này mình không thể biến hai hồ máu kia thành hai hồ thu trở lại. Ông Cao ông Cố vẫn tủm tỉm, nhưng có phần tẽn tò, ngại con cháu coi thường thực sự (rồi chúng nó chẳng thèm hoá vàng hoá bạc cho thì có mà... khất thực !). Bố mẹ héo hon. Tôi thì không nói ra chớ chẳng tơ hào buồn, tự nhiên được miễn ngày hai buổi tới trường, lại được chăm chút đặc biệt.

Anh con cậu, biết bố ghét dị đoan. Nhưng tới nước này cũng đành thủ thỉ thôi thì rước thử ông thầy pháp thầy gì gì đó. Cùng đường rồi, bố gật. Vừa bước vô sân, thầy phán "có gì đâu, anh em nó gặp nhau mừng nhau đó mà", rồi đặt bàn cúng ngoài sân bảo phải làm cây cung với bốn mũi tên. Chị tôi lấy len cho bố làm dây cung.. Ông rầm rì dụ dỗ anh tôi gì gì đó (thầy pháp dụ ma như trai dụ gái) , xong bảo tôi bắn bốn mũi tên đi bốn hướng. Chẳng là anh Ba tôi chết non, chưa đầy tuổi. Chết non yểu thiêng lắm. Vì đứng hạng nhì sau qủy nên có kiểu mừng của thế giới bên kia, thế giới bên này hơi bất mãn. Và dây cung bằng len thì bắn xa vạn dặm, hiệu nghiệm như một viên đạn du kích bắn chết một hơi bảy tên GI : sáng hôm sau thức dậy, mắt tôi xanh như mắt đầm. Cả nhà mừng hơn bắt được của (dĩ nhiên còn tùy của gì). Tôi thì cũng chẳng nói ra nhưng tiếc, biết là sắp tới sẽ ngày ngày ôm cặp, cũng chẳng còn lý do để cứ đôi mắt máu liếc tới đâu là y như toại nguyện cái ấy nữa. Sáu tháng sau, tôi bắt đầu mang mục kỉnh. Người ta thường gọi quê tôi khỉ ho cò gáy, nếu tỉnh thành chắc chắn tên tôi được thượng vào danh sách chuyện lạ bốn phương rồi !

Để góp phần vào thị lực mong manh ấy, tôi rất ít nói, mà hễ mở miệng thì văn hoa bí hiểm. Người cho tôi tàng tàng (bố lờ đi, không nghe). Người (chắc tàng tàng) thì cho tôi có máu thi sĩ (bố tủm tỉm, bảo con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Và không nghi ngờ gì lòng thủy chung của mẹ, bố nhứt định tôi mang máu bố, chính thống). Ví dụ vào năm lên mười, đang ăn cơm, bất chợt tôi nhăn nhó với mẹ :

- Có người quyên sinh !

Cả nhà ngưng đũa, trợn mắt nhìn. Mắt bố cú vọ xả lửa. Mắt tôi xịt nước vào bố, gật gù tiếp :

- Trên sông. (Các đôi mắt vẫn không chớp) Bên đám rong rêu.

Bố thở dài. Con gái đã mang tật mắt lại còn dở hơi thì dù có đại tiện trên đống vàng cha mẹ cũng chẳng vui nào. Nhưng bố quên là tôi con nhà tông, mang máu bố, chính thống. Mẹ buông đũa ôm vai tôi :

- Ăn đi con. Chuyện thiên hạ ở đâu mà nói làm gì.

Tôi lắc đầu suýt văng cả kính (mẹ vội vàng đưa tay hứng dù nó chưa văng, chuyện, cái kính là cả gia tài) :

- Nhưng nó muốn chui vào bụng con !

Có đứa con như vậy thì phải biết lòng kiên trì của mẹ. Những sợi tóc mai chân hạc nghiêng xuống bên tôi :

- Ai mà chướng vậy, nói mẹ nghe.

Tôi chỉ vào chén cơm, có cái gì lênh đênh. Bố sửa mục kỉnh, liếc, nhướng mày nhìn mẹ :

- Con ruồi, mẹ nó à !

Bối rối, mẹ vội cầm chén cơm tôi lên săm soi rồi kêu :

- Ruồi muỗi gì đâu, nấm hương đó con. Còn một cái bỏ thì tiếc, mẹ xắt bỏ vô canh. (Chép miệng) Con nhỏ mắt mũi đã vậy mà ông thì cũng chẳng hơn gì ! Thôi ăn đi con, có ai quyên sinh đâu !

Tôi thích ngồi trầm ngâm hằng giờ chẳng cục cựa, tịnh khẩu, mắt nhìn xuống. Hễ nhìn ai thì cứ chăm bẳm không chớp khiến thiên hạ rờn rợn với ý nghĩ dù tội tổ tông, dưới mắt tôi cũng phơi phới chưng ra. Người ta ơn ớn, muốn tìm mà chẳng hiểu nổi trong cái đầu tóc bum-bê kia chứa đựng phù phép gì. Họ cho tôi giống bà già. Thì mới nứt mắt đã mang mục kỉnh, đã "nói chữ" ra gì có muốn trẻ e cũng khó. Ở trường tôi không có bạn gái. Không thích bọn con gái chớ không phải mới nứt mắt đã ham trai. Vô lớp đầu giờ hay sau giờ chơi, ông cai luôn luôn dành cho tôi cái vinh dự đánh trống. Tôi cho đó là cách cảnh tỉnh chúng sinh, nhắc nhở tới lúc phải trở về thực tại, với trách nhiệm, đừng lao mãi vào vũng lầy nhân loại (tôi ưa dùng chữ này lắm !). Giải thích vậy mà bọn con gái vẫn không hiểu tại sao tôi ưa đánh trống ! Và tôi hỏi tại sao bọn con gái thích chơi trò cút kiếm. Bởi lần nào tôi kiếm cũng chẳng ra ai, mà trốn thì cứ bị bọn nó bắt gặp liền, lại bị úp mặt vào tường đếm tới trăm xong dáo dác đi kiếm, lại cũng chẳng ra ma nào, lại úp mặt vào tường đếm trăm... có gì thú vị ?

Trở lại, năm đầu tiên tôi lên trung học, chị tôi xin mẹ cho bạn là chị Điểm ở trọ, vì nhà chị Điểm mãi trong quê. Nhà lại quen chú Đạm, chẳng biết bạn ai. Bố lớn hơn chú nhiều, anh Hai thì đàn em quá trẻ, và chị em tôi gọi bằng chú. Chú Đạm tốt lắm, thường tới nhà chơi và chỉ trời mới biết từ bao giờ, chú hay giúp chị Điểm làm bài. Tính tình ba hoa mà kín đáo, chú hay đưa cho tôi bao thư, dặn không nên nói ai nghe, chị Điểm sẽ mắc cỡ không tự mình làm bài được. Bài làm của mình còn lười huống chi bài làm của người khác thì xem làm gì, tôi chỉ nhận và đưa. Chú Đạm có nhiều cách giải bài khác nhau, mỗi lần chị Điểm đưa cho tôi một đề bài, chú Đạm giải đáp những ba bốn lần. Vậy mà chú không dạy học, cũng tiếc. Có khi chú hỏi gì chẳng rõ ràng mà chị Điểm trả lời bằng mắt là chú hiểu ngay. Thông minh dễ sợ !

Hơn một năm trôi qua như vậy, kể cũng êm đềm. Nhưng sau hè năm đó chị Điểm bỏ học, ít có tin tức. Chú Đạm không còn ai để giải bài, cũng thưa lui tới.

Bỗng vào ngày gần Tết, chị Điểm tới thăm. Sau khi trò chuyện cùng mẹ và chị tôi, chị Điểm vuốt lưng chỉ chỗ bài làm sai. Công lao chú Đạm chẳng phí. Công lao phát thư của mình cũng lợi. Chị kể nhiều thứ lắm về đời sống thôn dã. Chị đem hết gia phả nhà chị ra vẽ trước mắt tôi bức họa đồng quê vô cùng ngoạn mục. Nào con chó Mực ngày ngày đóng vai vú em khi chị đi vắng. Nào những con heo đực heo cái thả rông trong vườn, ủn ỉn chán lại thênh thang vào nhà cạ lưng vào cột. Nào đàn gà mẹ gà con tíu tít trong sân, trẻ con nhà quê ăn cứt gà như con nít phố ăn kẹo mù u . Nào mấy con bò... tới đó thì tôi khựng. Kỷ niệm không may với bò vẫn còn rành rành. Nhìn bò đâu đâu tôi cũng thấy anh mình núp bóng tính "mừng" - kiểu mừng của thế giới bên kia, thế giới bên này hơi bất mãn. Chị kể phải tảo tần ra sao để nuôi đứa con sinh non thiếu sữa... Tôi ngạc nhiên :

- Xuất giá... ?

- Không, chị không xuất giá. Chị có người thương mà cha mẹ chị không chịu. Chị có bầu, phải ra riêng nên mới cực.

- Chị là cá không ăn muối ?

Chị Điểm cười dòn tan :

- Ờ thì cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. (Ngẩng cao mặt lên) Mà chị có cưỡng cha mẹ đâu, chị chỉ làm theo ý chị !

Sửa lại mục kỉnh tôi chăm chú nhìn, lần đầu tiên khám phá chị có cái giống mình. Tôi chép miệng lắc đầu :

- Vũng lầy nhân loại !

Chị cũng lắc đầu, thở dài :

- Chị cực như con chó.

Bất giác tôi đưa mắt nhìn con KiKi ngủ dưới bàn, đang tủm tỉm với chó cái trong mơ. Chắc chị Điểm nói con chó nào ở nhà quê, chớ con KiKi ngày hai bữa, rong chơi rồi ngủ, không bị đi học, lại được cả nhà cưng. Chị Điểm tỉ tê nhiều thứ lắm, thứ nào nghe cũng ngồ ngộ lạ tai. Và chị cần tiền, cần lắm. Rốt cuộc để cho kiếp sống của chị không phải kiếp chó, hay ít ra đỡ cực hơn chó, tôi đập bùng binh, tài sản tích trữ những dịp Tết, đưa hết cho chị. Đâu được bốn trăm. Tôi hài lòng, ít ra đồng tiền mình hữu ích. Chớ có phải tiền bất chính đâu mà cứ trốn chui trốn nhũi mãi trong hũ.

Gần Tết năm sau chị Điểm lại ra thăm, đúng hẹn. Sau khi trả tiền cho tôi, chị Điểm bắt đầu kể chuyện. Trong câu chuyện, tôi thấy đám chó vẫn còn ve vãn truyền kiếp cho chị. Và chị kết luận không kém phần sôi nổi duyên dáng :

- Vì giữ lời hứa phải trả cho em, chớ nếu chị có số tiền này thì đủ mua thuốc độc tự tử cho cả nhà, chị với hai đứa nhỏ.

Tôi trố mắt sau lớp kính sáu vòng :

- Song sinh ?

- Không phải song sinh, đứa lớn hơn một tuổi, đứa nhỏ mới hai tháng. Chị mắn con, ảnh mà đụng tới chân giường là chị có bầu.

Tôi vẫn nhìn chị, ý hỏi vậy thì ảnh phải tránh đụng cái giường ? Chẳng biết chị Điểm có hiểu thấu ý tôi không mà bật cười gật đầu. Khổ vậy mà vẫn cười được thì quả là người can đảm. Rồi chị lại trở về câu chuyện thuốc độc. Chị tả đường đi nước bước của thuốc độc vào thân thể chị và hai đứa nhỏ, ngon lành như đang ăn phở. Chị nói say sưa, nghe phát thèm. Chị tả cái hậu quả kỳ diệu khi chất độc đã theo dòng máu giang hồ khắp nơi rồi hăm hở chạy về tim.... Đến nỗi thuốc bắt đầu ngấm trong người, tôi tò mò :

- Quyên sinh ?

Chị gật đầu :

- Chớ sống làm gì, chị cực như con chó !

Con chó nào được chị Điểm đem so sánh chắc chắn ở nhà quê. Mà ở nhà quê thì cả đời chó có đứa không biết tới công khó bác nông phu. Thế chúng nó xơi gì ? Nó xơi... Thôi, đó là chuyện của chó. Nhưng nếu đời không có chó, hoặc con người làm dồi hết để xuống âm phủ khỏi chép miệng tiếc hậm hụi, không biết chị Điểm sẽ so sánh với con gì. Tôi nhìn chị với cách nhìn bẩm sinh và chị chịu nổi, cũng nhìn lại thẳng vào mắt tôi, không chớp. Tôi nhìn tấm thân mảnh dẻ của chị. Tôi nhìn đôi mắt tròn vo với con mắt phải hơi le lé dễ thương của chị. Tôi nhìn cặp môi rõ nét cong cong đang tủm tỉm của chị... Có lần mẹ nói con Điểm có cái đẹp gian truân. (Bất giác tôi giật mình khám phá cái đẹp của chị hao hao con... KiKi ! Thôi chết !)... Tất cả cho tôi cảm giác chị đáng sống cuộc đời tốt đẹp hơn, xứng đáng hơn, đỡ khổ hơn, đỡ chó hơn. Và nếu cần phải so sánh thì phải so sánh với con người - một người nào đó bất kỳ, ví dụ với bà Chín bán rau muống ai cũng chê rau già như bà, không mua, cũng được đi, nhưng đừng với chó - dù đó là con KiKi ngày hai bữa, rong chơi rồi ngủ, không bị đi học, lại được cả nhà cưng. Và tôi cảm thấy có bổn phận phải cứu chị khỏi kiếp này, khỏi những con chó cứ chờn vờn chung quanh. Và tôi cảm thấy một lần nữa, những đồng tiền mình không nên nằm uể oải vô ích trong bùng binh, mà phải tích cực giúp chị Điểm đầu thai một kiếp huy hoàng hơn, đỡ khổ hơn, đỡ chó hơn. Và tôi cảm thấy lòng lâng lâng, lần đầu tiên trong đời cảm thấy sự hiện diện của mình hữu ích. Và tôi đưa hết cho chị số tiền chị vừa trả...

Lạ, Tết năm đó nghe xôn xao có người uống thuốc độc tự tử, mà không phải chị Điểm. Hoặc người bán thuốc mắt kém đưa nhầm thuốc bổ thay vì thuốc độc cho chị. Hoặc người bán thuốc đưa nhầm thuốc độc của chị cho ai vừa chết đó... Dù sao chị cũng bặt tăm. Tới hè, tôi chuẩn bị khăn gói vào Sài Gòn du học thì cũng là lúc nghe thím Đạm đòi ly dị vì khám phá chú Đạm "tằng tịu" có hai con với chị Điểm. Năm đó 1964, đã có bộ Luật Gia Đình. (Vậy mà khi nghe chị ấy nói về chồng, chẳng bao giờ tôi biết hỏi chồng chị là ai !). Mẹ bảo : cái thằng bất chính ! Tôi hỏi : Mẹ mẹ, mẹ nói "tằng tịu" là thương, vậy tại sao thương mà là bất chính hả mẹ ? Mẹ chỉ hứ.

Gần tết năm thứ hai ở Sài Gòn, tôi xuống bưu điện chính phôn về nhà. Làm gì có điện thoại mà nghe, phải nhờ nhà hàng vàng bên cạnh :

- Mẹ, con về sau Tết.

Giọng mẹ sôi nổi nồng nàn :

- Sao lại về sau Tết ? Khoảng đưa ông Táo phải về chớ con ? Ở lại làm gì mà về trễ ?

- Con chờ toà xử.

- Xử ai ? Xử cái gì ?

- Tội ăn cắp.

Bên kia đầu giây hình như có ai chọc tiết mẹ (hy vọng không phải mẹ vừa chớp cái gì của bà hàng vàng và đang đính chính) :

- Cái gì ? Ai ăn cắp ?

- Mẹ hỏi con hả mẹ ?

- Chớ tao hỏi ai bây giờ ? Ai ăn cắp ?

- Bạn con.

Giọng mẹ uất nghẹn :

- Thì cơn cớ gì mày mà mày về trễ ?

- Con... làm chứng !

Mẹ thở hắt ra nghe mới não nùng ! Vừa réo Trời, vừa cằn nhằn hỏi bạn ăn cắp cái gì, của ai, mà sao con lại phải làm chứng, con ơi con dính vào những cái bất chính đó làm chi... Tôi làm thinh. Điều bạn tôi làm không mảy may bất chính. Đó là tình yêu. Đó là cái đam mê của tình yêu. Mẹ làm gì hiểu nổi vì mẹ có biết tình yêu mặt mũi ra sao. Ông Ngoại ông Nội bạn nhau, hứa hẹn làm sui. Ngoại tới giờ trăn trối, cả nhà phải vắt giò lên cổ lo đám cưới chạy tang. Lúc đó mẹ mười bảy, sợ phải chờ ba năm, thành gái già. Về nhà chồng, tuổi "bẻ gãy sừng trâu" không địch nổi cụ Khổng khắp nơi. Không những cụ ngồi trên bàn thờ, mà còn trong phòng khách, trên bàn ăn, ngoài sân, dưới bếp... Ra đường sau bố một bước. Tiếp khách sau bố một cái lưng. Ăn cơm sau bố một chén. Tóm lại cái gì mẹ cũng phải nhường bố một bực. Không nghe nói cụ Khổng có vào tận giường không. Ừ, thì chắc mẹ cũng phải... dưới bố. Nhưng thôi, đó là chuyện phòng the. Và tóm lại, thường thường cái gì mẹ cũng cho là bất chính.

Mẹ mà hỏi cái gì thì tới cùng, như người ta hỏi cung. Tiếc không làm phòng nhì công an mật vụ. Rốt cuộc phải khai ra. Bồ thằng bạn thích cái ghế kiểu xưa của ông khoa trưởng. Thích mê, nói hoài. Mỗi lần nhắc tới cái ghế như nhắc nem công chả phụng, nước dãi thập thò. Thằng bạn đặc biệt khoái những giọt dãi e ấp bên khoé mép này, cho con nhỏ ưa cái gì là "đam mê hết mình", thì nó cũng sẽ yêu tao tận cùng con tim. Thằng bạn nhờ phụ một tay làm quà tết. Nặng kể gì. Đang hì hục thì ông gác trường bắt gặp.

- Trời ơi, chẳng lẽ bồ nó ham cái hột xoàn, nó đập kính ăn cắp rồi mày cũng giúp nó hả ? Chết con ơi, mẹ chịu, không hiểu nổi con !

Tôi chợt nghĩ bố có thể hiểu. Nhưng ý nghĩ vừa thoáng qua đầu là tiêu ngay. Bố mà hiểu nổi lòng đam mê của tình yêu thì đã cãi lời ông nội, không chịu cưới mẹ. Bố đeo cô ả đào như sam phải nhả. Nghe đâu "anh, ả" đối đáp toàn bằng thơ phú văn chương, kề vai lả gối, tâm ý gì cũng rất rất hợp. Mẹ nói cưới về bố nhìn mẹ như nhìn hoa cứt lợn, trong khi bố chỉ tơ tưởng tới hoa hồng.

Anh lính nào đó thường rên rỉ "Tết con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo..." Tôi không là lính. Nhà tôi không phải mái tranh. Nên mẹ không buồn, chỉ bực bội kết án "Con lớn rồi, sao cứ dính vào những chuyện bất chính đó làm chi ?"

Không cãi làm gì, mẹ lại trùm thêm cái mũ bất kính, bất hiếu, bất mục gì gì đó. Tôi cứ làm thinh, mẹ cứ lải nhải. Cuối cùng hai mẹ con cùng cúp máy, bất mãn. Chợt tôi chẳng muốn lớn lên, bởi vì người lớn thì chắc chắn lắm lúc phải sống dối lòng để không mang tiếng là "bất chính".

MIÊNG

Paris, Février 2001
T.A.Xanh
#16 Posted : Wednesday, February 16, 2005 12:07:37 PM(UTC)
T.A.Xanh

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 28
Points: 0




Mishima Yukio

ƯU QUỐC

MIÊNG chuyển ngữ

Mishima Yukio (bút hiệu của Hiraoka Kimitake, 1925-1970) là một trong những văn sĩ đương đại Nhật Bản nổi tiếng. Năm 1947, ông tốt nghiệp phân khoa Luật tại Ðại học Tokyo, rồi sau đó cống hiến cả đời mình cho một sự nghiệp văn học dồi dào và đa dạng: tiểu luận, sân khấu, tiểu thuyết, truyện ngắn, du ký... Ông đã được ba giải văn học lớn của Nhật.

Truyện ngắn “Ưu Quốc” (Yukoku) dưới đây mở đầu có nhắc tới ngày 26 tháng 2, một ngày máu đã đổ trên đất Phù Tang nhưng bản tiếng Pháp không chú dẫn. Văn hữu Nguyễn Nam Trân (Tokyo) đã giải thích liên hệ giữa Ưu Quốc với ngày lịch sử này như sau:

Biến cố 26 tháng 2 là cuộc đảo chánh năm Chiêu Hòa 11 (1936) của một nhóm sĩ quan lục quân trẻ tuổi phái bảo hoàng nhằm lật đổ chính phủ (theo họ là một chính quyền thối nát, làm kinh tế suy sụp, gây nạn đói), để lập một nội các mới. Nhóm sĩ quan này dẫn khoảng 1400 phần lớn là tân binh đi vây các dinh thự và giết chết năm Bộ trưởng phái dân sự, nhưng lại để Thủ tướng thoát được. Tuy họ ủng hộ Thiên hoàng, đòi ông ra thân chính, song Thiên hoàng Chiêu Hòa (Showa hay Hirohito) lại không chấp nhận phiến loạn, đã sát hại các đại thần do mình bổ nhiệm nên ra lệnh cho hải quân tiêu trừ. Ðiều này đưa đến nghịch cảnh là một số quân nhân phái bảo hoàng được lệnh nổ súng vào những người cùng chung chí hương. Sau đó, loạn quân đã phải quay về doanh trại, và các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết ngay giữa Tokyo. Tuy thất bại kỳ đó, nhưng sau này thế lực quân phiệt càng ngày càng mạnh, dần dà họ nắm trọn chính quyền với tướng Tojo Hideki (Ðông Ðiều Anh Cơ), và nhảy vào đại chiến thứ hai.

Mishima rất ngưỡng mộ lý tưởng của cuộc binh biến ngày 26-2 này, mà ông cho là “biểu tượng của tình yêu nước trong trắng, không vụ lợi”. Năm 1970, ông cùng 30-40 người đồng chí trong Câu lạc bộ Cái Khiên (Tate No Kai, Club of Shield, một binh đội tư nhân do ông thành lập) đã gây một vụ “đảo chính” tương tự ngay doanh trại Bộ Quốc phòng Nhật, nhưng không ai theo mà còn chế nhạo, nên đã mổ bụng tự sát, lúc đó mới 45 tuổi.

Truyện ngắn này đã được dựng thành một cuốn phim ngắn, rất diễm tình, do Mishima đóng vai chính.

Xin cám ơn văn hữu Nguyễn Nam Trân đã vui lòng đọc lại bản dịch so với bản gốc Nhật ngữ. Bản tiếng Pháp dịch từ Anh ngữ, vài chỗ khá tối nghĩa và không lột tả được những nét đặc thù rất Nhật.



Một

Ngày 28 tháng 2 năm 1936 (tức ngày thứ ba sau cuộc Binh Biến 26 tháng 2), trung úy Takeyama Shinji thuộc trung đoàn bộ binh cận vệ thiên hoàng - đau đớn biết rằng các bạn thân nhất của mình đã tham gia cuộc nổi loạn, và căm phẫn trước tình thế bắt buộc các toán quân hoàng gia sẽ phải tấn công nhau - đã mổ bụng theo đúng nghi lễ bằng thanh kiếm tùy thân, trong căn phòng tám chiếu (1) tại nhà riêng thuộc quận Yotsuya, khu 6 xóm Aoba-chô. Vợ anh, Reiko, noi gương chồng, cũng tự vẫn theo. Lá thư từ biệt của trung úy chỉ gọn một câu : “Quân đội Hoàng gia muôn năm “. Còn vợ anh, sau khi tạ tội song thân sẽ phải nghịch đạo hiếu vì làm con mà chết trước cha mẹ, chấm dứt thư mình : “Ngày phải đến đã đến với vợ một quân nhân...”. Những giây phút cuối cùng của đôi lứa trung trinh tiết liệt này đã khiến thánh thần cũng phải khóc. Nên lưu ý rằng trung úy chỉ mới ba mươi mốt tuổi và vợ hăm ba; chưa tới nửa năm trôi qua kể từ ngày cưới.



Hai

Ai thấy hình cưới cũng choá mắt chẳng kém người đã tham dự hôn lễ, không tiếc lời khen ngợi dáng dấp và sắc đẹp đôi trai trẻ. Viên trung úy đứng oai vệ trong bộ quân phục, tay phải trên đốc kiếm, mũ lưỡi trai trong tay trái, như đang che chở cô vợ thanh xuân. Anh có vẻ mặt oai nghiêm, và dưới cặp chân mày đen rậm, cái nhìn của đôi mắt to toát ra nét trẻ trung, ngay thẳng. Thật khó tưởng tượng nổi cái gì có thể sánh với nhan sắc cô vợ trong tấm áo cưới mà sự gợi cảm và nét tao nhã hoà quyện vào nhau; môi đầy đặn, mũi thanh tú, mắt bình thản dưới đôi mày mềm dịu. Bàn tay cầm cây quạt e ấp nhô khỏi cánh áo kimono, và các đầu ngón tay chụm lại như mầm mẫu đơn (2).

Sau cuộc tự vẫn, khi cầm lại tấm hình quan sát, ai cũng buồn bã than trách sao những cuộc hôn phối bề ngoài có vẻ hoàn hảo như vậy lại đã ngầm chứa điềm gở. Có thể chỉ là tưởng tượng, nhưng nhìn tấm hình sau thảm kịch, trông đúng là đôi trẻ bất động trước tấm bình phong sơn mài dát vàng kia đều có đôi ngươi trong vắt hệt nhau, đang chăm chăm nhìn thấu suốt trước cái chết đang chờ đợi họ.

Nhờ sự giúp đỡ của ông mai hôn lễ, Trung tướng Ozeki, họ kiếm được căn nhà mới xóm Aoba-chô quận Yotsuya. Nói nhà mới thì cũng hơi quá. Thực ra là thuê căn nhà cũ ba gian phía sau trông ra vuông vườn nhỏ. Vì cả gian sáu chiếu lẫn bốn chiếu rưỡi ở tầng trệt không hưởng được ánh mặt trời, họ dùng gian tám chiếu ở tầng trên làm phòng tiếp khách và phòng ngủ. Không có người giúp việc nên Reiko trông nhà một mình khi chồng đi vắng.

Họ miễn chuyện đi hưởng tuần trăng mật, viện cớ đất nước đang trong tình trạng báo động, và qua đêm tân hôn trong căn nhà này. Hôm đó trước khi đi ngủ, Shinji ngồi trên chiếu, thẳng ngực, cây kiếm đặt trước mặt, thuyết cho vợ cả một bài huấn thị về đạo đức nhà binh. Ðàn bà làm vợ quân nhân phải biết rằng chồng mình có thể chết bất cứ lúc nào, và phải chấp nhận chuyện đó một cách dứt khoát. Có thể là ngày mai. Hay ngày kia. Nhưng thời điểm nào không quan trọng, điều quan trọng là em đã hoàn toàn vững chí chấp nhận chuyện ấy chưa? Reiko đứng lên mở ngăn kéo bàn viết lấy ra vật quý giá nhất trong mấy món hồi môn, thanh đoản đao mẹ tặng. Trở về chỗ ngồi, cô đặt thanh đao trước mặt không nói tiếng nào, hệt chồng đã đặt thanh kiếm của anh. Họ như kết ước với nhau tức khắc trong im lặng, và viên trung úy không bao giờ còn phải tìm cách thử thách quyết tâm của vợ nữa.

Trong những tháng đầu sau đám cưới, nhan sắc Reiko ngày càng rực rỡ, cô rạng ngời với vẻ trong sáng trầm tịnh của mặt trăng sau cơn mưa.

Vì cả hai đều trẻ trung khỏe mạnh, họ yêu nhau với tất cả đam mê. Và không phải chỉ về đêm thôi. Nhiều lần về thẳng nhà sau buổi thao diễn, vừa bước vào ngay cả không kịp cởi bỏ bộ quân phục đầy bùn, viên trung úy đã vật vợ xuống sàn. Reiko phơi phới độ nồng nhiệt tương đương. Khoảng một tháng sau đêm hoa chúc, Reiko thực tình tràn trề hạnh phúc, khi nhận biết điều ấy, trung úy cũng sung sướng như cô.

Thân thể Reiko trinh tiết trắng ngần. Biết chống cự mãnh liệt như muốn giữ gìn vẻ thanh khiết nhưng vừa thuận tình là bộ ngực e ấp tròn trịa đã hào phóng toả ra hơi ấm. Ngay cả trên giường, cả hai vợ chồng đều nghiêm trang đến sợ. Trên tột đỉnh điên cuồng nhất của nỗi say đắm cùng cực, họ cũng giữ con tim nghiêm chỉnh trong trắng.

Trong ngày, trung úy nghĩ đến vợ vào lúc tạm nghỉ tập huấn, và suốt ngày ở nhà, Reiko hình dung bóng dáng chồng. Ngay cả lúc vắng anh, cô chỉ cần nhìn tấm hình cưới để nhận chân hạnh phúc của mình. Reiko không mảy may ngạc nhiên khi thấy người đàn ông chỉ mấy tháng trước còn hoàn toàn xa lạ, nay bỗng trở thành mặt trời mà toàn thể vũ trụ của mình xoay chuyển chung quanh.

Tất cả những điều đó đều có cơ sở đạo lý : theo điều dạy trong sắc lệnh về giáo dục của Thiên hoàng mà họ tuân phục, vợ chồng phải “sống trong sự hoà hợp”. Chẳng lần nào Reiko nói trái ý chồng, và viên trung úy không có dịp nào phiền trách vợ. Trên bàn thờ Thần Ðạo dưới cầu thang bên cạnh tấm bảng đề Thần Cung Hoàng Tộc (3) có đặt tấm hình Thiên hoàng với hoàng hậu, và đều đặn mỗi sáng trước khi tới nhiệm sở, trung úy cùng vợ dừng lại chỗ thiêng liêng này cúi đầu thật thấp. Nước cúng thay mỗi ngày, và nhánh cây thiêng sakaki (4) luôn luôn tươi xanh. Họ sống dưới sự phù hộ của thánh thần và từng chân tơ kẽ tóc trên người đều rung động một niềm hạnh phúc tràn trề.


Ba

Căn nhà Bộ trưởng bộ Tư pháp Saito nằm cùng trong khu; vậy mà hai người không nghe tiếng súng nổ tảng sáng ngày 26 tháng 2. Chỉ mười phút sau thảm kịch, hồi kèn gọi tập họp trong buổi bình minh ngập tuyết đã đánh thức viên trung úy. Nhảy vội khỏi giường không một lời, anh mặc quân phục, dắt thanh kiếm vợ trao rồi vội vã lao ra; đường sá phủ đầy tuyết và trời hãy còn đêm. Anh chỉ trở về chiều tối ngày 28.

Về sau nghe đài phát thanh, Reiko mới hiểu mọi chi tiết sự bùng nổ bạo lực thình lình ấy. Trong hai ngày tiếp đó cô đã sống một mình trong sự yên tịnh tuyệt đối, cửa kín then cài.

Trên gương mặt trung úy khi anh bước ra dưới tuyết, Reiko đã đọc thấy lòng quyết tử. Và cô lấy quyết định riêng mình là nếu chồng không trở về, cô cũng sẽ chết theo thôi. Cô bình tĩnh phân phát tài sản của mình. Chọn mấy tấm kimono trang trọng nhất để làm quà kỷ niệm cho các bạn thời thơ ấu và bạn học, gói ghém cẩn thận rồi viết tên với địa chỉ trên mỗi gói. Chồng thường ngăn cấm nghĩ tới ngày mai, Reiko không bao giờ viết nhật ký và mất đi cái thú đọc tới đọc lui rồi đốt dần các trang giấy ghi lại từng chi tiết hạnh phúc của mình mấy tháng sau này. Bên cạnh máy phát thanh là con chó nhỏ bằng sứ đứng cạnh nào thỏ, sóc, gấu, chồn. Có cả chậu hoa nhỏ và bình nước con. Reiko không sưu tập gì khác. Nhưng khó phân phát mấy món đó làm di vật, cho chúng theo vào quan tài bằng được thì cũng không đáng. Khi miên man như vậy, cô cảm thấy sắc diện các con vật kia càng u buồn xa xăm hơn.

Reiko cầm con sóc lên nhìn. Rồi tâm trí hướng về miền thăm thẳm cao xa, nơi có cái gì đáng cảm phục vượt lên hẳn quyến luyến quá trẻ con của mình, đó là cái nguyên tắc sáng rõ như mặt trời mà chồng cô hiện thân. Reiko sẵn sàng lao nhanh vào chỗ chết và sung sướng được tháp tùng chiếc linh xa chói lọi thái dương - nhưng trong vài giây phút cô đơn, cô dịu dàng thả lòng mình về những phù phiếm ngây thơ vô tội ấy. Xa quá rồi, cái thời cô thật sự yêu thích mấy món vặt vãnh đó. Từ nay chỉ còn yêu cái kỷ niệm là xưa kia đã từng yêu thích chúng, và chỗ các món ấy đã chiếm lĩnh trong tim cô thuở trước giờ đây tràn trề niềm đam mê mãnh liệt hơn nhiều với hạnh phúc điên cuồng... Bởi ngay cả tận đáy lòng Reiko cũng không bao giờ gọi tên những lạc thú nhục dục say sưa đêm ngày kia là khoái lạc. Cái lạnh tháng hai và sự tiếp xúc băng giá với con sóc bằng sứ làm tê cóng những ngón tay thanh tú; dù sao đi nữa, với ý nghĩ giây phút hai cánh tay mạnh mẽ chồng vươn ra chờ đón mình, cô cảm thấy trong phần thân còn lại, dưới làn lót có nét vẽ đều đặn của tấm kimono sít sao bằng tơ meisen, toát ra chất mồ hôi hâm hấp xác thịt nóng hổi làm tan được cả băng tuyết..

Cô không hề sợ cái chết đang trăn trở trong đầu. Chờ ở nhà một mình, Reiko tin rằng những gì chồng cảm nhận, ta thán, lo buồn hay suy nghĩ cũng đều đưa cô tới cái chết hoan hỉ - chắc chắn như quyền lực thịt da anh trên thân thể cô vậy. Có cảm tưởng mọi ý nghĩ dù nhỏ nhoi của chồng cũng sẽ dễ dàng biến chất loãng tan trong thân xác mình.

Lắng tai trước thông tin dồn dập trên đài phát thanh, cô nghe xướng tên nhiều bạn đồng ngũ của chồng trong số sĩ quan nổi dậy. Loại tin tức đó loan báo cái chết. Chăm chú theo dõi biến cố và khi tình hình ngày càng trở nên không thể đảo ngược, cô lo âu tự hỏi sao không có sắc lệnh của Hoàng gia can thiệp, để đến nỗi cái mà lúc đầu người ta xem là phong trào nhằm tái lập danh dự quốc gia lại dần dà biến thành điều ô nhục bị gọi là phiến loạn. Không tin tức gì từ trung đoàn. Dường như người ta có thể lại tác chiến bất cứ lúc nào trên đường phố còn đóng đầy tuyết.

Ngày 28 vào khoảng mặt trời sắp lặn, tiếng đập ầm ầm trên cửa ra vào khiến Reiko giật bắn người. Cô vội vã đi xuống. Vừa vụng về kéo ổ khoá và thoáng thấy lờ mờ qua lớp kính dày một bóng người lặng lẽ, cô biết là chồng. Chưa bao giờ ổ khoá cứng đến vậy. Nó không chịu nhường bước. Cửa không chịu mở.

Giây sau, khi cô vừa biết mình mở được cửa thì trung úy đã đứng bên cạnh trên nền xi măng tiền sảnh, cổ rụt vào tấm áo choàng ka ki, đôi ủng dính bùn nặng cứng. Anh đóng cửa lại sau lưng và đẩy chốt khoá. Cử chỉ này nghĩa là gì? Reiko không hiểu.

- Anh mới về.

Reiko cúi người thật thấp nhưng chồng không đáp. Vì anh vừa tháo kiếm và sắp cởi áo choàng, Reiko vòng ra sau giúp anh. Tấm áo ẩm lạnh không còn mùi phân ngựa bình thường vẫn toát ra dưới nắng, trĩu nặng trên tay cô. Treo lên móc, ôm chặt chiếc dây nịt da và cây kiếm trong đôi tay áo rộng, chờ chồng tháo ủng để cùng anh lên phòng khách. Ðấy là căn phòng sáu chiếu ở tầng trệt.

Dưới ánh đèn, khuôn mặt chồng phủ lớp râu quai nón dày đã hai ngày không cạo trông hốc hác tiều tụy khó nhận ra. Má hõm vào mất vẻ tươi sáng rắn rỏi. Thường thì anh thay đồ ngay và đòi ăn tối, nhưng lần này cứ ngồi trước bàn, vẫn còn mặc quân phục, đầu cúi thấp, nặng trĩu âu lo. Reiko không dám hỏi có phải làm cơm tối không. Một lát, anh nói :

- Anh hoàn toàn không biết gì hết. Họ không thèm rủ anh nhập bọn. Chắc tại vì anh mới đám cưới. Kano, Homma nữa, và cả Yamaguchi.

Reiko thấy lại trong chốc lát khuôn mặt các sĩ quan trẻ đầy nhiệt tình, những người bạn của chồng thỉnh thoảng mời về nhà.

- Có thể ngày mai Thiên Hoàng sẽ xuống chiếu. Anh nghĩ họ sẽ bị gọi là bọn phiến loạn. Anh sẽ được giao quyền chỉ huy một đơn vị và nhận lệnh tấn công họ... Anh không làm được. Không thể nào làm một việc như vậy.

Rồi tiếp :

- Người ta miễn phiên gác của anh cho phép về nhà đêm nay. Nhưng sáng mai, nhất định, anh sẽ phải trở lại để tấn công họ. Anh không làm thế được, Reiko.

Reiko ngồi thẳng thớm, mắt nhìn xuống. Cô hiểu rõ ràng chồng nói về cái chết. Viên trung úy đã dứt khoát. Bắt rễ từ cái chết, mỗi lời anh mạnh bạo nhả ra ý nghĩa trọn vẹn của nó, sáng rõ như được ghi trên nền đen bất động. Mặc dầu trung úy nói như thể còn bị đặt giữa hai con đường phải chọn, nhưng thâm tâm anh không có chỗ cho lòng do dự.

Dù sao, sự im lặng giữa hai người có cái gì rất minh bạch, như nước trong vắt của giòng suối từ băng tuyết tan. Ngồi trong nhà mình sau hai ngày dài thử thách, lần đầu tiên trung úy cảm thấy yên ổn thực sự. Vì anh hiểu ngay rằng vợ đã đoán biết quyết định của chồng ẩn sau lời nói, dù cô không phát biểu chi cả.

Ðôi mắt trung úy mở thật to. Dù mệt mỏi cùng cực, cái nhìn của anh vẫn mạnh mẽ trong sáng, và lần đầu tiên chiếu thẳng vào mắt vợ. “Vậy thì.... tối nay anh sẽ mổ bụng”.

Reiko không hề dao động.

Cái nhìn bình tĩnh của cô căng ra tựa sợi dây đàn đánh âm cao. Cô nói :

- Em đã sẵn sàng. Em xin phép được theo anh.

Viên trung úy cảm thấy gần như bị thôi miên trước sức mạnh ánh mắt cô. Anh trả lời nhanh chóng dễ dàng như người ta nói trong cơn mê sảng; và chính anh cũng không hiểu làm sao một sự xin phép nặng nề hậu quả dường ấy lại có thể được chấp thuận nhanh nhẹ dường này :

- Ðược rồi. Chúng ta sẽ cùng ra đi. Nhưng trước hết anh cần em làm nhân chứng cho sự tự sát của anh cái đã. Em hiểu không?

Khi điều đó thốt ra, một niềm hạnh phúc mãnh liệt bất ngờ bao phủ lấy hai người. Tim Reiko xúc động mạnh trước lòng tin cậy trọng đại của chồng. Ðiều chính yếu đối với trung úy là, dù gì xảy ra sau này chăng nữa, cái chết của anh phải hoàn toàn đúng nghi thức. Cần phải có người chứng kiến. Sự kiện chọn vợ là bằng cớ thứ nhất của lòng anh tin cậy. Biểu hiện thứ hai còn quan trọng hơn, là sau khi đã cam kết với nhau cùng chết anh không có ý định giết vợ, là anh đã trì hoãn cái chết của vợ cho đến lúc chính mình không còn sống nữa để kiểm chứng. Nếu trung úy là người chồng đa nghi, chắc chắn anh sẽ phải giết vợ trước, như trường hợp thông thường khi hai người cùng tự vẫn.

Khi Reiko nói “Em xin phép được theo anh”, trung úy có cảm tưởng lời ấy là kết quả sự dạy dỗ chính anh đã gieo cấy từ đêm tân hôn, khi dạy vợ phải nói thẳng những gì phải nói, không ngần ngại khi đúng lúc. Anh cảm thấy tự hào về cách hành xử của mình. Bởi vì dù không hợm mình cũng không lãng mạn, anh không hề tưởng tượng rằng lời lẽ Reiko có thể tới một cách bộc phát từ lòng yêu chồng.

Ðôi tim tràn trề hạnh phúc khiến họ không thể không mỉm cười với nhau. Reiko tưởng như đang sống lại đêm ngày trăng mật.

Trước mắt cô không có đau khổ cũng chẳng có chết chóc. Chỉ thấy cảnh sắc tự do vô biên mở ra trên chân trời vô tận.

- Nước nóng rồi. Anh muốn tắm bây giờ chưa?

- Thế à, tắm chứ.

- Rồi ăn tối?

Mấy tiếng đó phát ra với giọng trầm tĩnh thân mật đến nỗi trong tích tắc, trung úy suýt tưởng tất cả những gì đã xảy ra chỉ là ảo giác.

- Anh nghĩ mình không cần ăn tối. Nhưng có lẽ nên hâm chút saké?

- Tùy anh.

Ðứng dậy lấy áo choàng tắm cho trung úy, Reiko cố tình khiến chồng để ý những gói quà trong ngăn kéo. Anh đứng lên bước tới bên tủ áo nhìn. Anh đọc từng địa chỉ ghi trên mỗi món kỷ niệm đã được bao bọc sắp xếp cẩn thận. Bằng chứng này của sự dũng cảm và dứt khoát không khiến buồn mà lại làm tim anh tràn ngập yêu thương. Như người chồng được cô vợ trẻ phô khoe những món quà thơ dại, sau lưng cô, viên trung úy quàng tay ôm vợ hôn lên gáy.

Reiko cảm thấy chiếc cằm chồng xù xì râu không cạo áp vào gáy. Thay vì chỉ giản dị là một trong muôn chuyện ở đời, cái cảm giác này đối với cô không chỉ như gói ghém toàn thể cuộc sống, mà còn - bởi vì cô biết mình sắp mất nó vĩnh viễn -, chiếm hữu cô dữ dội hơn bao giờ. Mỗi giây phút trôi qua đều mang lại nét gì mới mẻ với mãnh lực đặc biệt, và đánh thức mọi giác quan trong mỗi phần cơ thểâ. Ðón nhận mơn trớn của chồng không động đậy, Reiko nhón mình trên đầu ngón chân trong đôi tất vải, cho khoái cảm túa tràn khắp mọi sớ thịt.

Trung úy thì thầm bên tai vợ :

- Tắm cái đã, rồi uống chút saké... rồi thì mở giường trên nhà ra, em nhé?

Reiko im lặng thuận tình.

Trung úy cởi bỏ quân phục đi tắm. Reiko vừa lắng nghe tiếng nước khuấy, vừa kiểm lại lửa trong lò sưởi phòng khách và bắt đầu hâm rượu saké; rồi, cầm áo khoác tắm, sợi dây lưng và đồ lót, cô vào phòng tắm xem nước đã đủ nóng chưa. Giữa làn hơi nước, trung úy đang cạo râu, ngồi bệt dưới đất, chân co vào hai đầu gối mở rộng, bắp thịt trên chiếc lưng trần khoẻ mạnh ẩn hiện ăn nhịp với động tác cánh tay.

Tất cả những thứ đó không mang ý nghĩa đặc biệt nào lúc này. Reiko chú ý đến công việc mình, sửa soạn mấy món nhắm. Tay không run. Cô còn làm việc dễ dàng chính xác hơn thường lệ. Thực ra, thỉnh thoảng một nỗi lo âu kỳ lạ dấy lên làm tim đập mạnh. Như tia chớp từ xa, có cái gì dữ dội đâm vào cô rồi biến ngay không dấu vết. Ngoài điều đó ra, không có chi khác thường cả.

Ngồi cạo râu trong phòng tắm, thân thể ấm lên, cuối cùng trung úy cảm thấy cơn mệt mỏi tuyệt vọng xác thân được chữa lành một cách thần diệu khỏi dày vò đắn đo do dự, anh còn thấy khơi lên sự chờ đợi hân hoan, bất chấp cái chết đang đón chờ mình. Anh nghe văng vẳng tiếng vợ di động ở phòng bên. Nỗi ham muốn mãnh liệt lành mạnh bỗng bộc phát sau hai ngày ròng quên lãng.

Trung úy tin chắc không có gì bẩn đục trong niềm hoan lạc mà cả hai cùng cảm thấy khi quyết định sống chết có nhau. Mặc dù tất nhiên họ không ý thức được gì rõ ràng, lúc ấy cả hai cùng nhận biết một lần nữa rằng những lạc thú mà họ chia sẻ trong phòng the vẫn luôn luôn được đặt dưới sự che chở của Thánh Thần, rằng Thiện Tâm và Ðạo Lý là bảo đảm của họ. Khi cùng nhìn nhau để phát hiện trong mỗi ánh mắt lòng quyết tử cao cả, một lần nữa họ lại có cảm giác an toàn sau những bức tường thép vững chắc, được bảo vệ bởi chiếc áo giáp không thể xuyên thủng của Chân và Mỹ. Ðến nỗi trung úy không hề nhìn thấy mâu thuẫn hay xung khắc nào giữa đòi hỏi xác thịt và sự chân thành của lòng ưu quốc, mà chỉ trông thấy ở đó hai mặt của cùng một hiện thực.

Ghé mặt thật sát tấm gương tối rạn men mờ mờ hơi nước trên tường, trung úy chăm chú cạo râu. Ðó sẽ là gương mặt anh mang khi chết. Không nên để sót dấu vết khó ưa nào. Khuôn mặt sạch nhẵn đã tìm lại nét rạng rỡ tuổi trẻ dường như làm sáng hẳn tấm gương mờ. Anh tự nhủ, đặt cạnh bộ mặt tử thần, gương mặt chói chang sức khoẻ này hẳn phải thanh lịch lắm.

Diện mạo anh bây giờ thế nào thì khi chết cũng sẽ thế đó. Trên thực tế nó đã thoát ly trung úy một phần rồi, không còn hoàn toàn thuộc về anh nữa : đấy là bức tượng bán thân sẽ đặt trên mộ quân nhân. Anh thử nhắm mắt lại. Tất cả đều bị bóng đêm bao phủ, anh không còn là sinh vật sống và thấy nữa.

Từ phòng tắm ra, vết dao lướt trên hàm râu mới cạo hãy còn ánh trên đôi má bóng láng, anh ngồi xuống cạnh lò sưởi nhỏ. Ðể ý thấy Reiko dù bận bịu cũng tìm ra chút thời giờ tô nhẹ phấn son. Ðôi má bong bóng môi ươn ướt. Không thấy nơi cô dáng vẻ u buồn nào. Trước bằng cớ tánh khí cô vợ trẻ, viên trung úy tự nhủ thực ra anh đã chọn đúng người vợ mà anh phải chọn lựa.

Vừa uống xong ngụm saké, anh chìa ngay cho vợ. Reiko chưa bao giờ uống rượu nhưng đón nhận không do dự và bẽn lẽn ghé môi.

Trung úy gọi : “Ðến đây!”

Reiko tiến sát bên chồng, anh vòng tay ôm rồi lật nhào cô lên đầu gối. Ngực bừng lửa như thể nỗi buồn, niềm vui và rượu mạnh pha lẫn đang ẩu đả trong cô. Trung úy nghiêng đầu nhìn mặt vợ. Ðây là khuôn mặt cuối cùng anh nhìn thấy trong thế gian này, khuôn mặt đàn bà nhìn thấy lần chót trên đời. Trung úy chăm chú quan sát với cặp mắt của du khách nói lời vĩnh biệt cảnh quang khả ái mà mình sẽ không bao giờ tái viếng. Ðó là gương mặt anh nhìn không biết chán - đường nét đều đặn không tẻ lạnh, môi dịu dàng đầy đặn khép hờ. Trung úy bất giác đặt lên đôi môi ấy nụ hôn. Và thình lình, mặc dầu khuôn mặt kia không hề biến dạng vì tiếng nấc đáng hổ thẹn, anh thoáng thấy những giọt lệ chói ngời dưới hàng mi dài đang chầm chậm thoát khỏi đôi mắt khép, đầm đìa, tràn lan.

Lát sau khi anh đề nghị về phòng ngủ, Reiko trả lời tắm xong cô sẽ theo anh ngay. Lên thang lầu một mình và trong căn phòng đã sưởi ấm bằng ga, anh soãi người trên chiếc giường vừa mở, rướn duỗi tay chân. Ngay cả giờ khắc chờ đợi vợ như vậy cũng là thời điểm bình thường, không sớm hơn cũng chẳng muộn hơn thường lệ.

Ðan chéo tay dưới gáy, anh ngắm những cây mè đen trên trần nhà ngọn đèn chong không chiếu tới. Anh đang chờ đợi cái chết chăng? Hay sự say sưa nhục cảm điên cuồng? Cái này quấn quyện vào cái kia như thể đối tượng của ham muốn nhục thể cũng chính là cái chết. Dù sao chắc chắn là trung úy chưa bao giờ cảm thấy hoàn toàn tự do siêu thoát như vậy.

Có tiếng gầm gừ máy xe dưới phố, tiếng bánh xe hơi nghiến rào rạo trên tuyết đổ dọc bên vệ đường, tiếng kèn xe chạm tường dội lại. Trung úy có cảm tưởng nhà mình là ốc đảo cô đơn trong đại dương xã hội vẫn náo động như thường lệ. Chung quanh anh trong khoảng bao la hỗn độn, trải dài suốt miền đất nước đã làm anh đau khổ. Anh sắp hiến thân cho nó. Nhưng cái đất nước vĩ đại mà anh sẵn sàng can gián đến độ sắp hủy hoại đời mình này, liệu nó có màng đến dù chỉ là cái chết của anh chăng? Anh không biết; mà thôi mặc kệ. Anh sẽ chết trên một chiến trường không vinh quang, nơi chẳng ai có thể lập chiến công, vì đấy là cuộc chiến đấu tinh thần.

Bước chân Reiko vang vang trên cầu thang. Bậc gỗ khô cứng căn nhà cũ kêu cọt kẹt. Tiếng động này gợi lên bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, đã rất nhiều lần anh nằm trên giường hân hoan chờ đợi nó. Với ý nghĩ sẽ không bao giờ còn nghe thứ tiếng ấy nữa, anh chăm chú gấp đôi để âm vang bước chân dịu dàng lên thang lấp đầy từng phút từng giây của thời gian quý báu còn lại. Mỗi khoảnh khắc trở thành một hạt trân châu ngời sáng.

Reiko quấn thắt lưng đỏ siết chặt eo tấm yukata, nhưng ánh sáng yếu làm màu bớt thắm khi trung úy đưa tay, Reiko giúp anh tháo nút buộc và chiếc thắt lưng lỏng ra buông xuống chiếu. Reiko đứng trước mặt anh, mảnh yukata vẫn còn trên người. Chồng luồn tay vào khe dưới tay áo siết cô vào người; khi đầu ngón vừa chạm vào da thịt trần nóng bỏng, bàn tay vừa siết vào nách là cả thân thể anh bốc lửa.

Lát sau cả hai trần truồng nằm trước ánh lò ga nóng sáng.

Không ai nói lời nào nhưng ý nghĩ đó là lần cuối cùng khiến tim họ đập mạnh, lồng ngực muốn vỡ tung. Như thể những tiếng "yêu nhau lần cuối" vô hình đã được viết rõ ràng trên từng phân từng ly thân thể.

Trung úy kéo vợ áp sát mình hôn tới tấp, vũ bão. Lưỡi họ mơn man tìm kiếm nhau đến từng ngõ ngách trơn ướt trong miệng; chẳng khác nào ngọn lửa tôi thép, nỗi đau về cái chết hãy còn xa lạ thổi rực giác quan họ. Những đau đớn còn chưa cảm biết, nỗi kinh hoàng của cơn hấp hối còn xa xôi khiến sự đón nhận khoái cảm càng thăm thẳm.

Trung úy nói : "Ðây là lần cuối anh nhìn thấy thân thể em. Nằm yên anh ngắm". Và anh nghiêng chao đèn cho ánh sáng chiếu dọc suốt người Reiko đang duỗi dài.

Reiko nhắm mắt nghỉ yên. Ánh sáng thấp ngọn đèn chiếu hiện những đường cong đài các thịt da nõn nà. Với đôi chút ích kỷ, trung uý mừng là mình sẽ chẳng bao giờ phải chứng kiến cảnh tượng sự kiều diễm ngần ấy tan nát trước tử thần.

Thật nhẩn nha, anh để quang cảnh khó quên này khắc sâu vào trí nhớ. Tay luồn vào tóc, tay kia ve vuốt dịu dàng gương mặt yêu kiều, anh đặt môi hôn lên bất kỳ nơi nào ánh mắt mình nấn ná. Chiếc trán cân đối mát mẻ trầm lặng như đỉnh ngọn Phú Sĩ, riềm mi dài dưới đôi mày mỏng trên cặp mắt nhắm, sống mũi thanh tú, hàm răng bóng ngời giữa môi mọng đều đặn, hai má mềm mại và chiếc cằm ngoan xinh xinh... tất cả những nét ấy gợi lên trong đầu trung úy hình ảnh gương mặt người chết thật rạng rỡ, và không ngừng đặt môi lên chỗ hũng của cổ họng trắng ngần - nơi rồi đây tay Reiko sẽ đâm vào -, yết hầu cô hực đỏ vì những miếng hôn. Rồi anh trở lại miệng, môi anh mơn trớn từ phải sang trái, từ trái qua phải, tròng trành như chiếc thuyền con. Anh nhắm mắt, cả vũ trụ chao theo.

Mắt anh lướt đến đâu, đôi môi theo sát đến đấy. Cặp vú căng cứng khi trung úy cắn nhẹ đầu nhũ hoa hồng tươi như nụ anh đào dại. Hai bên ngực, đôi tay bóng nhẵn tròn trịa cân đối duỗi dài rồi thuôn dần ở hai đầu, nơi những ngón tay thanh tú cầm quạt ngày cưới, đang từ từ khép lại. Mỗi bận trung úy đặt môi hôn, từng ngón tay lại bẻn lẽn gấp vào... Chỗ đi từ ngực xuống bụng càng lúc càng hẹp, nơi thắt đáy, đường cong vừa căng vừa mềm bỗng gấp lại không muốn cho thể xác quá buông thả trước khi toả về phiá mông hứa hẹn thể khối no tròn. Bụng và mông lấp lóe màu trắng sáng của ly sữa tràn đầy. Bóng mờ đột ngột chấm rốn tựa giọt mưa bỗng từ đâu rơi xuống cùng lúc, đậm đen dần nơi nở ra mảng lông mềm mại, và khi thân thể không còn thụ động nữa, cứ mỗi khoảnh khắc kích thích một mùi hương ấm nóng lại thoang thoảng nhả ra.

Cuối cùng Reiko nói giọng run rẩy :

- Ðể em xem... Em cũng muốn được ngắm anh, lần cuối.

Chưa bao giờ anh nghe một đòi hỏi mãnh liệt rõ ràng như vậy từ miệng vợ. Như thể cái gì đó mà đức hạnh Reiko muốn che dấu tới cùng đã xô vỡ mọi bờ chắn. Trung úy ngoan ngoãn duỗi người phó mặc cho vợ. Run rẩy ngồi lên, mềm mại trắng trẻo, thiêu đốt với khát khao vô tội là đáp đãi lại ve vuốt của chồng, cô đặt hai ngón tay lên đôi mắt đang đau đáu nhìn mình, nhẹ nhàng khép chúng lại.

Ðôi má hừng hực thứ cảm xúc quay cuồng, Reiko bất thần choàng hai tay ôm đầu chồng, rối loạn thắm thiết. Tóc trung úy ngắn cứng như bàn chải chích vào đồi ngực. Cô cảm giác trên làn da mình sống mũi mát lạnh cùng lúc với hơi thở ấm. Cô dang ra để nhìn rõ gương mặt rắn rỏi của chồng. Ðôi mày nghiêm nghị, cặp mắt khép, vòng mũi cong tuyệt vời, đôi môi đậm chắc mím chặt, hai má rạng rỡ điểm đốm xanh dấu dao cạo lướt qua. Reiko đặt môi lên đấy, trên chiếc cổ rộng, trên đôi vai thẳng và đầy, trên quầng ngực cường tráng vồng lên như đôi khiên với hai núm vú đo đỏ ở đầu. Từ nách và chùm lông chìm khuất dưới cơ bắp to chắc của vai và ngực toát ra mùi dìu dịu buồn buồn; như thể từ nơi êm ái này rỉ ra, bằng cách nào không biết, tinh chất của sự yểu mệnh. Làn da trần trung úy ánh ngời như đồng lúa mạch chín vàng, trên khắp người bắp thịt chắc nịch nổi lên lồ lộ rồi cùng tụ lại trên bụng, quanh chấm rốn nhỏ kín đáo. Nhìn chiếc bụng trẻ trung săn sắt lặng lẽ chìm dưới lớp lông rậm này, tự nhủ chỉ lát nữa thôi nó sẽ bị mũi kiếm đâm rách thô bạo, Reiko nức nở hôn trùm lên với nỗi thương xót não người.

Khi cảm nhận nước mắt vợ, trung úy biết là anh đã sẵn sàng chịu đựng với tất cả can đảm những đau đớn khủng khiếp nhất của cuộc tự vẫn.

Sau mơn trớn đó, người ta có thể mường tượng nỗi say đắm nào sẽ cuồn cuộn họ vào cuộc giao hoan. Trung úy nhổm lên ghì chặt cô vợ đã kiệt sức vì đau khổ và nước mắt. Má kề má, họ mê mẩn quấn chặt nhau. Reiko run rẩy. Ngực họ hâm hấp mồ hôi bám sát, mỗi gang tấc của một trong hai thân thể trẻ trung đẹp đẽ này hoà quyện vào thân thể người kia hoàn hảo đến độ tưởng chẳng bao giờ có thể cách ly được. Reiko rên rỉ. Từ đỉnh cao nhào xuống đáy vực sâu, rồi từ vực sâu họ lại chắp cánh bay lên đến những độ cao chóng mặt. Viên trung úy thở hổn hển như sĩ quan vác cờ sau chiến dịch dài. Chu kỳ như vậy vừa chấm dứt thì cơn sóng khác lại trào lên, và họ lại cùng đưa nhau lên đỉnh sóng trong cùng một hơi thở và cử động, không dấu hiệu mỏi mệt nào.


Bốn

Cuối cùng rồi trung úy cũng rời Reiko, không phải vì kiệt lực. Một phần không muốn mất sức mà anh biết là sẽ cần nhiều để hoàn tất việc tự sát. Phần khác, để khỏi tự trách đã làm hỏng cuộc ái ân êm dịu cuối cùng chỉ vì quá thoả.

Vì trung úy ngừng, Reiko cũng theo gương anh với sự phục tùng thường lệ. Cả hai trần truồng, nằm ngửa chăm chú nhìn những mảng tối trên trần, tay đan ngón vào nhau. Chiếc lò sưởi toả ấm căn phòng và họ không cảm thấy lạnh ngay cả khi thân thể không còn trĩn mồ hôi nữa. Bên ngoài, tiếng di động ồn ào cũng im bặt trong đêm thanh vắng. Tiếng rì rầm tàu lửa và tàu điện quanh ga Yotsuya không tới tận nhà: sau khi dội vào hệ thống thành lũy hố hào, cái ồn ào mất hút trong khu đất trồng cây dọc đại lộ trước điện Akasaka. Khó lòng tưởng tượng lại sự khẩn trương đã bao trùm cả khu phố, nơi hai thành phần thù địch của quân đội Hoàng gia tự xâu xé một cách đắng cay đang đợi chờ phút giây chạm súng.

Tận hưởng hơi ấm bao quanh, họ nghỉ ngơi và sống lại từng chi tiết phút giây hạnh phúc. Hồi tưởng không chán hương vị từng miếng hôn, sự cọ xát thịt da trần trụi, và mỗi người từng cơn chóng mặt tuyệt vời. Nhưng từ giàn gỗ đen chống đỡ trần nhà, tử thần đã giương mắt nhìn. Niềm hoan lạc lần này là cuối cùng rồi, và hai thân thể sẽ không bao giờ còn nếm biết niềm đời ấy nữa. Nhưng hoan lạc mãnh liệt dường ấy - cả hai cùng lúc nghĩ như nhau - chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nữa, cho dù sống đến cả trăm năm.

Sự êm ái ngón tay âu yếm lồng vào nhau cũng sẽ mất đi. Ngay cả đường nét và nút gút sớ gỗ tối tăm trên trần nhà họ đang cùng ngắm cũng sẽ không còn nữa. Họ cảm thấy cái chết đến cận kề từng bước. Không nên chần chờ thêm. Phải có can đảm đứng trước nó, chiếm lĩnh nó.

Trung úy nói : “ Nào, chúng ta sửa soạn đi!”. Sự dứt khoát trong giọng nói chồng quá hiển nhiên, nhưng chưa bao giờ Reiko nghe thấy nơi anh sự nồng nàn ngọt ngào dường ấy.

Vừa đứng lên họ có bao nhiêu việc phải làm.

Trung úy trước đấy chưa hề giúp vợ thu dọn chăn giường, vui vẻ đẩy cửa tủ hốc tường, tự mình cuộn tấm nệm lại mang xếp vào.

Reiko tắt sưởi ga và đẩy lui đèn chong. Trong khi chồng vắng nhà, cô đã cẩn thận chăm sóc căn phòng, quét dọn, lau bụi, và nếu người ta không lưu ý đến chiếc bàn gỗ huê mộc trong góc, căn phòng tám chiếu tạo cảm tưởng đây là phòng tiếp tân sẵn sàng đón rước khách quý.

- “ Mình đã nhiều lần ngồi uống ở chỗ này em nhỉ ? Với Kanô, cả Homma và Noguchi...”

- “ Vâng, các anh ai cũng uống nhiều.”

- “ Mình sắp gặp lại họ ở thế giới bên kia. Chắc chắn các bạn sẽ trêu tụi mình khi thấy anh mang em theo”.

Khi xuống cầu thang, trung úy quay lại nhìn căn phòng yên tĩnh sạch sẽ, giờ đây sáng rực dưới ánh đèn trần nhà. Khuôn mặt những sĩ quan trẻ đã từng cạn ly cười đùa vô tư lướt qua đầu anh. Chưa bao giờ anh nghĩ hôm nào đó mình sẽ mổ bụng trong căn phòng này.

Ở hai căn từng dưới, đôi vợ chồng âm thầm chuẩn bị. Trung úy vào phòng vệ sinh, xong vào phòng tắm rửa ráy. Trong khi đó Reiko xếp áo choàng lót vải bông của chồng, dọn sẵn trong phòng tắm bộ quân phục, cái khố rộng mới bằng vải bông trắng, và đặt trên bàn phòng khách giấy mực để thảo thư vĩnh biệt. Rồi mở nắp hộp đựng nghiên mực bắt đầu mài. Về phần thư mình, cô biết là sẽ viết gì rồi.

Tay cô ấn mạnh mặt dát kim nhũ vàng lạnh của thỏi mực, nước trong chung nhỏ trở đen tức khắc như thể đám mây nào toả ra trong ấy. Cô thôi không thầm nhủ nữa rằng động tác của các ngón tay, sự cà cọ và tiếng nghiến kin kít khe khẽ kia, tất cả các thứù đó chỉ chuẩn bị cho cái chết. Cần phải xem đấy như việc nhà, một việc đánh dấu thời gian một cách bình thường cho đến cái chết. Vậy mà khi mài mực càng lúc càng nhẹ nhàng trên nghiên, mùi xông lên từ chung mực mỗi lúc mỗi đen vẫn làm nẩy sinh một cách lạ kỳ bao u ám không tả xiết.

Gọn gàng trong bộ quân phục sít sao, trung úy ra khỏi phòng tắm. Không một lời, anh ngồi xuống bàn, ngực thẳng, tay cầm cọ, mắt đăm chiêu nhìn tờ giấy trắng trước mặt.

Reiko đã mang vào phòng tắm chiếc kimono lụa trắng. Khi trở ra phòng khách với tấm kimono trắng trên người và lớp phấn mỏng trên má, lá thư vĩnh biệt viết xong đã nằm trên bàn dưới ánh đèn. Hàng chữ đậm nét chỉ ghi giản dị :

“Quân...
Liêu thái thái
#17 Posted : Wednesday, February 16, 2005 6:39:47 PM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)

http://amvc.free.fr/Damvc/Mieng/Mieng.htm

Xin giới thiệu luôn Ăn Mày Văn Chương Cooling với chư vị :

http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieuDamvc.htm

RoseRoseRose
Phượng Các
#18 Posted : Tuesday, June 28, 2005 8:36:35 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Bà Goá

Hwang Sun-Won
người dịch: Miêng

Bà Hàn rất hãnh diện là trong đời, không một người đàn ông nào sờ được vào thân thể bà, dù chỉ là một lọn tóc. Hồi mười lăm tuổi - cái tuổi hãy còn vô tư - bà đã được hứa hôn với con trai cả cụ Kim, bậc danh giá trong làng. Trước lễ cưới ít lâu, người con trai té cây chết. Cụ Hàn bố, cứ nhắc nhở là « trung thần bất sự nhị quân », tôi trung không thờ hai chúa, cho nên « tiết phụ bất tòng nhị phu », gái tiết không thờ hai chồng :



kết luận, cụ ra lệnh con để tang chồng ba năm tròn. Mãn tang, cụ gửi con về nhà chồng dĩ nhiên chẳng còn chồng nữa. Cô gái lớn lên và già ở đó, goá bụa và trinh trắng, đầy phẩm hạnh, mòn nhẵn với thời gian như viên sỏi bị nước mài dũa, cho đến năm vào tuổi bảy mươi.

Từ khi nào chỉ có trời mới biết, bà Hàn coi đàn ông là đồ vật bẩn thỉu. Bây giờ cũng vậy, tuy đã thất tuần, bà rất nhạy cảm trước mùi đàn ông và bày tỏ vẻ ghê tởm bằng cách nhíu mày. Ai mà có mùi mồ hôi thì được bà mời tránh xa, khỏi phải màu mè.

Bà cũng không thích trẻ con, có lẽ tại thói quen lâu ngày của cuộc đời đơn độc. Từ lâu, bà con trong họ đã vận động thu xếp để bà nuôi một trong những đứa cháu, nhưng bà không nhận.

Trẻ nhỏ - tụi nó đánh hơi thần kỳ - cũng không ưa gì « bà cô » thiếu ngọt ngào này. Một hôm, mấy đứa cháu gái đòi bà kể chuyện...



- Ngày xưa, có nhiều chuyện ghê gớm xảy ra...



- Chuyện gì vậy bà ?



- Ban đêm, họ bắt cóc mấy bà goá.



- Thiệt hả bà ? Mà ai bắt cóc họ vậy ?



- Mấy tụi lưu manh...



- Mà tại sao chớ ?



- Ðể hiếp họ.



- « Hiếp » là gì bà ?



- À cái đó, tụi con không cần biết, tụi con... Ban đêm bà rất sợ, bà run...



- Bà ? Mà tại sao lại là bà ?



- Bởi vì họ ưa bắt cóc những cô xinh xắn.



- Nhưng bà là bà cô già mà ?



- Thời đó bà rất xinh. Bà phải bôi lọ lên cho thành xấu xí đi.



- Thiệt hả bà ?



Bà lại kể cùng câu chuyện này cho các cháu gái trong dịp khác. Mới đầu thì chúng còn hỏi tới hỏi lui vì tò mò. Nhưng rồi cứ nghe hoài một chuyện, thét chúng nản, cảm thấy bị bà dùng làm thính giả bất đắc dĩ, chán ngắt, nên tìm cách tránh.



Bà Hàn than phiền là tụi con gái thời nay đứa nào cũng xảo trá vô dụng, rồi rút về phòng nằm dài. Phòng bà luôn luôn ngăn nắp. Bà thường trực tự lau chùi dẫu tìm ra người làm không khó khăn gì. Vì sống một mình, bà bị ám ảnh về mục vệ sinh ngăn nắp, cho chính bà và người chung quanh.



Toàn thị tộc họ Hàn kính trọng bà, niềm kính trọng lớn theo đối với những người có tuổi. Bà là người lớn tuổi nhất trong họ, lại nữa bà là con cháu của chi phái cả họ Hàn.



Tuy đã già nhưng tuổi tác không đánh dấu mấy trên mặt bà. Tầm vóc bề thế của bà làm người ta không chú ý mấy đến lời bà phàn nàn. Thời son trẻ chắc bà không có cái đẹp tế nhị và mong manh. Và thường như ở những người đàn bà không hề sinh nở, lưng bà không còng, mắt không xếp nếp, mũi và tai vẫn giữ được vẻ thanh tú. Vết nhăn trên mặt không sâu lắm và gân bàn tay hãy còn mềm mại.



Khi buồn chán, bà thường đi thăm cô em dâu họ xa ở làng dưới.



Cô « em dâu » này, bà Phúc, cũng goá nhưng không còn trinh. Hồi mười bảy tuổi bà đã có chồng, là em bà con của bà Hàn. Người chồng mới mười hai tuổi. Hai năm sau, ông chết vì bệnh dịch.



Người đàn bà goá sống với bố mẹ chồng trong gần hai mươi năm trời. Khi ông bố chồng trút hơi thở cuối cùng, bà cất một túp nhà tranh ở làng dưới để canh tác đất đai. Mặc dù trẻ hơn bà Hàn bốn năm tuổi, nhưng trông bà Phúc lại già hơn chị họ. Nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt da màu đồng và tay gân guốc như đàn ông.



Khi bà Hàn ở nhà bà Phúc và bà này muốn cắt trái bí, bà Hàn cầm phụ một tay. Hay khi bà Phúc ngồi vào xa bắt đầu kéo sợï, bà Hàn giúp quấn chỉ vào trục. Và nếu bà Phúc mỏi muốn nằm nghỉ thì bà chị họ cũng nằm bên cạnh chốc lát. Bà Hàn chẳng bao giờ quên tự hỏi tại sao cô em dâu họ mặc dầu chỉ có một thân một mình, chẳng phải lo cho ai, lại có thể để căn phòng bừa bộn đến thế.



Một hôm bà Hàn ghé thăm bà Phúc, nằm lại chơi một lát, và dầu trời không lạnh, bà cũng bị cảm. Gia đình cho người đi hốt thuốc Tàu ở ông lang cách đấy hai cây số.



Khi một trong những người cháu vào phòng bà với ấm thuốc trên tay, bà nói bất ngờ :



- Khi thím chết, mày chôn thím trên núi của tổ tiên nhé !



- Sao thím nói gở vậy ? Uống hết thuốc này là thím khoẻ liền mà.



Anh ta trả lời mà trong đầu thì nghĩ đúng rồi, một người già cỡ đó thì cũng như cái đèn sẽ tắt khi hết dầu thôi. Vậy thì tốt hơn hết là nhân cơ hội thuận tiện này phải hỏi ý kiến bà để giải quyết vấn đề cho xong :



- Khi thím mất, nếu mai táng thím cùng trong mộ chú con, thím nghĩ sao ? Ai cũng cho là vị trí mộ phần chú rất lý tưởng.



Bà Hàn tức thì chĩa cho thằng cháu cái nhìn nẩy lửa :



- Không bao giờ ! Tao biết đó là chồng tao, nhưng tao không muốn nằm cạnh ông ấy. Tại sao chết rồi tao lại đi gần một thằng đàn ông trong khi tao sống trinh tiết trong gần bảy chục năm trời ? Xương cốt ổng hẳn đã mục rữa rồi, không còn dấu vết gì. Trời đất, mộ của một thằng đàn ông ! Khiếp quá ! Tao không bao giờ muốn nghe nói chuyện đó nữa, mày hiểu chưa ?



Mặt bà đỏ rực lên như mặt con gái, không chỉ vì cơn sốt. Rồi bất chợt giật nẩy mình, bà la lên :



- Cút khỏi đây ngay ! Mày có cái gì hôi rình vậy ? Tụi đàn ông bây giống nhau quá, đứa nào cũng thối ! À cái mùi này ! Thật chịu không nổi !...



Tay bà làm dấu đuổi anh ta ra, mũi bà nhăn lại. Và không đợi gì thêm, bà quay lưng.



Sau ba ngày, bà Hàn có thể rời khỏi giường bệnh.



Hôm đó là một ngày xuân êm ả. Bà đi thăm cô em dâu. Bà ăn bận ấm áp, khoác áo choàng. Ðây là lần ra ngoài đầu tiên từ khi bị cảm.



Ðốt lửa trong bếp và quét nền đất xong, bà Phúc đặt bà Hàn nằm chỗ ấm nhất trong phòng.



- Dạo sau này hình như chị bị bệnh hả ?



- Ừ, bệnh ba ngày. Liền sau lần cuối ghé đây.



- Thường thì chị mạnh khỏe mà...



- À không, cũng chẳng còn bao lâu nữa đâu.



- Ðể chị coi, chị còn thọ hơn em.



- Mà sống lâu như vậy làm chi ? Từ đây tới đó còn vui thú gì nữa ? Nếu chết thì tôi cũng không có gì tiếc rẻ cả...



- Dầu sao, cả đời chị chẳng bao giờ có gì lo âu đau buồn cả.



- Ðúng vậy, cả đời tôi không biết xấu hổ là gì.



Bà Phúc tiếp tục xe sợi :



- Một bà goá, mất chồng khi còn trẻ mà sống như chị quả là ngoại lệ.



Bà Phúc ngừng tay chốc lát, vẻ mơ màng.



- Nhưng chị biết không, có một trường hợp khác xa của chị.



Bà vừa nói vừa hướng mắt về phía bà Hàn.



Ðất dưới gối vừa được quét sạch. Vậy mà bà Hàn khám phá ra có ít bụi, bà thổi đi, có vẻ phật ý. Cái nhìn của bà lướt từ những trái bầu trái bí chất đống trong góc tới đống giẻ rách rải rác trên chỗ đất ít được sưởi ấm. Làm sao nó có thể để căn phòng trong tình trạng như vầy khi mà nó chỉ một mình ?



Bà Phúc ngần ngừ như thể kể câu chuyện này là không phải, nhưng rồi cũng thốt ra :



Trong đời này, có một bà goá khác... Bà đã kết hôn với một cậu con trai, thực tế chỉ là một thằng bé con. Cậu chồng bé con của cô còn đi học, học chữ Tàu cổ. Cậu viết chữ rất đẹp. Cô ta thích chữ viết của chồng hơn là chính anh chồng. Ðối với cô, niềm vui duy nhất của cuộc hôn nhân là cất giữ cẩn thận những chữ viết của chồng.



Mùa hè sau ngày cưới hai năm, cơn dịch thương hàn làm chết nhiều người ở các làng trong vùng. Người chồng cũng không thoát khỏi. Cậu ta chết sau mười ngày bị sốt. Người vợ cố hết sức để cứu chồng : ngay cả chặt một ngón tay cho chồng uống máu tươi theo lời khuyên của các cụ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Cô mang tang chồng trong ba năm. Thỉnh thoảng đem những chữ chồng viết ra vừa lặng lẽ ngắm nghía vừa chua xót nghĩ tới thân phận mình.



Bố mẹ chồng cô là điền chủ khá giàu. Ðể giúp họ, cô làm lụng cực nhọc, ở nhà cũng như ngoài đồng.



Một năm trời đại hạn, mọi người trong gia đình đều phải góp hết sức mình để ngày đêm tưới nước cho đám ruộng gần con suối cạnh làng.



Một bữa khuya, người goá phụ trẻ chợt thức giấc. Cô nghe có tiếng động, hình như có người mở cửa phòng. Cô nằm bất động, câm lặng trong bóng tối. Cô cảm nhận rất gần hơi thở khan khản đàn ông. Cô thử ngồi lên : một sức mạnh đè lên ngực cô, sức nặng của hai bàn tay trai tráng. Cô muốn la lên nhưng có cái gì làm cô ngừng ngay lại : đó là mùi nước bùn, đến từ thân thể một người vừa tắm sông. Người goá phụ trẻ cảm thấy không còn sức lực.



Không nghi ngờ gì nữa, đích thị là anh ta rồi ! Từ mùa xuân, nông trại bố mẹ chồng có thêm hai cánh tay giúp sức của một người bà con xa. Mồ côi từ nhỏ, anh ta đi đó đây khắp các vùng xa xôi rồi trở về cố quận. Dù sao nông trại cũng cần người, cậu em trai chồng không thể kham nổi mọi việc một mình. Vậy là họ thuê anh.



Anh có dáng dấp dong dỏng cao, mũi rõ nét. Tánh tình trầm mặc ít lời, không bao giờ dính vào những cuộc trò chuyện tầm phào. Người ta nói anh đã từng làm tá điền ở nông trại nào đó trong một thời gian, nhưng vì không hạp với chủ, anh đã bỏ ông ta giữa ruộng trong một ngày đẹp trời rồi ra đi không thèm nhận tiền, dù là lương của rất nhiều năm.



Thỉnh thoảng cô và anh tình cờ gặp nhau, ví dụ trong sân, cái nhìn của người goá phụ trẻ bắt gặp cái nhìn của người đàn ông. Một cái nhìn rắn rỏi như chưa bao giờ cô có thể nhìn thấy trong mắt cậu chồng quá cố. Con tim goá phụ rộn ràng và mặt cô nóng bừng.



Mấy hôm nay người đàn ông rất bận bịu, cùng làm với ông bố chồng công việc dẫn thủy. Ðêm đó cũng vậy, anh ta cũng phải lao dịch.



Dưới thân thể của người đàn ông có mùi nước bùn, cô ráng suy nghĩ... Nếu cô chết đi, mọi việc sẽ tự dàn xếp trong chốc lát.



Cô sẽ tự tử, ừ, cô muốn làm thế lắm. Trầm mình, hay treo cổ ? Tốt hơn hết là nuốt chất sút hóa học dùng để rửa chén.



Sáng hôm sau, vào kho chứa đồ, cô dở nắp đậy cái bình vẫn đựng sút ra. Nó trống rỗng. Cô trực nhớ là mẹ chồng đã cho bà hàng xóm mượn hôm qua hôm kia gì đó. Vậy là phải chờ tới lần họp chợ tới.



Ðêm sau, cô khoá phòng mình bên trong. Dĩ nhiên là giấc ngủ không đến. Cô cố vểnh tai nghe từng tiếng động, không đừng được. Và cô giật thót người khi những con chim đêm tới đậu trên mái trước.



Cuối cùng cô giải quyết bằng cách bỏ móc khoá cửa ra. Nếu vạn nhất người ta tới và cửa bị khoá thì tiếng động của cái móc sẽ làm ồn đến tận phòng bố mẹ chồng. Ðiều đó còn nguy hơn nữa !



Ngày đông chợ, bà hàng xóm trả lại chất sút đã mượn. Cô nấu hết chăn màn trong nhà và giật mình nhận ra là không biết từ bao giờ, cô cứ mang tâm trạng chờ đêm xuống.



Khi nhựa xuân tràn trề trên các cây liễu gần con suối trước nhà, vòng eo của người goá trẻ tròn trịa trông thấy. Cô siết chặt thắt lưng thêm chút nữa.



Một hôm trong bóng đêm, người đàn ông thì thầm :



- Mình đi khỏi đây đi, đi lập nghiệp chỗ khác. Ở những tỉnh mà hợp tác xã lo việc dẫn thủy, đời sống dễ dãi hơn nhiều. Ở đây khi thì nước nhiều quá, khi lại không đủ.



Cô im lặng, vùi trong bóng tối. Nhưng trong thâm tâm cô đã lấy quyết định rồi. Ðiều gì tốt cho anh ấy cũng sẽ tốt cho cô, và cái xấu cũng vậy.



Họ chọn đêm cuối cùng của tháng, một đêm không trăng. Người đàn ông đi trước và chờ cô ở chân đê, phía ngoài làng. Cô chờ đến tiếng gà gáy lần thứ hai mới rón rén bước ra khỏi phòng.



Cô bước xuống bực đá ngạch cửa. Rồi với những bước chân chó sói, trong sân, cô hướng về phía cổng. Nhưng thình lình cô khựng lại.



Giọng ông bố chồng trầm trầm và nghiêm khắc từ phòng chính vẳng đến tận chỗ cô :



- Bà đừng xía vào. Tôi cũng đã nhận thấy ít lâu nay rồi.



Mẹ chồng đáp lại nhưng cô nghe không rõ. Giọng đàn ông nói tiếp :



- Dù gì đi nữa thì bà cũng im đi ! Nếu không tôi sẽ lấy rìu chẻ vỡ sọ nó ra. Cứ để mặc tôi làm !



Bỗng chốc người goá trẻ cảm thấy lương tâm thức dậy. Cô tự nhủ cô không có quyền bỏ đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Phải chờ tự bố chồng quyết định lấy. Phải không ?



Cô trở về phòng và cảm thấy chưa bao giờ lòng mình thanh thản đến thế. Anh ấy cứ đi đi. Ừ, trong tận cùng thâm tâm, cô hy vọng là chờ lâu quá, người đàn ông sẽ chán nản bỏ đi một mình.



Nhưng người đàn ông quay về trước khi trời sáng. Anh hổn hển hỏi cô chuyện gì đã xảy ra. Anh tưởng là cô bị ông bố chồng giữ lại. Anh đặt xuống hòn đá to mà anh đã chuẩn bị để chống cự với ông, nếu cần. Vừa sung sướng vì anh trở lại, vừa kinh hoàng, cô khóc gập người, cố ghìm tiếng nấc.



Ngày hôm sau, lợi dụng lúc nghỉ tay, ông bố chồng dặn cô là từ nay thôi đừng ra giếng lấy nước nữa. Ông nói với giọng hết sức dịu dàng làm cô càng khiếp. Cô thích nghe cái câu mà cô đã tình cờ nghe được đêm trước hơn.



Ðầu mùa hè, cô khai hoa nở nhụy. May quá vào nửa đêm, chỉ có vầng trăng lưỡi liềm treo trên trời.



Cô sinh nở không khó khăn gì, trên lớp rơm, và tự mình cắt lấy cuống rốn.



Người đàn ông đi vào. Anh dang tay về phía đứa bé hãy còn dính đầy máu và cựa quậy tứ tung dướingọn đèn leo lét. Người goá phụ trẻ bất chợt đưa tay ngăn cản anh. Ðứa bé này, nhất định phải vất nó trong góc núi nào đó hoặc bên bờ suối. Họ đã đồng ý với nhau như thế rồi, mặc dầu chưa bao giờ thốt ra tiếng nào. Nhưng cô muốn giữ đứa bé sống, ít nhất cho tới khi bắt buộc phải bỏ rơi nó.



Người đàn ông bắt đầu bọc nó trong rơm, vẻ khó khăn. Cô bèn nảy ra một ý : cô mở tủ lấy ra một đống giấy - những tờ giấy nháp của cậu chồng quá cố. Cô không tỏ vẻ tiếc rẻ gì, ngược lại còn cảm thấy biết ơn : may sao có giấy này để bọc đứa bé sơ sinh !



Người đàn ông ra khỏi phòng, đứa bé trên tay.



Người goá phụ trẻ nghe tiếng bước chân ở bực cửa nhà. Ông bố chồng ! Trong chớp mắt, cô thấy lưỡi rìu loé sáng. Chính cô phải nhận nhát rìu đó. Vội vàng xô mạnh cửa, cô lao ra đứng chắn giữa ông bố chồng và người đàn ông.



Với vẻ tự tin tuyệt vời, ông bố chồng đưa cho anh cái thư :



- Tới địa chỉ này. Hình như là cháu tao vừa mới sinh mà đứa bé chết. Mày gửi đứa bé cho nó.



Giọng ông trầm tĩnh đáng nể, vậy mà tay cầm lá thư run bần bật dưới trăng.



Một ánh sáng sống động trong mắt người đàn ông. Cầm cái thư không nói lời nào, anh quay lưng bỏ đi.



- Còn mày, vào ngủ đi con.



Lát sau cô nghe tiếng bố chồng tự tay khêu lửa trong lò.



Ðêm đó ếch kêu ồm ộp vang rền trong cánh đồng trước nhà không ngớt.



Một tháng sau ông bố chồng nói với cô là ở dưới đó đứa bé mạnh khỏe, không thiếu sữa.



Vào khoảng đứa bé đầy năm, ông báo tin với con dâu là nghe đâu bố thằng bé đã lấy nó lại cách đó mấy hôm. Ðêm đó, một vầng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên trời và tiếng ếch vang rền suốt đêm trong đám ruộng trước nhà.



Hai mươi năm trôi qua. Bà mẹ chồng chết, rồi năm sau ông bố chồng chết theo. Mấy ngày trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông gọi con dâu đến bên đầu giường :



- Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ tới việc cứu vãn danh dự gia đình. Tiếp theo là bố ân hận... Nên bố đã nhờ người dò la tin tức cha thằng bé khắp nơi. Nhưng bố tìm không ra... Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại...



Ông cố giữ hai mi khép chặt nhưng vô ích, nước mắt trào ra.



- Không đâu mà, bố !



Cô nghĩ là chính cô đã làm khổ ông bố già ghê gớm. Cô cúi xuống vùi đầu vào cạnh sườn ông cụ.



Ðể cho ông cụ máu, cô chặt đứt ngón nhẫn bàn tay mặt : muốn bố lành bịnh, đáng lẽ cô đã phải hiến hết máu mình.



Sau cái chết của bố chồng, cô để căn nhà rộng rãi cho em chồng, cất một căn nhà tranh ở làng dưới và ở đó.



Hè năm ngoái, một hôm đã trễ lắm rồi, sau khi nhổ hết mấy luống khoai cuối cùng, bà tính chuẩn bị bữa ăn tối thì nghe tiếng gọi của một người lạ mặt. Sau cánh cửa đan mắt cáo, trong bóng râm buổi tối, một người đàn ông đứng tuổi hỏi bà có thể cho anh ta qua đêm không. Vì căn nhà nằm ngay lối vào làng, thỉnh thoảng khách đi đường xin vào tá túc.



Ăn tối xong, người khách không quên khen món canh khoai. Anh đốt một điếu thuốc rồi hỏi thăm bà Phúc nào đó có sống trong làng này không. Bà goá phụ cảm thấy tim mình thót lên. Với bàn tay run rẩy, bà khêu thêm ngọn đèn. A cái mũi, cái sống mũi rõ nét này ! Không chủ ý, bà thổi tắt đèn đi.



Người khách tưởng là vì tuổi tác, tai bà cụ nghễnh ngãng không nghe nên hỏi lại là bà cụ Phúc có sống trong làng này không. Giọng bà run run :



- Bà ấy chết lâu rồi.



- Cháu cũng nghĩ vậy.



Anh thổi một hơi khói dài.



Bà goá thấy tiếc là đã tắt đèn nhưng lại không có can đảm thắp lại. Bà cũng thấy tiếc là đã trả lời như vậy. Bà có cảm tưởng mấy tiếng đó đã làm bà mất vĩnh viễn những gì quý báu nhất đối với bà. Nhưng lát sau bà lại nghĩ là thôi, như vậy tốt hơn. Kỷ niệm trong cơn hấp hối của bố chồng trở lại trong trí nhớ. « Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ cứu vãn danh dự gia đình. Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại »... « Không đâu mà, bố ! »



Bà goá bước ra ngoài. Trăng lưỡi liềm sáng trên trời. Tiếng ếch ồm ộp vang rền vẳng lên từ các thửa ruộng.



Người khách theo bà ra sân như thể anh ta cũng vậy, cũng không muốn ngủ. Anh ngồi bên cạnh bà goá rất lâu, không nói gì.



- Khi ngồi như vầy, kỷ niệm với cha cháu lại trở về. Cha cháu có thói quen ngồi trong sân những đêm mà ếch kêu rền như đêm nay, tới nỗi khuya cũng không biết. Cháu cũng vậy, cháu cũng có thói quen đó hồi nào không hay.



- Cha cậu mất từ bao giờ ?



- Hôm nay là bảy ngày rồi. Trước khi mất, cha cháu cho biết là cháu có một người mẹ. Trước giờ cháu cứ tưởng cháu mất mẹ từ nhỏ. Cha cháu nói tên làng mẹ cháu ở, và tên mẹ cháu. Khi cái lễ thứ ba làm xong, cháu chạy thẳng tới đây. Mà mẹ cháu lại không còn trên đời nữa... Còn bác, bác biết rõ mẹ cháu chớ ?



- Dĩ nhiên... tôi nghĩ..., bây giờ... trong làng này chắc còn tôi là người duy nhất biết bà cụ. Bốn chục năm rồi đấy ! Khi tôi nghĩ tới ngày đó... ngay cả hôm nay...



- ... Ngay cả hôm nay ?



Bà goá phải cố gắng lắm để tiếp :



- Bà ấy rất đáng yêu.



- Tìm ngôi mộ có khó không bác ?



Bà cụ gật đầu trong bóng đêm :



- Dĩ nhiên... Bốn chục năm rồi... Còn con cái, cậu có mấy con ?



- Cháu có ba trai hai gái. Thằng con lớn đã bắt đầu làm việc năm nay, cháu nghĩ vậy là cha cháu cũng sắp được nghỉ ngơi chút đỉnh. Vậy mà cha cháu lại mất rồi. Cha cháu chỉ có cháu và tự giết mình bằng cách làm việc quần quật suốt đời.



Chỉ tới tảng sáng thì bà cụ mới ngủ được, một giấc ngủ đầy mộng mị. Mấy đứa cháu nội đông đúc như đàn ếch trong cánh đồng trước nhà, chúng nhảy múa vui vẻ chung quanh bà và la hét thật to như đàn ếch. Bà nội thoát được khỏi chúng và đi trốn, mặc dù trong thâm tâm lại không muốn rời xa chúng chút nào. Bà khóc vì mủi lòng và hối tiếc.



Buổi sáng khi bà sửa soạn bữa điểm tâm thì người khách trọ quét sân. Bà nài nỉ anh đừng làm nhưng anh cứ tiếp tục. Anh bảo là đó là việc anh làm mỗi ngày ở nhà, và anh không thể ngồi yên chẳng làm gì.



Rồi anh hỏi bà có muốn anh bỏ khoai nằm ở góc sân vào bao không. Anh lau từng cái một, gỡ đất còn dính rồi bỏ vào bao, xếp vào kho thóc. Bà không thể không nhìn, từ cửa bếp, người đàn ông bản tính tự tin này !



Khi anh sắp từ giã, bà biếu anh hai trái bầu buộc vào nhau bằng một băng vải. Thoạt tiên anh từ chối : anh không thể nhận quà của người mà anh chưa cám ơn đủ đã cho anh tá túc qua đêm. Nhưng vì bà cụ ép mãi, nói là mấy trái bầu tốt nhất hái từ năm ngoái phải ăn cho hết, anh đành nhận.



Lúc anh bước qua cánh cửa đan mắt cáo, bà gọi :



- À này !



Từ tối qua, bà muốn biết anh ta cư ngụ ở đâu. Nhưng khi anh ngừng bước và quay về phía bà, bà chỉ tiến tới gần và vuốt nhẹ lên lưng anh như phủi bụi. Rồi bà sửa lại ve áo khoác của anh.



Bất chợt anh la lên và nắm lấy tay bà :



- Trời đất ! Cha cháu nói là mẹ cháu cũng có ngón nhẫn bàn tay trái bị cắt !



Bà cụ run rẩy toàn thân, lấy hết can đảm chìa cho anh xem bàn tay kia.



- Ô, bác hy sinh luôn cả ngón nhẫn bàn tay phải... Hai tay bác cho thấy là đời sống bác thật không dễ chút nào !



Anh tự nhủ là nếu mẹ mình còn sống, hẳn cụ giống hệt bà cụ này.



Người khách quay nhìn lại nhiều lần, ngay cả khi đã ra khỏi làng. Xa hơn, anh còn dừng trên khúc đường ngoằn ngoèo dẫn tới đèo, còn ngoái nhìn lại.



Bà goá không còn sức đứng vững nữa, phải tựa người vào hàng dậu...



- Chị à, vâng, còn có một bà goá trẻ khác, bà goá trẻ như vậy đó.



Hai bàn tay xe sợi - những bàn tay thiếu mất hai ngón - đơ ra một lát như bị đóng đinh.



Miệng hé mở, bà Hàn đã ngủ chỉ có trời mới biết tự lúc nào.




MIÊNG dịch theo bản tiếng Pháp : « Une veuve »,

của Choi Mi-Kyung và Jean-Noel Juttet

Paris, Janvier 1998 - Aout 2000
Phượng Các
#19 Posted : Wednesday, July 27, 2005 10:45:53 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thư Paris

Miêng


Paris, ngày 1 tháng 4 năm 2000.

Chị Như Ngọc thân mến,

Em viết thư cho chị vào ngày mà dân Tây gọi là "poisson d'Avril", "cá tháng tư". Muốn diễn tả cái gì có ý trêu chọc, họ thường nói "poisson d'Avril". Sự tích là xưa kia dân Tây ăn Tết vào tháng tư, đến năm 1564, vua Charles IX (1561-1574) đổi ra tháng giêng, thành thử ngày 1-4 thiên hạ trêu nhau tha hồ cho quà giả, nói phịa, nói lừa... mà không bị giận. Một sự tích nữa là mùa cấm câu cá bắt đầu ngày 1-4 cho cá kịp sinh sản, bạn bè mua tặng dân câu con cá trích (loại cá vùng biển Bắc), như thể bảo mày dở, tao câu được đây nè ! Thét rồi cái gì vô tình rơi vào ngày này cũng đâm ra dấm dớ khó tin. Một lần bạn ông xã em mời bạn bè rồi quên béng đi, khi mọi người tới thì chẳng có gì ăn cả. Sau đó anh mời thật, chẳng ngờ nhằm ngày 1-4, ai cũng tưởng đùa, không tới. Rốt cuộc đám mèo hoang khu nhà anh được thưởng thức "món lạ miền Nam" và "miếng ngon Hà nội" !

Chị đừng hỏi "Paris có gì lạ không em" nhé ! em không phải là người theo dõi thời sự. Ngày nào thì cũng nghe ngần ấy chuyện : có người chết người sinh, người lên lương người xuống chức... (chị lại sắp cho em là vô văn hoá !). Nhưng em đang buồn vì Paris trở lạnh, rất lạnh, chỉ 5, 6 độ C, phải mặc măng tô nặng nề, trong khi trước đây vài tuần nắng rực rỡ ấm áp ! Tây có câu "En Avril ne te découvre d' un fil, en Mai fais ce qui te plait". Là tháng tư thì nên ăn mặc cẩn thận (một sợi chỉ cũng không được hở ra), tháng năm thì tùy thích. Thời tiết thay đổi như tánh tình các cô mới lớn (các bà nữa chứ chị nhỉ !), vui đó buồn đó, yêu đó dỗi đó... chẳng biết đâu mà lường, thấy trời tươi tắn ăn mặc phong phanh, tối về trên đường lạnh rút xương thì có cơ bịnh nằm nhà ! Mùa này của Vũ Bằng là "rét nàng Bân" miền Bắc đây, chắc chắn là êm đềm thơ mộng hơn cái rét còn sót lại bên Tây chị ạ. Thiên hạ lại sụt sùi vì dị ứng phấn hoa. Tội nghiệp thân em bị nằm trong sổ đoạn trường của 1 phần 4 dân Tây dị ứng ! Mà mùa xuân thì đâu mà chả đầy hoa chị nhỉ. Bên này mùa Jonquille (thủy tiên bấc) vừa tàn. Đây là một trong những loại hoa em thích. Tiếc là chúng chóng tàn. Bắt đầu rộ từ giữa tháng, tới cuối tháng là xác xơ rồi. Vào hai tuần lễ đó, ở mỗi ngã tư người ta hay đem tới chào tài xế, mỗi bó chụm lại lớn hơn chén cơm, bán 10 quan 1 bó. Không năm nào em không tốn vài chục. Mỗi ngày đi làm, em chỉ sợ bị tông xe vì mải nhìn các thảm hoa vàng lốm đốm trên cỏ xanh. Vừa nhìn vừa nghĩ cứ gì phải từ quan, cứ gì phải chạy tuốt lên non mới tìm ra động hoa vàng !

Bây giờ Jonquille vừa nhường chỗ cho tu-lìp. Chẳng vậy mà nơi em ở, hằng năm cứ cuối tuần giữa tháng tư là có lễ hoa này. Cả một khoảng mênh mông trong công viên, mấy chục loại tu-líp thi nhau khoe sắc cho loại hoa biết nói đếm tới 6 (six) hoặc 10 (dix), như bên Mỹ thiên hạ nói "cheese" ấy mà. Mùa này cũng là mùa tảo mộ bên Tàu, nhưng chị biết hoa tu-líp đấy, chẳng may có chàng nào khiến em e lệ thì chịu chết ngượng chớ chẳng biết làm sao mà "nấp vào dưới hoa" được, chị nhỉ !

Chị biết không, nếu bên mình làm tổng vệ sinh vào tháng chạp thì bên này vào tháng tư, khi nào nắng ấm áp thực sự . Thiên hạ làm vườn, tỉa cành, cắt cỏ, xén hàng rào, rửa xe, chà cầu thang bên ngoài, soạn quần áo dồ dùng mùa đông cho bớt... Ngày "Hội Cành" (chúa nhật trước lễ Phục Sinh), dân Pháp thường đến nhà thờ với một nhánh gỗ hoàng dương để cha đạo làm phép. Họ đem về dắt lên thánh giá trên bàn thờ, chờ mùa Phục Sinh năm tới. Hoàng dương có lá nhỏ tròn, luôn luôn xanh và bóng mướt dù khô, nên nó tượng trưng cho sự sống và may mắn. Ở những nơi còn tục lệ này, nếu ai không đi kiếm bẻ hoàng dương được thì cũng chớ lo : người ta đứng bán đầy các đường cạnh nhà thờ. (Cũng như An Nam ta cứ Tết lại ưa mua "cây phát tài". Chẳng biết có phát không, nhưng thiếu nó thì lại cứ áy náy sợ "không phát" !). Những ngày gần nghỉ lễ, trường học cho trẻ con làm hội hoá trang và ở một số vùng, chúng đi diễu trong phố. Ở nhiều tỉnh lẻ, thiên hạ đốt "người mùa đông", là một hình nộm bằng rơm tượng trưng cho mùa lạnh và những nỗi nhọc nhằn vì nó. (Tưởng sao chớ mỗi năm cứ đốt mà nó vẫn hiên ngang về !). Chợ búa bắt đầu mang màu sắc mới của một số rau trái mùa xuân... Hàng rau cải bỗng chốc mang tâm tình hoạ sĩ.

Em quên, có bao giờ chị nghe nói về Salon du Livre không ? Mỗi năm, các nhà xuất bản khắp thế giới họp nhau một lần. Năm nay là lần thứ 20, ở Porte de Versailles, từ ngày 17 đến 22 tháng 3. Lần này danh dự dành cho Bồ Đào Nha (mỗi năm dành cho một nước, năm ngoái cho Gia Nã Đại, năm kia cho Nhật, còn Việt Nam ta thì đến bao giờ ? Là nói vậy chứ em có thấy gian hàng sách Việt Nam đâu ! ). Dân làm thư viện được phép 3 giờ đi thăm, lý do nghề nghiệp. Dù không thích mấy, thiên hạ cũng đi, em thì không, chẳng phải không ham, chỉ vì vào đấy em bị ngộp. Phải chi đó là những cửa hàng giày dép, áo quần hoặc nữ trang thì dù ngộp mấy em cũng cố, chị ạ ! (Em có điểm yếu đó. Ai quở, em bào chữa : cho kinh tế tây phát triển !). Rồi ngày mai 2-4, chúa nhật, là ngày 800 viện bảo tàng trên khắp nước Pháp mở cửa cho dân chúng vào xem miễn phí thì ngộp cũng phải biết ! . Mỗi năm vào ngày này, truyền hình chiếu những cái đuôi sắp hàng khiếp lắm chị ơi.

Ngoài ra em chẳng biết gì về chính trị nên ngạc nhiên thấy tuần qua, ông Thủ tướng Jospin cải tổ lại Nội các, thay hai Bộ trưởng giáo dục và Kinh tế tài chánh bằng 2 người cũ của phe Mitterrand. Trường hợp này tiếng Pháp gọi là "les revenants", "những người trở lại", cũng có nghĩa là "hiện hồn về" (làm một cô bạn nói với em : chị ơi, bây giờ mấy ông của Mitterrand lại vô, giống như ma ấy chị nhỉ, ổng chết rồi mà linh, nhét được người của mình vào nội các !). Bộ Văn hoá của em trước kia do bà Trautmann làm bộ trưởng, bây giờ bà đi đâu chưa rõ. Em thích bà này, cao lớn, giọng nói trầm, có vẻ đẹp uy quyền mặc dù ánh mắt rất mơ màng, xanh như hồ thu ! Khi em nói bà ta đẹp, đàn ông xì lên phản đối, cho rằng bà "đàn ông" quá (nhưng nếu "một nửa đàn ông là đàn bà" thì sao, chị nhỉ ?).

Chị à, dân Tây cỡ sồn sồn không ưa Mỹ chút nào, họ cho là Mỹ "đạo đức giả", là cái gì cũng thiên về xác thịt. Vậy chớ quảng cáo của Tây, ngay cả thức ăn, cũng có mục nếu không nam nữ ôm nhau thì cũng có con gái trần như nhộng. Nên năm nay, ngay cả các hiệu lớn đứng đắn cũng theo mốt mới, gọi là "mode khiêu dâm sang trọng". Là như vầy : để quảng cáo áo mùa hè, Ungaro cho một cô tóc vàng bận cái áo đầm mỏng manh, một con chó bự mang áo bịt cổ bằng da liếm gót chân cô, cô nhắm mắt đê mê, phó mặc. Để quảng cáo collection giày mùa hè, Louis Vuitton cho một cô gái bò trước chân cô khác ; cô này chận đầu cô kia xuống trước mũi xăng đan, thiếu điều như liếm chân mình ! Tây thì có lắm trò về những mục "gợi cảm" lắm chị ơi.

Tháng ba là tháng của mưa đá đã qua rồi, tháng tư là tháng trời dở chứng cũng sắp qua, còn chờ tới tháng năm là tháng... "động tình" của mọi sinh vật, thiên hạ tha hồ ăn chơi. Em thì "quá date" rồi, chứ nếu còn son mà tháng 5 nhận được một cành đầy hoa của người yêu (phải là Tây con nghe chị) thì mừng rơn vì đó là dấu hiệu sắp được mang nhẫn đính hôn rồi đấy. Lại có nhiều ngày lễ như lễ Lao động 1-5, lễ kỷ niệm Pháp thắng Đức 8-5, nếu nhằm vào thứ 5 thì thiên hạ tha hồ nghỉ bắc cầu. Ngoài ra lễ Thăng thiên và lễ Hiện xuống nhằm vào tháng này, nên ai cũng ưa, âu yếm gọi nó là "tháng gruyère" - là một loại phó mát có nhiều lỗ hổng.

Thôi em tầm phào đã dài, chắc chị đọc cũng chán rồi. Thân chúc chị an vui và hẹn chị thư sau.

Miêng
Phượng Các
#20 Posted : Wednesday, July 27, 2005 10:47:04 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thư Paris

Miêng


Paris, ngày 2 tháng 7, 2000.
Chị Như Ngọc thân mến,

Em viết thư cho chị trong tinh thần hoan hỉ mừng đội bóng đá Pháp vừa giật giải "Euro 2000", tối nay. Xe nào cũng bấm còi ình ỏi và khắp nơi thanh niên vẽ cờ 3 màu trên mặt, đổ ra đường hò hét. Riêng ở Khải Hoàn Môn thì đến gần nửa triệu rồi. Nhà em nói hồi mới qua du học, hễ cứ đội nào hay là muốn họ thắng, giờ thì sau mấy chục năm uống nước... nho và ăn phó mát, cũng có tấm lòng thiên vị cho Tây ! Mong Pháp ăn để nghe báo chí "gáy" cho vui chị ạ, Tây mà giật được cái giải rút nào là cũng gáy bài bản lắm. Thảo nào biểu tượng của Pháp là con gà trống, ý đồ đánh thức cả nhân loại mà ! Có điều chàng hết gáy "Bleu, blanc, rouge" nữa (xanh trắng đỏ), mà nghe đâu như "black, blanc, beur" (đội hình chính thức của tây có 5 tây đen, 5 tây trắng và một tây nâu...)

Tuần rồi báo "Con vịt bị xiềng" đã viết cái tít rất lớn là "Tout le monde s'en foot !", chơi chữ đấy chị, ý nói là mọi người đều đá banh. Nhưng chữ "s'en foot" đồng âm với "s'en fout", là cóc cần, là xỏ xiên ý nghĩa của cuộc thay đổi đường lối chính phủ đấy. Từ thời De Gaulle, luôn luôn là Tổng thống và Thủ tướng cùng phe hữu với nhau (đúng như giả định của Hiến pháp), sau khi Mitterrand và phe tả (liên minh Xã hội-Cộng Sản, 1981) lên mấy năm, Thủ tướng lại thuộc phe chống đối. Hiện tại Tổng thống Chirac (của đảng Rassemblement Pour la République : dịch sao bây giờ cà ? thôi cứ tạm gọi là) đảng Cộng hoà, Thủ tướng Jospin đảng Xã hội, mà sống chung hoà bình kiểu quân tử, hoà nhi bất đồng, chẳng ai thọc gậy ai (chỉ thọc... que thôi) nên bánh xe vẫn quay đều (nếu trục trặc thì châm lại dầu nhớt, vặn vài cái bù loong gì đó rồi cũng xong). Và nhiệm kỳ Tổng thống là 7 năm. Giờ thiên hạ cả tả lẫn hữu đòi đổi luật mới nhiệm kỳ 5 năm thôi, và như vậy có nghĩa là Tổng thống và Thủ tướng có thể cùng đảng như xưa. (Khi chưa lên Tổng thống thì ai cũng đòi như vậy, nhưng được bầu lên rồi thì ai cũng lờ đi : tội gì không ngự trị 7 năm ? Như Giscard d'Estaing, như Mitterrand, như Chirac !). Còn đang bàn ra tán vào (Tây mà, rượu + phó mát = chí choé !) thì trận đấu bắt đầu, ai cũng lo đá banh (s'en foot) với Zidane hói đầu (vừa được dư luận cho là công dân nổi tiếng nhất nước Pháp) và thờ ơ (s'en fout) bà Marianne với chiếc mũ Cộng hoà !

Tháng 6 vừa rồi trời vẫn còn những ngày mưa rỉ rả và lạnh chị ạ. Chẳng họ hàng gì với thần mưa bên Pháp, ông nhạc sĩ nào nhà mình cũng đã véo von tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt... làm cản trở vài trận đấu tennis giải Rolland Garros. Nhưng hôm giải nữ thì trời tuyệt vời, cô Mary Pierce thắng vẻ vang. Dân Tây mê cô này lắm chị ơi, chẳng phải chỉ vì trông cô xinh xắn, mà chỉ vì mang máu mẹ đầm (bố Mỹ) và tự nhận là Tây, thế là Tây cưng như vàng ! (Xem mục này thì em tức cười : ngày 8 tháng 3 cả thế giới đàn bà rầm rộ biểu dương lực lượng đòi đủ thứ quyền bình đẳng với đàn ông, chỉ có khoản thể thao là OK, thể lực chúng tôi thua kém nên điều kiện chơi phải... dễ dãi hơn các anh !).

Đầu tháng 6 trẻ nhỏ lại thi tú tài. Chị còn nhớ kỷ niệm này không ? Tụi mình chỉ có một nỗi lo thi, còn các bà mẹ thì thêm nỗi lo sức khỏe cho con. Các bà mẹ đầm lại còn nỗi lo chúng nó trở chứng loạn tinh thần. (Bên mình đâu có để ý chuyện "tinh thần" dữ vậy chị ? Bên này cái gì cũng kèm theo vấn đề tâm lý, em không biết là dở hay hay, nhưng cứ nhìn mình quá thì lại thấy bịnh gì mình cũng có !). Khác gì thì khác, lòng mẹ Tây hay mẹ Việt thì cũng na ná như nhau, có cái là bên mình âm thầm, dân Tây ba hoa quá, năm nào cũng chừng đó chuyện mà năm nào cũng phỏng vấn thí sinh, phỏng vấn các bà mẹ, hỏi vớ vẩn và trả lời cũng tầm phào. Nếu còn trong tuổi sinh viên học sinh chị sẽ thấy khoái hơn vì vừa xong thi cử và chưa có kết quả, cứ an lòng tha hồ mà hưởng ngày lễ âm nhạc 21-6. Từ chiều, nhiều đoạn đường đã nghẹt người, thiên hạ cứ nói hễ có trống đánh xuôi kèn thổi ngược rập rình là có đàn bà con nít, vậy chớ ngày lễ âm nhạc này thì các ông cũng dành chỗ không kém. Nhiều quãng trường, nhiều con phố thiên hạ đổ ra hò hát nhảy đầm, chơi suốt đêm mà không ai có quyền giở "luật giữ im lặng sau 10 giờ" để phàn nàn cả ! Ai trách làm rộn giấc ngủ thì Week-end 24 là ngày lễ cinéma, chị cứ mua một cái vé tha hồ xem 5, 7 phim nếu có sức, chẳng ồn ào phiền toái đến ai !

Xem phim xong thì đi mua đồ xôn nghe chị. Mùa xôn thường bát đầu tuần lễ cuối tháng 6 tới tuần cuối tháng 8. Nhiều cửa hàng chỉ đứng ở ngoài nhìn vào là đủ phát ngộp rồi. Hè nào chị là một trong số 60-70 triệu du khách đổ qua Pháp, thì để em dẫn đi mua xôn, chớ nhiều tiệm tư nhân ma giáo lắm, giả vờ viết giá cao hơn rồi làm bộ hạ xuống có khi còn mắc hơn giá không xôn ! (Khoản này em rành lắm. Hồi xưa Thư viện còn ở trong Paris, ngày nào cơm trưa xong mà em chẳng đi liếm tủ kính, các cửa nhẵn mặt em. Mỗi lần khám phá trò ma giáo ấy, em "vạch mặt nạ" ra, họ cười nháy mắt "chỉ một mình vous biết thôi nhé !"). Ngoài ra du khách Mỹ thường chê dân Pháp tiếp khách thiếu niềm nỡ và họ không để chị tự do lục lọi như bên Mỹ đâu, hàng bày trong tủ kính nếu chị muốn sờ vào thì cố mượn cầu thủ quyền Anh đôi găng chị ạ, không thì coi chừng sưng tay ! Đó là những nơi mà dân đi làm mua sắm, còn những hiệu lớn như Yves Saint Laurent, Christian Dior... thì mode mùa hè khiếp lắm : robe dài tới gót mà mỏng hơn mây, bên trong lại chẳng có gì, nhưng trên đầu thì đội cái nón tổ bố, hoặc vải không mỏng thì cổ sâu hở dưới 2 vú, xong nối lại một chút rồi hở rốn ra ! (Tiết lộ chị cái này : có người (nhà mình) sẽ làm kiểu áo dài chỉ có vạt trước thôi, tức là một nửa áo, sau lưng hoàn toàn trống, chỉ cột ngang vài ba sợi dây cho dính trên người. Em hỏi vậy thì phải cô nào có lưng đẹp mới bận được ? Ổng nói không cần, ai bận cũng sẽ thấy rất hấp dẫn ! Khi nào có, chị dám thử với em không ?).

Ở một vài nơi người ta còn vui mừng với lễ đốt lửa và nhảy nhót đêm 2-6 là ngày Thánh Jean-Baptiste (nếu bịnh Alzheimer của em chưa nặng lắm thì hình như theo Phúc Âm, Thánh Jean-Baptiste sống ở sa mạc, được mặc khải cuộc gặp gỡ với người bà con là Jésus Christ, nên Thánh đã chuẩn bị và đã làm lễ rửa tội cho Jésus với nước sông Jourdain chia cắt Jordanie và Israẽl), là ngày dài nhất trong năm. Sau đó nhìn mỗi ngày nắng sẽ giảm đi 3, 4 phút rồi thu qua đông tới mà buồn. Bởi vậy dân Pháp hễ cứ có nắng le lói lên là thiên hạ mang mắt kính đen ! Chẳng biết vì ít nắng nên mắt dễ bị chói thiệt, hay vì có kiếng râm mà không vội vàng khoe thì chẳng lẽ mang vào mùa đông như ... những người cầm gậy trắng ?

Tháng 6 và 7 là tháng rất nhiều thành phố có lễ hội. Nơi em ở có lễ hội âm nhạc, năm nay từ 15-6 đến 3-7 (khởi đầu năm 1968). Phần nhạc thì làm ở Parc de la Légion d'Honneur (xưa kia là tu viện của Thánh đường Saint Denis, từ 1808 trở thành - và cho đến giờ - trường dạy con gái các sĩ quan được lãnh mề đai danh dự này) ; phần cantates thì làm trong nhà thờ (nơi yên nghỉ của hầu hết các vua nước Pháp, và nơi mà các sinh viên kiến trúc thế giới phải ghé thăm để tìm hiểu nghệ thuật xây cất thế kỷ 12). Đặc biệt ở Avignon, thành phố phía Đông Nam nước Pháp cách Paris 700km, là nơi nghệ sĩ khắp thế giới đổ về diễn kịch ngoài trời, (khởi đầu năm 1947), có khi với những bức tường thành của Palais des Papes từ thời Đức Giáo Hoàng Clément VI (thế kỷ 14) làm phông. Năm nay tổ chức từ ngày 6 đến 30-7, không biết thiên hạ vui chơi được không vì đài khí tượng tiên đoán những ngày tới không được đẹp trời cho lắm.

Bên mình tháng 7 mưa Ngâu, bên này lễ Quốc khánh 14-7 luôn luôn có mưa nhè nhẹ. Trước đó một ngày, bal do các ông chữa lửa làm trùm, khắp nơi nhún nhẩy, và sáng ngày Quốc khánh diễn binh xong buổi chiều Tổng thống tiếp giới báo chí trong khu vườn tuyệt đẹp điện Élysée và chịu trận cho họ tha hồ đặt câu hỏi. Năm nay thế nào thiên hạ cũng hỏi chuyện 5 năm, 7 năm... tình lận đận, hai đứa cùng xanh xao... (Tổng Thống với Thủ tướng mà xanh xao thì còn ai hồng hào hở chị ?)

Bây giờ xin dẫn chị đảo một vòng chân trời nghệ thuật : 20 năm sau ngày Sartre mất, tháng tư vừa rồi toà thị sảnh Paris đã vinh danh triết gia bằng lễ khánh thành "Place Jean-Paul Sartre et Simone de Beauvoir" lấy chỗ của tên quảng trường Saint Germain des Prés nằm phía tả ngạn sông Seine, nơi mà đôi bạn "thượng tầng trí thức" đã lui tới nhiều năm. Vê phía ta thì ngày 20-5, nhà văn Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng trên đường ghé Paris, đã ra mắt quyển tiểu thuyết Gió Lửa (trước lễ Các Bà Mẹ một tuần, ngày 28) ; ngày 11-6, nhà văn Kiệt Tấn ra mắt tập thơ Việt Nam Thương Khúc (trước lễ Các Ông Cha (Đẻ chứ không phải Đạo nghe chị) một tuần, 18-6) ; và ngày đội banh Pháp giật giải vô địch Âu châu năm 2000, nhà thơ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng ra mắt tập thơ Chút Tình Cho Huế. (Hai nhà thơ ra mắt ở Institut de l'Asie du Sud-Est, nhà văn thì ở phòng tranh hoạ sĩ Phan Nguyên-Huỳnh Anh. (Cái này là em "mở hàng" đấy chị ! Năm ngoái em ra tuyển tập Miêng ở đây, và dụ dỗ hễ ai mua một quyển sách thì được tặng một bức tranh !).

Chị Như Ngọc ơi, chỉ có tình nhân mới thức khuya nắn nót cho nhau, tụi mình không phải nên em đi ngủ nhé. Hẹn chị thư sau.


Miêng
Users browsing this topic
Guest (6)
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.