Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Vũ Quỳnh Hương
Phượng Các
#1 Posted : Friday, November 26, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)




Vũ Quỳnh Hương



tên thật Nguyễn Vũ Quỳnh Hương
sinh năm 1957
tại Huế
hiện sống tại San jose, California USA
cọng tác với các tạp chí : Văn, Văn Học...

tác phẩm đã xuất bản:
Cung Thức Cùng Thơ Mộng (thơ, in chung với Trân Sa, Lê Thị Huệ Lũy Tre Xanh xuất bản năm 1996)
Có bài trong nhiều tuyển tập thơ văn tại hải ngoại



Phượng Các
#2 Posted : Friday, May 6, 2005 1:32:31 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

hình: gio-o


Miền Vĩnh Phúc

Vũ Quỳnh Hương


Thập niên 80 văn học di dân Việt Nam bùng lên hiện tượng nữ và còn kéo dài cho đến bây giờ. Vũ Quỳnh Hương là một trong những gương mặt chính làm nên hiện tượng ấy. Rời quê hương ngày 30-4-75, sau hai truyện ngắn Vận Tốc Trung Bình, Nẻo Quyên Ca, Vũ Quỳnh Hương đột ngột khám phá định mệnh của di dân Việt trên vùng đất mới. Miền Vĩnh Phúc gói trọn những kiếp người trong phòng đợi địa ngục. Những con người tha hoá và đáng thương cho đến phút cuối cùng.

Xuất hiện lần đầu năm 1986 và chưa hề được in trong một tổng tập hay một tập truyện nào, sau 19 năm, trung thiên truyện này vẫn giữ nguyên sức mạnh của một tác phẩm văn chương đích thực.

Trần Vũ



Từ cuối phía dãy hành lang bên trái, khoảng từ các phòng 130 đến 135 đột nhiên vang lên một loạt tiếng động nặng nề, không phải thứ tiếng động chát chúa của kim loại rơi hay sắc nhọn của đồ vật đổ vỡ mà là một thứ tiếng nặng trầm tựa như tiếng một thân cây đổ gục ngoài vườn một đêm mưa nào đó, thứ tiếng động chỉ có thể nhận ra được giữa cái thinh lặng chập chờn đe dọa của đêm khuya như đêm ở nơi này; tiếp theo sau là một loạt tiếng động rổn rảng của đồ vật nho nhỏ rơi xuống đất. Chi nhận ra được tiếng cái khay thức ăn bỏ quên từ buổi chiều chưa dọn, mấy cái ly nhựa ở trên mặt bàn rơi xuống, tiếng cái bô nhựa và cái thau rửa mặt từ trong ngăn tủ rơi ra và cuối cùng là tiếng chiếc xe lăn đổ ầm xuống nghe rợn người giữa những tiếng rên rỉ yếu ớt đứt quãng. Chi buông vội các phiếu kết quả thử nghiệm máu và nước tiểu mà phòng Lab vừa gửi tới hồi chiều, ngước lên gọi:

- Marta, Marta... Chạy xuống coi có chuyện gì vậy?

Không có tiếng trả lời. Marta, Felisa, và mấy con bé Nurse's Aides vừa được dọn vào làm có lẽ đã trốn vào Recreation Room hay một xó xỉnh nào đó để ngủ gục rồi. Chi lắc đầu xô ghế đứng dậy, Henrietta cũng đứng bật dậy bước theo nàng, ngáp dài không cần che miệng, cũng không cần ngăn tiếng ngái ngủ nhừa nhựa đang kéo ra từ cổ họng như tiếng một sợi dây đàn cũ:

- Tao cá với mày là mụ Sylvia lại mò xuống giường một mình rồi ngã đây. Oh, mụ ấy mà què luôn cả cái chân kia nữa thì tụi mình khổ, cái thân không dưới 200 pounds đó...

Chi không trả lời, lắc đầu chạy xô vào phòng 132 để thấy quả nhiên là Sylvia đang nằm co quắp dưới đất, cánh tay còn cử động được bíu lấy thành giường, nửa thân mình tê liệt bên trái như bị đè hẳn dưới sức nặng kinh khủng của chính thân mụ. Tất cả đồ đạc trên đầu chiếc tủ đều rơi hết xuống đất cùng với chăn mền khăn gối trên giường cũng bị lôi xuống theo đà kéo của tấm thân vĩ đại. Chiếc gối rơi úp trên mặt mụ chỉ chừa một con mắt trông như đứa trẻ nghịch ngợm chơi trò giấu mặt. Chi giở chiếc gối ra, Sylvia cố ngước đầu lên nhìn nàng, đôi mắt như mắt một con vật khổ sở, tròng mắt màu xám tro, đục ngầu điểm những tia máu đỏ. Sylvia quờ quạng cánh tay phải, chạm vào vũng nước tiểu xâm xấp ướt chung quanh mà có lẽ mụ đã tiểu ra trong lúc sợ hãi, mụ rụt tay về, nhìn xuống chiếc bụng cao hơn tầm mắt rồi ngước lên nhìn Chi như muốn phân bua, muốn bày giải, muốn khóc than. Sylvia bị cấm khẩu và bị liệt hết nửa thân mình bên trái, chân bên phải mụ có thể gượng chống xuống đất được mỗi khi người ta đỡ mụ từ giường ra xe lăn hay từ xe lăn trở về giường, còn cánh tay phải thì không làm gì được hơn là để vùng vẫy mỗi khi phải thay băng, phải chích, phải uống thuốc, để cầm chặt lấy muỗng nĩa trong giờ ăn như sợ ai giành mất phần và rồi lóng cóng làm đổ hết thức ăn xuống áo; và cuối cùng để bíu lấy cánh tay Chi mà hôn lấy hôn để mỗi khi Chi cúi xuống ôm khuôn mặt khổ sở của mụ cười hỏi hôm nay mụ có khỏe không. Tuy không nói được, không làm gì lấy một mình được nhưng Sylvia còn rất tỉnh táo, mụ không điên cũng không lãng trí chút nào và mụ bầy tỏ tình cảm với một mức độ thiết tha đến nỗi những ngày đầu thấy mụ, Chi đã phải rớt nước mắt vì xót thương. Nhưng không được bao lâu, những giọt nước mắt xót thương rất non trẻ ấy khô cạn đi rất nhanh rồi biến mất hẳn vì những cơn đau, những câu chuyện, những cảnh đời làm buồn lòng như vậy hay buồn hơn thế nữa đã tiếp tục xảy ra, tiếp tục kéo dài, không phải một ngày một giờ mà là hàng tháng hàng năm, hàng chục năm ở đây. Cuối cùng chỉ còn lại những động tác rất nghề nghiệp, những lời lẽ rất máy móc rất bổn phận và một điều gì tựa như một tình yêu dày vò, một cơn đau trầm thống cứ đè nặng lên tâm hồn Chi từng đêm từng đêm. Những đêm dài đong đưa giữa giờ khắc thinh lặng đe dọa, những tiếng rên la ngắt quãng những cơn mê sảng chập chờn những biểu đồ bệnh trạng kẻ lên xuống như bay với giữa núi cao vực sâu. Ðêm như một sợi dây cao su co dãn từng hồi giữa hai đầu cái sống và cái chết.

Henrietta và Chi xốc nách Sylvia dậy, đặt mụ lên giường, nó nắm lấy chiếc mũi nhọn xinh xắn của mụ - điểm duy nhất không bị thời gian tàn phá trên gương mặt nhăn nhúm ấy - xoáy từng chữ một:

- Thôi nghe mẹ, ngủ yên giùm con nghe, đêm nay ngã như vậy là đủ rồi nghe.

Không nói và cũng không nghe được, nhưng được đền bù lại là rất nhạy cảm trong việc đọc cảm xúc trên khuôn mặt người đối diện, Sylvia mím chặt môi nhìn Henrietta rồi đưa mắt sang Chi, con mắt ánh lên tia giận hờn. Chi vờ hét lên:

- Henrie, đi ra ngay! Ðừng phá Sylvia yêu quí của tao mày.

Henrietta ngúng nguẩy đôi mông bước ra, đứng tựa cửa thò đầu vào:

- OK, thì đi, vui vẻ gì mà đứng đây với mẹ con mụ, chán chết. Nhưng nhớ là có té nữa thì đừng có gọi tới tao nghe.

Sylvia quơ tay muốn víu lấy vai Chi, miệng ú ớ một tràng âm thanh nghe như tiếng cười dòn. Không nói được nữa, mụ có một thứ ngôn ngữ đặc biệt để bày tỏ mọi trạng thái tình cảm hỉ nộ ái ố, một thứ ngôn ngữ của trẻ con tập nói hay của loài người vào thời kỳ hoang sơ của lịch sử nhân loại khi mà người, muông thú và đất trời còn rất gần gũi nhau. Chi gỡ tay Sylvia ra, cúi xuống xem lại nửa thân hình bên trái mụ, thấy cái té ngã tuy ồn ào nhưng không để lại dấu vết trầm trọng nào ngoài một vệt xước dài bên cạnh sườn khi mụ ngã trượt qua góc nhọn của chiếc tủ nhỏ kê đầu giường, may hơn nữa là chiếc xe lăn cũng đã không đổ xuống người mụ. Mạch mụ cũng đã dần dần đập bình thường trở lại. Chi thở ra nhẹ nhõm, cởi chiếc áo ngủ đẫm nước tiểu của mụ ra, mở tủ áo để lại thất vọng nhớ ra rằng đã lâu lắm rồi, thân nhân Sylvia không vào thăm, cũng chẳng gửi thêm quần áo vật dụng cần thiết, ngăn tủ chỉ còn trơ mấy chiếc áo đầm bạc màu và hai chiếc áo len mỏng không đủ ấm cho mùa đông. Chi mặc cho mụ áo ngủ của bệnh viện, lựa một chiếc posey mới. Với Sylvia nàng cũng không thể buộc chặt posey vì các đầu mối dây không đủ dài so với thân hình kềnh càng của mụ, và riêng đêm nay thì Chi biết chắc rằng mụ sẽ không dám tự trở dậy một lần nào nữa. Xong xuôi, thấy tay Sylvia lạnh ngắt, Chi đắp thêm cho mụ một tấm chăn nữa phủ kín đến cổ, kéo hai bên mép chăn chận xuống dưới nệm để mụ không rút tay ra được. Sau đó, theo thói quen, Chi cúi xuống ghé tai mụ, nói khẽ: "Goodnight, Sylvia." Hai tay bị chận dưới tấm chăn không quơ múa được nhưng mắt Sylvia ráo hoảnh, cơn ngủ biến mất theo cái ngã nặng nề, miệng mụ bập bẹ liên hồi, hai thớ thịt chảy xệ hai bên má cử động theo cặp môi khô nẻ cùng với hai cánh mũi xinh xắn phập phồng. Mụ thèm nói như trẻ con ngứa răng thèm cắn, như con người từ thời man dã đã thèm thấy đồng loại. Chi liếc nhìn đồng hồ để yên tâm rằng chưa đến giờ thăm bệnh kế tiếp rồi lại cúi ôm lấy mặt Sylvia, vuốt những sợi tóc trắng rũ bết xuống trán mụ, tự hỏi mình một lần nữa về cái tình yêu buồn rầu, về nỗi thương xót chua chát cứ trào dâng lên trong lòng mỗi khi nàng cúi xuống ấp trong hai bàn tay mình cái khuôn mặt biểu tượng của nỗi đau khổ lặng thầm ấy. Cái khuôn mặt dúm dó vì sự tàn phá của thời gian, bàng hoàng giữa những cơn trở giấc nửa khuya, cái khuôn mặt như một bức tượng chân dung bị nắn quá tay, tương phản một cách tàn nhẫn với khuôn mặt trẻ đẹp tươi cười của Sylvia trong những bức ảnh cũ treo kín trên tường, chung quanh đầu giường. Ðối với Chi thì những bức ảnh xinh đẹp vang dội tiếng cười ròn rã thanh tân của quá khứ ấy chỉ làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng cho những thinh âm khờ dại buồn rầu của thứ ngôn ngữ bập bẹ phát ra từ cổ họng Sylvia bây giờ. Thường xuyên, tự cảm thấy khá lố bịch, Chi vẫn không ngăn được mình ghé sát xuống khuôn mặt dúm dó ấy và đáp lại với mụ, một cách hết sức ân cần và dịu ngọt, cũng bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt ấy của mụ. Những lúc ấy, đôi mắt xám nhỏ của Sylvia sáng ánh lên những tia sáng kỳ lạ, tựa như ngọn nến tàn bừng lên tia lửa cuối. Những tia sáng ấy, ở mức độ cuối cùng của lòng tuyệt vọng, như loé lên cái vẻ mãn nguyện vì đã chiến đấu cùng cái chết cho đến giờ khắc sau cùng. Chỉ nghĩ đến đây, nghĩ đến hơn mười năm dài mà Sylvia đã sống ở đây, để chờ đợi cái chết, Chi lại nghe ruột gan mình thắt lại. Không hiểu từ lúc nào, Chi cứ tin chắc rằng nếu nàng cứ sống mãi và già nua đi mãi ở xứ sở này, và luân lý đạo đức Việt Nam không thoát ra khỏi được vòng quay nghiệt ngã của xã hội, nàng cũng phải đi qua cánh cửa của cái chết bằng hàng chục năm dài chờ đợi ở Nursing Home như thế này, chắc chắn nàng sẽ không bập bẹ những thanh âm khờ dại buồn rầu như Sylvia, mắt nàng cũng sẽ không ánh lên những tia sáng tuyệt vọng như Sylvia. Không hẳn chỉ vì ánh mắt Ðông Phương tự nó kiêu hãnh và buồn rầu hơn ánh mắt Tây Phương mà vì trước hết, nàng sẽ không cho phép mình sống một thời kỳ Second- Childhood dài lâu như thế.

Chi cứ nghĩ, cứ nghĩ... những đêm thâu, những giờ khắc giam mình làm việc ở đây cứ xui khiến Chi nghĩ mải miết về cái chết cho đến một lúc nàng cảm thấy chính mình cũng đã già nua đi một cách tuyệt vọng và thảm thiết. Chính nàng đang nghiêng mình xuống cõi chết, chính nàng đang ôm lấy những khuôn mặt xác chết gọi tên chúng như gọi tên những cơn mộng dữ chập chờn giữa vô số những cơn mộng chưa thành khác giữa đời. Ðôi khi Chi thấy Sylvia giống hệt như con búp bê mà nàng đã chơi từ thuở nhỏ cho đến những năm đầu trung học cũng còn chơi, khi mà con búp bê đã rách mướp, mái tóc óng đã biến thành vàng xỉn tả tơi mà nàng vẫn còn thương tiếc vì nàng đã ôm ấp thủ thỉ với nó qua suốt thời thơ dại, săn sóc yêu thương nó, tin tưởng nó hiểu mình và trò chuyện với nó những câu chuyện mà chỉ có nàng và nó chia xẻ cùng nhau. Có điều Sylvia là một con búp bê kềnh càng quá, một con búp bê mà nàng không thể đỡ đứng dậy một mình, lại càng không thể bồng bế trên tay. Ðôi khi Chi thấy bất nhẫn với cái ý tưởng so sánh một con người với một thứ đồ chơi trẻ nhỏ như thế, nhưng mà, ôi thật ra, Chi đã yêu con búp bê cũ ấy như yêu một con người và tình yêu mà nàng dành cho Sylvia ngày nay cũng tràn nhân tính biết bao nhiêu. Dường như, trong một cõi tinh tuyền nhất của lòng Chi, hai thứ tình yêu ấy chỉ khác nhau ở chỗ tình yêu ngày xưa đưa nàng đến biết bao nhiêu thiên đường huyên náo, biết bao nhiêu cánh cửa huyền diệu mở ra cuộc đời hoa mộng trước mặt còn tình yêu bây giờ đẩy nàng hết từ địa ngục này xuống địa ngục kia, đẩy tới cánh cửa tận cùng, cánh cửa mở ra những cánh đồng xương cốt, những cây cầu đi qua sông mê, nơi những người yêu thương và những người thù oán nhau chờ đợi nhau đền trả những món nợ dương trần. Cái trò chơi thiên đàng địa ngục hai bên ngày xưa, kỳ diệu thay, bày suốt từ trí nhớ xa lắc lơ trên những vòm tay tuổi nhỏ bắc cầu cho nhau qua cửa thiên đường vẫn còn ngân nga những hồi chuông vọng tới miền chập chùng mộ chí của lòng nàng hôm nay.



Henrietta bỏ đi qua phòng bên cạnh từ bao giờ, tiếng nó càu nhàu mụ Anna cứ đạp hết mền gối xuống chân giường, dỗ dành mụ Sarah khóc rên rỉ như trẻ con, đe dọa mụ Cindy cứ cầm cứng hàm răng giả không cho đem ngâm thuốc: "Hey, Cindy, mụ mà cứ cầm chặt hàm răng suốt đêm như thế thì sáng mai nó sẽ dính luôn vào tay mụ cho coi, và rồi người ta sẽ phải đút thức ăn vào... tay mụ chứ không phải vào miệng nữa đâu. Ôi trời ơi... " Không nghe mụ Cindy nói gì nữa, rồi tiếng mở cửa, tiếng nước vặn trong toilet, có lẽ Henrietta đã dành được hàm răng giả đem rửa. Sau đó là tiếng cửa đóng khẽ, rồi tiếng chân Henrietta trở lại, vẫn thấy Chi lúi cúi bên giường Sylvia, nó kêu lên:

- Thôi đủ rồi Chi, mày đừng có tập thêm cho mụ cái thói quen đòi hỏi vòi vĩnh quá nhiều như vậy. Shift ban ngày tụi nó không có thì giờ mà nói chuyện lăng nhăng với mụ như mày đâu. Ðứa nào nằm yên rồi thì thôi, đi!

Henrietta có cái giọng khỏe, trầm, ngân dài như giọng những tên ca sĩ da đen, tiếng nó vang vang suốt những dãy hành lang thinh lặng. Và cũng giống như bất cứ ca sĩ da đen nào, nó có giọng hát khao khao nghe rất buồn, rất nức nở trong đêm khuya. Chi bước ra khỏi phòng theo nó, vẫy tay chào Sylvia vẫn cố dõi mắt theo nàng, nhăn mặt.

- Mày có điều chỉnh âm thanh mày lại một chút được không, Henrie, đừng có đánh thức hết bệnh nhân dậy chứ.

Henrietta nhún vai:

- Giọng tao chứ đâu phải giọng lão Monpavio đâu mà mày khéo lo. Và, cũng đừng có quên là đêm nay trăng đầy đó nghe, chỉ chừng nửa giờ nữa thôi, khi trăng lên là cả cái nhà mồ này sẽ ầm ĩ lên hết cho coi.

Một đêm khuya, từ chiếc ti vi bỏ quên không tắt ở một giường bệnh nào đó đang chiếu lại cuốn phim Romeo & Juliet với cảnh Romeo và Juliet vừa gục chết bên nhau trong nhà mồ của giòng họ Juliet, Grace bước vào trông thấy vụt thở dài: "Thì ở đây cũng có khác gì một thứ nhà mồ đâu. Có khác chăng là có rất nhiều Romeo và Juliet nằm đợi chết, và họ đợi lâu quá, lâu đến nỗi họ không còn yêu nhau nữa và không còn nhận ra nhau nữa." Henrietta vớ được câu ấy của Grace, huýt sáo khen hay, mày nói thật đúng ý tao, và từ đó cứ luôn miệng nhắc đến cái nhà mồ làm Grace cuối cùng phải gắt lên vì thật là không hay nếu cái kiểu ví von ấy bị thân nhân người bệnh nghe được. Chi thì không biểu đồng tình vì sợ Henrietta làm già phát ngôn bừa bãi hơn nữa, nhưng thâm tâm nàng cũng không thấy có danh từ nào chính xác và gợi cảm hơn để gọi cái nơi chốn buồn thảm mênh mông này. Cái nơi mà người ta vào không phải để chữa những căn bệnh trầm kha, để hi vọng ngày hôm sau trở lại với cuộc đời mà là nơi để đợi chết, đợi một cái chết không định ngày giờ nhưng rõ ràng, giản dị, và hiển nhiên hết sức. Cái nơi mà người ta có thể bước đi vào, chống nạng chống gậy đi vào hay ngồi trên xe lăn vào nhưng lúc ra thì chắc chắn sẽ chỉ được đẩy ra, cái đầu đẩy ra trước, trùm khăn sạch sẽ không ngó ai; vẫn lời lẽ của Henrietta. Nó nhắc đến trăng làm Chi mới sực nhớ tới vẻ đẹp của vầng trăng tỏ lồng lộng trên suốt những con đường lái xe đến đây lúc nãy, rồi lại sực nhớ thêm rằng nhà chẳng có quyển lịch nào in kèm Âm lịch cả, cứ nhìn trăng khuyết trăng tròn mà đoán ngày tháng đầy vơi như người sống trên hoang đảo mãi rồi đến khi đến tuần trăng, mỗi khi nhìn lại cái ánh sáng trải lụa vàng tràn dãi khắp đêm thâu nàng lại cảm thấy lòng mình như hao hụt đi thêm một chút, như một bãi sông mà phù sa đắp không đủ với những cơn sóng lở, cứ mòn vẹt đi dần, xơ xác đi dần, chết rũ dần hết mọi chồi non. Thêm vào đó, cứ mỗi lần tuần trăng tới ở đây, nhìn những biến chứng kỳ lạ của bệnh nhân dưới ảnh hưởng trăng đầy Chi cũng thấy dường như châu thân mình lên cơn đau nhức, cũng y như những tế bào già nua được đánh thức dậy định kỳ để trăn trở giữa đêm trăng. Nàng nhớ đến căn bệnh, những câu thơ rờn rợn của họ Hàn: "Maria linh hồn tôi ớn lạnh. Run như run thần tử thấy long nhan. Run như run hơi thở chạm tơ vàng." Không ai muốn bị chia giờ trực vào những đêm trăng đầy cả. Thoạt đầu Chi tình nguyện nhận những đêm ấy, nàng tự giải thích và chế riễu mình, cứ tìm những lối đoạn trường mà đi. Nhưng sau đó thì Chi biết rằng những đêm trăng rợn những người bệnh già nua mất trí ở đây không giúp nàng chia xẻ được với họ nỗi đau khổ của những cơn đau đớn cuối đời, cũng không làm cho tâm hồn nàng phong phú hơn, mà chỉ làm mất mát đi của nàng những mộng ước êm đềm lãng mạn của một vầng trăng đương thì. Chi đã tự hỏi mình có nên tiếp tục ở lại đây nữa hay không. Nàng quay nhìn Henrietta, nhìn đôi môi tô màu son kỳ quặc vừa nhắc đến trăng của nàng:

- Ừ, Henrie, mày nói tao mới nhớ, lúc nãy đi trên xa lộ 280 thấy trăng cứ chạy theo sau xe, chạy vòng vòng trước mặt, chạy lửng lơ trên đầu... tao muốn lái xe đi luôn quá...

Henrietta quay lại nhìn chăm vào mặt Chi một cách thú vị. Chi chậm rãi nói tiếp:

- Nhưng tao nhớ lại là cũng chẳng biết đi đâu nữa nên lại bèn... đi đến đây như thường lệ vậy.

Làm như không quan tâm tới câu Chi vừa nói tiếp, Henrietta nheo mắt:

- Mày làm ơn lập lại cái câu kia cho tao nghe chút coi, Chi, câu trước kia.

Chi chận đầu nó:

- Câu nào? Ôi trời, Henrie, bộ mày cũng sắp sửa... điếc mất rồi sao?

- Còn lâu. Mày đừng quên là tao mới có 22 tuổi à, mày muốn thấy tao điếc mày phải đợi chừng... 50 năm nữa kia. Nhưng lúc đó thì tao chỉ điếc như Linda thôi, còn mày thì vừa câm như Sylvia, vừa mù như Monpavio, lại vừa…cởi áo đi khơi khơi như Katrina nữa... Ha ha..

Nó nhào tới ôm lấy Chi, đầu cổ người ngợm nó nồng nặc mùi thuốc lá lẫn với mùi Chewing gum, Chi vùng ra:

- Henrie, Henrie, đêm nay chưa có ai lên cơn, mày đừng có lên cơn trước tụi nó nghe, và mày cũng đừng có quên là mày nặng hơn tao tới 50 pounds đó nghe.

Henrietta buông Chi ra, ném mình xuống ghế, khoa tay đẩy hết đám hồ sơ bệnh lý mà nó và Chi đang viết dở vào một góc:

- Ờ xin lỗi, tao quên, tại mày vừa nói một câu hợp ý tao quá, người Việt Nam chịu khó làm lụng như tụi mày mà lâu lâu cũng nói muốn bỏ sở lái xe đi chơi luôn thì thật lạ biết mấy.

Chợt thấy vẻ mặt Chi thay đổi, Henrietta ngưng bặt sợ nàng phật lòng điều gì đó. Nó vốn đã có đôi chút kinh nghiệm trước những phản ứng bất thường của cái mà nó gọi là lòng tự ái dân tộc cực đoan của Chi. Nó huyên thuyên nói luôn:

- Hồi nãy lúc 9 giờ thằng Dick gọi tao, nó rủ tao đi Santa Cruz chơi sáng mai về. Tao muốn lấy sick leave để đi với nó quá, nhưng kẹt cái tháng này tao sick đủ rồi, sick nữa thì phiền lắm. Từ chối nó thì cũng tiếc...

Chi bật cười:

- Mày tiếc là tiếc một đêm trăng ở biển hay mày tiếc thằng Dick?

Henrietta nhún vai:

- Tao tiếc mấy con tôm hùm. Tao không đi thì nó cũng rủ con khác đi chứ nó đâu nằm nhà vì tao đâu. Mà mỗi lần ăn được của cái thằng keo kiệt ấy một bữa seafood thật đã biết mấy...

Henrietta chép miệng ngon lành như thể những con tôm tươi đỏ đang nằm co trước mặt nó. Không ngạc nhiên lắm trước câu trả lời của Henrietta nhưng Chi vẫn cứ rũ ra cười, đôi khi nàng thấy thèm được sống với một tấm lòng hiểu đời như nó. Một cuộc đời ồn ào và dễ dãi pha chút ngu muội, dễ say mê và dễ chán chường vì có khá nhiều thứ để say mê rồi chán chường. Một mẫu con gái Mỹ điển hình. Thời của Brooke Shields... Thời của chúng ta. Áo trắng sân trường mộng ngoài cửa lớp... Chi chợt nhắm nghiền mắt, lắc lắc đầu liên tiếp như để sắp xếp lại mớ trí nhớ đang bắt đầu lộn ngược. Như người ta lắc lắc một cái chai để trộn thuốc cho đều. Henrietta khựng lại nhìn nàng:

- Mày làm sao vậy Chi?

Chi mở mắt nhìn đôi môi loáng mọng của nó:

- Có gì đâu, tao đang tưởng tượng tới mấy con tôm hùm của mày đây mà... Nhưng mày thử ngó lại miệng mày đi, Henrie, coi khôi hài không chịu được.

Henrietta nhún vai cười, mở tủ lấy sắc tay ra tô lại son. Nó ngậm ngậm hai cánh môi, không hiểu để son chạy cho đều hay để chép miệng lần nữa:

- Bây giờ chui lại đây ngồi tao lại thấy là mình điên quá.

- Bộ mày mới thấy là mày điên đêm nay thôi sao?

- Hừ, tao biết lâu rồi chứ, nhưng thường đêm thì cũng quên đi, như người ta ngủ mê vậy mà, chỉ những đêm trăng đầy như đêm nay tao mới sực nhớ lại thôi. Oh, nhưng mày thì cũng đâu có điên kém gì tao đâu mà bắt bẻ...


Henrietta ngưng bặt khi thấy bóng bà Beth thoăn thoắt bước ra từ cánh cửa thang máy cuối hành lang vừa mở. Nhà Beth ở gần đây, và thói quen nghề nghiệp làm bà ta thức dậy vào khoảng 2, 3 giờ sáng nên gần như mỗi đêm, dù không có chuyện gì cần thiết, Beth vẫn cứ lái xe đến đây, đi rảo quanh một vòng rồi mới có thể về nhà ngủ lại. Henrietta bảo bà ta thật điên, đang ngủ chăn êm nệm ấm lại trở dậy thay quần áo, mò đến gửi cái mùi lạnh lẽo khó tả ở Nursing Home rồi về nhà ngủ tiếp. Hoặc là bà ta điên, hoặc chồng bà ta điên, hoặc tình duyên hai người đến hồi lỏng lẻo nên Beth mới đến đây hàng đêm như vậy. Với Henrietta thì bất cứ ai có mặt ở đây đều cũng có thể là điên, kể cả chính nó, và luận điệu nó có lý đủ để không ai có thể cãi lại được.

Beth là một người đàn bà có đôi mông vĩ đại nhưng cũng nghề nghiệp đã làm cho dáng đi bà ta nhanh nhẹn và dịu dàng gần như đám con gái, tuy vậy Henrietta vẫn đe dọa, trong những lúc bà ta vui vẻ, rằng tuy bây giờ thì đã hơi trễ nhưng cũng không phải là trễ quá để lo diet, nếu không thì đến khi về già, phải vào Nursing Home, bà ta sẽ phải nằm hai giường, có hai y tá túc trực, khi chết phải có một cái quan tài lớn gấp đôi và dĩ nhiên là mọi chi phí sẽ phải trả gấp đôi, thật là kinh khủng... Beth cười rung rinh cả bàn ghế: "Tao không cần, tiền tao làm ra bây giờ đủ để trả gấp đôi gấp ba cho chi phí cảnh già mai sau của tao mà. Tao chỉ cần một điều, trong mấy con nhỏ y tá săn sóc tao, đừng có đứa nào là mày thôi!" Ngoài ra, Beth còn có một cái tật khá rườm rà nữa là luôn luôn đeo ống nghe trên cổ, ngay cả trong những lúc không cần thiết nhất, không phải vì bệnh nhân mà vì chính bà ta. Không quan tâm tới vấn đề thẩm mỹ nhưng vì ám ảnh bởi cái chết của cha mẹ bà ta đều bị bệnh áp huyết cao, Beth đo áp lực máu của mình thường xuyên. Henrietta nói rằng Beth nghiền nghe cái tiếng đập rì rầm của những trái tim người qua ống nghe, và mỗi ngày nếu không nghe được ít nhất chừng mười trái tim đập, bà ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên. Ðó là luận điệu của Henrietta, còn Beth thì rõ ràng là rất dễ bần thần mỗi khi nhận ra được một chút thay đổi rất nhỏ trong nhịp đập của trái tim tội nghiệp của bà ta. Rồi như không tin ở chính mình, Beth nhờ hết người này đến người kia đo lại hộ. Bị chế riễu là méo mó nghề nghiệp, Beth phân trần, mỗi người phải chịu một thứ Stress riêng chứ, tao cũng đâu phải là thánh đâu. Chi vẫn tự hỏi, không biết Beth có đeo ống nghe trong lúc ngủ để kiểm soát áp lực máu mỗi khi choàng dậy vì những cơn ác mộng không, nhưng có điều ai cũng biết là bà ta không rời nó cả trong khi lái xe, trước khi rời khỏi nhà và sau khi ra khỏi bệnh viện. Ðiều này thì Beth tâm sự là có từ thuở bà ta chưa ra trường, vì giận hờn tên boyfriend, bà ta đã nhấn ga 90 dậm/giờ. Bị chận lại, Beth giải thích là phải đến bệnh viện vì một trường hợp khẩn cấp. Người cảnh sát nhìn chiếc áo khoác trắng và cái ống nghe còn trên cổ Beth để bà ta đi mà không hỏi đến giấy tờ sau khi ân cần dặn thêm: "Cẩn thận nghe, tôi muốn cô đến bệnh viện là để chữa bệnh chứ không phải để được chữa bệnh đâu." Hoàn hồn vì nhận ra mình có thể đã gây ra tai nạn khủng khiếp, lại còn thoát khỏi rắc rối với cảnh sát, từ đó, phải có cái ống nghe, chứ không phải dây nịch an toàn, mới đem lại cho Beth cảm giác an toàn trên xa lộ, và sau đó là cảm giác an toàn trước những căn bệnh đang ngập ngừng chờ đợi ở ngoài ngưỡng cửa, khi tuổi già cứ tiếp tục, ngày một tiến tới gần hơn.

Beth bước vào Nurse's Station, nhìn quanh một lượt bằng đôi mắt sắc sảo:

- Có gì lạ không các cô?

Henrietta trả lời ngay:

- Chưa có gì hết Beth. Chúng tôi đang ngạc nhiên đây.

Beth lườm Henrietta:

- Ờ, cứ ngồi yên đó mà đợi đi.

Beth nhìn đồng hồ, kéo màn nhìn ra cửa sổ, phía những ngọn đèn sáng lạnh của tiệm 7- Eleven bên kia ngã tư rồi quay vào:

- Phía này không thấy trăng đâu cả. Tôi có cảm tưởng như đêm nay đồng hồ đi chậm hơn mọi đêm vậy...

Henrietta cười ha hả:

- Không chậm đâu Beth, hôm nay bà đo áp lực máu chưa?

Beth lườm Henrietta lần nữa, những nếp nhăn ở đuôi mắt kéo dài ra như đuôi một con cá nhỏ:

- Lo lấy cái thân cô đó. Hôm nay Julie và Sandy trực bên Station 3 phải không?

Henrietta khoát tay:

- Không Beth, hôm nay Grace trực thay cho Julie, nó cũng giống như con Chi vậy, hay làm thay cho thiên hạ lắm. Còn con Sandy thì tôi mới thấy nó ở dưới Laundry Room.

Beth ngạc nhiên:

- Nó làm gì dưới đó vậy?

Henrietta cười:

- Nó bỏ giặt cái áo khoác của nó. Có bệnh nhân mới chuyển về nào đó ói trào từ ngực xuống chân nó...

Beth nhíu mày:

- Ai vậy? 327 phải không?

- Có lẽ. Tôi không rõ, Beth...

Beth thoăn thoắt bước ra, đến ngưỡng cửa như sực nhớ ra điều gì quay vào hỏi tiếp:

- Các cô có nhớ nhắc chừng tụi Aides kiểm soát lại các giường bệnh lần nữa đi, trăng lên cao rồi đấy. Hôm nay sao tôi thấy mọi sự yên tĩnh một cách đáng ngờ...

Henrietta nói với ra:

- Yên tâm đi Beth, tôi ở đây hết mấy chục mùa trăng rồi mà.

Bây giờ thì Beth trừng mắt lên:

- Cô có lường được hết các biến chứng có thể xảy ra không? Chỉ cần một bệnh nhân thoát ra đường được là chúng ta cũng đủ mệt rồi. Cẩn thận trước thì hơn. Và, phải tự mình đi kiểm soát các cửa ra vào nữa, nhất là các cửa mở ra đường lớn...

Beth chưa dứt lời, từ hành lang phía trái, lối dẫn ra Station 3 vọng lại những tiếng la hét theo một nhịp nhắt quãng quen thuộc của Katrina... "Tao không cột mày... Sao mày cột tao... Tao... ao... Ta... ao... không cột... mày... Sao... ao mày cột ta... ao..." Lẫn giữa các quãng ngắt là những tiếng khò khè đưa lên từ cuống họng giống như tiếng gù gù của một con mèo được khuếch đại qua một cái loa rè. Những tiếng hét không nhỏ dần đi rồi chìm vào giấc ngủ như lệ thường đêm mà càng lúc càng lớn hơn, các quãng ngắt thu ngắn hơn, rồi tiếng Grace kêu lên:

- Henrie. Chi. Ðến đây mau lên...

Henrietta và Chi chạy ùa sang Station 3. Một cảnh tưởng không thể nín cười đang bày ra trước cửa phòng Katrina, ngay giữa lối đi, Katrina không hiểu bằng cách nào đã đẩy nguyên cả giường mụ ra trước cửa phòng, bao nhiêu chăn mền khăn gối cuộn tròn thành một đống lớn ở cuối chân giường, cả chiếc áo ngủ của mụ cũng quấn lẫn trong đống chăn ấy. Và dĩ nhiên như thế có nghĩa là mụ không còn một mảnh vải nào trên người ngoài đôi slipper dưới chân, là thứ mà mụ không bao giờ chịu rời ra, kể cả lúc đi tắm lẫn lúc lên giường ngủ. Mụ đứng lom khom trên giường, cố vùng vẫy khỏi Grace. Cũng không hiểu bằng cách nào, mụ đã lấy được tấm biển nhỏ "Alzheimer's Care Unit" vẫn để trên Nurse's Station, và mụ đang dùng nó như một thứ vũ khí để chống lại Grace. Grace thì giống như một chàng võ sĩ da trắng đang đấu một cách tuyệt vọng với một chàng da đen khỏe mạnh và dai sức hơn mình, một chân nó đứng giữ thế, một chân quỳ trên giường, vừa dỗ dành vừa cố ghì Katrina xuống bằng sức mạnh của cả đôi cánh tay lẫn sức nặng của thân hình nó. Nhưng thân hình mảnh mai của Grace thì không đủ để hạ nổi sức mạnh lạ thường của Katrina trong những đêm trở cơn như đêm nay và những lời dỗ dành đối với mụ lúc này cũng hoàn toàn vô ích. Henrietta nhanh nhẹn tụt giầy nhảy lên giường, hai tay choàng vai Katrina kéo xuống trong khi Grace và Chi đứng hai bên khóa chân tay mụ. Hạ được tay võ sĩ hạng nặng rồi chưa phải hết việc, sau đó là phần mặc áo và đặt mụ nằm yên trên giường. Grace giữ chân còn Chi giữ tay mụ để Henrietta, nhanh nhẹn và khỏe nhất, chụp chiếc áo ngủ, rồi chiếc posey qua đầu mụ. Ðến đây thì điệp khúc ngắt quãng của Katrina thay đổi... "Tao... ao... không... không bắt mày... mặc áo... áo... Sao mày bắt tao mặc... áo... áo..." Chỉ để vừa cho mụ thở, Grace kéo chặt các mối posey quấn vào hai bên thành giường đoạn nằm hẳn xuống gầm giường để buộc các đầu mối vào nhau, vòng qua tấm nệm. Khi Katrina lên cơn, phải dùng tới kiểu cột hơi có vẻ dã man và đi rất xa nguyên tắc như thế mới có thể giữ mụ nằm yên trên giường vì mụ có tài gỡ được tất cả các mối dây buộc hai bên thành giường rồi ngồi dậy vung tay ném chiếc posey vào góc phòng, và lúc đó thì mụ có thể ném tất cả những thứ ở chung quanh tầm tay mụ. Xong xuôi, Henrietta vừa thở hào hển vừa bò ra cười hỏi Grace:

- Mày làm sao mà để mụ biểu diễn vũ khỏa thân ngay giữa cửa vậy Grace? May mà mụ ta chưa đẩy cả giường ra ngoài đường chứ không thì cả cái thành phố này đã thức dậy hết mà coi rồi.

Ðêm lạnh ngắt mà những giọt mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương Grace, rịn xuống những chân tóc vàng mịn, nó phân bua:

- Tao đâu biết, đã dặn con Elsa từ sớm là phải coi chừng mụ cẩn thận. Tao vừa đem thuốc tới định cho mụ uống thì mụ đã ra tới cửa đứng múa rồi.

- Vậy là phải quá mà, với những nhân vật quan trọng như Katrina này thì mày phải tự check lại chứ đâu phải chỉ dặn tụi Aides không thôi là đủ. Có chuyện gì xảy ra, chẳng hạn như mụ chạy ra đường bị xe đụng thì trách nhiệm lại đổ lên đầu mày chứ đâu phải con Elsa.

Grace liếc Henrietta bằng cái kiểu liếc mà Beth vẫn dành cho Henrietta:

- Em biết, thưa chị Henrietta, em biết, bài học về trách nhiệm em vẫn thuộc. Tại vì đêm nay con Sandy bận với bệnh nhân mới của nó, một mình tao ở Nurse's Station, quay qua quay lại đủ thứ việc rồi quên bẵng đi.

Henrietta đập đập xoa bóp hay cánh tay, ra bộ ngao ngán thở dài:

- Hừ, quên, quên... Nếu không có tao... Ai bảo y tá không cần phải học võ đâu. Không có đẳng cấp như tao thì đêm nay sao hạ nổi mụ.

Grace co chân lên vuốt vuốt đôi panty hose đã bị Katrina cào rách xoạc một đường dài trong lúc giằng co, thở ra não ruột:

- Tao thề tao sẽ không thèm sống lâu đâu. Tao thích chết đẹp hơn là sống già. Sống thêm nữa để mà điên như Katrina thì thẹn chết được.

Henrietta chẩu môi:

- Ðể coi, bây giờ thì mày nói vậy nhưng đến lúc già đi thì mày sẽ lại thấy tiếc đời, thấy thèm sống như lúc trẻ thèm yêu vậy... Và nếu mày đã điên như Katrina này thì còn biết gì đâu, cũng còn đẹp đẽ gì nữa đâu mà thẹn. Nhưng em ơi, cứ tin tao đi, mày mà cứ chui ra chui vào mấy cái Nursing Home này thì mày sẽ không phải sống lâu đâu. Mày sẽ chết vào khoảng... à à... coi nào, khoảng 50 tuổi như bà hoàng Grace vậy nhé. OK? Lúc đó thì mày cũng vẫn còn khá đẹp, với điều kiện là phải chịu khó nhịn ăn chứ đừng để quá khổ như bà Beth vậy. Ngoài thằng chồng mày ra sẽ còn biết bao nhiêu là người đến nhỏ lệ tiếc thương, biết bao nhiêu là hoa hồng trên mộ... Ô đẹp biết mấy, ngậm cười nơi chín suối nhé!

Biết Grace lãng mạn nên Henrietta vẫn cứ thêu dệt đủ mọi thứ chuyện trời trăng mây nước ra để chọc cho khuây khỏa những đêm dài, cũng như nó vẫn kể chuyện ma để dọa Sandy yếu bóng vía, còn Chi thì dấu kín cả cái lãng mạn lẫn cái yếu đuối để Henrietta không thể bước được vào thế giới rất Việt Nam của nàng nên nó để Chi được yên thân mà cười góp trước những câu chuyện của nó. Dù vậy, thỉnh thoảng Henrietta cũng nói được những câu khá hay ho, chẳng hạn như nó tuyên bố, tất cả chúng ta đều là những kẻ cao cả thầm lặng, vì nếu không cao cả, không yêu nghề thì không ai có thể ở lại nơi này quá một đêm. Chỉ khác là mỗi người có người có một cách, một lý do yêu khác nhau mà thôi, thí dụ như con Grace yêu nghề chỉ vì hồi High School nó lỡ đọc phải cái truyện Doctor Jivago. "Còn mày thì mày yêu ai, Henrie?" Grace hất mặt. "Tao hả? Tao yêu... Katrina". Ðêm nay Henrietta lại lập lại câu ấy. Nó vừa nói yêu Katrina theo cái điệp khúc có quãng ngắt của mụ, tựa như Chi nói chuyện với Sylvia bằng thứ ngôn ngữ bập bẹ , vừa chận thêm gối kín mít quanh giường Katrina. Không vùng vẫy được nữa, Katrina vẫn cố trườn mình lên một chút, đưa đầu lên cao khỏi chiếc gối, giương đôi mắt điên dại lên nhìn cả ba, miệng rì rầm những điệp khúc đang đến hồi nhỏ dần nhỏ dần của mụ. Henrietta rót cho mụ một ly nước lạnh để trên bàn, sát tầm tay mụ:

- Ðể mụ giải khát chút, Katrina, đêm nay mụ hát hơi nhiều rồi.

Grace kêu lên:

- Mày cho mụ uống rồi cất ly đi Henrie, để đó mụ hất đổ hết đấy.

- Mày cho mụ uống đi, mụ không ưa tao đâu. Rồi cho mụ uống thuốc luôn đi. Lúc nãy mày cho mụ uống Navane chưa?...

Katrina ngoan ngoãn uống ừng ực từng ngụm nước như một đứa trẻ khát sữa sau cơn khóc dỗi. Uống xong mụ đẩy cái ly ra, cầm lấy tay Grace:

- Thank... you... thank... y... oú... oú...

Chi phì cười nhìn cái miệng rụng trơ hết răng nói líu ríu của mụ. Giọng mụ có lúc nghe eo éo như tiếng một con mèo, có lúc lại cà kíu cà kíu như tiếng một con ngỗng. Henrietta nhăn nhó:

- Coi điên điên vậy mà cũng còn lịch sự gớm. Vật lộn cho chán chê rồi đi cám ơn.

Katrina không cựa quậy, cũng không rầm rì nữa, mụ chắp hai bàn tay lại, gối sau gáy, mắt nhìn thẳng lên trần nhà như bắt đầu suy nghĩ xa xôi gì đó. Với kiểu gối tay như thế, mụ có cái vẻ trầm tư của một triết gia đang suy nghĩ về lẽ khổ đau của kiếp con người. Rõ ràng hơn nữa. Chi thấy mụ giống hệt như Simone de Beauvoir trong một bức ảnh mà Chi đã phóng lớn treo trước bàn học vào những năm trước 75, cái thuở mà cô bé Chi mới chập chững nhìn vào thế giới văn chương cũng như nhìn vào cả cuộc đời bằng đôi mắt của một cô bé Alice nhìn vào thế giới lạ kỳ. Thật khá khôi hài khi dẫn trí nhớ đi từ một mụ già điên đến một nhà tư tưởng, dù cả hai cùng là đàn bà và cùng sống già như nhau, nhưng đây là một sự giống nhau rất rõ ràng, rất sắc nét chứ không phải chỉ là một sự liên tưởng tới giọng con mèo...
Phượng Các
#3 Posted : Friday, May 6, 2005 1:33:55 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
(tiếp theo)

Phải mất một thời gian khá lâu Chi mới làm quen được với khuôn mặt kinh dị của lão, làm quen được với chữ sweetheart thốt ra từ đôi môi hơi kéo xệch qua một bên vì một đường may dài bên mép trái, làm quen được với một điều dường như là một tình yêu vô vọng và vĩnh cửu đối với một hình bóng nào đó đến từ những năm tháng thanh xuân của cuộc đời lão. Lâu dần Chi cũng đem lòng ân cần với lão hơn với các lão già khác, và dĩ nhiên, hơn là với lão Monpavio, và rồi cũng phải giải thích với con mắt soi mói của Henrietta, với cái người yêu mến mình thì tự nhiên là mình cũng phải yêu mến lại, không nhiều thì ít chứ, dễ hiểu thôi mà Henrie. Một đêm Chi giật mình hốt hoảng vì đèn phòng lão bật sáng và tiếng lão hét dữ dội vọng lên. Katrina đã lần đến bên giường, tốc hết chăn mền đắp trên người lão ra và mò mẫm thế nào nắm được sợi dây dẫn với cái Catheter kéo mạnh. Sợi dây tuột ra, nước tiểu chảy tung toé trên chăn nệm. Roger hét lên giận dữ và đau đớn, lão chồm dậy chụp lấy cổ tay Katrina nghiến răng vặn bằng hết sức bình sinh. Lúc Chi chạy vào thì lão đã xô được Katrina ngã ngồi xuống đất, mụ ôm lấy cổ tay kêu khóc ầm ĩ... Tao... ao thương nó... Sa... ao nó không thương tao... ao... Vừa hốt hoảng lại vừa buồn cười, Chi đẩy mụ ra cho Henrietta và Grace dẫn đi, mụ cứ ôm lấy cổ tay mà kêu khóc ầm ĩ hàng giờ sau đó. Cái điệp khúc trầm bổng ai oán như một người bị tình phụ vọng giữa đêm khuya nghe não nề da diết. Lão Roger thì làm Chi bận bịu gần hết đêm đó, không hẳn vì đau mà vì cơn giận dữ kích động, lão lên cơn sốt từ khoảng ba giờ sáng đến chiều hôm sau mới hạ. Lão lập đi lập lại rằng Katrina mà còn mò đến phòng lão lần nữa, lão sẽ giết mụ. Chi bật cười, vỗ về:

- Lão nên tha thứ cho Katrina, Rogie ạ, vì mụ thương lão mà. Ðừng có giận dữ quá với người đàn bà đã nặng lòng vì mình chứ.

Roger nhún vai:

- Nhưng tao không muốn thấy mặt nó, tao không muốn nó thương tao. Tao không muốn nó... tao muốn... mày thôi... Chi...

Chi khẽ lùi lại một bước:

- Ồ, sao lão lại không thương Katrina được? Lão chê mụ già hả? Rồi tôi cũng sẽ già vậy, có ai trẻ mãi được đâu. Ðến lúc đó biết đâu trông tôi còn tệ hơn cả Katrina nữa thì sao?

- Không đâu Chi, không bao giờ đâu, Chi sẽ không bao giờ xấu xí vô duyên như Katrina đâu, và tao cũng sẽ không bao giờ được thấy mày già đâu... Tao sắp chết rồi. Tao sẽ mang theo hình ảnh trẻ đẹp dịu dàng của mày ngày hôm nay cho đến khi tao chết, cũng như tao vẫn nhớ hình ảnh của người vợ đầu tiên chết lúc vừa hai mươi tuổi của tao. Hồi đó tao mới có hai mươi bốn tuổi. Tao chỉ gặp nó có một lần là yêu ngay. Nó nhỏ bé, dịu dàng và dễ thương như mày bây giờ... Chi...

Dù yêu mến Roger, dù vẫn tự nhủ mình có bổn phận phải an ủi lão, Chi vẫn không thể nấn ná lại bên giường lão lâu hơn những khi lão bắt đầu kể lể. Cả thực tại, cả dĩ vãng, cả cuộc đời Roger không có mặt ở đây, trong cái không gian màu trắng tinh sạch lạnh lẽo vây phủ bốn bề này mà là có mặt ở bên ngoài cửa sổ, phía những tiếng chim kêu, tiếng xe chạy, tiếng rì rầm huyên náo của cuộc đời mà những hàng cây và mấy lớp tường trắng không ngăn được hết. Roger vẫn kể lể với Chi hàng giờ về người vợ trẻ yểu mệnh ngày xa xưa của lão, một người con gái gốc ý, mắt đen và tóc đen như Chi, một người dáng thanh tú mảnh mai như một cây hoa đào nhỏ mùa xuân đứng trên đỉnh ngọn đồi. Có lẽ ngày xưa lão cũng làm thơ… Tao sắp chết rồi... Tao sắp chết rồi... Những lời lẽ thê thiết của lão dội vào tai Chi, lùng bùng trong đầu làm nàng đến một lúc có cảm tưởng như mình cũng sắp chết mất. Nàng cũng đang nằm bệnh, đang đếm đang đo đang đọc được tên của cái chết dần mòn từng phần thân thể, từng phần giác quan tế bào. Cái chết đang chiếm đoạt dần, đang bước tới dần, tới thật chậm bằng những bước chân chắc nịch lên trên óc não. Cái thảm thiết của lão Roger không phải ở chỗ đau đớn, vì những vết thương của lão đã lành từ lâu, mà là ở chỗ lão không phải chờ đợi một điều gì ngoài cái chết, và lão đã chờ quá lâu, trong một trạng thái tỉnh táo đáng sợ. Dường như có một lần lão đã nói với Katrina, như thể tâm sự, rằng lão thèm có cái nhanh nhẹn và sự điên dại của mụ. Katrina, kỳ diệu thay, cũng bắt được rất nhanh những tín hiệu của một cõi lòng vừa thoáng mở, và mụ đeo riết lão từ đó. Còn Roger thì lại xoay ra đóng cái vai tuồng của một chàng Trương Chi mặt mũi kinh dị nhưng mải miết yêu bóng hình yêu kiều của một Mỵ Nương nào đó cho đến khi mang xuống tuyền đài. Ðầu óc càng tỉnh táo thì quá khứ vây quanh lại càng dầy đặc, hỗn độn mớ kỷ niệm dày vò của yêu ghét hận thù, của ân oán say mê. Cả một cuộc đời lãng đãng ở chung quanh như những bóng ma kêu gào được sống lại. Thật sự, Chi nghĩ, đến cái lúc phải vào nằm bệnh ở đây thì những kẻ mất trí như Katrina vẫn dễ chịu hơn vì không có gì đáng sợ hơn cho bằng tỉnh giữa những người điên, giữa những khối thịt lăn lộn câm lặng. Cái chết cảm được và đếm được như hơi thở ngày một mòn mỏi, trí óc mỗi ngày một váng vất những giấc hôn mê, mắt nhìn mỗi ngày một nhòe nhoẹt những hình dáng người qua lại, tiếng nói lao xao... Những chiếc giường trống rồi đầy, đầy rồi trống, người ta theo nhau chết, theo nhau rụng xuống giản dị như lá mùa thu theo nhau rụng từng cơn xuống đất để mùa sau chồi xanh mọc lại trên cành khô. Mỗi khi nghĩ đến những điều đó Chi lại thấy sợ hãi, thấy tê liệt hết một vùng nữa trong óc não, thấy những tế bào trong cơ thể đang già đi theo từng phút giây. Thấy muốn chết ngay bây giờ, ngay bây giờ chứ không đợi đến cái chết năm mươi tuổi như Henrietta vừa vẽ ra cho Grace có hoa hồng và nước mắt rơi trên mộ. Ðêm ở đây thật sự đã đắp chồng chất lên thêm cho lòng Chi những nấm mộ không hương khói. Chi lại nghĩ tới những điều mà mọi người chung quanh đã nói về công việc mà nàng đang theo đuổi. Thật là một cái ngành rất hợp với cõi lòng đầy mộ chí của em. Ờ nói như vậy thì em phải làm nghề tống táng, đại lý tô bia mới phải chứ. Cần gì, vì em đâu thích quẳng người xuống huyệt, em chỉ thích đặt tay lên những trái tim thoi thóp thôi mà, phải không? Mười mấy năm đã qua rồi mà em vẫn còn yêu cầu chuyện Những-người-áo-trắng hay sao? Ôi cái câu chuyện đã làm mềm lòng những cô bé ngây thơ ôm mộng cứu chuộc cuộc đời biết mấy... Chi bước tới kéo màn cửa, vịn tay lên chốt cửa kính toan tìm chút hơi lạnh nửa đêm ở bên ngoài, chợt khựng người nhìn cái bóng trắng toát của mình đột ngột hiện ra trên mặt kính. Tóc tai mặt mũi này, những người áo trắng này, mười một năm đã qua rồi. Bao nhiêu năm nữa thì mình sẽ vào đây, không phải để đếm đêm đi qua những cánh cửa phòng này, lắng nghe những nhịp tim thoi thóp này mà là để nằm trên chính những chiếc giường kia, sống giữa những cơn mộng du trở lại cuộc đời những đêm thâu tràn dãi hay ngủ những giấc ngủ triền miên của những thân xác không tiếng than?

Ở ngoài kia, trăng treo cao ngất trên đỉnh ngọn cây, trời trong và xanh đục những sương mù. Ánh sáng vàng như thấm lạnh đến từng chân tóc. Trăng đầy. Trăng cũ. Một đàn con trai rủ đàn con gái ra ngồi nhìn trăng.

Tiếng kim đồng hồ nhích từng giây gõ vào đêm. Gõ vào đầu. Những tế bào già đi theo từng sát na. Chi chợt nghe người rờn rợn như muốn lên cơn sốt. Ở dưới đường phố, một chiếc xe vừa lao vút qua, tiếng bánh xe nghiến rợn trên đường nhựa đánh thức một con chim ngủ đâu đó giữa những lùm cây bên cửa sổ kêu lên thảng thốt như tiếng trẻ con khóc giật mình. Giữa những tiếng động ấy là tiếng nấc của mụ Edna nghe rõ mồn một từng chập từng chập. Mụ này có cái tật mỗi lần thấy mụ May cùng phòng có con cháu đến thăm lại quay mặt vào tường khóc nức nở không cách gì dỗ được, và bao giờ cũng vậy, trận khóc ban ngày kéo theo những cơn nấc dỗi từng chập ban đêm nghe như nghẹt thở. Ánh trăng, theo tay kéo màn cửa của Chi, lùa vào phòng dọi trên khuôn mặt quắt queo như gẫy gục xuống ngực của mụ Trina, cái miệng há hốc không răng thở phì phò như một cái hang gió lùa của mụ Amy. Con búp bê gẫy tay của mụ Carla nằm lăn dưới chân giường giữa vùng ánh sáng của ánh trăng, cái miệng nó ngoác cười đến tận mang tai trông như mặt một con quỉ nhỏ.

Chi bất giác đứng dừng lại ở một phòng mà nàng vừa nhận ra là có đến hai giường trống. Nàng bước vào nhìn đăm đăm hai chiếc giường đã được làm sạch trải phẳng phiu để chờ đón những con bệnh mới, tự nhiên cảm thấy như nghẹt thở. Ai vừa mất vậy? Những cái tên lùng bùng trong đầu. Những khuôn mặt xác chết y hệt như nhau ở mức độ già nua và sầu thảm. Marian. Barbara. Joanna. Những khuôn mặt da trắng khi tắt thở lại càng trắng bệt như vôi. Tiếng Henrietta gọi ơi ới ở ngoài đầu hành lang kéo Chi ra khỏi cơn nghẹt thở lùng bùng đầu óc. Chi kéo nhanh màn cửa, quay vào gọi nó:

- Henrie, Henrie, lại đây...

Henrietta quay lại theo tiếng Chi, đứng dừng trên ngưỡng cửa, bóng nó đổ thành một vệt dài cắt khoảng trăng chiếu mờ trên tường ra làm đôi:

- Gì vậy?

Chi chỉ tay về hai chiếc giường trống:

- Tao nghĩ hoài không ra tên hai mụ nằm đây... Tao nhớ cả hai còn khá lắm mà.

Henrietta trừng mắt:

- Mày có mê ngủ hay không? Mụ Janette đổi qua Station 1 hôm qua, còn mụ Louise thì chết ngay trong Beauty Room trong lúc đang uốn lại mớ tóc đỏ để mừng sinh nhật thứ 83 sáng này; mày vừa mới nghe report đây mà, quên rồi à? Mày làm sao vậy?

Chi thừ người:

- Không biết nữa... Không hiểu sao tao nghe nói Louise này mà cứ nghĩ đến Louise ở phòng bên kia...

Henrietta tỏ ra rất quen thuộc với những cơn lơ đãng bần thần của Chi, nó tiến tới, tát nhẹ vào một bên, rồi cả hai bên má Chi, riễu cợt:

- Tỉnh chưa em? Thôi dù sao mụ cũng chết rồi, để lát nữa khóc cũng được. Bây giờ nghe tao hỏi đây. Mày thấy mụ Gloria của tao đâu không?

Chi không bỏ lỡ cơ hội lên giọng lại:

- Mụ ngủ gục bên TV Room chứ đâu. Mày sang đó thì biết

Henrietta khoát tay:

- Mày đi với tao đi.

Chi nheo mắt:

- Mày... sợ ma à?

Henrietta lại chồm tới, chĩa những móng tay sơn móng đỏ trước mặt Chi:

- Mày lộn rồi, tao chứ đâu phải con Sandy, tao thì trị cả người lẫn ma. Tao chỉ e mình tao lôi mụ Gloria về phòng thì hơi khó vậy thôi. Có đi hay không thì bảo?

Chiếc TV lớn ở phòng TV vẫn còn mở với âm thanh vừa đủ một người nghe. Mụ Gloria kéo ghế ngồi gần như sát với khung kính màn ảnh nhỏ, gục đầu vào thành ghế thở nặng nhọc, cặp kính trễ xuống sống mũi khoằm, một giòng nước dãi chảy chảy từ bên mép xuống đọng lại ở một ngấn trũng của chiếc cổ da nhăn nhúm, Henrietta lay nhẹ vai Gloria:

- Gloria, Gloria, dậy đi thôi... Ðêm nào mụ cũng ngủ gục ngoài này vậy sao? Nào, Gloria, về phòng nào, khuya lắm rồi... Oh, sao hôm nay mụ mặc cái áo đẹp thế này...

Gloria cựa mình ậm ừ rồi lại gục đầu xuống ngủ tiếp. Henrietta gỡ cặp kính cũ vàng ệch buộc dây lòng thòng bỏ vào túi áo mụ rồi xốc nách mụ dậy. Gloria bước lê theo Henrietta và Chi, lúc thì ngả đầu vào vai nàng, lúc thì đổ sang bên Henrietta, đôi slipper cũ bay hết lớp nhung mịn trên đầu mũi kêu lẹp xẹp theo bước chân mụ. Gloria là một trong những bệnh nhân lâu đời nhất ở đây, mụ được đưa vào đây từ mười hai năm về trước. Hồi ấy mụ còn rất khỏe mạnh, chẳng cần đến ai săn sóc và cũng không muốn bị săn sóc, ít khi nào mụ chịu ở yên trong phòng. Suốt ngày mụ quanh quẩn ngoài phòng ăn, xếp đi xếp lại những cuốn sách trên kệ, tỉ mỉ lau từng chiếc lá của những chậu cây cảnh, vui vẻ giúp nhà bếp dọn bàn trong giờ ăn, xông xáo và hoạt bát nhất trong những buổi nói chuyện được tổ chức hàng ngày giữa các bệnh nhân... Nhưng theo thời gian, sức khỏe mụ suy yếu dần và từ khi Chi đến làm việc ở đây, nàng chỉ thấy mụ lủi thủi ngồi ngoài TV Room suốt ngày. Và cũng vì phải vào ở đây khá sớm nên trong tình thương, trong niềm mong nhớ mà mụ dành cho con cháu luôn luôn pha lẫn một nỗi buồn tủi vô biên. Lũ con cháu Gloria thì mỗi năm vào thăm mụ được khoảng ba lần, lễ Giáng Sinh, sinh nhật mụ, và Mother's Day. Chúng mang vào cho mụ những gói quà buộc nơ xanh đỏ, những tấm thiệp, kẹo chocolate, phần gà tây và cây thông giả buộc đồ chơi lủng lẳng. Gà tây thừa mứa cộng với phần gà tây được dọn đặc biệt trong những ngày lễ ở đây thì mụ dúi cho tất cả mọi người chung quanh tầm tay mụ, kẹo chocolate thì mụ nhai suốt ngày đêm bằng tất cả niềm vui của một cô bé lên mười. Những gói quà, những dây nơ xanh đỏ bạc màu từ nhiều năm dồn lại được mụ xếp cẩn thận phẳng phiu để đầy chung quanh đầu giường. Cây thông nhỏ treo những đồ chơi giả ngớ ngẩn chỉ làm vui mắt trẻ con thì mụ giữ hết mùa đông sang đến mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, rồi mùa đông sang năm. Cho đến khi góc phòng và tủ dành cho mụ không còn đủ chỗ nữa, mụ mới tiếc rẻ đưa cho người con những cây cũ nhất, dặn đi dặn lại rằng phải đem về nhà, cất kỹ cho mụ ở trong một chiếc tủ nào đó. Bà con gái mụ cau có ôm những cây thông bụi bám ra khỏi phòng, vất ngay vào chiếc thùng rác bên hông hành lang. Mụ khóc rồi cười tíu tít, kể lể huyên thuyên những câu chuyện của ba, bốn tháng dồn lại để thỏa niềm hờn tủi nhớ mong, để cầm chân lũ con cháu ngồi lại thêm được phút nào hay phút nấy. Nhưng những câu chuyện huyên thuyên của mụ, cố gắng lắm thì cũng không đi xa hơn được cái không gian buồn rầu mà lũ con cháu mụ hết sức không muốn nghe nhiều hơn, thuốc men bệnh tật, bác sĩ, y tá, những bữa ăn hằng ngày, mụ già cùng phòng mới được đưa vào tháng trước hôm qua đã chết... Lũ con cháu, dường như yên tâm thấy mụ chưa chết, tự cảm thấy đã làm đủ bổn phận, bấm nhau ríu rít rút về. Lâu dần, có lẽ mụ cũng cảm thấy mình còn may mắn hơn nhiều người khác, những người không bao giờ có ai vào thăm, không bao giờ có cây thông giả để bày trên tủ ngoài những tấm thiệp của nhà thờ gửi tới cho mỗi bệnh nhân vào mùa Giáng Sinh kèm theo cuốn Kinh Thánh, và một vài tấm thiệp của những người thân còn sót lại trên cõi đời được gửi tới thảng hoặc mỗi năm vài lần mang con dấu những tiểu bang xa xôi nào đó. Những tấm thiệp màu mè, lời lẽ in sẵn, ký tên nghuệch ngoạc kèm theo một vài chữ vội vàng và máy móc đến nực cười... We love you, Think about you, Care about you, You are my love... Cho đến gần nửa năm nay thì cuộc sống hàng ngày của Gloria đã thay đổi hẳn. Người con rể mụ chết vì một tai nạn xe hơi, bà con gái đột nhiên trở thành góa bụa, trơ trọi vì những đứa con lớn đã bỏ đi xa. Bà này vào khoảng 50 tuổi, không còn đủ trẻ và đẹp để lấy được chồng khác, không đủ giàu để được tán tỉnh và bị allergy với chó mèo nên cuối cùng, bao nhiêu tình thương có dịp dồn lại hết cho người mẹ già. Có lẽ cho đến lúc ấy bà ta mới chia chung được hết nỗi buồn của cảnh già hiu quạnh, thấm thía được hết lẽ phù du của kiếp người. Bà ta vào thăm Gloria mỗi ngày một lần vào giờ ăn buổi trưa hoặc chiều, thường thì vào buổi chiều là cái giờ khắc mà người ta dễ cảm thấy âu sầu nhất trong ngày, đút thức ăn cho mụ, dắt mụ đi dạo quanh ngoài vườn, ngồi lại thủ thỉ với mụ cho đến khi trời tối. Cái cảnh hai mẹ con mà người con gái cũng đã xế bóng quanh quẩn san sẻ tình thương cho nhau trông rất dễ mủi lòng. Nhưng không may, cái cảnh êm đẹp mủi lòng ấy không kéo dài được lâu, người con gái Gloria lại không sống lâu bằng mụ. Bà ta chết sau một cơn đau tim ba tuần lễ trước. Các cháu Gloria quyết định không cho mụ hay vì để một mụ già 80 tuổi khóc con thì cũng chẳng có ích gì hơn là để mụ sống thêm được ngày nào hay ngày ấy trong niềm tin tưởng rằng con mụ còn sống ở đâu đây. Khoảng một tuần lễ sau khi tang lễ xong xuôi, một cô bé xinh đẹp mười sáu tuổi, con út của bà này, cháu ngoại Gloria, vào thăm mụ với một bó hoa màu tím. Cô ta nói mẹ cô bận đi thăm cách anh chị cô ở đâu đó trong ít lâu. Gloria không thắc mắc gì vì con hay cháu gì cũng thế, miễn là có người vào thăm để mụ tin rằng mụ còn được nghĩ tới là đủ. Dường như mụ còn có chiều hãnh diện khi nói với mọi người chung quanh rằng cô gái tươi trẻ xinh đẹp như một cây thông non kia chính là cháu mụ. Nhưng tiếc thay, cái tình thương của một cô bé mười sáu tuổi với bà ngoại già giống như một cơn mưa bóng mây tưới không đủ thấm vầng đất hạn và cái cảnh giới buồn rầu trong Nursing Home không giữ được cô bé quá ba buổi chiều mùa đông, là cái khoảng thời gian rộn ràng xao xuyến nhất của năm. Cô ta vừa mất cả cha lẫn mẹ thì lại càng có quyền đi tìm các nguồn an ủi khác chứ đâu có bổn phận phải trở thành nguồn an ủi của ai. Thế là từ sau ngày cô bé biến mất, mỗi ngày vào giờ ăn chiều, khi các con bệnh tương đối khỏe đã được đưa ra phòng ăn và các bệnh nặng nằm trên giường đã có khay ăn trước mặt, chỉ còn Gloria chống cái walker đứng lẻ loi tựa cửa phòng, mắt đăm đăm dõi về phía tít cuối dãy hành lang, nơi có cánh cửa ra vào dành cho khách thăm viếng. Tất cả mọi lời khuyên nhủ đều được mụ từ chối một cách buồn rầu: "Tao phải chờ con tao, cháu tao... Thế nào tụi nó cũng tới mà..." Cuối cùng, khi thức ăn đã nguội lạnh, nhịn mãi cũng đói, mụ lủi thủi ngồi xuống chiếc ghế của mụ, chiếc ghế trống dành cho người con gái kê sát bên cạnh. Hờ hững nhìn khay ăn được ân cần đưa tới trước mặt, mụ đẩy ra hết các phần thịt, rau, trứng... lóng cóng xúc từng muỗng cereals vào miệng, nuốt như nuốt phải độc dược, nước mắt trào ra từ hai khoé mắt lòa, chảy dài xuống khuôn mặt nhăn nhúm như một trái táo tàu khô. Trông mụ giống như một đứa bé đợi mãi không thấy mẹ về chợ để vòi quà, phải ngồi ăn một mình trong lẻ loi và hờn tủi. Quần áo của mụ, trong những tháng sau này, được người con gái đem về nhà giặt hàng tuần sau khi mua sắm cho mụ một loại mới, thải hết những quần áo cũ mà trong mười hai năm trời bà ta đã không quan tâm cho lắm. Bây giờ thì Laundry Room lại đảm nhận trở lại việc giặt giũ cho mụ như cũ, và chỉ cái việc phải ghi tên và số phòng vào mặt lưng trái những chiếc áo của mụ cũng làm Gloria ngồi kể lể hằng giờ với con gấu xám mà người con gái đem vào để bên gối mụ hồi lễ Tạ Ơn. Gloria héo hắt đi nhanh chóng như một cái cây vừa bị đốn gốc, mái tóc xám lơ thơ cũng vừa uốn lại hồi dịp lễ rụng tơi tả, mụ ngủ những giấc ngủ chập chờn cả đêm lẫn ngày. Có lẽ mụ không còn sống được bao lâu nữa. Nhưng mụ chết đi thì cũng chỉ có nghĩa là một hồ sơ nữa được đóng lại, ở đây, và cô bé xinh đẹp mười sáu tuổi kia không chắc sẽ nhỏ được một giọt lệ u buồn nào. Thời gian mà Gloria sống ở đây dài gần bằng tuổi đời cô ta, và có lẽ ở trong trí nhớ mới lớn của cô gái nhỏ ấy không giữ được một chút kỷ niệm nào về bà ngoại già. Cô ta cũng đã không được dạy cho về lòng yêu thương, tình hiếu thảo và bổn phận, không kịp thừa hưởng chút nào cái di sản tinh thần từ tình thương muộn màng mà mẹ cô ta đã đem đến cho Gloria những ngày cuối cùng của cuộc đời, nên bó hoa màu tím và một vài buổi chiều đến thăm mụ đối với cô ta chỉ có nghĩa là một trong những công việc phải làm sau khi mẹ mất. Sau đó, cây thông tươi non lại tiếp tục hối hả lăn vào cuộc đời, chờ đợi những mùa vui để Gloria, cây thông tàn úa trở về với góc phòng của mụ, sống tiếp phần đời của mụ cho đến khi thực sự chết đi.

Vốn tính hiền lành, buồn rầu và lặng lẽ, không trở tật trái chứng, nói năng lúc nào cũng như cầu khẩn van xin nên ai cũng thương mến Gloria, và bây giờ người ta chịu đựng những lời kể lể than trách rì rầm ngày đêm của mụ như chịu đựng một thứ kinh cầu nguyện. Một thứ kinh cầu nghe não nuột lê thê nhưng ai cũng cố nhủ mình phải nghe để cứu rỗi cho phần hồn mai sau. Cái mảnh linh hồn nhỏ nhoi lắt lay tội nghiệp như đốm lửa tàn cháy chẳng soi sáng được cho ai mà cho chính nỗi buồn rầu thảm thiết, cho lòng oán trách cuộc đời bội bạc vô tâm.

Gloria được đặt lên giường, quay úp mặt ngay xuống gối, đôi vai rung động theo một nhịp thở yếu ớt đứt quãng. Chi biết mụ chưa ngủ say, tần ngần không biết nên đứng lại hay bước ra ngay để tránh cơn khóc giật mình của mụ thì mụ đã chồm dậy, nắm lấy tay áo Henrietta đang đứng ngay bên đầu giường, ghì mạnh:

- Nancy, Nancy hả?... Sao con đi lâu quá vậy?... Mẹ chờ con lâu quá, Nancy...

Henrietta đưa mắt nhìn Chi, buông tay đứng sững, nhún vai cười nhưng mắt nó thì không. Chi nhẹ gỡ từng ngón tay Gloria ra, đặt duỗi cánh tay mụ xuống dưới lớp chăn, chận thêm hai chiếc gối hai bên đầu vì Gloria ngủ hay lăn lộn va đầu vào thành giường, đoạn kéo Henrietta bước ra, hi vọng mụ sẽ ngủ lại mau chóng với giấc mơ hiền lành có người con gái cuối đời cũng không hạnh phúc nên đem hết tình thương muộn màng về giành cho bà mẹ già trăm tuổi. Ði bên cạnh nàng, Henrietta thì thầm, giọng thật buồn, thật khẽ, Chi Chi, tao thấy Gloria đã quá già nua để phải sống thêm nữa, chờ đợi thêm nữa và mộng thêm nữa những giấc mộng đẹp buồn rầu như vậy.



Henrietta buông mình nặng nề xuống chiếc ghế dài, thuận chân đá luôn vào đùi Grace, bên mà chiếc vớ nylon đã rách xoạc từ lúc nãy:

- Sao, mày có định cởi vớ ra không hay là định mặc luôn đến sáng mai đây?

Grace ngước lên, lắc đầu:

- Tao cũng không biết nữa, cởi ra bây giờ thì lạnh chân, mà để đến sáng mai, trước mắt tất cả mọi người thì lại càng không ổn hơn nữa.

Henrietta đắc ý cười rộ lên:

- Tao đã nhắc mày nhiều lần rồi, cả con Chi nữa, những đứa cứ chuyên môn mặc váy đó. Ði làm ban đêm thì mặc quần cho nó tiện, lại ấm nữa, ai vào đây mà ngắm đùi mày đâu. Còn đã quen tật mặc váy thì lúc nào cũng phải mang sẵn một đôi panty hose nữa, một áo khoác nữa, để khỏi phải mò xuống Laundry Room mà giặt áo như con Sandy hôm nay vậy. Tao thì lúc nào cũng có sẵn cả một bộ uniform để ngoài xe, tiện lợi cho những khi cần thiết.

Grace toan nói gì đó, nhưng lại ngưng bặt, nghiêng đầu lắng nghe. Từ phía hành lang dẫn ra dãy phòng đàn ông, tiếng lão Monpavio vọng ra lồng lộng: "... Number one... Number one... Number one... " Henrietta lại rũ ra cười:

- Ðến lượt mày đó Chi. Lão cũng tử tế đấy chứ, lão đợi đến lúc tụi mình thong thả một chút rồi lão mới lên tiếng đấy.

Chi nhìn khuôn mặt bung ra như một bông hoa vì trận cười dòn của Henrietta, lại một lần nữa thấy thèm được cười hết miệng như nó, dù thật ra thì nụ cười hết miệng ấy cũng không làm Chi quên được ánh mắt buồn sững khi mụ Gloria nắm lấy tay áo mà gọi nó là Nancy lúc nãy. Và cũng rất nhanh, khi Chi liên tưởng tới đôi mắt buồn của nó, Henrietta vụt thở dài ảo não:

- Bây giờ tao lại đâm ra nhớ thằng Dick quá. Thật là điên mới không đi chơi với nó đêm nay để chui đầu vào đây nghe cái thứ moon language này... Oh... Dick...

Chi chận nó lại:

- Thôi đừng có giả bộ màu mè nữa Henrie, mày mà nhớ nhung gì thằng Dick, đừng có lôi tên nó ra mà gọi ầm ĩ ở đây, không át được giọng lão Monpavio đâu.

Grace tiếp:

- Lão Monpavio thì lão vẫn hét Number one đêm ngày mà. Ðêm này thì lão chỉ hét lớn hơn chút đỉnh thôi. Mày đâu có lạ gì cái thứ Moon language của lão đâu mà vờ ngây thơ, Henrietta Lobster,... Oh... không, Henrietta Lopez...

Henrietta chụp cái ống nghe trên bàn ném luôn vào Grace. Grace nghiêng người chụp lấy, khúc khích cười. Henrietta cau có:

- Tao chẳng có ngây thơ gì, nhưng thỉnh thoảng chắc tao cũng ngây thơ hơn mày chút đỉnh vì tao sống đến đâu nghĩ đến đó, còn mày thì mày nghĩ trước và nghĩ nhiều hơn là sống, đôi khi tưởng tượng nhiều quá đi trước cả sự thật... Oh, tao không ưa những cái loại như mày... Ê Chi, mày có ưa cái loại như nó không?

Chi cười nụ:

- Mày có biết rằng khi mày nói như vậy là mày đang nói cả tao đấy không?

Henrietta ngồi dựng dậy nhìn Chi. Grace có thêm vây cánh, lại càng cười dòn hơn, vung cánh tay thon mượt lông măng vàng ném trả cái ống nghe lại cho Henrietta:

- Có thật là mày sống đến đâu nghĩ đến đó không? Hay là sống mà chẳng nghĩ quái gì hết? Oh, tao cũng chúa ghét những cái loại như mày...

- Loại tao thì sao? Loại tao thì sống tự nhiên thôi chứ sao. Cái loại khoác bên ngoài lớp thiên thần áo trắng như mày mới là đáng ngờ đấy.

Grace hứ lên:

- Mày làm như là mày không mặc áo trắng vậy!

- Nhưng tao la lớn cho mọi người biết là tao đen. Còn mày hả? Thí dụ nghe, lão Monpavio đó. Lão la Number one ít, tao khó chịu ít, lão la nhiều, tao khó chịu nhiều. Còn mày thì có quỉ biết được là lão dội vào trong đầu mày những gì. Bọn thục nữ ở thời này thì một là điên, hai là bệnh hoạn, ba là đạo đức giả, bốn là xấu đến nỗi không thằng nào thèm ngó tới. Mày không thuộc loại thứ tư, vậy thì chỉ có thể là một trong ba loại trên... Em ơi, mày làm tao nhớ tới Madonna, just like a virgin.

Grace đứng bật dậy, Chi tưởng nó sẽ nổi giận đến nơi, nhưng không, nó chỉ đỏ mặt, toan bước đi, rồi lại ngồi xuống, với tay lấy một tờ tạp chí, lật giở lơ đãng như thể không quan tâm tới câu chuyện với Henrietta nữa. Dáng nó nhỏ nhẹ buồn buồn, mái tóc vàng không cuốn chải thả hết về sau lưng, khuôn mặt nhìn nghiêng đẹp như một pho tượng trắng. Chi ưa nhìn cái vẻ dịu dàng của Grace mỗi khi nó cúi xuống giường bệnh nhân hỏi han bệnh tình, giọng nó ngọt ngào như mật, trong vắt như suối. Cái vẻ đẹp của thập niên 50 chứ không phải thập niên 80 như Henrietta, vậy mà hai đứa vẫn cứ chơi thân với nhau mới hay. Cảm thấy đã bắt đúng mạch Grace, Henrietta lại nhào tới ôm lấy con nhỏ như nó đã ôm Chi lúc nãy. Grace hất tay Henrietta ra, quay đầu về phía khác:

- Mày nói sai rồi Henrie. Nhưng thôi, bỏ chuyện cái lão mù đó đi.

- Bỏ sao được khi mà lão vẫn hét vang bốn bề kìa. Mày muốn nói tao nên nhét bông gòn vào tai hả?

Grace nhìn sang Chi:

- Mày nói đã có sẵn mấy cái urinal trên giường lão rồi phải không Chi?

- Ừ, cứ nghe tiếng lão thì biết mà. Lão hét theo một điệu đều đều chứ không khẩn cấp gì. Nếu tụi mày muốn thì tao sẽ... dán miệng lão lại cho, nhưng với điều kiện, nếu bà Beth mà thấy thì một trong hai đứa tụi mày phải nhận nghe.

Henrietta càu nhàu:

- Con Grace có muốn thì nhận, không có tao à. Trước sau tao vẫn không tán thành cái kiểu bà Beth không cho khép cửa các phòng ồn ào như phòng lão Monpavio lại. Ðể những đứa điên cứ hét lồng lộng như vậy thì ảnh hưởng tới những đứa tỉnh luôn chứ ích gì. Mỗi đứa một câu nghe phát điên lên được... - Tao không cột mày... - Sao mày cột ta... ao - Hàm răng tao đâu? ... Hàm răng tao đâu?... Number one... Number two... Ê Chi, tại sao mày lại chui vào cái nghề này? Ở xứ mày có những chuyện như vậy không?

Chi quay lại nhìn Henrietta, rồi quay nhìn đôi mắt trong vắt của Grace, đột nhiên thấy giọng mình trĩu xuống.

- Mày muốn biết hả, nghe tao đây. Suốt đời tao không biết đến chữ Nursing Home cho đến khi bước chân sang đây. Và tao không thể hình dung ra được Nursing Home như thế nào cho đến khi bước chân vào đây. Bà ngoại tao, bà nội tao đã sống nhọc nhằn suốt cả đời, mòn mỏi suốt cả đời vì loạn lạc, vì chiến tranh, vì đưa hết chồng đến con trai đi ra trận, nhưng đến lúc chết thì bà tao đã chết trong toại nguyện.

Cả Henrietta lẫn Grace cũng im lặng nhìn Chi, nàng tiếp:

- Vì bà tao đã chết giữa tình thương vây bọc chung quanh, vì cho đến giây phút cuối cùng, bà vẫn sống như một người có ích cho con cháu, vẫn là bài học của sự kiên nhẫn, lòng hi sinh, vẫn là hình ảnh tiêu biểu để hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.

Henrietta lắc đầu chồm tới Chi rồi lại bật trở ra, chiếc ghế dài như oằn oại dưới cử động nặng nề của thân hình nó:

- Làm sao người ta có thể sống được như thế khi người ta đã già mất rồi?

Chi lập lại từng tiếng:

- ... Người ta vẫn sống như thế, và người ta sẽ còn sống như thế...

Henrietta chợt cười khặc lên:

- Oh, oh, tao hiểu rồi. Tại vì ở xứ mày, người ta luôn luôn phải mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn chứ gì? Còn ở đây, ở trên đất nước giàu có với một nền văn minh nhất thế giới này thì tụi tao đâu có cần phải mơ tưởng gì tới một tương lai nào khác nên cũng đâu cần phải ngã mũ chào quá khứ một cách quá ân cần làm chi. Cái tình thương yêu mà tụi mày dành cho ông bà cha mẹ, cho thế hệ trước chung qui chỉ có nghĩa là sự biến dạng đẹp đẽ của lòng thương xót về sự nhọc nhằn nghèo đói bệnh tật chiến tranh và chậm tiến mà đời họ đã phải trải qua thôi...

Chi cảm thấy rõ hai má mình đang nóng bừng lên, cơn giận dâng lên nghẹn cổ. Cơn giận mà nàng biết rằng đến một mức nào đó thì mớ ngôn ngữ của nàng sẽ không đủ để ném trả Henrietta. Rất nhanh, Chi muốn bật cười, đồng thời, kỳ quặc thay, nàng lại thấy thương xót cho Henrietta như chưa bao giờ thương xót nó đến thế. Chưa bao giờ Henrietta hiện ra dưới mắt nàng với đầy đủ tính chất Mỹ trong cuộc sống và cách nhìn cuộc đời như thế. Giọng Chi khàn lại, nàng lựa từng chữ một.

- Tội nghiệp mày, Henrie. Cách lý luận của mày không những tối tăm mà lại còn bội bạc nữa. Tao nhắc lại, đó là một sự bội bạc khi mày nói rằng tụi mày không cần phải mơ tới một tương lai nào khác nên cũng không cần phải ngã mũ chào quá khứ quá ân cần làm chi. Kế đó là một sự tối tăm vì mày không hiểu rằng đối với chúng tao, tình yêu thương dành cho cha mẹ già đặt trên căn bản thiêng liêng của huyết thống, của một nền tảng gia đình nó ràng buộc chặt chẽ từng người lại với nhau, như những mắt xích không rời, từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi. Nhưng nói cho cùng, mày cũng không có lỗi gì đâu Henrie, vì cả một xã hội mà mày đã sinh ra và lớn lên đã được tập thành như vậy mà. Và dường như là mày cũng không định có con làm gì cho mệt vì dẫu có nuôi nổi đến mười đứa rồi thì mày cũng phải chết già chết héo một mình ở đây như tất cả mọi người đang ở đây mà thôi. Ồ, Henrie, tụi mày đang tìm cách xóa bỏ đi càng nhiều càng hay những món nợ tinh thần, những mối dây ràng buộc đời trước với đời sau. Người ta đẩy con cái ra khỏi nhà rất sớm, nói là đẩy chúng tự làm ra tiền, tự hiểu giá trị của đồng tiền, tự rèn luyện tinh thần độc lập. Người ta cũng đẩy cha mẹ vào viện dưỡng lão rất sớm, nói là để họ được chăm sóc chu đáo, được sống trong môi trường thích hợp giữa những người đồng tuổi, được thoát khỏi phiền toái của cuộc đời bon chen. Ðó là một sự man trá về tinh thần và là sự tự hủy về xã hội, mày có biết không, Henrietta?

Chi thở ra rất dài như một con cá bị ném ra khỏi mặt nước. Ðúng hơn, như một con cá sống trong dòng sông bị cuốn trôi ra biển rộng. Với cái ý tưởng đó, nàng cựa quậy trong chiếc ghế như bị ngộp thở vì nước mặn. Ðôi mắt Henrietta mở to nhìn nàng như không khép lại được nữa. Chi nghĩ, mặc nó, mặc nó. Nó có man trá hay tự hủy gì thì cũng mặc nó. Ai bảo mình trôi dạt đến đây làm gì. Chi nhắm mắt lại, lặng nghe cái cảm giác nóng ấm của những dòng nước mắt chảy vỗ về xuống má. Henrietta và Grace cũng im lặng. Chung quanh cả ba chỉ có tiếng hét đều đặn của lão Monpavio vọng lại và tiếng kim đồng hồ treo trên tường điểm từng tiếng tích tắc tích tắc. Tiếng chân của tử thần. Henrietta vẫn gọi thế, và Grace sửa là Tiếng thời gian, để nghe cho rõ đỡ sợ. Một lúc lâu, lâu lắm, Henrietta bước đến ngồi bên cạnh Chi, đặt tay lên nàng:

- Tao xin lỗi mày, Chi. Có lẽ... Tao chưa hiểu hết những điều mày nói đâu, nó làm tao mệt trí cũng y như là khi mày nói về tụi cộng sản ở nước mày vậy, nhưng tao cảm thấy là mày nói đúng và sau này tao sẽ hiểu nhiều hơn. Có lẽ mày nói cũng đúng nữa Grace, nhiều khi tao sống mà chẳng nghĩ gì cả. Tao không muốn nghĩ, thật đó, nó làm mệt óc quá...

Chi quay lại nhìn Henrietta, nhìn Grace, nhìn hai khuôn mặt thân thiết đã chia chung với nàng những đêm dài ở đấy. Những đêm dài rất dài, những giờ khắc khi tất cả mọi người, tất cả cuộc đời đều ngủ kỹ thì những nàng áo trắng điên rồ và cao cả này ở đây đi qua những cơn đau, nhìn xuống những nỗi buồn dài, thấm thía nỗi chết lặng lẽ vào tâm hồn, và rồi gây gổ nhau, giận hờn nhau, yêu mến nhau. Chi thấy mình mỉm cười, cảm giác ngộp thở biến mất. Grace vươn vai đứng dậy:

- Thôi, tao đi xuống phòng Monpavio đây, đêm nay mà nghe lão hét thêm nữa thì nhức đầu điên lên mất. Mày có đi với tao không Chi?

Chi nhìn đồng hồ tay, lắc đầu:

- Thôi, tao đợi hai mươi phút nữa xuống dãy C luôn thể. Mày coi lại sổ xem lão có còn thuốc không thì order thêm cho lão.

Grace với tay lấy chùm chìa khóa đi về phía tủ thuốc, mở ngăn thuốc của lão Monpavio ra rồi quay lại:

- Yên tâm, lão còn đủ thuốc uống cho đến... sang năm...

Henrietta tiếp luôn:

- Chỉ sợ lão không còn sống đến sang năm để mà uống thôi...

Grace nguýt Henrietta rồi bỏ đi vào Utility Room, một lát sau, lại có tiếng những cái thermometers lao xao trong tay nó. Grace có cái tật trẻ con một cách đáng yêu là chuyên môn dùng những cái thermometers thủy ngân để lấy nhiệt độ bệnh nhân. Không phải vì loại này chính xác hơn mà vì nó thích nghịch với hàng chục chiếc thermometer vừa dùng trong ngày được ngâm trong chiếc khay nhôm đổ ngập... alcohol, nghe vui tai như tiếng những chiếc khánh reo ngoài vườn cây trong những buổi chiều đầy gió, nó nói. Và y như Chi đoán, trong vườn nhà Grace có treo đến năm bảy chiếc khánh nghe lao xao ríu rít ngày đêm. Chi đã cười bảo nó, mày thật là một em gái Hoa Kỳ mà tâm hồn đầy tiếng chuông khánh nhã nhạc Ðông phương, chắc tao phải tìm cho mày một chàng boyfriend Việt Nam, không thôi mày lại rơi vào một tay một anh quân tử Tàu nào đó thì thật uổng.

Henrietta vẫn ngồi bên cạnh Chi, dựa đầu vào thành ghế, nhỏm dậy nói với theo Grace:

- Ê, mày làm sao cho lão câm họng lại được mới hay. Bằng không thì đừng bày đặt êm ái, bày đặt lương tâm nghề nghiệp, mất công lắm nghe.

Grace không nói gì nữa, tiếng chân nó xa dần. Một lúc sau, lão Monpavio im bặt, có lẽ Grace đang nói năng gì đó. Ðược...
Phượng Các
#4 Posted : Friday, May 6, 2005 1:35:04 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
(tiếp theo và hết)

Con Marta có một lần ghé sát tai Monpavio hỏi: "Hey, Monpavio, còn Number three là cái gì vậy?" Không biết lão có hiểu câu hỏi hay không mà chỉ biết rằng lão lồng lộn lên chửi rủa bằng tiếng ý, hai tay lão quơ múa tứ phía, lão chửi xối xả như nước chảy, chửi dữ dội đến nỗi cuối cùng Marta hoảng sợ chạy lên báo rằng nó lỡ đùa làm Monpavio giận và bây giờ không biết cách gì để làm lão nguôi. Ðáng tiếc rằng Marta lại báo cáo với một cô y tá trời đánh như Henrietta, Henrietta cười ha hả: "Có gì đâu, để mặc cho lão chửi cho nó... nở phổi. Mày chỉ cần coi chừng bà Beth thôi chứ tao thì dễ lắm. Mày không hỏi lão câu đó thì cũng có lúc sẽ có đứa khác hỏi. Tao hiểu mà..."

Grace ngồi bên cạnh nghe Henrietta, giơ hết hai tay lên kêu trời, Henrietta quay lại:

- Mày sợ lão la lối quá sẽ lăn ra mà chết mất hả? Ðừng có ngốc quá đi. Coi, suốt ngày lão có được nói năng gì đâu ngoài mấy cái numbers dơ dáy của lão. Shift ban ngày tụi nó đâu có thì giờ để chọc cho lão nói đâu, mà tụi therapists thì cũng chịu thua không tới gần lão được. Chỉ có tụi mình là tương đối... hiểu lão thì cũng nên làm phước tập cho lão nói không thôi sẽ có ngày lão quên mất cả tiếng ý luôn thì khổ. Lão có xuống địa ngục hay lên thiên đàng thì cũng phải biết nói một thứ tiếng gì đó để người ta còn phân biệt được quốc tịch lão chứ.

Không cãi lại được Henrietta, Grace quay qua đe dọa:

- Mày có dám nói như vậy trước mắt bà Beth không?

Henrietta nhún vai bỏ đi:

- Bộ mày cho là tao... ngu lắm sao!



Ở phòng 120, Marie và Edna đang bắt đầu chương trình cãi nhau hằng đêm của hai mụ. Phòng ấy có ba người nhưng Cecile coi như không đáng kể vì mụ không gây ra phiền hà rắc rối gì ngoài cái tật nghêu ngao hát và hát thật lớn suốt cả ngày. Mỗi sáng sau khi được đánh răng rửa mặt thay quần áo rồi thẩy lên xe lăn, đẩy ra phòng ăn chờ bữa điểm tâm, mụ bắt đầu hát vang rền cho đến bữa ăn trưa. Sau bữa trưa, mụ được đẩy trở về phòng ngủ một giấc ngắn cho đến khoảng hai giờ chiều, rồi từ đó mụ lại tiếp tục hát cho đến chín giờ tối là giờ lên giường ngủ. Mụ không những được gọi là con chim sơn ca, đối với Chi thì đây là loại sơn ca bị nhốt trong lồng nhưng vẫn hót cho đến khi nhỏ hết giọt máu cuối cùng ra khỏi buồng phổi héo khô, mụ còn được gọi là người nhạc sĩ có khả năng sáng tác nhanh nhất và khỏe nhất vì tất cả mọi lời lẽ người ta nói vào tai mụ, chẳng hạn: "Cecile, hôm qua mụ ngủ ngon không?", hay: "Cecile, mụ chưa ăn hết phần điểm tâm mà!..." đều được mụ lập tức lập lại nguyên văn và phổ thành nhạc với âm giai du dương trầm bổng. Nhưng với Marie và Edna thì cuộc đời không du dương với đầy nhạc điệu như thế. Hai mụ này, ban ngày là đôi bạn khắn khít nhất đời, có mặt bên nhau ở bất cứ mọi nơi, bất cứ mọi lúc, ngồi cạnh nhau trong phòng ăn, đẩy về phòng ngủ cùng lúc, trả lên giường ngủ cùng giờ. Nếu ở trong phòng thì Marie bấm đèn liên tu bất tận, không phải để đòi hỏi điều gì cho mụ mà là để cho Edna: "Edna nó cần thêm một ly sữa nữa." "Thay tã thay váy cho Edna đi, nó mới tiểu ướt hết nữa rồi đó!", "Không, không được đút thức ăn cho Edna như vậy, nó sẽ mắc nghẹn cho mà coi, phải đút từng muỗng nhỏ thôi, và đút vào bên mé trái, vì cái răng hàm bên mặt của nó đang đau"... Marie không những là bạn, là chị, là cô giáo, là mẹ Edna mà mụ còn kiêm luôn cả công việc làm luật sư cho Edna nữa:" Con step-daughter của Edna vừa bán mất cái nhà của chồng nó để lại, con nhỏ đó nó không có quyền gì về cái nhà đó hết. Thằng cha luật sư làm ẩu. Tao sẽ gọi luật sư của tao kiện vụ này cho nó..." ...Nhưng đến khi đêm xuống, khi cả hai đã được đem lên giường ngủ và bắt đầu thiu thiu ngủ thì hai mụ biến thành hai mụ hàng xóm không thể đội trời chung. Edna ngủ hay trở giấc, hay khóc nỉ non gọi tên con gái mụ trong giấc ngủ; "Victoria, Victoria..." và tệ hơn nữa, mụ hay bấm đèn để hỏi bây giờ là mấy giờ, bây giờ là ngày hay đêm, bây giờ Victoria nó ở đâu... Marie choàng dậy hét lên:"Con Victoria của mày nó đang ngủ, nó đang ở nhà, nó đang ở nhà nó, mày im đi, im đi, im miệng đi..." Cứ như thế khoảng mười lăm phút thì câu trả lời của Marie sẽ là:"Con Victoria khốn kiếp nó chết rồi, nó chết lâu rồi..." Edna tức khắc gào lên ầm ĩ và Marie thì tiếp tục hét với cái giọng the thé của mụ, im đi, im đi, im miệng đi... Cứ như thế hai mụ kéo dài cho đến khi nào một trong hai mệt ngủ lịm đi thì trận chiến được coi như tạm chấm dứt để lại bắt đầu bằng một sáng ngày mai thắm thiết tình chị em. Henrietta thì cực chẳng đã mới chịu bước chân vào phòng này, nó luôn miệng lập đi lập lại, mai mốt tao lấy chồng mà mụ mẹ chồng tao có cái giọng the thé như Marie thì tao thề sẽ chỉ nói với mụ hai câu trong đời: Hi và Bye!

Trông thấy Chi bước vào, Marie vớ lấy:

- Chi, Chi, tao phải được đổi qua phòng khác mới được. Tao không thể nào nằm thêm ở cái phòng này với Edna thêm một đêm nào nữa. Nó làm tao điên mất... Chi...

Chi với tay tắt ngọn đèn đầu giường soi chói chang trên sống mũi khoắm và những nếp nhăn như những lượn sóng nhấp nhô trên trán Marie:

- Sao mụ không tắt đèn đi. Ðể thế này chẳng trách mụ không ngủ được. Ðổi đi phòng khác thì rồi mụ cũng lại đòi đổi trở về vì mụ nhớ Edna, mụ lo không có ai khuyên lơn nhắc nhở Edna. Mụ cứ đổi đi đổi về như vậy mấy lần rồi nhớ không?

Marie nhỏm dậy:

- Tao thề lần này tao sẽ không đòi trở về nữa. Tao chán nó lắm rồi, tao chán cái con Victoria khốn kiếp nào của nó lắm rồi.

Chi bật cười:

- Tốt hơn là mụ nên để cho Edna rên rỉ một chút rồi mụ sẽ ngủ lại ngay. Nếu mụ gây gổ thì Edna cũng sẽ thức mà gây với mụ suốt đêm. Cứ như vậy hoài thì cả hai cùng mệt. Và mụ thì sẽ không được đổi phòng nữa đâu, cũng sẽ không có thuốc ngủ hàng đêm nữa đâu. Tôi lập lại, không đâu.

Marie tiu nghỉu như đứa trẻ không vòi được quà. Biết là không thay đổi gì được, mụ quay qua yêu sách:

- Tao muốn uống một ly sữa. Tao khát quá. Một ly nhỏ nữa thôi, và tao cần thêm một tấm chăn nữa, một tấm chăn mỏng thôi. Ðêm nay trời lạnh quá Chi. Chi coi kìa, mày làm ơn kéo màn cửa sổ lại hết cho tao nghe. Tao không chịu được cái thứ ánh trăng này đâu. Nó lạnh tới tận xương tao, tới óc tao...

- Màn đã kéo kín hết rồi Marie. Mụ thử quay mặt vào trong đi. Ðừng nghĩ tới trăng, cũng đừng nghĩ tới Edna nữa. Nào đếm đi. Một, hai, ba. Marie, Marettie. Một, hai , ba. Marie, Marettie...

- Marie đã quay mặt vào trong, bật lên cười, tiếng cười úp trong gối chận bớt cái âm the thé của mụ biến thành dễ thương như tiếng cười của một cô bé ngủ mơ. Mụ thì thào nói tiếp trong chiếc gối trong khi Chi rón rén bước ra.

- Sao có lúc mày hiền có lúc mày dữ. Có lúc mày thương tao cũng có lúc mày ghét tao... Chi Chi... Nhưng lúc nào tao cũng thương mày hết vì mày lo cho tao, mày nói chuyện với tao nhiều hơn là con cháu tao nói chuyện với tao. Có nhiều đêm thức dậy bấm đèn chỉ thấy mày tao buồn quá. Tụi nó bỏ tao hết rồi Chi Chi...



Bên cạnh giường Marie và Edna là một cặp hết sức tương xứng khác. Tính chất tương xứng thoạt đầu được xếp trên tính ngoan đạo của cả hai mụ, Madalena và Pamela. Hai mụ được xếp cùng phòng vào cùng ra sức trang hoàng bày biện góc tủ đầu giường của mình để nói lên niềm tin tưởng về sự cứu rỗi của tôn giáo. Vì cũng tham lam trong việc bày tỏ niềm tin ấy và cũng không thống nhất với nhau về một giới hạn tối thiểu để giữ cho căn phòng một vẻ hòa hợp nhìn trên phương diện thẩm mỹ nên kết quả là căn phòng hai mụ có một vẻ bề bộn khó thở với tranh ảnh tượng Ðức Mẹ, Chúa Hài Ðồng, thiên thần, kinh thánh, tràng hạt và vòng hoa. Thêm vào đó, Madalena xếp bên cạnh giường mụ ba chiếc ghế, trên ba chiếc ghế ấy được chất khăn trải giường, khăn mặt và khăn tắm đủ dùng cho hai mụ trong vòng một tháng. Không có thế lực nào trên đời có khả năng dẹp bỏ của mụ đống khăn ấy đi, và cũng không ai có thể lén cất dẹp bớt đi của mụ, dù chỉ một chiếc khăn mặt nhỏ được thử cất dấu đi vào ban đêm. Mụ đếm đi đếm lại đống khăn ấy hàng đêm, sau giờ cầu kinh vào lúc hai giờ khuya của mụ. Mỗi ngày, sau khi phải dùng một bộ trải giường, một chiếc khăn nhỏ, mụ bấm đèn đòi cho được một bộ khăn khác mang tới, giống như bất cứ một kẻ đầu cơ biển lận nào trên cõi đời, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ đống của cải của mình sẽ hao hụt mất mát đi. Ngoài cái tật hơi phiền hà đó, nói chung Madalena là một mụ già vui tính, dễ thương và Chi thích nói chuyện với mụ hàng đêm, sau giờ kinh nguyện bất di bất dịch vào lúc hai giờ khuya. Mụ Madalena nói rất quan trọng trong khi Chi chỉ đùa và mụ không hiểu ý nghĩa cách đùa của nàng nhưng cả hai vẫn nói chuyện với nhau hàng đêm và nếu đêm nào Chi tới trễ, mụ thức đợi nàng, bấm đèn gọi cho được Chi tới để lại nói với Chi từng ấy câu, từng ấy chữ và để Chi cười xoà chúc mụ ngủ lại cho ngon.

- Mày tốt lắm, ngoan lắm, Chi. Good girl. Tao đã cầu nguyện và sẽ tiếp tục cầu nguyện mãi cho mày. Chúng ta sẽ gặp nhau ở trên thiên đàng.

- Cám ơn Madalena, nhưng tôi mới vừa ở địa ngục trốn ra đây mà.

- Ðừng có đùa, địa ngục như thế nào, kể tao nghe coi.

- Không được đâu, tôi mà kể ra thì mụ sợ chết mất. Thôi tốt hơn hết là mụ đừng biết vì mụ cũng sẽ không bao giờ có dịp xuống đó đâu.

- Tội nghiệp Chi nhỏ bé. Tao sẽ cầu nguyện cho mày lên nước thiên đàng.

- Cám ơn mụ lần nữa, nhưng thiên đàng của mụ màu gì mới được. Ðỏ hay xanh?

- Oh, tao... tao không biết nữa. Có lẽ là nhiều màu lắm...

- Ok, màu gì cũng được hết, chỉ riêng có màu đỏ là tôi chê nghe. Tôi biết rõ thiên đường đỏ lắm rồi...

Mắt mụ mở to ngơ ngác nhìn Chi. Thoạt đầu thì mụ còn hỏi cố cho bằng được nhưng sau này thì cứ nói đến đây là Chi lại cười ngặt nghẽo, ấn đầu mụ nằm xuống.

- Nhưng mà thôi, chuyện đó dài lắm, kể đến hàng ngàn đêm cũng không hết đâu. Mụ đi ngủ đi là hơn. Good night...

Bên cạnh giường Madalena, Pamela nằm ngửa, hai chân co lại chống trên nệm, hai tay chắp trước ngực với chuỗi tràng hạt, mụ ngủ say sưa. Kiểu ngoan đạo của mụ không ồn ào với những bài kinh nguyện nửa khuya như Madalena nhưng gây phiền toái cho người chung quanh hơn. Cuốn Tân Ước và xâu chuỗi hạt không lúc nào rời tay, ban ngày ở trên xe lăn, ban đêm ở trên giường, một tay mụ lần chuỗi, một tay giở từng trang sách, mụ đọc rì rầm những hồi kinh bằng cái giọng đều đều đều đều. Lúc nào tìm được người nghe mụ nói, mụ nhanh nhẹn khoác tràng hạt vào cổ, cánh tay dang rộng, bàn tay ngửa lên trời. Mụ nói về cuộc đời, sự hi sinh và những phép lạ của Chúa. Dù người nghe mụ không tỏ ý phản đối hoặc nghi nghờ gì, thỉnh thoảng mụ vẫn ngưng lại, mở cuốn Tân Ước mà mụ nói là mụ đã giữ từ 30 năm qua, lật đến đúng một trang nào đó. Rồi cặp kính trễ xuống mũi, mụ bắt đầu đọc, mụ đọc cho đến lúc chợt nhận ra rằng mụ già ngồi nghe mụ nói, nạn nhân của mụ đã ngủ gà ngủ gật hay đã lẳng lặng đẩy xe bỏ đi nơi khác tự bao giờ. Thường thì những bài thuyết giảng của mụ bị chấm dứt một cách không lấy gì làm khích lệ như thế, và thường thì mụ lại nhún vai, hai cánh tay mở rộng, lắc đầu như tội nghiệp cho những tâm hồn chưa tìm thấy sự cứu rỗi, rồi lẳng lặng đẩy xe trở về phòng. Không hiểu sao Chi cứ cảm thấy trong cái kiểu thuyết giảng của mụ có một vẻ gì hết sức giả trá và nàng không đùa được với mụ như đùa với Madalena và những bài kinh nguyện ồn ào của mụ. Pam có cái dáng nằm ngủ không mấy đẹp đẽ, mụ luôn nằm thẳng, hai chân co lại chống trên nệm dang rộng thành một góc 120 độ, có khi rộng hơn nữa. Cái kiểu nằm chống chân như thế cùng với tấm chăn phủ trùm lên tạo thành một vòm chăn gối kềnh càng làm cho giường mụ lúc nào cũng có cái vẻ bề bộn khác hẳn với vẻ phẳng phiu ngăn nắp vẫn thường gìn giữ ở mọi giường bệnh khác. Henrietta gọi kiểu nằm của mụ là kiểu Woman at birth và nó thách Grace tìm ra được cái tên nào thanh tao, chính xác và gợi hình hơn. Dĩ nhiên là Grace chịu thua. Chi nghĩ giá Henrietta là người Việt và sính dùng chữ Hán Việt chắc chắn nó sẽ đổi tên kiểu nằm của mụ Pam thành kiểu "lâm bồn", nghe vẫn chính xác như thường mà lại có thừa thanh tao. Cho đến một đêm kia như thường lệ, con Elsa mở chăn mụ để xếp hai chân mụ lại cho xuôi, hoảng hốt thấy mụ cầm cứng một vật gì đó đã được thọc sâu vào cửa mình, nét mặt ngủ mê tràn trề hoan lạc. Elsa cắm đầu cắm cổ chạy lên Nurse's Station báo cáo. Phải có Chi và Grace đứng hai bên giường giữ chặt chân tay mụ, Henrietta mới rút được vật ấy ra khỏ mụ và người ta nhận ra được đó là một điếu xì gà. Pam la hét vùng vẫy điên cuồng như một con thú dữ, không phải đau mà vì hổ thẹn quá hoá thành giận dữ. Bảy giờ sáng ngày hôm sau, Shift buổi sáng vừa vào, câu chuyện điếu xì gà của mụ Pam đã được truyền đi nhanh như điện giật. Nguyên một vùng Nurse's Station toàn đàn bà con gái rúc rích những tiếng kêu trời, những tiếng ha hả cười rúc rích cười ngặt nghẽo cười đỏ mặt tía tai. Bà Margaret có lẽ cũng đã giấu tia cười sau cặp kính dày cộm, đập tay xuống mặt bàn, đi thẳng vào vấn đề trách nhiệm: "Các cô nào trực phòng đó sáng và chiều hôm qua? Tại sao Pam lại có được điếu xì gà? Tại sao?" Ðám con gái thoắt một cái ngưng bặt hết tiếng cười, lảng đi hết, ra cái điều bận rộn mỗi người một việc. Henrietta sau khi bấm thẻ ra về sớm hơn thường lệ, còn cố ném lại được một câu: "Tôi không hút xì gà, Maggie. Có Chúa chứng giám." Phải vài ngày sau, khi được thân nhân Pamela xác nhận, người ta mới biết rằng chính ông con trai của mụ đã vào thăm vào buổi chiều hôm trước đó; hôm sinh nhật mụ và để lại điếu xì gà vì mụ năn nỉ rằng mụ thích ngửi cái mùi thơm dễ chịu của loại xì gà ngày xưa chồng mụ hay hút. Mụ hứa đi hứa lại với người con trai rằng mụ sẽ chỉ cầm ngửi chơi thôi chứ không đốt hút. Lại một lần nữa, Henrietta nói với Chi và Grace rằng từ nay nó đổi tên kiểu nằm của mụ Pam thành kiểu "Xì gà", rằng Grace và Chi sẽ không thể phản đối gì được cả vì không ai có thể phủ nhận được cái mùi thơm nhẹ nhàng lịch sự và đắt tiền của xì gà. Trong vòng hai tuần lễ sau đó, Pamela ở trong tình trạng giận dữ kích động chưa bao giờ xảy ra trong suốt thời gian ba năm qua của mụ ở đây. Hình như mụ phẫn nộ với cả cuộc đời vì đời đã khám phá ra cái trò khoái lạc cuối đời của mụ. Sau đó thì mụ rút sâu vào trong góc phòng có tranh ảnh tượng, quyển Tân Ước, chuỗi hạt và những bài kinh nguyện rầm rì của mụ. Riêng những bài thuyết giảng lớn tiếng với mọi người chung quanh thì từ đó không bao giờ còn xẩy ra nữa.

Ðối diện với phòng Pamela là phòng Ophelia và Oberg, Chi thích gọi tên Ophelia Ophelia. Cái tên nghe cổ kính, đẹp và buồn như tên một nhân vật kịch Shakespeare. Lần đầu tiên nghe Chi nói như thế, Ophelia rưng rưng nước mắt cầm tay Chi nói: "Cảm ơn Chi, lâu lắm rồi, kể từ năm chồng tao chết đi, không ai còn nói với tao những điều tương tự như thế cả. Chữ nghĩa mỗi ngày nó cũng một thay đổi đi, ở thời này, không còn ai đặt tên con gái như thế nữa... " Tuy không có cái vẻ đẹp trầm tư của de Beauvoir như Katrina nhưng Ophelia mới chính là người có những hoạt động tinh thần phong phú nhất. Mụ là một trong những bệnh nhân còn tỉnh táo và trí thức nhất. Sách vở tạp chí chất đầy trên tủ mụ. Những cuốn sách, những cuốn mẫu thêu, sách dạy móc crochet, dạy nấu ăn, những cuốn album và những cuốn sổ chi tiêu tiền chợ, tiền điện nước... tất cả đều già hơn Chi hằng chục năm tuổi, đều xa lạ, xưa cũ, vàng úa và mỏng manh cơ hồ như sẽ tan mất thành bụi bất cứ lúc nào. Ðược hỏi rằng quả thật sách vở thì cũng nên giữ nhưng sổ chi tiêu thì còn giữ làm gì, mụ trân trối nhìn người hỏi tựa như kẻ ấy vừa hỏi một điều ngu xuẩn nhất đời rồi lẳng lặng lôi một trong những cuốn sổ ấy ra, lật giở đến một trang nào đó, dí sát tận mặt kẻ ngu xuẩn: "... Ngày - tháng - năm - một hộp kẹo chanh 75 xu. Ðưa Tommy đi học lần đầu... Ngày - tháng - năm - Billy quên trả tiền nước. Cúp nước nửa ngày. Cả nhà phải đi ăn tiệm. 8 $ 47 xu... Ngày - tháng - năm - Bỏ quên hộp xà bông 20 lbs ở tiệm giặt. Quên luôn cây dù mới mua 3 $ 28 xu. Trở lại tìm không thấy. Billy nói mình ngốc. Cãi nhau... Ngày - tháng - năm - Billy nhặt hết tiền lẻ trong ví mình, nói để mua thuốc lá. Buổi chiều Kim điện thoại nói Billy mua cho con Sue một bông hồng. Cãi nhau... Ngoài ra, mụ còn giữ kè kè bên mình một chiếc ví da lớn và luôn luôn mang nó theo mỗi khi bước chân ra khỏi phòng, giống như bất cứ người đàn bà lịch sự nào trên cõi đời luôn luôn bước ra đường với chiếc ví nhỏ trong tay. Chỉ khác là trong chiếc ví của mụ không có giấy tờ tùy thân cũng không có tiền bạc mà chỉ có những cây son cụt đầu, những cây bút chì kẻ mắt gẫy, những lọ nước hoa cạn khô và vô số thứ giấy tờ lỉnh kỉnh, coupon, bill, thiệp Giáng sinh, Sinh nhật... lẫn giữa những mảnh giấy viết khoáy của chồng mụ, một ông Billy quá cố nào đó đã bỏ mụ mà đi từ mười mấy năm xưa. Bên cạnh chiếc ví gia bảo và đám sách báo mà Ophelia nói rằng mụ sẽ giữ cho đến chết, mụ còn giữ được một thói quen rất dễ thương và rất trí thức khác. Mụ viết nhật ký. Ophelia có một quyển sổ dày cộm rách mướp mà trong đó mụ ghi lại tất cả những điều, những sinh hoạt xảy ra hàng ngày. Người ta có thể rất dễ hình dung ra được rằng đó là một quyển nhật ký rất đáng chán vì tất cả những điều được ghi lại là những điều gói trọn giữa bốn vòng tường trắng, trôi đi theo một thời khóa biểu bất di bất dịch sáng trưa chiều tối ngày đêm. Cả những cơn mưa buồn rầu chờ đợi thao thức cũng trôi đi như thế. Lẳng lặng không ngày tháng không thứ bảy chủ nhật thứ hai thứ ba, ngày nào cũng giống như nhau cũng tiếp tiếp không rõ rệt vì cũng dài hai mươi bốn tiếng... ;... Ngày tháng năm... Ðiểm tâm có trà, sữa, nước cam, trứng và một miếng bánh mì. Buổi trưa nước cam, trà, súp, một miếng thịt chiên. Buổi tối chắc cũng sẽ không khác ngày hôm qua. Mong rằng họ sẽ dọn một thứ gì đó để nuốt, một thứ gì đó không khó nhai quá... Ngày tháng năm... Tommy và Elliot nói sẽ đến đây trước bữa ăn tối. Mong rằng chúng nó sẽ đến sớm. Mẹ mong các con. Cầu nguyện cho các con. Có lẽ... mình muốn có một chiếc gương nhỏ để trong ví, một đôi giầy khác, hai đôi giày này cũ quá rồi... Mình còn muốn gì nữa không... có thể... thuốc lá chăng?... Nếu chúng nó không cấm mình... Ngày tháng năm... Tommy và Elliot đã không tới tối hôm qua. Có chuyện gì không? Hôm nay chúng sẽ tới không? Hãy tới, hãy tới Tommy. Mẹ cần con biết bao... Ngày tháng năm... Món thịt cừu tối nay khó nuốt quá. Mình đã ăn cả trái táo của mình lẫn trái táo của Oberg. Hôm nay hình mhư lạnh hơn hôm qua vài độ. Chắc chắn mình sẽ nói Tommy mua cho mình một đôi giày mới... Tối mai chắc nó phải tới...

Ophelia cao 5ft 8, dáng gầy và lưng rất thẳng. Chứng bệnh osteoporosis hành hạ vào làm còng lưng một phần ba bệnh nhân phụ nữ ở đây không ảnh hưởng chút nào đến mụ. Mỗi tối mụ và Gloria thường ngồi cạnh nhau ở TV Room, bấm hết từ đài này sang đài khác nhưng cứ đến khoảng 11 giờ 30, khi mụ vừa chán phần tin tức hằng ngày ở các đài và Gloria cũng vừa cúi xuống ngủ gục, Ophelia bỏ đứng dậy, một tay kẹp chặt chiếc ví dưới nách, một tay vịn vào tường, đi lần lần từng bước một trở về phòng... Cứ bị trêu chọc vì những thứ đựng trong ví, Ophelia rầu rầu nói một thôi một hồi:

- Tao không có tiền đâu. Ở đây người ta không có tiền đâu mà chỉ có thì giờ thôi. Mà thì giờ thì biết làm gì cho hết nên tao cất bớt vào trong ví này vậy. Các cô có cần thì cứ đến lấy mà dùng đi, dùng hết đi kẻo không kịp hối tiếc. Nào lại đây, lại đây, ta cho Grace thêm thì giờ để yêu, Henrietta thêm thì giờ để ca hát, Chi thêm thì giờ để thương nhớ về đất nước xa xăm của nó... Nào lại đây... Tất cả các cô gái non trẻ kia lại đây...

Với cái dáng cao gầy, tấm lưng thon thẳng trong những chiếc áo ngủ hoa dài lướt thướt, nhìn từ phía sau lưng trông Ophelia cũng còn cái vẻ đẹp của một thiếu phụ còn xuân với chiếc ví da đựng thời gian và những trang nhật ký như một nhân vật vừa bước ra từ những vở kịch Shakespeare ấy đã phải sống chung từ năm năm qua với Oberg. Thật ra Oberg năm nay 79 tuổi, trẻ hơn Ophelia nhưng vào đây từ trước Ophelia và bệnh hoạn hơn Ophelia. Mụ giống Sylvia ở chiếc bụng vĩ đại nhưng trông mụ nặng nề hơn cả Sylvia vì mụ thấp người hơn. Và, cũng như Sylvia, phải có ít nhất hai người mới trở mình được cho mụ ở trên giường và ít nhất ba người để đem mụ từ giường ra xe lăn hoặc từ xe lăn trở về. Từ dạo Giáng Sinh, không biết có ai đó đem cho mụ một con búp bê và mụ ôm rịn nó bên người, đem theo nó vào phòng tắm, phòng ăn, ôm nó lên giường ngủ. Ðó là một con búp bê mà mọi người đều xác định là con gái vì mái tóc bạch kim dài óng ả và chiếc váy đầm màu hồng của nó, nhưng Oberg thì có lẽ vì nghe Ophelia nhắc mãi đến ông con trai Tommy nên nhất mực gọi con búp bê là Tommy. Nó là Tommy của tao. Tommy như thế sớm trở thành một con búp bê bất hạnh. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, mái tóc bạch kim của nó biến thành vàng xỉn tả tơi, chiếc váy đầm hồng thì vì phải theo Oberg vào phòng tắm quá nhiều nên cuối cùng được bọn Aides cởi luôn ra cho tiện việc. Chiếc miệng hồng nhỏ với cặp răng cửa xinh xắn thì vì được Oberg đút cho ăn mỗi ngày ba lần nên không lúc nào được sạch sẽ, cereals khô dính lem luốc trên tóc trên má, vướng mắc vào trong kẽ răng hốc miệng của nó. Buổi tối, khi lau rửa cho Oberg để đưa mụ lên giường ngủ, người ta cũng phải lau rửa luôn cho Tommy. Oberg xoay người nằm nghiêng ôm cứng lấy con búp bê nhỏ bé, vạch nhét chiếc vú nhăn nheo khô quắt vào miệng nó, bú đi bú đi bú đi con... Không thấy con búp bê phản ứng gì, một lúc sau, mụ đổi chiếc vú khác vào miệng nó, tiếp tục câu ru ơi hời, bú đi bú đi bú đi con... Oberg cho con búp bê bú như thế khoảng từ hai mươi phút đến nửa tiếng thì ngủ thiếp đi. Con Tommy nằm bẹp dí dưới bụng mụ. Một tay mụ vẫn chặn ngang người nó, tay kia mụ bỏ ngoặt về phía sau, ngón tay trỏ thọc vào hậu môn. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ thì người ta trở mình cho mụ một lần và mụ cũng đổi ngón tay trỏ trong động tác ấy một lần. Kết quả là gần như sáng nào hai ngón tay trỏ của mụ và mắt mũi con Tommy cũng dính ít nhiều phân. Những biện pháp ngăn ngừa như chận tay mụ xuống dưới chăn hay mang bao tay cho mụ đều không mang lại kết quả gì. Chỉ có cách cột tay mụ vào thành giường là tương đối có kết quả nhưng lại không có ai nỡ cột tay mụ hằng đêm và cũng không có ai đủ kiên nhẫn cột đi cột lại mỗi hai tiếng đồng hồ như thế. Sức nặng quá mức trung bình và những đầu ngón tay vấy phân tốn công tắm rửa của Oberg biến mụ thành một trong những assignment nặng nề mà sáng nào các cô Aides cũng tỵ hiềm nhau để khỏi phải nhận lãnh, và không ai trong những lúc phải lau rửa hai đầu ngón tay vấy phân ấy của mụ mà không kèm theo những lời đay nghiến dằn vặt. Oberg lẳng lặng đón nhận những lời đay nghiến dằn vặt ấy bằng đôi con mắt lờ đờ vô cảm, chiếc cằm lởm chởm râu và chiếc miệng há hốc hít thở từng cơn như phân trần ai oán. Nhìn mụ người ta rất dễ dàng nhận ra tính chất tương đồng giữa những đứa trẻ sơ sinh và những người rất già nua mà sinh hoạt hằng ngày giới hạn trong nhu cầu vận dụng những khả năng bình thường bằng năm giác quan, ăn ngủ đi đứng khóc cười hít thở. Tất cả có vẻ như là một cái cớ để chờ đợi thời gian trôi qua.

Có một lần, con búp bê Tommy trần truồng của mụ rơi từ trên xe lăn xuống đất đúng lúc Maria đẩy chiếc xô lau nhà đầy nước đi tới. Con búp bê bị cán dẹp đầu. Chiếc đầu cao su chỉ trong chốc lát lại tròn xoe như cũ nhưng Oberg ôm lấy con búp bê mà khóc lóc thảm thiết, Tommy Tommy con ơi. Tiếng khóc cũng kể lể ai oán như tiếng khóc bị tình phụ của Katrina. Hơn thế nữa, mụ đẩy con búp bê lên Nurse's Station đòi băng bó cho bằng được chiếc đầu và đòi khám bệnh chích thuốc cho nó. Bà Margaret bỏ công ngồi bên mụ khoảng nửa giờ, giải thích cho mụ hiểu rằng con Tommy chỉ là một con búp bê bằng nhựa, rằng chiếc đầu nó đã lành lặn như cũ không cần thuốc men gì hết. Vô ích. Mụ cứ khóc lóc nỉ non như đâm như chích vào tai từng người. Cuối cùng bà Margaret đành phải làm ngơ để cho một cô y tá nào đó quấn vào đầu con búp bê mấy vòng băng trắng kín mít và chích vào tay nó mấy cc nước để mụ im miệng. Nhớ chiếc đầu băng bó ấy mà mụ không đem con búp bê vào phòng tắm trong khoảng một tuần lễ. Sau tuần lễ ấy mụ đem nó trở lên, đòi gỡ băng và khám bệnh lại. Margaret thì cứ lắc đi lắc lại mãi chiếc đầu đã xù tóc của bà ta... "Chúng ta có bổn phận phải đưa bệnh nhân trở về trạng thái bình thường bằng cách giải thích cho họ hiều, bằng định nghĩa bình thường và với lý lẽ đơn giản. Chúng ta đã không làm được như thế mà phải nghe theo mụ, quấn băng vào đầu con búp bê thì thật là khôi hài. Thật là khôi hài..."

Căn phòng cuối cùng, căn phòng nằm xa tít tận cửa sau và ít cần tới sự chăm sóc nhất là phòng của mụ Rose. Nếu có lúc người ta đặt tên bệnh nhân theo một sổ cá tính hay bệnh trạng riêng của từng người như người này điên nhất, người kia khó chịu nhất, người nọ tội nghiệp nhất thì Rose được coi là bệnh nhân hạnh phúc nhất. Mụ có hai đứa cháu nhỏ. Không phải cháu mà là chắt mới đúng. Hai đứa bé khoảng năm, sáu tuổi mỗi tuần được mẹ chúng và bà ngoại chúng dẫn vào thăm Rose một lần. Những giờ thăm ngắn ngủi của hai đứa bé làm căn phòng tràn ngập những tiếng cười dòn tan, những câu chuyện ngây thơ và những tiếng hát non tươi bay cao vút như tiếng chim hót. Ngoài âm thanh, chúng còn mang theo cả một bầu trời màu sắc với những chiếc bong bóng hình trái tim xanh đỏ trắng vàng, những bức tranh vẽ trong lớp học họa hình người mặt mũi tròn xoe, cầu vồng bảy màu, chim chóc thú vật biết nói và hoa lá cây cỏ biết bay. Chi yêu thích nhất những câu thơ nhỏ viết bằng bút chì đỏ như: Roses are Red. Violets are Blue. Sugar is Sweet. And so are You. Rose sung sướng thấy Chi đứng nhìn ngắm những bài thơ và những bức vẽ trẻ con ấy. Mụ dúi vào tay Chi những viên kẹo cũng tròn to xanh đỏ tím vàng mà mụ để dành riêng cho hai đứa bé... Ăn đi ăn đi Chi... Người ta chỉ có thể ngậm những chiếc kẹo này khi người ta còn trẻ trung mà thôi. Chi bất đắc dĩ bỏ những viên kẹo vào túi để rồi khoảng mười lăm hai mươi phút sau, cần tìm kiếm một vật gì đó trong túi, chợt lôi ra những viên kẹo, nhìn ngắm cái màu sắc tươi tắn tròn trịa của chúng mà nghĩ đến Rose. Mụ nói đúng, Rose, người ta chỉ có thể ngậm những viên kẹo này khi lòng người ta còn trẻ trung thôi.

Ðầu Rose rụng trơ không còn một sợi tóc nào. Ban ngày mụ luôn luôn đội một mái tóc giả màu hung điểm tô thêm bằng những chiếc kẹp cùng màu với màu áo mặc hằng ngày. Ban đêm mái tóc giả ấy được treo cẩn thận lên một chiếc móc ngay trên đầu giường, ở một chỗ vừa tầm tay để mụ có thể với lấy mà đội một mình từ sáng sớm, không để bất cứ ai trông thấy mụ trong chiếc đầu trọc khô. Lần đầu tiên bước chân vào phòng Rose, Chi đã rợn người bước tháo lui vì mái tóc giả treo lửng lơ trên tường trong bóng đêm mờ trông y hệt như một chiếc đầu lâu lủng lẳng. Cái cảm giác rợn người muốn tháo lui đã được dẹp bỏ ngay nhưng cái cảm tưởng mái tóc giả giống y như chiếc đầu lâu lủng lẳng thì không khi nào buông tha Chi. Và cũng vì không có tóc nên Rose rất yêu quí mái tóc đen dầy dài mượt của Chi. Ði làm ban đêm, lười cuốn chải, lại càng không thể xỏa tóc lướt thướt, Chi luôn luôn búi tóc lên thành một búi lớn sau gáy. Rose thì chỉ đợi dịp kéo Chi ngồi xuống giường, xổ tung mái tóc nàng ra, nâng niu những lượn tóc đen dài trong tay, miệng thì thầm: ngày xưa tóc tao cũng dài như thế này, mượt như thế này, óng ả như thế này... Thời bây giờ tụi con gái không có đứa nào chịu nuôi tóc dài nữa... Chi cố giữ lấy mái tóc này nghe Chi nghe Chi...

Tuy yêu mến Rose, tuy hiểu rằng tất cả mọi người, kể cả người được gọi là hạnh phúc nhất ở đây như Rose đều có ít nhất là một điều thiếu sót cần được bù đắp, tuy hiểu thấm thía cái mặc cảm của mái đầu sói trơ che đậy từ năm này sang năm khác bằng mớ tóc giả, Chi vẫn không thể nào chịu được cảm giác bàn tay mụ vuốt ve trên tóc nàng. Sống lưng Chi cứ rợn lên từng cơn mỗi khi những ngón tay mụ lần sâu trong gáy. Cái cảm giác vừa ghê sợ vừa buồn rầu vừa thương hại trộn lẫn vào nhau giữ Chi ngồi im lặng bên giường mụ hằng đêm. Cuối cùng Chi phải bỏ ra mười lăm phút mỗi tối trước khi đi làm để thắt bím chặt mớ tóc lại trước khi búi cao lên rồi gài thêm bằng một chiếc trâm bạc chạm trổ mua ở phố Tàu. Cái búi tóc kiểu cách cộng thêm hai lọn tóc mai buông lơi bên tai làm thành một kiểu làm dáng độc đáo và kiêu sa khiến mụ Rose không có can đảm xin xổ tóc Chi ra nữa, hình như mụ hiểu. Suốt mấy đêm sau khi thấy mớ tóc tai nịt chặt chẽ của Chi, mụ quay mặt vào trong tường giả vờ ngủ mỗi khi nàng bước vào. Nhưng chỉ được mấy đêm mà thôi. Mụ không có lý do gì để giận được Chi lâu. Còn Chi thì cố tìm cách để đền bù lại cho mụ nhiều hơn, ân cần và dịu dàng với mụ nhiều hơn. Thật ra thì phòng mụ vẫn là căn phòng mà Chi rất ưa bước vào, nhất là vào buổi sáng sớm trước khi ra về, để nhìn ánh sáng sớm mai rực rỡ trên những màu sắc tươi hồng, khi mái tóc giả đã được đội gọn gàng trên đầu Rose, vào đúng vị trí bình thường của một mái tóc, những câu thơ trẻ nhỏ, quả bong bóng hình trái tim, mặt người tròn xoe, chim muông biết nói, hoa lá biết đi và bộ bàn ghế nhỏ xíu cũng hình trái tim xanh đỏ tím vàng xếp ở góc phòng. Kiểu bàn ghế thường thấy ở các kindergarten mà trên đó mụ Rose đặt đầy những chiếc khăn ăn bằng giấy màu xếp đủ kiểu rất đẹp mắt và công phu. Grace nói có lẽ ngày xưa mụ là một mệnh phụ thường xuyên đãi khách những bữa ăn không những ngon miệng mà còn rất đẹp đẽ và cầu kỳ. Henrietta trề môi: "Hứ, xếp khăn đẹp, cầu kỳ và nhanh như chớp thế kia thì ngày xưa mụ chỉ có thể là... waitress mà thôi!"



Khi Chi trở về Nurse's Station thì đồng hồ đã chỉ gần ba giờ rưỡi sáng. Henrietta đang cắm cúi bên đống hồ sơ bệnh lý, tay nó chống lấy đầu tựa như để đỡ cho chiếc đầu khỏi rơi gục xuống. Chi khoá tủ thuốc, ném chùm chìa khóa lên mặt bàn, ngồi xuống bên cạnh nó:

- Có gì không Henrie?

Henrietta ngước lên, đôi mắt mệt mỏi:

- Mày có giữ hồ sơ của Roger đấy không?

- Có đây, tao cầm theo đây. Tao định đến 4 giờ cho lão uống thuốc luôn thể... Sao vậy?

Henrietta gặng lại:

- Nghĩa là từ lúc 2 giờ đến giờ mày chưa trở lại phòng lão phải không?

Chi gật đầu sốt ruột:

- Ừ,... Mà sao?...

Henrietta lắc đầu:

- Không... Chắc cũng không có gì đâu... Mày coi lại coi. Bác sĩ của lão đến thăm lần trước vào ngày nào... Tuần trước đứa nào viết lại Patient Care Plan cho lão... Coi có loại PRN nào thì cho lão uống thêm đi... khỏi đợi tới 4 giờ nữa. Sổ của lão mày cầm đi từ nãy đến giờ nên tao không biết.

Kiểu nói năng rối mù ngắt quãng của Henrietta làm Chi bắt đầu lo ngại. Nàng gằn nó:

- Mày thấy lão làm sao thì nói cho tao biết ngay để tao xuống đó khỏi mất thêm thì giờ, Henrie!

Henrietta lại lắc đầu nữa:

- Không, tao chỉ muốn coi lại hồ sơ lão có gì lạ không... Lão cứ ngồi lên nằm xuống mãi không ngủ một chút nào. Vital signs thì bình thường thôi...

Thấy Chi còn đứng cau mày, nó hỏi tiếp:

- Lão hỏi mày đó. Ðến ngay đi. Trời sắp sáng rồi còn gì. Mày cũng chưa lấy break nữa phải không?



Chi ngừng bước trước cửa phòng Roger, lắng nghe tiếng thở nặng nề mệt nhọc và ngắt quãng của lão vọng ra. Nhịp thở ấy không giúp cho nàng đoán được rằng lão đang thức hay đang ngủ. Lối nói ngập ngừng của Henrietta tuy làm Chi lo âu nhưng nàng vẫn không muốn đánh thức Roger dậy trước giờ uống thuốc bình thường vì lão là người rất khó dỗ giấc, thêm vào đó lão cũng không thể ngủ ngày để bù vào giấc ngủ thiếu ban đêm. Chi thận trọng bước vào. Roger đang ngủ ngồi trên giường, hai chiếc gối kê sau lưng, chân co chân duỗi như đang dẫy dụa. Có lẽ Henrietta đã đỡ lão dậy lúc nãy cho lão dễ thở. Ðầu Roger gục xuống, lão thở toàn bằng miệng, hơi thở phì phò nóng hấp. Chi đặt tay lên trán lão, giật mình thấy trán lão, mặt lão và cả người lão đều ủ hơi nóng hổi ướt đầm. Nhìn xuống chiếc túi nước tiểu máng bên thành giường thấy màu nước tiểu trở vàng sậm, Chi vội vã kéo ngăn tủ tìm mấy chiếc ly nhựa nhỏ để lấy mẫu nước tiểu. Tiếng mở tủ gấp rút của Chi làm Roger choàng dậy, lão chồm tới chụp cổ tay Chi thảng thốt: Chi. Chi đặt bàn tay còn lại lên tay lão, như muốn ủ bàn tay sần sùi to lớn ấy trong tay mình, cúi xuống dịu dàng:

- Lão thấy trong người thế nào, hả Rogie?

Roger cứ rướn tới, nói bằng hơi thở hớp hớp từ miệng như ngộp nước:

- Có gì đâu Chi... Tao vẫn khỏe... khỏe...

Chi vuốt ngược những sợi tóc dính bệt trên trán lão:

- Henrie nói nãy giờ lão không ngủ được chút nào...

Roger lắc đầu:

- Tao có ngủ rồi mà... ngủ... ngủ... rồi hồi đầu hôm... Tao... tao mới nằm mơ Chi ạ...

- Lão mơ thấy gì nào? Mơ gì mà không ngủ được nữa vậy?

Roger co người lại:

- Tao thấy lửa. Lửa cháy. Lửa lửa lửa bốn bề... Trời ơi...

Chi giữ chặt tay Roger hơn nữa, thương cảm:

- Rogie. Quên những giấc mơ ấy đi. Quên đi Rogie..

Giọng Roger đổi não nuột. Lão thở ra từng tiếng một:

- Tao... sắp. ..chết rồi... Chi...

- Sao lão cứ nói như vậy mãi. Lão đã hứa là lão sẽ sống để nhìn thấy tôi già kia mà Rogie...

Roger vùng tay ra. Lão vương chụp lấy vai Chi, lắc mạnh:

- Không Chi. Chi... không kịp nữa rồi... Tao sắp chết mất rồi Chi... Tao biết mà Chi. Chi.

Mắt lão vụt đỏ ngầu. Hơi thở lão dồn bốc lên nóng hấp trên mặt Chi. Nàng hốt hoảng gỡ tay lão ra:

-...
Phượng Các
#5 Posted : Monday, January 16, 2006 6:56:46 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)


Nô Lệ Hậu Hiện Đại

Vũ Quỳnh Hương

Ở Sài Gòn khách sạn xoàng xĩnh một hai sao cũng có người túc trực mở cửa
anh chàng ốm o đồng phục bèo nhèo
tôi đi ra đi vào ngày năm bảy bận không ngớt ngạc nhiên ngó anh
một trong những thành phẩm vụng về của đất nước mới cựa mình sau giấc ngủ hậu chiến lê thê

Ở Sài Gòn khách sạn xoàng xĩnh một hai sao anh Việt kiều lùn bảnh bao hai tay khoác vai hai cô gái thon cao
anh tóc muối tiêu trán bóng giày cũng bóng - thành quả lao động của quá nhiều trẻ đánh giày trên đường phố - nện bước tự tin đưa hai cô lên lầu

Ở Sài Gòn khách sạn xoàng xĩnh một hai sao khách nước ngoaì lui tới rộn ràng
đa số Đài Loan béo tốt mỡ màng điện thoại di động reo ầm ĩ ra vào khệnh khạng
ngươì giữ cửa lễ độ mắt ngó xuống

Ở Sài Gòn khách sạn xoàng xĩnh một hai sao buổi trưa vắng anh da trắng đưa cô em xuống lầu
tiễn cô ra tận ngoài đường âu yếm phát vào mông cô hẹn lần sau gặp lại
anh đến đây hưởng thụ đất nước thiên nhiên tươi đẹp cần sa ma tuý dễ mua
nhanh chân thức thời biết Thái Lan đã hân hoan nhường lại Việt Nam danh hiệu ổ điếm quốc tế
anh hậu duệ người lính Tây 54 người lính Mỹ 75 đi tìm hoa trên mảnh đất nhọc nhằn
tổ quốc kiêu hùng sau ba mươi năm còn đồng thiếp cơn chiến thắng
anh mua lẻ từng suất từng đêm không mua khóan cả đời
anh tương đối sòng phẳng ít cò kè phục vụ suất nào trả tiền suất ấy
thuận mua vừa bán không có gì mờ ám
đôi khi anh bóc lột sức lao động bày chiêu quái lạ và có khả năng Sida
Nhưng không bề hội đồng không trừ tiền giấy tờ bảo lãnh không lợi dụng chiêu bài hôn nhân không hứa hẹn trăng sao lếu láo
không nhổ bậy không nhai ồn ào và thỉnh thoảng lịch sự cám ơn người giữ cửa

Ở Sài Gòn khách sạn có nhiều dịch vụ thương mại công khai qua các trung tâm môi giới các văn phòng tư vấn hôn nhân
khách Đài Loan liên tục tiến hành phỏng vấn tìm vợ trẻ và người giúp việc khoẻ
con gái chưa kịp lớn xanh trái cây bẻ vội môi má vừa chớm hồng chắc lòng chưa kịp yêu ai
con gái nhà quê con gái nhà nghèo con gái thất học cha mẹ lam lũ nhà nhiều miệng ăn
con gái miền Tây tóc thôi thơm mùi lúa chín con gái phù sa tròn trịa tốt tươi những cánh đồng xưa mầu mỡ phì nhiêu cò bay thẳng cánh
con gái tuổi đi chùa Hương xúng xính quần lĩnh áo the mới tha thiết ngây thơ mơ "Sao cho em lấy chàng"
con gái ở đâu về xao xác đầy nhà lũ lượt cùng nhau chờ phỏng vấn

Ở Sài Gòn khách sạn mới mọc lên như nấm
giá cả định kỳ trà nước nộp công an tùy theo lợi tức thu nhập từng địa phương tùy theo mức độ sang hèn từ một sao cho tới năm sao
ở Sài Gòn tôi tạm trú khách sạn xoàng xĩnh rơi vào trung tâm thương mại hoạt động rộn ràng không quảng cáo không khuyến mại
chủ nhân ông đi duyệt mẫu hàng chiếu theo tiêu chuẩn lựa chọn thú vật
con mắt lạnh tanh quét liếc những người con gái từ đầu đến chân, hất hỏi người thông dịch, cân đo kích thước chiều cao sức nặng màu da
căn phòng đóng kín với chữ Hỷ màu đỏ treo trước cửa
tôi leo cầu thang khách sạn cao tầng hành lang hẹp tối ám choáng váng đếm những cánh cửa Hỷ chữ đỏ chập chờn bùa yểm phòng quỷ ma

Điều gì đã xảy ra gần ba mươi năm sau chiến tranh
đàn bà trở thành sản phẩm giá hời trên thị trường quốc tế kinh doanh nô lệ mới
đồng đô la theo chân khách tiêu thụ phương xa luân chuyển vào trong nước theo hệ thống buôn người góp phần đẩy mạnh nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đi lên
đạp nhanh nhân phẩm đi xuống
những Thúy Kiều bán mình chuộc cha trôi nổi qua mấy sông Tiền Đường không có ngày tái hợp
những Huyền Trân muôn dặm theo chồng không làm thơm danh nước non bao nhiêu sính lễ rơi hết vào tay bọn ma cô đầu nậu
cha mẹ giốc vốn liếng đời bán con đổi áo cơm thảm thiết tự an ủi chắc đàn con gái ở phương xa hạnh phúc

Điều gì đã xảy ra gần ba mươi năm sau chiến tranh
khi chế độ nô lệ trên toàn cầu đã bị xóa bỏ từ đầu thế kỷ hai mươi
những người lính thắng trận ngày xưa đã già
những người lính thất trận ngày xưa đã tan hàng đã chết
thi sĩ thì lúng túng hậu hiện đại chính quyền thì vẫn bận rộn quét dọn tàn dư Mỹ Ngụy
bọn con buôn không bỏ lỡ thời cơ phát động chiến dịch thu mua phụ nữ tạo thành chế độ nô lệ thiên niên kỷ mới

Ở Sài Gòn muà thu 34 độ Celsius tôi thoi thóp thở
suốt ngày đêm đổ mồ hôi chống chỏi khí hậu nhiệt đới
cái khí hậu mà nhiều thập niên trước cùng với những bài thơ tình thơm ngát đã nuôi tôi lớn hả hê ru tôi nồng nàn giấc dậy thì
"Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát"

Thi sĩ và những bài thơ tình lãng mạn
chiến sĩ và những vòng nguyệt quế vinh quang
không ai thiết tha yêu những gót chân son chết đói
không ai cứu vớt được những đời con gái đi vào khách sạn không ai ngăn cản được bọn Đài Loan Đại Hàn Sing Tây Mỹ Việt Kiều tấp nập ra vào bôi bẩn thân thể mẹ Việt Nam và đàn con gái mẹ

Ở Sài Gòn tôi thất lạc giữa những đường phố bụi mù
nuôi nấng cảm giác khủng khiếp của một kẻ hoàn toàn xa lạ không nhớ tên những con đường cũ không thấy mặt những người xưa
tôi thảng thốt đếm những viên gạch dưới chân tượng đài lịch sử chia mốc thời gian ba mươi năm độc lập tự do
tôi mặc áo khảo cổ đào bới chiếc chià khoá dẫn vào thành phố cũ gõ cửa ký ức dò tìm những con đường trên bản đồ kỷ niệm
tôi hỏi thăm các cụ già da mồi tóc bạc những hàng xóm cũ của tôi bây giờ vận mệnh trôi giạt về đâu
tôi lục lọi cổ tích thấy nàng công chúa nước Việt nằm ngủ trong rừng ôm theo lời nguyền chiến chinh
khi nàng tỉnh giấc trăm năm lâu đài thành quách hoang tàn dân gian nghèo đói lạc hậu
hoàng tử nước láng giềng phi ngựa đến xem nhận công chúa về làm hầu thiếp nói nàng xinh đẹp như hoa hồng hoa huệ nhưng xiêm y quê kệch lôi thôi
và ngủ lâu qúa thành ra chậm chạp ngớ ngẩn.

Tôi bứt rứt khó chịu toan đổi vé may bay sớm đi khỏi Sài Gòn đi khỏi Việt Nam
xưa tôi đã một lần bỏ đi
tôi thương tiếc ba mươi năm trôi qua giấc mộng bạc đầu
tôi oán trách những thế hệ chiến sĩ thi sĩ bất lực tôi phẫn nộ cuộc đời thề thốt sẽ không trở lại
tôi đứng khựng giữa chừng không biết tới hay lui
người giữ cửa khách sạn kiên nhẫn đứng đợi
anh đứng đó cần mẫn ngày đêm chứng nhân cuộc chợ người
anh trai trẻ sản phẩm hậu chiến dưới ba mươi tuổi anh lễ độ mắt ngó xuống anh trăn trở mở lòng ra
anh việc làm nhàn hạ cánh cửa mở ra mở vào không đạp mưa đội nắng có xót thương những con gái nhà nghèo mang thân đi qua cửa
có đem lòng yêu một mắt biếc môi hồng một người con gái nào đó mà số phận đã không mang tới cho anh
tôi đứng khựng giữa chừng không đi tới đi lui
tôi thổn thức ngó đàn con gái đầy trời thiêu thân bay liệng
người giữ cửa ấm ớ nhìn tôi lặng lẽ
không mở miệng.

Vũ Quỳnh Hương

nguồn: gio-o.com
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.