Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

3 Pages<123
Bích Huyền
viethoaiphuong
#41 Posted : Monday, March 22, 2010 1:44:50 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



Mời nghe chương trình phát thanh Bích Huyền, Hữu Loan và Màu Tím Hoa Sim:

http://nguyentran.org/Th...et1/MauTimHoaSim_BH.wav
viethoaiphuong
#42 Posted : Sunday, April 4, 2010 1:14:54 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
bài viết của Bh trên báo Người Viêt.


HO, những chặng đường (Kỳ 1) Monday, March 29, 2010

Bích Huyền


Kỳ 1: Chờ đợi


Hai mươi năm nhìn lại chặng đường HO đã đi qua, lòng tôi không khỏi bồi hồi...
Mới đó mà đã hai mươi năm gia đình tôi sang định cư tại Mỹ theo “diện HO.” Hai mươi năm, chỉ thiếu một năm là bằng thời gian tôi theo cha mẹ trốn chạy Cộng Sản, cùng anh chị em từ miền Bắc di cư sống ở miền Nam năm từ 1954 cho đến 1975, cộng sản cưỡng chiếm miền Nam.

Hai mươi năm nhìn lại chặng đường HO đã đi qua, lòng tôi không khỏi bồi hồi...

Tôi không nhớ ngày tháng nào đã nộp đơn xin đoàn tụ gia đình với Phạm Anh Dũng, người em út trong nhà, là người duy nhất thoát được khỏi Sài Gòn trong ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản. Tôi chỉ nhớ cái cảm giác vô vọng khi ngồi chờ ở Sở Công An thành phố. Gương mặt ai nấy đều buồn rầu, có lẽ họ cũng như tôi, nộp đơn thì vẫn nộp nhưng hy vọng được xuất cảnh thật mong manh.

Rồi chồng tôi bị tai nạn chết trong tù, rồi tôi tìm đường vượt biên hai lần đều bị bắt giam, tôi đành an phận với cuộc sống lao đao và miệt mài vào công việc mưu sinh, và gần như tôi quên đi cái đơn xin xuất cảnh.

Cho đến một hôm, tôi được một ông anh họ khơi lại chuyện ra đi. Anh là giám đốc bệnh viện Grall Hà Nội. Anh có người em rể là kỹ sư được đi tu nghiệp Hoa Kỳ. Anh đến nhà tôi khuyên nên làm đơn thẳng sang Mỹ. Người kỹ sư ấy cũng là phụ huynh học sinh trường tôi đang dạy cho nên tỏ ý sẵn sàng giúp tôi. Tôi làm đơn cho Tổng Thống Mỹ (TT Reagan) kể về hoàn cảnh khó khăn của mình (Chồng tôi bị chết trong tù, con tôi sẽ chẳng có tương lai vì lý lịch ghi là “gia đình ngụy quân.”)

Ðơn được mang đến tận tay cho Hồng Thủy, bạn thân của tôi ở vùng DC. Thủy đã chuyển ngay cho anh chị Lê Ðình Ðiểu ở quận Cam, Nam Cali, vận động dân biểu, nghị sĩ giúp đỡ. Kèm theo lá đơn còn có bằng tốt nghiệp khóa Tham Mưu Cao Cấp năm 1970-1971 của chồng tại trường Leaven Worth, Kansas do cô bạn thân khác là hương Kiều loan xin giúp, cùng giấy báo tin của trại Vĩnh Phú là nhà tôi đã bị chết trong tù.

Không bao lâu tôi nhận được lá thư hồi đáp của văn phòng Tổng Thống. Ðại khái lá thư viết rằng, “rất xúc động trước hoàn cảnh của bà và sẵn sàng đón tiếp gia đình bà vào đất Mỹ. Tuy nhiên hiện nay chính phủ Việt Nam ngưng không cho ai xuất cảnh sang Mỹ. Nếu bà và con gái đến được một nước thứ ba, chúng tôi sẵn sàng đón nhập cảnh Hoa Kỳ.”

Vàng đã hết, lại thêm các tin tức thảm khốc về những chuyến vượt biên, vượt biển, làm các nào tôi có thể đến được một nước thứ hai? Thôi đành cất giữ lá thư làm... kỷ niệm.

Hàng ngày tôi vẫn đến trường dạy học, môn Văn ở trường “chuyên” cho các em học sinh giỏi thành phố. Mỗi cuối năm học, kỳ thi toàn quốc, tôi đã mang về cho thành phố những giải xuất sắc. Sở Giáo Dục có ý chuyển tôi về sở làm việc, trường Trung Học Sư Phạm cũng muốn tôi về dạy cho giáo sinh. Vì sợ mất tôi, quận đã “đề bạt” tôi vào chức vụ Hiệu Phó Chuyên Môn trường điểm hạng Một của thành phố.

Ðược hai năm, tôi đã mang bao nhiêu thành tích giáo viên giỏi, học sinh giỏi về cho Quận Nhất. Khám phá chuyện tôi đăng ký xin xuất cảnh, Ủy viên Giáo Dục Quận Nhất thuyết phục tôi rút đơn, đổi lại sẽ cho tôi đi “nghiên cứu sinh” (tu nghiệp) ở nước ngoài, cho con gái tôi du học Liên Xô... Tôi từ chối. Sau ba tháng nghỉ ở nhà mà vẫn được hưởng lương (có lẽ họ muốn chờ đợi tôi thay đổi ý kiến), tôi chính thức nhận được giấy cho thôi việc vào đầu năm học 1985-1986. Cuối năm học đó, đội tuyển học sinh giỏi Văn không có giải nào. Phòng Giáp Dục cho người đến tận nhà mời tôi trở lại dạy, và những năm kế tiếp vẫn kiên nhẫn mời gọi, nhưng tôi vẫn từ chối...

Trở lại thời gian bị nghỉ việc, tôi lo lắng không biết mình sẽ làm gì để sinh sống. Sợ nhất là công an phường khóm làm khó dễ. Tôi chợt nghĩ đến chị Hoàng Oanh (vợ nhà văn Dương Hùng Cường). Hàng năm, gần ngày khai trường, chị thường nhờ tôi giới thiệu với các trường tôi quen trong thành phố để bỏ thầu bán căn-tin. Chị Hoàng Oanh vui lòng hướng dẫn giúp tôi vào nghề.

Mỗi ngày tôi dậy từ 4 giờ sáng. Từ đường Tự Ðức quận Nhất, ghé chợ mua củ sắn, trái thơm, chở trên xe đạp lỉnh kỉnh hàng trăm thứ, đến trường Ngô Sĩ Liên gần Tân Sơn Nhất. Miệt mài làm việc để kịp bán giờ ra chơi. Lột vỏ củ sắn thì dễ dàng, nhưng gọt trái dứa rất khổ cực. Bàn tay bị acid từ dứa ngấm vào da sưng đỏ, nhức nhối. Phụ huynh làm trong bịnh viện thương quá, cho găng tay cao su bao bọc. Chiều về đến nhà, mệt quá, không ăn uống gì, chỉ biết nằm vật ra thở. Tối đến còn phải thức thật khuya nấu cho xong nồi chè đậu đen to tướng, ngủ vài tiếng là lại bắt đầu một ngày mới, lại rời nhà từ lúc trời còn mờ tối. Thấy con vất vả quá, mẹ tôi nói, “Thôi đừng bán buôn nữa, từ từ tìm nghề nào nhẹ nhàng hơn. Lúc này mợ vẫn có thể nuôi con và cháu Uyển Diễm được mà!” Nghe mẹ nói mà nước mắt tôi chảy ràn rụa. Mẹ tôi bao giờ cũng là bóng mát, là chỗ dựa cho các con và thúc giục các con nên làm như thế nào trong mọi tình huống.

Tôi cố gắng bán một hai tháng xem sao. Và rồi như quen việc, tôi không còn cảm thấy mệt nhọc nữa. Nhất là hàng tháng tiền bán, sau khi lấy vốn về, trả lương mấy người phụ giúp, số tiền còn lại nhiều gấp mấy chục lần lương dạy học. Không khí trong căn-tin cũng rất vui vì có cả các bạn cũ chung bán. Các chị đều còn đang dạy học nhưng có các anh đi tù về giúp đỡ.

Cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nghe đến chuyện HO...

Từ khi tin Mỹ có chương trình nhận tù nhân chính trị được lan truyền, cứ đến những ngày chẵn trong tuần là các ông rủ nhau ra công viên trước Dinh Ðộc Lập để nghe tin tức. Các bà có phàn nàn thì các ông nói rằng, “Mấy bà cứ ở đó mà lo nhặt bạc cắc. Người ta đi hết rồi mới ôm mặt khóc.” Thế là các bà nhao nhao phản đối, “Chúng tôi không sợ đâu nhé. Ở đây có vài ba bước là vào Tân Sơn Nhất. Chỉ sợ các ông kẹt lại mà thôi.” Ấy thế mà khi các ông về, ai cũng hỏi, “Có tin gì mới không?” Trong căn phòng căn-tin, mái tôn thấp nóng hừng hực, chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện “ra đi.” Dù biết là tin vịt nhưng hình như ai nấy vẫn có một chút gì hy vọng...

Rồi tất cả lại... êm ru. Các ông không thấy ra ngồi công viên nữa, và chúng tôi thì vẫn quần quật sắp xếp hàng bán, đợi giờ học trò ra chơi. Hy vọng tan như mây khói.

Một năm, hai năm sau,... bỗng có một ngày Sài Gòn lại xôn xao với tin tù nhân chính trị sắp được “bốc” đi. Các ông lại bỏ bán căn-tin, đạp xe xuống phố Thái Văn Lung, nơi có Sở Ngoại Vụ. Có hôm mang về mấy tờ giấy màu đen, lợn cợn, in ấn bôi bác, bán với giá rất đắt. Nào mẫu đơn, nào giấy kê khai lý lịch... Có tin gì mới không? Có chứ, sắp được đi đến nơi rồi! Ngoài đó đông lắm. Một người quen chen lấn rớt cả kính mới vào tới nơi để đọc thông báo. “Rơi mất cả kính thì làm sao mà đọc được nhỉ?” Thế là tiếng cười vang rộn khắp căn phòng. Tuy nhiên vẫn cứ hy vọng đợi chờ cho đời bớt sầu, bớt khổ. Chúng tôi cứ như thế sống trong hy vọng rồi thất vọng với câu chuyện ra đi, vừa bùng lên rồi lại xẹp xuống như chiếc bong bóng...

Cho đến một hôm, tin tức “ra đi” lại xôn xao. Có cả danh sách những người được ra đi đợt đầu. Những ai ra đi? Ra đi như thế nào, tàu bay hay hạm đội? Thế là sắp hàng mua đơn ở Ủy Ban Phường. Các quán photocopy người ra kẻ vào tấp nập, tha hồ thu tiền. Bưu Ðiện Thành Phố chật cứng người gửi hồ sơ sang Bangkok. Người người truyền tai nhau tin Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ đang lo chuẩn bị đón tiếp. Vừa bước xuống máy bay, người tù chính trị được trao một chùm chìa khóa nhà, xe hơi, một phong bì trong đựng 500 đô của Ðức Giáo Hoàng và vô số quà cáp của các hội thiện nguyện...

Ôi, những ngày khốn khổ sắp qua! Giấc mơ không bao giờ dám ao ước lại sắp thành sự thật!

Ngoài công viên lúc nào cũng đông vui, nhộn nhịp. Trong gia đình bàn tán sôi nổi, ồn ào. Có người bán đồ đạc, may quần áo. Có người bán cả nhà đi ở nhờ, chờ đợi ngày “Mỹ bốc.” Con cái nghỉ học, tìm thầy dạy Anh văn. Có bà đi sửa sắc đẹp, có cô đi học nhảy đầm. Có ông bị vợ bỏ từ ngày đi tù. Ngày trở về lủi thủi cô đơn, gặp được người bạn gái năm xưa an ủi, tính làm giấy hôn thú để cùng “ra đi” thì bà vợ cũ xuất hiện. Bà không chịu ký giấy ly dị, bắt ông chồng phải ghi tên bà vào danh sách. Mỗi ngày bà đến ăn vạ chồng và đến đánh ghen tại sở làm việc của người đàn bà “đã cướp chồng mình.” Người chồng không chịu nổi, phải giơ hai tay kêu lên, “Thôi, thôi! Bà về với ông chồng của bà đi! Tôi sẽ không nộp đơn, không đi đâu cả!”

Mỗi ngày một tin. Mỗi ngày một chuyện. Cười ra nước mắt.

Ngày lại ngày qua đi, chẳng thấy gì.

Lại thỉnh thoảng lang thang ở công viên trước dinh Ðộc Lập vắng hoe. Lại lếch thếch đạp xe tới nhà nhau hỏi “Có tin gì mới?” Lại lắc đầu và nhìn nhau thở dài, thất vọng. Nhưng tại công viên đường Thái Văn Lung, trước cửa Sở Ngoại Vụ, loáng thoáng người ta vẫn cứ đến, cứ đợi cứ chờ...

Cho đến một hôm, nhà nước loan tin chính thức về chương trình ra đi của tù nhân chính trị. Có người mách tôi ra Hà Nội xin xuất cảnh dễ dàng hơn là ở trong Nam. Tôi mang hồ sơ xin xuất cảnh và lá thư của văn phòng Tổng Thống Mỹ đến Bộ Nội Vụ, số 40A Hàng Bài. Ngồi đợi một hồi lâu mới thấy mấy người công an trẻ, dáng điệu quan trọng bước vào. Họ xem xét hồ sơ và dừng lại rất lâu trước lá thư của văn phòng Tổng Thống Mỹ. Có lẽ vì thế mà họ lịch sự, không hống hách, lạnh lùng như công an trong Nam chăng? Hỏi cung như nói chuyện và ghi giấy hẹn tôi trở lại vào hôm sau. Sáng hôm sau, chỉ trong vòng chưa đầy mười phút, họ đưa cho tôi mảnh giấy nhỏ hứa cho xuất cảnh. Hộ chiếu sẽ được gửi vào Sài Gòn sau.

Tiếng lành đồn xa... Người trong Nam kéo ra Hà Nội rất đông.

Nhưng sau này phải qua một nơi gọi là “Dịch Vụ,” và phải tốn tiền làm giấy tờ mới được tới 40A Hàng Bài. Trong Nam cũng có một văn phòng Dịch Vụ, toàn là những gương mặt công an của Sở Quản Lý Người Nước Ngoài và Xuất Nhập Cảnh. Nhưng thái độ tiếp chuyện niềm nở chứ không lạnh lùng như trước.

Hồ sơ xin giấy xuất cảnh phải tốn ít nhất cho dịch vụ là một triệu đồng (năm chỉ vàng). Hồ sơ mới nộp thì gấp mười lần, chưa kể đến nếu “chạy chọt” thì được xét trước. Nếu không, chẳng biết hồ sơ của mình nằm ở cái xó nào!

Tháng Giêng 1990, gia đình tôi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Ðáng lẽ đi chuyến bay đầu nhưng tôi đã xin được cho gia đình người em gái có chung hộ khẩu đi theo nên phải bổ túc hồ sơ.

Ngày 10 tháng 4, 1990 tôi rời Sài Gòn. Có đến hàng trăm người đưa tiễn. Họ hàng thân quyến hai bên nội ngoại, đồng nghiệp dạy học hay cùng làm ở Sở Giáo Dục trước 75, bạn cũ Trưng Vương, học trò của tôi, bạn học của Uyển Diễm, cùng các anh chị em từng sinh hoạt thanh niên sinh viên Sài Gòn như anh chị Ngô Mạnh Thu, anh chị Hà Tường Cát, anh chị Nghiêm Phú Phát...

Cuộc chia ly đẫm nước mắt vì tôi phải bỏ lại mẹ tôi già yếu bệnh tật không đi. Mẹ tôi ốm đau mất trí hàng năm trời nhưng kỳ lạ thay, những ngày sau cùng cụ lại tỉnh táo để biết là đám con cháu được ra đi... Và mẹ tôi đã đi vào miên viễn sau một tháng khi chúng tôi được đặt chân lên đất nước Hoa Kỳ trong nước mắt tiếc thương của các con cháu. Chắc chắn nơi chín suối, mẹ tôi đã mỉm cười yên lòng với tương lai của bầy con cháu nơi vùng đất tự do... (Còn tiếp)

*Bài 2: Lê đường và Hội Nhập
http://www.nguoi-viet.co...ewer.asp?a=110693&z=246

*Bài cuối:
http://www.nguoi-viet.co...ewer.asp?a=110753&z=246




viethoaiphuong
#43 Posted : Thursday, April 8, 2010 10:38:53 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
bài viết của Bh trên báo Người Viêt.


HO, những chặng đường


Kỳ 2: LÊN ĐƯỜNG VÀ HỘI NHẬP

Bích Huyền


Những giây phút bịn rịn tiễn đưa còn vương vấn mãi trong tôi khi tôi đã ngồi yên vị trong lòng ghế máy bay. Sài Gòn xa dần và mất hút... Chưa đầy một tiếng, máy bay đáp xuống một phi trường cũ của Thái Lan. Xe bus đổ người xuống trước bãi đất trống có một gian nhà trống vách, mái lợp tôn, nóng cháy da. Nhìn chung quanh đìu hiu, vắng vẻ. Mọi người lần lượt chụp ảnh, lăn tay làm giấy tờ nhập cảnh. Sau đó nằm, ngồi chờ đợi trên những băng ghế gỗ thô sơ. Cả ngày phi trường không có một chiếc máy bay nào lên xuống, không một bóng người. Buồn hiu hắt...

Mãi đến tám giờ tối mới có hai xe bus tới đón. Ai cũng vui mừng cho dù phải nhồi nhét vào xe như cá hộp. Xe chạy ngoài xa lộ, nhìn bên trong là thành phố Bangkok với những con đường choáng ngợp ánh đèn. Ôi, mới ngày nào so với miền Nam, Thái Lan sao bằng. Vậy mà sau 15 năm, bây giờ văn minh quá. Nhà cửa tráng lệ, đường sá xe cộ lao vun vút. Lòng chứa chan hy vọng. Nhưng không lâu, nỗi thất vọng ào tới khi xe bus đậu ở trại tiếp nhận. Tất cả lục tục xuống xe và phải ngồi ngay dưới đất để nghe nội quy nhập trại. Sau đó mỗi gia đình ôm màn chiếu, đi qua cánh cửa hé mở với những tấm song sắt kiên cố. Bên trong người lố nhố, ăn mặc lô thôi, đàn ông tóc để dài buộc túm lại... giống như tù nhân. Họ là những người đến trước, bị giam lỏng nhiều ngày tại nơi đây chờ đợi hoàn tất hồ sơ. Mỗi gia đình trải chiếu vào nơi đã quy định. Chiếu nọ san sát chiếu kia. Cả một căn phòng rộng ngột ngạt hơi nóng của thời tiết, của người và người. Lại thêm áo quần, túi xách ngổn ngang, dây nhợ giăng mắc chằng chịt.

Càng thêm buồn rầu, mệt mỏi và chán nản khi nghe nhân viên Việt Nam trong phái đoàn ICM, IOM đến sinh hoạt, lạnh lùng dằn mặt những khó khăn của chặng đường sắp tới. Sẽ phải ở đây bốn, năm ngày và nhiều hơn nữa, có khi hàng tháng tùy giấy tờ thân nhân bảo lãnh.

Gia đình tôi chỉ ở đó có hai ngày là được đi Mỹ. Các anh chị em tôi muốn gia đình tôi tạm định cư tại những thành phố nhỏ như Santa Maria, Visalia êm đềm cho con gái tôi yên tâm học vì cháu đang tuổi mới lớn dễ bị sa ngã. Tôi chọn Visalia, nơi gia đình Phạm Sĩ Trung sinh sống. Cháu Uyển đến trường học Hè ngay. Có một trở ngại là tôi không thể thuê được nhà vì không có thu nhập. Khi đó gia đình Trung còn đang hưởng trợ cấp chính phủ nên không thể nào cho tôi mượn địa chỉ để khai. Nhờ một vài người quen ở đó cho mượn địa chỉ, đều bị từ chối.

Tôi chợt nhớ đến anh Nam Lộc, người đã bảo trợ tôi theo diện HO. Anh nói “Chị cứ về quận Cam, tôi sẽ lo cho chị và cháu. Ngày xưa tôi cũng có thời gian trong quân đội, được làm việc với anh. Xin chị yên tâm”. Hồng Thủy từ miền Ðông thì nói “Nếu Nga muốn, hai mẹ con sang đây ở với Thủy. Thủy sẽ lo cho Nga đến khi nào Nga có một nghề. Nếu Nga chọn quận Cam, Thủy sẽ tìm việc cho Nga”.

Tôi quyết định chọn quận Cam. Khi tôi học lái xe ở thành phố Santa Maria với Dũng, Hà, con gái tôi vẫn ở nhà Trung để học Hè. Thời gian này còn rảnh rỗi, anh Lê Ðình Ðiểu khuyên tôi nên ghi lại quãng đời vừa qua, sau này bận rộn công việc khó mà viết được. Thế là Ðường Ra Vĩnh Phú xuất hiện trên báo Người Việt, tôi được nhuận bút $20. Món tiền đầu tiên kiếm được ở hải ngoại. Rồi tiếp theo là Cầu Bao Nhiêu Nhịp, rồi Lối Cũ Chẳng Sao Quên... Anh Ðiểu khuyến khích viết tiếp vì độc giả cũng như ban biên tập chú ý đến loạt bài của Bích Huyền và thắc mắc không biết Bích Huyền là ai, ở đâu? Chỉ anh Ðỗ Ngọc Yến là biết rõ. Anh Ðiểu có tiết lộ “Ðó là cô em vợ tôi, vừa mới sang đây theo diện HO.”

Tất cả những bài tôi viết trên nhật báo Người Việt được in thành sách với tựa đề Lối Cũ Chẳng Sao Quên năm 1994, tái bản năm 2000 có thêm phần Anh ngữ của Luật Sư Quỳnh Diễm ở Úc.

Trở về quận Cam, tôi đến Sở Xã Hội xin trợ cấp. Tôi nhớ mãi bà cán sự xã hội đã vặn vẹo đủ chuyện vì chiếc xe Toyota Tercel còn rất tốt, tôi mua được của một bà Mỹ già với giá $3,000. Tôi trả lời rất thành thật là tôi không biết tiêu chuẩn chỉ được mua xe dưới $2,000. Tôi lại vừa mới từ Việt Nam sang được anh chị em, bạn hữu giúp cho tiền và cho mượn tiền. Bà lạnh lùng “Tôi không tin là có những người tốt như vậy.” Tôi ngạc nhiên buồn rầu nhìn bà “Nếu trên đời này toàn là những người ích kỷ, không giúp đỡ nhau thì làm sao mà sống được, thưa bà!” “Thôi được, bà mượn tiền ai thì ngày mai mang giấy nợ đến đây.” Anh Chu Tất Tiến cùng HO1 với tôi cũng bị làm khó dễ như thế. Cô cán sự không tin chiếc xe đó hai ngàn. Xe này phải từ 5 đến 8 ngàn. Giải thích mãi không xong, anh Chu Tất Tiến phải nói “Nếu cô không tin thì tôi bán cho cô với giá 5 ngàn đấy.” Hình như mọi người nhìn HO chúng tôi bằng con mắt khinh rẻ. Họ không có chút cảm thông nào đối với những người vừa thoát ra từ địa ngục.

Tôi hỏi thăm bạn bè trường trung học nào tốt để tìm nhà ở gần. Ðọc báo Người Việt, tôi “share” được một cái “master bedroom.” Từ nhà đi bộ đến trường khoảng 30 phút. Chủ nhà rất tốt, giúp đỡ tôi đủ mọi thứ. Nhờ gia đình hàng xóm cho con tôi quá giang xe đi học ở Valley High School. Con gái tôi đã học xong lớp 9 Võ Trường Toản, sức học của cháu có thể tiếp tục lớp 10, chỉ trở ngại Anh văn. Tôi nghĩ Anh văn thì dù có học lớp nào thì cũng thế thôi, phải trau giồi thêm cho nên xin cho cháu được học lớp 10. Nhân viên phụ trách tiếp nhận học sinh tị nạn là một bà người Việt. Bà nhìn tôi và con gái tôi với cặp mắt coi thường và lạnh lùng ghi giấy nhập học lớp 9 mặc dù tôi có năn nỉ giải thích. Học được một tháng, thấy dễ dàng quá cháu muốn được học lớp trên. Tôi nhờ chị tôi đến trình bày thẳng với ban giám hiệu. Ông hiệu trưởng đồng ý ngay và cho giáo sư Toán trưởng khối cho bài để thử sức. Cháu được chuyển lên lớp 10.

Học được một năm, vị giáo sư Toán ấy lại dạy cả ở trường đại học cộng đồng. Thấy cháu học hết chương trình Toán nên hỏi ý tôi có tiền đóng học phí trên đại học cộng đồng Golden West, ông ghi danh cho học thêm buổi tối. Tôi bắt đầu đi làm ở một Pharmacy, cộng tác với Người Việt mục tin tức Sinh hoạt Cộng đồng. Tôi không nề hà một công việc gì và chăm chỉ nhẫn nại làm việc để có tiền cho con học thêm. Do đó, cháu chỉ học đại học cộng đồng có một năm rưỡi là được UCI nhận.

Ở Ðại Học Cộng Ðồng Golden West, con tôi gặp một chuyện rắc rối lớn. Một hôm tôi đi làm về, cháu không ăn cơm và khóc nức nở vì điểm thi bị số không. Cháu nói rằng giáo sư đã khám phá ra là cháu nộp hai lần để tráo bài. Tôi vội vàng gọi phone cho một giáo sư quen biết trong cộng đồng để cầu cứu giúp đỡ vì cháu bị oan. Bà từ chối “Không oan ức gì cả, phải có vấn đề mới bị như thế. Ðiểm 0 là phải rồi!” Tôi gõ cửa thêm và cuối cùng được một em cựu sinh viên đến văn phòng trình bày. Trong khi đó có một em nữ sinh viên khác gương mặt đầy nước mắt theo mẹ đến khiếu nại bài thi làm được mà bị điểm 0. Hai bài thi được lấy ra. Vị giáo sư nhận ngay ra là có sự lầm lẫn. Ông không ngờ có hai nữ sinh viên cùng họ Nguyễn, cùng có ngày tháng năm sinh giống nhau, cùng có mái tóc dài. Hai cô sinh viên ấy sau này kết bạn và cho đến bây giờ, mỗi người đều có một gia đình riêng mà vẫn giữ liên lạc với nhau.

Ngày đó, chung quanh tôi, những gia đình HO đến rất nhiều. Gặp mọi khó khăn. Với ngòi bút trong tay, tôi đã đến tận nơi để viết bài tường thuật. Có nhiều gia đình không có phương tiện di chuyển, khi tôi mang thùng mì gói tới, các cháu bé mừng rỡ xúm nhau xì xụp ăn. Tôi mang chăn trải trên thảm để họ nằm vì gia đình chỉ có một cái chăn thôi. Cùng Ðặng Trần Hoa, nhờ có xe phát hành báo, dù buổi tối Mùa Ðông giá lạnh hai chị em vẫn mang bàn ghế, tủ lạnh xin được, chở đến nhà người HO cần.

Cho đến ngày nay, tôi vẫn nhìn thấy ở Ðặng Trần Hoa một tấm lòng nhân ái. Nếu không có Hoa, nếu nhật báo Người Việt không cho mượn xe làm sao tôi có thể chuyển những đồ đạc nặng đến cho những người mới tới?

Chiếc xe hơi nhỏ bé của tôi như một cái kho chứa đồ cũ. Ai có đồ dư dùng đều gọi cho tôi. Nơi nào cần người giúp việc, họ tin cẩn nhờ tôi giới thiệu.

Tôi nhớ một buổi sáng trên đường đi làm, tôi chở mấy bịch quần áo, chăn mền và khăn trải giường đến nhà thờ Tin Lành trên đường Bolsa. Cổng nhà thờ đóng kín vì còn sớm quá. Dãy tường ngăn với bên ngoài không cao lắm cho nên tôi định thả bịch đồ vào bên trong rồi sẽ phone sau. Ðang loay hoay thì có một em Việt Nam đi ngang qua, tôi ngỏ ý nhờ em giúp. Em vui lòng và ngập ngừng “Cô có thể cho cháu xin một cái quần Jeans được không ạ? Em cùng gia đình cũng vừa mới sang đây”. Tôi thương quá, vội vàng mở những chiếc bao ra “em cứ việc chọn không chỉ quần Jean mà bất cứ những gì gia đình em đang cần”. Chỉ có những người cùng hoàn cảnh mới hiểu nhau, và biết chia sẻ ngay những những vật dụng cần dùng. Có nhiều người đi trước nói rằng “nếu bà Huyền không viết, không quyên góp chúng tôi đâu có dám cho đồ cũ”...

Ngay chính tôi và con gái, vừa bước chân vào nhà em tôi cũng có ngay những chiếc áo lạnh và chăn len ấm áp nhà đang dùng mà chị tôi, em tôi chia sẻ.

Ngòi bút của tôi len lỏi vào cuộc sống nơi đây. Tôi biết cả căn nhà số 5101 W. 5th Street, Santa Anna, của Hiệp Hội Việt Nam, do Phạm Ngọc Lân điều hành, nơi giúp cho những người khó khăn ngủ qua đêm. Tôi ngỏ ý xin cho những gia đình HO đến tạm trú. Có nhiều gia đình đông con có thể để dành được tháng tiền trợ cấp, đủ mua được chiếc xe cũ. Tôi gọi nơi đây là “ngôi nhà tình nghĩa.”

Thư độc giả gửi về cám ơn tôi đã có những bài viết mang một khí hậu ấm áp và gần gũi đến cho cộng đồng người Việt. Cũng có lá thư làm tôi buồn phiền không ít, chẳng hạn “Chồng bà bị Cộng Sản giết trong tù. Bà có biết bà đang cộng tác với tờ báo của Việt Cộng không?” Có hôm ở giữa chợ một số người biết tôi là Bích Huyền đã vây quanh tôi, nói lên những lời lẽ đại khái như thế. May mà tôi gặp Linh Linh Ngọc, bạn học của tôi là một nhà văn có tên tuổi, khi đó đang hoạt động cho một vài sinh hoạt chính trị trong cộng đồng đã giải thích, bênh vực tôi...

Trong dịp này tôi gặp anh Chu Tất Tiến. Anh Chu Tất Tiến là một người HO năng động và có nhiều sáng kiến. Chúng tôi thành lập ra nhóm HO gồm các anh Nguyễn Tiến Ðức, Phạm Thành Tâm, Nguyễn Tiến Chỉnh, Trịnh Phúc, Phạm Thành Tâm và Nguyễn Tiến Dũng (đã qua đời), thay phiên nhau ngồi trực tại một căn phòng mà báo Người Việt cho mượn, để nhận đồ đạc cũ và tiền đóng góp cho Cây Mùa Xuân HO. Báo Người Việt cũng cho mượn một nơi chứa đồ đạc ở trong phòng phát hành báo. Bài vở tin tức HO, ban biên tập cho phổ biến trên báo mỗi ngày. Cây Mùa Xuân HO của nhóm HO tổ chức gây được tiếng vang rộng khắp vì quy tụ gần một ngàn người tham dự. Trong lịch sử hội họp của cộng đồng có thể nói đây là một cuộc hội tụ đông đảo đầu tiên.

Không có nhật báo Người Việt, chúng tôi không thể có được những sinh hoạt tốt đẹp gây nhiều tiếng vang trong cộng đồng quận Cam.

(Còn tiếp)


viethoaiphuong
#44 Posted : Thursday, April 22, 2010 5:32:33 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
bài viết của Bh trên báo Người Viêt.


HO, những chặng đường

Kỳ 3: NHỮNG NGÀY THÁNG HẠNH PHÚC

Bích Huyền



Bên cạnh sinh hoạt của Nhóm HO, ngòi bút của tôi lại phải ghi tai nạn thảm khốc xảy ra cho gia đình HO, Ðại Úy Mai Viết Ðống, trong một ngày cuối năm. Con gái nấu bánh chưng ở ngoài vườn, bình ga nổ. Mai Tấn Lộc là anh từ trong nhà nghe tiếng em kêu cứu chạy ra, vội dập tắt ngọn lửa nhưng lửa lại đang cháy bùng to, lan nhanh thiêu đốt cả người anh lẫn người em. Ông Mai Viết Ðống lao vào cứu các con cũng bị chết cháy.

Mặc dù rất bận cùng anh Chu Tất Tiến tổ chức Cây Mùa Xuân HO, Xuân Nhâm Thân (8 tháng 2, 1992), doanh gia Trần Dũ và doanh gia Lý Kim Vân cho hai chiếc quan tài. Hàng trăm độc giả Người Việt đã giúp tiền lo chuyện ma chay.

Sau Cây Mùa Xuân, anh chị em tù nhân chính trị đề nghị anh Chu Tất Tiến và tôi nên duy trì Nhóm HO để thành lập một Hội HO. Nhưng tôi và anh Chu Tất Tiến đều từ chối. Tôi quan niệm nên chỉ có một Hội Tù Nhân Chính Trị. Tuy nhiên chúng tôi vẫn thường gặp nhau để tổ chức những buổi sinh hoạt khác như chương trình Tù Ca, Cây Giáng Sinh cho con em HO. Và tôi vẫn thường đến Hội Tù Nhân Chính Trị, khi đó chủ tịch là ông Nguyễn Hậu để góp một bàn tay. Ở đây tôi được quen với chị cựu Trung Tá Hạnh Nhơn. Với chức vụ phó chủ tịch Hội TNCT, chị Hạnh Nhơn đã làm được nhiều chương trình giúp đỡ thiết thực cho gia đình HO. Sau này chị Hạnh Nhơn chỉ chuyên về chương trình giúp đỡ cho Thương Phế Binh VNCH và Cô Nhi Quả Phụ còn ở lại quê nhà. Chương trình phát thanh của tôi luôn luôn phổ biến tin tức và kêu gọi sự tiếp sức của cộng đồng và được thính giả hưởng ứng nồng nhiệt.

Ðời sống HO vẫn mỗi ngày diễn ra trong nhiều khó khăn. Chuyện hòa nhập đòi hỏi nhiều nghị lực. Tôi được nhiều doanh gia tin cẩn cho nên khi cần có người làm việc, họ lại nhờ tôi tìm người HO để giới thiệu.

Rồi sau đó lại có một HO đạp xe đi lạc vào đường exit xa lộ bị xe cán chết, một HO khác cô đơn quá tự tử chết... Tôi kêu gọi lạc quyên mà lòng buồn rười rượi.

Tôi bắt đầu xuống tinh thần. Bỗng dưng cảm thấy mệt mỏi, chán nản quá! Nhất là đời sống riêng tư của tôi cũng gặp nhiều chuyện không vui. Thư rơi mạt sát tôi gửi khắp nơi như bươm bướm. Tôi cứ thắc mắc không hiểu vì sao, mình đã làm điều gì sai quấy? Anh Lê Ðình Ðiểu nói, “Ở đây người không làm nhiều mà bị mạt sát mới là chuyện lạ, còn làm nhiều mà vẫn bị nói xấu chỉ là chuyện thường.” Các hội đoàn trong cộng đồng cũng nhận được thư rơi, ai cũng an ủi và nhận định rằng chỉ là sự ghen tức.

Những tin đồn loan truyền trong cộng đồng, rằng tôi là HO giả, nào tôi được trọng dụng trong chế độ mới, chồng chết trong tù vì Việt Cộng muốn làm khổ nhục kế để cho sang đây dễ dàng hoạt động cho cộng sản. Thư rơi mạt sát tôi, “Chồng vừa chết đã lấy chồng khác, sang đây bầy đặt viết văn làm ra vẻ ‘thương phụ khóc chồng’... Tôi buồn lắm nhưng cố bình tĩnh khi thấy con gái tôi khóc, “Mẹ làm báo, mẹ có cây bút trong tay, sao mẹ lại để người ta nói xấu mẹ như thế mà mẹ vẫn im lặng không trả lời?” “Mẹ có trả lời đấy chứ!” tôi nói với con. “Bên cạnh công việc mưu sinh, mẹ vẫn làm những công việc giúp đỡ người thiếu thốn, bất hạnh. Còn con, hãy trả lời giùm mẹ bằng cách ngoan ngoãn, chăm học... Ðừng lo, Trời có mắt con ạ!” Nói thì nói vậy nhưng lòng tôi đau đớn lắm. Tôi khóc thầm trong đêm. Không muốn cho con nhìn thấy để cháu xuống tinh thần, không học được. Có những lúc tôi muốn buông xuôi tất cả. Nhưng rồi tôi bỗng nhớ khi tôi làm đơn xin xuất cảnh, ông anh ruột tôi ở Houston viết thư về chỉ khuyên có một điều, “Muốn tồn tại là phải lao động” cho nên tôi sẽ gắng vượt qua nỗi buồn, tiếp tục làm những công việc mà tôi đang theo đuổi để vươn lên.

Khi đài phát thanh phát triển mạnh trong cộng đồng, tôi được một đài mời tôi cộng tác chương trình phụ nữ. Một tuần một lần và mỗi lần được $50 gọi là đổ xăng. Làm được hai tháng họ cho nghỉ việc và không trả cho tôi một đồng nào. Nhắc nhở thì họ nói người cộng tác phải trả tiền airtime! Với tôi, một người mới sang, lại chỉ có một mình, con mới 15 tuổi, chưa được đi làm thêm. Nếu có được $200 một tháng, lúc đó rất quý. Lên tiếng trên đài, ông tổng giám đốc kêu gọi, “Chúng ta đi trước, cần giúp đỡ người sang sau.” Vậy mà...!? Làm tiếp đài khác, khá hơn một chút, tháng trả, tháng không. Chỉ có một đài ở bên Úc Châu và Radio Bolsa, nhật báo Người Việt và tuần báo Sài Gòn Nhỏ trả rất đều đặn.

Không lâu sau đó tôi được giới thiệu cộng tác phần tin tức sinh hoạt cộng đồng với Ðài VOA, không có cảnh... đợi chờ tiền lương hàng tháng. Biết hoàn cảnh khó khăn của tôi, các anh chị Ban Việt Ngữ muốn giúp, cho nên có ai nghỉ chương trình nào là đều giao cho tôi phụ trách. Ít có một cộng tác viên nào mà có được ba chương trình một tuần như trường hợp của tôi. Khi con gái tôi đủ 18, cháu xin đi làm ở một tiệm fastfood. Nhìn cháu mảnh khảnh trong bộ quần áo đồng phục của nhà hàng, mỗi tuần cầm check về nhà đưa cho mẹ, tôi muốn khóc. Sau này tôi cố gắng tìm nơi làm thêm để con gái tôi tập trung vào việc học. Cháu thương mẹ nên đã gắng học thành người.

Bao nhiêu tiền học bổng, tiền thưởng đều mang về cho mẹ. Tôi để dành mua cho cháu một chiếc xe tốt để yên tâm đi học. Cháu tốt nghiệp đại học UCI theo đúng tuổi các trẻ em sinh ra và lớn lên ở bên này.

Khi cuộc sống ổn định, tôi cố gắng giúp đỡ các sinh viên học sinh nghèo bên Việt Nam. Gửi quà cho một số thương phế binh và bảo trợ cho con em thuộc gia đình quân đội Việt Nam Cộng Hòa không có diện xuất cảnh. Chỉ một chút chia sẻ đến những người kém may mắn hơn mình, tôi cảm thấy hạnh phúc.

Sau hai mươi năm với bao buồn vui cay đắng ngọt bùi, giờ đây tôi có một đời sống ổn định, con cháu quây quần thương yêu hạnh phúc trong cùng một mái nhà. Với tôi, như thế là mãn nguyện.

Tôi đã hưu trí, chỉ còn giữ lại một số chương trình văn học nghệ thuật cho các đài tôi đã công tác, vì đam mê và nhất là vì không muốn mãi mãi phải “lưu luyến chia tay” cùng quý thính giả...

Và tôi không bao giờ quên ơn những người gián tiếp cũng như trực tiếp đã mang đến cho tôi cuộc sống. Cảm ơn nước Mỹ đã cưu mang, cảm ơn cộng đồng người Việt quận Cam bao bọc, cảm ơn anh chị em trong đại gia đình tôi, cảm ơn bạn cũ Trưng Vương, nhất là Hồng Thủy đã săn sóc tôi từng chút. Cảm ơn đồng nghiệp trong ngành giáo dục trước 75, cám ơn đồng nghiệp ngành truyền thông báo chí ở hải ngoại. Trong dịp kỷ niệm 25 năm nhật báo Người Việt, trên làn sóng VOA tôi có phỏng vấn anh Ðỗ Ngọc Yến về sự lớn mạnh của Người Việt. Anh có đề cập tới hàng trăm các cộng tác viên ở khắp nơi. Nhân đó tôi cũng cảm ơn Người Việt vì chính cá nhân tôi cũng từng là cộng tác viên, từ nơi ấy bước ra. Cảm ơn Việt Dũng-Minh Phượng, các em đã thương yêu tôi, chia sẻ với tôi và Uyển Diễm như những người thân yêu trong cùng một gia đình (gia đình Radio Bolsa). Cảm ơn Quỳnh Lưu, Mai Phương đã sát cánh bên tôi thực hiện những chương trình Tâm Tình Với Nhau để phục vụ thính giả. Tôi đã học được ở Quỳnh Lưu, Mai Phương, Minh Phượng, Hiền Vy tinh thần làm việc năng động và đầy tình người. Cảm ơn các anh Ðỗ Ngọc Yến, Lê Ðình Ðiểu, Nguyễn Chí Thiện (phu quân của Minh Phượng) đã dạy tôi những bài học về cách tổ chức, quản lý khoa học và nhất là cách cư xử hòa nhã và đức tính khiêm tốn của các anh. Cảm ơn các bạn trẻ trong Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu với tinh thần yêu nước trong sáng, bền bỉ, không hề xao lãng dù thời gian qua đi... Cảm ơn các cựu sinh viên trường Ðại học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt, dù nhà tôi không còn nữa nhưng những ngày họp mặt không bao giờ quên tôi. Cảm ơn lòng thương yêu của độc giả, thính giả tại hải ngoại cũng như nhiều quốc gia trên thế giới. Cảm ơn những người âm thầm vẫn hằng theo dõi giúp đỡ tôi, cho tôi chỗ dựa tinh thần. Cảm ơn hai con Nguyễn Song Anh Tú và Nguyễn Quang Diễm Uyển cùng hai cháu ngoại Bi-Ben đã mang đến cho tôi niềm hạnh phúc. Và nhất là cảm ơn người chồng quá cố của tôi, hình như lúc nào anh cũng phù hộ cho vợ con. Nhờ có anh mà tôi và con gái có cuộc sống tốt đẹp trên quê hương thứ hai này..





viethoaiphuong
#45 Posted : Thursday, May 6, 2010 7:40:37 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

MÙA XUÂN VỀ ANH SẼ HÁT BÂNG KHUÂNG

Bích Huyền




Thấm thoát tôi đã trải qua hơn mười mùa Xuân nơi xứ người. Hơn mười cái Tết Nguyên Đán.
Tết, thời gian trọng đại nhất trong năm.

Và hôm nay, bước vào năm thứ mười một. Mái tóc thêm nhiều sợi bạc, nếp nhăn thêm nhiều ở đuôi mắt, và cuộc đời thêm nhiều nỗi buồn vui. Đôi khi chợt giật mình: "Mình đã từng ấy tuổi ấy sao?"

Thời gian cuối năm thường thì người ta hay nhìn lại quá khứ để đặt lại một hướng đi cho tương lai. Cũng có những người thích dành những giây phút cuối của một năm để tìm về kỷ niệm. Tôi cũng muốn được là một trong những người ấy để có giây phút sống lại dĩ vãng. Vàng son hay cùng cực thì cũng vẫn là hành trang cho mình trên bước đường đời. Nhưng bao năm qua, hoàn cảnh và thời gian ngày Tết trên quê người không cho phép. Có muốn cũng đành chịu thôi.

Nhưng sao hôm nay, kỷ niệm xưa, kỷ niệm của một thời con gái lại rộn ràng trở về ?

Tôi đang biên soạn chương trình “Giờ Thơ Nhạc” mà tôi phụ trách trên Đài VOA và 974FM trên Đài Úc Châu, một chương trình nói về tình yêu cho Radio Bolsa. Tôi cần những bài thơ minh họa. Cuốn thơ cũ của thời đi học là một kỷ niệm tôi mang theo sang đây, vốn đã quí lại càng thêm quí. Tôi đã bỏ cả một buổi tối để đọc, để tìm những vần thơ phù hợp với chủ đề tôi biên soạn. Có một bài thơ của một người bạn học ngày xưa đã làm vương vấn tâm hồn tôi. Mặc dù tôi phải thú nhận rằng thời gian đã quá lâu, kỷ niệm khá mờ nhạt khiến ngày nay tôi quên cả tên thật của anh, và dáng anh trong trí tưởng tôi chỉ rất mơ hồ...

Cho đến lúc này tôi mới cảm thấy thấm thía với những vần thơ anh tặng cho tôi vào dịp làm báo Tất Niên của Trường Sư Phạm. Gần bốn mươi năm, một bài thơ
“Bây giờ hay mai sau ..…..”

“Nếu em thích tình yêu ngọt ngào như trái cây mùa hạ
Thì mai anh về tìm kiếm tuổi hoa niên
Với anh - tháng ngày chỉ là vị đắng
Uống khổ đau môi mềm đã thành quen
Nên không thể vuốt ve hạnh phúc đẹp tròn
Nên không thể làm thơ thành nhã ca ...
Mùa đông cô đơn mang nhiều rét mướt
Nếu tình anh không là áo em sưởi ấm
Thì anh về, hoa gạo nhặt từng bông
Không ấm tay em mà lạnh trong lòng
Và nếu tình anh không là vườn địa đàng
Cho em vào yên lành trú ẩn
Thì anh sẽ trở về quê hương
Như thuở còn thơ ấu ...
Mùa thu anh sẽ đi tìm loài dã thảo
Nhắc tên em trên những cánh hoa rừng
Mùa xuân về anh sẽ hát bâng khuâng
Anh đào rụng lung linh như ngấn lệ
Anh sẽ bảo rằng người yêu nhỏ bé
Vẫn đi về trên lối nhỏ hồn anh
Mắt bồ câu vẫn dấu mộng yên lành
Qua năm tháng...
Môi vẫn đỏ, má vẫn hồng và tóc vẫn xanh
Thiên đường đó gót mềm chưa lạc bước
Tình yêu đến - khổ đau chưa từ khước
Khung trời nào hoa bướm chẳng thương nhau
Chừng nào em về ...
Bây giờ hay mai sau?
Giấc hoàng hôn trên vai anh yên ngủ
Tháng năm và cuộc đời có gì trắc trở
Cho bước chân chim
Ngập ngừng vào khu vườn đó
Hạnh phúc nào lựa chọn đâu em ?
Rồi mùa đông… ... hoa rụng trắng bên thềm
Em sẽ khóc rất nhiều như một loài rêu câm nín
Nếu hôm nay em chẳng biết chăm nom
Bằng đôi tay búp măng
Vun quén cho loài hoa mới mọc
Bây giờ hay mai sau..?”

Dưới bài thơ ký tên là Thương Huyền. Cũng vì bút hiệu này của anh làm tôi ngần ngại, không muốn nói chuyện nhiều với anh như những người bạn trai đồng khóa khác ...

Ngày xưa ở Saigòn , thời gian này là mùa xuân, cái thời gian rộn ràng nhất vì ai cũng chuẩn bị đón Tết. Nắng như tươi hơn. Cây cỏ hoa lá như đẹp hơn. Không khí Tết bên ngoài là hoa xuân, là mứt, bánh kẹo, là hạt dưa, là những quầy bán thiệp Xuân la liệt...Không khí Tết trong mỗi ngôi trường là rộn ràng tiếng hát, tiếng đàn tập dượt văn nghệ, làm bích báo, đặc san Xuân ...Tôi và anh học cùng trường nhưng khác lớp, khác cả từng dãy hành lang và một khoảng sân rộng vì ngày ấy nam nữ không học chung. Anh làm quen tôi trong những ngày làm báo cho trường. Các bạn khác được quen, được nói chuyện với Trưởng ban báo chí toàn trường là anh thì có vẻ hân hạnh lắm. Riêng tôi mọi chuyện xảy ra tại ngôi trường mới này quá bình thường, nếu không nói là niềm vui gượng ép.

Lúc bấy giờ tôi vẫn còn nhớ tiếc quãng thời gian trung học, "đuổi bướm ép hoa vườn bách thảo".

Tôi vẫn còn nhớ nhiều những gương mặt học trò, bạn thân trong học vấn cũng như hoạt động văn nghệ trong trường như Hồng Thủy, Mộng Thúy, Ấu Oanh, Ngọc Trâm, Hương Kiều Loan, Hồng Hảo, Ánh Tuyết.... Nhớ những bước chân chạy rầm rập trên cầu thang gỗ, tiếng cười trong trẻo tan vỡ như pha lê, tiếng xuýt xoa vì ớt cay đỏ hồng trong muối, tiếng chí choé giành nhau cắn một miếng xoài tượng hơi ửng vàng.....nhớ cả những ánh mắt lườm yêu của cô Nguyệt Minh, Tổng Giám Thị, tiếng hầm hè, dọa nạt của những bà Giám Thị tuổi bằng mẹ của mình ...

Những âm thanh ấy còn vang vọng, mời gọi trở về. Thời gian ấy, thuở còn cắp sách vui thật là vui. Tuổi đẹp nhất của một đời người. Làm bích báo, tập văn nghệ để được thoát ra khỏi bốn bức tường lớp học, không phải hồi hộp khi thấy ngòi bút của vị giáo sư lướt trên sổ điểm gọi đọc bài. Không phải đứng như trời trồng trước một phương trình toán khó trên bảng đen, không phải len lén bàn tay dưới gầm bàn chia nhau món quà ăn vụng, không phải nhỏ to trên mảnh giấy con con...

Học làm thầy thì phải người lớn, phải mô phạm. Tôi đang phải tập làm quen một cách miễn cưỡng. Tôi bước vào ngôi trường Sư Phạm theo ý muốn của cha tôi. Ông là một nhà giáo rất yêu nghề. Có lẽ muốn có một người con nối nghiệp mình, nên chính ông đã nộp đơn cho tôi. Đến ngày thi, chính ông đã đưa tôi đến tận phòng thi rồi ra ngoài quán để ngồi đợi đón tôi về. Tôi đã không phụ lòng cha tôi. Càng ở trong nghề, tôi càng yêu nghề và tận tụy với nghề. Học hỏi thêm, thăng tiến kiến thức. Tôi được học sinh yêu quí, phụ huynh tin tưởng suốt gần ba mươi năm cho đến ngày bước chân ra khỏi quê hương ...
Trở lại người bạn có bút hiệu Thương Huyền, người đã tặng tôi những câu thơ mượt mà nhưng không kém phần già dặn, ý tình sâu xa mà ngày ấy tôi chưa hiểu hết, như một lời tâm tình, như một lời dặn dò, một lời khuyên. Rồi mùa đông hoa rụng trắng bên thềm, em sẽ khóc thật nhiều như một loài rêu câm nín. Nếu hôm nay em chẳng biết chăm nom bằng đôi tay búp măng vun quén cho loài hoa mới mọc, “Bây giờ hay mai sau...". Lẽ ra ngày ấy tôi phải coi anh như một người anh mới đúng.

Anh điềm đạm và rất ít nói. Ngay cả khi cả bọn làm bích báo. Nói chuyện vừa đủ không đùa giỡn. Thỉnh thoảng cũng buông một câu dí dỏm hòa theo không khí vui tươi của những người đang học làm thầy. Hình như anh hơn tôi khoảng vài ba tuổi. Nhưng anh có vẻ già dặn hơn nhiều. Anh cũng không tỏ vẻ khó chịu khi thấy một vài ông giáo sư trẻ độc thân lâu lâu lại tìm cách xuống phòng sinh hoạt để tìm cớ nói chuyện với tôi. Anh chỉ có một đề nghị bài thơ "Bây giờ hay mai sau..." của anh do chính tay tôi viết trong một góc khiêm nhường trên bích báo. Ngày ấy tập vở của tôi sạch sẽ lắm, viết bằng màu mực nâu, bút Pilot. Chữ của tôi mọi người bảo không đẹp nhưng rõ ràng, nắn nót. Các giáo sư phụ trách thường mượn lại để dạy những lớp sau. Nhưng khi viết trên bảng, vì phải chạy theo thời gian của một tiết học, nên tôi viết chữ "xấu như ma", thầy Tăng Xuân An dạy môn thực hành đã chê như thế! Nhất là ngày học tiểu học, thường thì làm luận văn, bên cạnh có cả khung điểm chữ viết nữa. Có lẽ chữ tôi được xếp vào loại xấu nhất. Được điểm trên trung bình một chút, chỉ vì cô giáo thương, nâng đỡ mà thôi. Chính cô giáo Hồng đã khuyến khích tôi nên tập viết bằng cách chép lại những bài đã học trong ngày vào một quyển vở khác. Mỗi tuần đưa cho cô xem để cô theo dõi và góp ý. Bằng cách đó mà chữ viết của tôi có tiến bộ. Sau này vì tôi chép thơ nhiều nên chữ càng đẹp hơn, nhưng nếu có ai khen, bao giờ tôi cũng nghĩ đến cô giáo cũ dạy tiểu học Trần Thị Hồng.

Tôi, đã nhận lời anh viết bài thơ trên bích báo. Biết sẽ có nhiều người xem nên nét chữ hơi run. Trong lúc làm báo, tôi hỏi anh hoa gạo màu gì ? Chắc là hoa giống như hạt gạo? Anh lắc đầu. Tôi cứ thắc mắc tại sao người ta lại đặt tên là hoa gạo. Anh mỉm cười bảo rằng anh cũng không biết gì về "lịch sử" tên loài hoa này. Nếu biết ngày nay có người hỏi, lại là một người bạn gái học cùng trường thì ngày ấy anh đã hỏi mẹ anh rồi. Anh chỉ nhớ tới một cách mơ hồ về làng quê miền Bắc của anh…Cây hoa gạo thường mọc ở ngoài cánh đồng. Mùa xuân hoa nở tung những bông hoa màu đỏ thắm. Thôn quê rực rỡ thêm trong những ngày lễ hội mùa xuân. Những cây gạo nở hoa màu đỏ, đẹp như những mâm xôi gấc.

Tôi bảo Tết này anh về thăm nhà ở thành phố nhỏ ven sông, hỏi mẹ về lịch sử tên loài hoa gạo dễ thương này, có muộn gì đâu? Khói sương như đọng trên đôi mắt cương nghị của anh…Vô tình tôi đã khơi dậy nỗi đau buồn trong anh. Khi di cư vào Nam, bố mẹ anh đã ở lại vì ông bà nội không muốn rời xa quê hương đất Tổ. Rồi sau đó, tất cả đã dần dần chết vì uất ức, vì bị đấu tố. Anh một thân một mình vào Nam vừa đi làm vừa đi học.
Thấy tôi buồn, anh chuyển qua kỷ niệm thời thơ ấu. Anh vẫn thường ra chơi ở cánh đồng cùng lũ bạn chạy nhảy, thả diều, la hét và cùng tranh nhau nhặt những bông hoa gạo để ném vào nhau. Tôi cười vui: lũ bạn của anh toàn là con trai hay còn có con gái nữa? Anh nói ở quê anh, bọn con gái chỉ chơi nhảy dây, chơi ô ăn quan, nhảy lò cò hay giả bộ bán hàng. Anh không thích chơi với mấy đứa con gái, vì mấy cô ấy bé mà chơi cứ thích đóng vai chị, vai mẹ mà thôi. Chúng tôi cười vui vẻ, tiếp tục hoàn thành tờ bích báo.

Rồi những ngày xuân rộn rã trôi đi. Chúng tôi lao vào học tập để chuẩn bị thi tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên mỗi khi nghỉ để chuyển tiết, tôi vẫn biết từ hành lang bên kia đang có một ánh mắt nhìn…

Tuổi trẻ thường thích bay bổng. Trong đơn chọn nhiệm sở, tôi đã ghi thành phố Đàlạt, Nha Trang trên thành phố Sàigon. Hơn nữa cũng chẳng có hy vọng đậu cao để được dạy ở Saigòn. Thầy Tổng Giám Thị xem xét lại hồ sơ lại là bạn thân thiết nhất của cha tôi “phát hiện” ra điều đó. Ông vội vàng điện thoại về trường nói chuyện với cha tôi. Thế là tôi phải làm đơn lại với hai chữ Sài Gòn vào bên cạnh con số 1. Tuy nhiên hai thành phố nghỉ mát của Miền Nam Việt Nam mà tôi yêu ...vẫn hiện diện trong tờ đơn chọn nhiệm sở của tôi, không Chợ Lớn mà cũng chẳng Biên Hoà .

Vì kinh nghiệm giảng dạy của cha tôi truyền cho, vì tôi có điều kiện thực hành nhiều tại những lớp học trường cha tôi phụ trách nên điểm thực hành của tôi rất cao. Thế nhưng tôi chỉ đứng thứ hạng 21 trong kỳ thi tốt nghiệp. Tôi bị lọt ra khỏi danh sách 20 người được dạy ở Sài Gòn. Anh Nguyễn Ngọc Tú (hiện nay là chủ nhân hiệu Bolsa Fabric trên đường Bolsa thuộc Sài Gòn nhỏ) là Thủ Khoa đã nhường chỗ cho tôi.

Anh nói anh là con trai có đi xa một chút cũng không sao. Thế là tôi được dạy ngay một trường gần nhà với "ca" sớm nhất trong ngày. Sau đó có cả một buổi sáng và buổi chiều, tôi đi học tiếp, vừa học vừa chơi. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đang bước vào những năm cuối của thời kỳ thái bình an lạc. Đồng tiền có giá. Hàng hóa rẻ. Một thời hoàng kim của chế độ Cộng Hòa.

Tác giả bài thơ được trở về một ngôi trường thuộc thành phố nhỏ ven sông, nơi mà cô chú anh, những người đã nuôi nấng anh, đã chọn làm quê hương thứ hai khi di cư vào Nam năm 1954. Một thành phố hiền hoà, bình dị, tươi mát. Trong khi mọi người tíu tít tụ họp nhau nơi sân trường để trao nhau lưu bút, hình ảnh, địa chỉ...thì anh vẫn điềm đạm nói lời từ biệt với tôi bằng bài thơ ghi trong tập thơ mà tôi đã chuyển đến mọi người chép và ghi cho tôi một vài kỷ niệm.

Tôi quên anh ngay sau buổi họp mặt cuối cùng ấy cho đến hơn mười năm sau, thời gian đó chiến tranh Việt Nam leo thang. Tôi đã có rất nhiều em học sinh cũ lên đường cầm súng "xếp bút nghiên theo việc đao cung " chiến đấu bảo vệ Miền Nam thân yêu. Trong đó có Nguyễn Đức Hạnh, một học sinh nghèo học rất giỏi, lại rất ngoan của tôi. Cho đến hôm nay hơn một phần tư thế kỷ, tôi vẫn không thể nào quên được gương mặt thông minh của cậu học trò ấy, cùng vẻ điềm đạm của em. Cuối năm học, ngoài phần thưởng của Sở Giáo Dục, tôi đã mua riêng cho Hạnh một cuốn tự điển Anh Việt với dòng chữ đề tặng của tôi. Cuốn tự điển ấy, Hạnh luôn luôn mang theo dùng, ngay cả khi vào lính. Tình cờ người chỉ huy đơn vị của Hạnh lại là người bạn có bài thơ ký tên Thương Huyền. Anh nhận ra nét chữ quen thuộc của tôi. Hạnh đã kể chuyện nhiều về cô giáo cũ và người đơn vị trưởng thì lại rất muốn nghe nên vẫn cho là ít ...

Lần về phép đầu tiên, Hạnh "bay" vội đến thăm tôi tại trường DTH. Bộ quân phục tác chiến còn vương mùi thuốc súng. Hạnh chuyển lời thăm của người đơn vị trưởng tới tôi. Tôi được biết người bạn học sư phạm cũ đã có gia đình. Vợ của anh cũng là cô giáo và hai người có hai con nhỏ. Vợ con anh vẫn ở thành phố ven sông.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Đức Hạnh. Người học trò cũ, người chiến sĩ trẻ. Cả đơn vị của anh đã hy sinh gần hết trong một trận giao tranh ác liệt với Việt Cộng vào mùa hè đỏ lửa. Sau này có dịp ghé qua thành phố ven sông ấy, tôi có tìm thăm vợ con người bạn cũ thì được biết anh cũng đã hy sinh. Tôi thẫn thờ nhìn từng kỷ vật của anh. Một mảnh gỗ khắc hai câu thơ được đặt trên mặt tủ:
"Mùa thu anh sẽ tìm loài dã thảo
Nhắc tên em trên những cánh hoa rừng"

Chị ngậm ngùi nói rằng đó là kỷ vật cuối cùng khi anh về phép. Lần cuối và không bao giờ trở lại. Vĩnh viễn đi xa... Lặng lẽ, tôi nhìn chị, những ánh mắt thương cảm gặp nhau, không hiểu chị có biết bài thơ ngày đó anh đã tặng cho tôi? Mảnh gỗ này có lẽ tự tay anh đã đẽo gọt rồi khắc lại những vần thơ xưa, sau khi nghe Hạnh kể chuyện về cô giáo cũ.

Tôi xoa đầu hai cháu bé, một trai, một gái Chúng nép vào tôi như muốn được che chở. Tôi ôm chặt hai bé thơ tội nghiệp như ôm cả nỗi đau thương vào lòng.

Nước mắt tôi ràn rụa, những giọt nước mắt khóc cho anh, người bạn học cũ, khóc cho chị, người vợ trẻ thời chinh chiến, khóc cho hai bé mồ côi mất cha, khóc cho Nguyễn Đức Hạnh, học trò ngoan và giỏi của tôi, khóc cho cả quê hương đất nước Việt Nam triền miên khói lửa, khóc cho một dân tộc đang bị thảm cảnh chiến tranh đầy đọa, trong đó có những người tôi quí mến.

Hôm nay một phần tư thế kỷ rồi, tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người thiếu phụ trẻ ấy với hai đứa con nhỏ dại, ánh mắt ngây thơ vô tội ngơ ngác nhìn tôi, trong ngôi nhà nhỏ đơn chiếc ở ven sông ...

Đã nhiều năm nay, tôi thường cùng bạn hữu kêu gọi trên các làn sóng đài phát thanh (hay các báo chí mà tôi cộng tác) hãy giúp đỡ các thương phế binh, cô nhi quả phụ chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Công việc này được thính giả, độc giả hưởng ứng rất nhiệt tình. Có đến hàng trăm hồ sơ từ khắp các tỉnh miền Nam gởi cho chúng tôi.
Tôi vẫn thường hy vọng nhận được thư chị, được ghi tên chị vào danh sách cô nhi quả phụ, được ghi tên hai cháu vào danh sách cô nhi để được các hội đoàn ở đây quan tâm giúp đỡ.

Riêng tôi, hàng bao năm nay, tôi muốn gởi cho chị và hai cháu một chút quà. Thế nhưng tôi không có địa chỉ và chắc gì chị cùng hai cháu còn ở nơi cũ hay không ? Gần ba mươi năm rồi, cuộc đời biết bao nhiêu là dâu bể ...

Mùa xuân ở nơi đây hình như chưa vội đến, mà Tết lại đã trở về. Người dân Việt tị nạn đón Xuân, đón Tết trong hoàn cảnh xứ người. Có nơi trong tuyết rơi giá lạnh. Nơi tôi ở, trời Cali đã bước vào mùa mưa. Có những ngày mưa tầm tã, chạnh nhớ hàng ngàn, hàng vạn đồng bào các tỉnh miền Nam nạn nhân bão lụt, nhà cửa bị tàn phá. Giờ đây người còn sống chưa hết nỗi hãi hùng, chưa vơi được niềm đau người thân yêu vĩnh viễn ra đi. Giờ đây còn biết bao nhiêu người dân nghèo còn sống trong cảnh màn trời chiếu ...nước. Mọi giúp đỡ trong khả năng, ở hải ngoại ai cũng rất nhiệt tình chia sẻ, chỉ mong sự cứu trợ được đưa tận tay đến các nạn nhân.

Nơi tôi ở, vẫn còn đang ở vào những ngày lạnh cuối đông, những ngày cuối cùng của một năm âm lịch, hờ hững đón Tết nơi xứ người. Trong lòng tôi vẫn mang một niềm mơ ước được trở về quê hương. Nhưng không phải để vui Tết với xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa mà chỉ muốn có một số tiền để được giúp người nghèo khổ, người hoạn nạn, để được thắp lên những nén hương thơm trên mỗi mộ phần người thân yêu cũng như mộ phần những người nằm xuống vì cuộc chiến. Và tôi cũng muốn thăm lại người thiếu phụ với hai đứa bé mồ côi cha ấy. Tôi nghĩ họ là một trong số nhiều gia đình bất hạnh thiệt thòi nhất sau cuộc chiến tranh triền miên và thảm khốc trên đất nước ta.

Tôi thầm hy vọng ngày trở về của tôi, không xa, chị và hai con vẫn còn sống nơi thành phố nhỏ ven sông ấy ….

viethoaiphuong
#46 Posted : Sunday, October 31, 2010 8:04:14 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

LƯU LUYẾN CHIA TAY

Mời nghe chương trình Thơ Nhạc cuối cùng của Bích Huyền
sau 16 năm phát thanh qua đài VOA:

http://www.voanews.com/v...10-29-10-106348423.html





Lưu luyến chia tay
Nói lời chia tay không bao giờ là điều dễ dàng, nhưng Bích Huyền ước mong cuộc chia tay giữa chúng ta trong chương trình cuối cùng này chỉ là sự ngọt ngào, thân ái và yên bình.
Bích Huyền
Thứ Sáu, 29 tháng 10 2010

Phù vân du tử ý
Lạc nhật cố nhân tình
Xin tạm dịch “Ý của người đi như áng mây nổi, tình của người ở lại như mặt trời lặn.”
Trong chương trình Thơ Nhạc cuối cùng của đài VOA đêm nay, Bích Huyền xin gửi đến quý vị và các bạn một vài ca khúc, vần thơ nói về những cuộc chia tay…

Hình như trong kho tàng thơ và nhạc Việt Nam, những câu thơ hay nhất, những bản tình ca đẹp nhất thường là những câu thơ buồn, và là những bản tình ca buồn.

Tại sao lại như thế? Bởi vì tình đẹp nên buồn hay vì tình buồn nên đẹp?

Có thể cả hai ý nghĩa, mà cũng có thể đúng có thể sai. Chúng ta chỉ biết rằng trong những nỗi buồn của con người có lẽ nỗi buồn thương yêu nhau, quý mến nhau mà phải xa nhau, không còn được gần nhau nữa là đớn đau và sâu nặng nhất.

Chia ly cũng thấp thoáng trong những bản tình ca của Tô Vũ, nhưng rõ nét nhất có lẽ là bài hát Tạ Từ. Vâng, Tạ Từ của Tô Vũ là một cuộc chia ly nhưng toàn thể ca khúc lại toát ra một vẻ gì đó giống như một bài kinh cầu nguyện. Mỗi hình ảnh được nhắc tới tựa như dấu vết của hạnh phúc, của ước mơ được thắp sáng và trở thành chính đối tượng của lời cầu nguyện.

Tình yêu như thế vừa có vẻ là vật hiến dâng, vừa là ân sủng được thừa hưởng. Nó có thể mất, có thể còn. Nhưng mất hay còn thì cũng vẫn ở quanh ta, trong cõi trần thế này, và vì chúng ta vẫn còn ở trong trần thế này nên nó không thể mất hẳn. Cho nên, dù có đau thương, mỗi tiếng hát vẫn là một lời ngợi ca hạnh phúc…

Ngày ấy đã xa
nhưng thanh âm còn ngân vang trong trí tưởng
Tiếng chuông của ngôi cổ tự
Rót đầy thinh không
Và trên lối chúng ta đi
Hương thơm còn để lại

Tại sao Bích Huyền lại gửi đến quý vị và các bạn bài hát Tạ Từ? Thưa quý vị và các bạn, vì đây là câu chuyện Thơ Nhạc cuối cùng của Bích Huyền với đài VOA.

Nhớ lại quãng thời gian mười sáu năm về trước, Bích Huyền nhận lời đề nghị của anh Nguyễn Văn để phụ trách ch/trình Thơ Nhạc–mà sau này anh Dương Ngọc Hoán thường giới thiệu là «Câu chuyện Thơ Nhạc»- 16 năm mà như mới đó thôi, thoáng qua như một giấc mộng. Chính trong quãng thời gian này, Bích Huyền nhận được những quan tâm, và đồng cảm của thính giả trong nước qua những lá thư mà ngày đó còn viết tay, phải gửi qua đường bưu điện, và tiền cước phí đối với hoàn cảnh đất nước thời gian đó không phải là nhỏ nhưng mọi người đã cùng chung góp để gửi đến chương trình «Câu chuyện TN».

Yêu thương là món quà vô giá mà ai cũng muốn nhận và ai cũng có thể ban tặng cho nhau. Niềm yêu thương quý giá đó đã mang nhiều ấm áp, khích lệ Bích Huyền rất nhiều. Cho nên bao nhiêu lời cảm ơn cũng không thể đủ.

Vâng, người ta có thể trả nợ dễ dàng. Nhưng trả ơn, nhiều khi rất khó. Nhất là khi ơn mình đã mang, đã được hưởng ơn, đến từ tấm lòng người cho.

Mỗi lần nghĩ đến tình yêu thương ấy, trong khả năng nhỏ nhoi của mình, Bích Huyền cố gắng biên soạn chương trình sao cho mỗi ngày một thêm khởi sắc…

Mười sáu năm qua, biết bao tình.

Văn học nghệ thuật là những gì Bích Huyền yêu thích từ thời đi học, cho nên những năm tháng qua Bích Huyền đã say mê biên soạn và thực hiện. Mỗi đoạn văn trong cuốn sách, cuốn tạp chí, những bài hát, lời thơ... khi Bích Huyền ngồi trước microphone trình bày, như là những tiếng nói đang thầm thì về một hình bóng đã xa, gợi nhớ nhiều đến ngày tháng cũ. Gần một ngàn những chương trình Thơ Nhạc, Bích Huyền để hết tâm hồn chăm chút mỗi tuần, chính là nơi gửi gấm kỷ niệm thương yêu của chính mình. Những ký ức thật xa của một thời mộng mơ lãng mạn, một thuở biết yêu được yêu, một thời hạnh phúc và cả một thời đớn đau trong giông bão của lịch sử dân tộc.

Công việc Bích Huyền làm hàng ngày cho VOA, cho một số đài phát thanh khác vừa là mưu sinh, vừa như làm văn nghệ. Thế cho nên việc biên soạn và thực hiện những chương trình trên các làn sóng là một cách bày tỏ thương yêu và trân trọng với thính giả. Bích Huyền mơ ước được thính giả yêu thương gần gũi, và đã đạt được ước mơ ấy với số thư thính giả mỗi ngày một nhiều, nhất là từ hơn mười năm qua có internet.

Đó là diễm phúc Bích Huyền nhận được.

Từ trên cái nền của những chương trình văn học nghệ thuật ấy, Bích Huyền gửi vào trong đó những tình cảm, về cuộc sống, về con người, về cái sống và cái chết, về người thân, về tình yêu đôi lứa, về quê hương, đồng loại, về lòng nhân ái, về nỗi bao dung, về sự đau khổ, về hạnh phúc, về ý nghĩa của hai chữ "cho" và "nhận"... để hướng lòng mình về nơi chân thiện mỹ, để sống những tháng ngày còn lại sao cho đời sống nhẹ nhàng hơn.

Tất cả rồi sẽ trôi qua. Chỉ có kỷ niệm là còn ở lại.

Bích Huyền đang sắp nói lời từ giã quý vị và các bạn.

Nói lời chia tay không bao giờ là điều dễ dàng, nhưng Bích Huyền ước mong cuộc chia tay giữa chúng ta trong chương trình cuối cùng này chỉ là sự ngọt ngào, thân ái và yên bình.

Rồi đây có một lúc nào đó, chúng ta chỉ thoáng thấy nhau trong một giấc mơ nào. Những giấc mơ hình như bao giờ cũng phảng phất hương hoa ngọc lan trên những hè phố Hà Nội hay phất phới lá me bay trên những con đường Sài Gòn đầy nhạc và thơ…

Hãy khép mắt… khép mắt thật khẽ
Có thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu vào những giấc mơ
Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu

***
Mai tôi đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào thì cũng phải xa nhau

Nghe tiếp Thu Hà hát Biệt Ly của Doãn Mẫn, các bạn nhé!

Vâng, «biệt ly nhớ nhung từ đây», trong nỗi ngậm ngùi ấy, Bích Huyền xin được nói lời quen thuộc «lưu luyến chia tay», xin cảm ơn quý anh chị em đồng nghiệp Ban Việt ngữ đài VOA và xin chúc quý vị và các bạn mọi điều an lành.

Quý thính giả tại Việt Nam muốn tiếp tục nghe Bích Huyền nói về thơ nhạc, xin mời nghe vào mỗi tối chủ nhật từ 8:30 đến 9g tối (giờ Việt Nam) trên làn sóng trung bình 1503 ký lô chu kỳ trong chương trình Một Thoáng Hương Xưa của đài Chân Trời Mới.


viethoaiphuong
#47 Posted : Friday, February 4, 2011 8:44:14 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Một chút tản mạn ngày tết, gửi quý bạn.
Bh

Xuân và Tết

Bích Huyền

Thế là những ngày chuẩn bị Tết đã xong. Sáng nay đi chợ Đại Hàn mua trái cây cúng. Hoa đã có người tặng hai chậu cúc, một giỏ lan tím và một chậu đào Nhật. Tất cả đều tươi đẹp. Ngoài vườn ba cây đào đều nở hoa , tuy không nhiều bằng những năm trước nhưng tôi lại yêu vẻ đẹp của hoa lác đác trên cành hơn là chen nhau nở rộ. Cây bích đào thì bao giờ cũng nở sau một tháng.
Không có buổi sáng nào mà tôi không đứng bên cửa sổ ngắm….tác phẩm của mình.
Nhìn hoa lạ nhớ Mẹ . Nhiều hôm nhớ thiết tha.
Mẹ yêu hoa đào, nếu được nhìn thấy vườn nhà tôi mỗi mùa xuân, chắc Mẹ vui lắm.
Ăn ngon lại nhớ Cha. Cụ chỉ cần một chút thịt, một ly rượu nhỏ là đủ ngon miệng bữa cơm chiều. Ngày ấy, mỗi lần mang về biếu cụ một chai rượu lễ, cụ vui lắm. Bây giờ tôi có thể mua hàng chục chai thì cụ chẳng còn trên cõi đời này.
Riêng Mẹ, tôi không thể nào quên được lần nhà cần tiền sửa chữa gì đó, Mẹ phải bán đi chuỗi ngọc. Mẹ tiếc mãi vì màu ngọc xanh biếc và nước lên bóng láng. Mỗi lần mẹ đeo, các bác bạn mẹ trầm trồ. Phải chi mẹ còn tôi sẽ mua biếu mẹ. Sau này các con có tiền nhưng không sao tìm được chuỗi ngọc đẹp như thế nên Mẹ chỉ đeo chuỗi hạt trai anh Thế đi Nhật mua về.
Chẳng bao giờ còn được dịp làm vui lòng cha mẹ nữa rồi…

Những ngày chuẩn bị Tết trong gia đình tôi ngày xưa sao rộn ràng quá.
Nhớ nhất là món cá lóc kho, vại dưa hành. Mẹ tôi kho cá từ một tháng trước Tết. Thật công phu.
Cá lóc tươi, mỗi con to bằng cùi tay, rửa sạch, cắt khúc. Sườn heo, chặt từng miếng nhỏ. Củ riềng xắt miếng theo chiều rộng. Sau đó xắp một lớp riềng kín đáy nồi, một lớp sườn và từng lớp cá. Nêm nước mắm ngon, đường, nước màu (đường cho vào nồi với một chút nước, đun cho vàng đậm, bốc hương thơm). Cho nước sôi ngập cá. Ngày đầu đun khoảng 20 phút. Sau đó mỗi ngày lại đặt lên bếp đun sôi rồi lại nhắc xuống để ngày kế tiếp lại làm như thế cho đến khi nước thấm vào cá. Khi nước trong nồi còn ít thì phải nghiêng nồi, dùng chiếc muỗng múc nước đổ đều lên lớp cá trên và đun tiếp. Khoảng một tháng thì nước đã thấm hết vào cá. Khi đó, mỗi khúc cá khô lại có màu vàng đậm óng ả, thơm ngon. Sườn giúp cho cá thêm ngọt béo, riềng giúp cho cá thơm và có độ cứng bên ngoài.
Ăn cá kho với dưa hành nén. Tuyệt vời!
Dưa hành thì làm trước một tuần. Tôi thường theo mẹ đi chợ Cầu Ông Lãnh mua dưa hành. Hành không non mà cũng không già. Bán từng bó, lựa những bó củ to đều và lá hơi héo. Khổ nhất là nhặt hành, mùi cay xông lên chảy cả nước mắt. Bỏ những chiếc lá héo và cắt sơ rễ. Nếu cắt sâu quá vào củ, hành sẽ thấm nước, mất độ ròn vì ngấm nhiều nước quá. Sau khi rửa sạch, xếp từng lớp vào vại. Một lớp dưa, một lớp hành, rắc một lớp muối rất mỏng. Cứ như thế cho đến hết. Mẹ tôi lấy một cái rế mới mua rửa sạch, đè nén lên dưa. Để một vại nhỏ khác làm vật chống đỡ cái cối đá. Đậy lại bằng cái rổ. Chỉ vài ngày là nước từ dưa, hành chảy ra, thơm lừng. Miếng dưa, miếng hành mới còn mùi hăng nhưng đã ròn tan trong miệng.
Ngày 30 đãi đậu, ngâm gạo để buổi chiều thổi xôi. Chị em xúm nhau làm. Thái dưa leo, cà rốt để trộn gỏi. Không bán sẵn như ngoài chợ ngày nay.
Các con cháu tề tựu ngày mùng 1, bao giờ cũng xin mang về hai món ăn độc đáo mẹ làm.
Món ăn chia đều cho 3 ngày Tết gồm có vịt tần, súp măng cua, nộm sứa (gỏi), bát bửu, xôi gà luộc, giò lụa, giò thủ, giò bì, canh gà nấu bóng, canh măng khô hầm chân giò…
Con cháu đông nên làm bao nhiêu cũng hết.

Lại còn món mắm tép ăn với thịt luộc, chuối chát, khế thái mỏng vắt sơ cho bớt nước chua, cùng với rau xà lách, rau thơm đủ loại.
Tép mua ở chợ loại tép riu còn nhảy xoi xoi. Để vào rổ, đặt trong chậu nước, nhặt vẩn rác rửa sạch sẽ. Khi ráo nước , cho tép vào cái thố. Trộn muối, gừng riềng giã nhỏ, thính và rượu đế. Đậy kín lại vài hôm màu tép bắt đầu ửng hồng . Khoảng 10 ngày là đỏ au và có mùi thơm quyến rũ.
Khi ăn, pha thêm nước mắm ngon, chanh đường, tỏi, ớt. Đôi khi mẹ tôi còn chưng tép với dầu phi tỏi cho thơm, cho một chút đường , chút nước mắm, vỏ quýt khô, và ăn với cơm nóng cũng ngon.
Các con vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon. Chị Dung lấy giấy ra ghi cách làm mắm tép. Anh Điểu cười “hình như mỗi năm Dung đều hỏi mợ và ghi chép đàng hoàng nhưng…chưa bao giờ thực hành!”

Sống trong Nam nhưng cha mẹ tôi vẫn giữ nguyên món ăn của người Bắc. Mãi đến khi tôi đi dạy, hay tiếp xúc với đồng nghiệp người Nam, được ăn những món mắm miền Nam như mắm nêm, mắm lóc, mắm cá linh…Không những thích mà tôi còn mê nữa. Chén mắm nêm tôi pha chế ai ăn cũng tấm tắc khen. Ngon hơn tiệm.
Sau mấy ngày Tết, nhìn thấy thịt là ngán nên tôi thường đề nghị Mẹ cho ăn món mắm. Màu xanh tươi của rau , màu vàng của khế, của dứa, màu trắng của bún, của thịt luộc, màu đỏ au của con tôm, ớt…rồi chuối chát, gừng riềng thái sợi thật mỏng...Mỗi thứ một chút bỏ vào bát cho vừa miệng ăn. Ai thích bánh tráng thì gói tất cả những thứ kể trên cuốn lại chấm với nước mắm chanh ớt chua cay ngọt. Món này ai ăn tự làm nên không khí bàn ăn rất vui vì hai bàn tay ai cũng phải …hoạt động.

Mẹ tôi kể Tết ngày xưa nơi quê nhà kéo dài tới mùng 5 .
Mùng 5 là ăn bún thang và cuốn. Vật liệu là tất cả những thực phẩm còn thừa của mấy ngày Tết. Gà luộc xé nhỏ, giò lụa thái chỉ, trứng gà chiên mỏng cũng thái chỉ, tôm khô luộc giã nhỏ và chấy khô… Nước dùng gà nấu thêm xương heo, rau răm rắc lên trên, chan nước dùng nóng vào. Ăn tô bún thang với giọt cà cuống nhỏ vào, tỉnh cả người. Ai đói thêm vài cái cuốn. Chỉ cuốn tôm thịt trứng bằng lá rau xà lách, lấy cây hành lá chụm sơ nước sôi buộc chặt, chấm với nước mắm pha chanh đường ớt.
Hai món này đi đôi với nhau, ăn rất thanh.

Mẹ tôi kể mâm cỗ Tết ngày xưa bày biện món ăn làm sao cho màu sắc hài hòa, kết tinh tài hoa , nghệ thuật, văn hóa, thẩm mỹ dân tộc. Ngồi ăn là để gần gũi với nhau hơn, rộng lượng hơn, dễ tha thứ cho nhau và gắn bó với nhau…

Ngày cuối năm với những hình ảnh quá khứ lưu giữ trong ký ức mỗi năm chìm sâu thêm vào quên nhớ. Đôi khi quên điều này, nhớ điều khác. Nhưng dù quên hay nhớ, cả hai đều là nguyên cớ của một nỗi buồn tiếc khó phai.
Nó đánh thức kỷ niệm, thắp lại ước mơ…
Kỷ niệm giống như một cuộc tình, giống như một người tình, nếu không yêu, làm sao ta biết được người ta thương nhớ ra sao?


30 Tết


Tôi đã làm xong mâm cúng 12g trưa nay. Đêm Giao Thừa chỉ cúng trái cây và bánh chưng.
Chỉ có mấy mẹ con nên tất cả đều giản dị gọi là nhớ ơn Tổ Tiên. Với tôi, tất cả là hình thức, chỉ có tấm lòng thành mới đáng kể. Đang chuẩn bị thì có phone của Hiền Vy. Hai vợ chồng đang đến thăm anh Thế trong Nursing Home. Thật cảm động nghe tiếng anh trên đầu giây điện thoại. Anh hỏi N đang làm gì đấy. Em đang làm cỗ cúng . Hôm nay 30 Tết rồi. Anh nói anh không biết Tết là gì nếu Hiền Vy không vào thăm và mang chậu cúc biếu anh. Em nhờ HV thay em thăm anh đấy. Anh cảm động nói rằng N có những người bạn thật tốt. HV vừa đẹp, vừa dễ thương quá.
Nghe anh nói mà nước mắt tôi cứ rưng rưng. Thương anh tôi quá. Tôi hứa sẽ thu xếp đi Houston mỗi năm thăm anh.
Rồi phone từ Pháp chúc Tết vì bên ấy đang Giao thừa.
Thật cảm động được nhiều nguời nhớ đến. Từ bạn hữu cho đến các em văn nghệ của tôi, ai cũng tuyệt vời.


Nhiều năm tôi thường theo mẹ đi lễ Giao thừa ở đền Đức Thánh Trần hái lộc mang về tự xông nhà. Dưới trời đêm, cây cỏ ướt hơi sương. Mẹ dừng lại bên gốc cây ngâu, hái một nhánh rất nhỏ nhưng có đầy đủ hoa và vài ba chiếc lá nõn nà. Mùi hương hoa ngâu thơm ngát. Trong không gian bao la của đêm trừ tịch, tôi cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại. Tôi đứng sát bên mẹ tìm hơi ấm. Nghe cả tiếng thầm thì của mẹ khấn cầu Trời Đất bình an. Khí thiêng như đọng vào cành lộc mẹ xin.
Cử chỉ khi mẹ hái rất kính cẩn nhẹ nhàng. Chỉ bằng mấy ngón tay, mẹ khẽ hái một cành con như sợ cây đau. Cành lộc đó là sẽ mang đến cho gia đình mọi sự tốt lành. Mẹ nói “Người ta có thể tặng cho người mình yêu quý nhất”. Riêng mẹ tôi, bao giờ cũng cắm vào bình hoa tươi trên bàn thờ kính dâng lên ông bà Tổ tiên đã về sum họp cùng gia đình trong ba ngày Tết.

Những mùa Xuân và Tết sau năm 1975 gia đình tôi không đến nỗi nghèo khó như đời sống người dân chung quanh nhưng vẫn cảm thấy vô cùng thiếu thốn. Làm sao có được cái không khí rộn ràng ngày Tết, tiếng nói cười vang khắp các phòng khi mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Đêm 30 một mình tôi ngồi trong phòng khách không hoa mai, hoa cúc, nhìn lên bàn thờ sơ sài hoa trái, nến đèn mà cảm thấy xót xa.
Nhớ thương những người thân yêu, thương cả miền Nam. Nỗi đau lúc nào cũng vò xé tâm can, nhất là vào dịp lễ thiêng liêng của dân tộc.
Người mới tới muốn xóa bỏ tất cả .Nhưng càng làm cho người ta hơn bao giờ hết âm thầm giữ gìn tinh hoa đất nước.
Dưới những mái nhà là một sức sống cố vươn lên…

Bích Huyền
viethoaiphuong
#48 Posted : Saturday, March 26, 2011 5:23:33 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


viethoaiphuong
#49 Posted : Tuesday, February 14, 2012 8:10:48 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Mùa Xuân và Tết




Nhà văn Bích Huyền

Thế là những ngày chuẩn bị Tết đã xong. Sáng nay đi chợ Đại Hàn mua trái cây cúng. Hoa đã có người tặng hai chậu cúc, một giỏ lan tím và một chậu đào Nhật. Tất cả đều tươi đẹp. Ngoài vườn ba cây đào đều nở hoa , tuy không nhiều bằng những năm trước nhưng tôi lại yêu vẻ đẹp của hoa lác đác trên cành hơn là chen nhau nở rộ. Cây bích đào thì bao giờ cũng nở sau một tháng.

Không có buổi sáng nào mà tôi không đứng bên cửa sổ ngắm….tác phẩm của mình.
Nhìn hoa lại nhớ Mẹ. Nhiều hôm nhớ thiết tha.

Mẹ yêu hoa đào, nếu được nhìn thấy vườn nhà tôi mỗi mùa xuân, chắc Mẹ vui lắm.

Ăn ngon lại nhớ Cha. Cụ chỉ cần một chút thịt, một ly rượu nhỏ là đủ ngon miệng bữa cơm chiều. Ngày ấy, mỗi lần mang về biếu cụ một chai rượu lễ, cụ vui lắm. Bây giờ tôi có thể mua hàng chục chai thì cụ chẳng còn trên cõi đời này.

Riêng Mẹ, tôi không thể nào quên được lần nhà cần tiền sửa chữa gì đó, Mẹ phải bán đi chuỗi ngọc. Mẹ tiếc mãi vì màu ngọc xanh biếc và nước lên bóng láng. Mỗi lần mẹ đeo, các bác bạn mẹ trầm trồ. Phải chi mẹ còn tôi sẽ mua biếu mẹ. Sau này các con có tiền nhưng không sao tìm được chuỗi ngọc đẹp như thế nên Mẹ chỉ đeo chuỗi hạt trai anh Thế đi Nhật mua về.

Chẳng bao giờ còn được dịp làm vui lòng cha mẹ nữa rồi…



Đại Gia Đình của Bích Huyền - Mồng 1 Tết - Sài Gòn 1972

Những ngày chuẩn bị Tết trong gia đình tôi ngày xưa sao rộn ràng quá.

Nhớ nhất là món cá lóc kho, vại dưa hành. Mẹ tôi kho cá từ một tháng trước Tết. Thật công phu. Cá lóc tươi, mỗi con to bằng cùi tay, rửa sạch, cắt khúc. Sườn heo, chặt từng miếng nhỏ. Củ riềng xắt miếng theo chiều rộng. Sau đó xắp một lớp riềng kín đáy nồi, một lớp sườn và từng lớp cá. Nêm nước mắm ngon, đường, nước màu (đường cho vào nồi với một chút nước, đun cho vàng đậm, bốc hương thơm). Cho nước sôi ngập cá. Ngày đầu đun khoảng 20 phút. Sau đó mỗi ngày lại đặt lên bếp đun sôi rồi lại nhắc xuống để ngày kế tiếp lại làm như thế cho đến khi nước thấm vào cá. Khi nước trong nồi còn ít thì phải nghiêng nồi, dùng chiếc muỗng múc nước đổ đều lên lớp cá trên và đun tiếp với lửa nhỏ. Khoảng một tháng thì nước đã thấm hết vào cá. Khi đó, mỗi khúc cá khô lại có màu vàng đậm óng ả, thơm ngon. Sườn giúp cho cá thêm ngọt béo, riềng giúp cho cá thơm và có độ cứng bên ngoài.

Ăn cá kho với dưa hành nén. Tuyệt vời!

Dưa hành thì làm trước một tuần. Tôi thường theo mẹ đi chợ Cầu Ông Lãnh mua dưa hành. Hành không non mà cũng không già. Bán từng bó, lựa những bó củ to đều và lá hơi héo. Khổ nhất là nhặt hành, mùi cay xông lên chảy cả nước mắt. Bỏ những chiếc lá héo và cắt sơ rễ. Nếu cắt sâu quá vào củ, hành sẽ thấm nước, mất độ ròn vì ngấm nhiều nước quá. Sau khi rửa sạch, xếp từng lớp vào vại. Một lớp dưa, một lớp hành, rắc một lớp muối rất mỏng. Cứ như thế cho đến hết. Mẹ tôi lấy một cái rế mới mua rửa sạch, đè nén lên dưa. Để một vại nhỏ khác làm vật chống đỡ cái cối đá. Đậy lại bằng cái rổ. Chỉ vài ngày là nước từ dưa, hành chảy ra, thơm lừng. Miếng dưa, miếng hành mới còn mùi hăng nhưng đã ròn tan trong miệng.

Ngày 30 đãi đậu, ngâm gạo để buổi chiều thổi xôi. Chị em xúm nhau làm. Thái dưa leo, cà rốt để trộn gỏi. Không bán sẵn như ngoài chợ ngày nay.

Các con cháu tề tựu ngày mùng 1, bao giờ cũng xin mang về hai món ăn độc đáo mẹ làm.
Món ăn chia đều cho 3 ngày Tết gồm có vịt tần, súp măng cua, nộm sứa (gỏi), bát bửu, xôi gà luộc, giò lụa, giò thủ, giò bì, canh gà nấu bóng, canh măng khô hầm chân giò…

Con cháu đông nên làm bao nhiêu cũng hết.

Lại còn món mắm tép ăn với thịt luộc, chuối chát, khế thái mỏng vắt sơ cho bớt nước chua, cùng với rau xà lách, rau thơm đủ loại.

Tép mua ở chợ loại tép riu còn nhảy xoi xoi. Để vào rổ, đặt trong chậu nước, nhặt vẩn rác rửa sạch sẽ. Khi ráo nước , cho tép vào cái thố. Trộn muối, gừng riềng giã nhỏ, thính và rượu đế. Đậy kín lại vài hôm màu tép bắt đầu ửng hồng . Khoảng 10 ngày là đỏ au và có mùi thơm quyến rũ.

Khi ăn, pha thêm nước mắm ngon, chanh đường, tỏi, ớt. Đôi khi mẹ tôi còn chưng tép với dầu phi tỏi cho thơm, cho một chút đường , chút nước mắm, vỏ quýt khô, và ăn với cơm nóng cũng ngon.

Các con vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon. Chị Dung lấy giấy ra ghi cách làm mắm tép. Anh Điểu cười “hình như mỗi năm Dung đều hỏi mợ và ghi chép đàng hoàng nhưng…chưa bao giờ thực hành!”

Sống trong Nam nhưng cha mẹ tôi vẫn giữ nguyên món ăn của người Bắc. Mãi đến khi tôi đi dạy, hay tiếp xúc với đồng nghiệp người Nam, được ăn những món mắm miền Nam như mắm nêm, mắm lóc, mắm cá linh…Không những thích mà tôi còn mê nữa. Chén mắm nêm tôi pha chế ai ăn cũng tấm tắc khen. Ngon hơn tiệm.

Sau mấy ngày Tết, nhìn thấy thịt là ngán nên tôi thường đề nghị Mẹ cho ăn món mắm. Màu xanh tươi của rau , màu vàng của khế, của dứa, màu trắng của bún, của thịt luộc, màu đỏ au của con tôm, ớt…rồi chuối chát, gừng riềng thái sợi thật mỏng...Mỗi thứ một chút bỏ vào bát cho vừa miệng ăn. Ai thích bánh tráng thì gói tất cả những thứ kể trên cuốn lại chấm với nước mắm chanh ớt chua cay ngọt. Món này ai ăn tự làm nên không khí bàn ăn rất vui vì hai bàn tay ai cũng phải …hoạt động.

Mẹ tôi kể Tết ngày xưa nơi quê nhà kéo dài tới mùng 5.

Mùng 5 là ăn bún thang và cuốn. Vật liệu là tất cả những thực phẩm còn thừa của mấy ngày Tết. Gà luộc xé nhỏ, giò lụa thái chỉ, trứng gà chiên mỏng cũng thái chỉ, tôm khô luộc giã nhỏ và chấy khô… Nước dùng gà nấu thêm xương heo, rau răm rắc lên trên, chan nước dùng nóng vào. Ăn tô bún thang với giọt cà cuống nhỏ vào, tỉnh cả người. Ai đói thêm vài cái cuốn. Chỉ cuốn tôm thịt trứng bằng lá rau xà lách, lấy cây hành lá chụm sơ nước sôi buộc chặt, chấm với nước mắm pha chanh đường ớt hoặc với chén dấm bỗng.

Thang và cuốn, hai món này đi đôi với nhau, ăn rất thanh.

Mẹ tôi kể mâm cỗ Tết ngày xưa bày biện món ăn làm sao cho màu sắc hài hòa, kết tinh tài hoa, nghệ thuật, văn hóa, thẩm mỹ dân tộc. Ngồi ăn là để gần gũi với nhau hơn, rộng lượng hơn, dễ tha thứ cho nhau và gắn bó với nhau…

Ngày cuối năm với những hình ảnh quá khứ lưu giữ trong ký ức mỗi năm chìm sâu thêm vào quên nhớ. Đôi khi quên điều này, nhớ điều khác. Nhưng dù quên hay nhớ, cả hai đều là nguyên cớ của một nỗi buồn tiếc khó phai.

Nó đánh thức kỷ niệm, thắp lại ước mơ…

Kỷ niệm giống như một cuộc tình, giống như một người tình, nếu không yêu, làm sao ta biết được người ta thương nhớ ra sao?

30 Tết

Tôi đã làm xong mâm cúng 12g trưa nay. Đêm Giao Thừa chỉ cúng trái cây và bánh chưng.

Chỉ có mấy mẹ con nên tất cả đều giản dị gọi là nhớ ơn Tổ Tiên. Với tôi, tất cả là hình thức, chỉ có tấm lòng thành mới đáng kể. Đang chuẩn bị thì có phone của Hiền Vy. Hai vợ chồng đang đến thăm anh Thế trong Nursing Home. Thật cảm động nghe tiếng anh trên đầu giây điện thoại. Anh hỏi N đang làm gì đấy. Em đang làm cỗ cúng . Hôm nay 30 Tết rồi. Anh nói anh không biết Tết là gì nếu Hiền Vy không vào thăm và mang chậu cúc biếu anh. Em nhờ HV thay em thăm anh đấy. Anh cảm động nói rằng N có những người bạn thật tốt. HV vừa đẹp, vừa dễ thương quá.

Nghe anh nói mà nước mắt tôi cứ rưng rưng. Thương anh tôi quá. Tôi hứa sẽ thu xếp đi Houston mỗi năm thăm anh.

Rồi phone từ Pháp chúc Tết vì bên ấy đang Giao thừa.

Thật cảm động được nhiều nguời nhớ đến. Từ bạn hữu cho đến các em văn nghệ của tôi, ai cũng tuyệt vời.

Nhiều năm tôi thường theo mẹ đi lễ Giao thừa ở đền Đức Thánh Trần hái lộc mang về tự xông nhà. Dưới trời đêm, cây cỏ ướt hơi sương. Mẹ dừng lại bên gốc cây ngâu, hái một nhánh rất nhỏ nhưng có đầy đủ hoa và vài ba chiếc lá nõn nà. Mùi hương hoa ngâu thơm ngát. Trong không gian bao la của đêm trừ tịch, tôi cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại. Tôi đứng sát bên mẹ tìm hơi ấm. Nghe cả tiếng thầm thì của mẹ khấn cầu Trời Đất bình an. Khí thiêng như đọng vào cành lộc mẹ xin.

Cử chỉ khi mẹ hái rất kính cẩn nhẹ nhàng. Chỉ bằng mấy ngón tay, mẹ khẽ hái một cành con như sợ cây đau. Cành lộc đó là sẽ mang đến cho gia đình mọi sự tốt lành. Mẹ nói “Người ta có thể tặng cho người mình yêu quý nhất”. Riêng mẹ tôi, bao giờ cũng cắm vào bình hoa tươi trên bàn thờ kính dâng lên ông bà Tổ tiên đã về sum họp cùng gia đình trong ba ngày Tết.

Những mùa Xuân và Tết sau năm 1975 gia đình tôi không đến nỗi nghèo khó như đời sống người dân chung quanh nhưng vẫn cảm thấy vô cùng thiếu thốn. Làm sao có được cái không khí rộn ràng ngày Tết, tiếng nói cười vang khắp các phòng khi mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Đêm 30 một mình tôi ngồi trong phòng khách không hoa mai, hoa cúc, nhìn lên bàn thờ sơ sài hoa trái, nến đèn mà cảm thấy xót xa.

Nhớ thương những người thân yêu, thương cả miền Nam. Nỗi đau lúc nào cũng vò xé tâm can, nhất là vào dịp lễ thiêng liêng của dân tộc.

Người mới tới muốn xóa bỏ tất cả. Nhưng càng làm cho người ta hơn bao giờ hết âm thầm giữ gìn tinh hoa đất nước.

Dưới những mái nhà là một sức sống cố vươn lên…



Bích Huyền & Gia đình Uyển Diễm (Irvine, California - USA)

Bích Huyền


viethoaiphuong
#50 Posted : Thursday, March 8, 2012 1:34:56 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Hãy yên nghỉ trên Đồi Hồng, Hảo nhé!

Wednesday, March 07, 2012 4:21:34 PM -

Bích Huyền viết về người bạn học cũ

Nhắc đến tên Hồng Hảo thì có lẽ không ai học cùng thời mà không biết.
Hồng Hảo là một người đẹp của Trưng Vương. Vóc dáng thanh thanh xinh xắn, gương mặt đẹp như thiên thần.


Hình bìa báo Xuân Kịch Ảnh 1960 với nét bút đề tặng chưa phai của Hảo

Giờ ra chơi, có một lần tôi đứng sau bờ tường hành lang, nhìn xuống sân trường giữa muôn cánh bướm trắng bay lượn, Hồng Hảo như rực sáng khiến ai cũng phải chiêm ngưỡng…. Tôi không học cùng lớp với Hồng Hảo nhưng chúng tôi vẫn thân nhau vì sinh hoạt văn nghệ trong trường, nào ngồi xe hoa của trường diễn hành trong ngày Phụ Nữ Việt Nam (Lễ Hai Bà Trưng), nào đi uỷ lạo chiến sĩ ngoài tiền tuyến, nào dự đại hội Văn nghệ Học sinh Sinh viên, nhất là những buổi tập hát tam ca với nhau cùng với Tâm Đạt, bản Thanh Bình Ca của nhạc sĩ Nguyễn Hiền.

Yêu ca hát từ thuở học Tiểu học, cho nên tôi nguỡng mộ hình ảnh Hồng Hảo đứng một mình trước micro với ban hợp ca Hạc Thành trong khi chị Thể Tần và các anh Nhật Bằng, Nhật Phượng cùng đứng bên nhau phía xa xa phụ họa theo Hồng Hảo trong ca khúc Được Mùa, Sáng Rừng, Tiếng Sáo Thiên Thai… Ban hợp ca Hạc Thành của nhạc sĩ Trần Nhật Bằng, ban tứ ca đầu tiên ở Hà Nội với bốn anh em Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Có thể nói Ban Thăng Long và Ban Hạc Thành là hai Ban hợp ca đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.


Từ trái: Bích Huyền, Tâm Đạt, Hồng Hảo

Hồng Hảo và ban hợp ca Hạc Thành đã để lại những hình ảnh và giọng hát thư sinh rất đẹp trong lòng giới học sinh, sinh viên thời ấy. Nhìn và nghe ban Hạc Thành trình diễn, người ta cảm nhận được nét thanh xuân tươi tắn và không khí rất Hà Nội một thuở thanh bình… Ban Hợp ca Hạc Thành thêm Hồng Hảo ra đi, ngày nay chỉ còn lại một mình anh Nhật Phượng. Rời trường Trưng Vương, tôi và Hồng Hảo vẫn thân nhau. Bạn của anh Thế tôi là anh D rất yêu Hồng Hảo, thường nhờ tôi mang ô mai vào trường cho Hảo, nhưng rồi chuyện hai người cũng không thành. Sau này, người yêu của Hảo (anh Đoàn Đình Nam, là người bạn đời của Hảo) và người yêu của tôi đều học Y khoa. Chúng tôi có những chuyến đi chơi rất vui, khi Biên Hòa, khi Thủ Đức, có cả Đức Hạnh, Kim Hoàng… Thế rồi Hảo và Nam lập gia đình. Ngày cưới Hảo không thiếu một bạn thân. Anh Nam chuyển lên Đà Lạt, chúng tôi chỉ gặp nhau rất ngắn khi Hảo có dịp về chơi Sàigon. Mối tình xưa của tôi với người cũ Y khoa có duyên mà không nợ nên đành đứt đoạn. Sang đây, nghe tin anh đau ốm nặng, tôi… “gặp lại” người yêu xưa qua phone, chỉ nghe tiếng anh khóc. Anh nhớ màu son tôi dùng, màu móng tay Pink Cloud tôi sơn…Và tôi nhớ mãi câu nói cuối cùng của anh “đám mây hồng ấy anh không còn nhìn thấy nữa trong đời”. Anh nhắc lại những ngày vui bên tôi cùng với nhóm bạn Trưng Vương, nhất là Hồng Hảo vì anh có chở tôi đến chơi nhiều lần. Và chính anh đã giữ và gửi lại tôi hình chụp hôm đám cưới Hồng Hảo đã vàng úa theo thời gian.



Vào đời, các bạn xưa mỗi đứa một nơi, lo chuyện gia đình nhưng Hồng Thủy (khi đó ở Cam Ranh) và Hồng Hảo bao giờ cũng liên lạc với tôi. Tôi không thể nào quên những trái mận ròn tan Đà Lạt của Hảo và những con khô mực vùng Cam Ranh ngọt ngào của Hồng Thủy mang về Saigon cho tôi… Khi tôi theo chồng lên Đà Lạt thì gia đình Hảo lại chuyển về Sài Gòn. Nhưng tình bạn chẳng hề phai cho dù biến nạn 1975. Các bạn tôi ra đi, hình như chỉ có tôi ở lại. Những lá thư, những gói quà vượt đại dương với bao nhiêu nỗi niềm chia sẻ mà tôi nhận được từ các bạn học Trưng Vương... Năm 1990 tôi sang định cư tại quận Cam Nam Cali. Năm 1992 Hồng Thủy và một vài người bạn mua vé máy bay cho tôi và con gái tôi sang DC tham dự Đại Hội Trưng Vương Hoa Anh Đào. Có lẽ đây là thời gian tôi sống gần Hồng Hảo lâu nhất. Khi đó Hảo mới nhuốm bịnh. Năm 1997 đám cưới con gái tôi, Hồng Hảo không tham dự. Mỗi lần Hảo từ Wisconsin về, chỉ hẹn vài người bạn thân ra quán ngồi ăn quà với nhau. Rồi từ đó tôi chỉ nghe tin tức về sức khỏe của Hảo qua những nguồn tin rất xấu từ bạn bè đưa lại, nghe mà ngậm ngùi cho bạn một mình trong nursing home. Đức Hạnh, Hồng Thủy và tôi đã dự định đi Wisconsin thăm Hảo. Gần đây nhất tin tức rất xấu từ những người bạn Trưng Vương: Hảo đã bị cưa chân. Nghe cứ lạnh cả người ! Và càng thôi thúc chúng tôi phải rủ nhau đi thăm Hảo. May anh Nam di chuyển về San Diego. Thế là Đức Hạnh và tôi cùng Thảo, Sâm có dịp đến thăm. Chuyến thăm Hảo thật tuyệt vời! Những phút giây đầu tiên cả Đức Hạnh và tôi đều hồi hộp đến độ run sợ vì e rằng mình sẽ oà khóc, sẽ …lặng người đi khi nhìn thấy Hảo tang thương. Cửa mở ra, Hảo ngồi dựa lưng trên ghế nệm salon, hai chân duỗi dài trên một chiếc ghế khác . Một phong cách rất thoải mái. Anh Nam nói rằng Hảo vẫn thường ngồi như thế để xem Paris By Night. Và thường khen giọng hát Bằng Kiều…



Da dẻ Hảo trắng trẻo, hồng hào. Gương mặt trẻ thơ, trong sáng. Nếu hàm răng còn đầy đủ , có lẽ Hảo trẻ hơn những người bạn đến thăm nhiều vì tóc Hảo không nhuộm mà vẫn màu đen. Hảo nhận ra từng người bạn thân thiết ngày xưa. Không tự hỏi chuyện ai nhưng Hảo trả lời những câu hỏi rất ngắn gọn, chính xác. Đức Hạnh mua mít và trái vải cho Hảo. Hảo chọn trái vải, ăn từ tốn trông rất ngon lành. Khi Hạnh hỏi Hảo thích ăn gì để lần sau đến thăm nấu cho Hảo ăn thì Hảo chọn món bún thang. Méo mó nghề nghiệp, tôi muốn nghe lại giọng hát của Hảo, của Ban Hạc Thành ngày trước. Anh Nam mở cho chúng tôi nghe. Khi Hảo hát, chúng tôi giả vờ hỏi có phải giọng chị Thể Tần thì Hảo trả lời ngay: Hảo hát đấy. Đến bài anh Nam hát, mọi người khen hay, Hảo nói rằng : Nam hát cũng được thôi! Điều đó chứng tỏ Hảo rất khiêm tốn. Hảo còn thể hiện rõ hơn khi tôi nhắc lại cuối thập niên 1990 Hảo về Sài Gòn đến nhà thăm tôi. Mẹ tôi khi đó bệnh đã lâu mà vẫn còn nhớ “cô Hồng Hảo, người đẹp nhất Sài Gòn”. Hảo nghe xong chỉ im lặng. Khi tôi hỏi anh Nam “các con có ở gần đây?”, anh nói các cháu mỗi tuần đều về thăm mẹ và yêu mẹ lắm. Thế là Hảo tủi thân oà khóc. Tôi dỗ “Hảo đừng khóc nữa, hãy cười lên đi để Bích Huyền nhìn thấy đôi mắt đẹp và cái lúm đồng tiền của Hảo”. Rất trẻ thơ, Hảo cười trong nước mắt. Ai cũng cười theo. Tôi khen mắt Hảo còn đẹp lắm, má lúm đồng tiền dễ thương lắm. Hảo trả lời “Huyền cũng đẹp vậy!” Hảo lại một lần khóc nữa khi chúng tôi từ giã ra về. Chúng tôi đành phải viện cớ về nhà lấy quần áo thì Hảo nói ngay “mặc quần áo của Hảo”… Hơn hai giờ đồng hồ bên Hảo, chúng tôi cảm thấy thật vui. Hảo vẫn là Hảo trong tình thương yêu của anh Nam, của các con cháu. Anh Nam nói rằng “chỉ khi nào tôi vào nursing home thì Hảo mới vào”. Tất cả những lời đồn đại về Hảo, về anh Nam đều hoàn toàn sai lạc. Anh Nam vẫn yêu thương và săn sóc Hảo. Là bóng mát che chở Hảo mùa hè, là ấm áp ấp ủ Hảo khi trời đông. Thấy ánh mắt Hảo nhìn chồng là thấy hai người hoàn toàn hạnh phúc trong hoàn cảnh an nhiên tự tại. Chúng tôi ra về, niềm vui hội ngộ còn giữ mãi…



Lòng tôi giao động khi sau này nghe anh Nam kể rằng, có đêm Hảo chợt hỏi anh Nam “Bích Huyền đâu? Đức Hạnh đâu?” Tôi tự hứa sẽ đến thăm Hảo nhiều hơn. Lời hứa sẽ không còn thực hiện được nữa rồi. Buổi sáng 3/3/2012 nghe Minh Trân báo tin, bệnh Hảo trở nặng buổi chiều đưa vào nhà thương ngay, nhưng Hảo đã trút hơi thở cuối cùng vào đêm hôm đó. Hồng Hảo đã đi vào nơi miên viễn, bỏ lại những năm tháng dài trên giường bệnh là một giải thoát nhẹ nhàng, thế nhưng sự vắng mặt của Hồng Hảo trên cõi đời này đã để lại một khoảng trống vắng rộng lớn trong gia đình, trong lòng bạn hữu bao nỗi tiếc thương. Nước mắt nào đầy vơi, khóc sao cho đủ, Hảo ơi… Hãy yên nghỉ trên Đồi Hồng, Hảo nhé!

Bích Huyền

Nguoi Viet Daily News
http://www.nguoi-viet.com/


viethoaiphuong
#51 Posted : Monday, September 17, 2012 12:13:27 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



CÓ BÍCH HUYỀN, TA LUÔN CÓ MỘT "MÙA CŨ ÊM VUI"...

by Dai Duong Dao on Tuesday, September 18, 2012 at 11:01am
·
- Đào Đại Dương -

Ta luôn tìm kiếm điều gì đó có thể biến mỗi ngày bình thường thành những ngày thật đẹp…Trong đời sống, có đôi lúc một ánh mắt, một nụ cười cũng làm chúng ta xao xuyến, có đôi khi một giọng nói, một giọng đọc cũng làm chúng ta bâng khuâng, cũng gieo vào lòng người những tình cảm thương yêu trìu mến, gần gũi và tin cậy.

Bích Huyền là một giọng nói, giọng đọc như thế. Giọng nói thật êm dịu, thật ấm áp và ngọt ngào qua các chương trình văn học nghệ thuật gửi đến thính giả trong và ngoài nước hàng tuần trên các làn sóng phát thanh trong suốt nhiều năm qua. “Câu chuyện thơ-nhạc” của đài tiếng nói Hoa Kỳ, hay “Một thoáng hương xưa” của đài Chân Trời Mới, những cái tên quen thuộc như tên người phụ trách các chương trình được trông đợi hàng đêm ấy. Bích Huyền lâu nay vẫn miệt mài gìn giữ cho “hương sắc Việt” không nhạt phai theo năm tháng, không chìm khuất trong lãng quên.

Hãy một lần tìm lên ngọn đồi cao, nhìn xuống thành phố bên dưới khi lên đèn – mỗi ngọn đèn là một căn nhà, một gia đình nho nhỏ! Ta tự hỏi họ đang làm gì trong căn nhà – Họ đang ăn cơm chiều? Hay là đang cùng nhau nghe một chương trình ra-đi-ô do Bích Huyền thực hiện… Tất cả những trạng thái, hình ảnh ấy đều đưa ta vào với cõi lòng bao dung hơn, độ lượng hơn…Ta đang có cái hạnh phúc của Người được trở về…Về quê xưa để ngồi lại dưới chân cầu sóng vỗ nhìn dòng sông đời mình êm đềm xuôi chảy. Về quê xưa để ngồi lại trên thềm nhà cũ, lắng nghe những cảm xúc, lắng nghe những thoáng hạnh phúc trong tiếng mưa rơi từng giọt, từng giọt trên những bậc thềm xưa. “Huế - Sài Gòn - Hà Nội”, những bài hát, bài thơ hoài niệm về một dĩ vãng xa xôi, một quê hương biền biệt, bao giờ cũng làm người ta bâng khuâng tiếc nhớ những ngày vui mơ hồ.

Kỷ niệm – với Bích Huyền – là một món quà bất ngờ…Qua Bích Huyền, qua “Thềm Xưa” và những “Thềm Xưa” – Ta như được lời nhắn nhủ ngọt ngào: Chỉ cần biết tiếp nhận tình Người, thì ở đâu, Ta cũng có thể sống sâu sắc, không lưu lạc nữa …

.oOOo.


Chúng tôi, từ Biển Media & Arts, trong một buổi chiều muộn, đã gặp gỡ và thực hiện cuộc phỏng vấn dưới đây với Bích Huyền. Xin trân trọng sẻ chia đến cùng quý vị:

Quay lại với hơn 15 năm gắn bó với VOA trong các chương trình "Một Thoáng Hương Xưa" và rồi "Câu Chuyện Thơ Nhạc" trên các đài Radio Bolsa 106.3 FM (tại Nam California) và Chân Trời Mới, hôm nay, một ngày tháng Chín, chớm Thu thôi, Bích Huyền thấy rằng những đóng góp văn hoá, phát thanh của mình đã đạt được những điều thuở ban đầu đưa ra chưa ạ? Lẽ yêu thương lớn nhất chắt lọc từ hơn 15 năm gắn bó với phát thanh của Bích Huyền là gì ạ?

Bích Huyền: Mong ước của Bích Huyền ở thuở ban đầu thật đơn giản, nhẹ nhàng: chỉ là đem niềm vui đến cho thính giả nguời Việt qua những bài nhạc, bài thơ va những câu chuyện văn học, nghệ thuật để phần nào quên đi gánh nặng cơm áo thường ngày, hoặc nỗi buồn tha hương của nguời Việt sống xa quê. Vâng, nhẹ nhàng như thế mà thôi nhưng không ngờ chương trình lại được đón nhận một cách nồng nhiệt ngay một vài tháng bắt đầu, Bích Huyền đã nhận được những lá thư từ Sài Gòn gửi về Đài. Khi đó thư từ Việt Nam gửi sang Mỹ giá cước phí đắt lắm. Nhưng nhiều thính giả đã góp tiền gửi chung một lá thư. Trong đó có những nhạc sĩ từng làm việc trong Đài Sàigon, đài Quân Đội ngày xưa (như nhạc sĩ Lê Đô). Còn ở quận Cam, thính giả chờ đợi đón nghe, thu vào tape. Khách phương xa về thăm nhờ người thân thu lại…Thật cảm động và cũng từ đó chăm chút nhiều hơn bằng cách nghiên cứu, tìm hiểu làm sao cho nội dung chương trình mỗi ngày một mới, một súc tích, nhất là một…quyến rũ.

Không gì quý hơn là tình cảm thuơng yêu của Bích Huyền đối với thính giả của mình, và tình cảm thương yêu mà Bích Huyền nhận được từ quý thính giả.

Sao chỉ là nhẹ nhàng thôi, 15 năm qua, nhiều chương trình thực hiện ở quá khứ, thính giả của Bích Huyền vẫn còn nhắc, hoặc "sống tìm"? Nhiều chi tiết, rất cặn kẽ, họ vẫn nhớ y nguyên... Vì sao vậy?

Bích Huyền: Những chủ đề Văn học nghệ thuật là những gì mà Bích Huyền yêu thích, phải nói là “say mê” từ thuở còn đi học, nắn nót chép từng câu thơ, câu văn hay và nâng niu gìn giữ đến tận bây giờ. Sau này lại dạy môn Văn nên càng yêu hơn và có nhiều giây phút sống trong dòng thơ dòng văn lãng mạn trữ tình. Có thể nói nhìn chung quanh đâu cũng thấy thơ văn…Và từ không gian đó khi ngồi trước micro “nói chuyện” cùng thính giả, Bích Huyền cảm thấy gần gũi, dễ dàng, có cảm tưởng như đang ngồi nói chuyện với nhau mà thôi. Rồi có lẽ vì nội dung của các chuơng trình này đáp ứng sự trông đợi và tâm tư tình cảm và nhất là kỷ niệm của quý thính giả, cũng như những mất mát to lớn kể từ cơn hồng thủy 1975, nay có người nhắc lại… Cho nên chương trình Thơ Nhạc mỗi đêm thứ sáu được thính giả Việt Nam -nhất là Sàigon trông đợi, đón nhận chăng?!


Điều gì trong cuộc sống, kích thích cảm xúc của Bích Huyền để vun xới tới những chủ đề của chương trình rồi thực hiện chúng? Có cần phải theo trào lưu khán giả, hoặc đặt hàng từ quý đài không ạ?

Bích Huyền: Song song với những giờ phụ trách về Văn Học Nghệ Thuật, Bích Huyền còn giữ phần Tin tức sinh hoạt Cộng đồng cũng như Phỏng vấn nhân vật cho nên hay đi ra ngoài nhiều. Qua đó có nhiều dịp tiếp xúc với nguời Việt ở quanh mình, cũng như đi Tiểu bang xa –theo lời mời của địa phương…cho nên Bích Huyền hiểu được phần nào những nhu cầu trong đời sống tinh thần của đồng hương mình, nhờ vậy Bích Huyền cố gắng… dọn ra các món ăn hợp khẩu vị để mong đáp ứng được phần nào các nhu cầu ấy. Nói "trào lưu" thì không hẳn đúng, nhưng là "tâm tư tình cảm" của nguời Việt mình. Về phỏng vấn nhân vật đôi khi theo yêu cầu của Đài (chẳng hạn những dịp bầu cử Tổng thống, dịp 911…) Riêng về Thơ Nhạc tuyệt đối không bao giờ có chuyện "đặt hàng" của bất cứ ai.

Văn - Nhạc - Thơ và đời sống - cứ quấn quýt với nhau trong các chương trình Bích Huyền thực hiện! Chúng là tất cả, là tất yếu đấy chứ! Này nhé, riêng với Nhạc thôi, xin hỏi, theo Bích Huyền: Âm nhạc có biên giới không? (Ý cháu muốn hỏi là giữa âm nhạc trước và sau 1975 hoặc âm nhạc hải ngoại và trong nước đấy ạ.)

Bích Huyền: Như chúng ta vẫn nghe nói: "Âm nhạc không biên giới". Âm nhạc nào đi vào lòng người, gọi là "chạm đến trái tim" người yêu nhạc; và hơn thế nữa, mang con nguời lại gần với nhau, thì âm nhạc đó là âm nhạc đích thực.

Thính giả "trong nước" đối thoại với các chương trình Bích Huyền thực hiện như thế nào ạ ? Hẳn, là người thực hiện và thâu nhận nhiều liên lạc, thư từ, emails - Bích Huyền chia sẻ vài nhận xét về tư duy họ, sự chấp nhận hay "chống đối" nếu có từ họ ạ ...Khán thính giả từ trong nước có bao giờ là lý do Bích Huyền cho ra đời thêm nhiều chủ đề chương trình nữa không?

Bích Huyền: Nhờ cái “không biên giới” đó mà trong quá khứ Bích Huyền nhận được nhiều những tape, CD nhạc ở khắp mọi nơi kể cả Hà Nội Sàigon và một số tỉnh nhỏ thuộc miền Nam (khi sự giao thiệp còn khó khăn hạn chế, thính giả vẫn cố gắng tìm cách gửi ra hải ngoại tới Bích Huyền, không như thời đại Internet bây giờ sự liên lạc dễ dàng nhanh chóng quá.)Và phải kể đến những món quà từ quê hương vượt đại dương, đặc sản mỗi miền khi nơi đây còn hiếm hoi. Điều thú vị nhất là Bích Huyền có quyền được phát trong chương trình của mình những bài tình ca rất hiếm, rất đẹp của các nhạc sĩ trong nước như Việt Anh, Lê Quang, Phú Quang, Trần Tiến…, phát thanh những tiếng hát ở trong nước mà không bị ngăn cấm hay chống đối như Lê Dung, Ánh Tuyết, Ngọc Tân…từ những năm đầu của thập niên 1990.

Nhờ cái “không biên giới” đó mà Bích Huyền được các bạn thính giả học sinh, sinh viên trong nước cảm nhận được lén lút chờ nghe trong ký túc xá sinh viên, có những em vẫn còn liên lạc cho đến bây giờ dù đã là Tiến sĩ, đi dạy, đi làm. Bích Huyền lại còn được các bậc thi sĩ, nhạc sĩ thời tiền chiến đón nghe và những lá thư “mang ơn” thơ văn của họ đã được sống lại khi Bích Huyền nhắc đến trong chương trình, những thơ văn bị chết một cách tức tưởi sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm mà cho đến sau 75 kéo dài đến đầu thập niên 1990 vẫn còn truyền miệng … Những câu hỏi phỏng vấn, câu trả lời phải viết tay, gửi qua bưu điện.
Ngày trước, khi chưa có internet, Bích Huyền nhận được không ít thư từ của thính giả gửi đến các chương trình mà Bích Huyền phụ trách. Về sau này, số thư ít đi, nhưng con số những e-mail gửi về Bích Huyền thì ngày càng nhiều hơn, có lẽ vì phương tiện liên lạc thuận tiện và dễ dàng hơn. Các chủ đề Bích Huyền thực hiện thường huớng về đối tượng thính giả ở cả trong và ngoài nước. Nói chung, thính giả đều bày tỏ lòng yêu quê hương, đất nước và yêu những nét đẹp văn hoá của dân tộc mình. Thật may là đến nay Bích Huyền chưa nhận được sự "chống đối" nào.

Bích Huyền yêu thương mùa (thời khắc) nào nhất trong năm? Vì sao thế nhỉ?

Bích Huyền: Mùa thu, vì là mùa gắn bó với nhiều kỷ niệm thuơng yêu của Bích Huyền. Và mùa thu, tự nó đã có nhiều nét đẹp mơ màng với màu sắc, đường nét của khung cảnh, bóng dáng thời gian và không gian, tất cả như toát ra một vẻ gì đó mơ hồ, lãng đãng …mơ mộng lắm. Đưa tâm hồn người trở về những giấc mộng và những kỷ niệm không phai. Mơ mộng đôi khi bị lên án là lãng mạn, là không thực tế. Nhưng thật ra đây cũng là một cách làm cho vơi đi những lo toan vất vả đời thường, những muộn phiền không thể không có, để rồi sau đó đứng lên tiếp tục cuộc hành trình, đời sống vui tươi và hy vọng đang chờ ta phía trước. Mùa thu là mùa có một vẻ gì đó rất xa vời, kín đáo; bình dị nhưng mênh mông, khiến cho ta có cảm tưởng mùa thu rất xưa, rất đẹp, mỗi năm lại trở về cho chúng ta cảm giác bình yên.

Lẽ ra, với tuổi êm đềm như lúc này, Bích Huyền như bao người khác sẽ thích thú làm những cuộc viễn du đó đây, sống với thiên nhiên và thưởng thức thắng cảnh. Rất hiếm thấy Bích Huyền du lịch, phải chăng, 15 năm hơn với những cuộc "viễn du" trên radio, trên các diễn đàn và độ reo rắc của những gì Bích Huyền góp nhặt, đã đủ và cần thiết cho nhu cầu chu du đó đây của mình rồi, thưa Bích Huyền?

Bích Huyền: Chuyện "du lịch" thì hầu hết ai cũng thích, và chắc là không bao giờ gọi là "đủ" được. Bích Huyền cũng thích được đi nhiều, thích có nhiều cơ hội tiếp xúc với đồng hương mình ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Mỗi nguời là một cuốn sách kỳ thú. Ngoài việc thuởng lãm những danh lam thắng cảnh, được tiếp xúc với nhiều nguời, tìm được nơi họ những nét hay, lạ… cũng là những chuyến du hành thú vị. Có lẽ vì khi thời gian còn làm việc, đi xa nhiều nên lúc sau này nghỉ hưu, tuổi không còn trẻ, ngại di chuyển, cho nên Bích Huyền không muốn đi du lịch nữa mà chỉ muốn ở nhà, đọc sách báo, nghe nhạc hay…lang thang trên internet, trên Facebook để mở mang kiến thức. Cách du lịch này cũng rất thú vị và hữu ích lắm, phải không?

Ngày quyết định chia tay, trong chương trình cuối trên VOA, góc trời phát thanh bình yên và đều đặn nhất của Bích Huyền, hẳn phải có rất nhiều "lưu luyến". Hãy cùng chúng tôi quay về và ôn lại thời gian đấy đi ạ! Chiều về hoặc khi đêm buông, Bích Huyền có thấy chạnh lòng không? Có nhớ không những "yêu thương hằng ngày" thuở ấy? Có khóc không ạ?

Bích Huyền: Với thính giả của các chương trinh Bích Huyền phụ trách, Bích Huyền xem như những người thân yêu. Có ai xa rời những người thân yêu của mình mà không lưu luyến, và không có những giây phút chạnh lòng nhớ về những nguời thân không còn ở gần bên mình. Nhớ quá thì cũng có khi khóc chứ, phải không? Vâng, không khóc sao được khi sau chương trình từ giã, hàng loạt email nhận được nói lên nỗi bàng hoàng, mất mát, có thính giả thật trẻ viết “Cả nhà cháu đã khóc khi bất ngờ nghe chương trình cuối “Lưu Luyến Chia Tay”. Không bao giờ Bích Huyền hết ngậm ngùi. Bây giờ ở trên các diễn đàn, trên Facebook… vẫn có nhiều người tiếc nuối, nhớ nhung. Và có nhiều người muốn giữ lại, tìm tòi hỏi thăm Bích Huyền về những nơi để lưu trữ lại những chương trình Thơ Nhạc ấy. Nghe nói có nơi họ còn …rao bán các chương trình Thơ Nhạc của Bích Huyền…

Vâng, rồi mọi người vẫn gìn giữ (ít nhất là trong ký ức họ) về những chương trình Bích Huyền thực hiện ở quá khứ, và hiện tại! Khi nhóm trẻ thuộc Biển Media & Arts bày tỏ ý định thực hiện chuỗi Audio albums "Thềm Xưa" - golden collections - của Bích Huyền, Cô có cảm thấy ấm lòng và bình yên không? Ít nhất là thế hệ sau mình, đã muốn lưu giữ lại những gìn giữ đã từng trong tay Cô...

Bích Huyền: Thật vui và thật cảm động. Vui vì những "câu chuyện thơ-nhạc" ấy và những "thoáng huơng xưa" ấy không mất đi; và hơn thế nữa, được những người trẻ của thế hệ tiếp nối yêu quý, trân trọng, và tìm mọi cách để gìn giữ. Đây có lẽ là một phần thưởng cao quý, một hạnh phúc lớn lao nhất mà Bích Huyền có được.

Được như thế, Bích Huyền không bao giờ quên những tinh hoa của văn học nghệ thuật mà Bích Huyền cảm nhận được, có được là từ các văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ, các giọng hát mà các Trung Tâm sản xuất đã ghi lại, phổ biến, các kỹ thuật viên của các đài đã thu thanh chương trình Thơ Nhạc, các đài phát thanh Bích Huyền được cộng tác phổ biến vang xa…Bích Huyền xin ghi khắc với tấm lòng biết ơn vô cùng. Sau hết là cảm ơn lòng yêu thương của thính giả bốn phương. Nếu không các văn nhân thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, những Trung Tâm băng nhạc, những chuyên viên kỹ thuật, không có thính giả yêu thương đón nghe .v.v… thì “Câu chuyện Thơ Nhạc”chương trình “Một Thoáng Hương Xưa” sẽ không bao giờ có trong đời sống Bích Huyền. Việc làm của các bạn trẻ trong Biển Media & Arts rất đáng trân trọng. Cảm ơn các bạn. Rất ấm lòng và bình yên lắm!

Cho cô con gái yêu thương của Bích Huyền - Uyển Diễm và các cháu, các con trong/ngoài gia đình (hoặc xa hơn, cho thế hệ đi sau Cô) - Bích Huyền gửi gắm gì qua "Thềm Xưa" lần này? Làm sao để họ có thể có được những "lối cũ chẳng sao quên" đúng nghĩa như Bích Huyền đã đang có?

Bích Huyền: Mong rằng các con, các cháu của Bích Huyền, và giới trẻ hôm nay cố gắng gìn giữ những tài sản văn hóa của nước Việt, dân Việt, như các bạn trẻ của Bích Huyền đã dành ra bao nhiêu công sức và thì giờ, và nhất là tâm huyết để thực hiện các CD Thềm Xưa cũng trong mục đích và ý nghĩa tốt đẹp ấy. Kho tàng Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam giàu có và quý giá lắm! Hãy không ngừng tìm hiểu, tiếp thu và hấp thụ, rồi sẽ thấy cả một chân trời rộng mở vô cùng vô tận, nhất là chúng ta sẽ yêu người, yêu cuộc đời này hơn và muôn đời cảm ơn những người đã tạo ra cho chúng ta món ăn tinh thần ngọt ngào ấy.

Trân trọng cảm ơn Bích Huyền cho cuộc trò chuyện này ạ!

Tháng Chín, tháng của mùa thu bắt đầu, 2012
Đào Đại Dương
Users browsing this topic
Guest (2)
3 Pages<123
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.