Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

4 Pages123>»
Các bài với chủ đề MẸ
Phượng Các
#1 Posted : Friday, November 19, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Hồi Ức Về Mẹ

Nguyễn Thụy Long


source: vietbao.com

LTS. Tuần trước, Việt Báo có đăng một cáo phó: Cụ bà quả phụ Nguyễn Thụy Nhân, nhũ danh Phạm Thị Miên, pháp danh Diệu Thiện đã mệnh chung lúc 16 giờ 1 phút chiều 26 tháng 9 năm 2004, nhằm ngày Giáp Thân, tại Bệnh Viện Fountain Valley, California. Lễ di quan và hoả táng đã được tổ chức vào lúc 11 giờ ngày 1 tháng 10 năm 2004. Người trưởng nam của cụ, nhà văn Nguyễn Thụy Long hiện sống ở Saigon, không được cùng hai em ở bên Mẹ lúc cụ lâm chung. Từ bên kia đại dương, nơi căn nhà cũ, nhà văn viết “Hồi Ức Về Mẹ.”


Đã mười mấy năm nay, mỗi buổi sáng tôi không còn nghe tiếng dép quen thuộc của mẹ nữa ở phòng bên cạnh. Cụ dậy thật sớm, quét tước nhà cửa rồi pha lấy một ấm trà, một ly cà phê, cụ ngồi nhâm nhi chờ trời sáng hẳn.
Nằm ở phòng bên này nhà, mái tôn chung, chỉ ngăn cách bằng một bức tường lửng và tấm cửa gỗ mỏng, tôi tưởng tượng ra được đủ thứ, từng công việc của mẹ. Nào là lúc cụ pha trà vào cái bình trà nhỏ xíu có hình tiên ông, ly cà phê cụ pha vào cái phin bằng đồng của tôi được người ta tặng hồi làm báo, mà bà giữ rất lâu, mấy chục năm trời. Cái phin này cụ giữ mới còn, nếu vào tay tôi hồi đó thì đã ra chợ trời lâu rồi. Thời gạo châu củi quế, cái gì cũng bán được ngoài chợ trời. Thuở ấy sao mà khổ thế, sau ngày 30 tháng Tư năm 75, miền nam bại trận, tôi thất nghiệp, hết thời. Sau khi sách báo xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 đều bị người thắng trận đốt sạch, và ký giả, nhà văn thì bị bắt bỏ tù coi như tội đồ, đổ cho nhiều thứ tội. Nhà báo, nhà văn chúng tôi bị kỳ thị ra mặt, bị coi như cùi hủi. Những nhà báo nhà văn chế độ cũ, còn một chút gì trong đầu phải tự gác bút mà thôi, tôi ở trong số người ấy. Niềm đau ấy còn mãi đến bây giờ. Mặc dầu tôi từng được công an khuyên nên quên đi để xây dựng đất nước, nhưng làm sao tôi quên được, khi niềm đau của tôi vẫn còn mãi trong ký ức. Bao nhiêu là đám giỗ của người thân quen vào ngày 30 tháng Tư, mà phải đổi lại ngày âm lịch là ngày 19 tháng Ba năm ấy, để khỏi bị làm phiền, trong khi người ta ăn mừng chiến thắng tưng bừng, cờ xí rợp trời và những phát biểu của vị nguyên thủ quốc gia cùng những người có công trong chiến thắng ấy. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng và thống nhất, mang lại hoà bình cơm no, áo ấm cho toàn dân. Sao những người như tôi vẫn thấy đau, vẫn khốn khổ. Vì nhiều thứ, từ những cuộc chia ly người gia đình, mà tưởng chừng như không bao giờ còn gặp lại nữa và tiễn những người thân vượt biên ra đi, để có người còn trở lại, có người vĩnh viễn nằn dưới lòng biển đông.
Những buổi sáng như thế, ở ấp Đông Ba xưa, nay là phường Bẩy quận Phú Nhuận. Căn nhà xưa của gia đình, mẹ tôi gìn giữ nó, không để cho bị tịch thu, vì anh em tôi đều bị đưa đi học tập cải tạo hết rồi. Mẹ ở một mình trong căn nhà ấy, đồ đạc trong nhà có gì bán dần, bán mòn đi để ăn và thăm nuôi hai anh em chúng tôi trong trại học tập. Cụ lặn lội vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với con, những đứa con tù tội khốn khổ của bà. Tới trại tù, trước khi được thăm nuôi người ta dạy mẹ tôi và những thân nhân thăm tù, gặp mặt phải khuyên bảo và giáo dục những người tù như chúng tôi
câu: "Con ráng học tập tốt rồi nhà nước nhân đạo, khoan hồng tha cho về xum họp với gia đình".
Bây giờ đã mấy chục năm qua, khi ai nhắc hoặc nghe lại câu này tôi vẫn có cảm giác muốn buồn nôn. Tôi biết sau khi phải học vẹt như thế thì họ mới cho thăm nuôi con mình, không biết cụ đã nghĩ gì. Nhưng có lẽ mẹ tôi rất là đau khổ, tôi chỉ biết thương mẹ và cảm ơn mẹ, khi mẹ gầy hốc hác ngồi trước mặt tôi. Không chừng mẹ đã phải nhịn đói, nhịn khát để mang miếng cơm vào cho con. Một chút gạo, quí giá như những hạt châu ngọc. Vậy mà tôi từng bị tịch thu những hạt gạo ấy, bỏ vào kho, hoặc cho ai ăn không biết, có thể là mấy thằng khốn nạn, có thể lợn gà. Với mẹ, tôi vẫn là đứa con nhỏ bé, dù tôi đã lớn, đã trưởng thành, nhưng những hạt cơm của mẹ cho, tôi coi quí giá như những hạt châu ngọc. Vào thời tù tội đó, mỗi khi ra cổng trại để đi lao động và thoáng gặp những bà mẹ tay xách, nách mang đi thăm con. Tôi lại giấu những giọt nước mắt của mình, lúc đó tôi rất nhớ mẹ tôi.
Tôi và những bạn bè có những nỗi đau giống nhau, có thể họ có những mất mát lớn hơn tôi nhiều, vậy mà chúng tôi vẫn cố gắng sống, chỉ người nào chịu đựng không nổi nữa thì chỉ còn một lối thoát là chết hoặc câm lặng để sống mòn. Tôi không đủ can đảm nên chọn cách sống mòn và mấy chục năm qua, tôi đã là một lão già ốm đau dặt dẹo, gần đất xa trời, chưa biết bao giờ thì xa lìa trần thế.
Nhận được tin sét đánh mẹï ra đi do bạn tôi (Từ, Nhã) báo tin qua điện báo, tôi rất buồn. Hồi ức về mẹï sống dậy trong tôi.
Tôi tuổi ngũ thập tri thiên mệnh, giắt díu vợ con về sống bên mẹ, trước những ngày mẹ sẽ đi nước ngoài do em gái tôi bảo lãnh cho cụ. Tôi là người không có hộ khẩu, không có gì hết ngoài tờ giấy ra trại, và cũng đã từng bị đuổi khỏi nơi cư trú vì không có quyền công dân. Nhưng tôi cứ liều trở về ngôi nhà cũ để sống bên mẹ, dù có bị kết tội là "cư trú bất hợp pháp trên căn nhà mình làm chủ"û. Và sẵn sàng khăn gói quả mướp đi tù thêm một lần nữa, nếu họ muốn bắt tôi về tội ngoan cố hoặc chống đối gì đó, tôi cũng thây kệ cha nó!
Buổi sáng khi tôi nghe những tiếng động và tiếng dép của mẹ ở phòng bên cạnh, ngăn cách bằng một bức tường lửng, cánh cửa thông sang. Tôi cũng thức giấc, sửa soạn cho một chuyến đạp xe thồ xuống tận Long An buôn vài giạ gạo để kiếm tiền chênh lệch về nuôi vợ con. Thằng con trai út của tôi, thằng Cua, lẫm chẫm xách bị quần áo của cụ, mà vợ tôi giặt chiều qua mang ra trước cửa sổ để đưa cho bà nội. Con chó Ki của bà nội, lẩn quẩn bên chân bà mừng rối rít. Nó phởn phơ, hạnh phúc. Nó cũng thương bà cụ, tôi biết tối nào nó cũng nằm ngủ dưới gầm giường của cụ để canh chừng. Phòng của bà cụ có cửa sổ nhìn qua hàng rào sang chùa Huê Nghiêm. Ở căn nhà này gia đình tôi đã nghe tiếng tụng niệm tiếng cầu kinh đều đều cả mấy chục năm trời, với tiếng chuông chùa buồn vang vọng lan xa tới những nếp nhà tranh cuộn mình trong khói lam chiều, và cũng từ nơi này tôi trở thành nhà văn, nhà báo.
Hồi ức về mẹ thì nhiều lắm, với một bà cụ sống gần trọn thế kỷ. Từ những ngày thơ ấu ở Láng ngoài Bắc, trận chết đói năm Aát Dậu, 1945, rồi ngày Hà Nội nổ súng kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, ngày mà nhiều người yêu nước trẻ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch để trở thành chiến sĩ vô danh, những ngày chạy tản cư lên mạn ngược, bố tôi từng theo kháng chiến, mẹ tôi phải gói những chiếc bánh gai đi bán, nuôi anh em tôi thời thơ dại, tiếp tế cho bố, đang đeo đuổi cuộc kháng chiến chống thực dân. Gia đình tôi hồi cư về Hà Nội, mục đích chính là để cho tôi được học hành, không phải là học để trở thành một thứ nhi đồng, sẵn sàng đấu tố cha mẹ hoặc tố cáo cha mẹ là Việt gian hoặc được dậy dổ phải căm thù tầng lớp trí thức tiểu tư sản, mà cha mẹ tôi là những người thuộc tầng lớp ấy, làm vừa lòng những ai đó đang cầm quyền sinh sát ngoài vùng kháng chiến. Bố tôi cũng trở về Hà Nội mang theo bệânh sốt rét kinh niên. Trước ngày chia đôi đất nước, gia đình tôi đã vào miền Nam sinh sống, chính xác là Sài Gòn, rồi bố tôi mất, khi đó tuổi ông còn rất trẻ.
Sau đó cuộc di cư vĩ đại của người miền Bắc năm 1954, mang theo bao nhiêu bạn bè đồng hương của tôi, căn nhà gỗ lợp tôn của gia đình tôi ở hẻm Phát Diệm, mà ngày xưa có tên là sở rác Nguyễn Tấn Nghiệm, vùng Cầu Kho, đã đón bao nhiêu những người bạn nhỏ của tôi, khi đó các anh còn ở trại học sinh Phú Thọ. Những bữa cơm Bắc kỳ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua rau đay của mẹ mời, làm các anh cũng ấm lòng, đỡ nhớ quê hương.
Chúng tôi mon men theo nghiệp thơ văn. Căn gác của tôi lưu lại biết bao nhiêu là thơ văn của Trần Dạ Từ, thơ của Đỗ Quí Toàn, nét bút tài hoa của Lê Đình Điểu, anh thường sang nhà tôi chơi, thơ lục bát của Viên Linh và nhiều những bài thơ, bản thảo của các bạn khác nữa, những bài thơ viết lên vách ván hoặc giắt trên mái tôn. Từ cửa của căn gác gỗ luôn luôn mở rộng tôi nhìn lên thấy tháp chuông nhà thờ Huyện Sĩ và nhìn xuống thì thấy con hẻm lầy lội, cái máy nước suốt ngày đông đảo người gánh, đôi khi xảy ra xô xát, cãi vã, cả chửi thề, chính anh em chúng tôi cũng phải đứng canh để xách nước cho gia đình, trong xóm lúc nào củng ồn ào, có tiếng ca cải lương của một cô gái nào đó mơ ước một ngày nào mình trở thành đào cải lương, sáng chói trên sân khấu, thời đó là thời của Uùt Trà Oân, của Thành Được, của Hữu Phước, của Uùt Bạch Lan v.v.. những chuyện nhậu nhẹt ăn nói lung tung của những anh bất mãn đời vì nghèo.
Căn nhà đó không còn nữa khi mẹ tôi thất bại trong chuyện làm ăn, bà phải bế đứa em gái nhỏ của tôi đi Lào cùng với bà Dì tìm đời sống khác, tiếp tục nuôi anh em chúng tôi, dưới mắt bà chúng tôi vẫn là những đứa trẻ nhỏ dại, cần đến sự săn sóc của bàn tay người mẹ.
Ngày mẹ tôi đi Lào thật nghèo nàn, tôi tiễn mẹ ra sân bay Tân Sơn Nhất, mẹ mặc áo cánh trắng quần đen, trên tay bế đứa em gái tôi, xách theo một bị quần áo, không có lấy chiếc va ly, mẹ còn kịp cho tôi mấy chục đồng bạc, tiền bà còn sót lại không thể tiêu được ở xứ người. Mẹ tôi đi vào phòng cách ly cùng với đám hành khách đông đảo, tất cả mọi người đều ăn mặc sang trọng, riêng mẹ tôi và em gái tôi thì nghèo nàn đến thảm hại. Khi đó nước mắt tôi mới chảy ra, mẹ và em tôi khuất bóng sau cửa kính tôi mới quay đi, tôi ra bãi cỏ trước phi trường nằm ngửa mặt nhìn lên trời nắng gắt xem chiếc máy bay nào đưa mẹ và em tôi đi. Thằng em trai tôi thì ở lại sống nhờ vả họ hàng, hy vọng còn được học hành đàng hoàng. Đó là lần thứ hai trong tuổi đời còn non trẻ của tôi phải chịu đựng nỗi buồn xa mẹ. Lần thứ nhất khi còn ở Hà Nội, tôi chia tay với mẹ, để mẹ cõng thằng em trai tôi lên chiến khu tìm bố. Buổi sáng hôm ấy Hà Nội có sương mù, tôi đứng trên bao lơn ở số nhà 38 ngõ Hoà Mã, nhà của bác tôi nhìn mẹ khuất trong sương mù ở đầu chợ Hôm. Những chục năm đã qua, mẹ vẫn tần tảo nuôi con, bây giờ mẹ lại phải ra đi vì cơm áo.
Tôi dời công viên, đạp xe lang thang trên đường phố Sài Gòn, tôi chẳng thiết ăn uống gì, mặc dầu trong túi có mấy chục bạc của mẹ cho, tôi phải mang về chia cho thằng em, nó cũng cần đồng quà tấm bánh của mẹ. Thôi xa rồi những bữa cơm canh cua rau đay cà pháo chấm mắm tôm. Tôi đạp xe qua trường học, các bạn tôi đã vào lớp, hôm nay vắng mặt tôi và có lẽ sẽ vắng mặt vĩnh viễn.
Buổi chiều tôi đạp xe về khu trường đua Phú Thọ, qua con đường Nguyễn văn Thoại, còn là rừng cao su rợp bóng cây, bên phải con đường rải rác những nếp tranh toả khói lam chiều, sau lùm cây kia là xứ Nam Hoà, xứ đạo của người Bắc di cư, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ và nghe tiếng cầu kinh bài kinh Lậy Cha: "Lạy cha chúng con ở trên trời…chúng con nguyện danh Cha cả sáng…nước Cha trị đến… ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời…Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con…như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…hằng chữa chúng con cho khỏi sự dữ…A men..", nắng chiều thoi thóp và tiếng cầu kinh sao mà buồn thế.
Tôi có hẹn với Hoài Nam, tức Trần Dạ Từ, ở nhà Nguyễn Nhật Duật ở Bình Thới thuộc khu Phú Thọ. Khi đó tôi đói meo, nhưng vẫn không ăn gì. Trần Dạ Từ, có lẽ từ trong trại học sinh Phú Thọ ra, hỏi tôi câu đầu tiên:
-Mẹ đi rồi hả?
-Ừ mẹ đi rồi.
Tôi trả lời thế, vì Trần Dạ Từ coi mẹ tôi cũng như mẹ anh. Tình thân ấy kéo dài suốt mấy chục năm trời cho đến bây giờ vâõn còn nguyên vẹn. Những đứa con của mẹ không bao giờ quên mẹ.
Tôi đói quá, hỏi Nguyễn nhật Duật:
-Nhà còn gì ăn không?
-Cơm thì hết rồi, nhưng miếng cháy làm rượu thì còn, cậu ăn tạm nhé.
Gia đình Nguyễn Nhật Duật thuở ấy nghèo lắm cũng như bao nhiêu người di cư khác, ông bà phải cất rượu đi bán để nuôi bầy con. Tôi ăn miếng cháy cơm rượu sao mà ngon thế, lần đầu tiên tôi phải ăn nhờ và tôi nhớ mãi không quên.
Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, khu Bình Thới, giáp ranh với đường Lạc Long Quân là một vườn hoa nhài, người miền Nam gọi là Hoa Lài thơm ngát. Sau một chầu cà phê ở quán Con Nhạn, trong khu vườn lài, chúng tôi ra ruộng hoa lài ngồi chơi, ngắm trăng, lòng dạ tôi rối bời vì nhớ mẹ, mẹ bây giờ đã ở bên Lào rồi, có lẽ mẹ cũng đang nhớ đến những đứa con của cụ. Không biết đêm nay cụ và em tôi ngủ nhờ nhà ai? Bà dì tôi đã thu xếp được một căn nhà nào chưa? Tôi lại muốn khóc. Khi đưa cụ đi tôi chưa khóc được, hoặc mới khóc được một ít.
Tiếng thổi tiêu tài hoa của Trần Dạ Từ cất lên vi vút, tôi nhớ tiếng sáo này khi mới quen anh ở quán cà phê Gió Bắc ở đường Phan Đình Phùng, hoà với tiếng ở cái đĩa hát đa õmòn hát bài Hướng Về Hà Nội của Hoàng Dương. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ. Ngày hôm sau và nhiều hôm sau nữa tôi và Trần Dạ Từ bắt đầu cuộc sống bụi đời, chúng tôi thuê căn gác ở Bình Thới, nhìn xuống con đường Lạc Long Quân, đêm đêm nghe tiếng bánh xe bò di chuyển không biết nó về đến đâu, tiếng xe bò nghiến trên mặt đường đá âm thanh khô khốc… cái đèn bão treo ở gầm xe đung đưa. Chúng tôi không có nghề nghiệp gì, nghiệp thơ văn thì quá eo hẹp, những bài thơ của Trần Dạ Từ đăng báo thì không có tiền, những truyện ngắn của tôi viết còn dở quá nên bị toà báo vứt vào xọt rác là chuyện thường. Những buổi chiều bụng hai thằng đói meo, chúng tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp cọc cạch thường xuyên xẹp lốp đi kiếm ăn, đúng ra là nhờ bạn bè cũng chưa có nghề nghiệp như hai đứa chúng tôi khúc bánh mì, hoăïc quí giá là bao tô hủ tíu ăn không đủ no bụng…của đứa trẻ tuổi đang lớn.
Rồi tôi nhập ngũ thời gian sau, từ trại huấn luyện tôi viết thư về cho Từ, Từ hồi âm, tôi còn nhớ câu Từ viết : "…cũng may mà cậu có cơm ăn, không còn đói như tớ bây giờ nữa, cố gắng lên…hãy ghi nhận lại tất cả.". Giòng đời không xuôi chảy, sau đó tôi ở tù khám Chí Hoà mất một năm. Khu quân phạm. Mẹ tôi nghe tin từ bên Lào trở về, thăm nuôi tôi cụ mang vào cho tôi một bát canh cùng những đồ ăn thăm nuôi. Tôi nhớ mãi bắt canh ngày hôm đó. Sau này tôi viết thành một truyện ngắn nhan đề là Bát Canh Của Mẹ, tôi trúng giải nhất của một tờ tuần báo. RoÀi từ đó tôi vào hẳn nghề làm báo viết văn, cùng với bạn bè ngày xưa nay cũng đeo đuôûi nghề làm báo viết văn. Từ đã có vợ là Nhã Ca, cũng là người làm thơ viết văn. Chúng tôi trôi nổi với nghề nghiệp qua nhiều chục năm trời. Mẹ tôi từ Lào lại về, gia đình đoàn tụ, thế là đủ…
Cho đến ngày tôi trở thành kẻ ngã ngựa, rồi tù tội, mẹ vẫn không bỏ con, bỏ những đứa con không còn nhỏ dại gì, nhưng chúng quá khổ. Tôi lại gặp cụ ở phòng thăm nuôi, già yếu hốc hác. Con đường rừng hiểm trở, người thăm nuôi phải vịn nhau mà đi. Dù khổ sở nhưng tôi muốn được ở mãi bên mẹ.
Buổi sáng sớm tinh mơ tôi không còn nghe tiếng dép lẹp kẹp của mẹ ở nhà bên cạnh nữa, những âm thanh quen thuộc mà thân yêu ấy cho đến ngày hôm nay và đã vĩnh viễn mất hẳn, như nhiều cái tôi đã mất trong đời. Mẹ tôi đã có lần hứa về thăm quê hương, nhưng sức khoẻ cụ không cho phép.
Hai giờ rưỡi sáng, tôi đạp xe đạp vào phi trường tiễn mẹ. Phi trường đêm ấy lồøng lộng gió. Tiễn mẹ đi đêm ấy, tôi linh cảm thấy không bao giờ còn được gặp mẹ nữa…Dáng cụ xiêu xiêu đi vào phòng cách ly, cụ lại dúi cho tôi những đồng tiền Việt Nam còn sót lại trong túi, như hồi mấy chục năm về trước. Phi trường bây giờ mở rộng khang trang hơn trước nhiều. Vì nghĩ chẳng bao giờ được gặp mẹ nữa, nên nước mắt tôi chảy ra, tôi khóc, như hồi nào ở số 38 ngõ Hoà Mã Hà Nội ngày mẹ tôi lên đường đi tìm cha tôi ở chiến khu Việt Bắc. Ngày đó tôi cũng sợ mất mẹ như bây giờ. Ngày đó chiến tranh dữ dội, mạng sống con người không có gì bảo đảm. Quê hương tôi vậy đó.
Đoán chừng mẹ đã đi rồi, tôi đạp xe ra khỏi phi trường, ánh đèn huỳnh quang vàng dọc theo lối đi dài sao mà buồn thế. Phi trường vẫn lộng gió. Tôi đạp xe vòng sân bay qua Ngã Tư Bẩy Hiền, xuống chợ Bà Quẹo, ngồi uống cà phê ở một quán cóc bên đường nhìn lên trời lúc gần về sáng. Tôi hy vọng rằng mẹ tôi từ trên máy bay nhìn xuống thấy quê hương, thấy Sài Gòn, thấy Biên Hoà nơi để mộ phần của bố tôi. Tôi nhỏ bằng hạt bụi trong mắt cụ không thể nhìn thấy được, nhưng cụ tưởng tượng ra đứa con của cụ đứng lóng ngóng ở đâu đó trong đám chúng sinh nhỏ bé nàyï.
Nhiều buổi sáng thằng con út của tôi xách cái giỏ không ra cửa sổ đứng đón chờ bà nội để đưa quần áo giặt. Nó làm vì thói quen, vì nhớ bà nội. Con chó Ki thì bỏ ăn, nó nằm trên cái áo rách của mẹ tôi, về sau nó già quá rồi chết. Mười năm sau mưa gió đất xói mòn, bây giờ tôi không còn biết nấm mồ nó ở đâu, chỉ biết xương nó còn trong vườn.
Tất cả chúng con đều nhớ mẹ, bàng hoàng khi nhận được tin mẹ qua đời. Cụ thọ vào bậc nhất rồi nhưng sao tôi vẫn buồn. Cụ mất ngày 13 tháng 8 âm lịch bên Mỹ, còn hai ngày nữa là tết Trung Thu ở Việt Nam. Hôm nay ở đây tôi làm lễ phát tang cho mẹ, đúng vào ngày rằm Trung Thu, tôi e rằng trời lại mưa, như nhiều năm tôi ở miền Nam không bao giờ tôi được ngắm trăng rằm. Ở miền nam này nói đến chuyện rước đèn đêm rằm Trung Thu là chuyện hy hữu. Vì mùa này là mùa mưa bão ở miền Nam, tôi chưa thấy trăng rằm tháng Tám bao giờ trong 50 năm sống ở miền Nam. Mấy hôm nay tin khí tượng lại cho biết một cơn áp thấp nhiệt đới thổi qua đất nước tôi.
Thế mà đêm nay trời quang mây tạnh, tôi ra vườn sau ngồi pha trà ngắm trăng rằm. Tuy không sáng không đẹp như trăng rằm Trung Thu miền Bắc mà tôi đã sống thời thơ ấu. Tôi nhớ những đêm rằm trung thu ở Láng, mẹ tôi bầy cỗ cho tôi được chơi trò phá cỗ, rước đèn vòng quanh sân gạch. Rồi tôi ngủ thiếp đi trong lòng mẹ, trăng rằm trung Thu sáng vằng vặc.
Tuổi thơ ấu không bao giờ trở lại với tôi nữa. Tôi muốn khóc vì nhớ mẹ, nhưng còn nước mắt nữa đâu. Một đời mẹ gầân một thế kỷ nổi trôi theo vận nước. Những đau thương này thay cho những giọt nước mắt của đứa con nay đã già.


Rằm tháng Tám năm Gíáp Thân
NGUYỄN THỤY LONG
Phượng Các
#2 Posted : Friday, November 19, 2004 5:53:51 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)

Vu Lan, Nghĩ Về Mẹ và Quê Hương

Trần Trung Đạo


Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe "thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là người mẹ" Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.

Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc.
Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang đôi dép ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con mãi mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gủi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha sâu thẳm.
Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:

Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ đơn giản và dể hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8 năm.
Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng "con đi nghe". Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.
Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi "Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi", và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là "Lên đường bình an nhé."
Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?
Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về, nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.
Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.
Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cặp vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn "USA, USA" và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng. Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.
Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía Nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.
Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.
Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.
Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.
Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.
Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.

Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.

Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.
Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.
Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẻ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. "Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười" trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình. Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.
Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng. Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.

Trần Trung Đạo
www.trantrungdao.com
Phượng Các
#3 Posted : Friday, November 19, 2004 6:01:48 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)



Cối Khuya

Kiên Giang


Ngày con thơ dại
Mẹ thức suốt đêm
Một mình giã mướn đóng thêm tiền trường
Chày khuya làm mỏi canh sương
Nện từng nhịp mạnh mở đường chữ thơm

Lửa ngầm cháy ruột cúi cơm
Sương khuya đọng lá bầu non ngoài giàn

Con cuí cháy tàn
Mẹ còn đứng cối
Đèn khuya le lói
Soi bóng tre gầy

Sương nhiều nên cám không bay
Mà sao vầng trán ướt đầy mồ hôi

Gạo này mẹ giã trắng tươi
Nửa mua giấy mực, nửa nuôi gia đình
Ngày mai con xuống tỉnh thành
Mang theo giạ gạo, chút tình mẹ quê

Con nằm ngủ vạt giường tre
Lòng thơ trăn trở lắng nghe nhịp chày
Hé mền nhìn bóng cao gầy
Con thương thương quá, nhịp chày canh sương

Nát rồi cối gạo quê hương
Từ ngày bỏ xứ lên đường tản cư
Trán nhăn cày nếp ưu tư
Đêm nay ngồi viết lá thư quê nghèo

Ao xưa tản mác sóng bèo
Chân trời cũ, tiếng sáo diều im hơi
Ngước lên, mắt loạn bụi đời
Trời đen khói lửa, sáng ngời hoả châu

Chày xưa cối cũ còn đâu
Còn đâu hột gạo thơm mùi quê xưa

Nửa đời con, mấy gió mưa
Công ơn trời biển con chưa đáp đền
Đêm nay gục khóc bên đèn
Làm thơ dâng mẹ trọn niềm cối khuya

Kiên Giang
(Tết 67)
Phượng Các
#4 Posted : Friday, November 19, 2004 6:04:51 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)



Trăn Trối

Trần Trung Ðạo


Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con chỉ dùm căn láng nhỏ bên sông
Nơi Mẹ sống trong chuỗi ngày hiu quạnh
Nặng oằn vai một nỗi nhớ thương chồng

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con chỉ dùm chiếc ghe nhỏ đang neo
Ðời Mẹ đó, kiếp con cò lận đận
Sớm đầu non đêm cuối bể, thân nghèo

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con trao dùm chiếc nhẫn cưới cho Ba
Mẹ vẫn giữ chắt chiu từng kỷ niệm
Trăng vẫn tròn như dạo mới chia xa

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con nhắc chừng Ba dựng bức tường nghiêng
Nhà không vách nên bốn mùa mưa tạt
Thiếu tay Ba đông cũng lạnh hơn nhiều

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con chỉ dùm tảng đá nhỏ trong sân
Nơi Mẹ đứng mỗi chiều thu lá rụng
Mắt trông chờ một bóng dáng quen thân

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con trao dùm chiếc áo dở dang thêu
Tay Mẹ yếu nên đường kim chỉ vụng
Con chim gầy đậu dưới gốc cây xiêu

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con trao dùm mái tóc thuở thanh xuân
Thời con gái Mẹ trăm điều bất hạnh
Vết tủi buồn ngang dọc kín trên lưng

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con chỉ dùm chăn chiếu phủ giường tre
Mẹ ôm ấp chút hơi tàn quen thuộc
Của người đi biền biệt đã quên về

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con chỉ dùm ngôi mộ giữa quê hương
Nơi Mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng
Cánh cửa đời khép lại với đau thương

Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
Con đừng buồn và trách móc chi nhau
Lòng của Mẹ, một tấm lòng đại lượng
Vẫn nghìn năm son sắt chẳng phai màu.


Trần Trung Ðạo
Phượng Các
#5 Posted : Saturday, November 20, 2004 1:42:00 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Lặng Nghe Tiếng Mẹ Thở Dài

Phạm Việt Quý


(Kính tặng những bà mẹ Việt Nam)


Lặng nghe tiếng mẹ thở dài,
Ru con yên giấc ngủ vài canh thâu.
Gió đưa ruộng lúa, nương dâu,
Thương con trĩu nặng cõi sầu đầy vơi.

Thương con, mẹ tựa biển khơi,
Buồn tênh nhịp võng ru hời mẹ đưa.
Thương con, chẳng quản nắng mưa,
Oằn vai mẹ gánh, sớm trưa dãi dầu.

Thương con chẳng sá khổ đau,
Trường đời mẹ trải ví dầu ầu ơ.
Ru con trọn giấc tuổi thơ,
Canh thâu mẹ thức bạc phơ mái đầu.

Phạm Việt Quý



Phượng Các
#6 Posted : Saturday, November 20, 2004 1:48:41 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)




Khói Trắng

Kiên Giang


(Kính Dâng Mẹ của tôi và của bạn với tất cả lòng thương kính)




Hương cau thơm phức ngôi sao mẹ
Thơm ngát mái nhà, thơm áo cơm
Con thở trong mùi thơm bát ngát
Thịt da mái tóc quyện mùi thơm

Nước mắt chảy xuôi ... tình mẫu tử
Chảy theo nước mắt cuộn mồ hôi
Mẹ đem cái chết làm nên sống
Nước mắt một dòng ... vẫn chảy xuôi

Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo, giấy học trò

Đêm nào con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mỏi mòn: nhịp võng đưa
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi ! Con lớn giữa niềm ru

Nhớ ngày mẹ ốm nằm trong xó
Chiếu lạnh ủ không ấm vóc gầy
Đau đớn ... không hề rên siết khẽ
Sợ con nghe tiếng mà buồn lây

Nói làm sao hết mẹ hiền ơi !
Công đức niềm đau lẫn tiếng cười
Mẹ lấy bụi đời làm phấn sáp
Che dù trời nắng, đội mưa rơi

Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ
Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân
Khói trắng lên trời như tóc bạc
Con ngỡ khói tóc quyện mây Tần

Chiều nay dừng gót trên bờ biển
Nhìn sóng bạc đầu mây trắng trôi
Con ngỡ khói vườn hay tóc mẹ
Bay tìm con, lạc bước giữa đường đời

Mai mốt con về thăm xóm mẹ
Thăm mùa cau trổ, bóng làng xưa
Để rình nghe lại trong hiu quạnh
Tiếng hát ngày xưa, nhịp võng đưa

Con sẽ kính dâng bên gối mẹ
Gói trà Tàu, gói bánh tai heo
Hương cau quyện lại hai màu tóc
Nước mắt đoàn viên ấm xóm nghèo

Kiên Giang
(13 - 6 - 61)
Phượng Các
#7 Posted : Saturday, November 20, 2004 8:22:38 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Bông Hồng Cài Áo

Nhất Hạnh



Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi, héo mòn.

Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: tai nạn lớn nhất đã xãy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mất mẹ thì cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ cộị

Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ hay, cũng hạy. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thưở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có.

Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến:

"Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côị
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời".

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa cách nói cầu kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cầu kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị, vừa đúng mức:

"Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau".

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của tạ. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (bàn tay hay là tơ trời đâu la miên?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như "chuối ba hương", dịu như "xôi nếp một" và đậm đà lịm cả cổ họng như "đường mía lau". Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; những "chuối ba hương", "đường mía lau", "xôi nếp một" ấy không bao giờ cùng tận.

"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêụ. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đờị Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêụ Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được chút ý niệm về đức từ bị Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôị Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âụ. Đạo Chúa có Đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Mariạ. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức me..

Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu-lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấỵ Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôị Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giũ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó.

Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới nói cho tôi biết đó là "Ngày Mẹ" theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng.

Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương, không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữạ Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu-lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta. Những kẻ đã và đang có mẹ đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói : trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào NHÌN KỸ được mặt mẹ Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng quạ Trao đổi vài câu ngắn ngủi.̣ Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗị Hờn lẫỵ Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc vá maỵ, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thời giờ nhìn kỹ con. Và con không có thời giờ nhìn kỹ mẹ Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ: thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chị Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi :"Mẹ ơi, mẹ có biết không?". Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười :"Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói :"Mẹ có biết là con thương mẹ không?". Câu hỏi sẽ không cần được trả lờị Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi ngươi cũng có thể hỏi như thế, bởi vì ngươi là con của me.. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong ý thức tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu-lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mu.c-liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa me.. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâụ. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đị. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồị Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương me.. Chữ PHẢI đây không phải là luân lý, là bổn phận. PHẢI ĐÂY LÀ LÝ ĐƯƠNG NHIÊN. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì dương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương me.. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ kông cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ và con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con.

Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng: con mà thương mẹ thì phải làm thế nào? Tôi trả lời : vâng lời, cố gắng giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núị Bây giờ thì tôi biết rằng: con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, cần chi phải hỏi "làm thế nào" nữa! Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức.

Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài nầy để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thu.. Mẹ như suối ngọt, như "đường mía lau", như "xôi nếp một". Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chi.. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôị Để mai nầy anh chị đừng có than thở rằng : đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm ngọc hoàng thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện nầy, anh đừng nói tôi khờ dạị Đáng lẽ chị tôi không nên đi lấy chồng, tôi không nên đi tu mới phảị. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chị Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nàọ Mẹ nói : "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuốicùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói : "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tụ "Các ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất giạ Tôi không tự hào chi về lời khen đó. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa me.. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôị.

Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựạ Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đaụ Anh không thể bắt cá hai taỵ Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đaụ Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lại Phật, tôi cầu nguyện cho me.. Nhưng tôi không được ăn "chuối ba hương", "xôi nếp một" và "dường mía lau".

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với me.. Tôi đã nói là tôi không khuyên răng ai hết -- tôi không giảng luân lý đạo đức -- rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh : mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Quên là một lỗi lớn : cũng không phải lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòị Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòị Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôị

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế nầy: chiều nay, khi đi học về, hoặc khi đi làm việc về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên me.. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chị Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ vàđể biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi : "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừà cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp :"Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lờị Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi câu ấy, chị cũng hỏi câu ấy, em cũng hỏi câu ấỵ Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của me.. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt. Và ngày mai mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.

Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm naỵ Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đứng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

Thích Nhất Hạnh, 1962



Chín Út
#8 Posted : Monday, November 22, 2004 3:29:09 AM(UTC)
Chín Út

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 693
Points: 0

Nhật Ký Cho Mẹ

Ngày ... tháng ... năm ...

Hôm nay mình nhận được điện thoại của bà bác sĩ hôm qua khám cho Mẹ . Khi nghe bà ta nói ngày mai mình phải dẫn Mẹ đi bệnh viện để khám lại kỹ hơn ở phổi, mình thật sự hoảng hốt. Bà ta chỉ nói là trong phim chụp phổi của Mẹ có thấy một dấu đen, bà ta nghi ngờ đó là dấu hiệu của bệnh ung thư phổi .

Chỉ một câu nói đơn giản của bà ta thôi mà sao mình nghe như sét đánh. Bấy lâu nay vẫn cứ loay hoay bận rộn mãi với chuyện học, chuyện làm, mình không bao giờ nghĩ lại đến tình trạng của Mẹ. Mẹ vẫn cứ tồn tại bên cạnh của mình, và mình vẫn cảm nhận đó là sự đương nhiên , mà không bao giờ cảm thấy tuổi Mẹ đã gìa, và Mẹ có thể ra đi bất cứ lúc nào .

Từ bấy lâu nay Mẹ vẫn sống với mình, hằng ngày vẫn thui thủi buồn vui một mình, nhưng có lẽ là buồn nhiều hơn vui, vì sự cô đơn của tuổi gìa. Mình thì lại lao đầu vào cuộc sống để dành giựt lấy những cái mà cuộc sống đòi hỏi. Có bao giờ mình dành chút thời gian để nghĩ lại những gì xảy ra chung quanh Mẹ . Mẹ ơi, sao Mẹ không nhắc nhở con hả Mẹ, sao Mẹ vẫn cứ lặng im, vui với niềm vui của con, và dấu trọn nỗi buồn cho riêng Mẹ, đến bây giờ khi con cảm nhận được thì có lẽ mọi chuyện đã muộn mất rồi.

Tối nay hai Mẹ con cùng nằm xem TV trên ghế ngoài salon, Mẹ vẫn không biết chuyện gì sẽ xảy ra, chỉ biết là ngày mai phải đi bệnh viện để khám kỹ hơn mà thôi. Cho nên Mẹ vẫn vui vẻ xem TV vì có con ngồi bên cạnh . Chỉ có con, chỉ có con trong lòng đang bàng hoàng với nỗi lo sợ từ đâu lại đến thật bất ngờ.

Mình ngồi ôm đôi bàn chân gầy ốm của Mẹ mà cảm thấy nghèn nghẹn trong lòng....Mẹ ơi, không biết là con còn được ôm đôi chân Mẹ bao lâu nữa ? Bao lâu nữa hả trời ? Vài năm, một năm, hay vài tháng ... Mẹ ơi, Mẹ có biết trong lòng con tràn ngập lo sợ, và chua đắng. Bấy lâu nay con đã làm gì được cho Mẹ ? Mẹ ơi, con thật sự hối hận khi nhớ lại những lần nóng nảy bực bội đã làm cho Mẹ buồn, có lẽ Mẹ cũng đã từng khóc rất nhiều vì sự bất hiếu của con....Mình thật muốn khóc mà làm sao khóc được, chỉ rán nuốt xuống sự nghẹn ngào đang nằm nơi lồng ngực để cố giữ một giọng nói tự nhiên mà nói chuyện với Mẹ .

Mình thật không biết phải làm sao nữa, chỉ còn biết cầu xin ơn trên cho mọi chuyện đừng phải như vậy. Lạy trời, cho con xin đổi bằng mọi gía để đem lại sự bình an cho Mẹ , hãy lấy đi tất cả những gì mà con có để đổi lại sự bình an cho Mẹ của con.... có thể được hay không ?


Ngày ... tháng ... năm ...

Ðã qua một đêm gần như thức trắng....Sáng nay mình và chị cùng đi với Mẹ vào bệnh viện để khám. Ngồi trong xe taxi mà lòng mình cứ thắc thỏm, muốn cho xe chạy thật nhanh mà cũng không muốn nó chạy nhanh....

Một mình ngồi chờ ở phòng đợi gần hai tiếng đồng hồ, sao mình thấy nhiều người bệnh qúa . Có những người cũng đã già như Mẹ , bước chân run rẩy vì tuổi tác và vì sự dày vò của bệnh tật , mình lại nghĩ về Mẹ đang ở trong phòng khám với cái máy chụp quang tuyến thật lớn. Ðến bây giờ thì mình không dám nghĩ gì nữa, không dám đặt thêm một gỉa thuyết gì cả . Giống như một tiếng bạc đã sẵn sàng chỉ chờ để mở mà thôi . Trong phòng có suởi thật ấm mà sao mình vẫn cảm thấy mồ hôi lạnh rịn ra sau áo, mình phải làm gì đây nếu đó là sự thực ?

Rồi cũng đến lúc chấm dứt. Cửa phòng mở , mình cảm thấy tim mình đập mạnh hơn bao giờ hết... mình rán tìm kiếm hình bóng của chị trong phòng để biết kết qủa, vì bác sĩ chỉ nói chuyện được với chị mà thôi .

Rồi chị bước ra, nhìn sắc mặt và nụ cười hồ hởi của chị, mình cảm thấy như ai đã lấy đi một cục đá đang nè nặng trên ngực của mình. Cám ơn trời, người đã nghe tiếng con cầu xin... xin hãy lấy đi những gì của con mà người muốn ... thể xác con... linh hồn con ... hay những gì mà con đã có được đến ngày hôm nay con sẽ không bao giờ hối tiếc, chỉ để đổi lấy cái kết qủa bây giờ mà thôi.

Tối nay một mình ngồi suy nghĩ, mặc dù mệt mỏi nhưng vẫn không sao ngủ được. Mình rán nghĩ lại từ trước đến nay, những gì mình đã làm cho Mẹ , chỉ thấy toàn những lần mình làm cho Mẹ buồn, không có lấy được một lần làm cho Mẹ vui . Mẹ ơi, xin Mẹ tha lỗi cho con nhé, từ giờ phút này trở đi, con xin hứa sẽ luôn luôn cảnh tỉnh mình, để cố gắng đem lại cho Mẹ những sự hài lòng, dù Mẹ chưa một lần than thở . Con biết rõ rằng, rồi sẽ một ngày, và có lẽ cũng có thể rất gần đây thôi . Mẹ sẽ ra đi nhưng con muốn cho đến lúc đó, Mẹ sẽ có được thật nhiều niềm vui để con không phải hối hận như những ngày vừa qua . Có phải chăng biến cố vừa qua, là do ơn trên đã dùng nó mà thức tỉnh con không hả Mẹ, chứ có bao giờ Mẹ thổ lộ cho con biết là Mẹ buồn hay vui đâu, và có bao giờ con lại nhận thấy mái tóc của Mẹ đã thật là bạc để nhớ lại tuổi đời của Mẹ bây giờ đã sắp xế chiều .

Cám ơn Thượng Ðế, ngài đã dùng biến cố này để cho con thức tỉnh, để cho con nhận thức được người Mẹ duy nhất trên đời của con đã sắp phải xa con, để cho con trân trọng những ngày còn lại của Mẹ, và để cho con được hưởng thêm cái hạnh phúc của tình Mẹ dành cho con thêm một thời
gian nữa . Con xin đội ơn ngài !


Ngày ... tháng ... năm ...

Hôm nay là lễ của các bà Mẹ, cũng nhằm vào dịp sinh nhật của Mẹ . Con muốn tổ chức cho Mẹ một ngày sinh nhật thật vui. Dù sao ngày này cũng là một ngày thật ý nghĩa mà, đối với tất cả mọi người trên đời này, vì có ai là không có Mẹ đâu ? Hôm nay mừng lễ Thượng Thọ của Mẹ, con thật là vui nhưng cũng lại buồn. Vui là đến bây giờ con vẫn còn được có Mẹ ở bên cạnh, cái hạnh phúc đó con đã hưởng biết bao lâu nay trong khi có những người đã mất đi cái sự may mắn ấy của con....vậy mà con đã có lúc không cảm nhận được. Buồn là vì tuổi Mẹ đã thật sự cao rồi, Mẹ có thể xa con vĩnh viễn vào bất cứ lúc nào. Mẹ ơi, nghĩ đến ngày đó, con đã muốn khóc rồi, nhưng biết làm sao đây, cuộc đời là như vậy, con chỉ biết sẽ trân trọng những ngày tiếp theo để cho đến khi Mẹ rời con, thì lòng con sẽ không trĩu nặng vì những lỗi lầm của con, dù rằng Mẹ không một lần nói ra.

(Ngày Hiền Mẫu - Mùa hè 1999)
Phượng Các
#9 Posted : Wednesday, December 22, 2004 1:12:13 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
CHUYỆN ÐỜI MẸ


Trần Trung Đạo




Con chẳng về đâu dù mưa hay nắng
Sông Thu Bồn trăng tháng bảy còn in
Mười năm trời con làm mây viễn xứ
Mười năm dài biền biệt dấu chân chim



Ngày mẹ chết con chưa tròn một tháng
Cha tảo tần sớm nắng với chiều mưa
Thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn
Thiếu lời ru con lớn với lọc lừa



Ngày mẹ chết con nằm trong máng cỏ
Có hay đâu mây kéo một phương trời
Cha vấn cho con một vành tang nhỏ
Con mang đi, đi suốt phận con người



Từ mẹ chết cha một đời góa bụa
Sống âm thầm trong mái lá tường xiêu
Xin cho con bú từng hơi sữa lạ
Giọt mồ hôi nhỏ xuống chén cơm chiều



Những đêm mưa con nằm nghe cha kể
Chuyện đời cha dài như một giòng sông
Mẹ có đẹp? Cha nhìn xa không nói
Nhưng con nghe dao cắt ở trong lòng



Chuyện cha mẹ gặp nhau không cưới hỏi
Buổi giao thời xiêu lạc cả bà con
Rượu tân hôn cha thay bằng nước vối
Dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng



Và phương ấy bao mùa mưa sẽ đến
Nấm mồ hoang hương khói lạnh từ đây
Cầu xin mẹ bình yên qua chín cõi
Trên dương gian con nối cuộc lưu đày.



Phượng Các
#10 Posted : Wednesday, December 22, 2004 1:15:26 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
MẸ TÔI

Sư Bà Thể Quán


Mẹ mất đã năm năm, nhưng dư hương của mẹ đối với tôi như còn phảng phất. Đường mai mẹ đi, phòng nhà mẹ ở, đâu đâu cũng còn ngát thơm mùi mẹ. Tôi biết rằng: 'Ái bất trọng bất sanh Ta bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh độ', nếu tôi còn lưu luyến về mẹ thì thật trái lời Phật dạy, tín hữu sẽ cho tôi nói làm bất nhất. Song mẹ con tôi hẹn nhau đã có chỗ, gặp gỡ đã có nơi:

Mẹ về Cực lạc ít năm thì
Từ giã Ta bà con cũng đi
Mẹ nhớ đón con bên nước Phật
Mẹ, con cùng dự hội Liên Trì.

Đó, mẹ con tôi đâu còn trở lại Ta bà? Ở Cực lạc mà tu cho đến khi đắc lực rồi phân thân vô số để độ chúng sinh. Nay viết mấy lời 'Để lại cho vui' mà không nói về Mẹ một ít thì cái vui mất đi đến nửa. Và tôi nghĩ rằng, một ngày nào khi đủ duyên, tập sách nhỏ này đến tay quý vị, những vị nào đã gặp mẹ tôi lúc về già, dù chỉ một lần thôi, cũng thấy những gì tôi viết về mẹ không thêm một lời, không bớt một ý.

Mẹ ơi, sau khi trả con về cho cha, mẹ thật đã hy sinh chịu đau khổ cho con được sung sướng. Mẹ hòa tình thương con với thương bà ngoại làm một mẹ rất có hiếu. Khi ngoại mất, mẹ khóc kể: 'Mẹ ơi, con sáu lăm tối nằm với mẹ tám ba, mẹ nhường chỗ ấm cho con, thật là mẹ chín mươi thương con bảy chục'. Mỗi khi cúng cơm, mẹ thắp thuốc xoay trầu cho bà ngoại. Mẹ rất kính Phật trọng Tăng, nhưng nâu sòng chay lạt thì mẹ rầu lắm. Vì hiếu với ngoại, mẹ dùng chay theo ngoại mỗi tháng mười ngày. Những ngày đó mẹ rầu như bị phạt. Lúc tôi xuất gia, ăn trường trai, mẹ phục lắm, gọi bằng chị liền, mẹ bảo: 'Ăn chay được thì tôi cho là Phật sống rồi đó'. Mẹ là dân trời (hoàng tộc) nên mặc dù không giàu mà phong lưu, phục sức lụa là, mẹ ưa nem chả, gặp mấy ngày chay liên tục từ 28 đến mồng một, mẹ gọi là đi tàu suốt, buồn bã rã rời, thức cho đến 12 giờ khuya để ngã mặn. Lúc ngoại mất, mẹ gần bảy mươi, ở hương khói cho ngoại. Mẹ sợ nhất tôi rủ cụ lên chùa, nên đưa ra bài toán nan giải này: 'Tui là bà Thanh Đề đây, nghiệp chướng nặng nề lắm, ưa mùi cá thịt tanh hôi, chị tu răng cho bằng ngài Mục Kiền Liên mới độ tui nổi'.

Ngoại mất hai năm thì ni sư CT bàn: 'Ngoại mất rồi, mệ một mình đơn chiếc, sư lên về hao tốn. Nếu sợ ở với chúng mệ mất tự do, thì sư làm một cái nhà nhỏ ngoài vườn dừa, rồi ngoại giao với lối xóm nhờ họ kho trách cá trách thịt, mệ ra đó ngã mặn thì may ra mệ lên chùa được'. Nghe pháp muội đưa ý kiến chí tình chí lý, tôi cám ơn đến trào nước mắt. Năm ấy tôi vừa ra quyển 'Hai lần ơn Mẹ' được 150 ngàn, tôi làm nhà ngay. Nhà xong, tôi tôn trí tượng Quan Âm và thọ trì tại nhà mới một bộ Pháp Hoa. Khai kinh ngày 20/7, sau khi giải hạ, đến 26 xong, tôi khuynh hết tấc thành cầu Phật Bồ Tát xui khiến cho mẹ phát tâm lên ở chùa. Nhưng, thật tình tôi cũng ngại, mẹ nhiều nghiệp chướng, mà mình tu hành chưa ra chi, chắc Phật cũng khó xử, vậy xin để tùy ý Phật.

Hoàn kinh xong, tôi về hầu mẹ, thưa: 'Ngày mai mẹ đi tàu suốt, con mời mẹ lên chùa, mấy cô nấu chay ngon lắm. Mẹ ở bốn ngày, chiều mồng một về, khuya ngã mặn. Mẹ lên thử bốn ngày coi, mấy cô mấy chị điệu ai cũng trong ngoại lên chơi cả, và mẹ có một cái nhà mới xinh xắn. (Khi làm nhà, tôi không thưa với mẹ để dành một ngạc nhiên)'. Mẹ suy nghĩ một lúc rồi dạy: 'Thôi, lên thì lên luôn cho rồi'. Nghe mẹ dạy tôi lạnh xương sống, nghĩ làm sao lại có chuyện ấy được? Tôi thưa: 'Không, mẹ chỉ lên ít ngày cho vui, qua bốn ngày chay rồi về lại, chớ lên luôn làm chi!'. Mẹ dạy: 'Không, tôi đã nghĩ kỹ, trên bảy chục rồi, ăn cá thịt đã đủ, Chị nói mụ Diên ra mời ông thợ cúp vô thế phát cho tôi, rồi tôi sửa soạn lên chùa luôn'. Lạy Phật, giờ đây viết lại đoạn này, tôi vẫn còn tưởng như là một giấc mơ. Phật lực Pháp lực thật bất khả tư nghì. Nhờ ơn Tam Bảo và diệu kế của pháp muội mà mẹ tôi được lên chùa một cách bất ngờ. Lạc nguyện của mẹ con tôi đã thành tựu.

Mẹ ở chùa một thời gian thì xảy biến cố Mậu Thân. Qua nhiều cơn kinh hãi, mẹ đâm ra lẩn thẩn đến nổi gọi tôi bằng mạ. Những chiều tôi đi giảng xa, mẹ thường bảo dì Diên: 'Mụ đi tìm mạ tui cho tui một chút'. Tôi chưa về kịp, mẹ ngồi khóc nước mắt ràn rụa làm cả chùa ai cũng rưng rưng theo. Mẹ quên đến độ ấy, mà lễ phép thì không quên, cô nào gọi mẹ cũng dạ. Trong chùa có một điệu tám tuổi, gọi: 'Cố ơi!', mẹ đáp 'Dạ ơi', điệu thương quá ôm hôn và dặn: 'Con là nhỏ nhất trong chùa, cố ơi chớ đừng dạ mà tội hí'. Mẹ tôi dạ một cái rầm, khiến ai cũng cười lăn. Mẹ đẹp lắm, và vô tư, nên ai cũng thương. Những ngày tôi đi vắng, chúng xúm lại chơi với mẹ, lấy bút chì đỏ bôi môi thoa má cho mẹ, hái hoa dại đeo tai cho mẹ. Mẹ mặc bộ com-lê mầu mỡ gà ngồi như pho tượng, chúng tha hồ làm chi thì làm, thấy mẹ đẹp như bà tiên. Làm đẹp xong họ nói: 'Gả mệ cho Diêm Vương hí?'. Mẹ dạ tỉnh bơ. Mấy chị em đặt cái nhà mẹ ở là 'quán gió', mỗi chiều họ xúm quanh mẹ chơi đùa. Các tín hữu đem đồ chơi biếu mẹ như làm quà cho con nít. Có bà biếu tấm ảnh quảng cáo nấm tông cú, vẽ cô gái đẹp, mẹ thích lắm, chơi với cô ta suốt ngày.

Một hôm tôi ngồi hầu, mẹ chỉ cô gái: 'Cô ni đẹp quá, mặt trái soan nì, lỗ mũi cao, con mắt thật xinh, miệng cười cũng đẹp mà hàm răng cũng đẹp nữa luôn'. Tôi chỉ tôi rồi thưa: 'Rứa mẹ nhìn xem cô ni với cô nớ, cô mô đẹp hơn?'. Mẹ nhìn tôi một lúc rồi cười chúm chím không đáp. Tôi hỏi: 'Mẹ coi cô mô đẹp hơn'. Mẹ trả lời tỉnh bơ: 'Dạ thôi đừng nói nữa'. Tôi biết mẹ khó trả lời, nên cố nài: 'Đừng nói răng được, mẹ phải thanh toán vấn đề cho xong chớ'. Rồi tôi chỉ: 'Con mắt của cô ni với cô nớ ai đẹp hơn, lõ mũi cô nớ với cô ni ai đẹp hơn?' (tôi chỉ con mắt nheo nheo và lỗ mũi xẹp của tôi), 'và mẹ coi hàm răng của cô nớ và cô ni ai đẹp hơn?' (tôi chỉ hàm răng sún của tôi). Mẹ nghĩ một lúc rồi nói: 'Cô nớ đẹp mà không đẹp, cô ni không đẹp mà đẹp'. Rồi mẹ ôm tôi. Tôi đem câu chuyện ấy bạch quí ngài, quí ngài dạy: 'Bà cụ lẫn mà biện tài vô ngại, tui sáng suốt như ri mà hỏi rứa chắc tui nói cũng không được'.

Một hôm, khi chị em vây quanh, mẹ nói: 'Tui chừ không ưng chi cả, không thương ai cả!'.

Tôi hỏi:
-- Mẹ có thương con không?
-- Dạ không.
-- Mẹ có thương cháu không?
-- Dạ không.
-- Mẹ có thương tiền không?
-- Dạ cũng không.
-- Rứa mẹ có thương Phật không?
Mẹ nghĩ một tí rồi đáp:
- Dạ, người nớ thì thương lắm.

Qua năm Nhâm Tý, Quảng Trị chạy loạn vào Thừa Thiên, tôi bàn giao công việc cho pháp muội, hầu mạ vào Đà Nẵng, Nha Trang rồi Phan Rang. Đến đâu ai cũng thương, và ưa chơi với mẹ. Phòng mẹ lúc nào cũng có các ni cô và phật tử xúm lại nghe mẹ nói chuyện mà cười lăn. Mẹ đến thăm hai dì tôi, ở lại. Hai dì dâng rượu chúc thọ mẹ 82 tuổi, ca hát cho mẹ nghe. Mẹ ngồi từ bi tự tại không nói năng chi cả. Dì út ôm mẹ: 'Chị tôi ngồi như Bụt sống, không nói chi với hai em cả. Hai em của chị đây, chị có biết không?'. Bỗng mẹ chỉ lên bàn thờ bảo: 'Nì, thờ cha mẹ thì thờ một bên, để giữa mà thờ cha mẹ chồng'. Hai dì sững sờ: 'Trời ơi, té ra chị tôi không lẫn chi cả'. Rồi dì đứng dậy để ảnh ông bà ngoại qua một bên, cha mẹ chồng vào giữa. Mẹ nói: 'Ừ, rứa mới phải chứ.'

Sư cụ viện chủ chùa Diệu Ấn Phan Rang mời mẹ vào chơi. Tôi cũng muốn hầu mẹ đi đổi gió nên nhận lời. Sư cụ để riêng tịnh thất tiếp mẹ tôi, theo yêu cầu của sư cụ, tôi đặt tên Lăng Già Thất. Thất không rộng nhưng gọn và xinh, dưới ở, trên gác thờ Phật. Ngày hai buổi cơm nước xong, tôi hầu mẹ lên lầu tụng Thủy Sám để mẹ lạy và nghe, mẹ ưa lắm. Tôi lạy thì mẹ lạy theo, tôi tụng thì mẹ gõ nhịp. Có con chó Tu Di nằm khoanh tròn dưới chân bàn Phật. Khi tôi quì tụng, mẹ bảo nó: 'Nì, mạ tụng kinh thì phải ngồi mà nghe như tui ri nì, chớ đừng nằm mà tội'. Nói không nghe, mẹ xích tới đẩy nó, lôi nó cũng không dậy, mẹ bảo: 'Thôi thì có mệt mỏi mà nằm cũng được, nhưng xây đầu vô bàn Phật, chớ xây lưng rứa mà tội lắm nghe'.

Tịnh thất sư cụ lát ca-rô tấm đen tấm trắng, những ngày hạ lau thật sạch, mẹ ngồi chơi một mình. Tôi nghe mẹ nói: 'Tui nói chuyện với chị đen ni nhiều lắm, chị có nghe không? Mà không thấy chị trả lời trả vốn chi cả rứa? Còn cái chị trắng ni (chỉ tấm gạch trắng) cũng khinh người, chị cũng chẳng nói năng chi với tui cả'.

Cuối năm 1973 tôi cõng mẹ về lại Huế, mẹ được 85 tuổi, càng lẫn nhiều. Những đêm mưa lạnh kinh khủng tôi thường nằm với mẹ, vỗ mẹ và thưa: 'Ngày nhỏ mẹ ấp con, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn phải không mẹ?' Mẹ dạ. 'Bây giờ mẹ già, con nằm hầu mẹ thì bên ướt (nước tiểu của mẹ) con nằm, bên ráo mẹ lăn phải không mẹ?' Mẹ cười không đáp. Tôi thưa thêm: 'Con chỉ hầu mẹ một kiếp ni nữa thôi hí, rồi con về Cực lạc, mẹ có thương con thì gắng niệm Phật thật nhiều để cùng về Cực lạc với con hí'. Mẹ xây mặt vào tôi: 'Nì, cái nớ tôi để một rương đầy, đợi chi mà khuyên tui?'. Tôi hỏi: 'Mẹ để cái chi mà một rương đầy?'. Mẹ đáp: 'Cái Phật'. Năm sáu ngày sau tôi mới nhớ, mẹ dạy đúng, vì mẹ niệm công cứ đã trên hai mươi năm.

Mẹ xơi cơm xong bảo dì Diên: 'Mụ cho tui ba đồng'. Dì thưa: 'Chớ mệ lấy ba đồng làm chi?' Mẹ cầm tay dì, bảo: 'Tui nói thì lấy ý mà hội, chớ đừng nghe lời'. Dì thưa: 'Dạ hội là răng? Cha tui hội cũng không được, nữa là tui' - 'Nhưng ba, bốn lượt như vậy mà dì hội được mới tài chứ'. Mẹ xơi cơm xong cứ đòi ba đồng. Dì vấn một điếu thuốc đưa, mẹ liền chắp tay vái dì rồi ôm tay dì hôn. Dì Diên cũng mê mẹ nốt. Dì cuốc cỏ ngoài vườn, mẹ ngồi trong cửa sổ nhìn ra, dì gọi: 'Mệ ơi', mẹ: 'Dạ ơi' thật lớn, làm dì bỏ cuốc chạy lại cửa sổ cầm tay mẹ hôn.

Những ngày cuối cùng - Bây giờ mẹ nằm, không còn cầm đũa muỗng được, mỗi khi xơi cơm phải đỡ dậy. Khi đút cơm cho mẹ, tôi thường niệm Phật và đếm thầm. Thức ăn vừa miệng thì đếm tiếng thứ tám chín là mẹ nuốt. Tôi mừng thưa: 'Mẹ xơi ngon không mẹ?' Mẹ trả lời: 'Dạ ngon vô cùng vô tận'. Những thứ mẹ không ưa thì mẹ cứ nhai hoài, tôi niệm đến năm sáu chục tiếng Phật, mẹ cũng chưa nuốt. Tôi thưa: 'Có ngon không mẹ?'. Mẹ dạy: 'Dạ vừa thôi', thật là dễ thương. Từ ngày mẹ lên chùa cho đến ngày cuối chưa lúc nào mẹ đòi thứ này thứ kia, nhất là cá thịt. Cho nên, tôi chả có ngoại giao với các bà lối xóm để mẹ ngã mặn lần nào cả.

Đầu năm Bính Thìn, tức 1976, khuya 27 tháng Giêng đúng 3 giờ 30 , mẹ về Phật. Mẹ bỏ ăn vài ngày rồi ra đi thật nhẹ nhàng. Tôi chả được dâng mẹ một viên thuốc nào trong mười mấy năm mẹ ở chùa, vì chả lúc nào mẹ bệnh. Tiễn mẹ về Cực lạc xong, tôi viết một bức thư gởi mẹ bên kia thế giới:

"Mẹ! Mẹ về Cực lạc trước, Mẹ trồng cây 'Mẹ' cho cao thiệt cao. Bao giờ cành lá xum xê, con sẽ làm con chim bay về đậu trên cành cây 'Mẹ' mà không dám làm sờn cành rụng lá đâu.

Mẹ ơi, Mẹ đừng ngại, cây bên Tịnh độ không sợ người đẵn gốc, bứt lá bẻ cành. Chim bên Tịnh độ không sợ người bắn ná phá tổ bắt chim, vì cây và chim đều do Đức Phật hoá sanh. Chim con chuyền trên cành cây Mẹ, con hót tiếng thật êm đềm, tiếng Pháp âm nhắc mẹ tu hành hầu dự vào Phật địa. Gió trên cành cây Mẹ có tiếng vi vu cũng là Pháp âm nhắc con tinh tấn để bước lên Phật quả. Sương trên cành là sữa, con uống sữa mẹ trên cành cây tịnh, Mẹ con mình tu hoài tu mãi cho đến khi đắc quả mẹ hí.

Đồng thời, nguyện cầu cho tất cả chúng sanh, những người niệm Phật thì được về nước Phật, còn ai chưa niệm Phật thì phát tâm niệm Phật, rồi cũng được về với Phật như Mẹ con mình. Mẹ ơi! con thương mẹ vô cùng vô tận, nhờ nghĩ đến ngày Mẹ con gặp nhau bên nước Phật mà con cảm thấy vui và rất an tâm. "

Một năm sau ngày mẹ mất, tôi vào Nha Trang rồi thăm lại Phan Rang, nhớ mẹ tôi cảm tác bài thơ:

Năm kia cõng mẹ vào đây
Nhãn ngon một nhánh tự tay ta trồng
Bây giờ nhãn đã ra bông
Than ôi từ mẫu đi không trở về
Lăng già trăng chiếu ủ ê
Quyện theo hồn mẹ biết về phương nao?
Không gian trời dệt mây sầu
Ta dìu hồn mẹ khỏi cầu sông mê
Lạc bang cảnh cũ mẹ về
Được gần Đức Phật tựa kề đài sen
Giã từ thế giới đão điên
Bao giờ hoàn nguyện ta nguyền ra đi
Bên nớ vui hơn bên ni
Gặp Phật, gặp Mẹ còn chi vui bằng!

Phượng Các
#11 Posted : Saturday, December 25, 2004 4:50:16 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Nhớ Mẹ

Minh Đức Hòai Trinh


Ai trở về xứ Việt
mang giùm ta thư này
nơi quê hương có mẹ già đơn chiếc
cứ biết rằng ta nhớ mẹ, ta nhớ mẹ nơi đây
thương mẹ màu tóc trắng
mỗi khi nhìn áng mây đôi mắt mờ xa vắng
khi sương chiều đang xây
khi cành cây rớt lá
tơi tả trong bóng nắng
Khi mùa đông buốt giá
thương mấy độ xương gầy

xa xôi lắm có ai về xứ Việt
nhắn hộ rằng ta hận dưới trời tây
đâu những giờ yến tiệc
mẹ mở nồi cơm nóng khói thơm bay

Ta vẫn thầm luyến tiếc
thuở nào nằm gối lên tay
nghe văng vẳng câu hò ơi tha thiết
hò ... hò ơi.... con ngủ ... ngủ...cho say
mặc mưa dỏ như không ngừng rên siết
trên mặt con màu nắng sớm vẫn thấy hây (?)

có ai về xứ Việt
nhắn họ ta đôi lời
nơi phương tây xa ấy
ta hận thương biết mấy
đâu những giờ yến tiệc
bên nồi cơm vung đầy
thơm bay làn khói trắng
nhưng mẹ thì xa vắng

ta vẫn thầm luyến tiếc
nhớ khi nằm gối tay
nghe văng vẳng câu hát
tiếng mẹ hiền đâu đây

nhưng còn đâu nữa
nắng bên ngòai lòng vẫn chớm heo may
những đêm như đêm nay
ta muốn lòng ta say thật say
men rượu nồng trong màu khói thuốc
quanh mình rộn rã nhạc cuồng quay
ta nghe tan tác hồn
tàn thuốc tả tơi bay

ta muốn cười lên trong nức nở
thả tâm hồn mơ đến một bàn tay

ai trở về xứ Việt
xin dừng chân nơi đây
cho ta nhắn một lời khi xa cách
xin nhắn rằng ta nhớ mẹ
ta nhớ mẹ
nơi đây


chép theo bài hát
xin bấm vào nghe nhạc trong link sau:
http://www.lotusmedia.net/unicode/LM/Audio.htm
Phượng Các
#12 Posted : Wednesday, December 29, 2004 8:05:52 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
M A M A N

À ma mère Nguyen Thi Quynh-Chi.
Anna Tran

Ma mère,
C'est ce qui m'est de plus cher.
À l'aide d'un beau poème,
Je veux lui dire que je l'aime.
Elle est une douce chaleur
Qui réchauffe mon coeur.
Elle est un grand bonheur
Que je garde au fond de mon coeur.

Elle est un éclat scintillant,
Comme un précieux diamant.
Elle est une belle parure,
Comme un collier d'or pur.

Dans la nature, comme un soleil,
Elle m'éclaire, cette merveille.
Dans la nature, comme une jolie fleur,
Elle est une magnifique splendeur.

Ah! J'aimerais tant
Qu'elle vive cent ans,
Pour avoir suffisamment le temps,
Afin de l'aimer tendrement!

Ah! J'aimerais tant
Que maman
Redevienne une enfant,
Pour qu'avec elle je m'amuse vraiment.

Anna Quynh-Chau TRAN
Vaudreuil, Que. - 1990.
ANNA TRAN's Home Page:
http://www.saigonline.com/truc_huy/anna_tran/
[ Anna Quynh-Chau TRAN a composé ce poème à l'âge de 14 ans, en 1990. Ce poème, qui lui a valu le 1er Prix "Plume d'Or" dans le cadre du Concours "Je rêve et je rime" organisé par L'École Secondaire de Vaudreuil (Québec), a été publié dans le Journal L'ÉTOILE à Vaudreuil - Dorion, à l'occasion de la Fête des Mères, en Mai 1990. ]







M Ẹ T Ô I



Đây tình mẫu tử vấn vương
Khơi nguồn thi hứng yêu thương tỏ bày:
Mẹ là vị ngọt nồng say
Bao che, ấp ủ tháng ngày tim con.

Là nguồn hạnh phúc chứa chan
Để con ghi khắc tâm can ân cần.
Mẹ là loé sáng trong ngần,
Như viên ngọc quý long lanh giữa đời.

Mẹ là trang sức tuyệt vời,
Vàng ròng chạm trỗ rạng ngời hào quang.
Thiên đăng rọi chiếu quan san
Dõi soi gót nhỏ dặm đàng lê chân.

Thiên nhiên mẹ điểm hoa xuân,
Tô thêm sắc thắm thanh vân huy hoàng.
Mẹ ơi, yêu mẹ vô vàn
Bách niên mẹ sống yên hàn cùng con.

Cho con minh chứng sắt son
Thỏa thuê ước nguyện ơn tròn nghĩa sâu!
Mẹ ơi, thầm khấn nguyện cầu:
Hoàn đồng mẹ nhé vui đùa với con.

Anna Quỳnh-Châu TRẦN
Vaudreuil, Qué. - 1990.
[Diễn ý từ nguyên tác bài thơ Pháp ngữ ‘MAMAN’ của Anna Quỳnh-Châu TRẦN viết năm 14 tuổi. Bản chuyển ngữ ra tiếng Việt do Ông NGUYỄN VỸ HÙNG (California, USA) ưu ái gởi tặng.]
Phượng Các
#13 Posted : Monday, February 7, 2005 11:36:52 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Tình Mẹ

Vỏ gòn cứng tách sần tay
Không chùn lòng mẹ tháng ngày ngồi phơi
Mẹ đi tiếp khoảng trường đời
Cho con ăn học nên người mai sau

Dầm mưa tắm nắng dãi dầu
Còng lưng áo mỏng nhạt màu sờn vai
Mẹ giành từng phút từng giây
Sợ sợi bông trắng gió bay về trời

Con chưa khôn lớn như người
Mẹ còn ngồi tách gòn phơi mỗi ngày
Sợi bông mẹ giữ không bay
Sợ thời gian trắng bạc phai tóc rồi!


Huỳnh Duy Lộc
(Cần Thơ)

NgocDung
#14 Posted : Sunday, March 6, 2005 4:09:41 PM(UTC)
NgocDung

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 232
Points: 0

Những Tình Khúc Dâng Mẹ


Một bông Hồng cho em
Một bông Hồng cho anh
Và một bông Hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ

( Bông Hồng Cài Áo - Nhất Hạnh -Phạm Thế Mỹ )

Mẹ ơi,
Con khóc đêm qua
Vì con nhớ mẹ sinh con ra làm người
Hôm,
Con mở mắt chào đời
Mẹ cho dòng sữa ngàn lời ca dao
Bao năm nắng cạn, mưa rào
Nuôi con gồng gánh, có khi nào mẹ được vui?

( Mẹ Ơi - Vũ Thư Nguyên )

Mẹ , cho dù bất cứ thời đại nào thì con người cũng chỉ biết có Mẹ , từ khi cất tiếng khóc chào đời cho tới khi lớn lên cũng chỉ biết có Mẹ .Hình ảnh mẹ luôn khắc sâu trong tâm tưởng của từng người con , bắt đầu từ khi con đầy tháng tuổi , rồi con được hai tháng , ba tháng con còn nằm ngửa huơ tay huơ chân mắy xoe tròn xoay cái đầu bên nọ bên kia ngơ ngơ ngác ngác hay đang vui đùa đau đớn trong lòng con không nói được chỉ cất tiếng khóc , xong chỉ có khuôn mặt mẹ hiền cúi đầu xuống hay bàn tay mẹ vỗ vỗ nhè nhẹ tiếng con im bặt , con luôn được che chở trong vòng tay yêu thương của mẹ , con lớn lên trong lời hát mẹ ru . Rồi khi con biết hé miệng cười , cái cười vô nghĩa của bà mụ dạy cũng đủ làm cho cả nhà mừng rỡ reo vui , " bé cười , bé cười rồi kìa " nụ cười trẻ thơ của con làm rạng rỡ xóa mờ những nếp nhăn nơi trán mẹ . Rồi con biết lật , con biết bò , rồi con ngồi được một mình , rồi con đứng theo tiếng vỗ tay " tênh tênh bé đứng mẹ coi " và con bước từng bước lẫm chẫm rụt rè trong tiếng reo của mẹ dịu dàng quanh con

Ạ... ơi... lời đó cho con ngọt bùi...
Ạ... ơi... tiếng ru man mác xa vời...
Những lúc đông sang, những ngày băng giá tuyết rơi,
lời mẹ hiền như... giọt nắng... muôn đời...

Nếu gặp ngày dài giông tố triền miên,
chớ buồn rồi đời con sẽ bình yên.
Xuân đẹp rồi xuân cũng sẽ phai tàn,
chỉ còn tình mẹ ở mãi tim con...

( Tạ Ơn Mẹ - Lam Phương )

Mẹ là hình ảnh dấu yêu trong tâm khảm của con những lúc con mọc răng nóng sốt mẹ thức trọn đêm bồng con trên tay à ơi vỗ về con ngủ , mẹ ôm hôn và mẹ nựng con những khi chợt vấp ngã trên những chân chập chững '' Thương nào , thương nào , mẹ đánh cái đất làm đau con yêu của mẹ nhé '' đối với mẹ con là tất cả của mẹ ,và không thể kể hết những gì mẹ đã dành cho con , cũng không thể nói hết được tình yêu sâu đậm nhất của mẹ . Chỉ có mẹ mới luôn yêu thương con nồng nàn sâu lắng suốt đời suốt đời như thế .
Đối với mẹ tất cả những người con không bao giờ có tuổi lớn , dù tóc con bạc màu , dù cuộc đời con có là thế nào với mẹ con luôn là bé nhỏ trẻ thơ trong vòng tay của mẹ .
Vâng bây giờ con đã lớn nhưng ngày ấy , mỗi khi về với mẹ lại được mẹ nấu nước lá thơm gội đầu cho con , mẹ thường nói '' con gái tóc dài đa đoan lắm đây '' Với Mẹ con luôn là con bé thơ dại và cái gì cũng phải gọi '' mẹ ơi '' Mẹ như một bà tiên hiền lành , mẹ như cây cho con hút nhựa nuôi con trưởng thành khôn lớn

Chân tay con Me cho với sữa mẹ
Trong tim con Me san máu xuân thì.
Nôi xinh xinh ngày nhỏ bé bóng thơm Mẹ còn ghi
Như măng non hoa vừa hé, tóc me thiết tha che
.
( Mẹ - Nguyễn Đình Tòan )

Cả cuộc đời của mẹ luôn dành cho con , tuổi già xế bóng mẹ sống theo con , lúc thức sớm hôm chăm chút cho con , tình mẹ qủa là tình cảm thiêng liêng không thể giải thích nổi . Con nhớ mẹ

Lời mẹ ru con đến những khu vườn
Ru con trưa nắng ( i...i... a)
Trong mộng cười ngon
Ru mộng con thơm
lời mẹ ru con
nghe ra nỗi niềm
Ru con nghiêng nghiêng nằm
con ngủ giấc tròn
cho mẹ ngồi trông

Thuở mẹ ru
mẹ ru con ngủ
Con ngủ trên mây
con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu
ban đầu
còn đau
còn đau
còn đau

( Lời Mẹ Ru - Trịnh Công Sơn )

Hôm qua con mở những bức thư mẹ viết cho con từ ngày xưa , những dòng chữ nghiêng nghiêng thấm cả nước mắt của mẹ dành cho đứa con phải xa mẹ . Tuổi thơ của con đã trôi qua trong lời ru của mẹ , trong những đêm thức trắng của mẹ và biết bao nhiêu nỗi cực nhọc của mẹ ngày xưa vất vả dành cho con khôn lớn . . Con không thể đếm hết được bao nhiêu đêm mẹ thức ròng chăm xóc cho con để hôm nay con có từng chiếc răng ngà ngọc , mái tóc , khuôn mặt của con tất cả đều là mẹ cho con .
Mỗi một lời bài hát về mẹ bây giờ của các nhạc sĩ viết ấy chính là bóng dáng của mẹ , là tình yêu thương và sự hy sinh của mẹ suốt đời trao tặng cho con .

Con biết nhiều năm mẹ mõi mòn
Từng ngày tựa cửa nhớ mong con
Từng đêm hiu quạnh sầu đối bóng
Tuổi già như lá úa ngoài song

( Mẹ ơi con về - Võ tá Hân )

Có biết bao nhiêu câu hát mộc mạc chứa chan bao yêu thương của tấm lòng người mẹ , và có nhiều rất nhiều những câu hát mà từng âm điệu nhẹ nhàng tha thiết đã thấm sâu vào máu thịt , nuôi con khôn lớn giúp con đứng vững trong cuộc đời để mỗi lần vấp ngã , con lại mới trở về với mẹ và nhớ mẹ nhiều hơn . Như con chim đã đủ lông đủ cánh con tự bay đi khỏi sự che chở vòng tay của mẹ, con đã bay thật xa thật xa để đón nhận những tia nắng rực rỡ của bình minh , con cảm thấy nhiều lúc thật vững vàng nếu không có bóng mát yêu thương của mẹ . Nhưng con không thể ngờ rằng , cuộc sống vẫn là cuộc sống , cuộc sống có những cơn giông bão bất thường đã quật ngã con . Chỉ có trở về với mẹ , trở về trong vòng tay yêu thương của mẹ con mới tìm được cho mình sự bình an , lòng can đảm và nghị lực .

Mẹ ơi con thương mẹ quá mẹ ơi.
Con vô tình quá phải không khi bấy lâu hờ hững mẹ.
Bao ngày qua dõi tìm những chân trời xa.
Cõi đời đắm mê mà quên còn có bên ta mẹ già
.
( Mẹ ơi - Nguyễn Minh Châu )

Vâng , chỉ đến khi con bị quạt ngã bởi bão tố con mới cảm nhận được hết tình yêu vô bờ vô bến của mẹ , mới thật hiểu hết được rằng tất cả những gì đang con trong con là do mẹ truyền dạy nuôi dưỡng từ những thuở con còn nằm nôi , từ những bước đi chập chững của đời con .
Mẹ ơi , muộn rồi phải không mẹ , đến lúc này con mới nghe được tiếng nói từ sâu kín lòng mình thì con không còn có ở bên cạnh để được chăm lo phụng dưỡng nâng giấc cho mẹ

Nay con khôn lớn thì ơi hỡi!
Mẹ đã về tiên, tiễn biệt rồi.
Hòa khói hương trầm xin tưởng nhớ,
Khấn nguyện lời kinh với bồi hồi...

( Mẹ - Vũ Đăng Khiêm )

Bây giờ khi con biết được ngày lễ Vu Lan ngày tổ chức nghi lễ bông hồng cài áo , con đã thấy con quá vô tâm trong những tháng ngày qua để bây giờ phải mượn lễ Vu Lan cài một bông hồng , ai còn mẹ thì được gắn hoa hồng đỏ , ai mất mẹ thì một đóa hồng trắng , một cách để nhớ mẹ , để tôn vinh mẹ , để mừng mẹ tại thế , và để xót xa nghĩ đến mẹ đã qua đời . Tất cả cũng đã qua rồi , mẹ nơi chín suối , mẹ không cần con làm điều đó bởi cả cuộc đời mẹ chỉ biết chỉ dành tất cả cho các con của mẹ .
Chỉ có khi không còn mẹ con mới hiểu được rằng mình vĩnh viễn mất đi một tình thương cao qúy có một không hai trên cuộc đời này

Chiều nay đốt hương tưởng niệm trước mồ
Nhìn khói đau lòng tưởng nhớ năm xưa
Công ơn sinh thành ngày nao đền trả
Mẹ ơi con nguyền nhớ lời mẹ khuyên

( Mẹ Tôi - Nhị Hà )

Đứng ra ngòai ban công , nhìn xuống dưới đường có những bà mẹ đang đưa con mình đi dạo , tôi nhớ mẹ , nhớ những ngày có mẹ , tiếng nhạc phát ra từ chiếc loa nhỏ , giọng người ca sĩ cất lên trong buổi trưa tràn nắng sao lòng tôi lại buồn se sắt thế

Mẹ ơi ra đi đời con sá chi
Mơ ngày ngồi dưới ánh đèn lâm ly
Bên mẹ thường hát khúc ca ngày đi
Ai ngờ rồi cũng đến khúc phân ly

Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ ơi...!


( Quê Mẹ - Thu Hồ )

Xin Chân Thành Cảm Ơn Các Nhạc Sĩ có những Bản Tình Khúc về Mẹ đã giúp tôi minh họa bằng những lời nhạc để hoàn thiện hơn bài viết tự đáy lòng về Mẹ nhân dịp lễ Vu Lan Qúy Mùi

Ngọc Dung

Phượng Các
#15 Posted : Monday, March 7, 2005 10:02:26 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Sông Thơm, Những Ru Khúc Và Kỷ Niệm Ngày Thơ

Tà Áo Xanh


Viết tặng các bà mẹ





Thuở mẹ ru
Mẹ ru con ngủ
Con ngủ trên mây
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu
(1)

Tiếng khóc ban đầu của tôi là niềm vui vỡ oà thành nụ cười rạng rỡ trên gương mặt ngời sáng hạnh phúc của mẹ, giây phút nhìn thấy tôi bằng hình hài một trẻ sơ sinh, da nhăn nheo, đang há cái miệng bé tí xíu, oe oe khóc tiếng khóc đầu tiên của kiếp người. Đang yên ổn, dễ chịu trong một môi trường ấm êm, đột ngột bị đẩy ra ngoài khoảng không gian lạnh ngắt, trống hơ, nhẹ hẫng, tôi hoảng sợ khóc thét. Theo bản năng tự nhiên từ sâu thẳm tiềm thức, tôi chới với huơ huơ đôi bàn tay, cuống cuồng tìm kiếm cuống nhau để ôm ghì lấy làm chỗ bám víu an toàn, như lúc còn ở trong bụng mẹ trước đó không lâu.

Quãng thời gian dài đằng đẵng sống trong mong ước và chờ đợi của mẹ tôi, kết thúc bằng nỗi hân hoan choáng ngợp, kết hợp với trạng thái toàn thân đột nhiên nhẹ bẵng đi, thơ thới, khi bên tai người chợt vang lên tiếng reo của người nữ hộ sinh: "là một bé gái !". Lúc mẹ bắt đầu chuyển dạ sinh tôi, ba vắng nhà. Thời điểm đó, tình hình chiến sự không được ổn định, ba tôi túc trực gần như 24/24 trong đồn lính. Chỉ kịp nhờ người quen nhắn tin cho ba; dặn dò chị giúp việc trông nom nhà cửa và chăm sóc chu đáo cho bốn người anh của tôi đang ở độ tuổi năng động, ham chơi, mê nghịch phá; mẹ tôi nặng nhọc na cái bụng to tròn vo, xách theo cái giỏ mây đựng đầy áo quần, giày, vớ, mũ, nón, v.v... cho trẻ sơ sinh và vài thứ vật dụng cần thiết, rồi theo sự dìu đỡ của bác Ng., vợ của một đồng đội sống chết có nhau của ba từ những ngày còn độc thân nơi quê xưa, ra xe thẳng đến một viện bảo sanh tư gần nhà.

Chiếc giỏ mây mẹ xách theo ngày đi sinh tôi đã được mẹ cẩn thận sắp đặt đâu vào đấy cả tháng trước. Trong đó, có những chiếc áo đầm nhỏ xíu, xinh xắn, mà mẹ tôi đã bỏ ra nhiều thời gian chăm chút, tỉ mỉ cắt may, gói ghém và gửi gắm biết bao tình thương, lòng trông đợi vào từng mũi chỉ đường kim, sáng tạo nên ngay từ lúc chuẩn bị sanh đứa con đầu lòng, là anh cả của tôi. Sinh anh thứ hai, anh ba, rồi đến anh kế, lần đi nhà bảo sanh nào cũng thế, mẹ tôi đều xếp theo mấy cái áo đầm mẹ may thuở trước, cùng với niềm hy vọng thiết tha âm thầm, là lần này, áo đầm sẽ được lấy ra khỏi giỏ để mặc vào cho một đứa bé gái. Ông bà Ngoại của tôi chỉ có mẹ là gái trong hết thảy bốn người con. Bà Ngoại mất sớm. Lúc đó, mẹ tôi chỉ mới ngoài hai mươi và đang theo chồng sống đời binh nghiệp rày đây mai đó, cách xa nhà. Đó là điều dễ dàng lý giải được tại sao mẹ tôi luôn khát khao, mong ước có được một đứa con gái. Dường như thông hiểu được hết ngọn nguồn, căn nguyên điều mơ ước của mẹ, nên các anh tôi (và ngay cả đứa em gái kế ra đời sau tôi hai năm cũng thế), suốt quãng đời thơ ấu, chẳng hề bao giờ than phiền về sự thiên vị của mẹ giành cho tôi, ngược lại còn chăm sóc, cưng chìu, nhường tôi hết mực, như là một cách thưởng công cho sự có mặt trên cõi đời của tôi mang lại biết bao niềm vui cho mẹ.

Mẹ kể, sinh con gái... khoẻ hơn (?), có lẽ là vì con gái "có ý", chứ không "vô tâm" như con trai ở lỳ trong bụng, kéo dài cơn đau xé da xé thịt mà mẹ đang phải vật vã, oằn người chịu đựng. Cho nên, lúc ba tôi trong bộ quân phục, ào vào nhà bảo sanh như một cơn lốc, gương mặt đầy vẻ lo âu, hối hả, thì đã thấy mẹ với nụ cười tươi như hoa hàm tiếu nở trên gương mặt còn đọng lại một ít vẻ mệt nhọc, sung sướng khoe tôi, với ba, lúc đó đang được quấn kỹ trong một tấm vải mỏng, bên dưới lớp vải là chiếc áo đầm bông, chấm nhỏ li ti do mẹ may ngày nào. Đêm đầu tiên tôi ra đời, mẹ vui mừng khôn xiết, đến quên cả ngủ và nghỉ ngơi. Mẹ tôi lén các y tá, chốc chốc lại ngồi lên say sưa ngắm tôi ngủ trong chiếc nôi kê cạnh giường, và khi nhìn thấy tôi bất chợt giật mình ngọ nguậy, người vội vàng bế tôi lên, hát nho nhỏ bài hát ru quen thuộc mẹ hay hát mở đầu cho mỗi lần ru các anh tôi trước đây:


Ru em cho thét, cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim


Đó là ru khúc đầu tiên tôi được nghe trong ngày đầu đến với cuộc đời. Thuở ấu thơ, chắc hẳn ai cũng từng có được diễm phúc nghe hát ru. Kỷ niệm thời thơ ấu đẹp nhất, êm đềm nhất của tôi là được nghe mẹ ru hời đêm đêm bằng những làn điệu dân ca, khởi nguồn từ vùng quê hương cổ kính, khô cằn sỏi đá của mẹ, "mùa đông thiếu áo, hè thì thiếu ăn", nhưng không kém phần thơ mộng, huyền bí và trữ tình. Nơi đó, có giòng Hương Giang, còn mang một tên gọi bình dị khác mà mẹ tôi thường hay gọi một cách thân thương là Sông Thơm, êm đềm trôi, bắt nguồn từ điểm tiếp giáp của hai giòng Tả Trạch và Hữu Trạch.

Sông Thơm - bức tranh thiên nhiên diễm tuyệt được chấm phá bởi một vài con đò nhỏ trôi lờ lững trên mặt sóng trắng li ti như dát bạc, vào những đêm trăng thanh êm ả - như trôi từ cõi mơ màng hư ảo đến gần với cõi trần hơn, khi bất chợt vọng lên từ mặt sông giọng hò mái nhì của ai đang ngân nga, du dương trầm bổng giữa đêm trường thinh lặng. Giòng sông ấy là nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận của bao nhiêu thi nhạc sĩ từ bao đời nay, và sẽ mãi mãi là giòng sông tâm ảnh, in đậm trong ký ức của mẹ tôi.


Sông Hương một mảnh nguyệt
Lai láng sầu cổ câm
Chuyện xưa mồ cỏ biếc
Thu mới tóc hoa râm
Có hình thân phải khổ
Không bệnh lưng vẫn khòm
Bến Lam Giang ngoảnh lại
Bầy âu vui sớm hôm
(2)

Bài thơ Hương Giang Hành dưới đây được Văn Bình Tôn Thất Lương sáng tác vào năm 1941 có nói đến giống cây Thạch Xương Bồ, mọc hai bên bờ của hai giòng Tả, Hữu Trạch, là một vị thuốc trường sinh, có mùi thơm, mọc nhiều nên nước sông trở nên thơm, vì vậy nên mới có tên sông Hương (sông Thơm).


Hương Giang Hành
Cỏ thơm có giống Thạch Xương Bồ
Sanh ở hai nguồn Tả Hữu Trạch
Hơi thơm dầm nước, nước trong veo
Họp thành sông thơm chảy róc rách
(3)

Tôi biết ơn mẹ tôi vô vàn, đã bằng hết khả năng của mình, tần tảo và vén khéo, cho anh em chúng tôi được sống trọn vẹn với tuổi thơ ngà ngọc. Mẹ đã ươm xanh mướt tâm hồn tôi bằng những điệu ru dân giã qua những câu hò mái nhì, mái đẩy, chân phương và hiền lành, dù rằng những năm thơ dại của tôi, chiến tranh trên quê hương đang đến hồi đau thương, khốc liệt nhất. Trong khi các thế hệ đi trước, trong đó có mẹ tôi, phải đương đầu với vô số hệ luỵ của cuộc chiến tương tàn gây ra, từng ngày từng giờ, khắc khoải chờ mong đến lúc quê hương thanh bình, thì tôi hồn nhiên, vô tư lự, ngủ yên trong vòng tay thơm và giọng ru ấm áp của mẹ.

Những ru khúc của mẹ như là những vỗ về, dỗ dành, vuốt ve đầu đời, cho tôi một nơi trú ẩn bình yên tuyệt đối. Dù đến tận bây giờ, đã nhiều năm rời khỏi thế giới tuổi thơ, trong những giây phút đi qua những gập ghềnh của đời sống, tôi vẫn khát khao được quay về sống lại quãng đời hạnh phúc, an toàn ấy. Và cũng chính những bài hát mẹ ru thời thơ ấu, đã theo tôi suốt chặng đường đời dài nhất, nuôi dưỡng tâm hồn tôi, nảy mầm trong tôi lòng yêu thiên nhiên thanh bình, yêu những câu ca dao ngọt lịm, đượm tình quê dưới mái tranh nghèo, yêu những câu mái nhì, mái đẩy trên sông Thơm quê mẹ, và trên hết tất cả là lòng yêu thương giành cho gia đình và cho tha nhân.


Chim xa bầy, thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi
No?(4) tha không biết thì thôi
Biết nhau mỗi đứa một nơi, răng đành !

*
Gió đưa ông đội lên dinh
Mụ đội thương tình cắp nón chạy theo
Mụ đội đòi cưới ba heo
Ông đội đòi cưới con mèo cụt đuôi
*
Câu mô cao cho bằng cầu Danh Vọng
Nghĩa mô trọng cho bằng nghĩa Tào Khang

*
Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm người tục, chưa được một chục người thanh
Biết ai tâm sự như mình ?
Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân

*
Con chuồn chuồn nhởn nhơ trên mặt nước,
Tiếng ve kêu vang động cả phương trời
Con còng còng dại lắm ai ơi !
Cong lưng xe cát, sóng dồi lại tan
Tiền tài như phấn thổ
Nghĩa trọng như thiên kim
Le le mấy thuở chết chìm
Người ân nhân ở bạc, thôi cũng nỏ kiếm tìm làm chi

*
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngã đào nghiêng
Vàng cầm trên tay rớt xuống không phiền
Phiền người bội nghĩa, biết mấy niên cho hết sầu !

*
Bến chợ Đông Ba tiếng gà eo óc
Bến chùa Thọ Lộc tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương rợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng

*
Con chim phượng hoàng bay ngang biển Bắc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ một đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông Vịnh
Con chim nọ đổi dời non Nam

*
Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, Thánh Miếu, Chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Toà

*
Đứng bên ni sông ngó qua bên tê sông, người đông như hội
Em đây tức mình muốn lội sang sông
Nhưng em sợ sông dài nghỉn(5) ngắn, tiếc công ơn mẹ già

*
Mạ ơi ông chánh đòi hầu
Mua chanh chùm kết gội đầu cho thơm

*
Mẹ già tham việc tiếc công
Cầm duyên con lại Thu Đông mãn rồi
Mãn rồi cai đội hồi hương
Trai thì làm ruộng, gái bán buôn nuôi mẹ già

*
Tiếc tiền mua cá không tươi
Mua rau, rau héo, mua người lửng lơ

*
Chiều chiều ra đứng bờ ao
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

*
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau
Mía lau vừa ngọt vừa mềm
Không dao mà tiện, không tiền mà mua


Mẹ già như chuối ba hương ! Ôi, những thoáng chớp mắt của thời gian, vô tình cuốn trôi đi tuổi thanh xuân của mẹ tôi giữa giòng sông cuộc đời. Suối tóc mây dầy xanh thắm, thoang thoảng hương bồ kết, xoã dài xuống chân ghế trong những buổi trưa hè mẹ ngồi chải tóc dưới mái hiên nhà cho đến khi óng mượt, nay chỉ còn là một huyền thoại đẹp đẽ đọng lại trong trí nhớ của tôi. Giòng tóc ấy hôm nay, ở những năm tháng cuối đời của mẹ, là một giòng sông sương tuyết gầy gò, như thân cò trắng gầy gò, lặn lội sớm hôm nơi ruộng cả ao sâu, một đời tận tuỵ vì con. Vẫn biết đó là quy luật bất biến, bất khả kháng của thiên nhiên, nhưng tôi vẫn không sao tránh khỏi có những giây phút chạnh lòng, hốt hoảng với ý nghĩ dại dột, nếu lỡ may một ngày nào đó mẹ sẽ không còn hiện hữu ở bên tôi nữa.

Con người chỉ thực sự trưởng thành khi không còn có mẹ, có lần tôi đọc đâu đó như thế. Ít nhất hơn một lần trong đời, tôi từng ao ước có được một khả năng siêu nhiên là níu giữ được thời gian, để tôi mãi mãi còn được trẻ dại, mãi mãi không bao giờ trưởng thành, và mãi mãi được sống bình yên, vô ưu, trong vòng tay mẹ chở che, cùng những ru khúc quê hương êm đềm, đằm thắm, của ngày thơ.


Lời mẹ ru như tiếng hát trên trời
Ru con ru mãi (i…i…a...)
Nên người mẹ vui
Ru bạc tóc thôi
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Nên mây xa đường trần
Con ngủ giấc hồng
Cho mẹ tròn lưng
(6).


--------------------------------------

(1) - Trích từ nhạc phẩm Lời Mẹ Ru của Trịnh Công Sơn
(2) - Bài thơ Thu Chí nguyên tác của Nguyễn Du do Quách Tấn dịch
(3) - Trong cuốn Cố Đô Huế của học giả Thái Văn Kiểm
(4) - không
(5) - hơi
(6) - Trích từ nhạc phẩm Lời Mẹ Ru của Trịnh Công Sơn




Mùa Vu Lan - 2002

Tà Áo Xanh
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh


Phượng Các
#16 Posted : Monday, March 7, 2005 10:32:50 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
QH, một độc giả PNV có đưa link Chim Việt Cành Nam và muốn được đăng bài sau đây vào PNV. Ước mong độc giả QH vào đăng ký và tiếp tay sưu tầm các bài liên quan đến chủ đề Mẹ. Thân ái, PC

TƯỜNG THUẬT VỀ MỘT GIẤC MƠ KỲ LẠ
-
TRÚC HUY


Trong giấc mơ, tôi đang dạo chơi, bỗng nhiên một cơn mưa giông nhẹ đổ xuống nhưng tạnh liền ngay sau đó. Rồi, không rõ nguyên nhân từ đâu, nước dâng lên rất nhanh, nhưng tôi đã kịp thời bám vào vách đá của núi để leo lên và tránh được nước lụt. Có điều lạ, tuy là nước lụt nhưng lại trong như nước suối, chứ không phải dòng nước đục ngầu như thường thấy. Tôi tháo cởi đôi giày và tất, rồi vừa leo dần theo các vách đá để leo lên một ngọn núi, leo tới đâu tôi đều cẩn thận chuyển đôi giày da màu nâu của tôi theo và tìm chỗ cất tạm đôi giày vào trong một hốc đá, rồi cứ thế tiếp tục leo tiếp. Lúc tôi leo như thế, cơn mưa rào đã tạnh từ lâu, chỉ còn vài giọt mưa lất phất, khí trời rất mát dịu. Và đôi giày tôi đưa lên cao tới đâu cũng như áo quần tôi đang mặc đều được khô ráo cả. Trong giấc mơ, khi leo theo các vách đá của triền núi, tôi không hề cảm thấy mệt mỏi gì cả, và các tảng đá tôi bám vào để leo đều khô ráo, sạch sẽ chứ không nhơ nhám đầy rêu phong như ở ngoài thực tế. Triền núi gồm những tảng đá lớn nhưng rất dễ bám vào để leo, ở phía chân núi có vài chỗ cũng thấy có những loại grilles bao bọc theo chân núi, người ta làm để chận lại những tảng đá lở có thể lăn xuống đường nguy hiểm.
Tôi leo như thế chẳng mấy chốc đã lên tới đỉnh núi. Nhìn lại áo quần tay chân đều sạch sẽ, không hề bị lấm lem dơ bẩn gì cả. Và ở trên này bây giờ là mặt đất bằng phẳng rộng lớn, chỉ có một ít cây cỏ và hoa lá chứ không có loại cây to lớn, nhưng lại nhìn thấy trước mặt có một cảnh chùa – có lẽ là kiến trúc duy nhất được xây ở trên núi. Tôi như đang ở một nơi tiên cảnh rất đẹp và rất lạ chưa từng thấy bao giờ. Tôi đang ngồi, vừa nghỉ ngơi đôi chút vừa loay hoay tìm đôi giày để mang lại vào chân, nhưng không còn tìm thấy đâu nữa, có lẽ đã để quên trong một hốc đá trong lúc đang leo lên, bây giờ không tìm ra. Nhìn xuống xa xa phía dưới chân núi, tôi không thấy nhà cửa gì cả, chỉ thấy nước lụt trong veo vẫn còn lấp xấp, bao la chung quanh ngọn núi. Có điều lạ lùng, kể từ khi tôi bắt đầu leo lên núi, hình như ngoài tôi ra không có ai cả, nhưng trong giấc mơ, tôi không cảm thấy ngạc nhiên tại sao quang cảnh lại thanh vắng chỉ có một mình tôi giữa bầu trời bao la bát ngát để tránh nước lụt như thế!!!

Không tìm được giày, tôi đứng dậy thơ thẩn rảo bước về phía chùa. Tôi đi đến trước đôi cánh cửa lớn của điện Phật được mở rộng từ lúc nào rồi, và đứng bên ngoài, tôi đưa mắt nhìn vào bên trong điện Phật, tuy bị ánh sáng ngoài trời làm cho nhìn thấy bên trong có phần dịu mắt hơn, nhưng tôi cũng nhận ra được cách trang trí của một điện Phật rộng và sâu mà tôi thường có dịp thấy: bên trong chánh điện có một tượng Phật rất lớn uy nghiêm trên tòa sen, và những pho tượng Phật khác nhỏ hơn nhưng tất cả đều thếp vàng lộng lẫy, và nhiều hương đèn hoa quả trên các bàn thờ... Chánh điện được bài trí rất trang nghiêm thanh tịnh, có mùi hương trầm thơm dịu thoang thoảng lan toả ra trong không gian...

Tôi đang tần ngần đứng nhìn vào bên trong điện thờ như thế thì thấy mẹ tôi từ bên trong điện Phật xuất hiện và bước ra đứng gần ngay mé cửa, và như tình cờ mà mẹ tôi nhìn thấy tôi đang đứng ở trước điện. Mẹ tôi mặc loại áo tu màu lam tro đơn sơ của các sư bà sư cô, và mẹ tôi có vẻ như vừa làm xong các công việc sửa soạn hương đèn hoa quả cần thiết trước khi chùa sắp làm khoá tụng thường nhật cho buổi chiều, có lẽ vào giờ sắp tới. Và không hiểu sao, tuy không nhìn thấy có ai khác ngoài mẹ tôi, nhưng tôi biết là bên trong chùa, ở phía đằng sau, còn có một ít sư bà sư cô khác, nhưng những vị này đang có những công tác riêng ở phía sau bên trong chùa.

Mẹ tôi nhận ra tôi ngay, và tuy hai mẹ con bất ngờ gặp lại nhau, nhưng cả mẹ tôi và tôi hình như không ai tỏ vẻ ngạc nhiên cả. Tuy tình mẫu tử vẫn còn sâu đậm trong tâm trí của cả hai mẹ con, nhưng mẹ tôi và tôi bây giờ đây không còn biểu lộ ra bên ngoài sự vui mừng được gặp lại nhau như thường thấy ở ngoài đời nữa. Tôi thấy mẹ tôi nhìn tôi một cách dịu dàng với một thoáng vui đơn sơ đầy vẻ hiền từ và rất thư thái an lạc, song ánh mắt của mẹ tôi có vẻ xa xăm như nhìn vào khoảng bầu trời bao la không bị vướng che ở trước mặt. Lúc đó vào khoảng 4, 5 giờ chiều, khí trời thật là trong thanh mát dịu. Trong giấc mơ, tôi hoàn toàn không có ý niệm gì về chuyện mẹ tôi đã mất từ lâu rồi – và trong nhiều giấc mơ khác của tôi về mẹ tôi, tôi đều thấy mẹ tôi còn rất trẻ, khoẻ mạnh, và sinh sống một cách bình thường với mọi người, chứ không bao giờ tôi biết đó là mẹ tôi nhưng là một người mẹ đã mất.

Bây giờ đây, tuy hai mẹ con bất ngờ gặp lại nhau ở trước điện Phật chùa như thế, mẹ tôi không còn lộ vẻ vui mừng rõ rệt như khi lâu ngày được gặp lại một đứa con. Về phần tôi, tuy được gặp lại mẹ tôi như thế, tôi cũng không biểu lộ ra sự vui mừng được gặp lại một người mẹ yêu quý như ở ngoài thực tế, và tôi cũng không thắc mắc tại sao mẹ tôi không còn ở với gia đình con cái mà lại đang tu tại một ngôi chùa ở một nơi tiên cảnh như thế này. Hình như có một sự ngăn cách vô hình nào đó làm cho cả mẹ tôi và tôi đều không còn thấy nhiều ràng buộc liên hệ với nhau nữa, vì cả hai đang sống ở hai cảnh giới khác nhau.

Lúc đó, không hiểu sao tôi lại hỏi mẹ tôi một câu hết sức ngớ ngẩn như sau: "Mạ có thấy đôi giày của con ở đâu không?" Mẹ tôi đang đứng cạnh cửa điện Phật, liền quay lại ở hông bên trong gần sát ngay cửa điện, lấy ra một đôi giày, rồi đưa cho tôi và nói: "Có phải đôi giày này không con?" Tôi nhìn kỹ đôi giày mẹ tôi đưa cho tôi xem thì thấy rất lạ: cũng là một đôi giày da gồm có chiếc cho chân phải và chiếc cho chân trái, song hai chiếc lại không cùng cỡ và không cùng màu (một chiếc màu nâu đỏ, còn chiếc kia màu đen), nhưng mẹ tôi có vẻ như không cần quan tâm tới chuyện hai chiếc giày không giống nhau đó và xem như đó cũng là một 'đôi giày' mà thôi. Khi mẹ tôi đưa cho tôi xem đôi giày đó thì tôi lắc đầu trả lời: "Dạ, không phải đôi giày đó!" Mẹ tôi liền cất đôi giày vào lại chỗ cũ ở hông bên trong gần cửa điện. Và đến đây – tiếc thay! – giấc mơ của tôi cũng chấm dứt một cách đột ngột... Về sự việc đôi giày được lấy ra từ bên trong điện Phật kể cũng hơi lạ, vì thông thường giày dép bao giờ cũng để ở bên ngoài, chứ có khi nào người ta đem để hoặc cất giữ ở trong điện Phật bao giờ?

Sau giấc mơ kỳ lạ đó, tôi còn có nằm mơ thêm vài ba lần khác, cũng là những giấc mơ có liên hệ đến chuyện mất giày dép, nhưng ở trong những hoàn cảnh khác nhau và không còn có mẹ tôi xuất hiện như trong giấc mơ đầu tiên. Và lần nào cũng thế, khi tìm ra được một đôi giày khác thì cũng đều là không phải đôi giày của tôi, mà là một đôi giày nào đó không cùng cỡ và không cùng màu (!?). Tôi không hiểu ý nghĩa của giấc mơ ra làm sao cả! Tôi không thể nào giải thích nổi! Tại sao lại có chuyện nước lụt, tại sao có chuyện leo núi đá để tránh lụt, tại sao có chuyện mất giày, hay là chuyện đôi giày không cùng cỡ và không cùng màu, tại sao có chuyện gặp mẹ tôi đang tu ở một ngôi chùa nơi tiên cảnh như thế?

Người ta thường cho rằng mỗi giấc mơ đều có hàm chứa một ý nghĩa ẩn dụ nào đó. Tôi cũng nghĩ rằng giấc mơ này ắt phải có một ý nghĩa thầm kín nào đó được hàm chứa ẩn dụ trong đó, nhưng rất tiếc đã mười năm qua, mỗi khi có dịp nhớ lại, tôi vẫn chưa tìm ra được một lời giải đoán nào cho giấc mơ kỳ lạ này.

Trung Nguyên – Vu Lan 2004
TRÚC HUY
Phượng Các
#17 Posted : Monday, March 7, 2005 11:08:50 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Áo em cài hoa trắng

Võ Hồng



Tôi được đi học chậm hơn mọi đứa trẻ khác. Sáu tuổi mà vẫn chưa được ôm sách tới trường. Nguyên do vì má tôi đau bệnh dai dẳng, má không muốn tôi sống xa cách, dù mỗi ngày chỉ bốn hay năm tiếng đồng hồ. Khi má tôi phát bệnh thì bác sĩ đã cho ba tôi biết là má tôi sẽ không sống thêm được quá hai năm . Má không được nghe điều đó nhưng tự xét sức khỏe của mình, má biết là con đường đi của của má không còn dài lắm. Mặc kệ những lời trấn an liên tiếp của ba tôi, má giữ một thái độ cam chịu và chờ đợi.

Thấy tôi cứ lêu bêu quấn quít cạnh mẹ, ba tôi có lần gắt:

- Em phải để cho con nó học chớ. Bằng tuổi nó người ta đã vào lớp Tư (1) rồi. Trẻ con lên bốn tuổi, người ta đã cho vào ấu trĩ viện (2) để chúng vừa chơi vừa học.

- Học sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ đến đích một lượt. Ðứa bốn tuổi học một năm bằng đứa năm tuổi học sáu tháng.

- Anh biết rõ điều đó. Nhưng nó đã sáu tuổi rồi mà chưa học được tháng nào.

- Thôi để em dạy con.

Má tôi gom những miếng bìa cứng, cắt thành từng mảnh vuông to bằng bàn tay. Má vẽ lên đó những cái vòng tròn, những cái hình mà má gọi là lưỡi câu, cái gáo, con cá. Má chỉ cái vòng tròn và bắt tôi gọi bằng o, cái lưỡi câu bằng i, cái gáo bằng q, con cá bằng e. Lưỡi câu là cái tôi không hề biết nên tôi hỏi lại:

- Lưỡi câu là cái gì vậy má?

Má tôi ngạc nhiên bởi câu hỏi. Má nhìn tôi giây lâu rồi đưa bàn tay mềm mại vỗ lên đầu tôi. Má nói:

- Ờ! Con chưa biết cái lưỡi câu. Ðó là một cái kim nhọn bẻ cong lại, nơi đầu người ta móc một con mồi vào.

- Con mồi là con gì, má?

- Là con trùn, con dế hoặc nhiều khi là miếng bánh, miếng cơm, những món mà con cá nó thích ăn.

- Móc con mồi vô cái kim chi vậy?

- Ðể đem thả xuống nước. Con cá thấy mồi, mừng quá, lật đật bơi lại táp. Miệng cá dính vào cái kim, người ta giật lên, cá không chạy trốn được, người ta bắt nó.

Tôi chỉ xuống hình vẽ con cá trên một bìa cứng (chữ e của má tôi đó) hỏi lại má tôi:

- Người ta bắt con cá này phải không má?

Má tôi mỉm cười, gật đầu. Tôi lại hỏi:

- Má có đi bắt những con cá bằng cái kim uốn cong như vậy không?

- Có. Hồi nhỏ má có đi bắt như vậy. Người ta gọi là đi câu.

- Sao má không cho con đi bắt?

- Khi nào rảnh, vào ngày chủ nhật hay ngày lễ, ba con sẽ dẫn con đi câu một lần.

Tôi lắc đầu:

- Không, con muốn má dẫn con đi. Con không muốn ba dẫn.

- Má bệnh, má đâu có đi được?

- Thì hôm nào má mạnh má dẫn con đi.

Má tôi "ừ" và lặng lẽ nhìn tôi. Một lát thấy từ nơi khóe mắt của má có hai giọt nước mắt chầm chậm ứa ra, lăn dài chạy xuống cằm. Tôi không hiểu tại sao điều tôi yêu cầu có thể làm má tôi buồn như vậy. Sau này lớn lên, ngồi nhớ lại tôi mới hiểu. Một người đã đoán biết được ngày chết gần kề của mình mà phải hứa với con một điều mình biết chắc không thể nào thực hiện được! Không những không thực hiện được việc dẫn con đi câu cá, cả đến việc được ngồi cạnh con trước những tấm bìa cứng này cũng không còn kéo dài được bao lâu nữa.

Tôi không học được bao nhiêu chữ. Bởi ngồi với tôi chừng một lát thì má phải nằm nghỉ. Tôi sung sướng nằm theo cạnh má, tay cầm xấp "bài học" xếp xếp như người ta đánh bài. Tôi nói với má:

- Nằm học khỏe hơn, má há ?

- Ừ.

- Sao ở trường học họ không cho học trò nằm ngửa ra mà học ?

- Nằm ngửa ra, tụi nó ngủ quên hết.

Tôi gật đầu, ờ ờ.

Dù khi tôi ngồi cạnh hay nằm cạnh, má cũng hay lấy bàn tay rờ lên đầu tôi, vuốt ve lên má, lên cằm, lên tai tôi. Dường như để xác định rằng tôi có hiện diện đó thực, tôi, vật quý báu nhất do má tạo ra và má sắp bỏ lại trên cõi trần này.

Ba tôi bắt gặp mấy lần lối học "nằm ngửa" này của tôi. Ông kiểm soát lại xem có chữ nào còn sót lại trong cái khối óc ưa nằm ngửa đó không và rõ ràng là một tư thế như vậy làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột đâu hết. Ông nghiêm sắc mặt bảo tôi:

- Ngồi dậy mà học.

Tôi líu ríu ngồi dậy.

- Lại ngồi nơi bàn mà học.

Tôi líu ríu đi lại bàn.

- Sắp lên bảy tuổi rồi mà học chưa hết hăm bốn chữ cái. Bằng tuổi mày, người ta đều học lớp Tư.

Má không phân biệt cho tôi chữ nào đực, chữ nào cái.

Tôi đoán chữ i, chữ t gầy gò là đực, chữ o chữ a mập mạp là chữ cái.

Thường thì tôi nghe lời ba tôi lại bàn ngồi ngay ngắn, nhìn xuống mặt chữ và lẩm nhẩm gọi tên nó. Má tôi im lặng để nhường tiếng nói cho Ba tôi.

Một hôm tôi ngoan ngoãn nghe lời ba líu ríu lại bàn thì má tôi cất tiếng:

- Thôi cho con đi chơi.

Tôi không biết nên nghe lời ai. Nghe lời má tôi thì sướng quá rồi, nhưng ba tôi còn đứng đó. Mà ba tôi thì không nghiêm khắc nhưng ông biết bắt người ta vâng lời. Tôi biểu lộ sự lưỡng lự bằng cách vẫn đi bước tới nhưng bước chậm lại.

Má tôi dục:

- Con chạy ra ngoài chơi đi con.

Tiếng ba tôi:

- Thôi cho con đi chơi.

Tôi nghe lời ba, đi rẽ ra phía hành lang. Vừa bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng nói của má tôi:

- Anh đừng làm cho con sợ.

- Anh không muốn như vậy. Nhưng phàm uốn tre thì phải uốn khi nó còn là măng. Anh tập cho con biết nghe lời phải.

- Phải uốn dịu dàng!... Em biết là em quấy khi giam giữ con ở cạnh mình mà không chịu rời nó ra cho nó đi học. Nhưng anh ơi, em đâu có còn sống được nhiều ngày tháng? Bác sĩ nói với anh là bệnh em sẽ chữa khỏi. Anh đừng tin. Em biết sức khỏe của em mà. Vì vậy mà em muốn sống quây quần bên cạnh con những ngày chót của đời em.

Tiếng má tôi khóc nấc lên làm tôi bàng hoàng. Tôi đi trở ngược lại và qua khung cửa mở, tôi thấy ba tôi cầm tay má tôi. Má tôi lấy khăn lau nước mắt:

- Con nó nhút nhát vì từ nhỏ đến giờ nó chỉ sống cạnh em. Gần như không tiếp xúc với những trẻ con khác. Vậy anh đừng làm cho con sợ. Anh phải thương con bằng tình thương của anh và thay em mà thương con bằng tình thương của người mẹ. Bổn phận thứ hai nặng hơn bổn phận thứ nhất.

Má tôi ngậm một chéo khăn mùi-soa như để ngăn chặn tiếng nấc.

Những tấm bìa cứng tỏ ra bất tiện mỗi khi tôi muốn nhìn lại gương mặt của một chữ. Cứ lật lên, bỏ xuống, loay hoay kiếm hoài. Ðôi khi miếng bìa mang chữ cái tôi muốn kiếm lại không nằm trong "bộ bài" đó mà nằm lạc ở một nơi nào khác. Ngày nàp cũng có dịp để lục tứ tung mền gối với mục đích tìm chữ. Rất tốn thì giờ. Bởi vì kiếm chữ thì không ra mà lại gặp toàn những thứ mình không định kiếm. Chẳng hạn hòn bi. Rõ ràng hôm kia tôi ngồi bắn bi một mình ở ngoài mái hiên, thế mà buổi chiều ra mái hiên để tìm bắn tiếp thì một hòn biến đâu mất. Chạy kiếm sáng con mắt, chẳng chỗ nào có. Má tôi đưa hai đồng sai chị bếp ra hiệu sách mua cho tôi hòn bi khác. Bây giờ khi tìm chữ mà học thì lại thấy hòn bi đó nằm dưới tấm "ra". Chẳng hạn tìm thấy cái móc tai. Hôm qua ba tôi ngứa tai, tìm cái móc tai nhưng không thấy, ông lại la vang cả nhà. Bây giờ không tìm thì nó lại nằm tô hô ra đó. Nhưng tôi không chịu nhặt đem đi cất ngay để trưa về đưa cho ba đâu. Tôi phải dùng nó để móc tai tôi cái đã. Công việc đó làm tôi say mê và khi tôi chịu rời nó ra thì bên phòng ăn đã nghe tiếng muỗng nỉa rổn rảng.

Má tôi nhận thấy sự bất tiện của phương pháp học bài trên bìa cứng nên một hôm đưa tiền cho chị bếp sai ra hiệu sách mua cho tôi một cuốn vần.

A! Có cuốn sách mới chính hiệu là học trò đây! Tôi giành lấy quyển sách. Nhìn xem cái bìa thấy có vẽ hình hai đứa con nít đang lật mở cuốn sách. Tôi nói:

- Học cuốn sách cần phải có hai đứa không má? Con học có một mình thì học sao được?

- Má sẽ cùng học với con.

- Nhưng má đâu phải là con nít? Ðứa con gái này lớn hơn thằng kia một chút. Chắc là chị của thằng kia. Ðáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị gái như vậy.

Má gật gật đầu:

- Ừ. Ðáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị gái như vậy. Nhưng mà thôi, đưa sách đây má lật dạy cho con. Ðây, cái lưỡi câu đây. Lưỡi câu là chữ gì?

Tôi lật đật nói liền như sợ có ai tranh nói trước:

- Chữ i

- Giỏi lắm. Chữ i dùng để viết đi học, đánh bi. Con coi hình vẽ thằng nhỏ đi học. Vài hôm nữa con cũng ôm cặp và xách ve mực đi học như nó vậy. Còn thằng này thì ngồi đánh bi. Hai đứa nhỏ này đang chạy thi.

Tôi vội lật qua trang sau để xem có món gì lạ trong đó. Tôi la to lên:

- A! Con cá! Con cá đang bơi.

- Tên là cá gì con biết không?

Tôi lắc đầu:

- Không.

- Cá thu. Con cá thu có chữ u.

Chữ o thật dễ nhận ra. Má tôi chỉ hình vẽ một chùm trái cây rồi hỏi:

- O chùm... chùm gì?

Tôi nói liền:

- Chùm ruột.

Má bật cười:

- Chùm nho chớ sao lại chùm ruột?

Tôi cười ồ theo. Tôi quen kêu chùm ruột chớ ít nói chùm nho. Trên lối đi ngoài vườn có đến ba, bốn cây chùm ruột. Mùa Hè, trái lòng thòng từng chùm.

Má chỉ hình con ve sầu (dạy chữ e) rồi hỏi tôi con gì.

Tôi nhìn xuống hình, nhíu môi suy nghĩ một lát rồi nói:

- Con dán.

Má lại cười. Rõ ràng là sự học vấn làm cho mẹ con tôi vui vẻ.

Có một trang vẽ làm cho má tôi ủ dột nét mặt. Ðó là trang dạy chữ ê vẽ hình một con dê mẹ cho con bú và con bò mẹ cho con bú. Con dê mẹ có một bầu sữa thật lớn và đứng lom khom. Nó có một chùm râu nơi cằm nên không ra dáng một bà mẹ. Con bò cái trông dễ thương hơn. Nó quay mặt lại nhìn con bú. Ðôi mắt trìu mến hiền từ, như mắt má tôi vẫn nhìn tôi khi tôi ngồi trên lòng má.

Học đến chữ q "con nhỏ quét nhà" thì bịnh của má tôi phát nặng trở lại. Bác sĩ cấm không cho tôi được vào phòng má. Ba tôi âu lo, mỗi ngày gương mặt mỗi héo dần đi. Trong phòng má bước ra, ba đi thẫn thờ hoặc bước vội vã, và dường như ba không còn thấy sự hiện diện của tôi nữa, của chị bếp, của chị Năm giúp việc, của căn nhà, của mọi vật xung quanh. Có lẽ chỉ còn nhận thấy sự hiện diện của cái cửa để bước ra, của cái bàn để đi tránh. Tôi buồn bã cô dơn, đem cuốn sách vần ra nhìn mặt chữ, nhìn hình vẽ. Lật xuôi lật ngược, đọc ngược đọc xuôi, nhưng đến trang "con nhỏ quét nhà" là dừng lại. Trang bên cạnh có vẽ con khỉ trèo cây. Chẳng biết chữ gì đó, đọc như thế nào và sự tích làm sao. Chắc là phải hay lắm, thú vị lắm bởi một con khỉ thì không thể chán như hai trái đu đủ hay như cái lư đồng. Nhưng ai đọc cho tôi? Ai giải thích cho tôi? Thật ra thì ba tôi có thể chỉ cách đọc, chị bếp có thể chỉ cách đọc, nhưng tôi không muốn ai chen vào sự học của tôi để thay thế má tôi hết. Tôi chỉ tin ở má tôi thôi. Tôi chỉ an tâm thoải mái bên cạnh má tôi thôi. Ðôi lúc ba tôi đi ngang cạnh tôi, đứng dừng lại, nhìn tôi ngồi trước trang sách. Tôi phải đọc vội những chữ u chữ e và đưa tay lật liền những trang đầu sách. Khi vội quá không kịp lật ra trang trưóc thì tôi đưa hai bàn tay che lại cái hình con khỉ. Ðáng lẽ ba tôi để ý tìm hiểu vì sao nhưng dáng ba mệt nhọc bơ phờ nên ba đứng dừng lại một chút rồi bỏ đi luôn. Tôi không muốn ba tôi nhìn đúng vào trang con khỉ trèo cây. Tôi sợ ba tôi sẽ hỏi chữ gì rồi bày cho tôi học luôn. Tôi muốn nhìn đôi môi xinh xắn của má tôi đọc, ngón tay trắng thon của má tôi chỉ và tai tôi nghe giọng nói dịu dàng của má tôi phát âm tiếng đó. Tôi muốn má tôi kể cho tôi nghe về chuyện con khỉ đó như má kể chuyện con ve ve đi vay gạo của con kiến trong bài học chữ e, con tò vò nuôi con nhện trong bài học chữ t, đời sống của chúa sơn lâm, con sư tử giữa rừng Châu Phi trong bài học chữ s. Nhưng than ôi: Ðiều ao ước đòi hỏi của tôi không thể thực hiện được. Má tôi từ trần trong kỳ bệnh tái phát đó, má vĩnh viễn lìa bỏ tôi. Cuốn vần quốc ngữ chứng kiến sự ra đi đành đoạn của má. Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn sang bên kia thì má tôi mất. Con đường chỉ đóng ngăn cách hai trang sách như là con đường phân ranh giữa sự còn và sự mất, sự Sống và sự Chết của má tôi.

Má mất được hai tháng thì ba tôi dẫn tôi xuống trường Tiểu học Lai Ðức xin cho tôi học lớp năm (3). Cô giáo bắt dùng một cuốn sách vần khác không có vẽ hình con khỉ. Càng hay. Hình con khỉ nên chỉ để giành riêng cho tôi và má tôi thôi. Tôi không muốn ai dính dự vào đó hết. Hãy để cho nó giữ vẹn sự bí mật đối với tôi cũng như sự bí mật bao quanh má tôi từ khi má mất. Tôi không biết bây giờ má tôi ở đâu. Hài cốt thì chắc chắn là nằm ở nghĩa trang thành phố, dưới ngôi mộ đắp vun lên, xây đá, quét vôi trắng và phía trước có tấm bia ghi rõ tên má. Hàng chót của tấm bia ghi tên tôi, đứa con trai độc nhất của má mà người khắc bia ghi là Trưởng nam phụng tự. Cái thân xác của má còn đó nhưng linh hồn thì phiêu lãng ở cõi nào? Tôi không tin là cái linh hồn đó bị tiêu diệt đi được.

Từ ngày má mất, ba tôi dịu dàng vói tôi nhiều hơn trước, mặc dù sự học của tôi không theo kịp nổi những đứa cùng tuổi. Ba tháng học của một thằng sáu tuổi kết quả bằng một năm học của một đứa lên bốn tuổi, điều má tôi nói có thể đúng, nhưng những đứa sáu tuổi lại không chịu ngừng để đợi tôi. Chúng nó cứ học như điên và tôi phải vừa học theo vừa trả nợ liên miên. Trả nợ hồi lên bốn, trả nợ hồi lên năm, trả nợ hơn nửa năm lên sáu. Ba tôi khuyên:

- Con cứ yên tâm mà học. Chẳng cần phải vội chi. Lơp Năm, lớp Tư con thua chúng bạn nhưng lên lóp Ba, lớp Nhì con sẽ bằng, lên lớp Nhất con sẽ hơn. Con đường học vấn còn dài lắm.

Tôi nói thầm:

- Con cám ơn Ba, nhưng con sẽ cố gắng học để mau bằng chúng bạn. Con sẽ thua chúng bạn ở lớp Năm, bằng chúng bạn ở lớp Tư và lên lớp Ba con sẽ hơn. Con phải làm vui lòng má con, làm sao cho má khỏi hối hận là bởi má mà con đi học chậm trễ thua sút con người ta.

Tôi đã giữ lời hứa, dù đó là lời hứa âm thầm. Tôi đã can đảm ngồi lại bàn học lâu hơn những đứa bạn tôi, bị thúc đẩy bởi lòng yêu thương má tôi tha thiết khôn nguôi. Lâu lâu, tôi lén mở cuốn sách vần cũ, cuốn vần đầu tiên của chúng tôi. Hai đứa nhỏ vẫn cứ chạy thi hoài, chạy suốt đêm suốt ngày không biết mệt. Thằng nhỏ vẫn ngồi bắn bi, bắn bi mà y như cầm hòn bi dứ vào miệng con cá phi đang lừ mắt nhìn. Trang sau có thằng nằm ngủ miệng há ra để rớt những chữ o trên tay, và dưới tấm hình người ta biên là ngáy o o.

A! Cái chùm nho mà ngày xưa tôi kêu là chùm ruột! Từ ngày má mất, chị Năm và chị bếp tị nạnh nhau lười biếng tưới cây. Cây chùm ruột cạnh giếng thì còn tươi tốt trái bâu đầy cành, còn mấy cây chùm ruột đứng ở góc rào thì thiếu nước nên đói trông thấy. Lá mỏng đi và hay xếp quặp lại. Rầy bám đen thân cây như có ai rảy bột than lên đó.

Tôi lật thêm vài trang. Con dê mẹ còn đứng khom lưng, con bò mẹ vẫn quay mặt âu yếm nhìn con bê đang say sưa bú. Tôi nhớ đến nét mặt buồn của má tôi lần đầu tiên khi má lật trang này. Má ơi, hôm nay thì con biết tại sao má buồn như vậy. Má muốn đem má so với con bò mẹ đó. Con bò mẹ còn nhiều ngày tháng để âu yếm nhìn con nó, còn má thì sắp sửa phải vĩnh viễn xa con. Con nhớ buổi sáng đó má nhìn lâu bức hình rồi má thở dài. Má quay mặt đi chỗ khác. Con hỏi má:

- Con bò con nó bú hết sữa thì lấy đâu để người ta làm sữa bò, hở má?

Con đợi lâu không thấy má trả lời. Khi má quay lại thì con thấy mắt má đỏ và ươn ướt. Con còn dại không hiểu là má đang khóc. Con hỏi:

- Sao mắt má đỏ vậy má?

Má nói:

- Có hột bụi rớt vô mắt má.

Má ơi, hôm nay coi lại hình con bò mà con nhớ má quá chừng. Con muốn được ngồi cạnh má và được má nhìn bằng đôi mắt âu yếm như đôi mắt của con bò cái nhìn con nó vậy.

Nghĩ tới đây, nước mắt tôi lặng lẽ trào ra. Tôi không muốn khóc mà! Tôi chỉ muốn nhớ tới má tôi thôi, nhớ đôi môi xinh xắn, ngón tay trắng thon và giọng nói dịu dàng. Tôi lật thêm vài trang. Ðến trang con bé quét nhà và con khỉ trèo cây thì cơ hồ mắt tôi không còn nhìn rõ hình vẽ nữa. Màng nước mắt đã dày và những hình vẽ chập chờn rung rinh.

Mỗi lần mở cuốn vần ra coi, tôi sợ ba tôi bắt gặp. Tôi thường đợi lúc nào ba đi vắng. Tôi không muốn bị ba phê bình là đa cảm ủy mị. Hồi má còn và thấy tôi lớn đầu mà còn quấn quít bên mẹ, ba tôi tỏ ý lo rằng sau này lớn lên tôi thiếu mạnh dạn can đảm. Chính vì lẽ đó mà mặc dù rất chìu chuộng má tôi, có nhiều lần ba phải la lối gay gắt.

Quyển sách vần, tôi cất kỹ trong tủ sách của tôi. Hễ lật coi xong là len lén đem cất dưới đáy tủ. Thế nhưng có hôm vì bạn tới chơi bất ngờ hay có việc gì đó hốt nhiên xảy đến, tôi lật đật quên dẹp nó. Và rồi tôi cũng quên bẵng nó nữa. Tuổi nhỏ có trí nhớ rất dai nhưng dễ lơ đễnh lộn xộn. Khi mở cặp học bài, bỗng thấy cuốn vần nằm trong đó. Lần đầu tiên, tôi kêu chị bếp:

- Chị có bỏ quyển vần cũ trong cặp của em phải không?

Chị lắc đầu:

- Không.

Tôi nói:

- Vậy là chắc chị Năm.

Tôi kêu chị Năm và lặp lại câu hỏi. chị Năm dài dòng hơn:

- Từ sáng giờ chị đâu có vô phòng em mà bỏ? Ai bỏ đó chớ, chị bỏ chị nhận liền. Chắc chị Năm nghi chị bếp bỏ. Và chắc chắn chị chưa nghe rõ câu hỏi, chưa biết bỏ cái gì, bỏ vô đâu và bỏ như vậy có hại gì. Chắc chị đang nghĩ "kẻ đó" đã làm một điều lỗi, và chị muốn đổ riệt cho chị bếp. Tôi không muốn hỏi dài dòng thêm. Một cái chạng cây ổi nơi đó tôi ngồi núp dưới bóng lá để nghe con chim kêu chích chích đối với tôi thích thú hơn những chuyện đôi co.

Một lần sau lại cũng bỏ quên quyển vần và cũng lại tìm thấy trong cặp. Lần này tôi bận làm toán đố, không kịp điều tra.

Một buổi sáng nọ tôi đang mê ngủ thì chợt giật mình thức dậy. Nhìn ra cửa sổ thấy ánh sáng ban mai còn mờ mờ. Bên phòng ba tôi có tiếng lục đục. Ba có thói quen dậy sớm. Một lát có tiếng cửa mở nhẹ, rồi tiếng dép của ba đi về nhà sau. Chợt tôi nghe tiếng ba tôi hỏi:

- Ðứa nào đem bỏ quyển vần Quốc ngữ của em vô đây?

Tôi lo quá khi ba tôi nhắc đến quyển vần Quốc ngữ. Ðúng rồi, chiều qua tôi lật ra coi rồi bỏ quên không dẹp. Chắc chị bếp tánh hay làm ẩu, lấy đặt một nơi nào mà ba tôi không bằng lòng. Ðặt lên đầu tủ lạnh, trên mặt tủ búp-phê chẳng hạn. Tính ba tôi sạch sẽ mà quyển vần thì lem luốc rách rưới.

Tiếng chị bếp:

- Dạ thưa ông, cháu đó.

- Quyển sách của em mà, sao quăng vô đây?

- Dạ cháu thấy cuốn sách rách bìa, bỏ rớt dưới sàn gạch phòng ăn. Cháu tưởng em nó bỏ. Cháu lượm quăng vô giỏ để chừng nào nhen lửa. Cuốn sách vần cũ mà, thưa ông.

- Ừ, cuốn vần cũ chớ sao?

- Em học lên tới lớp Nhất rồi, còn dùng cuốn vần đó chi nữa.

Một khoảng im lặng hơi dài. Tôi nghĩ rằng ba tôi bỏ đi chỗ khác không trả lời chị bếp. Nhưng không. Vẫn nghe tiếng ông nói ở chỗ cũ:

- Em nó giữ để lâu lâu nó mở ra coi. Kỷ niệm của má nó đó mà. Lần sau hễ thấy em nó bỏ lạc chỗ nào thì nhớ lượm lên đem bỏ vô cặp cho em.

- Dạ.

Tiếng dép ba tôi đi lên nhà trên. Tay nắm cửa phòng tôi quay nhè nhẹ và cửa phòng mở nhè nhẹ. Tôi vội vàng nhắm mắt giả vờ ngủ. Ba tôi lại gần giường đứng nhìn tôi giây lâu rồi nhẹ mở cái cặp của tôi đặt quyển vần vào trong. Ông đóng cặp lại rồi rón rén bước ra khỏi phòng. Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại sau lưng.

Tôi cảm động muốn kêu lên: "Má ơi! Ba không nghiêm khắc với con như má hằng lo sợ hồi má còn sống. Ba uốn nắn con nhẹ lắm, nhẹ hơn uốn nắn cây măng non. Ba quý trọng những giờ phút quấn quít cạnh nhau của mẹ con ta, hồi xưa và cả bây giờ và mãi mãi sau này nữa, má có biết không?" Tôi rất yên tâm bởi không bị cản trở trong việc thỉnh thoảng ngồi nhớ má tôi, nhớ những ngày cũ êm đềm cạnh má, sự hồi tưởng bâng khuâng mà khi lớn lên tôi coi như những cuộc hành hương lặng lẽ về Quá Khứ má hiện diện, để về Ðất Thánh của tâm hồn tôi.

Võ Hồng

(1) Tương đương với lớp Hai
(2) Vườn trẻ
(3) Tương đương với lớp Một
Phượng Các
#18 Posted : Monday, March 7, 2005 11:23:05 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Nghĩ về Mẹ

Võ Hồng



Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

(Truyện Kiều)

Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương "Nhữ triêu xuất nhi văn lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngộ ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.

Truyện dân gian mô tả lòng mẹ thương con thì rất nhiều. Thử lấy một. Người mẹ bị rắn độc cắn, biết mình sắp chết bỏ con, vội vã chạy về nhà, đổ lúa vào cối mà xay, đổ thóc vô cối mà giã, gấp gấp để cho có gạo để lại con ăn sau khi mình chết. Không ngờ huyền diệu đã xảy ra: dồn cả sức lực, bắp thịt đến rã rời, truyện kể rằng chất độc toát ra theo mồ hôi, thoát ra theo hơi thở... và người mẹ được cứu sống. Còn nhớ truyện vua Salomon xử kiện? Hai người đàn bà tranh nhau một đứa nhỏ, ai cũng nói mình là mẹ của nó. Dùng đủ mọi lý lẽ mà không giải quyết yên, cuối cùng vua phán: "Ðem đứa nhỏ ra xẻ hai, mỗi người lãnh một nửa". Một người đàn bà nói: "Dạ, thà như vậy cho công bằng". Người đàn bà kia: "Thôi, tôi xin nhường". Ðó là lời của mẹ bạn đó, hỡi bạn nhỏ đang lắng nghe tôi. Mẹ bạn cũng sẽ xử sự như vậy nếu bị đặt vào hoàn cảnh nêu trên.

Trường hợp này thì còn đáng phục hơn: Chàng Côdắc hỏi tiên nữ Ôcxana rằng đến khi nào nàng mới yêu chàng? Nàng trả lời rằng nàng sẽ yêu người nào đem tặng trái tim người mẹ... Chàng Codắc im lặng, lòng đượm buồn và chẳng thiết gì ăn uống nữa. Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng mang đến cho Ôcxana trái tim của mẹ mình.

Ðường dài chân mỏi mắt hoa
Vừa lên thềm cửa, chân sa ngã nhào
Tim mẹ đập, ứa máu đào
Mà còn hỏi nhỏ "Nơi nào đau, con?"
Hỡi ơi, chỉ có trái tim người mẹ mới vị tha tới mức vẫn cứ thương đứa con bội bạc dường kia!

Tưởng cũng nên nhìn qua vài gương mẹ hiền, dạy con nên người, xả thân vì nghĩa. Mẹ Mạnh Tử chọn láng giềng tốt, cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung để làm bài học dạy cho con. Mẹ Vương Lăng (1) với bài thơ tiễn sứ giả, mẹ Từ Thứ (2), mẹ...

Lòng mẹ đối với con như vậy, còn lòng con dành cho mẹ thì sao? Trong bốn câu thơ Ðoạn trường tân thanh nêu trên, một câu đầu nói nỗi lòng người mẹ thì hai câu sau là nỗi lòng của con. Câu trước dành cho đứa con nhỏ tuổi là Hoàng Hưng, câu sau chọn tả nhân vật hiếu tử già nhất lịch sử: Lão Lai. Suốt cuốn Nhị thập tứ hiếu là 24 gương con hiếu. Nhiều gương ngang tầm với người thường, người thường làm được. Truyện Quách Cự chôn con, được chum vàng. Trời chu đáo chôn sẵn để thưởng Quách Cự, hơi khó tin đối với chúng ta hôm nay. Có vẻ như do một thí sĩ của cung đình sắp đặt dựng lên nhằm ca tụng vượng khí của triều đại, thần linh và con người giao cảm tương thân. Riêng truyện Vương Thôi có khí vị đặc biệt. Mẹ Vương Thôi sợ sấm. Ngày thường Thôi ra đồng làm việc, mà hễ trời nổi cơn sấm sét là lật đật chạy về nhà cho mẹ hết sợ. Khi mẹ chết rồi, mỗi lần sấm sét là Thôi lại vội vàng chạy ra ôm mộ mẹ mà nói: "Có con đây, mẹ đừng sợ". Tâm hồn Vương Thôi có cái gì chất phác đơn giản của một người nông thôn quê mùa, khiến ta tin là hoàn toàn có thật. Và không cần cố gắng, khỏi phải lý giải, hễ đọc lên là lòng mỗi chúng ta đều xúc động rưng rưng.

Trong kho truyện cổ của ta có chuyện Bát canh hẹ. Một tù nhân một hôm nhìn vào mâm cơm thấy có bát anh hẹ liền khóc òa bảo người cai ngục: "Tôi biết là mẹ tôi vừa tới thăm tôi, nhờ ông chuyển cho bát canh hẹ này. Vì hồi ở nhà mẹ tôi thường nấu canh hẹ cho tôi ăn".

Truyện kể một vị hiền giả nọ (3), một hôm phạm lỗi bị mẹ đánh. Ông khóc tức tưởi nhiều hơn mọi lần. Mẹ hỏi: "Lần này mẹ đánh ít, sao con khóc nhiều?" Thưa: "Những lần trước mẹ đánh nhiều, ngọn roi mạnh, con khóc vì đau. Lần này mẹ đánh ít, ngọn roi nhẹ, con thấy ít đau, nhưng con biết sức mẹ đã yếu, mẹ đã già, nghĩ vậy mà con khóc". Sách vở ghi biết bao nhiêu gương hiếu.

Mà nào phải lục tìm trong cổ văn mới thấy gương mẹ hiền biết cách thương con. Mẹ của người bạn cùng quê với tôi, anh Phạm Ngọc Ân, vốn không biết chữ Quốc ngữ như mọi bà mẹ thời đó. Khi Ân học vỡ lòng, anh lẫn lộn M với N, P với Q... rồi sang vần ngược thì càng tha hồ lẫn lộn. Cha giận, vừa nạt, nộ, vừa vụt roi. Mẹ thương con, lén đứng dòm, lẩm nhẩm nhớ để rồi bày cho con. Kết quả là bà đọc được Quốc ngữ và sau đó Ân học hành giỏi, làm tới chức thanh tra giáo dục. Ân nay đã đông vầy con cháu và mẹ già đã nằm yên dưới ngôi mộ bên sườn núi Ngân Sơn.

Chỉ không lưu ý đó thôi chớ hình ảnh mẹ con diễn ra quanh ta đầy dẫy, vạn trạng thiên hình kể sao cho xiết! Mẹ ẵm con đi chợ, mẹ bồng con đi nhà thương, mẹ dắt con đi tới trường... Trên sân: gà mẹ dẫn gà con bươi rác. Trên đồng cỏ: Trâu mẹ đứng yên cho trâu con sục mõm vào bầu vú, mắt nhìn hiền từ, thỉnh thoảng liếm vai liếm lưng. Con cò luộm thuộm vụng về, cái cổ dài ngoẵng, cặp chân lêu khêu vậy mà từ lưng chừng trời trời xếp đôi cánh đáp xuống nhẹ nhàng cạnh bầy con, dùng cái mỏ nhọn hoắc để sú mồi, để rỉa lông âu yếm... Tình mẹ con quả là thứ tình cảm thiêng liêng khó giải khi ta nhìn cặp mắt vàng lợt đó như thiếu vắng sự thông minh, cái cổ quá mảnh quá dài làm khó khăn biết bao cho sự dẫn truyền tình cảm.

Cho chí thảo mộc vô tình cũng gợi xúc cảm mẹ con. Cây chuối mẹ và bầy chuối con xúm xít. Cây ổi mẹ và lũ ổi con ngơ ngác vây quanh. Lũ cây con rất cần mẫn nhìn mẹ mà bắt chước, mà nhại theo hình dáng mẹ, cố gắng sao cho giống mẹ.

Trên đời không ai yêu thương ta bằng mẹ. Người tình dẫu thủy chung, cũng chỉ yêu ta với diều kiện. Hoặc là ta đẹp. Hoặc là ta có tài. Mẹ thì không, xấu xí cũng thương, xấu xí càng thương như nhằm bù lại những thiệt thòi cho con, như ngầm nhận sự xấu xí là do lỗi mẹ.

Không đến nỗi quá lời nếu nói rằng với mẹ, con là tất cả. Khi có con, mẹ bình dân vạch vú cho bú, áo xống xốc xếch, quần xăn quá đùi cũng không còn thấy ngượng. Có con là như đã có đủ rồi. Không như những bạn lấy chồng năm mười năm mà chưa có con, vẫn cứ thẹn, thùng kín đáo.

Ðúng, đã có đủ rồi. Vì có con, mẹ mới yên tâm, mẹ vừa hãnh diện. Con là tác phẩm tuyệt hảo của mẹ, là báu vật thiêng liêng mà mẹ vẫn không hiểu làm sao mà mình có đủ khả năng tạo thành. Cái sinh vật nhỏ đó lần lần lớn lên, có trí thông minh, thân thể phát triển vẹn toàn để có thể sẽ trở thành danh nhân, trở thành vĩ nhân. Càng thêm hãnh diện, càng được đền bù bởi mẹ mang thân phận đàn bà, từ mới sinh ra đã chịu mọi thiệt thòi. Làm con gái đâu được cha mẹ chìu bằng con trai. Lớn lên phải phụ tay trong bếp, dọn dẹp trong nhà. Sự thiệt thòi đeo đẳng suốt đời chỉ vì là thân phụ nữ. Luân lý thời xưa khắc nghiệt bắt người đàn bà không được bước đi bước nữa, phải ở vậy thờ chồng nuôi con. Trải bao cuộc chiến tranh, bao nhiêu góa phụ chôn vùi tuổi thanh xuân, đến khi nhắm mắt xuôi tay là coi như xóa sạch cuộc đời, vĩnh viễn không còn dấu vết. Cho dẫu có được sắc chỉ "Tiết hạnh khả phong" hoặc dãy vòng hoa và bài ai điếu.

Rốt cuộc dường như niềm vui lớn nhất trên đời là khi sinh được đứa con. Tình yêu chồng dần dần sớt qua con và nếu gặp trường hợp đớn đau phải hy sinh đời mình để cho con sống thì hầu như mọi người mẹ đều nuốt nước mắt nhận cái chết về mình, ít cần lưỡng lự.

Nước ta có hai bậc quần thoa xuất chúng. Bà Trưng và bà Triệu, được ca ngợi là cân quắc anh hùng, hào quang xuyên suốt lịch sử. Nhưng không thấy sử ghi là hai bà có được đứa con. Khiến có hôm xúc cảm nhìn cảnh mẹ con vui vầy của những bà mẹ, "mẹ của Quỳnh Chi, Thanh Hải, Nhật Thành... Tôi chợt ngậm ngùi nghĩ đến hai bà:

Tôi chợt nhớ về Bà Trưng, Bà Triệu
Chưa một lần được nói tiếng "con ơi!"
Vì nghĩa lớn, xả thân mình lo liệu
Phần ấm êm: xin nhường hết cho người.
Phần ấm êm là đứa con, là tình mẹ con, dẫu rằng thế tục tầm thường nhưng không phải dễ mà có dược.

Tôi, thuở ấu thơ không được sống gần mẹ, đã vậy mới mười một tuổi mẹ đã từ trần. Theo cha đến chùa một lần là nhân lễ mãn tang mẹ. Lớn lên mới biết là lễ Vu Lan báo hiếu nên cứ mỗi lần xé tờ lịch nhìn thấy ghi tháng Bảy âm lịch là lòng u hoài nghĩ đến mẹ. Có một thôi thúc nhẹ nhàng, một háo hức tiềm ẩn muốn được làm một cử chỉ báo ân. Nhưng mẹ đâu còn? Ðành tìm trong chỗ bạn quen thân có ba người còn mẹ già, ngày Vu Lan tự tay đem một tặng vật nhỏ, gọi là góp lời cầu nguyện cùng bạn. Rồi âm thầm nghĩ đến tích Mục Liên Thanh Ðề, nhớ đến quê hương xa cách, ngôi chùa làng vắng vẻ tịch liêu. Ðến ngôi mộ của mẹ tôi, của bác tôi, của ông bà tôi nằm rải rác quạnh hiu nơi sườn núi cuối thôn. Ðến những vị xuất gia đã cát ái từ thân, giờ này đang trì chú hộ niệm. Nhưng cát ái từ thân đâu có nghĩa là không nghĩ đến mẹ? Ðại Ðức ơi, thầy nghĩ đến mẹ tha thiết như thế nào? Hòa thượng ơi, ngài nghĩ đến mẹ bồi hồi như thế nào?

Hiện rõ mái đầu bạc phơ của Hòa thượng, chân mày sợi dài trắng xóa, dáng đứng như chỏm núi cao. Như đỉnh Hy mã Lạp Sơn tuyết phủ. Ðỉnh núi tuyết uy nghi có biết báo ân mẹ không? Những bụi sim quây quần dưới chân núi rì rào nhớ mẹ. Mẹ là hột sim do con chim bay qua thả rơi xuống đất. Cây bồ đề cổ thụ thân lớn mấy người ôm, tàn lớn phủ sườn núi cũng xào xạc nhớ mẹ. Mẹ là hột bồ đề rất nhỏ ngẫu nhiên ngọn gió bay mang tới. Nhưng hùng vĩ như Hy Mã lạp Sơn thì mẹ là ai? Tôi đành âm thầm lắc đầu vừa tưởng như nghe ầm ầm những chuyển động tạo sơn quằn quại dựng nên dãy núi. Thành ra núi cô đơn.

Ở nhiều nước văn minh trên thế giới, người ta thỏa thuận lấy một ngày trong năm (4) đặt là Ngày lễ Mẹ (Mother's day). Vào ngày đó, các con dẫu ở xa cũng gắng tụ hội về quanh mẹ, dâng hoa tặng quà, đọc lời chúc tụng và vui vầy tiệc tùng. Trên ngực áo mỗi người con rực rỡ một đóa cẩm chướng màu đỏ. Những người con nào mà mẹ đã qua đời thì lạnh lẽo nơi ngực áo một đóa cẩm chướng màu trắng.

Ở ta, từ thập niên 50 nhiều địa phương nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông hồng cài áo: ai còn mẹ thì được gắn một hoa hồng đỏ, ai mất mẹ, thì một đóa hồng trắng. Một cách để nhớ mẹ, để tôn vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế, để xót xa nghĩ đến mẹ đã qua đời.

Bản thân người mẹ Việt Nam không đòi hỏi được tôn vinh. Vào thế hệ tôi, người mẹ gần như chỉ lúc thúc ở nhà dưới, nhà ngang, lăng xăng suốt ngày và hạnh phúc với múi dưa, với con cháu. Cha già được thong dong ngồi hút thuốc, được thưởng thức tách trà sớm, được nhấm nháp ly rượu buổi hoàng hôn, chớ mẹ thì gần như không biết hưởng thụ là gì. Cả ngay khi số tuổi chồng chất, đóng vai bà nội, bà ngoại. Có một thời gian, láng giềng tôi là một gia đình giàu. Khi người vợ sinh đứa con lên bốn tháng, người ta nhắn về quê nhờ bà kế mẫu già, nghèo, tới coi sóc giùm nhà. Một hôm qua khung cửa tôi thấy bà ngồi vá quần cho đứa nhỏ. Tôi ngạc nhiên bồi hồi đứng nhìn. Trẻ con dưới một tuổi lớn mau, quần áo vải mới, mặc không vừa nữa thì bỏ một chỗ, quần áo vải cũ, rách thì ném làm giẻ lau, ai hơi đâu nheo mắt ngồi vá? Thôi, hiểu rồi, tâm lý người mẹ, người mẹ nhà quê, người mẹ nghèo, tần tảo, quên mình, người mẹ của thế hệ tôi đó. Thời nay có khá hơn, có biết vị kỷ hơn, nhưng có được bao nhiêu người con, dẫu đã thành đạt, nhớ đến Ngày lễ Mẹ? Nhiều bà mẹ tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật cho con hằng năm, có chụp hình... Nhưng này các con, sao sinh nhật mẹ, các con không gom một bó hoa - ngắt hoa dại trong vườn ngoài rào cũng được - sáng sớm trao tay mẹ? Nếu mắc cỡ không nói được thì có thể viết trên mảnh giấy nhỏ: "Con mừng sinh nhật Mẹ" chẳng hạn. Ðó, vì đa số các con vô tâm mà phải mượn lễ Vu Lan để cài một đóa hồng.

Nhưng rằm tháng Bảy không phải chỉ là ngày nhớ mẹ, báo ân không chỉ có báo ân mẹ. Còn phần hiếu thảo dành cho cha. Rộng hơn, dân tộc ta còn nhận ngày này là ngày xá tội vong nhân, chú nguyện cho thập loại chúng sinh vừa mở rộng lòng bố thí cho người nghèo khó nơi dương thế. Lòng nhân ái tựa biển, tràn khắp bao la trong tiếng chuông ngân vang ngày lễ.

Hãy thương yêu mẹ hết lòng, săn sóc ân cần, hầu hạ trìu mến, nhất là khi mẹ già yếu bệnh hoạn xấu xí bẩn thỉu. Hãy nhớ lại thuở mình còn nhỏ, mặt mũi chưa được trơn láng như hiện giờ, ỉa đái ngay trên mình mẹ, và khi lên năm lên mười mẹ phải chịu nhịn phần mẹ để mua món ăn ngon, sắm cái áo đẹp cho mình. Hãy xúc động sụt sùi mà cầm tay mẹ, nhìn mặt mẹ, theo dõi bước đi dáng ngồi của mẹ. Không như tấm lịch đẹp treo tường, tấm năm sau sẽ thay tấm năm trước, không phải như cái bàn gỗ mộc sẽ cứ đứng mãi đó nếu ta không tự ý phế bỏ. Mẹ thì không, dẫu ngó vững chắc nhưng sự sống vốn dễ rung rinh, chẳng chóng thì chầy, rồi cũng tới một ngày - thậm chí có thể chỉ trong thoáng chốc - ta sẽ chỉ còn thấy được mẹ trong trí nhớ




(1) Vương Lăng, người đất Bái là hào trưởng trong huyện, Hán Cao Tổ lúc còn hàn vi quí Vương Lăng như anh. Khi Cao Tổ khởi binh, Vương Lăng đem quân phụ trợ. Hạng Vũ buộc mẹ Lăng phải dụ Lăng về với mình. Mẹ Lăng tiễn sứ giả, khóc nói: "Nhờ ngài nhắn giùm Lăng một câu: Hãy cứ hết lòng theo phò Hán Vương, đừng vì ta mà sinh nhị tâm". Nói xong cầm gươm tự đâm chết (Hán sử)
(2) Từ Thứ quê ở Dĩnh Châu là bậc kỳ tài theo phò Lưu Bị. Tào Tháo mời mẹ Từ Thứ đến Hứa Ðô tiếp đãi trọng hậu và khuyên bà viết thư gọi Từ Thứ về giúp Tào. Bà lớn tiếng mắng Tào là phản tặc rồi ném nghiên mực vào mặt Tháo. Tào Tháo muốn giết nhưng tả hữa can. Sau đó mưu sĩ của Tháo đã giả nét bút của bà viết thư cho Từ báo tin mình bị giam cầm và gọi Từ Thứ về hàng Tào. Vì hiếu, Từ Thứ vè Hứa Ðô gặp mẹ. Biết cả mẹ con cùng bị lừa, bà đã uất hận mắng Từ là ngu phu không biết phân biệt giả chân rồi quay khuất sau bình phong treo cổ tự ải.
3) Hàn Bá Du
4) Ngày chú nhật thứ thứ nhì của tháng năm

Phượng Các
#19 Posted : Monday, March 7, 2005 12:56:36 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Có một người đàn bà yêu thương tôi và tin tưởng ở tôi nhất trên đời này người ấy có thể vì tôi mà hy sinh cả tính mạng. Đó là Mẹ tôi.

Có một người bạn trung thành với tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà từ bỏ hết mọi của cải, mọi thứ ân sủng quý giá nhất. Đó là Mẹ tôi.

Nếu có ai bảo với tôi rằng ở một nơi nào đó có một người xem con mình vừa là mục đích đầu tiên vừa là mục đích cuối cùng của đời mình thì tôi tin chắc rằng người đó không ai khác hơn là Mẹ tôi.


--- Trịnh Công Sơn ---




Mẹ Và Tôi

Trịnh Công Sơn


Khi một người mất mẹ ở tuổi năm mươi, điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp được. cái sa mạc để lại trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày mỗi lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn.

Bạn tự nhủ lòng rồi ngày mai sẽ khá hơn nhưng điều ấy không bao giờ có được.

Khi một người mồ côi mẹ ở tuổi năm mươi, thì điều ấy có nghĩa là cái chỗ trống trên giường mẹ nằm sẽ mãi mãi là một khoảng không hiu quạnh những sáng, trưa, chiều, tối. Bạn sẽ đứng nhìn cái gối mẹ thường nằm mỗi ngày và bật khóc. Bạn ngồi lại bên mép giường của mẹ và hiểu rằng từ đây bạn sẽ không còn được mẹ trách móc một điều gì nữa.

Khi một người đã năm mươi tuổi mà vẫn sống một mình và mẹ cũng một mình (vì ba mất sớm), thì mẹ và người ấy là hai người bạn.

Hai người bạn đã cùng nhau chia xẻ những buồn vui trong cuộc đời nhưng mẹ bao giờ cũng là người thiệt thòi nhất vì mẹ bao giờ cũng thấy con mình là một đứa trẻ và do đó mẹ đã chăm sóc con trên từng giấc ngủ, trong từng bữa ăn.

Và cũng chính mẹ sẽ rời bỏ mọi cuộc vui để không rời bạn khi đau ốm.

Không có bài hát nào nói đủ về mẹ.

Mất mẹ là mất đi một tài sản lớn nhất trong toàn bộ sự giàu có của một đời người.

Khi cúi xuống hôn vầng trán lạnh lẽo của mẹ, tôi biết rằng từ nay sự lạnh lẽo ấy sẽ dần dần tràn ngập trái tim tôi.

Sự lạnh lẽo ấy là một nhắc nhở cần thiết như một giòng kinh sám hối đòi hỏi mỗi người phải gieo cấy lại những hạt mầm đức hạnh trong tâm hồn mình trước cuộc đời.

Mỗi người tình có thể ác độc với bạn nhưng trong lòng người mẹ thì chỉ có từ tâm.

Sự ác độc mang đến giá băng trong lòng bạn và chỉ có hủy diệt chứ không thể nào làm sinh nở một điều gì tốt lành.

Chỉ có ở người mẹ, bạn mới có thể tìm được lòng chung thủy tuyệt đối.

Khi mẹ mất rồi thì bạn hãy tin chắc rằng không thể ở nơi nào có một lòng chung thủy tương tự như vậy nữa, bởi vì đối với mẹ, bạn là mục đích đầu tiên và sau cùng.

Khi một người tình cho bạn một tình yêu thì trong trái ngọt đã có thêm mùi vị của cay đắng.

Tình yêu của mẹ là không vụ lợi. Ở trái tim người mẹ chỉ có sự tràn đầy, không có bớt đi hoặc thêm vào gì nữa. Nếu thân xác đi mà linh hồn vẫn còn lại thì bạn hãy tin rằng ,mẹ sẽ là người đau khổ nhất chứ không phải là bạn. Ở nơi linh hồn đó, mẹ biết rằng từ nay không còn ai đủ tình yêu để chăm sóc và an ủi bạn trong những phiền muộn chập chùng của cuộc đời.

Một người năm mươi tuổi mất mẹ, thì đau khổ hơn trẻ lên năm, bởi vì người ấy không còn hy vọng gì ở tương lai nữa. Mất mẹ là mất một phần lớn của cuộc vui muốn được đền đáp, chia xẻ.

Trịnh Công Sơn

Phượng Các
#20 Posted : Monday, March 7, 2005 1:05:18 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Tình Mẹ

Hòa thượng Thích Hộ Giác






Mùa thu buồn. Trời thu lạnh. Gió thu hắt hiu thì thầm như trao gởi, nhắn nhủ những kỷ niệm ân tình giữa hai miền sống, chết. Phải chăng mùa thu về nhắc nhở ta những ân tình chưa thỏa, những mộng đời chưa tan trong cái xoay vần của nhân duyên sanh diệt.

Nếu nơi đây, mặt trời đã không ngừng chứng kiến những cảnh dâu bể tang thương, những cảnh tương tàn tương sát, thì nơi kia, bóng đêm cũng không ngừng vây phủ những oan hồn ủy m?ừa kêu gào bi thương vừa lang thang thất thểu. Trong hai cõi sống và chết, sinh linh cũng chỉ là những đứa con lạc lõng giữa bụi đời tham vọng huyễn hư, hoặc cũng chỉ là những bóng ma vật vờ trong trường dạ u linh, tìm nước tĩnh bình để giải oan thoát khổ.

Mùa thu cũng là mùa tiêu biểu cho nỗi nhớ niềm thương : ngoài trời nào cảnh sụt sùi mưa dầm tháng bảy, nào cảnh xương khô lạnh ngắt heo may, nào cảnh lá vàng lìa cành xa cội, nào cảnh mưa sa lác đác mộ phần, tất cả ngoại cảnh nầy đều khiến nội tâm nhói đau nỗi niềm hoài cảm, nhất là những u hồn bên kia thế giới. Và mùa thu về cũng báo hiệu mùa Vu Lan báo hiếu : mùa của mẹ, mùa của cha, mùa của Tổ tiên gia tộc, mùa mà những đóa hoa hồng đỏ thắm nở trên áo của những ai may mắn còn mẹ, và những đóa hoa hồng trắng nhạt sẽ nở trên áo của những ai bất hạnh sớm mất mẹ hiền.

Nói đến tình mẹ thì quả thật trên quả đất nầy không có thứ tình nào đậm đà lai láng, thiêng liêng và bất diệt như tình mẹ.

Tình mẹ không chỉ ngọt ngào như dòng suối mà là những dòng máu đỏ khởi nguồn từ tim và reo chảy về tim; không chỉ là bầu trời trong sáng chiếu ánh trăng sao, mà là những tế bào mạch huyệt đang lưu lộ căng đầy và vận hành trong toàn thân; không chỉ là một kho tàng vô tận để cung cấp cho sự sinh tồn vạn loại.

Trên thế gian nầy có nhiều kỳ quan nhưng trái tim của mẹ mới thật là đệ nhất kỳ quan. Vì trái tim của mẹ là một thứ kỳ quan sống động linh hoạt. Trong khi các kỳ quan khác đều chết đứng bất động. Đối với kỳ quan nầy chúng ta không cần phải phí công tốn của để tìm kiếm quan chiêm, vì chính kỳ quan tuyệt bích ấy đã ở trong ta từ lúc mới tượng hình, và theo năm tháng kỳ quan nầy lại càng trở nên kỳ ảo, vĩ đại, vô tiền khoáng hậu.

Các kỳ quan trên thế giới đều kiến tạo bằng vật liệu kiến trúc gần giống nhau, chỉ khác mô hình, hình thể. Còn kỳ quan là trái tim của mẹ thì cách cấu trúc hoàn toàn dị biệt về cả hai phương diện : vật thể và tâm thể. Vật thể là điều kiện tổng hợp của thịt, máu, động mạch, các ống dẫn máu ra vào. Sự vận hành của không khí tức không đại; sự lưu chuyển của máu tức thủy đại; sự điều hòa ấm áp tức hỏa đại; các cơ thịt tự động cấu hợp của tim tức địa đại; và sự hô hấp tự nhiên của toàn bộ trái tim tức thức đại.

Về mặt tâm thể thì chúng ta có thể tìm được bốn thể tánh vô lượng, quảng đại, biến mãn trong trái tim mẹ, đó là : Từ Bi Hỉ Xả.

TỪ là trạng thái tâm ai mẫn, hiền hòa, sẵn sàng ban rải cho một đối tượng hoặc nhiều đối tượng mới bắt đầu tượng hình hay sắp sửa thành hình. Ở đây, thai bào là đối tượng tuyệt đối phải được ban rải cẩn trì, dù trong không gian hạn hẹp, dù qua thời gian lâu mau, dù đứng về mặt khách thể, dù trực thuộc phương diện chủ thể.Về thể cách ban rải thì có nguyện và hạnh.

Nguyện, tức dùng lực cầu nguyện van vái Phật Trời phò hộ thai bào được bình an vô sự suốt thời gian 9 tháng cưu mang và hằng tâm nguyện sao đến ngày khai hoa nở nhụy, thai nhi được mở mắt chào đời với thân hình nguyên vẹn cụ túc lục căn.

Hạnh, tức hành động cẩn trì trong oai nghi : đi đứng ngồi nằm; trong chánh hạnh : nói năng, ăn uống, cách nhìn, cách nghe, thậm chí luôn luôn chánh niệm không dám buông lung tà tâm, nóng giận sợ ảnh hưởng thai bào. Có những hiền mẫu phát tâm bố thí, cúng dường, trì trai, niệm Phật khi biết mình thọ thai. Tâm từ nầy của mẹ khởi phát chính thức ngay khi biết mình đã thực sự mang thai và cứ như vậy tiếp diễn cho đến ngày nở nhụy khai hoa.

BI là tâm vô lượng thứ hai của mẹ phát xuất cùng lúc với tiếng khóc chào đời của thai nhi. Tâm bi nầy khó mà diễn tả chính xác hết ý. Vì tâm bi được chuyển tiếp từ tâm Từ sau 9 tháng trông ngóng đợi chờ, mừng mừng sợ sợ, mặc dù lòng đã dặn lòng : "Tất cả đều diễn tiến tốt đẹp, mẹ tròn con vuông, trên có Phật Trời phò hộ, dưới có mẹ cha hướng dẫn và chính mình cũng hết mực dưỡng thai". Nhưng tránh không khỏi những phút giây bồi hồi, phập phòng, lo sợ, mặc dù đã tự cố gắng trấn an. Thế mà giờ đây tiếng khóc hài nhi đã kéo mẹ về thực tại sau những giờ phút đớn đau, bàng hoàng vì sanh nở thì bảo sao mẹ hiền không vui mừng, sung sướng cho được. Nhìn kỹ mặt con, mẹ càng thương yêu ngập lòng. Chính hai tâm vô lượng Từ và Bi nầy đã dung hợp, trợ duyên nhau một cách tương tục kỳ diệu nên đã biến máu hồng thành sữa trắng để nuôi con.

HỈ là tâm vô lượng thứ ba của mẹ. Tâm nầy được phát hiện cụ thể nhất là lúc cha mẹ nhìn con mấp máy đôi môi bập bẹ kêu "Ba" kêu "Má", và chập chững tập đi một mình từng bước không vững, rồi lần lần trở nên chững chạc, biết ăn, biết nói, biết cười, biết làm xấu. Con càng khôn lớn, mẹ càng vui mừng. Vì con là núm ruột, là hòn máu, là một phần trong cơ thể mẹ, là kho tàng vô giá, là nguồn hạnh phúc vô bờ. Giờ đây con đà khôn lớn, trưởng thành, bảo sao mẹ hiền không vui mừng cho được. Bất cứ cử chỉ nào, lời nói nào, hành động nào của con trẻ, dù vô tư, không đòi hỏi phải khôn ngoan, cũng đủ làm cho mẹ sung sướng ngập lòng. Vả lại niềm vui của mẹ là con, và mẹ thì cũng chỉ biết vui với con mà thôi. Con là nguồn an ủi duy nhất của mẹ. Do đó, con đau là mẹ xót, con mạnh là mẹ mừng. Có con một bên, mẹ cảm thấy cuộc đời là màu hồng, là bầu trời mùa xuân và tất cả hiện hữu đều có ý nghĩa, đáng yêu. Vắng con, mẹ cảm thấy lẻ loi, hiu quạnh, bầu trời là cả một mùa thu, tất cả hiện hữu trở nên vô nghĩa và mẹ tự thấy mình bạc phước vô phần.

XẢ là tâm vô lượng thứ tư của mẹ. Tâm nầy của mẹ tự động hiển lộ trong hai trường hợp nghịch cảnh hoặc thuận duyên. Tâm xả hiện lộ trong nghịch cảnh đó là những khi con giận, con hờn, con nặng lời lớn tiếng, con phụ rẩy mẹ cha, con ngỗ nghịch phạm thượng, trong tất cả tình huống ấy, mẹ cha chẳng những cam tâm cúi đầu chấp nhận, không hề oán giận nguyền rủa con mà còn sẵn sàng rộng dung tha thứ.

Còn tâm xả của mẹ được thấy trong thuận cảnh là khi con cái thành nhơn chi mỹ, cha mẹ thận trọng lựa chọn những gia đình hiền lương, đạo đức, có học, có hạnh để dựng vợ gả chồng, và sau khi con cái đã yên bề gia thất thì lòng cha mẹ bớt lo lắng, ưu tư, có thể tạm an tâm để sống những chuỗi ngày còn lại. Do vậy, tâm xả phải hiểu tận tường rằng xả không chỉ có nghĩa là cảm thông, xả bỏ, tha thứ, không chấp thủ như trường hợp nghịch cảnh; mà xả còn là một trạng thái tự tin, an tâm, vô thưởng vô phạt như vừa kể trong phần thuận cảnh.

Một thứ kỳ quan sinh động, linh hoạt, khế lý, khế cơ, nhất là biết cung ứng đầy đủ mọi thứ nhu cầu của con cái trên hai phương diện vật lý và tâm lý, thử hỏi như vậy trái tim của mẹ có đáng được công nhận là "đệ nhất kỳ quan" hay không. Chính vì cha mẹ có đủ bốn tâm vô lượng, nên đức Phật xưng tụng cha mẹ là "trời phạm thiên", là "giáo sư đầu đời", là "vị tiên ban đầu" và là "bậc đáng cúng dường".

Thật ra trên thế gian nầy, mối tình nào, chung cuộc, cũng đều phai mờ trong tim ta, trong ký ức ta. Duy nhất chỉ có tình mẹ là thiên thu bất biến. Sở dĩ tình mẹ tồn tại vĩnh viễn vì tình mẹ thương con như biển hồ lai láng, như trái đất bao dung, như bầu trời hiến dâng sự sống, như gió xuân ban rải sự mát mẻ cho muôn loài, không có bất cứ sự lựa chọn nào trong tình mẹ thương con, tình mẹ vượt thời gian, không gian, chỉ cho mà không cần nhận, cho vô điều kiện, cho bình đẳng không phân biệt đẹp xấu, trí ngu, giàu nghèo, có hiếu hay bất hiếu.

Chính vì tình mẹ như vậy nên không bao giờ bị ngoại cảnh chi phối. Nghĩa là tình mẹ thương con không có biên giới. Vậy, bạn nào còn cha còn mẹ thì bạn là người diễm phúc nhất đời. Vì không có niềm vui nào thiêng liêng, đậm đà bằng niềm vui còn mẹ và cũng không có nỗi buồn nào ray rứt xót xa bằng nỗi buồn mất mẹ.

Một Phật tử ở Phan Thiết, đạo hữu Lê Minh Hớn, đã làm sống dậy tình mẹ trong chúng ta vô cùng ý nhị : "Ta còn có mẹ, mẹ hát đưa ta, tiếng hát xa xưa buồn quá đỗi, nhà ai giã gạo trưa hè. Mẹ hát à ơi ! võng trời kẽo kẹt, da trời xanh ngắt cửa đông. Người đâu có biết : Mẹ bồng ta cả tuổi ban đầu. Câu hát ngày xưa chín vàng chín đỏ. Ba mươi tuổi đời lăng lắc đong đưa. Ba mươi tuổi đầu mẹ còn coi nhỏ, đưa từng trái bắp củ khoai. Ngày đó ta về, mẹ còn vuốt tóc. Người biết không, ta khóc trong lòng !".

Do đó, nếu chúng ta vì miếng mồi đỉnh chung ngắn ngủi, vì tương lai sự nghiệp mơ hồ mà quên bổn phận thần tỉnh mộ khang, quạt nồng đắp lạnh, thì thật là lỗi đạo làm con, nếu không nói là bất hiếu./.

Thích Hộ Giác
Users browsing this topic
Guest (2)
4 Pages123>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.