Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

viết về các nhạc-sĩ Việt Nam
viethoaiphuong
#1 Posted : Sunday, February 28, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Việt Dzũng Một Nghệ Sĩ Với Tài Năng Vượt Bực



Tiểu Sử:

Tên thật: Nguyễn Ngọc Hùng Dũng
Ngày sinh: 8 tháng 9 năm 1958
Nơi sinh: Sài Gòn, Việt Nam
Những trường đã theo học: Lasalle Taberd (Sài Gòn), Wood River High School (Nebraska), University of Nebraska at Omaha (UNO), University of Houston (Texas).
Nhạc khí sử dụng: Piano, Guitar
Sở thích: Âm nhạc
Màu ưa thích: Màu đen, màu xanh
Con số ưa thích: 13
Thức ăn ưa thích: Hải sản và các thức ăn khác.
Môn thể thao ưa thích: Thich xem football trên truyền hình .......

Suốt ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu. Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mane dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm.

Cũng chính biến cố 30 tháng tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại. Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam. Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore. Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân. Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca:

... “Thuyền trôi xa ... về đâu ai biết ? Thuyền có về ...ghé bến tự do ? Trời cao xanh ... hay trời oan nghiệt Trời có buồn ... hay trời vẫn làm ngơ ?...

... Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mồ xanh ? Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ ...?”

Chưa đầy 17 tuổi mà đã rời xa mái ấm gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả những người thân yêu, bè bạn, mái trường yêu dấu với những sinh hoạt vui tươi của tuổi học trò. Chắc chắn là có những khoảnh khắc anh Nguyễn Ngọc Hùng Dũng chợt nhớ lại quãng đời niên thiếu ngập tràn kỷ niệm của mình, đã bỏ lại sau lưng tận bên kia bờ Thái Bình Dương.

Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Tabert ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh. Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị cộng hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và Sư đoàn 5 QLVNCH. Mẹ của anh là giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn. Việt Dũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Tabert chỉ dạy rất tận tình. Trong lúc gia đình mong cho anh sau này trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ văn gừng. Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường. Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Tabert và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi bên cạnh những tên tuổi nổi danh thời bấy giờ như Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v.. Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975.

Giờ đây (tháng 6-1975), tại trại tạm cư Subic, chàng thanh niên trẻ Việt Dzũng tạm quên đi những kỷ niệm thật đẹp ở quê nhà mà bắt tay ngay vào đời sống mới. Với số vốn Anh ngữ học được ở trung học và tính tình hoạt bát, Việt Dzũng liền tham gia hoạt động trong ban tổ chức và điều hành trại, đón tiếp và giúp đở nhiều chuyến tàu tị nạn lần lượt cặp bến Subic cho đến khi trại này đóng cửa. Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang trại Ft. Chaffee ở tiểu bang Arkansas. Trong thời gian này Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, làm thông dịch viên giúp đỡ rất nhiều người chung quanh. Ở lại trại gần đến ngày cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ và gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ.

Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học lớp 11 ở trường trung học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi thêm về âm nhạc theo như sở thích và đam mê từ nhỏ của anh. Tại đây, anh bắt đầu sinh hoạt ca hát với các anh chị em thuộc cộng đồng Việt Nam. Anh cũng từng xuất hiện trên đài truyền hình KOZK21 ở Springfield. Một năm sau (1977), Việt Dzũng được đoàn tụ với gia đình ở Wood River, tiểu bang Nebraska. Năm đó anh tốt nghiệp trung học tại trường Wood River.

Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music). Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm.

Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân. Cũng trong năm này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt với bài hát đầu tiên là “ Sau Ba Năm Tỵ Nạn Tại Hoa Kỳ”, viết về thân phận người dân xa xứ với những đau đớn chia lìa. Bài hát thứ hai là “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã trở thành một ca khúc lẫy lừng nhất của Việt Dzũng, được mọi người yêu thích cho đến tận hôm nay. Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây:

“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay ... Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày ...

Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn ....

Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình ...”

Nhớ lại những ngày đầu tiên làm quen với sinh hoạt văn nghệ của người Việt tha hương, khi Việt Dzũng theo người chú họ về San Antonio, Texas thăm gia đình người bạn nhân dịp tết Nguyên Đán 1979. Tại Hội Chợ Tết nơi đây, anh đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác. Hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm ấy anh khi anh rời sân khấu. Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này.

Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền. Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác. Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa” (nhà văn Mai Thảo viết lời giới thiệu). Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).

Năm 1980, là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi. Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này.

Trước đó, vào năm 1978 anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em. Cả hai cùng sáng tác chung một đường lối và họ đã kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi. Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống. Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v...Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử. Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ. Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh. Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin. Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này. Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này.

Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù. Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo..v.v..Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam. Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, vận động chống lại chương trình cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc...Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt.

Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”

Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh. Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, phát thanh 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày là đài Little Saigon. Cũng cần nhắc lại là trước đó các đài phát thanh đều làm chương trình theo kiểu ngày xưa, nghĩa là thâu thanh trước đàng hoàng, kỹ càng từng tiết mục và tới giờ là cho phát thanh lên. Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả (talk back) trong buổi phát thanh. Nên không khí rất vui nhộn và hào hứng, náo nhiệt vô cùng. Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này. Kể cả các đài BBC, VOA phát thanh về Á Châu, cũng thay đổi cách làm việc như cho xướng ngôn viên được phép đùa giởn với thính giả chớ không đọc tin một cách nghiêm trang như ngày xưa.

Ngoài việc phổ biến tin tức, âm nhạc, thể thao cuối tuần, giải trí cuối tuần, tin tức Hollywood ...VD còn thực hiện chương trình đặc biệt nhất là chương trình “Tâm tình với nghệ sĩ” được rất nhiều thính giả ưa thích. Chương trình này lúc đầu phát từ 11 đến 12 giờ trưa hàng ngày trên làn sóng 967 FM của đài KWIZ. Sau đó mỗi tuần phát hai ngày thứ hai và thứ tư. Trong vòng hơn hai năm, mà Việt Dzũng đã phỏng vấn trên 350 nghệ sĩ. Từ những ca sĩ nổi tiếng như Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Chế Linh, Lệ thu, Ý Lan, Vũ Khanh ...cho đến những ca sĩ mới xuất hiện ở hải ngoại sau này như Mạnh Đình, Dạ Nhật Yến, Thanh Trúc, Phi Nhung ... Những nghệ sĩ đến từ các tiểu bang xa cũng được mời phỏng vấn như Hà Thanh, Từ Công Phụng, Trường Kỳ, Châu Hà, Văn Phụng .v.v...Trong tất cả các chương trình phỏng vấn này, nóng bỏng nhất và đặc biệt nhất phải nói là chương trình phỏng vấn nữ ca sĩ Ngọc Lan. Vì từ trước tới nay, Ngọc Lan không nhận lời cho ai phỏng vấn cả (vào thời điểm đó), chỉ có một lần cô trả lời trên đài VOA; và Việt Dzũng là người duy nhất phỏng vấn được Ngọc Lan vào tháng 10 năm 1994.

Bốn năm sau( 1996), Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa, phát thanh trên ba làn sóng khác nhau ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Hiện nay (2006), Radio Bolsa đang phát sóng trên 106.3 FM, 1190 AM (Nam California) và 1430 AM (San Jose) với Việt Dzũng và Minh Phương là hai xướng ngôn viên chủ lực cùng với các xướng ngôn viên khác như Nguyễn Phú, Uyên Thy, Mai Trang...Việt Dzũng đã tạo sự gần gũi, thân mật giữa xướng ngôn viên với thính giả từ trẻ đến già, ở nhà cũng như đang lái xe đi làm với những chương trình đa dạng và phong phú hàng ngày. Dĩ nhiên là với kỷ thuật phát thanh digital, mọi người trên khắp thế giới cũng có thể nghe được các chương trình phát thanh này trên mạng thông tin toàn cầu bất cứ lúc nào. (
http://www.RadioBol sa.com)

Tuy công việc hàng ngày của anh thật bận rộn như vậy, nhưng ngoài thời gian làm việc ở đài phát thanh, Việt Dzũng còn chứng tỏ là anh có khả năng làm báo rất thành công. Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988. Trở lại California làm thư ký cho tờ Sài Gòn Nhỏ một thời gian và sau đó cộng tác với tờ tuần báo Diễm từ năm 1990. Năm 1992 trở thành Thơ ký toà soạn cho tờ nguyệt san Hồn Việt cho đến bây giờ. Việt Dzũng cũng là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông khắp nước Mỹ như tờ Phố Nhỏ (Washington DC), Thế Giới Mới (Dallas, PL), Phương Đông (Seattle, WA), Mõ Magazine (San Jose, Sacramento, San Francisco & Oakland), Làng Văn (Canada), Nhân Quyền (Úc), Tin Điển (Đức) .v.v.

Hầu như lúc nào Việt Dzũng cũng có những dự tính và dự án trước mặt, nhưng không làm sao có đầy đủ thời giờ để lo cho xuể. Chỉ nói riêng về mặt sáng tác âm nhạc thì cho đến nay Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại. Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982). Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương. Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết. Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem...

Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương ...

Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ (nhứt là giới trẻ ở hải ngoại), nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau:

“Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của nhữNg rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm. Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình. Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ. Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi. Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995)

Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp. Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh. Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là:

Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004

Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (17.9.2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ ngày 9.9.2005.

Đại nhạc hội “Đêm Tình Thương” phối hợp với cộng đồng người Việt ở Dallas Fortworth va Trung Tâm ca nhạc Asia (tháng 9-2005)

Chương trình văn Nghệ gầy quỹ cứu trợ nạn nhân cơn bão Katrina tổ chức ở Wichita.

Những chương trình Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH ở khắp nơi ....

Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc.

Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996 khi anh cộng tác với Trung Tâm Ca Nhạc Asia để làm MC hướng dẫn các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình. Anh cũng cộng tác với đài truyền hình SBTN trong việc soạn và đọc tin tức hàng ngày, cùng nhiều tiết mục khác cho chương trình phát hình liên tục 24 giờ mỗi ngày. Trước đó anh cũng đã từng nhiều lần làm MC cho các buổi đại nhạc hội, các buổi biểu tình, những lần gây quỹ từ thiện ...Riêng ở các chương trình của Trung Tâm Asia thì anh đã hợp tác viết thuyết minh và giới thiệu cho các chủ đề, các tài năng mới trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì từ lâu nay Trung Tâm Asia là một trong hai trung tâm hàng đầu về ca nhạc ở hải ngoại được tiếng là luôn luôn có nhiều sáng kiến mới lạ và nâng đở cho những tài năng trẻ tuổi trong lãnh vực ca hát. Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”. Vài năm gần đây lại có những chương trình Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới" (phát hành 27/2/2004), "Tiếng Hát Trái Tim" (thu hình 20/3/2004), "Mùa Hè Rực Rỡ 2005" (thu hình 22/7/2005). Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”( phát hành 24/6/2005), khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa.

Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Dạ Lan), và gần đây là Asia 50 "Vinh Danh Nhật Trường" và Asia 51 "Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến" ... đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng tức tối, khi nhìn thấy Việt Dzũng vẫn tiếp tục xuất hiện trong vai trò làm MC. Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM đã bắt đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay. Nhưng cũng chính những bài báo này đã khiến cho mọi người càng thấy rõ bộ mặt nham hiểm, quỷ quyệt của Cộng Sản VN như thế nào và cũng làm cho nhều người thông cảm, yêu mến và chia sẻ nhưng oan khiên, thống khổ của người nghệ sĩ này nhiều hơn.

Với tất cả những mũi tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào anh, Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính. Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động, cống hiến tài năng của mình cho đồng hương như anh đã làm suốt hơn ba mươi năm nay. Lúc nào cũng vậy, anh vẫn luôn luôn là một đứa con cưng của tổ quốc và quê hương Việt Nam. Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.

Duy-Khiêm (20-10-2006)

* Tài liệu tham khảo để viết bài này:

Tuyển Tập Nghệ Sĩ, Trường Kỳ, Canada, 1995
Vẻ Vang Dân Việt, Tuyển tập IV, Trọng Minh, USA, 1998
Tác Giả Việt Nam, Lê Bảo Hoàng sưu tập, USA, 2005
Tạp chí Hồn Việt, Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, USA


Website: http://kicon. com/radiobolsa/ kminh/radiobolsa /bio01.htmhttp://www.RadioBol sa.com
http://www.SBTN. net
source:http://www.huongduo ng.com.au/ article_1330. html
viethoaiphuong
#2 Posted : Friday, March 5, 2010 8:18:41 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Nhạc sĩ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG


NGUYỄN VIỆT

Nói đến nhạc sĩ Phạm Đình Chương là nói đến những dòng nhạc tình ca lãng mạn từ tiền chiến đến thời đại. Những nhạc phẩm do ông sáng tác hay phổ từ thơ. Là một tên tuổi lớn của nền tân nhạc Việt Nam . Nếu phải so sánh giữa Phạm Đình Chương với Phạm Duy, có lẽ hai người nhạc sĩ này “kẻ tám lạng người nửa cân”, chỉ có điều Phạm Đình Chương không sáng tác nhạc theo kiểu “tả pín lù” như Phạm Duy “sức mấy mà buồn”, “bỏ qua đi tám”, nhạc Việt hóa,nhạc tuyên truyền. Phạm Đình Chương ông chỉ có một con đường để đi, là chọn con đường vì văn học nghệ thuật.

Chúng ta thử điểm qua những sáng tác tiêu biểu của Phạm Đình Chương :

Nhạc sáng tác :

- Hội trùng dương, Ly rượu mừng, Tiếng dân chài, Anh đi chiến dịch, Bên trời phiêu lãng, Đất lành, Đêm cuối cùng, Đến trường, Định mệnh buồn, Đón xuân, Ra đi khi trời vừa sáng (viết với Phạm Duy), Đợi chờ (viết với Nhật Bằng), Được mùa, Hò leo núi, Khi cuộc tình đã chết, Khúc giao duyên, Kiếp Cuội già, Lá thư mùa xuân, Lá thư người chiến sĩ, Mỗi độ xuân về, Mười thương, Nhớ bạn tri âm, Sáng rừng, Ta ở trời tây, Thằng Cuội, Thu ở ban đầu, Trăng mường Luông, Trăng rừng, Xóm đêm, Xuân tha hương…

Nhạc phổ thơ :

- Buồn đêm mưa (thơ Huy Cận), Cho một thành phố mất tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn), Nửa hồn thương đau, Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc , Đêm màu hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn, Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, Quê hương là người đó (thơ Du Tử Lê), Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Hạt bụi nào bay qua (thơ Thái Tú Hạp), Heo may tình cũ (thơ Cao Tiêu), Mắt buồn (thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu ), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ).. Còn rất nhiều nhạc phẩm khác v.v…

Một chút tiểu sử :

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 và qua đời vào năm 1991. Khi soạn nhạc ông ký là Phạm đình Chương, còn đi hát, chỉ trong ban hợp ca Thăng Long, ông có tên gọi ca sĩ Hoài Bắc. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh ngày 14/11/1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ở Hà Nội còn quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình mang truyền thống âm nhạc, thân phụ là ông Phạm Đình Phụng..

Người vợ đầu của cha ông sinh được 2 người con trai tên Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm tức ca sĩ Hoài Trung trong ban hợp ca Thăng Long như đã nói.

Người vợ sau của cha ông tức mẹ ruột ông sinh 3 người gồm trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ của nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là ông tức nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh. Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn ông vẫn tự học là chính.

Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương tức Hoài Bắc cùng các anh chị em ruột hai dòng như Hoài Trung, Thái Hằng, Thái Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV, để từ đó mới thành tên ban hợp ca Thăng Long.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm 1947, khi mới 18 tuổi, nhưng phần nhiều nhạc phẩm của ông thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra đi khi trời vừa sáng, Hò leo núi... có không khí hùng kháng, tươi trẻ.

Năm 1954 Phạm Đình Chương cùng gia đình chuyển vào miền Nam , rồi tái lập ban hợp ca Thăng Long để hoạt động. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Thằng Cuội, Được mùa, Tiếng dân chài...

Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn : Xóm đêm, Đợi chờ, Ly rượu mừng, Đón xuân...

Sau khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối cùng, Thu ở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.

Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội &thơ Hoàng Anh Tuấn), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)...

Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam với một bản trường ca bất hủ Hội trùng dương viết về ba con sông Việt Nam : sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Sau 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại California , Hoa Kỳ. Ông mất 22/8/1991 tại California .

“Nửa hồn thương đau” còn là tâm sự riêng tư

Vào những năm 60, báo chí Sài Gòn hao tốn rất nhiều giấy mực vì phải đăng nhiều kì vụ li dị giữa ca sĩ Khánh Ngọc với nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Tòa án xét xử nhiều lần chưa xong, vì thế vụ việc càng làm họ trở nên nổi tiếng hơn. Lúc đó, ban hợp ca Thăng Long đang nổi đình đám nhất trong sinh hoạt ca vũ nhạc kịch thời bấy giờ, bởi lúc ấy nhóm Thăng Long gồm nhiều ngôi sao đương thời như Hoài Trung, vợ chồng ca sĩ Thái Hằng - Phạm Duy, ca sĩ Thái Thanh, vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương (Hoài Bắc) – Khánh Ngọc. Nếu không kể đến người chị dâu Kiều Hạnh là một nữ kịch sĩ đang được ái mộ trên các sân khấu thoại kịch.

Phải nói trong thời gian sau 1954, các ca kịch sĩ miền Bắc xuất hiện rất đông đảo trên sân khấu lẫn đài phát thanh như Vũ Huân, Vũ Huyến, Duy Trác, Anh Ngọc, Kim Tước, Châu Hà, Hà Thanh v.v… Một phần, do ca sĩ trong Nam lúc đó chưa xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, chỉ có một số ca sĩ đầy triển vọng từ phòng trà Tú Quỳnh giới thiệu như Bạch Yến, Cao Thái, sau có Minh Hiếu, Thanh Thúy, Túy Phượng, Phương Dung… nhỏ hơn thì có Quốc Thắng, Kim Chi trong ban nhi đồng của nhạc sĩ Nguyễn Đức, và quái kiệt Trần Văn Trạch vừa hát và hài.

Khánh Ngọc vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là một ca sĩ được nhiều người biết đến với tên gọi “ngọn núi lửa”, bởi cô có bộ ngực hấp dẫn và thường quyến rũ khán giả nam say đắm mỗi khi cô lên hát. Đồng thời Khánh Ngọc còn đóng mấy phim với nam tài tử Lê Quỳnh như Ánh sáng miền Nam, Chúng tôi muốn sống, Đất lành loạt phim nói về những ngày di cư từ Bắc vào Nam do Mỹ thực hiện. Trước khi đưa đơn ra tòa, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe phong phanh Khánh Ngọc ngoại tình. Nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ và bỏ ngoài tai tất cả những tin “lá cải” ấy.

Chỉ đến khi một số người bạn hẹn ông đi bắt ghen tại Nhà Bè thì sự việc mới đổ bể. Lúc đó báo chí Sài Gòn biết rất nhanh, và vụ “ăn chè Nhà Bè” được tờ nhật báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà khai thác mạnh hơn các báo khác, mọi người mới biết kẻ trong cuộc gây ra chuyện này không ai xa lạ, chính là người anh rể của ông : nhạc sĩ Phạm Duy nổi tiếng thuở ấy.

Người đau lòng nhất chính là Phạm Đình Chương chồng Khánh Ngọc, vì ông rất yêu vợ, nhưng bấy giờ cả dư luận xã hội đều rõ tường tận nên đành phải gửi đơn xin li dị (dù lúc đó Phạm Duy đã từng cầu cứu đến Bộ Thông Tin xin các báo cho ngưng loạt bài điều tra phóng sự này).

Đây là quãng thời gian đau khổ, Phạm Đình Chương không còn tâm trí biểu diễn cùng các anh chị trong ban hợp ca Thăng Long nữa mà lui về trong bóng tối, viết những tình ca buồn như để tâm sự với chính mình. Một loạt bài hát mang tâm trạng như thế ra đời: “Đêm cuối cùng”, “Người đi qua đời tôi”, “Khi cuộc tình đã chết”, “ Thu ở ban đầu”, “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”…

Sau khi li dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được quyền nuôi con, khi ấy mới khoảng 4 – 5 tuổi, ông bắt đầu đi hát trở lại. Một lần tình cờ ông gặp Khánh Ngọc trên một sân khấu đại nhạc hội, có ý muốn đưa cô vợ đã li dị về nhà vì trời đang mưa, nhưng ông bị từ chối. Bởi vậy khi lặng lẽ trở về căn nhà kỷ niệm một thời sống cùng Khánh Ngọc, nhìn qua màn mưa nhớ về những ngày hạnh phúc giờ trôi theo dòng nước.… có người nói Phạm Đình Chương định tự tử lúc bấy giờ, nhưng nghe tiếng khóc của đứa con trai hai người, ông mới từ bỏ ý định này !?

Hình ảnh của đêm khốn cùng ấy đã đi vào từng lời của bài hát “ Nửa hồn thương đau” được ông viết trong đêm rã rời đó. Nếu ai đã nghe một lần bài hát này và cũng đồng cảm với cuộc đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương sẽ hiểu được tâm hồn con người chỉ có thể chịu đựng một giới hạn nhất định.

Dẫu là một bản tình ca, nhưng khi nhắc tới nhạc sĩ Phạm Đình Chương, người ta lại nghĩ ngay đến “Nửa hồn thương đau” bởi sự bất hủ của bản tuyệt tình ca này và sự chung thủy trong tình yêu của một người đàn ông.

Người phổ thơ ra nhạc mang tính thiên tài

Nên nói về nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” do Phạm Đình Chương phổ từ thơ Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ “Lệ đá xanh”, nhưng ông đã đổi tựa và thêm ý cho phù hợp với tâm trạng của ông lúc bấy giờ.

Có người nhận xét, lối phổ thơ thành nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương mang đặc tính thiên tài, từ những vần thơ của các thi sĩ trở thành những nhạc phẩm luôn lưu lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng giới ái mộ như các bài Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Nửa hồn thương đau, Đêm màu hồng, Dạ tâm khúc (thơ Thanh Tâm Tuyền), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) v.v… cho nên nếu so sánh cung cách phổ thơ của Phạm Duy, có thể nói Phạm Đình Chương ngang bằng hoặc xuất sắc hơn, do ông lấy văn học đưa vào nhạc, còn Phạm Duy đưa thơ vào nhạc mang tính thị hiếu nhiều hơn.

Một nhà báo đã viết khi nhận xét nhạc phẩm “Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội” do Phạm Đình Chương phổ thơ Hoàng Anh Tuấn :
“Có thể nói ca khúc “Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội” phổ thơ Hoàng Anh Tuấn là một trong những nhạc phẩm thể hiện tài năng phối âm hoàn chỉnh sắc sảo, đặc biệt là những câu nhạc chuyển động ở cuối phiên khúc đưa người nghe đi vào điệp khúc bằng từng nốt nhạc được dựng nền trên từng hợp âm khi tiến khi thoái rất linh động, nhịp nhàng chẳng khác nào một tiểu khúc giao hưởng đầy âm vang của những hạt mưa gợi nhớ đất Hà thành một thời đã cùng giai nhân “chung nón dìu bước thơm phố phường”.

Có người nói sự nghiệp của nhạc sĩ Phạm Đình Chương còn trải rộng tỏa khắp trên bình diện của thể nhạc trữ tình lãng mạn, với những sáng tác phong phú đủ chủ đề nói về tuổi trẻ, tình yêu, hiện thực, hoặc chia sẻ nhịp rung cảm hân hoan cùng mọi người như các tác phẩm : Bài ca tuổi trẻ, Thu ở ban đầu, Mười thương, Mộng dưới hoa, Bài ca ngợi tình yêu, Đêm cuối cùng, Heo may tình cũ, Xóm đêm v.v…
Xuyên qua các nhạc phẩm trên, người ta lại càng nhận thức đầy đủ hơn nơi ý nhạc lời ca của Phạm Đinh Chương có một tâm hồn tươi trẻ, nồng nhiệt và cũng không kém phần thương đau, xót xa trong tan vỡ của yêu đương luyến nhớ, cũng như trong cuộc đời của người nghệ sĩ luôn để lại những khối chân tình qua từng bước chân phiêu bạt mà ông đã đi qua.

“Có lẽ sự rung động dễ thương của những con tim khi chớm nở loài hoa tình yêu mới là cảm xúc tuyệt diệu nhất được Phạm Đình Chương diễn tả bằng chính nội tâm hiện thực của ông qua ca khúc

“Mộng dưới hoa” phổ thơ Đinh Hùng :

Chưa gặp em anh vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn anh không nói năng ….

“Cuối cùng không thể nào không đề cập đến “Trường khúc Tam Giang” với những nỗi niềm diễn tả tâm tư mang lời tự thuật thật sống động, đặc sắc của 3 con sông lớn đại biểu cho mạch sống của ba Miền và được xem như là một đại tác phẩm trường tấu để đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương có tên là “Hội Trùng Dương”, với 3 tiểu khúc gồm Tiếng Sông Hồng, Tiếng Sông Hương và Tiếng Sông Cửu Long, được liên kết thật chặt chẽ bằng những tiết tấu phối hợp sự biến âm đặc biệt biểu hiện tình cảm khi nhẹ nhàng, lúc khoan thai, khi hùng tráng, lúc trầm lắng, khi ngọt ngào, lúc thiết tha, quyện lẫn trong các câu hò mang sắc thái âm điệu thổ ngữ Bắc, Trung, Nam rất duyên dáng chân thành và trong sáng tình yêu quê hương vốn được hun đúc từ ngàn đời, tựa như 3 dòng sông tuôn chảy miệt mài ra biển Đông, khi lững lờ lúc cuồn cuộn trôi mãi theo chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Sau đây là những nhạc phẩm do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ thơ, mà trang “Văn nghệ người Sài Gòn” đã nói đến :

Nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau”

thơ Thanh Tâm Tuyền


Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Em ở đâu? Anh ở đâu?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt
Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất
Và tiếng hát và nước mắt Đôi khi anh muốn tin
Đôi khi anh muốn tin
Ôi những người ôi những người
Khóc lẻ loi một mình…

Nhạc phẩm ”Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội”

thơ Hoàng Anh Tuấn


Mưa hoàng hôn
Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hoà
Thương màu áo ngà
Thương mắt kiêu sa
Hiền ngoan thiết tha
Thơ ngây đôi má nhung hường
Hà thành trước kia thường thường
Về cùng lối đường
Khi mưa buốt, lạnh mình ướt
Chung nón dìu bước
Thơm phố phường Mưa ngày nay
Như lệ khóc phần đất quê hương tù đày
Em ngoài ấy còn nhớ hẹn xưa miệt mài
Giăng mắc heo may
Sầu rơi ướt vai
Hồn quê tê tái
Mưa mùa Thu
Năm cửa ô sầu hắt hiu trong ngục tù
Tủi thân nhớ bao ngày qua
Mưa ngùi thương nhòa trên giòng sông Hồng hà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hòa
Đau lòng Tháp Rùa
Thê Húc bơ vơ
Thành đô xác xơ
Cô liêu trong nỗi u hoài
Lòng người sống lạc loài
Thê lương mềm vai gầy
Bao oan trái
Dâng tê tái
Cho kiếp người héo mòn tháng ngày
Mưa còn rơi,
Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời
Vang trời tiếng cười
ấm niềm tin hồn người
Mây trắng vui tươi
Tình quê ngút khơi
Tự do phơi phới.

Nhạc phẩm “Mộng dưới hoa”

thơ Đinh Hùng


Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng
Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ
Mây ngàn gió núi đọng trên mi
Áo bay mở khép niềm tâm sự
Hò hẹn lâu rồi - em nói đi
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối
Ôi, hoa kề vai hương ngát mái đầu
Đêm nào nghe bước mộng trôi mau
Gió ơi, gửi gió lời tâm niệm
Và nguyện muôn chiều ta có nhau

Lời 2:

Tôi cùng em mơ những chốn nào
Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt
Hoa bướm vì em nâng cánh trao
Hy vọng thơm như má chớm đào
Anh chờ em tới hẹn chiêm bao
Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng
Hòa lệ ân tình nuôi khát khao
Bước khẽ cho lòng nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta xây thành mộng nhìn thu
Núi biếc, sông dài ghi nhớ
Ôi, chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngả sơn khê
Bóng hoa ngã xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê

Nhạc phẩm “Đôi mắt người Sơn Tây”

thơ Quang Dũng


Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai.

Đôi mắt Người Sơn Tây
U uẩn chiều luân lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây,
Buồn viễn xứ khôn khuây
Em hãy cùng ta mơ
Mơ một ngày đất mẹ
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Tôi từ chinh chiến đã ra đi
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc
Non nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay.

Em vì chinh chiến thiếu quê hương
Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ, Em có bao giờ, Em thương nhớ thương.

NGUYỄN VIỆT

viethoaiphuong
#3 Posted : Monday, March 15, 2010 9:51:34 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Nhạc Sĩ Vũ Huyến
SATURDAY, 26. JULY 2008




Vũ Huyến là con của kịch sĩ Vũ Huân. Anh có giọng hát hơi khàn, nhưng gợi cảm, có một chuỗi ngân khít khao và óng ả. Anh rất sáng sân khấu, da trắng mát, mặt mũi thanh tú, vóc dáng nho phong. Anh đóng kịch cũng rất có duyên. Nhưng ngôi sao sự nghiệp trình diễn của anh chỉ tới năm 1955 là lu mờ dần. Vũ Huyến có sáng tác một bản nhạc “Cô Hàng Nước” là tác phẩm để đời mà anh lấy bút hiệu là Vũ Minh. (Vũ Minh là tên ghép hai tên Vũ Huyến & Minh Hoan lại). Vũ Huyến là chồng của Minh Hoan, sau đó anh tái hôn với Linh Sơn. Nhưng cuộc hôn nhân sau cũng không bền. Lúc đó sự nghiệp của Vũ Huyến và Linh Sơn đều xuống giốc.

Năm 1994, Vũ Huyến từ trần tại California (Hoa Kỳ) để lại dĩa nhạc “Cô Hàng Nước”. Ở dĩa nhạc nầy, anh hát các bản quen thuộc với đa số sành nhạc trong đó có bản “Cô Hàng Nước”.




viết bởi Lê Quốc Thanh

Cô Hàng Nước
Sáng tác Vũ Minh
Trình bày Trần Thái Hòa




Anh còn, còn có mỗi, mỗi cây đàn
Anh đem, đem bán nốt
Anh theo, theo cô hàng, hàng chè xanh
Tình tính tang, tang tính tình
Cô hàng rằng, cô hàng ơi
Rằng có biết, biết cho chăng?
Rằng có biết, biết cho chăng?

Lẳng lặng mà nghe tôi nói đôi lời
Tôi kể rằng:
"Đầu làng Ngủ Xá có nàng
Một nàng bán nước chè xanh
Người đâu trông mà duyên dáng
Và cô em chừng đôi tám

Miệng cô như là hoa
đóa hoa thật tươi
trông càng say đắm
Mắt cô đưa tình
khiến bao chàng trai
ngất ngây vì cô
mỗi khi qua hàng

Hò ơi! hò ơi
Ðôi mắt nhung huyền
Ơi! hỡi nàng hàng xinh xinh ơi!
Má lúm đồng tiền trông duyên ghê
Làm ta say đắm bao tháng ngày

Chiếc áo nhuộm màu nâu non a
Với dáng người nàng thon thon a
Làm ta say đắm bao ngày tháng
Vì em xinh quá xinh là xinh

Nàng ơi anh đã yêu nàng
Quyết chí cùng nàng nên duyên a
Bỏ lúc vì nàng thâu đêm
Rồi đây, rồi đây anh sẽ về
Nói với cùng mẹ cha anh a
Sẽ tới hỏi nàng cho anh a
Cùng nhau chung sống trong mộng thắm
Cùng nhau chung sống bao ngày xanh

Hò ơi!
mẹ tôi nói rằng
"Quyết chí hỏi vợ cho con a
Quyết chí tìm nàng dâu ngoan a
Nàng dâu đôi má dám nắng hồng
Quyết chí giạm vợ cho con a
Quyết chí tìm nàng dâu ngoan a
Làm sao cho xứng đôi vừa lứa
Làm sao cho xứng đôi vừa đôi"

Nàng ơi! anh đã mơ rằng
Đám cưới vợ chồng đôi ta a
Khắp xóm cùng làng ra xem a
Người ra xem đứng rồi nói rằng:
"Đám cưới thật là to ghê a
đám cưới thật là xinh đôi a"
Người ta cầu chúc chú rể mới
Cùng cô dâu sống đến bạc đầu

Rồi ngày ngày qua xa vắng quán hàng
Lúc trở về, trở về để kiếm cô nàng
Cùng nàng chắp mối tình xưa
Thì em đã rời nơi ấy
Để cho quán hàng lạnh lẽo

Ơi! hỡi ơi! nàng ôi!
Biết cho lòng anh
đã bao năm trước
anh đã yêu nàng
đến bây giờ đây
biết đâu tìm em
ơi! ời ơi nàng!


viethoaiphuong
#4 Posted : Saturday, April 24, 2010 3:16:58 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
NAM LỘC - NGƯỜI NHẠC SĨ CỦA THÁNG TƯ

http://saigontimesusa.co...c/images/namloc1081b.jpg[/img]
Nhạc Sĩ Nam Lộc

Mỗi năm cứ vào dịp kỷ niệm Tháng Tư đen, thì không thể nào người ta không hát, không nghe hoặc không nhắc đến ca khúc “Sàigòn Ơi, Vĩnh Biệt” mà nhạc sĩ Nam Lộc đã sáng tác vào những ngày cuối Thu 1975.

Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,
Sàigòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời.
Giờ còn đây, những kỷ niệm sống trong tôi,
Những nụ cười nát trên môi,
Những giọt lệ ôi sầu đắng .....!

Ôi, có mấy ai sống ở miền Nam VN mà không nhỏ những giọt lệ sầu đắng cùng anh khi nghe được nhạc phẩm này. Một ca khúc mà tác giả viết cho chính thân phận mình cùng những kẻ tha hương đồng cảnh ngộ, hay cho người ở lại đã phải chào vĩnh biệt cái tên yêu dấu của thành phố Sàigòn vào tháng Tư, 1975.

Nhưng đối với người vượt biển thì mỗi độ Tháng Tư về, họ lại nhớ đến Nam Lộc qua những lời diễn tả xót xa của thân phận thuyền nhân, cùng cái giá mà họ đã phải trả để đổi lấy hai chữ Tự Do trong bài “Xin Đời Một Nụ Cười”:

Tự Do ơi Tự Do,
Tôi trả bằng nước mắt.
Tự Do hỡi Tự Do,
Anh trao bằng máu xương.
Tự Do ơi Tự Do
Em đổi bằng thân xác.
Vì hai chữ Tự Do,
Ta mang đời lưu vong....!

Quả thật, chúng ta hãy thử hỏi xem, trong số 3 triệu người tỵ nạn VN tại hải ngoại hiện nay, có bao nhiêu người đang sống lưu vong mà không phải vì hai chữ Tự Do?


Các trẻ em tại trại tỵ nạn Malaysia

Riêng đối với những người lính thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh cùng những người tù cải tạo, và nhất là các tử sĩ QLVNCH, mà Nam Lộc gọi là “chiến hữu” thì không ai mà không nhớ đến anh qua đoản khúc cuối của nhạc phẩm “Người Di Tản Buồn”:

Cho tôi xin lại ngọn đồi,
Ở nơi tôi dừng quân cũ.
Cho tôi xin lại bờ rừng,
Nơi từng chiến đấu bên nhau.
Cho tôi xin một lần chào,
Chào bao nhiêu người đã khuất.
Xin cho tôi một mộ phần,
Bên ngàn chiến hữu cuả tôi ....!

Nam Lộc đã có lần tuyên bố, cũng chính vì những lời cam kết tâm huyết này mà anh đã bỏ hết công sức để góp phần xây dựng Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, đồng thời đứng ra tổ chức hoặc tham dự vào các buổi nhạc hội ở khắp mọi nơi để gây quỹ trợ giúp Thương Phế Binh VNCH hiện đang sống vất vưởng ở quê nhà.

[img]http://saigontimesusa.com/bai/amnhac/images/namloc1081e.jpg" alt=""/>
Các trẻ em tại trại tỵ nạn Hongkong

Tháng Tư 2008, đánh dấu 33 năm viễn xứ, người ta vẫn nhắc đến Nam Lộc. Nhiều người còn cho rằng dù 66 hay 99 năm sau, dù tình hình đất nước có thay đổi thế nào đi chăng nữa, thì cứ mỗi dịp Tháng Tư về, dòng nhạc của Nam Lộc vẫn là những viên thuốc an thần hiếm quý để xoa dịu vết thương không bao giờ lành trong khúc quanh đen tối nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Sơn Lai Khê (Cựu Trung Úy Sư Đoàn 5 Bộ Binh)
Viết tặng “chiến hữu” Nam Lộc, tháng Tư 2008

nguon:S.Times
viethoaiphuong
#5 Posted : Sunday, June 6, 2010 7:15:44 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


GÁI XUÂN

SÁNG TÁC TỪ VŨ

LỜI THƠ NGUYỄN BÍNH


Gái Xuân

Em như cô gái hãy còn Xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân

Xuân đi, Xuân đến, hãy còn Xuân
Cô gái trông Xuân đến bao lần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân

Lòng Xuân lơ đãng, má Xuân hồng
Cô gái Xuân mơ chuyện vợ chồng
Đôi tám Xuân đi trên mái tóc
Đêm Xuân cô ngủ có buồn không?

Em như cô gái hãy còn Xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân


http://www.youtube.com/watch?v=8ENQQQlY5y8


Thi sĩ NGUYỄN BÍNH

Đó là những giai điệu quen thuộc của ca khúc Gái Xuân lại vang lên: "Em như cô gái hãy còn xuân. Trong trắng thân chưa lấm bụi trần...". Ai cũng biết đó là một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính, nhưng tên người phổ nhạc thì rất ít người biết đến. Trong một chuyến công tác tại Sài Gòn chúng tôi đã gặp một vài nhạc sĩ "cổ lai hy" để tìm hiểu nhưng chính họ cũng hụt trí nhớ. Cũng chính vì thế mà chúng tôi quyết tâm đi tìm tác giả ca khúc " Gái Xuân" và cuối cùng đã xác định được tác giả ca khúc này là nhạc sĩ Từ Vũ, hiện ở số 19/14 Nguyễn Cửu Đàm (Q.Tân Bình ).

Sau đây là cuộc trao đổi nhanh với người nhạc sĩ tài hoa của ca khúc "Gái Xuân".

Nhạc Sĩ Từ Vũ có vẻ bất ngờ và miễn cưỡng khi tiếp nhà báo. Nhưng ông cũng cho chúng tôi xem một chồng bản nhạc cũ, trong đó có vài tác phẩm của ông (kể cả bản gốc bài Gái Xuân). Ông kể: "Xuân Quý Tỵ (1953), tôi đang học lớp điện tử trong khuôn viên trường Petrus Ký. Lúc ấy tôi 21 tuổi sống xa gia đình, không bạn bè giữa Sài Gòn phồn hoa, đô hội. Buồn, chỉ biết lục sách báo ra đọc. Tình cờ mớ sách gối đầu giường có tập thơ Mây Tần của nhà thơ Nguyễn Bính. Tôi đọc thấy bài Gái Xuân, một bài thơ ngắn (chỉ hai khổ thơ) nhưng lại có hấp lực dẫn dắt tâm trí tôi quay về với cố hương ở Thường Tín (Hà Đông). Hà Đông là quê lụa nên câu "Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân " như đưa tôi về trong hoài niệm... Rồi những câu "Lòng Xuân lơ đãng, ý xuân nồng. Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng. Đôi tám xuân đi trên mái tóc. Đêm xuân cô ngủ có buồn không? ". Tài tình và nét thơ Nguyễn Bính diễn tả tâm trạng cô gái mới lớn. Tôi cũng là thằng thanh niên mới 21 tuổi. Thấm nhau lắm anh ạ. Tôi đọc bài thơ dăm lần là đã ngấm, cầm bút giấy viết luôn một mạch". Chúng tôi hỏi: Với cây đàn guitar? Ông lắc đầu và nói: Ồ không, giấy bút và solfé cho đến lúc bản nhạc hoàn tất, sau đó mới dùng guitar để thẩm âm lại.


Nhạc Sĩ TỪ VŨ

- Theo tôi được biết lúc đầu ca khúc Gái xuân ra đời với điệu Tango rất quý phái nhưng sau này...có nhiều điệu?

- Đúng vậy! đầu tiên ca khúc Gái Xuân ra đời với điệu Tango, nhưng dàn dà với lối hoà âm mới ở hải ngoại rồi chuyển qua Rumba, cha cha....Và tôi thấy cũng hay , rộn ràng, trẻ trung...Thể hiện đúng tình cảm của ca khuc.

Khi chúng tôi nói: "Thưa nhạc sĩ, chúng ta trở về với bài Gái Xuân", thì ông nói ngay: : Xin đừng gọi tôi là nhạc sĩ. Cho đến bây giờ tôi cũng tự thấy mình là kẻ ngoại đạo trong lĩnh vực sáng tác và ca nhạc, nhưng tôi vẫn còn đó một niềm đam mê. Số là năm 1950 tôi theo gia đình vào Sài Gòn, một lần ghé vô tiệm nhạc trên đường Catinat tôi mua được cuốn L'art de Composition Musicale. Cuốn sách đã cho tôi những căn bản về sáng tác. Tôi viết Gái Xuân trong giai đoạn này.

- Khi viết ca khúc Gái Xuân ông có gặp khó khăn gì về ca từ không?
Viết, nhưng bài thơ quá ngắn, tôi đành mạn phép tác giả (đến nay tôi vẫn chưa từng gặp nhà thơ Nguyễn Bính lần nào),và đã thêm vô hai câu của tôi: "Xuân đi, xuân đến hãy còn xuân. Cô gái trông Xuân biết bao lần" để đủ độ dài thích hợp. Viết xong, cũng không nghĩ bài hát sẽ được phổ biến và đã đi vào trong tâm cảm người yêu nhạc. "

- Khi thêm hai câu của nhạc sĩ vào , ông có nghĩ thi sĩ Nguyễn Bính sẽ buồn không... ? Vì không còn nguyên thuỷ Gái Xuân ?

- Thực ra mà nói, khi đó trong lòng tôi trào dâng và cứ muốn viết sao cho đúng ý mình là tôi tự thêm để hoàn thành ca khúc mà thôi , không nghĩ đến điều đó.

Nhạc sĩ Từ Vũ kể tiếp: Dạo đó, tôi quen với ca sĩ Linh Sơn bèn nhờ cô ấy hát nhưng do cô ấy quá bận rộn, chúng tôi không có dịp trao đổi nên ngày ra mắt Gái Xuân, thú thật tôi vẫn chưa ưng ý lắm. Sau đó, tình cờ tôi gặp nữ ca sĩ Tâm Vấn ở Đài phát thanh Sài Gòn, Tâm Vấn trách: "Sao anh không tặng tôi bài hát của anh". Tôi đã chép tặng Tâm Vấn trên một tờ giấy. Sau đó tôi phải theo bố ra Phan Thiết nên cũng chẳng biết Tâm Vấn "xử lý" như thế nào với bài hát của tôi, chỉ thấy bạn bè viết thư ra cho biết Tâm Vấn hát ca khúc Gái Xuân rất hay và hát thường xuyên ở Đài phát thanh Sài Gòn.

Vào những thập niên năm 1953 ở Phan Thiết, trong một đêm lang thang ngoài phố, tình cờ tôi nghe qua sóng của Đài Phát thanh Huế phát ca khúc này qua tiếng hát của cô Diệu Hương. Tôi không biết Diệu Hương là ai nhưng tiếng hát ấy đã làm tôi đứng tựa cột đèn, ngây ngất, đến bây giờ cảm giác ấy vẫn còn.

S/T:Net
viethoaiphuong
#6 Posted : Saturday, December 25, 2010 9:52:48 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Tưởng niệm Tiếng Sáo Thần Nguyễn Đình Nghĩa

Nhạc sĩ Nguyễn Đình Nghĩa sinh năm 5 tháng 10 năm 1940. Thuở nhỏ học trường Lycée Yersin Dalat, và là môn đồ Thiếu Lâm, lò ông Tư Cụng, lực sĩ điền kinh Á Châu thập niên 60 về môn nhảy cao, nhảy sào và đánh võ đài. Mặc dù được học trường Tây, ông yêu nhạc Việt Nam từ nhỏ, biết đến sáo từ một nghệ nhân người Tàu. Năm 1958-1960 đã nổi tiếng và mệnh danh là Tiếng Sáo Thần. Ông chuyên sử dụng động tiêu, sáo trúc, đàn bầu, đàn tranh, đàn T'rưng.

· Đặc biệt độc tấu điệu nghệ 2 bài sáo Phụng Vũ và Thần Triều, nhạc cung đình Huế.
· Thời trẻ sáng tác ca khúc cùng vợ là nhà văn Trịnh Thị Diệu Tân: Sương Khuya, Giọt Lệ Tình, Nỗi Buồn Thiếu Phụ ....
· Bài Phụng Vũ đoạt giải âm nhạc Đại Hội Âm Nhạc của các đảo Á Châu năm 1963
· Dạy trường Quốc Gia Âm Nhạc và môn Quốc Nhạc trường Đại Học Vạn Hạnh
· Hoạt động trong Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương và phụ trách nhiều chương trình thơ nhạc của các đài phát thanh Saigon
· Đại diện phái đoàn âm nhạc Việt Nam trình diễn tại các nước Á Châu và Âu Châu
· Singapore năm 1964, International Folk Music Asian Festival
· Thailand năm 1966, được Hoàng Gia Thái với lời mời của Hoàng Hậu Sarakit, trình diễn tại Palais Royal
· 1966, trình diễn tại Kulalam (Malaysia)
· 1969 tại Paris và trình diễn vòng quanh Pháp: Toulouse, Nice, Marseille, Bordeau, Pesencon, Lille, và Sweaden (Suisse)
· 1972 tại Phillipines - National House of the President Marcos
· 1972 đại diện Việt Nam Cộng Hòa trình diễn tại Cambodia
· 1973 được Quốc Vương Lào mời trình diễn tại That Luong
· Sản xuất sáo trúc và sáo gỗ
· Sản xuất băng nhạc, băng sáo, cải lương
· Viết sách Tự Học Thổi Sáo, tái bản nhiều lần, dịch sách Tự Học Harmonica
· Đóng kịch phim: "Đời Võ Sĩ", "Đời Phóng Viên"
· Mở lớp dạy nhạc, đào tạo nhiều môn sinh
· Hợp tác với bác sĩ Đào Duy Anh thành lập ban nhạc Bách Việt
· Sau năm 1975 vì là thành phần miền Nam, Ông không được trình diễn, Ông chuyển sang nghiên cứu, lên vùng Cao nguyêntìm tòi các nhạc cụ dân tộc
· Cải tiến đàn T'rưng một cột hơi ra hai cột hơi, mở rộng từ 1 bát độ nguyên thủy thành 4 bát độ, đàn T'rưng bass, mở 3 âm vực, 3 bát độ
· Cải tiến sáo trúc từ 6 lỗ bấm ra 11 lỗ, 16 lỗ, có thể trình tấu nhạc cổ điển, note thăng giáng, đồng thời vẫn thổi được nhạc ngũ cung mà không mất âm sắc của cây sáo nguyên thủy

· Viết nhạc phim "Học Làm Tổ"
· Viết bản "Ngày Hội Lập Buôn" cho cây đàn T'rưng cải tiến

Sang Mỹ tháng 7 năm 1984, giới truyền thông đã giới thiệu Ông trên NBC News, CBS News. Ký giả Mỹ Stella Dawson của Northern Virginia Sun ví Ông như Jean-Pierre Rampal (Nghệ Sĩ Độc Tấu Sáo người Pháp) của âm nhạc Việt Nam Cùng gia đình biểu diễn và giảng dạy nhiều niên khoá học của Visual Arts Program thuộc Arlington County và Fairfax County, Virginia. Trình diễn nhiều show trên đài số 26, 33, 50, 54
Nhận 4 giải thưởng của Maryland State Council dành riêng cho Nghệ Sĩ Cá Nhân Xuất Sắc năm 1994, 1998, 2000, 2002

Lập gia đình với nhà văn Trịnh Thị Diệu Tân, có 5 người con:
- Nguyễn Diệu Đoan Trang, sử dụng sáo, đàn T'rưng, đàn Tam Thập Lục, trống
- Nguyễn Diệu Nam Phương: sử dụng đàn bầu, đàn tranh
- Nguyễn Đình Nghị: sáo, guitar, bass
- Cặp sinh đôi Nguyễn Đình Chiến: trống, guitar & Nguyễn Đình Hoà: bass, guitar, đàn T'rưng, Cello

Cùng gia đình trình diễn tại hàng trăm hý viện trên nhiều tiểu bang tại Mỹ, Canada: Wolf Trap, Kennedy Center, Carnegie Hall, New York, Liberty of Congress tại Washington DC, International Folk Festival tại Glen Echo Park ....

Về sau Ông chuyển qua sáng tác nhạc Thiền: Cầu Vồng Ngũ Sắc, Hành Vân, Lời Của Một Giòng Sông (bài thiền của vua Lý Thái Tôn), Tiếng Kệ Bên Trời, Lời Hát Kệ Nghiên cứu để làm lại đàn đá, đàn lửa đã thất truyền của người Vân Kiều.

Chuyển hướng nhạc Thiền, dự định làm CD Thiền và những bài nhạc Tiền Chiến, "Mozzart on Bamboo", "Christmas on Bamboo", Thánh Ca qua nhạc cụ Dân Tộc.

Rất tiếc Ông bị đột quỵ ngay trên sân khấu American History of Nature Museum tại New York ngày 11 tháng 5 năm 2003. Nằm bệnh viện cho đến khi ra đi ngày 22 tháng 12 năm 2005, hưởng thọ 65 tuổi.

s/t Net





Tiếng Sáo Thần Nguyễn Đình Nghĩa

Phần 1
http://www.youtube.com/watch?v=NQMHC5t9nQ4

Phần 2
http://www.youtube.com/watch?v=gpVpy3O_xiQ




viethoaiphuong
#7 Posted : Saturday, January 22, 2011 5:01:50 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

From: thi-thao Hoang <->
---
Sent: Fri, January 21, 2011 12:31:27 PM
Subject: Nhạc Sĩ ĐẶNG THẾ PHONG nguoi nhac si tai hoa bac menh


Con Thuyền Không Bến - Ngọc Lan
http://music.hatnang.com/node/9890


Đêm Thu - Xuân Sơn
http://music.hatnang.com/node/4168


Giọt Mưa Thu - Lệ Thu
http://music.hatnang.com/node/8552

Và mời đọc bài viết , về mối tình thật đẹp của Ông: Nhạc Sĩ ĐẶNG THẾ PHONG….
Hy vọng sẽ giúp Quý vị giải trí đôi phút ..
Enjoy…

Đặng Thế Phong:
Tài hoa bạc mệnh


Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)


Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.

Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sơ? Trước ba. Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiểu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nho? nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!

Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.

Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến Đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!

Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong "kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).

Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài :

Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu

Nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi ! Qua Đặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa) . Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi . Với âm nhạc, người chuyên sư? dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thê? điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ ! ...........................................

Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.

Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp : Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có duyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa ho. Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mô. Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong - Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!

Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia . Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:

- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn.


Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ơ? Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.

Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ơ? Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. Đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cấm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra dưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:

Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?...


Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau đê? sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô. Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!

Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ: Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự , một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được ! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi. Đến lúc ấy chi. Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.

Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công ! Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong:
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm, Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm ! Anh đi nhà thương khám và thuốc men, cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai!

Ông ậm ừ cho qua Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương, ông lấy cho Đặng Thế Phong.

Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây . Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình.

Trong các cuộc tình cao đẹp của văn nghệ sĩ , có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sơ. vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc, thuốc men cho đến ngày tử biệt ! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !

Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội dể tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ơ? Hòn Ngọc Viễn Đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội . Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội . Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bô? tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.

Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi . Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều . Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng. Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt , tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì dể bám víu !

Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thê? hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!

Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cô? Sầu . Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe . Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu . Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong - Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ?

Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về. Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.

Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời . Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu, Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.

Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường đê? tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.

Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ơ? Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tư. Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy . Tôi vội lấy ảnh đưa ngay . Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi . Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết . Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe . Bà cười và nói :

- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tình bạn bè nên trong ggia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi . Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ ! sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :

- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.

Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái . Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thê? trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này . Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !

Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

viethoaiphuong
#8 Posted : Sunday, February 13, 2011 7:19:39 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
KÝ GIẢ, NHẠC SĨ HUYỀN ANH TÌM LẠI ĐƯỢC NHẠC PHẨM “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ”
CỦA ANH SAU GẦN 40 NĂM BỊ THẤT LẠC


Saturday, 12 February 2011 15:45

Cali Today News - Nhạc sĩ Huyền Anh là tác giả của nhạc phẩm về chiến tranh nổi tiếng “TẤM THẺ BÀI” do nữ danh ca Thanh Thuý hát trong DVD của Trung Tâm ASIA và DVD của Thanh Thúy, hôm nay cho biết rằng anh rất hạnh phúc vì vừa tìm lại được một tác phẩm của anh là bản tình ca “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” do anh viết cho cuốn Phim Điện Ảnh cùng tựa đề đã bị thất lạc sau gần 40 năm.

Huyền Anh là một bút hiệu được nhiều người biết đến trước đây tại Sài-gòn và khắp Miền Nam Việt Nam khi anh là ký giả thường trực trong Ban Biên Tập Nhật Báo SỐNG của cố nhà văn Chu Tử. Huyền Anh chuyên viết phóng sự xã hội, tin tức chính trị và tin tức nghị trường quốc hội VNCH cho nhật báo SỐNG. Sau khi nhật báo SỐNG bị đình bản, Huyền Anh viết cho nhật báo Hòa Bình, phụ trách mục xã luận cho nhật báo DÂN của nhà văn Dương Hà; cộng tác với nhật báo Thời Thế và làm Tổng Thư Ký cho nhật báo Da Vàng cũng như làm cho một số hãng Thông Tấn Xã ngoại quốc tại Việt Nam. Huyền Anh và ký giả NGUYỄN HOÀNG ĐOAN (nay là phu quân của nữ ca sĩ Khánh Ly) là cặp bài trùng gây sóng gió và được mến mộ trong làng báo Việt Nam tại Sài-gòn trước 1975. Huyền Anh cho thành lập và cùng với Nguyễn Hoàng Đoan điều hành Hãng Thông Tấn VIỆT ẢNH XÃ (VAX) cung cấp tin tức cho báo chí và các tổ chức từ chính quyền đến các doanh nhân và công ty tư nhân tại Sài-gòn.



Một cảnh chụp trước khi khởi quay phim:
Từ trái qua phải: Cameraman Ngọc Tùng; Huyền Anh tác giả truyện phim và nhạc phim;
danh hề Thanh Việt; nữ ca sĩ kiên tài tử Băng Châu; Đạo Diễn Lê Mộng Hoàng;
Giám Đốc Đại Á Films Trần Minh Lực; Tài tử kiêm ca sĩ Nguyễn Chánh Tín.
(Hình tài liệu của MC Trần Quốc Bảo)

Bên cạnh nghề cầm bút, ký giả Huyền Anh còn là một Nhạc sĩ, viết văn, sáng tác Thơ và hoạt động trong ngành Điện Aûnh tại Sài-gòn trước năm 1975. Huyền Anh là tài tử điện ảnh trong các Phim “Điệu Ru Nước Mắt” và “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang” qua vai du đảng “Tâm Áo Đen” trồng cây si với nữ Tài tử Thanh Nga nên đã cột Tài tử Trần Quang vào xe Honda rồi kéo lê trên đường lộ để dằn mặt vì ghen. Các phim nhựa 35 ly nầy do Liên Ảnh Công Ty sản xuất và do Lê Hoàng Hoa làm đạo diễn. Thời gian nầy, Huyền Anh cho xuất bản hai nhạc phẩm “Đam Mê Ơi” và “Dấu Buồn Trên Cát” do Minh Phát tổng phát hành khắp Miền Nam.

Năm 1970, Huyền Anh viết truyện Phim, nhạc Phim và hợp tác với Đạo Diễn BÙI SƠN DUÂN, Giám Đốc hãng Việt Aûnh Films để sản xuất phim truyện chiến tranh Việt Nam đầu tiên mang tựa đề “TẤM THẺ BÀI”. Cuốn Phim đã bị Bộ Thông Tin và Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị VNCH cấm chiếu vì nói lên sự tàn bạo của chiến tranh sợ sẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ; nhưng bản nhạc chính của phim cùng mang tựa đề “TẤM THẺ BÀI” đã được phép phát hành vào mùa Hè năm 1970 với tiếng hát của nữ danh ca Thanh Thúy. Đây là bản nhạc chính của cuốn phim, đã do nhạc sĩ Ngọc Chánh soạn hòa âm và dàn nhạc Shotguns đệm nhạc. Bản nhạc Tấm Thẻ Bài đã gây xúc động nhiều triệu người nghe và đã được phổ biến rộng rãi cho đến ngày nay. Sau ngày 30-4-1975, làn sóng người Việt tỵ nạn Cộng Sản định cư ngày càng nhiều tại Hoa Kỳ và các quốc gia hải ngoại. Nhạc phẩm Tấm Thẻ Bài của Huyền Anh được nhạc sĩ Trúc Hồ của Trung Tân ASIA soạn lại hòa âm và nữ danh ca Thanh Thúy hát vào DVD của ASIA mang chủ đề

“Những Bài ca Thời Chinh Chiến”
(Link: http://www.youtube.com/watch?v=UDuscC0xDec&NR=1 ).

Mùa Hè 2009, Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người TPB/VNCH kỳ 3 được tổ chức tại San Jose với hơn 10,000 khán giả tham dự, nữ danh ca Thanh Thúy từ Sacramento đến đã chỉ hát một bài duy nhất đó là bản Tấm Thẻ Bài của Huyền Anh và gây xúc động cho mọi khán thính giả hiện diện cũng như khán giả khắp Hoa Kỳ và Canada khi xem SBTN trực tiếp truyền hình (Link: http://www.youtube.com/watch?v=KvICWw2-3Uc ).

Sau khi Phim “TẤM THẺ BÀI” bị cấm trình chiếu vào mùa Hè năm 1970, ký giả kiêm nhạc sĩ Huyền Anh đã viết cuốn tiểu thuyết “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” và hợp tác với Hãng Đại Á Films để thực hiện thành phim truyện thương mại 35 ly và trình chiếu thành công rực rỡ tại Sài-gòn và khắp tỉnh Miền Nam Việt Nam vào mùa Hè năm 1971.

“Vĩnh Biệt Tình Hè” là xuất phẩm điện ảnh đầu tiên của hãng Đại Á Films và đã giới thiệu lần đầu Tài Tử kiêm nam ca sĩ NGUYỄN CHÁNH TÍN.

Truyện phim kể về một cậu sinh viên nghèo (Nguyễn Chánh Tín), sau giờ học đã làm nghể chở vịt đi giao mối cho các nhà hàng để giúp mẹ già (nữ nghệ sĩ Bảy Ngọc là mẹ của nghệ sĩ Kim Cương). Khi đến giao vịt cho một nhà hàng nằm trên mõn núi đá nhìn ra biển cả, chàng sinh viên nghèo chợt quen được một tiểu thư con nhà giàu đang tổ chức tiệc sinh nhật (do nữ tài từ kiêm ca sĩ BĂNG CHÂU diễn xuất). Băng Châu bị cha là nghệ sĩ Năm Châu và mẹ là nữ nghệ sĩ Túy Hoa hứa hôn cho nam tài tử LA THOẠI TÂN. Tiểu thư Băng Châu không yêu La Thoại Tân mà trao trọn trái tim cho chàng sinh viên nghèo Nguyễn Chánh Tín. Họ hẹn nhau trên bãi biển và đoạn kết là cậu sinh viên nnghèo đã bị chàng công tử nhà giàu giết chết và ném xác xuống gành đá.

Cảnh phim quay ở Vũng Tàu và các xuất chiếu đầy nghẹt khán giả tuổi Teen Sàigòn cũng như khắp các tỉnh Miền Nam vào mùa Hè năm 1971.

Đạo diển là LÊ MỘNG HOÀNG tốt nghiệp Đạo Diễn từ Paris. Cameraman chính là Họa sĩ Nguyễn Ngọc Tùng. Phụ trách ánh sáng và Cameraman phụ là Lê Văn Ấn. Cố vấn võ thuật là võ sư Lý Huỳnh. Hóa trang điện ảnh do cô Tường Vy. Âm thanh và Edit Phim là Kỹ sư Trí. Viết truyện phim, Phân Cảnh Kỹ Thuật, Đối Thoại và nhạc Phim do Huyền Anh. Nhạc sĩ Ngọc Chánh hòa âm và ban nhạc Shotguns. Các diễn viên chính gồm:

NGUYỄN CHÁNH TÍN, nữ Ca sĩ BĂNG CHÂU, nam Tài Tử kiêm Kịch sĩ LA THOẠI TÂN, nữ tài tử HOÀI MY (ái nữ của Cameraman kiêm Họa sĩ NGỌC TÙNG); hai danh hài là KHẢ NĂNG và THANH VIỆT; các diễn viên lão thành gồm bà BẢY NGỌC, bà KIM CÚC, bà TÚY HOA; ông NĂM CHÂU, DUY PHÚC. Nhạc sĩ Huyền Anh còn là Phụ Tá Đạo Diễn cho phim nầy.

Sau ngày 30-4-1975 khi Cộng Sản chiếm Sài-gòn, cuốn phim tình cảm lãng mạn và ăn khách nhất bấy giờ là “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” đã bị Nhà Nước CSVN tịch thu và đưa vào kho tang vật “Tội Ác Mỹ Ngụy”. Ký giả, Nhạc sĩ Huyền Anh bị bắt đưa đi tù biệt giam ở Chí Hòa, sau đó đưa đi các trại cải tạo tập trung từ năm 1975 đến 1982 mới được thả. Mọi sách báo, tác phẩm của Huyền Anh đều bị tịch thu và Nhạc phẩm “Vĩnh Biệt Tình Hè” gồm dĩa Audio và bản nhạc in đã bị tịch thu trong chiến dịch càn quét các văn nghệ sĩ Miền Nam.

Sau khi ra khỏi tù cải tạo tập trung của Cộng Sản, Nhạc sĩ Huyền Anh đã sưu tập lại các nhạc phẩm của anh, nhưng tuyệt nhiên bản “Vĩnh Biệt Tình Hè” do anh sáng tác từ năm 1970 và phổ biến trong phim từ năm 1971 đến nay đã 40 năm thì hoàn toàn không thể tìm lại được. Nhưng chợt nhiên trong ngày hôm qua, Thứ năm 10-2-2011, nhiều bạn bè từ các nơi gọi điện thoại cho biết họ rất xúc động khi nghe nhạc phẩm “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” của Huyền Anh trên Youtube và trên Facebook. Nhạc sĩ Huyền Anh nói rằng anh rất hạnh phúc khi được nghe lại những nốt nhạc và lời ca của Nhạc phẩm “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” do anh sáng tác cách nay 40 năm đã bị mất dấu vết kể từ khi Cộng Sản đến tịch thu sau ngày 30-4-1975.

Được biết người thực hiện Video nầy là MC TRẦN QUỐC BẢO, đã tìm ghép một số hình ảnh trong phim Vĩnh Biệt Tình Hè và một số tranh vẽ của nhà báo Hạnh Dương để làm nền cho Video Clip “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” được Post lên Youtube tại Link: http://www.youtube.com/watch?v=cyyqlHN6Bzg.

Một điều ít ai ngờ, đó là Nhạc sĩ HUYỀN ANH, tác giả các nhạc phẩm “Tấm Thẻ Bài” do Thanh Thúy hát trong DVD ASIA, “Vĩnh Biệt Tình Hè” do Tài Tử Nguyễn Chánh Tín hát; hay nhạc phẩm “ĐAM MÊ” do Tuấn Vũ, Thiên Trang hát trong CD của ASIA, hoặc do Mạnh Quỳnh và Phi Nhung hát trong DVD Tình Music số 15.. chính là Nhà báo HẠNH DƯƠNG, Giám Đốc Điều Hành Nhật Báo Việt Báo tại Bắc California, chủ trương hãng Thông Tấn VietPress USA, hiện là cư dân tại San Jose.

Đọc giả và các bạn có thể ghi lại lời ca của bản “VĨNH BIỆT TÌNH HÈ” tại trang Facebook của Hạnh Dương.

viethoaiphuong
#9 Posted : Wednesday, February 16, 2011 2:40:23 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)



Theo thông tin từ Wikipedia, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang sinh năm 1944, ở Sơn Tây bắc Việt. Năm 1954 khi Việt Nam bị chia đôi thì ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư ở Đà Lạt. Ông nhập học và tốt nghiệp trường Đại học Đà Lạt phân khoa chính trị kinh doanh.
Bắt đầu từ thập niên 1960 ông được biết đến qua nhiều nhạc phẩm với chủ đề thanh niên, tranh đấu, và cộng đồng. Ông là một trong những người lập ra phong trào Du ca tại Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể những bài Chiều qua Tuy hòa, Việt Nam Quê hương ngạo nghễ, Về với Mẹ Cha, Bên kia sông, Xin chọn nơi này làm Quê hương.
Năm 1979 ông vượt biên sang Hoa Kỳ tỵ nạn và định cư ở Little Saigon, California. Ông hợp tác với các nhật báo Người Việt, Viễn Đông rồi sau đó đứng ra lập Tuần báo Chí Linh và Nguyệt san Phụ nữ Diễn đàn.




Nhạc Sỹ Nguyễn Đức Quang đang trong tình trạng nguy kịch
Thông Báo
Web Du Ca Việt Nam trân trọng thông báo cùng qúi anh chị em du ca viên và qúi bạn yêu văn nghệ bốn phương :
Nhạc Sỹ Du Ca Nguyễn Đức Quang vừa trải qua một cơn xuất huyết mạch máu não vào ngày thứ Sáu 11- Feb -2011 , trong lúc ông thật bận rộn và dành hết thời giờ để sắp đặt cho ngày sinh hoạt văn nghệ tại San Jose sắp tới . Cho đến hôm nay ( Thứ Hai 14-Feb-2011) ông vẫn còn đang trong tình trạng hôn mê và đang còn nằm tại phòng cấp cứu trong bệnh viện thuộc quận Cam , tiểu bang Cali , Hoa Kỳ .
Chúng tôi sẽ đăng tải thêm tin tức nếu có được , và xin qúi anh chị em Du ca viên, bằng hữu và các bạn yêu mến văn nghệ, cùng góp một lời cầu nguyện cho sức khoẻ nhạc sỹ Nguyễn Đức Quang mau chóng bình phục .

Trân trọng
Fa Thăng
web Du Ca Việt Nam




Khi Bài Hát Trở Về


Tran Trung Dao
June 7, 2010

Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.






Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.


Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời” đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.

Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng Đạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tị nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng Đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh.

Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”

Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông tổng ủy trưởng Dân Vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước.

Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngã, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngã của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.
Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.

Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.

Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà Đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.
Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm.

Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa hè đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.

Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt. Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng.
Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.
Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo “Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước?” (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, “Dậy mà đi”, “Nối vòng tay lớn” của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.


Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.


Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.


Trần Trung Đạo




"Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ"

http://www.youtube.com/watch?v=7ldlbdhuXKA


viethoaiphuong
#10 Posted : Saturday, February 19, 2011 6:59:44 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Viết cho Du Ca

Nguyễn Đức Quang


Giao Chỉ, San Jose.




Lời nói đầu :

Cuối tháng này có tin nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang lên hát ở San Jose
Lại có tin anh chàng du ca số một đang nằm nhà thương. Tôi thích nhạc du ca và cách trình diễn của anh, xin viết bài này thay lời cầu nguyện.


Nhớ lại chuyện xưa 1984.

Vào cuối tháng 8-1984, cơn nóng của mùa hè muộn 84 đã thiêu đốt cả miền duyên hải Cali. Trời nóng trên 100 độ F. Thiên hạ đổ xô ra đường vào mỗi cuối tuần để tìm về biển xanh hay núi đỏ. Giao Chỉ tôi thuận bước lãng du, đã có dịp đi ngược chiều con sông Sacramento danh tiếng. Từ miền Santa Clara đi theo con đường số 5 lên phía Bắc cách xa gần 300 dặm tới miền Redding, nơi có 3 con sông gặp nhau giữa núi rừng bao la. Đó là giòng sông Sacramento và hai đứa con song sinh hữu ngạn của nó là sông McCloud và sông Pit.

Ngày xưa khi người di dân Hoa Kỳ mới đến Cali đã đứng bên bờ nước nhìn xuống cái đại hội sông hồ vĩ đại mà nghĩ cách chế ngự thiên nhiên. Họ muốn tìm cách ngăn chặn khối nước khổng lồ từ các thác nguồn ào ào đổ xuống cùng với những trận mưa rừng ngay tại vùng phát nguyên của ba giòng sông kết hợp.



Một dự án chính thức được liên bang chấp thuận năm 1935 nhưng phải mất 20 năm mới hoàn thành. Đập nước vĩ đại cao 600 bộ, dài 3,500 bộ với 6 triệu thước khối bê tông ngăn ngang hạ lưu con sông Sacramento để giữ lại một khối nước bao la tràn ngập 7,000 dặm vuông, làm thành một hồ nước nhân tạo lớn nhất thế giới. Cái đập nước và hồ nước đó mang tên SHASTA. Đây là một công trình thủy điện đã cung cấp tiện ích cho phần lớn tiểu bang California.

Nếu du khách chưa từng đến miền Shasta, bạn hãy tưởng tượng đến một nơi mà núi rừng xanh um cây cỏ, rồi có một ngày nước dưới vực sâu từ từ dâng lên. Nước lên cao tràn ngập núi rừng và tùy theo thế đất uốn khúc quanh co để lau sậy chen nhau san sát bên bờ nước.

Xuống con thuyền, chèo đi giữa cõi mênh mông u tịch, người du khách Việt Nam mất nước đang đi tìm về nguồn nước. Tưởng như lạc đến miền đất ngàn năm cũ, theo tích xưa Sơn Tinh, Thủy Tinh đánh nhau mới vừa hưu chiến. Nước vẫn còn ngập lưng đèo, và núi non còn muốn vươn mình đứng dậy. Con thuyền nhỏ đi giữa hoàng hôn vắng lặng. Tiếng sóng vỗ nhẹ, làm cặp chim bồ nông nặng nề chuyển động.

Chợt chúng tôi thấy có tiếng ca vang mà ruột gan cồn cào nao nức. Thoạt nghe như thoảng thấy âm điệu Á Châu, càng lại gần càng rõ tiếng Việt. Có lẽ đoàn hướng đạo đồng hương họp trại quanh đây !.Lời ca Việt Nam nghe lanh lảnh giữa trời mây nước Shasta, thật hết sức xúc động. Đổ bộ lên hỏi thăm mới biết có một nhóm anh chị Du Ca cắm trại.

Bài ca “Việt Nam quê hương ngạo nghễ “ với lới ca bất hủ một thời vang vang trên hồ Shasta ở miền cực bắc California đã làm tôi xao xuyến bồi hồi. Chúng tôi ngồi xuống bên anh chị em và được nghe lại biết bao nhiêu tiếng hát yêu dấu một thời.

Với cây đàn giây và một cây kèn thổi miệng, anh chị em Du Ca trẻ của các trường đại học Cali đã đi từ “Đường Việt Nam” qua “Hy vọng đã vươn lên” và sau cùng là màn song ca bài “Bên kia sông.”

Phong trào nhạc Du Ca được biết có nhiều nhạc sĩ tham dự kể cả Phạm Duy, Trần Quang Lộc, Trầm tử Thiêng v.v... Nhưng buổi trưa hôm đó, các bạn toàn chơi nhạc Nguyễn Đức Quang. Kỷ niệm từ tháng 8-1984 đến nay gần 30 năm, nhưng không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi. Các bạn cho tôi một tập bài ca của Nguyễn Đức Quang. Theo thứ tự ABC. Không có mẫu tự nào là không có nhạc của chàng. (A).Anh em tôi… (B) Bên kia sông… (C) Cần Nhau… (D) Dưới ánh mặt trời… (Đ) Đường Việt Nam… (G) Gươm thiêng… (H) Hy vọng đã vươn lên. (K) Không phải lúc đặt vấn đề,.. cứ như thế mà đi cho đến. (V) Việt Nam quê hương ngạo nghễ.



Du ca tại Việt Nam.

Dù tai đã nghe quen nhạc du ca, nhưng thực sự cá nhân tôi không biết nhiều về tổ chức của anh em. Đọc thêm tài liệu mới biết nhóm Du Ca ngày xưa từ thập niên 60 đã trở thành một phong trào thanh niên. Những người tuổi trẻ lên đường tìm sinh lộ cho dân tôc và lấy tiếng ca làm ngôn ngữ cho cộng đồng. Trong số rất nhiều anh em, Nguyễn Đức Quang là một người vừa soạn nhạc, vừa trình diễn và vừa lãnh đạo phong trào. Bài ca của các anh đem lại hồn dân tộc, bài ca làm cho cả nước trở thành anh hùng. Chợt bừng tỉnh, thấy mình như Thánh Gióng vươn mình đứng dậy, cưỡi con ngựa sắt mà bay lên tận trời xanh.

Du ca trở thành con đường lý tưởng của thanh niên. Tuổi 20 đi trên “Đường Việt Nam. Đi dựng lấy huy hoàng, giống da vàng này là vua đấu tranh.”

Ai cũng có thể vào một buổi sáng thức giấc nghêu ngao : “Đường Việt Nam ôi vô cùng vô tận, Đường ngang tàng ngoài biển Nam, giữa Trường Sơn”.

Nguyễn Đức Quang là người viết nhạc hùng với những lời ca lý luận hết sức thực tế. Đó là bài “Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề.” Hãy đứng dậy đón chào bình minh với “Hy vọng đã vươn lên. Trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong mồ sâu quá ưu sầu.”

Và Nguyễn Đức Quang cũng viết bài tình ca. Bài hát thiết tha, dịu dàng là một bài thơ phổ nhạc. Thi sĩ là ông Nguyễn Ngọc Thạch. Nhà thơ đã viết bài Bên kia sông độc đáo. “Núi mừng vì mây đến rồi.”

Chàng nói với em rằng “Nói cho vừa mình anh nghe thôi.” Rồi những lời thơ ẩn dụ yêu thương : “Lòng đòi tình vật vã khôn nguôi.” Nhạc sĩ đã dùng lời thơ êm ái đưa vào một điệu nhạc với điều thú vị nhất là hết sức dễ hát.

Du Ca tại San Jose.

Đó là chuyện Du Ca ngày xưa mà nay tôi mới tìm hiểu để trình bày lại. Nhưng điều ngạc nhiên là khi Nguyễn Đức Quang về trình diễn tại San Jose, chúng ta đã có dịp nghe nhóm anh em Du Ca một thời cùng lên sân khấu. Các anh Trương Xuân Mẫn, Trần Anh Kiệt không ngờ cũng đã Du Ca một thời nay vẫn còn phong độ. Các bạn đã cùng trình diễn hết sức sống động những bài ca của thời binh lửa mà ngày nay vẫn còn nguyên nét hào hùng.

Nhưng thực sự phải xem Nguyễn Đức Quang hát mới thấy rõ sự quyến rũ của Du Ca.

Tham dự văn nghệ ta thường nói là đi nghe hát, nhưng với Nguyễn Đức Quang thì phải là đi xem hát. Dân Sinh Media có thu được rất nhiều lần Nguyễn Đức Quang trình diễn, nhưng đã chọn lọc được một lần xuất thần hơn tất cả nhưng lần khác. Các bài “Đường Việt Nam”, “Việt Nam quê hương ngạo nghễ “trình diễn trên sân khấu nhỏ đã được thu hình trong giây phút nghệ sĩ để hồn vào lời ca, tiếng hát, bằng tay chân, bằng dáng điệu và bằng cả tấm lòng. Quí vị có thể tìm thấy và cảm thông với giây phút huyền diệu trong đĩa DVD số 2 của bộ phim San Jose 35 năm nhìn laị qua 3 kỳ biến động.

Phiếm về du ca Nguyễn đức Quang

Tôi không phải là nhà phê bình âm nhạc, nhưng gọi là phiếm luận thì ai cũng có thể. Xin phiếm như sau. Trịnh Công Sơn kêu gọi ngồi xuống thì Nguyễn Đức Quang thôi thúc đứng lên. Cùng trong cuộc chiến, Trịnh Công Sơn than thở thì Nguyễn Đức Quang chấp nhận. Trịnh Công Sơn nhìn thế giới trong hoàng hôn thì ánh bình minh rọi sáng với Nguyễn Đức Quang. So sánh cả với du ca Phạm Duy sống trong thế giới mùa Thu thì du ca Nguyễn Đức Quang vĩnh viễn là mùa hè. Nếu Phạm Duy tuyệt vọng trong cuộc chiến bi thảm thì Nguyễn đức Quang luôn luôn thấy hy vọng đã vươn lên. Nếu Phạm Duy và Trịnh Công Sơn soạn nhạc cho cuộc đời ca hát thì Nguyễn Đức Quang soạn nhạc để chính mình cùng ca hát với cuộc đời.

Mùa xuân năm nay, Nguyễn Đức Quang dự trù lên San Jose để làm sống lại du ca thêm một lần nữa. Lần nào cũng có thể là lần cuối. Nhưng lại có tin 911 đưa anh vào bệnh viện. Bài viết này sẽ trở thành lời cầu nguyện.

Những nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn, họ chia nhau làm cho cuộc sống thăng hoa. Lấy văn hóa tô điểm cho cuộc đời. Nguyễn đức Quang là một trong số các nghệ sĩ hiếm hoi vừa soạn nhạc vừa trình diễn. Vì vậy mỗi lần đi xem du ca Nguyễn đức Quang, chúng ta lại mắc nợ anh khá nhiều. Anh là nhạc sĩ, là ca sĩ và anh lại còn là diễn viên.

Biết bao giờ khán giả chúng ta mới trả hết nợ nần.

Giao Chỉ, San Jose.


Mời cả nhà nghe lại những bài ca một thuở yêu thương

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ ,Hợp Ca:

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=i9cCDCvo6J

Bên Kia Sông (thơ Nguyễn Ngọc Thạch, Trần Đại Lộc) Thái Hiền hát

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=JBGgoI44fH

Vì Tôi Là Linh Mục (thơ Nguyễn Tất Nhiên) Don Hồ hát:

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=jDMZTuesdh

Như Mây Trên Cao , Elvis Phương hát:

http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=9W7eqaZhhL

Tình Tôi, Con Dốc Nhỏ, Nguyễn Đức Quang đàn và hát:

http://dl.dropbox.com/u/...iConDocNho-NgDQuang.mp3
Phượng Các
#11 Posted : Tuesday, December 25, 2012 7:58:45 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Quote:


Duy Quang: giọng hát tình ca sinh viên

Nhà báo tự do Bùi Văn Phú

Gửi cho BBC từ California

Nhạc sinh viên những năm đầu thập niên 1970 có những phong trào, từ đấu tranh xuống đường với “Hát cho đồng bào tôi” của Tôn Thất Lập, vẽ lên “thân phận quê hương” với Trịnh Công Sơn – Khánh Lý cho đến nhạc tình sinh viên với những lời thơ phổ nhạc hay ca từ của Phạm Duy.

http://www.bbc.co.uk/vie...anphu_on_duyquang.shtml

Theo tôi biết thì Tôn Thất Lập có bài Hát Cho Dân Tôi Nghe rất nổi tiếng, còn bài Cho Đồng Bào Tôi là của Nguyễn Đức Quang\.
Users browsing this topic
Guest (5)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.