Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Vai trò của ni giới cần được nâng cao
PC
#1 Posted : Saturday, December 26, 2009 4:00:00 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,669
Points: 28
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Hồi tưởng về những lần hội thảo SakyaDhita
26/12/2009 13:31 Thích Nữ Liên Hòa (dịch)

Ni sư Karma Lekshe Tsomo là Phó giáo sư của phân khoa Tôn Giáo Học và Thần Học tại Trường Đại học San Diego. Tại đây Ni sư còn chịu trách nhiệm giảng dạy bộ môn Phật giáo và các Tôn giáo trên thế giới. Ni sư đã nghiên cứu Phật pháp suốt 15 năm tại Dharamsala và hoàn thành chương trình Tiến sĩ Triết học tại Trường Đại Học Hawai với luận án nghiên cứu về sự chết và quan niệm về tái sanh giữa văn hoá Trung Quốc và Tây Tạng. Ni sư chuyên nghiên cứu về các hệ thống triết học Phật giáo, các đề tài so sánh trong tôn giáo, các vấn đề giới tính trong Phật giáo,

Phật giáo và Sinh đạo đức học. Công việc của Ni sư gồm cả nghiên cứu, ấn bản nhiều tác phẩm về các lãnh vực - phụ nữ và Phật giáo, sự chết và quan niệm tái sanh, đời sống trong tự viện Phật giáo, đối thoại liên tôn Thiên Chúa và Phật giáo, và sự thích nghi của Phật giáo tại các nước Tây phương. Là một Ni sư người Mỹ tu học theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Giáo sư Tsomo đã đóng góp và giữ vai trò Chủ tịch Hội Phụ Nữ Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita. Ni sư đã hợp tác và giúp nhiều cuộc hội thảo trong nước cũng như quốc tế về vấn đề nữ giới Phật giáo. Ni sư còn là Giám đốc của Tổ chức Jamyang, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để hướng dẫn cho phụ nữ ở các nước đang phát triển, cùng với 12 trường phái Ni giới ở Himalaya - Ấn Độ và ba trường phái ở Bangladesh.

Xin cho biết sự khởi đầu của Hội Sakyadhita? Thành viên sáng lập gồm những ai?

Năm 1986, tôi cùng một nhóm bạn nhận thấy rằng phụ nữ Phật giáo thật sự rất cần ngồi lại với nhau để thảo luận về việc thiếu sự ủng hộ dành cho phụ nữ Phật giáo. Một số nữ Phật tử người Tây phương khi đó quyết định tổ chức hội thảo quốc tế đầu tiên về phụ nữ Phật giáo ở Bodhgaya. Hoàn cảnh bấy giờ rất thú vị. Một buổi tối tôi đang ngồi trong ngôi lều dựng bằng đất ở trong rừng Dharamsala thì nghe có tiếng người kêu cứu. Tôi bước ra để xem người đó là ai. Hóa ra đó là một phụ nữ người Mỹ, một nhà làm phim, bị lạc trong rừng. Tôi đứa cô ta về khách sạn nơi cô ở. Hôm sau, tôi gặp lại cô ta trong làng, và cô cho biết cô đến Dharamsala để làm một cuốn phim về Phật giáo. Tên cô là EldaHartley, một đạo diễn và nhà sản xuất phim của Hãng Hartley Film Foundation.

Khi nói chuyện, tôi đề cập đến hội nghị mà chúng tôi đang dự định tổ chức. Cô hỏi chúng tôi đã có bao nhiêu tiền cho hội nghị. Khi tôi nói chúng tôi chưa có gì hết, cô ta bảo: “Vậy thì tôi sẽ cho mượn 5.000 USD.” Tôi hỏi: “Nhưng nếu hội nghị không thành công và chúng tôi không có khả năng hoàn trả thì sao?” Cô ta trả lời: “Trong trường hợp đó, cứ coi như là tôi cúng dường.” Nhân tiện xin nói thêm, lúc đó cô ta hoàn toàn chưa biết gì về tôi!



Tại lễ khai mạc có khoảng 1500 người tham dự bởi vì Đức Dalai Lama đọc bài diễn văn chính. Suốt cả tuần, mỗi ngày chúng tôi ngồi vòng tròn trên đất dưới lều để bàn bạc những vấn đề về phụ nữ. Đây là một cuộc hội ngộ kỳ diệu của chư Ni và phụ nữ đến từ nhiều nước và nhiều truyền thống trên thế giới. Chủ đề chính của hội thảo là Ni giới Phật giáo và tầm quan trọng của giáo dục đối với phụ nữ. Kết thúc hội thảo, toàn bộ chi phí chỉ trong phạm vi ngân khoản và chúng tôi đã hoàn trả 5000 USD cho Elda Hartley.

Trong hội thảo lần đầu tiên, chúng tôi quyết định thành lập tổ chức phụ nữ Phật giáo quốc tế. Chúng tôi đã chọn tên gọi là Sakyadhita “Những Người Con Gái của Đức Phật.” Sự kiện này xảy ra vào tháng 2 năm 1987.

Một số thành viên tham dự hội thảo đầu tiên đó là: Ayya Khema, một thiền sư người Đức nổi tiếng, Ni sư Karuna Dharma, hiện nay là vị Tỳ-kheo-ni người Mỹ thâm niên nhất, Sư cô Kusuma, vị Ni đầu tiên được thọ giới Tỳ-kheo-ni tại Tích Lan sau hơn 1000 năm và Ranjani De Silva, người sáng lập hội Sakyadhita của Tích lan. Sau hội thảo lần đầu tiên này, Ni sư Karuna trở lại Los Angeles và xin gia nhập hội Sakyadhita, một tổ chức vô vụ lợi.

Kết quả của các cuộc hội thảo Sakyadhita như thế nào?

Kết quả quan trọng nhất đó là sự phát triển không ngừng trong ý thức cố gắng vươn lên của Ni giới và tiềm năng đóng góp cho cộng đồng thật tuyệt vời của họ. Trong các cuộc hội thảo, nữ cư sĩ và chư ni luôn được khuyến khích nâng cao khả năng học hỏi, tu tập và giảng dạy Phật pháp. Sau mỗi lần hội thảo, họ được khơi dậy khá nhiều dự án: trường học, các trung tâm tu học, các hội hỗ trợ phụ nữ, nghiên cứu, dịch thuật, xuất bản, v.v…

Tuy vậy, tôi cho rằng chúng ta có thể làm được nhiều hơn thế. Chúng ta cần ngồi lại để nghiên cứu các tài liệu về những thành tựu của Ni giới Việt Nam cũng như ở các nước khác. Thường thì họ đứng phía sau trong các hoạt động tôn giáo. Ở các tự viện, phụ nữ lo việc ẩm thực, sắp xếp, quét dọn, họ không có mặt trong hình ảnh và tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta hãy quan tâm họ.

Phải chăng những người phụ nữ này nghĩ không cần thiết hiện diện trên tranh ảnh – quý vị có biết bản tính hy sinh của phụ nữ?

Dĩ nhiên, đức tính khiêm tốn là một nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo – hy sinh những sở thích riêng của mình cho lợi ích của mọi người, làm việc vì lợi ích của người khác không mong đợi sự đền đáp, đó là hạnh Bồ-tát. Đồng thời điều quan trọng là những đóng góp của Ni giới Phật giáo cẩn phải được công nhận. Thường thì những gì người nữ làm đều bị lãng quên. Trong nhiều xã hội, công việc của nữ giới nặng nề hơn nam giới. Theo thống kê của Tổ chức Liên Hiệp Quốc cho thấy rằng phụ nữ trên thế giới làm hết 60 % công việc nhưng họ chỉ sở hữu 20 % nguồn thu nhập bao gồm cả 1% đất đai.

Theo quan sát và kinh nghiệm của cá nhân tôi, phụ nữ thường do dự đảm trách vai trò lãnh đạo. Một phần do bởi những trách nhiệm tiên quyết của họ trong đời sống, ví dụ, họ phải lo cho con cái trước. Trong một số trường hợp khác thì do vì phụ nữ thiếu sự tự tin về khả năng của mình. Không phải lúc nào họ cũng thiếu cơ hội để trở thành bậc lãnh đạo.

Thật tuyệt vời, người phụ nữ đã hy sinh cho gia đình con cái. Nhưng nhiều người cũng có năng lực trong vai trò lãnh đạo và họ cần sự khuyến khích để làm việc đó. Nhiều phụ nữ dường như bằng lòng trong vai trò phụ giúp, hỗ trợ nhưng các hội thảo của Sakyadhita đã giúp cho nhiều nữ cư sĩ nhận chân ra được họ có khả năng rất tốt để làm nhiều công việc hơn nữa. Một khi người nữ có sự tự tin và kinh nghiệm, họ có thể trở thành những vị lãnh đạo giỏi trong các tổ chức Phật giáo để giúp khắc phục nhanh chóng những vấn đề khó khăn của xã hội. Dần dần họ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc thăng bằng các công tác Phật sự và gia đình.

Một số người cho rằng việc đặt để các giá trị của phụ nữ phương Tây cho nữ cư sĩ ở các nước khác là điều không thích hợp. Ví dụ, một số cư sĩ nữ ở Thái Lan dường như bằng lòng khi giữ những vai trò thứ yếu và không thấy nhu cầu để làm hồi sinh việc thọ giới Tỳ-kheo-ni. Ni sư có suy nghĩ gì về điều này?



Thái Lan là một trường hợp đặc biệt. Khi nói về quan điểm nữ tu Thái Lan, chúng ta thấy rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Một số thích được thọ giới trở thành Tỳ-kheo-ni nhưng một số thì không. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến việc thọ giới Tỳ-kheo-ni làm cho họ do dự.

Thứ nhất, trong nhiều trường hợp, các nữ bạch y Thái Lan cảm thấy không xứng đáng để được thọ nhận giới pháp cao hơn. Họ cảm thấy giữ 8 hoặc 9 giới là đủ rồi. Trong một số trường hợp khác, các nữ tu có tư tưởng truyền thống thọ giới Tỳ-kheo-ni đã không còn nữa. Mặc dù có hơn 30.000 Tỳ-kheo-ni hiện nay trên thế giới như ở Hàn quốc, Đài Loan, Việt Nam và nhiều nơi khác, trong một xã hội, chư Tăng được tôn kính, quan điểm của họ được xem có uy quyền ngay cả khi họ phạm lỗi. Đây là sự thực ở nhiều nước.

Một nguyên nhân khác là phụ nữ tiếp tục trở thành nữ tu theo truyền thống đã có từ xưa. Phải chăng đã nhiều thế kỷ qua chư Tăng được đắp y vàng và thọ giới cụ túc trong khi nữ tu chỉ khoác y trắng và thọ 8 hay 10 giới là một quy cũ phải chấp nhận. Xa hơn nữa, nếu các vị cao ni trong một tự viện là nữ tu, những vị ni trẻ có thể ngại trở thành Tỳ-kheo-ni bởi vì họ không thể có vị trí cao hơn những vị thầy của mình và điều này sẽ tạo ra một số thay đổi trong tự viện. Truyền thống không chịu thay đổi, cộng với định kiến về giới tính đã đi ngược lại sự bình đẳng của phụ nữ trong tôn giáo

Một vấn đề khác ở Thái Lan là liệu chư Tỳ-kheo-ni Thái Lan có được đầy đủ sự hỗ trợ về vật chất hay không. Một số người tin rằng việc cúng dường cho chư Tăng có nhiều công đức hơn cúng dường chư Ni, nhưng quan niệm này đang được thay đổi. Trong những ngày này, vị trí của chư Ni ở mọi nơi đang được nâng lên. Ngày nay, ni giới được mời tham dự trong các cuộc lễ và được Phật tử ủng hộ hết lòng. Cơ hội giáo dục cho cư sĩ nữ cũng đang được mở mang và hy vọng việc thọ giới Tỳ-kheo-ni sẽ được phục hồi ở các nước chưa có Tỳ-kheo-ni.

Nếu việc thọ giới Tỳ-kheo-ni được phục hồi ở Thái Lan và trong truyền thống Kim Cang Thừa, phải chăng phong trào phụ nữ Phật giáo trong việc đòi bình đẳng giới đã đến hồi chấm dứt? Sẽ có một quốc gia thực hiện được bình đẳng giới hoàn toàn không?

Vấn đề bình đẳng giới hoàn toàn trên thế giới dường như vẫn còn xa lắm. Ở một số nước, quần chúng chỉ kính trọng khi vị Tăng vào nhà và thờ ơ, không quan tâm khi vị Ni bước vào. Sự ứng xử khác biệt giữa Tăng Ni thật đáng ngạc nhiên.

Tôi cảm thấy khác hơn. Tôi cảm thấy rất dễ chịu với chư Ni bởi vì những vị tôi gặp vô tư, thoải mái, thân thiện, hiền hậu, và từ ái. Có thể họ không quan tâm đến việc được cung kính hay không?

Thật là một nhận xét dễ thương. Nhưng chúng ta phải cẩn trọng với cái nhìn quá phổ quát. Chúng ta cũng thấy được có những vị Tăng tâm từ bi bao la, rất dễ dàng trao đổi và có những vị ni khó mà trình bày nói chuyện. Chúng ta phải biết hoàn cảnh của mình. Nếu chúng đứng về phía nam giới hơn nữ giới, chúng ta phải chú ý điều này. Chúng ta phải thận trọng trong hành xử của mình nhất là trong mọi tình huống, đối với thầy giáo hay cô giáo, Tăng hay Ni, xuất gia hay tại gia. Nếu chúng ta ủng hộ họ, có phải chúng ủng hộ thầy giáo nhiều hơn cô giáo không? Và nếu vậy thì tại sao? Có phải chúng ta công nhận một cách tự nhiên vị ấy tốt bụng và đáng được ủng hộ hơn chỉ vì vị ấy là nam?

Như vậy phải chăng tôi có thể nói rằng những vấn đề căn bản trong bình đẳng giới là việc nhận ra khả năng của phụ nữ và cơ hội giáo dục cho họ? Nếu những điều này được thực hiện, tôi đoán là những vấn đề còn lại sẽ được sắp xếp ổn thoả.

Tôi cho là vậy. Tôi hy vọng sẽ đến thời điểm mà chúng ta không còn bận tâm về vấn đề giới tính trong Phật giáo, khi thái độ của chúng ta thực sự bình đẳng. Chẳng hạn, khi hội thảo được tổ chức ở Mỹ, các nhà tổ chức rất cẩn thận trong việc chủ định mời số lượng khách cân đối giữa nam và nữ. Ở Việt Nam, tôi biết tại các học viện Phật giáo số lượng Tăng Ni sinh ngang nhau. Đây là những dấu hiệu đáng mừng.

Ni sư có dự kiến các hội thảo Sakyadhita trong tương lai sẽ có số diễn giả nam nữ ngang nhau không?

Điều này có thể sẽ xảy ra. Nguyên nhân chúng ta tổ chức Hội Sakyadhita là vì trong quá khứ, phụ nữ không được mời phát biểu trong các hội thảo Phật giáo. Do vậy chúng tôi thành lập Hội Sakyadhita như là một diễn đàn cho nữ giới nói lên những điều họ đang quan tâm nhất và cho họ cơ hội phát biểu.

Bên cạnh đó, các hội thảo Sakyadhita dành cho tất cả, nam, nữ, Phật tử và chư Tăng, Ni. Chúng tôi hoan nghênh quý vị đến tham dự, gởi thư đề nghị được tham luận. Hội thảo Sakya tại Việt Nam lần này sẽ có một vài diễn giả là nam, mặc dù chúng tôi chỉ nhận một vài trường hợp. Từ lúc hình thành, Sakyadhita đã là một sự liên minh giữa Phật tử và chư Ni.

Nam giới có suy nghĩ gì để góp phần làm cho xã hội bình đẳng thật sự?

Ở nhiều cộng đồng, người ta tin rằng từ khi mới sinh ra phụ nữ đã ở vị trí thấp kém hơn nam giới. Trong ngôn ngữ Tây Tạng, hai chữ “phụ nữ” có nghĩa là “địa vị thấp hơn” hay gyeme. Vì vậy khi một em gái nghe điều này, cô bé nghĩ rằng từ khi sinh ra đời cô đã ở vị trí thấp kém và cô lớn lên trong niềm tin ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng trong vòng luân hồi này chúng ta được sinh ra nhiều lần trong thân nam cũng như thân nữ.

Đơn giản là nam giới cần nên tôn trọng phụ nữ và khả năng vốn có của họ. Xem phụ nữ như những người bạn đồng sẽ thấy dễ chịu hơn. Những tập tục áp đặt phụ nữ xưa kia nên xoá đi và nam nữ hãy là những thiện tri thức của nhau. Cả hai có thể cùng thực tập hạnh tuỳ hỷ (mudita), hoan hỷ với những tánh tốt và những việc làm thiện lành của bạn mình.
PC
#2 Posted : Monday, March 8, 2010 7:15:14 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,669
Points: 28
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
VẤN ĐỀ PHỤC HỒI VIỆC THỌ ĐẠI GIỚI TỲ-KHEO-NI
TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
(The Revival of Bhikkhuni Ordination in the Theravada Tradition)
Tác giả: Bhikkhu Bodhi - Việt dịch: Trần Như Mai


Giới thiệu : Đây là bài tham luận của Tỳ Kheo Bodhi đọc tại Hôi Nghị Hamburg ở Đức năm 2007, do Đức Đạt Lai Lạt Ma đề xuất, đề bàn về vấn dề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy.
Bài tham luận của tôi chú trọng đến những vấn đề thuộc về giới luật và đạo đức liên quan đến việc phục hoạt Ni đoàn trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. Bài tham luận này chia làm ba phần : Phần I, tôi duyệt lại những lập luận do những người theo phái Nguyên Thủy bảo thủ trình bày, những người thấy rằng vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni là không thể thực hiện được về phương diện giới luật. Trong Phần II, tôi trình bày những nghiên cứu về mặt kinh điển và đạo đức ủng hộ chủ trương cho rằng cần phải phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Và trong phần III, tôi sẽ cân nhắc ngắn gọn về cơ chế giới luật trong vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, đó là, làm thế nào để việc thọ đại giới được thực hiện hài hòa với qui định của Luật Tạng ( Vinaya).



Việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni gồm có ba giai đoạn : 1) thọ giới sa-di-ni ( pabbajja), 2) huấn luyện Thức-xoa-ma-ni (sikkhamana), 3) thọ Cụ-túc-giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni (upasampada). Các Luật gia Nguyên Thủy đặt ra nhiều cản trở ở cả ba giai đoạn này. Trong bài tham luận của tôi, tôi thảo luân tất cả ba giai đoạn từ hai quan điểm : theo quan điểm chống đối do các Luật gia bảo thù đặt ra, những người tuyên bố rằng không thể nào phục hồi việc thọ đại giới, và quan điểm của những người ủng hộ vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Vì thời gian dành cho việc trình bày bài tham luận này có giới hạn, nên tôi sẽ hướng trọng tâm vào vấn đề thọ đại giới mà thôi. Lời kết luận của tôi sẽ là : tôi cho rằng không một lập trường nào có thể rút ra một cách rõ ràng từ Luật Tạng, nhưng việc diễn giải Luật Tạng tùy thuộc vào bối cảnh việc diễn giải được thực hiện, và một số những giả định và mục đích mà người diễn giải muốn đưa vào nhiêm vụ diễn giải.

I. Trường hợp chống đối
vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni

Đối với các Luật gia, giai đoạn thọ đại giới Tỳ-kheo-ni đặt ra một trở ngại lớn nhất cho việc phục hồi Ni đoàn. Sự chống đối chính yếu dựa trên điều luật mà các Luật gia đưa ra là việc truyền giới này phải do nhị bộ tăng thực hiện. Nghĩa là việc này phải do cả Ni đoàn lẫn Tăng đoàn cùng thực hiện, và để cho việc truyền giới là thuần túy Nguyên Thủy, việc truyền giới phải xuất phát từ một Ni đoàn Nguyên Thủy hiện hành. Điếu này dưa đến một tình trạng khó khăn bế tắc, vì nếu thiếu vắng một Ni đoàn Nguyên Thủy hiện hành, thì việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni không thể được công nhận là đúng theo luật. Vì vậy không thể có khả năng phục hồi Ni đoàn Nguyên Thủy. Việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni vẫn vượt khỏi tầm tay trong suốt thời kỳ truyền thừa Phật giáo hiện tại. Những phụ nữ muốn sống theo hạnh xuất gia sẽ phải chấp nhận một hình thức thay thế của hạnh xuất gia, như là tu nữ tám giới hay mười giới.

II. Trường hợp ủng hộ
việc phục hoạt Ni đoàn Phật Giáo Nguyên Thủy

Sau khi sơ lược những lập luận về luật mà các giới chức bảo thủ về Luật Tạng đề xuất để chống đối vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, tôi xem xét một số yếu tố, về mặt kinh điển và đạo đức, chủ trương ủng hộ việc phục hoạt. Tôi chia những yếu tố này thành hai nhóm: một nhóm tôi gọi là “sự ủy quyền ngày xưa”, và nhóm kia tôi gọi là “ những hoàn cảnh thúc bách đương đại”.

‘Sự ủy quyền ngày xưa’ trước tiên là quyết định của chính Đức Phật thành lập một Ni đoàn như một bộ phận tương ứng với Tăng đoàn. Khi Đức Bà Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề (Kiều Đàm Di ) cùng với năm trăm phụ nữ thuộc bộ tộc Thích Ca đến gặp Đức Phật, họ không đòi hỏi Đức Phật thiết lập một Ni đoàn. Họ chỉ xin Đức Phật cho phép họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Mặc dù lúc đầu Đức Phật từ chối lời thỉnh cầu này, cuối cùng Ngài đã chấp thuận. Tuy nhiên, trong khi chấp thuận, Ngài không chỉ cho phép phụ nữ xuất gia, mà còn cho phép phụ nữ xuất gia được thành lập một Ni đoàn riêng biệt, một cộng đồng được điều hành bởi những điều lệ và qui định riêng của họ. Mặc dù Ngài đặt Ni đoàn này lệ thuộc vào Tăng đoàn trong một vài phương diện, Ngài vẫn cho phép Ni đoàn này phần lớn được tự trị. Điều này chứng tỏ rằng Ngài công nhận Ni đoàn là một phần chính yếu của Giáo đoàn, không có Ni đoàn thì Giáo đoàn của Ngài sẽ không hoàn hảo và không trọn vẹn.



Suy tư về những điều kiện đương đại cũng ủng hộ trường hợp phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Thời đại chúng ta được hình thành từ những tư tưởng của triết thuyết Ánh Sáng Âu Châu, một phong trào xác nhận phẩm giá nội tại của con người và đưa đến đòi hỏi bình đẳng chính trị và công bằng cho mọi người trước pháp luật. Từ giữa thế kỷ thứ 19 trở đi, con người khắp điạ cầu đã nhận thức rằng sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính là vô lý và bất công, một hệ thống đã áp đặt lên xã hội chỉ vì vai trò thống trị của nam giới trong những thời kỳ mà sự ổn định xã hội tùy thuộc vào sức mạnh và quân lực. Như vậy sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính đã bị thách thức hầu như khắp nơi trong mọi lãnh vực đời sống thế tục, và vai trò của nó trong phạm vi tôn giáo cũng được đưa ra xem xét nghiêm túc. Tôn giáo vẫn là thành trì kiên cố nhất của sự phân biệt đối xử này, và Phật giáo cũng không ngoại lệ. Đúng là Luật Tạng đã qui định Tỳ-kheo-ni phải phục tùng Tỳ-kheo-tăng, và Ni đoàn phải phục tùng Tăng đoàn, nhưng chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật đã sống và giảng dạy ở Ấn độ vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Những công phu tu tập thuộc về nghi thức phải được đánh giá trong ánh sáng của những điều kiện văn hóa và xã hội đã thay đổi. Khi chúng ta hỏi đường lối hành động nào sẽ thích hợp với ngày nay, chúng ta không nên hỏi Đức Phật đã làm gì 25 thế kỷ trước, mà nên hỏi là Ngài sẽ muốn chúng ta làm gì trong thời đại này. Nếu người ta nhìn Phật giáo Nguyên Thủy như một tôn giáo chỉ gồm có nam giới xuất gia, mà loại bỏ nữ giới xuất gia, hay chỉ chấp nhận nữ giới qua một vài việc thọ giới không chính thức, người ta sẽ nghi ngờ là có một điều gì thiên lệch trong cơ bản, và những lập luận bảo vệ quan điểm ấy dựa trên những yêu cầu về các nguyên tắc giới luật khó hiểu sẽ không mang tính thuyết phục để có thể xóa tan mọi nghi ngờ. Đây sẽ là một ví dụ về một loại thái độ mà chúng ta thường thấy trong Luật Tạng, nơi mà “nhưng người thiếu tự tin không đạt được lòng tự tin, trong lúc giữa những người có lòng tự tin, thì một số lại thay đổi ý kiến liên tục”. Mặc khác, bằng cách thu hết can đảm để phục hồi cho phụ nữ quyền được sống cuộc đời xuất gia trọn vẹn, nghĩa là, bằng cách phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, các vị trưởng lão Phật giáo Nguyên Thủy sẽ chứng tỏ là họ biết cách áp dụng Luật Tạng theo một đường lối thích hợp với thời đại và hoàn cảnh, và cũng là cách biểu lộ lòng từ bi và bao dung, hơn là khăng khăng bác bỏ.

III . Đối phó với thách thức về mặt giới luật

Tuy nhiên, trong lúc có thể có những lập luận mạnh mẽ trong kinh điển và đạo đức ủng hộ cho việc phục hồi Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, bước tiến này không thể thực hiện nếu những chống đối về mặt giới luật đối với phong trào này không đưọc giải quyết. Những Luật gia bác bỏ vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni, không hẳn là vì thiên kiến đối với phụ nữ ( mặc dù một số có thể có thiên kiến đó), nhưng vì họ thấy thủ tục này không thể thực hiện được về mặt giới luật. Để phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, ba điểm thách thức mà những Luật gia Nguyên Thủy đặt ra cần phải được giải quyết. Đó là những thách thức dựa trên :1) vấn đề thọ giới sa-di-ni; 2) vấn đề thọ giới và huấn luyện Thức-xoa-ma-ni; và 3) vấn đề thọ cụ túc giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni.

Ở đây, tôi sẽ chỉ bàn về vấn đề thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Tuy nhiên, trước khi làm việc này, trước tiên tôi muốn ghi nhận rằng lý thuyết về giới luật của Phật giáo Nguyên Thủy thường pha trộn những qui định về giới luật xuất phát từ các văn bản Luật Tạng và các bản Luận Tạng với những lời diễn giải và nhận định đã được chấp nhận theo truyền thống qua nhiều thế kỷ. Tôi không muốn xem nhẹ truyền thống, vì truyền thống tiêu biểu cho sự tích lũy kinh nghiêm giới luật của nhiều thế hệ chuyên gia Luật Tạng, và dĩ nhiên là những kinh nghiệm này cần phải được tôn trọng và cứu xét trong khi quyết định Luật Tạng cần phải được áp dụng như thế nào trong những hoàn cảnh mới. Nhưng chúng ta cũng phải nhớ rằng truyền thống không nên được đặt ngang hàng với Luật Tạng hoặc thậm chí với tài liệu có giá trị thứ yếu như là các bài luận giải (Atthakathas) và tiểu luận ( Tikas). Những nguồn tài liệu ấy cần phải được ấn định nhiều mức độ giá trị thẩm quyền khác nhau tùy theo nguồn gốc khác nhau của chúng. Tuy nhiên, khi sự hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng đặt nặng căn bản theo truyền thống, chúng ta có thể vô tình bị vướng vào mạng lưới nhận định của các Luật gia bảo thủ và điều này ngăn cản khả năng phân biệt của chúng ta về những gì được rút ra từ Luật Tạng và những gì do truyền thống qui định. Đôi lúc chỉ cần thay đổi những nhận định ấy cũng có thể diễn giải lại các nguyên tắc Luật Tạng với sự hiểu biết hoàn toàn mới.

Tôi sẽ minh họa điểm này bằng phương pháp loại suy hình học. Một đường thẳng được kẻ ngang qua một điểm. Khi đường thẳng này kéo dài ra thì khoảng cách giữa hai đầu mút càng rộng hơn. Rõ ràng là hai đầu mút ấy sẽ không bao giờ gặp nhau, và nếu có người nào tỏ ra nghi ngờ về điểm này, chắc là tôi sẽ chất vấn tính hợp luận lý của người này. Nhưng sự kiện xảy ra như vậy chỉ vì tôi đang suy nghĩ trong phạm vi của hình học truyền thống, hình học Euclide, vốn đã giữ vững ảnh hưởng trong toán học cho đến thế kỷ thứ 20. Tuy nhiên, khi chúng ta chấp nhận lập trường của hình học vòng tròn ( spherical geometry), chúng ta có thể thấy rằng một đường thẳng kẻ ngang qua một điểm nào đó, nếu được kéo dài đủ xa, cuối cùng hai đầu mút của nó sẽ gặp nhau. Một lần nữa, trong hình học truyền thống, chúng ta được dạy rằng một tam giác chỉ có thể có nhiều nhất là một góc vuông và tổng số các góc của một tam giác phải bằng 180o, và điều này có thể chứng minh tuyệt đối chặt chẽ. Nhưng sự kiện chỉ xảy ra như thế trong không gian Euclide. Hãy cho tôi một vòng tròn, và chúng ta có thể định nghĩa một tam giác có ba góc vuông và tổng số các góc bằng 270o. Như vậy, nếu tôi từ bỏ những nhận định quen thuộc của mình, một loạt những khả năng mới bỗng mở rộng tầm hiểu biết của tôi.

Cũng vậy đối với hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng. Đối với lý thuyết bảo thủ, những nhận định căn bản là: i) việc truyền đại giới do nhị bộ tăng thực hiện được qui định để áp dụng cho mọi trường hợp và không chấp nhận một ngoại lệ hay điều chỉnh nào để thích hợp với hoàn cảnh; ii) và Phật giáo Nguyên Thủy là tông phái duy nhất gìn giữ truyền thống Luật Tạng đích thực. Một khi những nhận định ấy được chấp nhận, sẽ không còn một lối thoát nào đối với kết luận rằng Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn vĩnh viễn. Tuy nhiên, những người ủng hộ việc phục hoạt Ni đoàn lại hoạt động với những nhận định khác. Đối với họ, điểm khởi đầu căn bản là quyết định của Đức Phật thành lập Ni đoàn. Thủ tục truyền giới chỉ là cơ chế giới luật để thực hiện quyết định đó. Từ lập trường này, ngăn chận việc áp dụng quyết định ấy chỉ vì một điểm về cơ chế giới luật tức là cản trở việc hoàn thành ý định của chính Đức Phật. Điều này không có nghĩa là phương cách thực hiện đúng đắn quyết định ấy sẽ vi phạm những qui định của Luật Tạng. Nhưng bên trong những qui định bao quát ấy, hai nhận định của phe giới luật bảo thủ có thể vượt qua bằng một hoặc cả hai điểm sau đây : i) trong những trường hợp ngoại lệ Tăng đoàn có thể áp dụng việc truyền giới Tỳ-kheo-ni do nhất- bộ-tăng thực hiện, dựa trên lời dạy của Đức Phật: “ Này các Tỷ kheo, ta cho phép các thầy truyền giới Tỳ-kheo-ni”; ii) để duy trì hình thức truyền giới do nhị-bộ-tăng thực hiện, Tăng đoàn Nguyên Thủy có thể kết hợp với một Ni đoàn từ một nước Đông Á theo “ Tứ Phần” Luật Pháp Tạng Bộ.

Phương cách truyền giới này có thể không thoả mãn được yêu cầu khắc khe nhất của lý thuyết Luật Tạng Nguyên Thủy bảo thủ, nghĩa là, việc truyền giới phải được thực hiện bởi nhị bộ Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni, và những vị này phải được thọ giới từ những Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni Nguyên Thủy của một dòng truyền thừa không đứt đoạn. Nhưng làm cho đòi hỏi không thể thực hiện này trở thành một yêu cầu không khoan nhượng trong vấn đề phục hoạt giáo đoàn Tỳ-kheo-ni thì có vẻ khắt khe một cách vô lý. Theo quan điểm của nhiều vị tăng Nguyên Thủy uyên thâm, chính yếu xuất phát từ Tích lan, thì chấp nhận một trong hai phương cách đã nêu trên sẽ đưa đến đỉnh cao là một cuộc truyền giới Tỳ-kheo-ni đúng luật và cùng lúc đó điều này sẽ ban cho phụ nữ cơ hội được sống cuộc đời phạm hạnh theo đúng phương cách Đức Phật đã có ý định muốn cho ni chúng được theo đuổi - đó là cuộc sống của những Tỳ-kheo-ni đã thọ đại giới.

Đại giới đàn Tỳ-kheo-ni được tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng dưới sự bảo trợ của Tu Viện Phật Quang Sơn, đã kết hợp cả hai phương cách trên. Phương pháp này đem lại kết quả mỹ mãn hơn là chỉ theo một trong hai phương cách mà thôi. Lễ đại giới đàn đã qui tụ Tỳ kheo thuộc nhiều truyền thống khác nhau - Đại thừa Trung quốc, Nguyên Thủy, và Tây Tạng – cùng với các Tỳ-kheo-ni Đài loan và Tây phương để cử hành lễ thọ đại giới gồm đầy đủ nhị bộ tăng theo truyền thống Trung quốc. Những vị ni được thọ giới gồm có các ni Nguyên thủy từ Tích lan và Nepal, cũng như các ni Tây phương theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Người ta có thể nghĩ rằng đây là nghi lễ của Đại thừa và các ni được thọ giới sẽ trở thành Tỳ-kheo-ni Đại thừa, nhưng đây là một sự hiểu lầm. Trong khi các tăng ni Trung quốc là những vị theo Phật giáo Đại thừa, truyền thống Giới Luật mà họ tuân thủ không phải là Giới Luật Đại thừa nhưng là Giới Luật Pháp Tạng Bộ ( Dharmaguptaka), đó là bộ luật thuộc về truyền thống Phân Tích Bộ (Vibhajyavada) của tông phái Nguyên Thủy cổ sơ ở phương nam. Đây chính là bộ phái tương đương với tông phái Nguyên Thủy ở tây bắc Ấn Độ, với bộ sưu tập kinh điển, Luận A-tỳ-đàm và một Luật Tạng phần lớn tương ứng với Luật Tạng Pali. Như vậy đại giới đàn do Tăng đoàn Trung quốc thực hiện ở Bồ Đề Đạo Tràng truyền đại giới thuộc dòng Pháp Tạng Bộ, và theo ngôn ngữ giới luật, các vị ni này bây giờ là những Tỳ- kheo-ni thọ đẩy đủ đại giới theo dòng truyền thừa của Giới Luật Pháp Tạng Bộ.

Tuy nhiên, các Tỳ-kheo-ni ở Tích lan muốn trở thành những người kế thừa dòng Luật Tạng Nguyên Thủy để có thể được tăng đoàn Tích lan chấp nhận. Những Tỳ kheo Tích lan đã bảo trợ cho việc thọ đại giới cũng lo ngại rằng nếu các vị Tỳ-kheo-ni này trở về Tích lan với việc thọ đại giới từ Trung quốc mà thôi, thì những người đồng đạo của họ sẽ xem việc thọ giới ấy chính yếu là thuộc tông phái Đại thừa. Để tránh việc này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, các vị tân Tỳ-kheo-ni đi đến thành phố Sarnath, nơi đó chư ni lại trải qua một cuộc thọ đại giới khác được tiến hành bằng tiếng Pali do các vị Tỳ-kheo Nguyên thủy ở Tích lan thực hiện. Việc truyền giới này không phủ nhận việc truyền đại giới trước đây do nhị bộ tăng thuộc Tăng đoàn Trung quốc thực hiện, nhưng chỉ bổ túc và ban cho việc thọ đại giới ấy một hướng đi mới. Việc truyền đại giới do nhị bộ tăng thực hiện ở Bồ Đề Đạo Tràng công nhận chư ni ấy là Tỳ-kheo-ni, nhưng là những vị được truyền thừa từ dòng Luật Pháp Tạng Bộ, và cuộc truyền giới tiếp theo do Tăng đoàn Nguyên Thủy thực hiện ở Sarnath đã chính thức đưa các vị Tỳ-kheo-ni này vào Giáo đoàn Nguyên Thủy. Bây giờ các vị Tỳ-kheo-ni được quyền tuân theo Luật Tạng của kinh điển Pali và thực hiện những nhiệm vụ cần thiết của các giới tràng cùng với huynh đệ của họ trong Giáo đoàn Nguyên Thủy của Tích lan.

Trong lúc việc truyền đại giới với đầy đủ nhị bộ tăng chắc chắn là phương cách tốt hơn khi nào có điều kiện thực hiện, một trường hợp khác cũng được nêu lên để chứng minh việc truyền đại giới có thể chỉ do tăng đoàn Nguyên Thủy thực hiện mà thôi. Người ta có thể lập luận rằng trong những trường hợp ngoại lệ, khi một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn, thì tăng đoàn Nguyên Thủy được quyền đưa ra trường hợp thời cổ sơ như là một tiền lệ khi chưa có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, và phục hồi điều lệ của Đức Phật đã cho phép chỉ một mình Tăng đoàn truyền đại giới cho Tỳ-kheo-ni. Điều lệ này có thể được bảo vệ dựa trên nguyên tắc loại suy: khi một phương cách ngoại lệ được sử dụng trong một số những trường hợp để đạt được mục đích mong muốn, thì trong một số trường hợp tương tự như thế về mọi phương diện, nếu không còn phương cách nào để đạt được mục đích mong muốn, chúng ta có thể áp dụng lại phương cách ngoại lệ ấy. Trong trường hợp này, chúng ta tìm thấy hoàn cảnh xuất phát điều lệ ấy vào thuở Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đầu tiên được hình thành, khi Tăng đoàn bị đặt vào một hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan. Điều lệ thứ sáu của Bát Kỉnh Pháp đòi hỏi việc truyền giới Tỳ-kheo-ni phải do nhị bộ tăng thực hiện, nhưng thời đó chưa có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Vậy làm thế nào Tăng đoàn vượt qua khó khăn bế tắc này ? Theo kinh điển, thì Đức Phật đã dạy:” Ta cho phép các thầy truyền giới Tỳ-kheo-ni”. Và vì thế, các Tỳ-kheo tiếp tục truyền giới cho các Tỳ-kheo-ni cho đến khi nhị bộ tăng trở thành qui định hiện thực. Hoàn cảnh này gần như giống y hệt hoàn cảnh chúng ta gặp phải gần đây, khi có những phụ nữ muốn được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Nguyên Thủy nhưng không có Tỳ-kheo-ni Nguyên thủy nào để truyền giới cho họ. Vì thế, một giải pháp đã được đề nghị là cho phép Tỳ kheo tăng Nguyên Thủy sử dụng sự ủy quyền, vốn chưa bao giờ bị hủy bỏ, để truyền giới Tỳ-kheo-ni cho đến khi một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có chức năng hoạt động thực sự được hình thành. Đây là phương cách mà tăng đoàn Tích lan đã áp dụng ở Sarnath để ban cho các Tỳ-kheo-ni Tích lan lần truyền giới thứ hai và chính thức đưa các vị này vào Tăng đoàn Nguyên Thủy.

Tuy nhiên, bây giờ thì Ni đoàn Nguyên Thủy đã được phục hoạt tại Tích lan, không còn lý giải nào để biện minh cho việc truyền đại giới do nhất bộ tăng thực hiện mà thôi. Nếu một phụ nữ muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Nguyên Thủy, người ấy phải được huấn luyện giới hạnh Thức-xoa-ma-ni và cuối cùng sẽ thọ đại giới Tỳ-kheo-ni ở Tích lan. Chắc chắn đây đúng lúc là cơ hội để việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni được truyền bá rộng rãi ở Tây phương.


Kết luận

Sự kiện Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni bị đứt đoạn đã đặt ra cho chúng ta một hoàn cảnh không được đề cập rõ ràng trong Luật Tạng, và như vậy đó là một hoàn cảnh không có được một phương cách giải quyết rõ ràng. Theo như tôi hiểu, chúng ta không thể đọc Luật Tạng bằng một thái độ định kiến như là cho phép vô điều kiện hoặc hoàn toàn ngăn cấm việc phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Những thái độ đó là kết quả của việc diễn giải, và việc diễn giải thường phản ảnh thái độ của người diễn giải trong khuôn khổ những nhận định của người ấy, cũng như phản ảnh ngôn từ của văn bản Luật mà người ấy sử dụng.

Theo ý kiến của tôi, để giải quyết vấn nạn này, câu hỏi trước tiên chúng ta phải nêu lên là :” Đức Phật muốn các vị đệ tử trưởng lão của ngài làm gì trong tình huống như vậy, bây giờ, trong thế kỷ thứ 21 này ?”. Có phải Ngài muốn chúng ta áp dụng những qui luật điều hành việc thọ đại giới theo phương cách loại bỏ phụ nữ ra khỏi đời sống xuất gia đầy đủ phạm hạnh, để cho chúng ta trình bày với thế giới một tôn giáo trong đó chỉ có nam giới được quyền sống đời xuất gia trọn vẹn ? Hay là thay vào đó, Ngài muốn chúng ta áp dụng những điều lệ của Luật Tạng theo một phương cách từ bi, rộng lượng và bao dung, và từ đó hiến tặng cho thế giới này một tôn giáo thật sự là biểu tượng của công lý và không phân biệt đối xử ?

Chúng ta không thể có câu trả lời ngay tức khắc cho những câu hỏi này trong bất cứ một văn bản kinh điển hay truyền thống nào, nhưng tôi không nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn bị rơi vào ý kiến chủ quan. Từ các văn bản kinh điển, chúng ta có thể thấy khi thực hiện những quyết định quan trọng, Đức Phật đã biểu lộ cả lòng từ bi lẫn tính nghiêm minh của giới luật, chúng ta có thể thấy là trong khi qui định những tiêu chuẩn hành xử của Tăng đoàn, Ngài đã xem xét những kỳ vọng về mặt văn hóa và xã hội của những người đương thời với Ngài. Vì vậy, để tìm ra một giải pháp cho vấn nạn của chính chúng ta, chúng ta có hai kim chỉ nam hướng dẫn để hành động. Một là cần phải đúng với tinh thần của Giáo Pháp – đúng cả chữ nghĩa lẫn tinh thần, nhưng trên hết là đúng với tinh thần. Hai là phải đáp ứng được những tầm nhận thức về mặt văn hoá, tri thức và xã hội của nhân loại trong thời đại lịch sử đặc biệt mà chúng ta đang sống, thời đại mà chúng ta đang nỗ lực hình thành số phận tương lai của chính chúng ta và số phận tương lai của Phật giáo. Được nhìn trong ánh sáng này, vấn đề phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có thể xem như một điều thực chất tốt đẹp phù hợp với tinh thần cốt lõi của Giáp Pháp, giúp cho việc hoàn thành sứ mạng của chính Đức Phật là “ mở cánh cửa Bất tử ” cho tất cả chúng sanh, cho nữ giới cũng như nam giới. Cùng lúc đó, sự hiện hữu của một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có thể hoạt động như một công cụ tốt đẹp. Điều này sẽ cho phép ni giới thực hiện nhiều đóng góp có ý nghĩa cho Phật giáo bằng nhiều cách giống như tăng giới - họ có thể là những giảng sư, học giả, thiền sư, nhà giáo dục, cố vấn xã hội, và những vị hướng dẫn nghi lễ - và có lẽ trong một vài trường hợp độc đáo chỉ dành cho các vị ni sư, thí dụ như là làm cố vấn tâm lý và người hướng dẫn cho nữ cư sĩ. Một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni cũng sẽ giúp cho Phật giáo nhận được sự kính trọng của những bậc thức giả trên thế giới, những người xem vấn đề không phân biệt nam nữ là dấu hiệu của một tôn giáo thật sự xứng đáng hài hoà với những khuynh hướng cao thượng của nền văn minh hiện đại.


Source : Buddhist Fellowship of Singapore Website
(General News/Comment with regards to
Bhikkhuni Ordination/5/11/09 )


Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.