THANKSGIVING - NÓI VỀ GÀ TÂYHàng năm, tại Hoa Kỳ, thịt Gà tây được xem là món ăn chính thức, không thể thiếu để ăn mừng Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) . Đây là một ngày lễ nghỉ chính thức trên toàn quốc và cũng là dịp mà nhiều gia đình tổ chức những buổi họp mặt, tụ tập thân nhân từ nhiều nơi về để gặp nhau.
Trong dịp này, món ăn truyền thống, nhất định phải có là..thịt Gà tây. Từ cuối thế kỷ 19, ngày Lễ Thanksgiving đã có thêm một tên gọi..là Turkey Day
Năm 1784, khi Quốc hội Hoa Kỳ quyết định chọn chim Ưng sói đầu làm biểu tượng cho Mỹ, Benjamin Franklin đã viết thư.. than phiền và nhất định cho rằng biểu tượng Quốc gia Mỹ phài là... Gà tây vì ' Gà tây đáng tôn trọng hơn và hơn nữa lại là loài chim chính thức có nguồn gốc tại Bắc Mỹ' Văn Hóa Mỹ đã chấp nhận danh từ Turkey và áp dụng vào ngôn ngữ: Khi người Mỹ muốn bàn chuyện nghiêm chỉnh, họ gọi là 'talked turkey', khi người Mỹ hát, họ hát về 'Turkey in the Straw' và họ nhảy theo điệu 'Turkey strot'
Gà tây hay Turkey là tên chung để chỉ những loài chim thuộc nhóm Meleagris gallopavo. Nguồn gốc từ Bắc Mỹ, Gà tây đã được nuôi thành gia cầm và trở thành loài chim cung cấp thịt trên khắp thế giới. Gà tây trống còn được gọi là Gobbler, Tom... Tên gọi của Gà tây tại Âu châu, kể cả tên khoa học bằng tiếng la-tinh đã cho thấy những nhầm lẫn, thiếu chính xác về nguồn gốc và đặc tính của loài chim này khi chúng được đưa từ Tân Thế giới về Âu châu. Gà tây bị nhầm với loài chim Guinea-fowl của người La mã và cả với công (peacock).Nhà phân loại sinh vật Linneus đã dùng danh từ Meleagris, là tên của guinea-fowl.
Người Âu châu gọi gà là Turkey vì cho rằng đây là một giống gà từ
Phương Đông: Người Pháp từng gọi gà tây là Coq d'Inde vì nghĩ rằng đây là giống gà từ..Ấn độ..để sau đó chuyển thành Dindon và Dinde. Người Anh có lẽ đã nhận được chù gà đầu tiên từ một nhà đại lý cung cấp gà tại Levant hay Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) nên đặt tên cho gà là Turkey-cock. Gà tây hoang tại Bắc Mỹ, gầy hơn gà nuôi, sống thành bầy, tại những vùng đầm lầy, ăn các loại hạt và berries. Gà bay rất vụng về, nhưng trái lại chạy khá nhanh.
Hiện nay có hai giống gà tây hoang chính, khác biệt nhau khá rõ rệt :
Giống thứ nhất, sinh sống trong khu vực bao gồm vùng Đông-Bắc Hoa Kỳ : từ Canada đến Texas.
Giống thứ nhì, sinh sống xa hơn về phía Nam, quanh vùng Vịnh Mexico. Giống Mexico quan trọng hơn, thích ứng nhanh với môi trường sinh sống và dễ thuần hóa.
Gà tây có lẽ đã được thuần hóa tại Trung Mỹ từ khoảng 2000 năm trước Tây lịch. Khi người Tây Ban Nha đến xâm chiếm Châu Mỹ, gà tây được nuôi lấy thịt và dùng để Hoàng gia đãi tiệc. Khi Gà tây được đưa về Âu châu, món gà tây đã trở thành món ăn rất được ưa chuộng.
Tại Anh, năm 1541, Gà tây được xếp vào nhóm các chim lớn như hạc, thiên nga.. Sau đó từ thế kỷ 17 và 18 , Gà tây đã được nuôi làm gia cầm tại Anh và thịt gà tây đã thay thế thịt ngỗng, trở thành món ăn truyền thống của ngày Lễ Giáng sinh. Cho đến cuối thế kỷ 19, hai giống gà tây chính tại Anh là Norfolk BlaCK và Cambridge Bronze. Norfolk Black thịt nạc hơn, nhưng lông đen nên ít được ưa thích hơn là Cambridge Bronze (loài này tương đối lớn : gà trống nặng đến trên 18 kg và gà mái từ 7 đến 10 kg)..
Tại Pháp, Hoàng Hậu Marguerite de Navarre đã được ghi nhận là nuôi gà tây từ 1534 tại Arlencon và trong một bữa tiệc để đãi Catherine de Medicis, nhà bếp Hoàng gia đã hạ thịt đến 66 chú gà tây. Năm 1570, thịt gà tây đã được dùng trong bữa tiệc cưới của Vua Charles IX, và thật sự trở thành món ăn phổ biến tại Pháp tứ 1630. Cũng tại Pháp, gà tây được nuôi từ cuối thế kỷ 17, nhập do các tu sỉ Dòng Jesuits, và nuôi tại các trại ở gần Bourges sau đó lan rộng đến nhiều nơi khác tại Pháp, do đó tên gọi gà tây tại một số địa phương vẫn còn là..jesuite.
Với những người di dân từ Âu châu đến Bắc Mỹ, gà tây đã là những kỷ niệm khó quên: Năm 1609, cư dân gốc Âu tại Jamestown, trước tình trạng thiếu lương thực, sắp đói kém, đã được thổ dân giúp nuôi sống bằng một món quà đặc biệt : Gà tây.. Từ 1621, gà tây trở thành món ăn chính thức theo truyền thống Hoa Kỳ của ngày Thanksgiving. .
Đặc tính sinh học :
Gà hoang và gà nuôi có những đặc tính sinh học rất giống nhau : Cổ và đầu không có lông, một dải thịt mọc thòng từ dưới cổ, thả dài như một loại cà-vạt dính liền vào da. Gà trống có thêm lông cứng nơi ngực và có thể xòe lông đuôi như công, chúng có tiếng kêu đặc biệt (gobbling). Gà trống lớn hơn gà mái, có bộ lông nhiều màu pha trộn đỏ, tím, xanh lá cây, đồng sáng và có tia màu vàng, trong khi đó gà mái màu sắc toàn xám và nâu. Bộ lông gà tây có thể từ 5 đến 6 ngàn lông : Lông đuôi của gà trưỡng thành dài bằng nhau, nhưng không đều khi gà còn nhỏ. Gà trống, trung bình nặng từ 5-11 kg, dài 1 đến 1.25 m và gà mái nặng 3-5 kg, dài chừng 76-95 cm. Sải cánh từ 1.25 đến 1.50 m.
Gà hoang sống tập trung thành bầy, bay khá giỏi và..khôn hơn gà nuôi. Chúng rất thận trọng và bay hay chạy ngay khi cảm thấy gặp nguy, vận tốc khi bay có thể đến 80 km/giờ.. Trong mùa giao phối thường xẩy ra những cuộc 'đấu chọi' giữa các chú gà trống để dành gà mái; cuộc đấu đá có thể gây đến..giết nhau ! Sau đó đến giai đoạn các chú gà trống (vốn đa thê), gạ gẫm, kêu những tiếng 'gù mái', phe phẩy đuôi.. Gà mái tự làm ổ, thường rất đơn giản, bằng lá khô và sau đó đẻ khoảng 10-12 trứng, mổi ngày đẻ một trứng, trứng màu kem có những đốm đỏ..Gà mái ấp trứng trong 28 ngày. Gà con (hay poult) rời ồ trong 12-24 giờ.
Gà tây hoang thuộc loại ăn tạp, kiếm ăn từ các thực phẩm trên mặt đất hay bụi cây leo và cây nhỏ. Gà thích ăn các loại hạt cứng, kể cả hạt dẻ, hazel, chestnut và các loại quả berries, hạt thông, rể cây và sâu bọ, đôi khi cả các động vật nhỏ như rắn, ếch nhái..Thực phẩm chính vẫn là các loại cỏ (chiếm đến 80%)
Gà tây hoang có thể chia làm nhiều giống phụ : tại Hoa Kỳ có 4 giống chính :
Eastern ,Osceola, Rio Grande và Merriam; giống phụ thứ 5 là Gould chỉ sinh sống trong vùng rừng núi High Sierras (Nam Arizona) dọc xuống đến Mexico. (Riêng giống gà tây không râu ở vùng Yucatan và Trung Mỹ lại thuộc giống gà riêng : Agriocharis)
Sau đây là vài đặc điểm của 4 loài gà tây hoang tại Hoa Kỳ :
- Gà tây Rio Grande (Meleagris gallopavo intermedia) : Đuôi xòe của gà trống có viền màu vàng hay mầu đất sét. Chân tương đối dài. Giống này thường gặp tại những khu vực bụi rậm gần sông, suối ở phía Tây Texas, Tây Oklahoma, Colorado và Tây Kansas. Gà trống cũng được chuyển về thả hoang tại vùng Tây Hoa Kỳ : California, Washington, Oregon và Idaho, cả ở Hawaii. Số gà được ước lượng khoảng trên 1 triệu con.
- Gà tây Merriam (M. gallopavo merriami): Đuôi gà trống có viền trắng, gặp tại vùng Tây Hoa Kỳ trong vùng núi cao Rocky Moun tains và đồng cỏ tại Wyoming, Montana và South Dakota..Số lượng khoảng trên 300 ngàn con. Tên được đặt vào 1900 để ghi nhớ Clinton Hart Merriam, Giám đốc đầu tiên của US Biological Survey.
- Gà tây Eastern Wild Turkey (M. gallopavo silvestris) : Đây là giống gà mà người Puritans đã gặp khi đặt chân đến Bắc Mỹ. Gà lớn đến 1.2 m.
Đuôi viền màu nâu chocolat, chân dài và thon. Gà phân bố trong toàn vùng Đông Hoa Kỳ, đến tận SE Manitoba, Ontario, Quebec (Canada), có thể tại vùng Nam florida, phía dưới lằn ranh Đông-Tây chia ngang Florida. Số lượng khoảng trên 5 triệu con.
- Gà tây Osceola hay Florida (M. g osceola) : Chỉ gặp tại Bán đảo Florida. Số lượng chừng 80 đến 100 ngàn con. Gà nhỏ và màu sậm hơn Gà Eastern. Lông cánh rất xậm, có một số đốm hay vằn trắng..
Gà tây hoang hiện được xem là một nguồn lợi quan trọng trong Kỹ nghệ thể thao săn bắn tại Hoa Kỳ và Mexico. Lợi tức hàng năm lên đến hàng chục triệu đô la... Kỹ thuật săn bắn Gàtrong mùa Xuân dựa vào dùng tiếng 'kêu, gọi' của gà mái..vì gà tây thường giao phối vào mùa Xuân, trong khi đó vào mùa Thu, cần đến việc đuổi để tách bầy gà và sau đó dùng tiếng kêu..để dụ chúng tập họp trở lại.Võ khí thường sử dụng để săn gà tây hoang là loại shotgun 16-12 gauge..Gà tây có thị giác khá tinh, nên tương đối khó săn.. Tổng số gà hoang tại Hoa Kỳ hiện nay được ước lượng vào khoảng 7 triệu con..
Gà tây nuôi :
Gà tây hoang có lẽ đã được thuần hóa và nuôi thành gia cầm tại vùng Tây-Nam Hoa Kỳ và Tây-Bắc Mexico từ khoảng 600 năm trước Tây lịch. George Washington và Thomas Jefferson đã từng viết về cách thả gà tây vào những trại trồng cây thuốc lá để gà ăn sâu bọ phá hại lá thuốc. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, việc sản xuất gà tây đã được tổ chức quy củ hơn. Đến 1874, Hiệp hội nuôi Gia cầm Hoa Kỳ (American Poultry Association) đã đặt ra tiêu chuẩn cho năm giống gà nuôi chính: Bronze, Narragansett, White Holland, Black và Slate.
Đến 1920, giống Bronze lớn nhất, được chọn làm giống tiêu chuẩn để nuôi tại các nông trại và từ 1950 các nhà nuôi gà đã tập trung vào việc nuôi loại gà tây lông trắng : Nước ở trong lông chảy ra có màu tương tự như lông, do đó gà lông xậm có nước màu xậm và gà lông nhạt, màu nước nhạt hơn. Nước từ lông này, tuy không vị nhưng lại thấm vào da gà khi làm lông. Người tiêu thụ thích gà trắng hơn vì cho rằng gà trắng..sạch hơn.
Gà trống được nuôi nhốt trong những trại chứa đến 10 ngàn con. Gà mái nhỏ hơn và lớn chậm hơn nên thường bị hạ thịt sớm hơn. Do tình trạng nuôi nhốt chuồng, trong kỹ nghệ, quá chật hẹp : mỗi con bị nhốt trong khoảng 4 feet vuông; nên gà kỹ nghệ được cho ăn thêm thuốc kháng sinh giúp ngừa bệnh và thêm thuốc an thần (reserpine) để chúng không..đánh nhau và giúp tránh bể vỡ mạch máu (hậu quã của việc cho ăn thúc để gà lớn quá nhanh).
Từ 1970, giống Large White đã chiếm thị trường tiêu thụ : Gà rất lớn : 40 đến 65 pounds, không thể tự sinh sản do thân hình quá nặng trên đôi chân ngắn, nên phải nhân giống nhân tạo.
Trong kỷ nghệ, gà tây được sản xuất quanh năm theo nhịp độ: Gà đạt trọng lượng 6-9 kg chỉ trong12-18 tuần; vài nông trại nhỏ tăng thời gian nuôi lên 24 tuần (riêng loại Gả tây nổi tiếng của Pháp : Gà tây Bresse được nuôi trong 32 tuần, vổ béo trong vài tuần chót trước khi đưa ra thị trưòng bằng cho ăn bắp và sữa bò) Hiện nay 5 công ty chính đang kiểm soát 50% thị trường Gà tây tại Hoa Kỳ gồm Jennie-O-Foods (gốc tại Minnesota, hiện do Hormel Food làm chủ, đứng đầu thế giới về sản xuất và chế biến các sản phẩm từ gà tây), Cargill (cũng từ Minnesota, hiện trở thành một công ty quốc tế lớn thứ 2 trên thế giới về chế biến gà tây với các thương hiệu như Honeysucle White, Black
Forest Turkey Ham..) , Butterball Turkey Company (hiện thuộc Công ty ConAgra tại Chicago) , Wampler Foods và Carolina Turkeys. Thống kê ghi nhận số gà tây nuôi tại Hoa Kỳ được ước lượng khoảng 7.2 tỷ
pounds, trị giá đến 2.8 tỷ đô la..
Vài con số về dinh dưỡng :
Giá trị dinh dưõng của thịt Gà tây thay đổi tùy phần thịt sử dụng, các phần chính thường được dùng là :
thịt đùi (Drumstick, Thighs), thịt ngực, cánh, và gan . Thịt đùi (Drumstick) : còn gọi là phần thịt đậm = Dark meat
100 gram (bỏ da) chứa : - Calories 174
- Chất đạm 26.7 g
- Chất béo 6.7 g
- bão hòa 2.3 g
- chưa bão hòa mono 1.54 g
- chưa bão hòa poly 2.1 g
- Cholesterol 79.2 mg
- Sodium 74 mg
- Potassium 270 mg
- Magnesium 22.2 mg
- Calcium 21 mg
- Phosphorus 210 mg
- Selenium 31.7 mg
- Kẽm 4.1 mg
- Sắt 2.2 mg
- Vitami B12 0.33 mg
- Thiamine 0.058 mg
- Niacin 3.4 mg
- VitaminB6 0.33 mg
- Riboflavine 0.22 mg
Phần 'thịt đỏ' Gà tây có thể được xem là một nguồn cung cấp chất đạm tốt, cần thiết để bồi bổ cơ thể khi ăn kiêng giúp giảm cân.Thịt đỏ chứa nhiều vitamin nhóm B, cũng là nguồn cung cấp sắt dưới dạng heme, rất dễ hấp thu nên rất tốt cho các trường hợp thiếu máu do thiếu sắt. Thịt đỏ cũng chứa nhiều kẽm, tốt cho tiến trình sản xuất tinh trùng..
Thịt ngực và cánh = Phần thịt trắng hay White meat :
100 gram phần 'thịt trắng' (bỏ da và xương) chứa :
- Calories 146
- Chất đạm 28 g
- Chất béo tổng cộng 2.9 g
- bão hòa 1.0 g
- chưa bão hòa mono 0.55 g
- chưa bảo hòa poly 0.77 g
- Cholesterol 65 mg
- Sodium 60 mg
- Potassium 285 mg
- Magnesium 31 mg
- Sắt 1.32 mg
- Kẽm 1.88 mg
- Vitamin B12 0.33 mg
- Vitamin B6 0.55 mg
- Niacin 6.3 mg
So với phần 'Thịt đỏ', phần thịt trắng được xem là 'nạc' hơn, chứa ít chất béo hơn, tuy nhiều vitamin hơn nhưng lại ít sắt hơn.
Gan Gà tây :
100 gram gan gà tây chứa:
- Calories 160
- Chất đạm 23 g
- Chất béo tổng cộng 5.6 g
- bão hòa 1.76 g
- chưa bão hòa mono 1.43 g
- chưa bão hòa poly 1.0 g
- Cholesterol 580 mg
- Vitamin B12 44.4 mcg
- Vitamin A 3179. 9 RE
- Folate 610 mg
- Riboflavine 1.32 mg
- Niacin 5.6 mg
- Vitamin B6 0.44 mg
- Sắt 7.2 mg
- Kẽm 2.8 mg
Gan gà tây tuy chứa rất nhiều vitamin B12 , Sắt (dạng heme), Vitamin A và Folate nhưng lại chứa lượng cholesterol quá cao. Hiệp hội Tim Hoa Kỳ khuyên chỉ nên đưa vào cơ thể tối đa 300 mg cholesterol/ ngày, nhưng chỉ cần 100 gram gà tây là lượng cholesterol đã tăng vọt lên đến 580 mg !
Nói chung, thịt gà tây có những đặc tính dinh dưỡng tương tự như thịt gà, có thể dùng để thay thế các loại thịt chứa quá nhiều chất béo. Ngoài ra thành phần acid amin trong thịt gà tây cũng khá cân bằng trong đó lysine, leucine, valine và methionin chiếm tỷ lệ khá cao.. Tỷ lệ chất béo trong thịt gà tây thay đổi tùy phần sử dụng, nên tránh phần da và lớp mỡ dưới da. ngoài ra phần thịt đỏ chứa nhiều purines (150mg/ 100 gram thịt) nên không thích hợp cho người bị bệnh gout.
Từ đầu thế kỷ 20, thịt gà tây đã được xem là một thực phẩm bổ dưỡng, cung cấp ít calories, có thể thay thế cho thịt bò và thịt heo. Thịt gà tây chứa luợng chất béo bão hòa thấp, so với mọi loại thịt khác, tuy nhiên một số vấn đế liên hệ đến sức khỏe cũng đã được nêu ra, tương tự như mọi thịt gia cầm khác. Giá thành phẩm được hạ xuống nên đôi khi các tiêu chuẩn y-tế cũng..hạ theo.. Cơ quan CDC (US Centers for Disease Control and Prevention) đã thường xuyên ghi nhận là có đến 13 % thịt gà tây tươi tại Hoa Kỳ có chứa vi khuẩn salmonella,có thể gây bệnh nếu thịt gà tây không nấu chín đúng cách. Một vi khuẩn nguy hiểm khác là Listeria monocytogenes, có thể gây tử vong, đôi khi nhiễm vào thịt khiến CDC nhiều lần bắt thu hồi các thành phẩm.
Các Món ăn truyền thống bằng Gà tây :
* Tại Hoa Kỳ : Thịt Gà tây là món truyền thống của Ngày Thanksgiving : Gà được nhồi với ruột bánh làm bắng bắp, quay và ăn với hạt chestnut, chung với sốt cranberry. Tiệc Thanksgiving còn kèm thêm khoai tây và bánh pumpkin pie
* Món ăn Gà tây truyền thống của Mexico là Mole poblano de guajolote : gà tây nấu với sốt chocolat.
* Tại Anh, Gà tây là món ăn truyền thống của ngày Giáng Sinh : Gà tây được nhồi thịt heo trộn hành tây và rau sage, tiêu.. sau đó đút lò.
* Món ăn được gọi là Braised Turkey..
* Tại Pháp, danh từ Dindon (Turkey-cock) ít khi được dùng trong ẩm thực. Trên thực đơn món gà tây thường được gọi là Dindonneau (young turkey) và đôi khi là Dinde (dinde luôn luôn là gà tây mái, nhỏ, mềm chừng 2-3.5 kg)
Một số món nổi tiếng tại Pháp là Ballottine of Turkey à la toulousaine; Braised stuffed turkey (Dindonneau Farci Braisé); Daube of turkey à la bourgeoise..
Trần Việt Hưng
yduocngaynay