Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Phan Thị Trọng Tuyến
Phượng Các
#1 Posted : Saturday, October 30, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)




Phan Thị Trọng Tuyến


Sinh năm 1951 tại Bến Tre,
lớn lên ở Gia Ðịnh,
định cư tại Pháp.
Tác phẩm đã xuất bản:
· Mùa Hè, Một Nơi Khác (truyện, Văn Nghệ 1987)
· Một Trang Ðời (truyện, An Tiêm 1991)




Phượng Các
#2 Posted : Sunday, October 31, 2004 2:17:15 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Đọc "Người Trung Quốc Xấu Xí"

Phan Thị Trọng Tuyến

Người Trung Quốc xấu xí ra mắt bạn đọc đầu hè 98 tại Paris. Thi sĩ Nguyễn Hồi Thủ (NHT) (khổ) dịch từ một bản in ở Trung Quốc (TQ) của tác giả Bá Dương (Bo Yang) sau một chuyến đi TQ cách đây năm năm. Người Trung Quốc xấu xí (Chõu lòu de Zhong Guó rén) tập họp những bài viết và nói chuyện từ năm 1977.





Bá Dương sinh năm 1920 ở Trung Hoa lục địa, chạy sang Đài Loan từ 1949 : Tôi sống ở Đài Loan hơn 30 năm, mười năm viết tiểu thuyết, mười năm viết tạp văn, mười năm ngồi tù, còn mười năm tới sẽ viết lịch sử (tr. 23) theo bài tựa "Người Trung Quốc xấu xí " đọc tại đại học Iowa năm 1984. Và ông cho biết lý do ngồi tù : vì tôi đã nói lên vài sự thật .

Cách đây hai tuần, khi vừa đọc xong, tôi tìm cách gặp dịch giả Nguyễn Hồi Thủ, mong được phép chất vấn ông. Bởi tôi đinh ninh ông dùng tựa sách này để nói về người mình, như mấy ông Mỹ, Nhật và cả Việt nữa trong quá khứ : Người Mỹ ưu tư, người Mỹ trầm lặng, người Nhật xấu xí, người Việt cao quí, chính Nguyễn Hồi Thủ nói đến quyển sau này trong "lời người dịch" Quá nhiều bóng dáng (người) mình trong đó. Tôi nghi rằng NHT sợ đi chợ khu 13 bị "anh em" chận đường...hỏi tội, nếu ông dám giữ tựa đề Người Việt xấu xí.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi biết đã nghi oan cho người ta. Thêm nữa, cách đây vài tháng (lúc đó tôi chỉ mới đọc lời giới thiệu NTQXX ở báo Thông Luận, chỉ nhớ tên Nguyễn Hồi Thủ, vì đã có dịp đọc thơ ông) nhân trò chuyện với một sinh viên người Tàu của đại học Phục Đán, Thượng Hải, tôi có hỏi về quyển này -tôi đã dịch bừa là the ugly chinese- May sao tôi gặp được một chú bé, học khoa học nhưng ưa đọc sách văn chương đông tây kim cổ, cả trong và ngoài nước Tàu lục địa, đúng là học trò giỏi của đại học nổi tiếng nhất nhì ở TQ, chú ấy bảo có đọc và biết tác giả là người Tàu Đài Loan.

Vậy thì còn nghi ngờ chi nữa. Nhưng tôi vẫn thấy cứ như ông Bá Dương nói về người Việt chứ không phải về người Tàu. Nhìn ra mình trong bức họa người, chắc là chuyện giống nhau lông cánh gì đó chăng?

Theo cổ sử Trung Hoa, phía bắc sông Dương tử, khi dân Trung Hoa đã văn minh, có đất nước và thiên tử, phía nam chỉ là những bộ lạc, người Hoa gọi chung là Bách Việt (BV) . Chúng ta ngày nay là hậu duệ của một trong các nhóm người nam man ấy. Coi bộ dân tộc " văn minh" này (người TQ) nói rõ chúng ta chả có họ hàng chi với họ, nhưng xưa nay bên ta vẵn có người cứ muốn bắt quàng làm "con cháu" người sang :

Theo sử Việt Nam, Đế Minh cháu ba đời Thần Nông (thần của người Tàu) đi tuần thú phương nam, lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục.

Lộc Tục được Đế Minh cho làm vua phương Nam tức Kinh Dương Vương, Đế Nghi làm vua phương Bắc (con bà cả, gốc ở phương bắc, giỏi nặn bánh bao?)

Kinh Dương Vương lấy con gái của Thần Long Động Đình Quân.

Thí dụ rằng bà tổ này là con gái Bách Việt, phần lai Tàu của chúng ta từ đây giảm bớt (?!) Con trai của Kinh Dương Vương, Sùng Lãm Lạc Long Quân lấy con Đế Lai là bà (tiên) Ấu Cơ (biết hò giả gạo và nấu cơm?)

Xin nhắc Đế Lai là con Đế Nghi, vua phương bắc. Vậy bà tiên Ấu cơ của chúng ta có lai Tàu không?

Nếu xem Lạc Long Quân với Ấu Cơ chỉ là biểu tượng hay người cầm đầu, đám dân Bách Việt còn lại, cho đến nay, đã lai Tàu đến mức nào ? Sử sách Tàu không lẽ lại quên vết tích một (vài) hoàng thân lưu lạc phương nam? Hay ta chỉ nên biết đến mức vua Hùng để khỏi nhắc đến mối dây nhợ lòng thòng khi thì máu huyết anh em, tay chân môi răng, khi thì bè lũ bá quyền, bành trướng?

Người Tàu xưa nay (sinh đẻ/sinh cơ/ sinh sống) ở đâu, vẫn luôn quay về Tàu và sẵn sàng nhìn anh em với bất cứ người Tàu nào gặp gỡ ở bất cứ nơi nào trên thế giới . Người Việt xưa nay (Mường / Kinh....) thà trốn biệt trên núi hoặc chịu khổ nhục trong một thời gian (lệ thuộc, mất bớt lãnh thổ, xin lệ cống v..v..) rồi vẫn "ngoan cố" không chịu làm dân Trung Hoa.

Tiếng Việt, nghe rằng vay mượn đến sáu mươi phần trăm tiếng Tàu, nhưng đố ai chỉ học trường Việt, tiếng Việt, lúc đi chơi Cấm Thành mua hàng (trả giá) mà không dùng tay chân.

Nếu xưa là anh em (chú bác?), nếu xưa là một (?), tại sao đa số chúng ta vẫn dài lâu cương quyết chối từ sự ..tái hợp một nhà này ?

Rồi đến nay, với những khai quật ở Đông Sơn, Sa Huỳnh ...những công trình khảo cổ ở Việt Nam, tôi càng tin tưởng ở sự khác biệt đôi bên, từ những chỉ số sọ, màu da, nước tóc, đường nét môi răng, chiều cao lẫn bề dầy các thức trên người hay đồ vật... (nhân chủng), cho đến ngôn ngữ, phong tục, tập quán, truyền thống.. (văn hoá) . Tin tưởng hầu tiếp tục cưững chống ý muốn châu (như Tây Tạng) về hiệp phố (Bắc Kinh) này, mong còn mãi cái biên giới rạch ròi hiện tại (cho dù rằng nó đã lùi khá nhiều từ thời Bắc thuộc, cả từ thời Pháp thuộc, nói chi đến thời hai Bà Trưng ?!) Nhưng đọc sách NTQXX xong lại đâm sợ : con cháu

...Thần Nông không giống lông cũng giống cánh !

Xin giới thiệu cùng các bạn. Đọc xong, mong rằng bạn vẫn đủ lý lẽ khuyên tôi rằng "tôi ơi, đừng tuyệt vọng".



Quyển NTQXX gồm 3 phần : Thứ nhất Những bài nói chuyện. Thứ hai : Những bài viết và phần thứ ba là Những bài phê bình (của người khác) về hai phần đầu.

Trong bài đầu tiên (Iowa 1984) khi nói đến "nỗi khổ nhục và gian nan làm người Hoa " bắt đầu từ những người Hoa ở trại tị nạn Khao Y Đăng, bị Việt Nam đuổi đi (bằng ghe thuyền sau khi trả tiền cho nhà cầm quyền - địa phương-và trung ương ?-) Ông đặt câu hỏi Người TQ đã làm điều gì ác. ..(tr 18)

Ác với nhau :

Ngay cả đối với những người Hoa sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả,cánh hữu, trung lập, độc lập, thiên tả trung, trung thiên hữu, hữu thiên trung, vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cừu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì ?

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như TQ, không có nước nào có một nền văn hoá không đứt đoạn như TQ, mà cái văn hoá đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy Lạp, thời nay với người Hy Lạp ngay xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai Cập cũng vậy. Nhưng người TQ hôm nay thì đúng là hậu duệ của người TQ cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy, ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy ? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào vua bạo ngược, quan bạo ngược, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.(tr. 22)

(...) người TQ sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết mình xấu xí (tr25)

Cái văn hoá truyền thống kiểu nào mới sinh ra cái hiện tượng này, nó đã khiến (...) chúng ta mang sẵn trong mình những đặc tính rất đáng sợ ! Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn , ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn , nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn,. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. (tr. 28)

(...) Cho nên có thể nói , mỗi người Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở bên dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư . Người Trung Hoa ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi- nơi không cần quan hệ với người khác- thì có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người TH hợp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng một con giòi nữa. Bởi vì người TH có biệt tài đấu đá lẫn nhau. Chỗ nào có người TH là có đấu đá, người TH vĩnh viễn không đoàn kết được....(tr.30)

Nghe ghê chưa ? Đã hết đâu :

...đường đường là một nước lớn. Thế mà thay vì có một tấm lòng bao la, người TQ lại có một tâm địa thật hẹp hòi (tr. 40)... đưa đến Một đằng tuyệt đối tự ty, một đằng tuyệt đối tự kiêu. Lúc tự ty thì thành ra tôi tớ, nghĩ mình không bằng đống phân chó. Lúc tự kiêu thì thành ông chủ, xem mọi người đều là cứt chó hết (...)

Viết được dăm ba bài văn là đã thành văn hào. Đóng được hai bộ phim đã là ngôi sao sáng của nền điện ảnh. Hai năm có được ít chức quyền nghiễm nhiên có thể cho mình là cứu tinh của nhân dân. Qua Mỹ học được hai năm đã trở thành một học giả chuyên gia.(tr. 41)

Theo tác giả, ấy do tội lỗi của đám nhà Nho đã bóp chết khả năng suy xét, tưởng tượng chẳng khác nào lấy cái túi nhựa bịt kín bộ não lại. Ông gọi là hũ tương văn hoá Trung Quốc (dẫu có vứt mứt đào vào rồi cũng sẽ biến thành cứt khô).(tr.48)

Nếu người dân không tự nuôi dưỡng đươc cho mình cái trình độ phán đoán đánh giá những lãnh đạo của mình thì chẳng có lý do gì để trách ai cả. Đi tôn thờ một kẻ không tôn thờ được thì còn trách ai một khi kẻ đó cưỡi lên đầu lên cổ mình ?(...) Dân chủ là một cái gì phải tự mình giành giật được, chẳng ai ban phát cho cả. (tr 49)

Kết luận của bài nói : Nếu mỗi người đều trở thành kẻ biết thưởng thức, chúng ta sẽ có thể đánh giá chúng ta, hiểu rõ giá trị bạn bè, thấy rõ được mặt thật của những nhân vật lãnh đạo nước nhà. Đó là con đường trước mặt chúng ta phải đi, mà cũng chẳng còn con đường nào khác nữa.

Trong bài Người TQ và cái vại tương, Bá Dương chê người TQ ưa làm quan, phong kiến, khi phán xét, suy luận, không dùng lý trí mà nặng về cảm tính; xã hội dựa trên tiêu chuẩn chính trị đạo đức thời phong kiến hủ Nho, đặt lợi ích của người làm quan lên trên. Lâu ngày, những thói tục xấu xa ăn sâu vào "nhiễm thể", kết quả là " quả báo nhãn tiền". Cuộc chiến tranh nha phiến là một thí dụ.

Dân vi quí, quân vi khinh (dân là quí, vua là thường) Đấy chỉ là một thứ lý tưởng mà TQ chưa bao giờ thực hiện (tr. 62) Người TQ xưa nay có bao giờ biết dân chủ, tự do, pháp trị là gì. Tuy có người bảo chúng ta cũng có tự do, có thể chửi cả hoàng đế, song thật ra quyền tự do của chúng ta rất có hạn, bị kẻ thống trị khống chế trong phạm vi cho phép (....) Phạm vi của tự do rất hẹp hòi. Đương nhiên có thể có cái tự do suy nghĩ vớ vẩn chứ các khái niệm dân chủ, pháp trị thì hoàn toàn chẳng có. (tr.65)

Trong bài Đời sống, văn học và lịch sử , diễn văn đọc ở trường đại học Stanford (S. Francisco) năm 1981, đây là một trong những bài đầu tiên, chúng ta gặp trong đó các ý đã được khai thác ở những bài sau năm này.

Bá Dương liệt kê năm khuyết điểm :

Thứ nhất : vì nhân quyền, nhân tính, phẩm giá con người bị chế độ và xã hội phong kiến chà đạp trong suốt 5000 năm, khiến dân không còn lòng tự trọng ( ?) cái tự trọng còn lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối mình như A Q trong truyện của Lỗ Tấn (...). Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng (....) lúc ra khỏi nhà anh lại bảo " Ở nhà đẹp thế ! Không biết ăn cằp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền ! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu trụi cái nhà nó đi cho rồi !" Tâm lý (...) bị ức chế lâu ngày chỉ biết dùng cái tinh thần đó để tự thoả mãn. (tr. 80) . Đến nỗi, theo tiên sinh, hai lần thắng lợi lớn nhất của văn hoá TQ là khi TQ bị nhà (Bắc) Ngụy của Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành và nhà Mãn Thanh chiếm, lại chẳng đem kết quả tốt , bởi vì Những kẻ xâm lược cố nhiên đều hấp thụ và kế thừa văn hoá TQ, nhưng lại tiếp thu cái phần kém nhất của văn hoá TQ, nên kết cục cũng chẳng ra gì. Thay vì trở nên hùng mạnh thì cả dân tộc họ lẫn dân tộc Trung Hoa lại càng suy thoái (tr 78)

Khuyết điểm thứ hai là 4000 năm chiến tranh liên miên chỉ vì bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra lòng dạ chúng ta thành hẹp hòi (tr.82)

Khuyết điểm thứ ba là chế độ khoa cử, quan trường, tạo ra một tầng lớp Quan liêu chẳng trung thành với quốc gia lãnh tụ gì cả, chỉ tận tâm tận lực với kẻ cất nhắc nó lên làm quan (tr 85) (....) Cái xã hội ăn chơi, phù hoa là nơi các quan ra oai, tự nhiên hình thành một hệ thống tương hỗ bao che giữa các quan với nhau - một quan hệ vô cùng phức tạp. (tr 86) (.....) phức tạp đến độ một người lành mạnh không thể nào chịu nồi (tr.89)

Tinh thần Nho giáo bảo thủ, là khuyết điểm thứ tư, khiến xã hội mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự tìm hiểu, tự phê phán (tr 93)

Và nạn nhân mãn là khuyết điểm (cuối cùng) TQ quá đông, nghèo khổ quá lớn, quan trường quá mạnh, cạnh tranh quá khắc nghiệt, những lý do này sinh ra nơi người TQ cái hiện tượng bẩn, loạn, ồn, xâu xé lẫn nhau (...) Tôi cho là TQ là một nước tuyệt đối không trọng lễ nghĩa. Người TQ thật thô lỗ...(tr 96) Người TQ thông minh (....) đến độ khi bị đem đến lò sát sinh, còn cố cò kè về giá cả của mình, nếu kiếm thêm được vài đồng thì chết rất hả hê. Cái kiểu thông minh quá cỡ này nhất định sẽ thành kiểu ích kỷ quá cỡ. (...) người nào mà không suy nghĩ một cách ích kỷ, cư xử một cách ích kỷ đều bị chế diễu là ngu ngốc (tr.99)

Trong phần những bài viết, trích từ các tập Đập tan hũ tương, Dẫm lên đuôi nó và Những con trùng dậy sớm và Quảng trường thông giám với những chi tiết, thí dụ hay dẫn chứng lấy ra từ lịch sử hay từ đời sống hiện tại ở tại Trung Quốc, Đài Loan và cả nước Mỹ, ông khai triển các ý đã nói trong phần đầu

(...) Nhân là phe nắm quyền, đối với thứ dân (...) bố thí , ban phát cho để tỏ ra mình đại lượng, khẳng khái. Sự thực là giữa người và người đầy những "cung kính" và "sợ sệt". Có nhiều người vì kính mà thành sợ, chẳng khác nào con đối với cha. Có nhiều người vì sợ thành ra kính, giống gái đĩ đối với khách làng chơi, như đại thần đối với hoàng đế, tiện dân đối với quan lại, tù nhân đối với cai ngục.(tr.115)

Tính ích kỷ quá mức nói ở phần trước được thể hiện ở chỗ không tuân thủ kỹ luật chung và lúc nào cũng mưu lợi riêng

Ôi ! Một kế hoạch, một phương pháp, một hội nghị, một quyết sách, thậm chí một vụ kiện cũng chỉ đều là cái cớ để (.....) nghĩ ngay rằng trong việc này mình có lợi gì không? hoậc ta sẽ kiếm chác (...) được hưởng quyền hành gì (....) được trách nhiệm lớn hay nhỏ? (....) đều lòng vòng trên những thứ đó. Bề trên cũng vậy, cấp dưới cũng thế. Cả anh cả tôi cũng rứa, mọi người đều ôm lấy chúng đến chết cũng không buông (tr. 119) Cái kiểu nhà Nho, mồm không nói đến lợi, đến tiền nhưng lòng dạ lại đầy ứ những quan niệm què quặt về lợi tiền (tr.121) Miệng lưỡi thì không ai bằng, thông minh tài trí, khả năng phán đoán tưởng chừng như nhất thiên hạ. Nhưng (...) trong muôn vạn người chẳng gặp được ở lòng ai có chất chứa những thứ đó (tr. 122)

Mỉa mai Khổng Tử :

Những điều dạy bảo này của thánh nhân thật là thông minh rành mạch : Con người phải sống theo chiều gió(...) chờ cho người khác bình thiên hạ xong rồi thì ta nhảy ra tìm một chức quan. Lúc dầu sôi lửa bỏng thì ta ở nhà đánh giày cho thật trơn, và gởi vợ con đến những nơi an toàn nhất. (....) tấm thân nghìn vàng không ngồi trong căn nhà sắp đổ (....) không bao giờ nên đến gần một nơi mà một viên ngói có thể rơi vào đầu. Đối với những thối nát chính trị, những đau khổ của dân lành, mình chẳng dính vào làm gì cho mệt thân (...)Vì nhìn thấy thường khó tránh khỏi tức giận, tức giận thường khó tránh khỏi nói toáng lên, nói toáng lên thường khó tránh khỏi bị tai vạ. (tr. 124)

Tại sao Khổng tử ít khen ai khác ngoài Nhan Hồi cái anh chàng học trò nghèo rớt mồng tơi đó (....) bởi nhà Nho ca ngợi chỉ vì nghĩa mà không vì lợi và dạy đời rằng Nghèo cũng hạnh phúc được Nếu mỗi người TQ đều hạnh phúc kiểu đó, quốc gia dân tộc phải quay về thời đồ đá mà thôi (tr.125)

Con người là một loại động vật biết cười. Nhưng những cô y tá, những cô bán vé xe người TQ lại là một ngoại lệ.(..) trừ phi vứt tiền vào mặt họ, thì ngay cả ông trời cũng chẳng có thể cậy mồm họ ra cho họ cười được

So sánh với nước Mỹ, dân Mỹ, Bá Dương tiên sinh chê dân mình trong chuyện tiếp xúc, giao tế, không trọng khách hàng, thiếu lễ nghĩa, không biết nói cám ơn, xin lỗi, không biết xếp hàng trật tự.

Nước quân tử (...) là nơi trẻ con và người già có bị lừa khi đi mua bán không (tr. 126)

Ông kể về kinh nghiệm của mình sau những chuyến viếng thăm nước Mỹ :

Trời ơi ! Thi ra người Tây phương mỗi khi đi ra cửa đều dừng chân giữ cửa cho người đi sau... hay (...) giữ cửa cho người đi sau tiếp được cửa rồi mới từ từ bỏ tay ra.

Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn,. Bây giờ cái việc giữ cửa này, tôi đã thuộc như cháo. Và từ đấy trở đi tôi liên tục được nghe từ cửa miệng những ông già, bà già Mỹ cái câu "cám ơn ông" nghe sướng cả lỗ tai. Lúc quay lại Đài Loan, tôi vẫn quen thói "tôn sùng" Tây phương này . Nhưng chỉ được ba hôm thì lại vẫn chứng nào tật ấy. Mà cái đó không phải vì ý chí của tôi yếu đuối, nhưng vì mỗi lần dừng lại cung kính giữ cửa, thì cái ông bạn da vàng ở đàng sau nhìn tôi như thể mồm anh ta đang ngậm cục cứt khô, không thể nào nghe được một thanh âm gì giống như tiếng cám ơn phát ra từ nó cả. Tôi bèn cứ thả cho cửa nó tung ra như cũ, mặc kệ mẹ cho nó đập vào mặt ai thì vào, có đập chết cũng được ! Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người TQ ra cái câu "cám ơn ông" e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được.

Bằng chứng của ông về một đất nước thiếu lễ nghĩa, là những nhận xét về cung cách ứng xử của người TQ trong các buổi đình đám vui chơi hay tang ma.

Trong đám cưới chẳng hạn, những nghi thức trang nghiêm, dù là truyền thống xưa hay du nhập của Tây phương hiện đại

Hôn lễ không ra hôn lễ mà biến thành một loại phường chèo. Lễ đường (...) trở nên một thứ miếu đền ồn ào náo nhiệt. Mọi người đến không phải để chúc mừng đám cưới , mà để tìm gặp bạn bè, trao đổi xã giao với những người sống trong cùng một thành phố mà hai, ba bốn năm rồi chưa gặp mặt nhau. Phòng cưới thành ra một loại trà đình tửu điếm .Độ chừng nghi lễ đã xong, (...) bày mà chược(..) tụ tập hàn huyên,thăm hỏi tin tức, bàn luận thời cuộc, ngay cả chửi rủa người này, người nọ. (tr.149)



Và cũng vậy, tang lễ (...) trở thành một bản sao của cái loại 'đám cưới văn minh" đã nói trên (...) sự thực, ngay ở nơi quàn xác chết hiển nhiên cũng đã thành chỗ kết bè kết đảng, lại đương nhiên thành chỗ " xa nhà gặp người quen" thì nét mặt phải tươi cười rạng rỡ. (tr.152)



Nói về các phố Tàu (trên thế giới Tây phương) : từ những băng đảng mafia cho đến giới trí thức



Đa số người TQ đều cố gắng" không mất gốc" nghĩa là tích cực chia rẽ, xâu xé nhau. Bất kỳ ở góc biển chân trời nào hễ có người TQ là có cấu xé lẫn nhau (tr 156)



Ví dụ : giáo sư A mời tôi đi quán nhưng nhất định không mời giáo sư B tham gia. Ông giáo sư C nghe nói tôi ngủ nhà ông giáo sư D tức khắc thanh minh không muốn kết bạn với cái loại người trục lợi như tôi. Tôi rời nhà ông E, định nhờ ông ấy chở đến nhà ông F, thì ông E nói " Anh bảo thế nào? Gặp thằng đó à? Thôi, anh đi bộ cho nó khoẻ nhé



Các phố Tàu đã trở thành những động quỉ nuốt tươi người TQ, thành nơi chứa chấp vô số người ở chui không giấy tờ. Ở đó trẻ con hoặc các bà già nhiều khi không có cách nào khác hơn cách làm việc trong các xưởng quần áo lậu với đồng lương không đủ húp cháo cầm hơi, chẳng khác gì những nô lệ da đen thuở nào (tr 157)



Và tác giả trở lại cái nỗi sợ ông nói đến ở phần trước (tr 115) : một phụ nữ Tàu kể chuyện bị đồng bào lừa, ông đề nghị đem lên báo thì bà ta thất sắc " Ông ơi, ông ở tận bên Đài Bắc, đối với bọn chó săn đó thì không có gì phải lo. Nhưng em tôi đang ở Xăng Phrăng-xítx-cô. Ông hại nó mất. Ông đúng là cái thằng chuyên gây ra tai họa thôi !" Nói xong bà chùi nước mắt nước mũi lên người tôi và bắt tôi thề nếu viết gì về bà thì tôi sẽ chết đuối ngay trong cốc nước trà.



Than ôi! Trong thế giới này chỉ có cái thiên tính nhu nhược của người TQ mới không dám căn cứ trên lý lẽ để đấu tranh . Nếu có vài người dám làm như vậy thì những con giòi trong hũ tương cho rằng đấy là những phần tử cực đoan không an phận. Mọi người đều sống theo cái kiểu " Thôi ! Bỏ qua ! Bỏ qua đi ! Cái gì nó qua thì để cho nó qua, quá khứ thì hãy để cho nó là quá khứ (tr. 158)



Trong phần trả lời bạn đọc, cho rằng dưới sự hun đúc của văn hoá TQ, người TQ mang một tâm địa cực kỳ mù mờ tăm tối, kỳ thị địa phương, lấy hổ thẹn làm vinh dự, không dám yêu, ghét, không dám biết ơn và hy sinh, ông viết:



Đại Hán thiên thanh (...) đó là tiếng nói của người TQ khi tụ tập lại với nhau để công kích, bới móc đến không còn một cái gì về đời tư của kẻ khác (tr.164) Yêu thì sợ chúng cười, ghét thì sợ chúng thù. Thế là yêu và ghét quện với nhau thành một thứ lực lượng gian ác (...)



đã nổ bùng (...) tại lục địa qua cái gọi là Cách Mạng văn hoá. Tất cả những dã man, hung bạo, xảo trá, đố kỵ, tàn nhẫn tiềm tàng trong nội tâm sâu thẳm, thâm nhập vào xương cốt người TQ đều đã được biểu hiện qua nó. (...) Một quốc dân hạng ba không thể nào sinh ra được một chính phủ hạng nhất, cũng như một chánh phủ hạng ba không thể nào có được một quốc dân hạng nhất cả. Chúng ta, (...) phải bắt đầu việc ấy (...) Chúng ta không thể nào chỉ trong chốc lát mà thay xương đổi thịt. Nhưng nếu thay đổi được- dù chỉ một tế bào-thì chúng ta cũng phải làm ngay (tr 165)



Muốn thay đổi, phải học của người khác những điều hay tốt ở các nước tiên tiến, bởi vì cái anh TQ, bị lao phổi dến thời kỳ thứ ba kia, nhất thời đứng trên vũ đài thế giới dương dương tự đắc, nhưng rồi một cơn gió lạnh thổi tới lập tức hắt hơi ba bốn cái thật to, mũi dãi lòng thòng (...) nếu như cứ một mực kiêu ngạo hão, giống như một bà lão già lúc nào cũng giơ cái chân bị bó vừa kinh vừa thối của mình lên khoe nào là bó khéo, bó đẹp thì không tránh khỏi sẽ đi vào cái ngõ của sự diệt vong.(tr169)



Sự học hỏi này bị xem là "sùng dương, mị ngoại", tác giả xem như mình bị (một kiểu chụp mũ) Phiên Thiên Ần ngàn cân chụp xuống đầu mình chỉ vì những so sánh và lời kêu gọi học hỏi bắt chước những cái tốt đẹp của Tây phương này Nếu chúng ta muốn người TQ có thể mở rộng cái tấm lòng nhỏ hẹp ra, chúng ta phải học tập của người phương Tây sự vui vẻ phóng khoáng, tấm lòng thích giúp người (....) Đứng trước người Tây phương lễ độ, lịch sự, có thật là chúng ta không cảm thấy thẹn vì mình thấp hèn không? (tr 179)



Từ đây trở về sau, khoảng hơn 100 trang, là phần thứ ba gồm những bài phê bình của độc giả, các bài xã luận của báo chí TQ ở Hồng Kông, New York, Los Angeles ... kể cả những bài bênh vực hoan hô chỉ trích những người đã phê bình tác giả.



Có người khen Bá Dương, so sánh ông như Lỗ Tấn với AQ , cùng Lý Tông Ngô tiên sinh với cái "Hậu sắc", sáng tạo ra cái hũ tương như ba chân của một cái đỉnh (tr. 198) phán đoán sâu sắc (tr.206) và rút tỉa kết luận (...) nếu hỏi TQ cần gì, cầu gì thì chỉ có một thứ duy nhất mà thôi, đó là dân chủ (tr.210) và thêm rằng : chúng ta không nên hy vọng vào sự "tự mình tỉnh ngộ" (....) Đó là chuyện nằm mơ giữa ban ngày (...) Chúng ta chỉ có thể sửa đổi chế độ chính trị, dùng áp lực của chế độ bắt những người không tự nguyện sửa đổi lỗi lầm không còn đường tránh né (...)Những chế độ không dân chủ, tức không có chân lý, tức không thể sửa đổi lỗi lầm (...) Thế mà (...) vẫn còn nhiều người (....) tin rằng những kẻ thống trị sẽ tự động biến thành Nghiêu Thuấn, không cần quyền lực khác để chế ngự và xét đoán, không cần có dân chủ để giám sát, lại cũng không cần có cả tự do ngôn luận để tố cáo (tr.214)



Trái lại, một người khác mai mỉa :



-ở cái nước Mỹ tốt đẹp của ông đấy , những đen tối và tàn khốc đều bị xoá bỏ trong chuyện khai phá miền viễn tây của Mỹ,



-người Nhật thì đối với nền văn hoá TQ lúc nào cũng phục sát đất (tr 220), người Tây phương cũng đang nghiên cứu học tập nó, đừng để người Nhật Bản nói rằng chỉ có họ mới là con cháu thừa kế chính thức của nền văn hoá TQ (tr 222)



Có kẻ cũng rầy rà :



... mấy người TQ cố ý chửi đổng đó là những người TQ không bình thường (...) Ngày hôm nay lại chui ra cái ông Bá Dương, tự xưng là một nhà văn yêu quần chúng một cách phi thường để giương cao thêm cái truyền thống " ngũ tứ" .Trước hết y gào to "Văn hoá hũ tương" sau đó là bôi nhọ cái anh chàng TQ xấu xí



Và hỏi ông có ý định gì (dịch theo tiếng Việt hiện đại : ý đồ gì) anh là thằng thối tha không ngửi được đến mức vô phương cứu chữa



Có người phản bác nhẹ nhàng hơn, đưa ra dẫn chứng cụ thể về những công trình xưa nay của nền văn minh và văn hoá TQ (Khổng Tử Mạnh tử), hay rất trừu tượng : (...) khi tôi đi trên mảnh đất lớn của TQ, bất kỳ ở xó xỉnh nào, đối diện với đám đông người, nơi tâm linh tôi thường rạo rực cảm thấy một thứ trí tuệ mênh mông không bờ bến....



Và một phần trí tuệ mênh mông này dẫn giải : thật đó người Ần Độ.. .dơ hơn chúng ta -vì hình ảnh cái vỉ đập ruồi Ần Độ sau lưng tổng thống Mỹ Carter trong một lần viếng thăm chính thức xứ sở của Gandhi; còn chúng ta bẩn ở trung tâm Los Angeles nhưng ở Monterey park, phố Tàu ta sạch hơn chứ (vì ở đây người TQ ta giàu hơn) còn sở dĩ ta ồn ào là bởi cái thứ tiếng TQ ta vốn độc âm, nhiều đồng âm và nhiều âm tiết, người TQ phải nói to và hoa chân múa tay để giúp mồm miệng lên bỗng xuống trầm cho ý tưởng diễn đạt (...) rõ ràng hơn (tr. 253)







Suốt mấy trăm trang một giọng lỗ mãng, tuy có hài hước tí chút nhưng vẫn thô bạo. Một bức tranh (naif) toàn những mặt trái, trắng đen hai màu, không bề sâu, đôi lúc mâu thuãn, nhưng khiến tôi liên tưởng đến bức họa guernica Marie sến của Phạm Thị Hoài. Dĩ nhiên, xin thưa ngay để khỏi bị (đồng bào, fans của PTH) mắng mỏ, bằng lời của tác giả BD : không thể so sánh tranh của BD tôi với tranh Van Gogh Phạm Thị Hoài .



Tranh vẽ người xấu xí hay tranh vẽ quần tiên mà chúng ta nhìn vào như gương soi hay như ác mộng, do " lỗi " chúng ta hay do tài ba (ý đồ?) của tác giả?



Chỉ mới nhìn bà con xa thôi , dù cho rằng có mọi trùng hợp ngoài ý muốn của tác giả này (?), mà tôi còn nghe chao đảo, huống hồ là kẻ trong gia đình cật ruột : Ông Bá Dương bị đánh mắng hay bị bỏ tù hẳn là điều...tự nhiên, Nhưng cho dù có thật sự thiếu trình độ uyên bác và cái chặt chẽ của lý luận, như nhận xét của dịch giả, khi bình tĩnh lại,tôi tự hỏi vì sao mà chao đảo, bàng hoàng.



Xin trích sau đây một phần lời người dịch, để hiểu mục đích và chia sẻ nỗi niềm, tâm tình, hoài bão của thi sĩ Nguyễn Hồi Thủ khi ông thực hiện công trình này. Bởi tôi tin chắc ông đã cực kỳ xúc động, nên vội vàng vác gương mang về nhà cho chúng ta cùng soi :



" Bản thân tôi trước kia mỗi lần đọc phải những quyển sách kiểu "Người Việt cao quí" "Người Việt đáng yêu" là một lần không những không cảm thấy mình được dự phần vào cái cao quí, đáng yêu ấy một tý nào, mà càng thấy mình thấp hèn và đáng ghét. (...) may thay tôi gặp được quyển sách của Bá Dương.



(...) Người Việt Nam vừa thoát ra được cuộc nồi da xáo thịt, còn phải mất hơn 20 năm để chì chiết lẫn nhau, bỗng một hôm tự thấy mình đang đứng bên lề đường phát triển; đói rách, nghèo nàn, lạc hậu, bối rối không biết đi về đâu. Vì cục diện thế giới đã thay đổi quá nhanh, các phe phái, chiêu bài mà mình vì nó mất bao xương máu và cả một thời son trẻ đã chỉ còn là một dấu vết mờ nhạt.



Trí thức Việt Nam, hoặc những người còn chút suy tư, nhìn sang các nước láng giềng, nhìn ra thế giới cũng hoang mang, lúng túng không kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ khi tỉnh dậy vì những tiếng cà nông phươnfg Tây bắn vào các cửa biển.

Trong thời kỳ gọi là " đổi mới" gần đây, các nhà lãnh đạo Việt Nam hay những người tự cho mình có sứ mạng lãnh đạo, lại phát động phong trào đi tìm kiểu mẵu phát triển, giống phong trào "canh tân" của các cụ đồ ngày xưa. Nhưng (...) ngoài các mô-đen Mỹ Pháp Nhật, ngày nay còn có một lô các mô-đen mới nữa, trong đó phải kể mấy con rồng, con cọp châu Á ngay sát nách mà ở thời các cụ họ cũng chẳng khác gì mình.



Người có đầu óc một lần nữa phải thắc mắc tại sao bây giờ lại có sự khác biệt đó? Dân tộc Việt Nam cơ bản khác gì với các dân tộc khác để ra nông nỗi này?



(...) tôi vẫn tin rằng mỗi dân tộc phải có một phương thức, một giải pháp riêng đối với cái vận mệnh riêng của mình. Cho nên, trước khi đi cóp nhặt các mô-đen, cần nhất phải biết mình là cái thứ gì và có thể làm được gì ngay trước mắt. (...) không thể chỉ cứ tinh tướng, huyển hoặc để tiếp tục tự kỷ ám thị hoặc lừa dối nhau, tiếp tục dùng cái lưỡi gỗ để nói những điều cường điệu, hãnh tiến.



Thường trong lịch sử Việt Nam vốn đã rất ít người thật tình có can đảm và trung thực để tìm hiểu, phê bình, những cái xấu cái dở của dân tộc mình. (...) chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng trong sáng..Thậm chí lại có cả người lãnh đạo lấy tên giả viết sách để ca ngợi cá nhân, có cả nhà văn bịa tên một người nước ngoài để ca ngợi dân tộc mình. (...)



Trung Quốc đã là một mô-đen lớn cho Việt Nam (....) hiện nay (...) vẫn còn là mô-den phát triển cho một nước theo chế độ đảng chủ, lại thuộc về thế giới Hán hoá như Việt Nam.



Quyển sách này soi sáng thêm một bề mặt, có thể là mặt trái của văn hoá Trung Hoa, của dân tộc Trung Hoa .Theo tôi nghĩ nếu lấy cái bề mặt này đem tham chiếu để phản tỉnh, không những chỉ là việc ích lợi cho những người Hoa mà còn cho tất cả các cộng đồng có liên quan ít nhiều đến văn hoá Trung Quốc. " (tr.4-5)







Xin quí vị thử thay chữ Trung Quốc bằng Việt Nam và thay Đài Loan, Đài Bắc, lục địa bằng Bolsa, Paris hay Sài gòn, Hà Nội, hũ tương bằng tĩn nước mắm, Phiên Thiên Ần bằng chụp mũ, mũ cối, thay chữ chế độ khoa cử, quan trường, bằng đảng, đảng tịch, thay thế Đại Hán thiên thanh bằng anh hùng bách chiến ,bách thắng, cuộc chiến long trời lở đất , thu 5000 năm văn hiến lại còn 4000 năm giữ nguyên những cách mạng văn hoá, cải cách ruộng đất , quan liêu..v..v và v...v



Chẳng là ta trong gương đó hay sao? Bạn chưa bằng lòng ư?



Xem lại năm khuyết điểm người TQ của tác giả để so sánh với ta :



- Về hai khuyết điểm đầu : Vì nhân tính, phẩm giá bị chà đạp... ...chiến tranh liên miên vì bần cùng , giết chóc đố kỵ...

Thử đưa vài thí dụ : những chuyện nhỏ :



* như vô (kỷ) luật (vì không biết hay không chịu học hỏi , không tự trọng , bất chấp hoặc xem như mình nằm trên luật pháp như BD đã nói) , riêng về luật đi đường chẳng hạn : "phóng nhanh vượt ẩu" , " đi bộ ở khu Bolsa mà bị cảnh sát Mỹ cho "ticket" phạt hay lái xe trên xa lộ ở Đức, Tiệp bị tai nạn thảm khốc, Luật rừng trong giáo dục , buôn bán (trong và ngoài nước Việt)v..v...



* như nhà cửa bẩn loạn , tính đố kỵ ,ham lợi , hẹp hòi, lường gạt, chửi bới nhau...chỉ cần ...nhìn quanh hay đọc báo (báo chí Việt Nam ở Sài Gòn, và hải ngoại)



* Còn "chuyện lớn" (vì là những thành tích lẫy lừng của các người lãnh đạo, lãnh đạo mấy mươi triệu dân thường nói trên, thay phiên nhau nằm trên pháp luật, nắm quyền sinh sát trên hai miền Nam Bắc, suốt sáu bảy thập niên sau cùng của thế kỷ này) chúng ta chỉ cần đọc những quyển hồi ký, lịch sử, các tâm thư, thư kêu gọi, những đơn kêu oan/kiện cáo : từ chuyện xa xưa như những vụ thảm (ám) sát cá nhân hay tập thể (luật 59 miền Nam VNCH xử tử Việt cộng nằm vùng, chiến dịch Phượng Hoàng, luật miệng (?) của Việt Minh/ Cộng : tiêu diệt Việt gian , phản động : Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm và những người trotskystes khác ,..ngụy quân ,ngụy quyền Mỹ Thiệu Tết Mậu Thân, vụ Trần Quốc Hoàn giết một số người dân Tày- chuyện chị em cô Vàng-) đến chuyện nay : cô Cầm cùng cụ Kiệt và vụ thầu đường dây cao thế, cụ Đỗ Mười với bài báo cáo nội bộ và một triệu đô la quà tặng của tư bản Nam Hàn, nỗi lòng của các đại cố vấn (Trần Quỳnh tâng bốc "anh Lê Duẩn" và tiếp tay thù trong giặc ngoài hạ bệ thần tượng, Hà Nghiệp với sự phân vân đầy triết lý (hiện sinh) : tới nay ta vẫn chưa biết mình là ai !)



Bạn tôi cười khoát tay : Thiếu tự trọng ư? Bẩn loạn ư? Chỉ bởi nghèo ! Phú quí sinh lễ nghĩa và ...sạch sẽ. Vào những biệt thự ở Hà Nội, ở Sài Gòn bây giờ xem. Có khi còn ...hơn vi la ở Nice, ở Foutain Valley hay Hollywood /Palm springs/ Miami, đừng vào những mái nhà xơ xác ở làng quê hẻo lánh hay của đồng bào thiểu số ở Sapa ! .



Xin hỏi bạn tại sao nghèo? Có phải bởi chiến tranh? Nhưng đó là chuyện quá khứ !



Về cuộc chiến long trời lở đất này, cho dù là anh hùng bách chiến bách thắng, nhìn lại những tiêu tan, mất mát, những đau thương oán hận bao trùm nhiều thế hệ, những ai tự trọng và có nhân đạo khó lòng dương dương tự đắc, hùng hổ hâm nóng chiến tích hay tiếp tục thổi lửa căm thù và ngang nhiên xâu xé nhau để tranh dành quyền lợi. Thứ quyền lợi nhỏ trước mắt. Biết đâu, khiêm tốn hơn, biết hoà giải hoà hợp dân tộc thật sự, với tình lý (luận) thuộc hạng siêu, và chỉ với những trí tuệ hơn bình thường một tí thôi, các vị đã chẳng có thể thuyết phục được người Mỹ và các đồng minh giúp đỡ (bồi thường?) hòng cùng nhau xây dựng lại đất nước .



Chẳng giống người bà con TQ của ông Bá Dương hay sao?



Về các khuyết điểm : chế độ quan trường, tầng lớp quan liêu , nạn nhân mãn : đều là những chuyện biết rồi, khổ lắm, nói mãi, Cũng chỉ cần đọc các báo đã dẫn, sách vở, thư từ (bỏ ngỏ) , tâm tình , của các sĩ phu, trí thức trong nước Những sự việc này, người dân thường trong nước bị thiệt thòi vì phải đọc lén lút, lắm khi có mà không dám đọc



Về Nho giáo bảo thủ?



Cần lao (nhân vị), cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, anh...
Phượng Các
#3 Posted : Wednesday, December 1, 2004 2:39:55 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
giương cung bắn nhạn


phan thị trọng tuyến


Tôi đang loay hoay sắp xếp , đếm tới, đếm lui mớ cours thì có tiếng Lệ kêu. Ra mở cửa, tưởng rằng sẽ gặp một bộ mặt nhăn nhó, nào ngờ lại thấy nụ cười rạng rỡ, báo tin: "Có người mới tới ". Tôi thất vọng:
- Tao lại tưởng bỡ là kỳ thi được dời đến một ngày vô định .
Lệ ngồi xuống giường, nguýt tôi :
- Xứ này không có máy bay dội bom, chẳng có Vi Xi pháo kích, tao với mày đã qua mấy mùa thi cử, từ thi lớn đến thi nhỏ : chưa một lần có thay đổi trong lịch trình thi của bất cứ môn nào. Đừng tưởng bỡ nữa. Này, có người mới tới...
Lệ gãi gãi sóng mũi. A, tên này đang xúc động đây, tôi mỉm cười tra hỏi :
- Người mày có quen à ? Bạn học cũ ?
- Mới thấy lần đầu tiên trong đời "em".
- Tháng trước có hai cô, tháng rồi ba cậu, năm nay tỉnh này coi bộ đắt khách. Mà này cours mày đã trám lỗ chưa, cho tao mượn. Ngồi đếm cours mà muốn khóc, tờ nào cũng hang lỗ thấy mà ghê !
Lệ vẫn mơ màng :
- Người đâu mà ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương !
Tôi cảm động :
- Thật không...Sao hôm qua mày còn than thở với Điền là tao ưa phát ngôn bừa bãi, không có duyên lại dễ làm chúng ghét.
Lệ ôm bụng cười dài rồi gật gù :
- Đúng rồi, hãy liệu mà chữa đi mi, tao khen là khen người mới tới kìa.
- Một tiểu thư Hà Nội ? Không phải ư, vậy là một tà aó tím đất thần kinh ? cho quí vị đồng bào đực rựa tha hồ vỗ cánh múa. Bên nhà tệ quá, mỗi năm giấy tờ mỗi chậm trễ, thiên hạ sửa soạn thi partiels, mình mới lù lù bò sang, làm sao mà rượt cho kịp. Tháng mười hai rồi đấy. Mày biết nó học ngành gì không, để giới thiệu bà con giúp đỡ hoặc xem bọn mình có thể ra tay nghĩa hiệp...
Lệ vẫn cười cười :
- Người ta đâu là con nít mười tám tuổi như bọn mình thuở đó mà mày lo con bò trắng răng, dẹp bàn tay zorro của mày lại đi cho tao nhờ !
Tới đây thì tôi chịu hết nổi, quái thật, bạn bè tây tà rệp mít cả đống, lắm tên cũng cà rà tuyên bố này nọ, có khi nào chị chàng lại tỏ ra "yếu đuối " như vậy đâu.
- Nhân vật nào mà có vẻ khủng khiếp quá, nói ra mau lên không thôi tao sẽ đứng tim mà chết, mất công mày uýnh điện tín về cho tía má tao, có khi còn phải dài dòng giải thích để khỏi tủi hổ vong linh tao.
- Ừ, sưả soạn quả tim mày đi...Bình tĩnh nghe đây..."hắn " ta đang soạn luận án cao học, học bỗng nhà nước, người ta đã học xong kỹ sư Nông Lâm Súc Sài Gòn lúc tao với mày còn ăn vụng trong lớp và chưa biết làm thơ thất tình.
- Xời ơi, tưởng gì, hóa ra lại thêm một ông...già !
- Một ông già chỉ hơn mình độ bốn năm tuổi thôi, mới ra trường mà. Mày tưởng là bọn mình còn trẻ lắm sao, mấy đưá sang năm ngoái cứ ngọt ngào chị chị em em làm tao ngứa lỗ tai nhưng soi gương thấy dường như có thêm bốn năm cái chân vịt ở đuôi mắt...Chu choa ơi ! Cái tiếng Huế nghe sao mà êm tai chi lạ !
- Gần thi rồi nghen nị...Chộn rộn là ngộ viết thư méc chàng đó...Mà này, mày có quáng gà hay không, trên đời làm sao có thể có một đấng nam nhi vừa dễ thương, con nhà nghèo, học giỏi, lại đẹp trai...
-...à en couper le souffle....
Nếu tôi không la lối phản đối có lẽ Lệ sẽ còn ngồi ngẩn ngơ khỏ khỏ cái chóp mũi nói về cái "nhan sắc " của người mới tới. Và cho Lệ khỏi giận, tôi đề nghị tìm cách hội kiến người hùng một ngày thật gần, để coi Lệ quá rộng lượng hay tôi quá khắc khe. Tôi nhắc :
- Ba môn có đúng hai trăm bốn mươi tờ cours, chia cho sáu mươi ngày, vị chi mỗi ngày phải tụng đủ bốn tờ.
Lệ hoảng hốt :
- Mày có đếm kĩ không ? Bốn tờ hay bốn trang ? Chữ mày viết to bằng con vịt bầu...
- Tao đếm cours, đánh số, ngày nọ qua ngày kia, lần nào cũng mong mình tính lộn. Nhớ nghe mi, ngày bốn tờ, bất kể là thứ bảy hay chúa nhật, có giờ lý thuyết hay giờ thực hành...
Lệ đứng lên rên rỉ :
- Trời hỡi, bốn tờ ! Chừng nào mới làu thông kinh sử ? Chừng nào mới lều chõng đi thi ? Bao giờ thì bảng hổ đề tên ? Chắc là Tết Congo !
-Tao nghi là khóa hai kêu mình quá. Hy vọng ít ra cũng đủ điểm để người ta cho phép mình thi khóa hai !
Lệ kêu lên :
- Mày thiệt bi quan số một, đậu khóa hai, ai cho mày tiền mua vé máy bay về thăm nhà ?
- Bởi vậy cho nên khỉ ạ, đi về phòng học cho bà con, bạn bè nhờ! Nhớ đưa bài cho tao mượn.
Lệ đi rồi, tôi ngồi thừ trước chồng sách vở, lại tính toán và rầu rỉ. Phải chi mình chịu khó mượn bài chép trước, phải chi mình siêng năng như đám bạn tây đầm tối nào cũng ngồi nghiền ngẫm thì giờ này cours đã thành cháo cả rồi, phải chi ...Phải chi hai đứa tôi đừng "phát hiện " hay phát minh ra những vấn đề lỉnh kỉnh để có cớ đẩy lui giây phút phải ngồi vào bàn học. Cách đây nửa tháng, hưởng ứng kêu gọi " bà con " đóng góp cứu lụt miền Trung, nghĩa là vác xe mô bi lết chạy vòng vòng mấy cái cư xá sinh viên, đòi tiền "lụt", xong rồi đem nộp cho thủ quỹ. Tuần rồi, tan lớp, thay vì dẫn nhau ra cái quán ăn sinh viên (xếp hàng mười lăm, hai chục phút, bị bạn đồng học chen lấn, xô đẩy, đè bẹp. Lấy được cái mâm...khoai với thịt bò xốt cà, yaourt, bánh mì, trái táo v..v...thì cái bao tử đà xẹp lép, mấy cái túi dịch vị xếp ve, đầu hàng! ) hai đứa lên xe buýt đi về nhà dì Sáu, tôi bị dụ khị vì lời ngon ngọt của Lệ. Dĩ nhiên, nó không hề quảng cáo xạo, nhưng sau khi cho tụi tôi ăn một bữa chả gìò ngon quá sức tưởng tượng -không đứa nào nuối tiếc mớ khoai tây nghiền hay khoai tây chiên lẫn khoai tây nướng với thịt bò luộc, thịt gà đút lò..dành cho sinh viên - dì Sáu quay cái máy hát cổ lổ xỉ la voix de son maitre với mấy dĩa vọng cổ. Dì nói mấy cháu ngồi học đi, ráng học cho thành tài, về với xứ sở quê hương, về với gia đình cha mẹ, anh em...rồi dì đứng rửa chén vừa ư ử hát theo dĩa hát. Ôi chao ơi, trong nhà bếp lửa than ấm áp, mùi nước mắm, mùi chả giò còn thoang thoảng, có tiếng Út Bạch Lan Cúc Hoa từ âm phủ hiện về vừa bắt chí cho con vừa ca vọng cổ. Nhìn ra ngoài, đất trời âm u xám xịt, bóng người qua lại co ro trong những chiếc áo choàng dầy sụ. Lệ nhớ má, nhớ anh, nhớ chàng, tôi nhớ nhà, nhớ em, nhớ bạn, nhớ người xưa, và nhất là nhớ những đêm thứ bảy radio truyền thanh tuồng cải lương, nhà ngoại đầy bà con hàng xóm, tôi nằm võng ngủ gà ngủ gật, chờ cải lương vãn tuồng. Khi đó, mấy ông già bà cả ra về, tôi leo lên bộ ván, ngồi sau lưng ngoại, nhướng mắt nghe mấy ông anh, ông cậu thanh niên kể chuyện ma...
Được một lát, dì Sáu hỏi ủa, gần hai giờ sao mấy cháu chưa ra đón xe buýt đi trở lại trường học ?.Lệ đáp chiều nay thầy bịnh dì ơi, tụi con được phép ở nhà chép bài. Dì nửa tin nửa ngờ nên giữa hai mặt dĩa, Cúc Hoa được nghỉ mệt còn dì thì ca bài mấy cháu ráng học thành tài về quê hương xứ sở...
Không lẽ cứ đòi ăn cơm nhà dì hoài ? Lấy cớ ăn Tết, tối nào Lệ cũng xuống phòng tôi, hai đúa nấu nứơc pha trà, nhâm nhi mứt dừa, mứt gừng ở bên nhà gửi sang, xong xuôi thì tắt đèn, cuốn sáo, nằm dài ra, đứa trên giường, đứa trên bàn, ngắm trăng, nghe nhạc. Điền đến bất ngờ, lắc đầu kêu lên :
- Tròi đất ơi, tụi mày định ăn Tết suốt cả mùa đông ? Sao không thấy tên nào học hành gì hết ?



Một bữa, trong quán ăn sinh viên, tôi và Điền đang ngồi ngán ngẩm trước mớ đậu trắng và cục thịt cừu to tướng, Lệ bưng mâm tới, chưa kịp ngồi đã hớn hở báo tin :
- Tối nay, cả đám được mời sang phòng chàng, uống nước trà, gọi rằng là lễ ra mắt đồng bào.
Điền cự nự :
- Có chè tao qua, còn trà xin kiếu !
Còn tôi thì làm bộ chê :
- Dữ không, gần hai mùa trăng mọc. Chờ từ chuối trồng đến chuối trổ, rồi chuối chín, ăn không hết đến nỗi phải lột vỏ phơi khô..."chê " đồng bào chứ gì !
Lệ phân trần :
- Mày thật chẳng biết thông cảm người ta, phải lo đi tìm thầy để xin làm đệ tử rồi làm thủ tục ghi danh, lo làm thẻ cư trú ở sở cảnh sát, đi tìm phòng ở cư xá nào gần trường nhất...
Bạn đầm rủ Điền đi xi nê nên buổi chiều thứ bảy chỉ có tôi và Lệ đi " dự tiệc ". Anh chàng ở cư xá con trai, cách cư xá con gái vài mươi mét. Khi tôi gõ nhẹ lên cánh cửa phòng có bảng tên nhỏ, chữ viết bay bướm Lê Tri Thức, tất cả khách mời trong phòng cùng "OUI " một tiếng long trời lở đất. Lệ le lưỡi :
- Có ít nhất là một chục mạng ở trong nớ !
A, con nhỏ đang học nói giọng "Huệ"...
Chủ nhân, còn đầy dáng dấp " quê hương ", mời hai đứa ngồi ghé lên giường, bên cạnh một vài cô bạn khác đang tươi cười và e lệ đấu hót. Đám con trai " hi sinh" kẻ ngồi trên bàn người ngồi dưới sàn trải nhựa. Căn phòng bình thường trên dưới mười mét vuông, một bàn học, một giường đơn, hai chiếc ghế, một tủ quần áo, lavabo...bây giờ phải chứa gần hai mươi người nên chật như trong một hộp cá mòi. Nhưng tôi đâu có để ý chuyện đó, cuối tuần gặp nhau tán dóc, phòng chật như nêm, là chuyện thường, điều tôi thấy lạ chính là cái gì nơi bọn con gái. Rõ ràng là chúng tôi bị khớp ! Bởi vì Lệ không nói ngoa về người mới tới. Bọn con gái đâu dám đánh võ mồm với Tâm Quán hay với Phùng như mọi khi. Nhất là với Tâm Quán, hắn bị bạn bè đổi tên thànhTửu Quán để dịch cho dễ: Kwan le Bistrot. Tâm Quán là cái radio locale, chuyện gì cũng hay biết trước mọi người, tuy hơi ít nói vì bệnh cà lăm mà hễ có đề tài thì nói rất dai và rất ác. Bởi vậy thử hỏi có ai lúc này lại dại dột đi gây chuyện với hắn. Hãy im lặng mà nhìn coi, giữa đám đông con trai đang đấu hót vang rân, tóc dài phủ gáy, da dẻ đã bắt đầu nhợt nhạt, sắp sưả trắng như dân bản xứ, nỗi bật lên một Thức điềm đạm, cao và gầy gầy, tóc ngắn vừa phải, nắng Sàigòn còn trên người, khuôn mặt góc cạnh mà đều đặn, hai con mắt đen và sâu dưới đôi mày rộng, mũi thẳng, miệng nhỏ mà khi cười thì...ông ơi, tim tôi thổn thức, thổn thức. Một gương mặt rất tài tử Horst Bucholtz nhưng nụ cười quyến rủ hơn nhiều với hàm răng đều đặn và đôi mi dài và rậm như mi con gái.
Cho nên khi chàng đưa ly trà ướp sen vàng rất đậm, tôi nào dám chối từ. Để rồi đêm khuya trở về phòng, con tim bồi hồi, nằm trằn trọc, thao thức, bâng khuâng tự hỏi thủ phạm là trà hay là người?



Giữa hai giờ cours, Lệ xúi :
- Nhào vô đi mày !
Vô duyên chữa kìa, thế còn nó ? Tôi lừ mắt nhìn Lệ, chưa kịp nói thì nó đã phá lên cười :
- Tao cũng muốn dấn thân lần nữa nhưng lở dại hứa để cho ai kia nâng foulard vác valise rồi....Hơn nữa đây là vấn đề tự nguyện, quân tử nhất ngôn mà lị...Còn mày....
Thôi thôi tôi chẳng muốn nghe lời đường mật của nó chút nào hết, tôi hứ :
- Tao cũng không muốn làm quân tử nhị ngôn, tao đã hứa với cha mẹ già, đàn em dại rằng thì là ....rủi mà có học thành tài, khăn gói trở về nước, ba má đặt đâu ngồi đó. Bắt đứng luôn tại chỗ càng tốt.
- Tao biết rằng mày tự cho có lý do chính đáng để chối từ mọi cuộc dấn thân khác nhưng hãy nghĩ lại coi người xưa có thề non hẹn biển gì đâu. Thành ra...hì ...hì...tốt hơn hết là hì..hì..bước...thêm bước nữa. Tao không muốn mày thành cây cổ thụ, em à...
May cho tôi, ông thầy già bước vào giảng đuờng, không khí lặng yên trở lại. Thầy cho tắt đèn, chiếu hình bằng phim dương bản trên màn ảnh và bắt đầu giảng bài.
Cái tâm sự nặng nề, khó nói đã chỉ hé ra cho Lệ một chút xíu mà còn bị nó thỉnh thoảng lôi ra toan tính trút bỏ giùm tôi. Hừ, làm sao nó biết là người ta không hứa hẹn ? Chỉ giỏi cái nói mò ! Nókhông thấy là nó càng muốn bắt tôi xác nhận cái hàm hồ của chuyện tình thời con nít, tôi càng muốn chui đầu vào cát. Cho dù nó thấy đúng, tôi cũng nhất định không chấp nhận. Ai có thể chấp nhận một thất bại lớn lao đến thế. Tôi biết mình bất công với Lệ bởi trong thâm tâm, tôi thấy nó chín chắn già dặn hơn tôi nhiều, luôn luôn có những suy tư và kết luận rất đúng, rất thực tế. Chẳng hạn, mỗi lần nhắc đến Tâm, người yêu phương xa của nó, cô nàng nhăn mũi cười sung sướng với một chút thẹn thùng, mà sau đó lại bâng khuâng:
- Nói vậy chứ nào ai biết được chuyện tương lai. Bọn tao cách nhau nghìn dậm, đứa nào cũng cô đơn, yếu đuối mà xung quanh thì...mời mọc, cám dỗ và đầy những gặp gỡ bất ngờ, lý thú.
Làm sao có thể đồng ý với Lệ về vấn đề này được, nói thì dễ vô cùng, đây này, chẳng là cô ả cũng đã từng chạy trốn, bế môn tỏa cảng khi bị "le visage pale " Bertrand tấn công ráo riết ? Có bữa tôi đang ở phòng Lệ tán dóc, Bertrand vác tấm thân dài ngoằng với râu ria lăn quăn, tóc tai lủng lẳng, dài quá vai, qua gõ cửa. Đang nói cười rổn rảng như nồi đồng bị "té", nghe tiếng hắn " tớ biết hai bồ đang ở trong phòng ! Hãy mở cửa !" , hai đứa ôm miệng ngồi im như trời trồng.
Cho nên tôi cứ nghĩ rằng cái ngăn chứa tình yêu của tim ai cũng chỉ vừa đủ chỗ cho một người. Vậy mà Lệ cứ đùa dai, lâu lâu khuyên tôi " làm lại cuộc đời", tôi thấy buồn phiền hết sức. Lệ đâu ngờ rằng vết thương của tôi lúc nào cũng mới nguyên, lúc nào cũng sẵn sàng bật máu.
Lệ và Tâm đến với nhau bằng những cánh thư tâm sự kể lể nồng nàn (chứ không sao mỗi lần có tin "hắn" là Lệ mua bánh ngọt đãi Điền và tôi ?).Tôi cứ phải ghen thầm với nó, cố nâng niu chút kỷ niệm quí báu đã có, nhưng chắc như Lệ nói: khoảng cách thì xa, những gặp gỡ lý thú thì gần, nên kỷ niệm xưa cứ thoi thóp, theo thời gian lặng lẽ mất dần tăm dạng.
Cho nên tôi bắt gặp mình có vẻ khác lạ khi buột miệng nói với Lệ, và nói xong thì hối không kịp :
- Lạ lùng ghê," ông "Thức có nụ cười y như " chàng ngày xưa ". Cả đôi mắt đen cũng giống. Cái khác duy nhất là mặt nước sông Hương thơ mộng hơn sóng gió Vàm cỏ Đông !.
Lệ thừa dịp càng đốc vô :
- Tao đã bảo ! Thử hỏi mày: chọn người bằng xương bằng thịt, lại ở ngay bên cạnh hay là chọn một nhân vật rất thần thoại hoang đường, một kẻ trong tranh, một tĩnh vật tuyệt vời và cách đây mười mấy nghìn cây số ? Hỏi tức là trả lời ! Phải không ?
- Mày có duyên tệ ! Vừa suy diễn, vừa kết luận, vừa hỏi vừa trả lời luôn. Sao có người cứ thích chồm vào đời tư thiên hạ đến thế ? Mày làm như nơi này, chỉ có tao mới là "sắc nước hương trời" ?
Thật vậy, nhẫm tính sơ sơ cũng có đến bốn, năm cô, chưa kể Điền và Lệ, cô nào cũng " be bé, xinh xinh " và tài hoa, bay bướm. Có cô có bạn trai đủ thứ quốc tịch theo đuổi đêm ngày, có cô làm thơ, viết văn, có cô biết đàn hát, lại thêm tài may vá, nấu ăn. Đa số lại ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, duyên dáng. Giá mà ai tổ chức một cuộc... thi, tôi sẽ ra rìa ở vòng sơ kết. Rứa thì có chi mà giận dỗi, phải không nờ ?



Cho nên tôi đâu có sợ, chàng mời qua phòng uống trà, chàng rủ xuống discothèque nghe nhạc, thu băng, tôi đều hùng dũng nhận lời. Nhưng...thật ra, ít khi nào tôi đi "mình ên", lúc với Lệ, lúc với Điền, lắm khi lủ khủ một đám. Chẳng rõ ai theo để giữ chân ai, ai hỗ trợ ai và ai gấm ghé ai nữa.
Về chàng, Điền chỉ phê bình một câu ngắn :
-Thằng cha "beau" thiệt nhưng số trời đã định...Tao nhường chỗ cho hai tụi mày....
Con nhỏ ngộ ghê, một lần lũ bạn đầm lôi đi xem bói, chắc là muốn biết thi mà không học bài có thể đậu được không. Thầy bói mắt xanh, tóc vàng, bóc bài, xem trong quả cầu thủy tinh, khều khều mớ xác cà phê, xong phán rằng số Điền sẽ hạnh phúc, giàu sang với một anh chồng ngoại quốc. Điền tin ngay. Cho nên khi hai ba anh bạn đồng bào lần lượt tỏ tình, Điền lắc đầu tĩnh bơ, khiến các ông chán nản ôm hận lòng vác gói đi tỉnh khác.
Còn Lệ, ban đầu cũng" rung cảm " như ai nhưng sau đó lúc nào cũng xúi bảo tôi"nhào dô", thật hiểu không nổi !
Tuy nhiên tim rung rinh thì cứ việc rung rinh, ở giữa những chấn động và rung cảm, ngoài những lúc chán nản, lười học còn có những ngày chăm chỉ ôn bài, đi thi, đi chơi với bạn bè, đi xinê, những giây lát bâng khuâng vì một lời tỏ tình bóng gió ...trẻ con. Tôi nhìn thấy thời gian qua khi thời tiết, mùa màng thay đổi. Mới đó mà mùa xuân lại đến rồi ! Cây cối như bừng thức dậy sau giấc ngủ dài, nhựa sống tràn trề trên những mầm cây xanh biếc, bãi cỏ xanh rờn cũng ...trắng những tấm thân thiếu nắng. Suốt ba tháng, tất cả học thi như chạy giặc, mùa xuân sắp hết thì đa số cũng đã thi xong. Dân bản xứ lục tục thu dọn hành lý để về với mẹ cha. Thành thử kỳ bải trường nào cũng thế, mười cư xá đại học, hết tám chín cái đóng cửa, lũ sinh viên ngoại quốc chúng tôi phải sửa soạn sắp xếp gia tài (cho vào thùng các-tông lượm ở cácsiêu thị) dồn về ở trong một hai cư xá hè. Thật vui như...hè, cả bọn có dịp gặp gỡ nhau thường hơn để thảo luận về thời cuộc, bàn tính những chuyện "đại sự "như dựng xây đất nước khi hòa bình trở lại (cũng là một cách khăn gói trở lại quê nhà, để nhớ rằng mình còn là người Việt Nam ?) hay phè hơn thì tổ chức ăn uống chung, đi du ngoạn quanh vùng hay có gan thì chạy tuốt qua Bỉ Hòa Lan, Lục xâm Bảo hay Tây Đức. Năm nay, chàng làm náo động không khí với đề nghị làm một tờ báo.
Tim tôi lại bồi hồi xúc động, trước đó tôi cố tình xem thường chàng, tôi nói với Lệ :
-Một luận án với đề tài " Kỹ thuật đóng thịt hộp " nghe thật chẳng thơ mộng tí nào, người có "nhan sắc" mà cả ngày chỉ biết nghiên cưú thịt vai với thịt đùi, thịt có mỡ với thịt dính da, heo với bò, cừu với dê...chạn chết đi được !
Thêm một bữa Tâm Quán thì thào :
-Anh...anh Thức coi..gầy...gầy vậy mà đai...đai đen Ka...Karaté
Được thể, tôi bĩu môi nói với Lệ :
- Không những phàm phu mà lại còn vũ phu, tính tao hay cãi,"người ta" chỉ vung chân khoèo tay một cái là tao gãy xương.Thôi chả dám, đừng xúi dại tao nữa nhe.
Mèng ơi, tôi nào ngờ Thức, nào ngờ đa số bạn bè nơi này đều đầy văn, thi tính. Mọi người tới tấp gửi truyện, thơ. Tôi được chàng nhờ làm thư ký kiêm thày cò vì tôi có hai quyển tự điển to. Lệ lãnh nhiệm vụ trang hoàng, vẽ bià.
Tôi vâng lịnh ngồi gõ lóc cóc mấy câu thơ tình của chàng vào giấy stencil mà ngất ngây như vừa uống ly rượu ngọt.

Mùa xuân đã tới
em ơi, mùa xuân đã tới
hãy ngồi xuống đây
nghe
đất trời đổi mới
em ơi mùa xuân đã tới
xanh lá
xanh cây
xanh hồn phất phới
bỏ sách
bỏ đèn
em ơi,
ngồi đây tưởng nhớ
gió đưa mây
ôi mây, ôi mây
hờ hững
đời tuôn thơ
ôi thơ, ôi thơ
ý vần
rồi vô nghĩa
em ơi,
mùa xuân đã tới
em ơi,
hãy ngồi xuống đây
thương nhớ...


Bài thơ với hai chữ "cho em" làm xôn xao thiên hạ. "Em" nào vậy cà ? Lệ quả quyết là tôi khiến tôi khoái chí tử, nhưng sau đó, bình tĩnh lại, tôi biết rằng nó chủ quan quá lắm. "Bistrot" thì cam đoan rằng đấy chính là Kim Vân, hắn nói :
-Mấy bà suy...suy...nghĩ kỹ đi. Ôi...ôi mây tức là vân...vân ơi...
Lệ làm bộ cãi :
- Mây là Vân, chứ cái gì mà vân vân nuage chứ bộ et cetera sao ?
-Bà này... này vô vô... duyên! Để người ta giải... giải thích cho mà nghe... nghe. Hờ hững như mây... mây tức...tức là Kim Vân...Vân ơi...đừng có lạnh... lạnh lùng !
Lệ vẫn lắc đầu :
-Không đồng ý với Quán chút nào, nhưng làm sao cắt nghĩa được ý thơ ? Mổ xẻ quá thì còn cái quái gì nữa. Bồ biết tôi thích nhất câu nào không ? "bỏ sách bỏ đèn... ngồi đây thương nhớ " Như một lời kêu gọi thiết tha đầy thông cảm ! Dĩ nhiên bây giờ ai cũng thi xong rồi, lời kêu gọi của thi nhân sẽ được tuyệt đại đa số hưởng ứng !
Phượng thì vô cùng cảm động trả lời bằng một bài tùy bút văn hoa lả lướt với những câu "hâm nóng" những quả tim sắt đá " ôi, những đêm đông lạnh lẽo xa nhà, nhìn những con đường phủ tuyết, em nghẹn ngào, thổn thức nhớ quê xưa. Nhưng hạnh phúc thay, anh đến với đôi cánh thiên thần, với vòng tay ấm cúng. Nụ cười anh, trái tim anh trao cho em sẽ là cuộc dời của em..."
Đương sự vẫn tà tà làm thơ tình "gửi em", tiếp tục ra báo. Cho đến hết hè sang thu rồi tạm ngưng khi tựu trường, ai dọn về cư xá nấy. Ba tháng hè, ba số báo, những bài thơ, tùy bút, những... hẹn hò, đối đáp rất... khơi khơi.



Những đứa con gái thở dài, đi bên cạnh cuộc đời. A không, tôi và Lệ và tất cả vẫn xông thẳng vào "fac" mỗi ngày, chen lấn, đạp chân, đè bẹp nhau để giành chỗ ngồi trong giảng đường, chờ "resto U", bế môn tỏa cảng để thức đêm hay ngủ gà ngủ gật gạo bài. Những cái "bên cạnh cuộc đời" thật ra là bên lề cuộc đời đi học. Học thì học nhưng lúc nào cũng có chuyện để cà khịa với nhau. Thành phần thứ nhất ( quốc gia ) "đánh" nhau với thành phần thứ hai (theo cộng) và gây gổ với thành phần thứ ba (không chịu theo phe nào). Bắt đầu những cuộc tình tay đôi, tay ba. Rốt lại, xem ra chàng vẫn chưa chấm "em" nào. Lệ gãi đầu gãi tai :
- Rứa là nghĩa làm răng ?
Điền gật gù:
- Rứa có nghĩa là có điều chi bất ổn.
Tôi bâng khuâng :
- Rứa có nghĩa là người ta đã có một giai nhân đang chờ đợi, hẹn ngày chàng trở lại, tiểu đăng khoa với đại đăng khoa một lượt cho tiện việc sổ sách.
Điền nghi ngờ :
- Hay là hắn ta đã... "carrément" có vợ bên nhà ? Một "giai nhân"tài ba hào hoa đủ thứ chuyện mà vẫn còn không vào lúc quá hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi. Nghi lắm ! Nghi lắm !
Lệ lắc đầu :
- Không, tao tin chắc rằng ông ấy không được bạo dạn, thế thôi. Tụi mày để ý xem, gặp con gái là ông ấy dỏ mặt tía tai, đôi mắt chớp chớp cảm động...
Tôi thở ra :
- Gặp "nàng" nào ông ấy cũng cảm động thì ông ấy sẽ có đường ở vậy dài dài.
Lệ cả quyết :
- Cô nào tấn công trước sẽ thắng .
Tôi nhớ đến Bertrand, hừ, nghe lời Lệ dến gõ cửa, người ta không thèm mở cho ê mặt ấy à ?
Lệ níu tay tôi:
-Tao nói thật, mày có muốn "dừng gót giang hồ" chưa ? Tao cam đoan mày mà làm "le premier pas", ông ấy sẽ đi bước thứ hai, bước thứ ba...mọi sự sẽ xuôi rót.
Tôi khoát tay :
- Cho tao hai chữ bình an đi, cái búớc đầu tiên mày nói đó đã làm tao rớt lên rớt xuống bao lần rồi, tài ăn nói của tớ rất có cơ may làm người ta "oán" luôn đàn bà con gái, tội chết, thôi tao đành dựa cột mà nghe !
- Cột kèo sắp xiêu rồi kia. Hãy thú nhận rằng mi là đứa lười số một, mày nằm dài dưới gốc cây chờ sung rụng, cho mày chờ đến tết Ma rốc, có kẻ đang tòn teng trên cành, nó sẽ ăn trái chín cây...
Điền phì cười ngắt lời Lệ:
- Nhỏ này ăn nói nghe ghê quá mày !
Lệ tỉnh bơ nói tiếp :
-... nói cho mày biết đã hai hôm nay tao gặp Phượng ngồi ăn cùng bàn với ông Thức. Con nhỏ này thiệt sao khờ quá. Đường đi khó chỉ vì lòng người ngại núi e sông, người xưa sao mà tài, nói trúng phóc mọi chuyện....Thấy mày đi đâu cũng lủi thủi một mình, tội nghiệp quá hà ! Thôi hãy nghĩ đến tương lai, lo làm lại cuộc đời đi mi ạ !
Tôi rên rỉ :
- Trời đất hỡi, mày làm như tao đã dạn dày sương gió, đã trải qua năm bảy cuộc tình, đã chán đời, chán người. Thưa chị, em vẫn còn tin tưởng, còn hy vọng. Em như nụ hoa đang chờ đợi, cánh bướm hào huê nào đó ơi, bay tới đi, em sẽ "hàm tiếu" thò tay níu cổ liền một khi. Nhưng này, ong kia đang tò vò hoa khác, tao phải mần răng ? Quân sư quạt mo ơi, quạt cho mấy cái để ngộ sáng ra một chút coi.
Lệ cười cười hài lòng nhưng còn làm bộ lắc đầu chắc lữơi hít hà một hồi rồi mới nói :
- Đây này, coi như bữa nay ngày N., tối nay rảnh mày qua phòng ông Thức chép cho tao cái rờ xết làm bún bò Huế. Hôm nọ ông ấy hứa với tao. Nhớ nhe, đi thật nhe. Tao cam đoan không cần mày báo cáo... chi tiết cuộc gặp gỡ. Thiệt tình, không có tao chắc là mày sẽ ở giá suốt đời !
Đắn đo mãi, cuối cùng tôi cũng thu hết can đảm đi gặp chàng. Thật ra tôi chẳng có một chút xíu can đảm nào bởi tôi rủ Marie Anne theo cùng. Cô bạn đầm này học chung trường Khoa Học, ban Toán năm thứ ba với Tâm Quán. Marie Anne nhỏ con tóc vàng, mắt nâu, không đẹp lắm nghĩa là không xấu và tính tình rất dễ thương. Cô nàng kín đáo dịu dàng chứ không bộc trực như đa số các cô đầm khác. Nó còn một đặc điểm khác nữa là rất thích chơi với bọn sinhviên Việt. Có dịp là cứ lẽo đẽo theo đám Quán, Phụng, cùng ăn phở, bún chả, ăn chè đậu xanh, ăn gỏi cuốn chấm tương hay bò nhúng dấm chấm mắm nêm. Chỉ có ăn ớt là Marie Anne còn cần cố gắng thêm. Lệ lắc đầu thán phục :
- Con nhỏ đó kiếp trước vốn là mít chính cống, có tu tỉnh nên kiếp này được đầu thai làm người Pháp, lỡ ăn cháo lú không đủ "dose" nên còn lưu luyến Việt Nam. Mày thấy không, nó húp nước mắm còn giỏi hơn tao nữa.
- Ừ, mấy quyển sách về nước mình trong "bib" nó đều nghiên cứu kỹ lưỡng. Rành hơn tụi mình về lịch sử phong kiến, chiến tranh, thực dân, đế quốc ở Đông nam Á.
Ở phòng chàng, nhờ tài hoạt bát của Marie Anne, tôi đỡ bối rối hơn tuy chỉ biết chấm than với thế à, ồ, ơ, ư, dạ dạ v..v...Nhờ Lệ gà sẵn nên tôi đánh bạo hỏi về tình hình sinh viên bên nhà. Chưa đủ thói quen nói tiếng Pháp nên chàng có vẻ thoải mái khi dùng tiếng Việt để kể cho tôi nghe chuyện sinh viên, học sinh xuống đường biểu tình ở Sài gòn với những bài hát chọc chính quyền, ngạo cảnh sát, những đêm không ngủ với các bài hát phản chiến.
Lệ và tôi vẫn tiếc thay vì những ngày đi học "khổ sở" nơi này đã không được dự phần và sống trong bầu không khí phản kháng đầy" hào phóng" đó. Mãi nghe, mãi nói, tôi quên bẵng mục đích chính thức của cuộc thăm viếng, may nhờ Marie Anne nhắc khéo...rồi ngồi hý hoáy chép một cách thành khẩn, báo hại chàng phải hì hục dịch toàn bài dạy nấu bún bò Huế sang tiếng Pháp.
Lúc về đến cư xá, trước khi chia tay, Marie Anne hỏi tôi :
- Bistrot vẫn nói với tao là bọn con trai Viêt Nam rất đứng đắn, và phong tục, tập quán Việt Nam được tụi mày tôn trọng, giữ gìn rất cẩn thận. Tụi mày không thích lấy người ngoại quốc.
- Không hẳn là không thích, chỉ tại lịch sử...Tớ nghĩ là bọn trẻ chúng tớ không khắc khe như những người đi trước, mà này tao hỏi cái này, mày thấy bọn họ có đứng đắn với mày không ?
- Có thật chứ, thế mới lạ !
Tôi cười :
- Theo chỗ tao biết thì đa số con trai trước khi đi du học đều bị dặn dò cẩn thận về vấn đề này, cha mẹ nào cũng sợ mất con. Cho nên hễ có lệnh cấm, ít ai dám vi phạm, đó là những đứa con trai rất có hiếu. Còn lũ con gái bọn tớ thì...tha hồ, ít bị gò bó hơn, muốn lấy Tây, Tàu gì tùy ý, đằng nào cũng phải theo chồng, đằng nào thì cũng mất con gái, theo các bậc bố mẹ !
Cô bạn ngập ngừng :
- Vấn đề sexe thì sao, hai chuyện đâu có dính dáng gì đến nhau ?
Tôi nóng bừng mặt vì mắc cỡ :
- Sao lại hỏi tớ một câu kì cục vậy ? Đi lục vấn mấy ông đồng bào của tớ ấy.
Quả thật về sau Marie Anne đi tìm hiểu những người bạn trai của tôi. Hội họp ăn uống, cãi cọ, thậm chí đi tập hát chuẩn bị cho đêm Giáng sinh Quốc tế của sinh viên trong tỉnh, cô nàng cũng hăng hái có mặt. Lắm khi cả bọn đấu hót inh ỏi bằng tiếng mẹ đẻ, chẳng đứa nào lịch sự dịch cho một câu, cô bé vẫn tỉnh tuồng ngoan ngoãn ngồi nghe. Hai con mắt trong và sáng cứ hết nhìn người này đến người nọ, đầy vẻ ngạc nhiên và say mê, thán phục. Nhất là với Thức, khi chàng nói về Huế. Những lần sau, Marie Anneđi xin rờ xết nấu ăn của Thức, một mình.
Một bữa, Lệ nói nhỏ :
- Cái ông Văn ghê lắm nghe mày, cứ đòi Marie Anne "cho"mãi đấy, nhưng con bé chả chịu !
- Tâm Quán hôm nọ kể rằng thuở trước nó sẵn sàng "tâm tình hiếndâng" lắm mà.
- Đấy là cách đây một năm, bây giờ nó cũng biết chọn mặt gửi vàng. Nó tâm sự với tao là thèm có một đứa con lai Việt nam.
- Trời ơi, nghe lạnh xương sống !
- Nó bảo định thử với tên Trương nhưng hắn từ chối vì sợ bị bắt cưới.
- Thế sao nó lại không chịu ông Văn cho rồi ? Ông ấy vừa mập vừa lùn nhưng đấu tiếng Tây như máy và có duyên, đầm mê thấy mồ !
- Thì đã bảo, con nhỏ bi giờ cũng biết kén lắm, với lại rủi đứa con "định mệnh" giống ông Văn về cái dung nhan của ổng thì chết. Nó hỏi tao bộ con trai Viêt Nam có tinh thần trách nhiệm lắm hả. Tao nói ừ, bên xứ tao lắm cặp phải có con để được gia đình đôi bên chấp nhận.
- Mày quên lôi nhân vật Sở Khanh ra kể cho nó nghe. Thôi nói chuyện đồng bào hoài mệt quá.
- Chuyện dài mà mi, hết sao nổi. Mày đã tìm ra đủ tài liệu để tụi mình làm bài thuyết trình chưa, ông Thức nhắn tao bảo mày sang gấp.
Chết ! Suýt nữa thì tôi quên mất. Hai tuần trước chàng đề nghị tổ chức những buổi thuyết trình do từng người hay từng nhóm sinhviên đảm trách, sẽ mời các bà con cô bác người Viêt đến nghe, để đôi bên vừa làm quen vừa trao đổi tin tức quê nhà. Cãi tới cãi lui, bàn đi bàn lại. Đám quốc gia thì không miệng mồm môi mép nên không muốn có đề tài chính trị. Đám thân cộng thì nhất định "đất nước ta trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, bom đạn đang được rải đều đều từ nam chí bắc, chúng ta phải định rõ lỗi ở ai ". Đám trung lập thì muốn nhắc đến vụ vi phạm nhân quyền ở miền nam của chính phủ Việt Nam cộng hòa và vụ thảm sát ở Huế của Mặt trận giải phóng miền Nam. Chàng giảng hòa bằng cách đề nghị tự đảm nhận lấy bài thuyết trình đầu tiên với chủ đề "tình yêu qua ca dao". Được sự chấp thuận của đa số, chàng nhờ tôi và Lệ giúp tìm tài liệu và soạn dàn bài.
Tôi hớn hở đi sưu tầm, định tâm phen này sẽ ra tay chiếm người hùng bằng kinh nghiệm của... kẻ khác.

Thò tay ngắt ngọn rau ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ


Có thương thiệt không nè ? Hay tại con khỉ Lệ ưa nói ra nói vào, ra điều khích tướng, cho nên.... ? Hay vì thấy thiên hạ bồ nhau ra rít, tôi toan tính nhập cuộc để cũng đủ lãng quên đời như người ta ? Phải nói làm sao cho chàng hiểu đây, không lẽ lại than :

Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Liễu xa đào, liẽu ngả, đào nghiêng
Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên mới tái hồi.
Phải làm sao để chàng khỏi trách :
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Bởi em ở bạc mới tìm nơi xa


Tôi ôm mớ ca dao, tục ngữ, đợi bóng chiều xuống hẳn mới dám qua cư xá con trai, leo lên tầng thứ ba, gõ cửa phòng chàng. Nhưng cánh cửa im lìm. Có lẽ chàng đi ăn chưa về, tôi ra phòng học, cách đấy vài cánh cửa, ngồi đợi.
Từng đám sinh viên đi ăn về, còn nấn ná chuyện trò ở đầu cầu thang hay rủ nhau xuống quầy nước cư xá uống cà phê. Đèn sáng rực ở mọi khung cửa sổ.
Mười giờ cô bạn trực quầy nước rủ sáo sắt, tắt đèn. Người qua lại đã thưa thớt trên sân cỏ giữa hai cư xá.
Mười một giờ, phòng nhạc tối om, một lát sau, phòng truyền hình cũng tắt đèn, những đứa trốn học chui vào đấy đến giờ này cũng chẳng còn gì để xem nữa, lục tục kéo về phòng.
Mười hai giờ hơn, xung quanh trở nên vắng lặng, cả hai dãy cư xá chỉ còn vài khung cửa sổ còn thức hay chưa hạ mành sáo. Tôi tắt đèn, khép cửa, kéo ghế sát khung kính, ngồi ngửa mặt ngắm trăng. Cơn hồi hộp ban chiều đang lắng dịu lại, lòng nhẹ nhàng dễ chịu. Có gì đâu mà sợ, mọi chuyện sẽ tuần tự xảy ra, chàng phải có cảm tình mới nhờ tôi này nọ, nghĩ đến cái đề tài bất hủ- tình yêu-lại rủ tôi cộng tác, chẳng là một lời tỏ tình kín đáo hay sao ? Tôi chợt rùng mình, vừa vì lạnh - ừ, mùa đông lại đến rồi-, vừa vì chợt nhớ đến lời Phương, tình cờ gặp hôm qua ở thư viện. Phương gay gắt với tôi :
- Tôi không hiểu nổi các người. Tại sao có thể vô tâm đến như vậy. Cứ tà tà học hành, tà tà ăn nhậu, tà tà bồ bịch, tỏ tình, cười nói như không ! Còn cuộc chiến bên nhà ?
Ui chao ơi, ừ, còn cuộc chiến bên nhà ?
Tôi đã lúng túng xấu hổ. Toan biện bạch chày cối cho qua nhưng chẳng nói được tiếng nào trước cặp mắt si tình của Phương. Anh thấy gì nơi tôi mà đặt một câu hỏi quá lớn lao ? Nghe cứ như là to be or not to be . Vô vàn những câu hỏi lẩm cẩm, nhỏ nhít bao vây mà tôi còn trả lời chẳng đặng !
Phương ơi ! Bỏ ra ngoài mọi hiểu lầm, coi như câu hỏi anh là chính, và nhắm vào nhiều người chứ chẳng phải riêng tôi, tôi phải làm sao để tham dự vào cuộc chiến? Nội cái trận đánh tẻo teo hằng ngày là sáng thức dậy đón xe buýt vào trường ghi cours mà tôi còn phải múa may chật vật lắm để khỏi bị lấn áp hay tuyên bố bỏ cuộc giữa đường....
Phương học đã gần xong, chưa bao giờ chơi thân với ai ở nơi này. Tâm Quán đồn rằng anh theo cộng sản, rằng vì vậy anh bị ghi tên vào sổ bìa đen. Cho nên năm nay thi đậu nhưng anh bị cúp chuyển ngân ( ai là đứa điềm chỉ vô lương tâm ?)
Tôi đã xấu hổ, im lìm chịu thua Phương, hôm nay, càng chờ đợi càng nghe cơn xấu hổ gậm nhấm, cấu xé vì nỗi bồn chồn sung sướng. Có phải là tôi đang trả lời Phương đó không ?
Tôi chợt tỉnh hẳn người, nghiêng mình nhìn xuống dưới phía chiếc cổng nhỏ bên hông cư xá. Đôi bóng người đang dìu nhau đi vào. Cả hai đi thật chậm, thỉnh thoảng tách hai, rồi ngừng lại nhập một, hôn nhau. Khi cả hai đi ngang dưới ngọn đèn vàng, bên khóm hồng trụi lá, tôi nghe tim thắt lại. Thức và Marie Anne !. Cô gái cứ níu lấy cánh tay chàng, cả thân hình tròn lẳng dính sát vào người chàng. Dáng điệu vô cùng nũng nịu, lả lơi. Chàng có vẻ như nửa muốn giằng ra nửa không dám kháng cự. Con bé cứ bướng bỉnh bám lấy chàng. Chàng lặng yên, chịu đựng. Tôi chết sững nhìn theo cho đến khi cả hai khuất dưới cửa kính dẫn lên các tầng lầu. Lệ hay quá, đã đoán biết trước sự tình, chỉ vì tôi ngốc tử, khinh địch. Lệ đã chẳng lưu ý tôi về Marie Anne :
- Coi dịu dàng nhỏ nhẻ chứ nó là đứa biết mình muốn gì và biết phải làm gì để thực hiện ý muốn. Với tài năng sẵn có, chỉ cần một chút cố gắng và kiên nhẫn, nó sẽ đạt mục đích.
Tôi cứ nghĩ rằng Lệ sốt ruột nên tìm cách khích bác tôi. Bây giờ chỉ còn :

thơ tình gom một bó
vứt hết xuống triền sông
rồi lặng yên đứng ngó
xác mình trôi giữa dòng


Tôi lặng người nín thở, đợi nghe tiếng chân chàng ở đầu hành lang. Sau mười giờ đêm, trên nguyên tắc, con gái không được quyền xâm nhập cư xá con trai và ngược lại. Trời ơi, tưởng trông mong một cái gì chắc chắn, có gía trị sâu xa hơn. Một nguyên tắc ! Một nguyên tắc được vi phạm bởi hơn tám chục phần trăm sinh viên, trong đó có tôi !
Khi hai người vào hành lang, chỉ cần nghe tiếng cười cố nén trong cổ, âm thanh cực kỳ vui vẻ sung sướng, tôi tưởng tượng được kẻ tình địch đang áp mặt vào lưng chàng, những ngón tay thon mơn trớn cổ, vai chàng. Tiếng chìa khóa xoay lách cách, tiếng cười và tiếng thủ thỉ của đứa con gái mất hút. Cánh cửa đóng sầm lại, chìa khoá lại xoay trong ổ. Hành lang trở lại lặng yên, nặng nề.. Chợt đồng hồ nhà thờ đổ nhẹ một tiếng, tôi xoay người nhìn ra ngoài, trăng đã chếch sang bên kia, mất tăm dạng. Gíó lay nhẹ ngọn đèn vàng nơi khóm hồng xơ xác khô queo. Tôi đứng dậy, áp mặt...
Phượng Các
#4 Posted : Sunday, December 12, 2004 5:45:41 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)

Bóng Ðêm Cuối Cùng

Phan Thị Trọng Tuyến



Tôi giựt mình thức giấc, đôi mắt cay xè, nhức nhối. Tôi nhớ rằng hôm qua mình đã trằn trọc, tủi thân, khóc thầm rất lâu. Ðêm mộng mị, ngẹn ngào đã qua. Buổi sáng bắt đầu từ lúc nào. Quanh tôi vắng vẻ nhưng ở ngoài trại, con đường hẻm đã ồn ào náo nhiệt. Tiếng rao hàng, kêu gọi nhau của người lớn, con nít, kẻ bán người mua. Tiếng chén dĩa, ly tách va chạm nhau, tiếng vò giặt quần áo, tiếng nước chảy… Tôi nhìn ra đầu trại. Quán cà phê của thím Ba Xanh đã có ba bốn người khách ngồi húp cà phê lặng lẽ. Qua lớp vải mùng vàng ố, lấm tấm những vết máu muỗi nâu sẫm, tôi thấy thím ngồi tư lự, một chân gác trên ghế, một tay để trên đầu gối, tay kia hờ hững đuổi ruồi. Thím chắc đang nghĩ đến đoàn người đã đi hôm qua, chú Ba dẫn đầu. Người lớn thản nhiên nhưng đám tiểu yêu đầy vẻ nghiêm trang dù tôi biết chắc trong bụng đứa nào cũng hí hửng như được vàng. Mà còn hơn cả vàng nữa kia.Tôi nghe cục nghẹn dâng lên chận cổ. Sao lần nào cũng vậy, người ta vui thì tôi buồn. Má tôi hôm qua đã an ủi thôi con à, số phần của con… Tôi cũng biết nhưng tránh không khỏi những lần gánh hát lưu diễn phương xa là cả đêm sụt sùi giọt dài giọt ngắn. Sự thật thì tôi đã ngẩn ngơ buồn bã từ trước, khi tụi con nít xếp hàng lạy nhoi trước bàn thờ Tổ theo lời chú Ba dặn. Như mọi lần xuất quân khác, người lớn lạy trước rồi tới tụi nhỏ. Tôi phập phồng thổn thức theo từng tiếng cười, từng cử chỉ, ghen tức với sự chen lấn, xô đẩy của chúng. Mặc dù má tôi có nói lần này tụi nó về quê bên phía thím Ba, tiếng là theo đoàn lưu diễn chớ thật ra là nghỉ hè ăn nhờ cơm bên ngoại.
Hừ, có mấy khi tụi nó được đi đông như lần này, thứ làm tì nữ với quân hầu, chỉ được phép nói hai ba tiếng, giỏi lắm như Hai Nhãn thì được ca một câu ngắn, vậy mà cũng lên mặt với kẻ ở lại ! Ði ngang giường tôi, nó giả bộ không thấy tôi đang nhìn nó đăm đăm, chờ nó ngó để lên tiếng hỏi coi nó được phép ca bài gì. Ca thì tôi đâu thua đứa nào. Chú Ba ngồi nghe tôi ca lần nào cũng chắc lưỡi khen hay. Ðiệu gì tôi cũng rành, nhất là mấy điệu vui như Lưu Thủy, Kim Tiền. Ðôi phút rảnh rang, ngoài giờ buôn bán, má tôi bảo tôi ca. Rồi má tôi gõ sanh, ba tôi đệm lục huyền cầm, cậu Năm kéo vĩ cầm phụ họa. Tôi say sưa cất giọng, hát một hồi thấy bà con bu đông nghẹt… Mắc cở nhưng trong bụng rộn ràng làm sao. Mấy chú, bác ; cô dì cứ tiếc tôi không lên sân khấu được. Làm sao các soạn giả Ba (Xanh) Kim, Tư (Công) Danh ( là ba tôi) và (cậu)Năm (Can) Trường đặt được một vở tuồng đặc biệt nào có thể dành được một vai trò cho tôi. Thị nữ ? Aùi thiếp ? Vai nào tôi cũng sẽ gặp khó khăn trừ vai kẻ ăn mày, nhưng không ai nỡ nghĩ đến vai trò này cho tôi. Có một lần thím Năm má con Nhãn ngồi tẩn mẩn dồi phấn, thoa son cho tôi cả buổi. Xong, thím ngó tôi trân trân. Rồi thím hớt ha hớt hải chạy kiếm má tôi, chị Tư ơi, vô đây tui chỉ chị cái này ngộ lắm. Hai bà đứng trước mặt tôi trợn mắt tròn vo :
- Trời đất quỉ thần ơi, chị thấy da nó ăn phấn dễ sợ chưa. Ðẹp y như cô Thanh Nga hồi cổ lãnh giải Thanh Tâm.. ý cha ơi, phải chi con lành lặn…
Thím biết thím lỡ lời thì đã muộn, tôi chạy ra ngoài sàn nước khóc như gió như mưa. Nước mắt rớt xuống những tấm ván mục rã đen thui. Phía dưới sình cũng đen không kém, mặt sình đầy rác rến mới cũ, mùi hôi bốc lên, con nước đang xuống. Một vài cây cột xiêu vẹo không còn chống đỡ được sàn nhà vì đã gãy, giơ cùi chổng chơ, lớp sình bám quanh bắt đầu khô, nức nẻ… Má tôi vuốt tóc tôi :
- Thôi, đi vô con à, thím nói vậy không phải có ý chê con đâu…
- Con đâu trách thím, đó là sự thật…số kiếp con mà thôi…Cô Thanh Nga lãnh giải Thanh Tâm năm 16 tuổi !
Má thất sắc. Tôi hối hận nhìn lên cầu. Người công an gác cầu đang đi về phía bên kia, tiếng chân kéo bước lẹp xẹp, khói thuốc lá bay uốn éo trước mặt.
- Thôi để má rửa mặt cho rồi ra quán phụ má, lẩn quẩn làm sao lại rớt xuống sông, mắc công má chạy đi mua xà bông thơm như má con Lạc bữa hổm.
Má khiến tôi bật cười, hai hàng nước mắt chưa kịp khô. Bởi vì tôi nhớ rõ hôm đó, con Lạc chột bụng quá, chạy một cái ào ra cầu tiêu. Những tấm ván mục kêu thất thanh dưới gót chân nó. Ngồi chưa được mấy giây thì rắc rắc ùm ùm mấy cái, đôi tấm ván gãy vụn lìa đời, nó té xuống sông một lượt với .. mấy cục phân. Báo hại dì Năm phải nhảy xuống vớt nó lên, dì chửi nó con gái mà đi đứng như tướng cướp và rủa xả mấy tấm ván bất nhơn. Cả trại được một bữa cười no nê. Dượng Năm vớt mấy mảnh ván vụn sắp lớp, tấm trên cùng mang mấy chữ viết nắn nót bằng phấn rất đẹp : nguy hiểm, cấm xài. Cầu tiêu số hai như vậy là được về hưu.
Ba cầu còn lại…chịu đời đắng cay. Mỗi lần con nít ra cầu là người lớn chửi oan mấy tấm ván, căn dặn chúng phải dùng phép khinh công, thi hành nghĩa vụ nhanh gọn, có bà lại cằn nhằn trẻ con thời bây giờ ăn ít mà sao ỉa nhiều làm vậy. Từ năm năm nay tôi không còn thấy ai đề nghị bà con hùn tiền thay ván cầu, thay ngói hay làm bất cứ một sửa sang nào cho trại ; nói gì đến dãy cầu tiêu và sán nước có mái che nằm ngay trên bờ sông và cất thêm dọc theo trại này. Ngày xưa, sông nước còn trong đầy và thông chảy ro ro, ngoại tôi kể rằng người trong trại "sang" lắm, vừa tắm sông vừa bắt cá. Bây giờ tôi lớn lên nó thành Kinh nước đen. Nghe như tuồng xã hội hương xa thời đại. Hỏi cậu Năm. Cậu cười : ừ, một tuồng hay của bạn ba con thời xửa thời xưa. Cái thằng tiên tri số một, mà trù ẻo cũng số dzách.
Từ mấy năm nay, ai lượm được cây gỗ tạp, mẩu nhôm sắt vụn, vỏ bánh xe cao su v…v…chắp vá được chỗ nào hay chỗ đó. Cho trại. Cho cái nhà tắm nhà cầu cổ lổ nhà quê. Thoạt nhìn thì thấy bề thế lành lặn liền lạc nhưng ai ngồi rửa chén, giặt đồ trên cái sàn nước thần sầu quỷ khốc ấy đều có thể biết nước ròng hay nước lớn, phân biệt được rác rến hay thằng chỏng chết trôi. Cho nên khách lai vảng thường trực, có môn bài là mấy bà nột trợ. Múc nước sông hay đi gánh nước phông tên đổ vào hàng lu ngoài mé sông.Giặt giũ, rửa chén, tắm con. Lũ con nít chẳng giấy phép hoặc lí do chánh đáng là không được léo hánh ra đó.

*

Ra ngoài cửa trại, tôi ngồi sà xuống bên cạnh má :
- Con coi quán, má ra chợ đi.
Má quay lại, tươi cười :
- Ừ, má đi liền. Con ăn khoai đi, củ này nè, củ bột không đó con, còn nóng má dành riêng cho con. Hễ má về không kịp, nhớ nhắc cô Tư đem đậu tới sớm cho má đãi sạn. Khoai lúc này cũng xấu háy quá, mắc tiền mà bị sâu bị sùng nhiều lắm, phải lựa kỹ mới được.
Má còn nấn ná chải đi chải lại mớ tóc dài của tôi, chẻ đôi, thắt thành hai cái bím to vắt vai. Má nói dịu dàng :
- Con gái má lớn rồi, đã mười tám, nhớ sửa soạn, chải gỡõ cho gọn gàng, đẹp đẽ. Lóng rày má thấy con hơi buông thùa…
Má đi rồi, tôi ngồi thờ thẫn, mắt đăm đăm nhìn mấy cái cửa đóng chặt của căn nhà Kha trước mặt. Mọi khi, Kha ngồi học bài, đầu tóc và cái trán lấp ló lên trên khung cửa sổ, hai mắt hấp háy nhìn tôi. Nhà Kha đã bị niêm phong từ bốn tháng nay. Giờ đây gia đình Kha với ba tôi và anh hai tôi chắc là đang ngồi lóng nhóng nơi đất mới để chiều nay gửi tới quê xưa, biết là bao thương nhớ cho vừa…Bốn tháng nay tôi hay bị nhảy mũi. Mỗi lần hắt hơi xong, mở hai con mắt ra, tôi thấy bên kia cửa đầu trại, thím Ba ngưng tay, nheo mắt nhìn tôi :
- Có người nhắc con đó, con gái ! Ai vậy cà ?
Tôi đếm trong bụng : một cái là Kha, hai cái là ba, ba cái là anh Hai.
Má tôi chỉ được tin ba vào tháng vừa qua khi chủ ghe đến đưa bằng cớ để lấy nốt phần tiền còn lại. Hai má con lén dẫn nhau ra chợ kêu hai tô hủ tíu ăn mừng, vô chùa lạy Phật tạ ơn. Chấm dứt âu lo. Bắt đầu hi vọng.
Hồi Kha còn ở đây, buổi chiều anh hay ra ngồi coi hàng với tôi. Ðể hai đứa ngồi thủ thỉ nói chuyện, để anh trừng mắt với những đứa con nít gian ác giả bộ mua đồ trêu chọc tôi. Ðể tôi thấy nắng rực rỡ màu hồng, để tôi không nhìn thấy sự tàn tật của mình, để tôi không nhìn thấy sự nghèo nàn cơ cực của xóm nhỏ. Ðể mùi hôi hám, để sự sống chung lộn lạo của trại này không làm tàn héo con tim mười tám của tôi. Kha thương tôi từ khi hai đứa còn nhỏ xíu. Kha bảo vệ tôi đánh đuổi những đứa dữ tợn theo trêu ghẹo, níu kéo tôi. Kha lượm viết, lượm đũa…mỗi lần má dạy tôi viết, ăn cơm…:
- Này cô bé, bán cho chị hai miếng kẹo lạc, ối giời ngồi trông hàng mà mơ mộng những đâu thế!
Tôi giật mình ngẩng lên, cười gượng. Ðó là chị Ba Kiểu. Mọi khi, tôi giả bộ giẩy nẩy : kẹo em ngọt đường phèn mà chị cứ chê kẹo lạt. Lần này, tôi chỉ mong chị đi cho mau mau, ở đó mà đôi co với chị về đậu nành với đổ tương, mè với vừng, mì với sắn, bắp rang với ngô bung …vân vân, ắt có đường ló đuôi. Tôi gật đầu chào :
- Thưa chị Ba đi chợ !
Chị nựng cằm tôi :
- Có tí việc vào xóm chị ghé thăm em và dì Tư. Hai mẹ con khỏe chứ ? Em chị ngày càng lớn càng xinh.
- Dạ, thưa khỏe. Má em ra chợ…
- Còn dượng Tư với cậu Kim … chắc cũng khỏe hở Ngân ?
Tôi nói nhanh :
- Thì khi em nói khoẻ, nghĩa là khoẻ cả nhà. Chị ăn khoai nha, ngon lắm, thứ khoai bột, khoai trắng vành tím như ngọc má dành riêng cho em đó. Khoai này ở ngoải kêu là gì hả chị Ba ? Dạ thưa, chị lấy bao nhiêu kẹo đậu phọng…
Chị lân la hỏi xa hỏi gần khiến tôi nghi rằng chị đang …nghi nên tôi càng nóng ruột, trả lời cộc lốc. Thất thế, chị cười cười, lắc đầu, móc túi trả tiền, xoa đầu tôi rồi cầm gói khoai, kẹo bước đi như chạy. Nhìn theo dáng chị lạch bạch tất tả, tôi lắc đầu, thở một cái ào. Má tôi nói chị tướng khổ. Khi đi, đầu ngực chị ngả chúi về phía trước đòi đi mau hơn hai cái chân gầy. Ðộ rày chị buồn chi mà ăn hàng lia lịa, ngực bụng ngày càng to tròn. Ðầu tóc quăn biếng chải phồng to như một đống râu bắp ngổn ngang tâm sự. Nếu chị cứ tiếp tục đà đó, nghĩa là cứ mải mê bận tâm đến sức khoẻ hàng xóm láng giềng, đến phụ nữ và đạo đức cách mạng, một ngày kia đôi chân chị thế nào cũng phải đầu hàng một sức nặng quá tải.
Chị là vợ anh Ba Kiểu, anh tập kết về trại hồi sau "giải phóng". Anh Ba có chân trong "ban lãnh đạo " của đoàn hát Ðồng Phước này. Lúc ấy, anh chị dọn vào ở ngay trong trại. Ðược vài tháng, đầu xóm có mấy gia đình đi đâu mất biệt, bỏ nhà không, anh chị được chia cho một căn, bèn dọn ra khỏi trại. Bà con thở phào. Tôi dám chắc anh chị cũng nhẹ nhõm.
Hồi mới về "tiếp quản", anh Ba đeo mắt kiếng đen, bận áo sơ mi trắng, đứng trên cầu Bông ngó xuống. Tay anh chống nạnh, kéo lệch "vô tình" một chéo áo, khiến ai cũng dòm thấy cái báng súng lục lấp ló ! Anh công an gác cầu nghiêm mình giơ tay chào. Anh Ba đứng trên cầu hất mặt nhìn xuống trại rất lâu. Mấy bà ngồi… cầu tiêu kêu nho nhỏ mấy bà ngồi giặt đồ, mầy bà cùng ngưng " đi ", ngưng tay, ngó trở lên.
- Ai mà …le quá ta !
- ý cha, kiếng đen, súng lục…điệu này cán bộ… cỡ bự nghen bà con !
- Ai như chú Ba Kiểu..
- Không lẽ nó, nghe nói chếtù ở ngoải mà…
- Ðúng rồi mấy bà ơi…cha chả oai phong dữ ha…trại mình phen này nở mặt nở mày với người ta…
Anh bỏ gánh đi tập kết từ hồi ba má tôi chưa gặp nhau, và gánh hát bấy giờ cũng đang làm mưa gió miệt lục tỉnh. Không như bây giờ…
Chị Ba làm ở công ty thiết bị vậât tư. Thời gian ban đầu, "đậm tình cá nước", thuận thảo trong ngoài. Mấy năm sau, tôi bắt đầu biết nhận xét thì mối tình thân giữa trại với vợ chồng anh cũng tàn phai theo thời gian và tình trạng của trại.Tình trạng ngày một kiệt quệ, về vật chất lẫn tinh thần.
Cả trại ở mấy chục gia đình. Gánh hát về thì trại đông đảo nhộn nhịp, gánh hát đi thì vắng vẻ, chỉ còn lại đào kép già bịnh hoạn hay đã giải nghệ, những bà nội trợ, lũ con nít. Nhộn nhất là vào mùa mưa. Vì nóc dột tứ bề. Trời vừa gầm gừ, mây đen ào ào kéo tới, gió cuốn rác bay vù trên cầu; trại nhốn nháo như có giặc. Những đồ đạc cứu dột : lu hủ, thùng hứng nước được bày ra. Bên ngoài đầy mưa giông sấm sét, ở trong rộn tiếng gọi tiếng cười, tiếng kim khí thùng chậu lanh canh chen với tiếng rú của lũ trẻ, tiếng phàn nàn của người lớn. Trại la liệt những lon nhôm, thùng thiếc, thùng nhựa, nồi niêu. Vậy mà không tránh được lầy lội trong trại sau mỗi trận mưa. Nước đọng vũng từ đầu trại đến cuối trại. Mùa khô thì sân đất đầy sao nắng, mùi sình dưới sông bay lên ngập trại. Những ngày nắng mưa lam lũ đó đựợc quên đi mỗi lần gánh hát trở về nghỉ xả hơi. Trại đông vui, sống động. Không khí thay đổi hẳn, gia đình nào cũng hớn hở vì có người thân về. Rồi tụm năm tụm ba tập tuồng mới, tập ca, tập đờn, gõ phách, gõ mõ, đánh nhịp. Quầo áo, cờ xí, mũ mãng đem ra, mấy bà xúm kết nút, đắp mụn vá và giặt giũ ngoài sàn nước. Mấy sào quần áo reo vui, màu mè sáng rỡ dưới nắng. Ai qua lại trên cầu cũng nhìn xuống trầm trồ, nhứt là dân trong xóm. Biết ngay là gánh hát về.
Lúc trước, ba tôi còn chịu khó ngồi vẽ thêm mấy tấm phông cây cảnh, hang động, suối thác chảy qua ghềnh, đền đài, núi non. Bây giờ chỉ chuyện tô lại vài chỗ mờ, dậm màu đôi chỗ vá, chỗ mạng mà ông còn kiếm không ra tiền mua sơn, nhưng má tôi cứ dòm chừng. Hễ thấy ba thờ thẫn buông cọ là má kêu anh Hai tôi : lợi đây má biểu. Má biểu anh Hai khiêng mớ gươm, giáo, mác, thương bằng gỗ ra ngoài sàn nước rồi anh kéo nước sông lên cho ba ngồi cọ rửa. Má thoăn thoắt lượm sạn trong rỗ đậu hoặc cắt bỏ khoai sùng mà không ngừng hỏi han ba. Những ngón tay thon thả chụm xuống nhón lấy những hạt sỏi, bàn tay xoay tròn mở bung ra như những cánh hoa nở xoè tung hạt mầm ra sông. Giọng má mềm, tiếng anh, tiếng em, con gái mình, ngọt ngào như nồi chè, thơm dẻo như mẻ kẹo đậu phọng má vừa cán ra trên vỉ nhôm dầy một lớp mè rang vàng.
Nghỉ ngơi vài bữa, đôi tuần là đến ngày mọi người lại nôn nao khiêng đàn, trống, áo xiêm phông cảnh ra xe, và người lớn, con nít quỳ lạy trước bàn thờ Tổ.
Cuộc sống của trại, của mọi người thăng trầm đều đặn như vậy từ ngày má tôi còn trẻ, học ca với chú Ba và ông ngoại. Theo má tôi nói thì trại do ông Năm Châu xây cất làm nơi chứa đồ đạc cho đoàn hát, dần dà hoá ra nhà ở cho thân nhân, gia đình nghệ sĩ. Khi đoàn hát chánh tách đôi tách ba vì tài tử trở nên vang lừng danh tiếng, đoạt giải này giải nọ, vì mầm non rầm rộ ra đời, thì trại càng đông người. Tài tử gạo cội danh tiếng thì ít, mầm non và gia đình thì vô số kể, đoàn hát trải qua đôi ba thời phồn thịnh, thái bình, bao nhiêu gia đình đã dọn đến dọn đi, bao nhiêu đào kép đã thay đoàn, đổi gánh, đã được mua bán, đổi chác. Chú Ba và ông ngoại tôi kiên trì lèo lái gánh nguyên thuỷ …Ðến thời má tôi lớn lên, mọi hào quang đã bắt đầu lu mờ, phấn son không còn đủ che đậy những nét nhăn, những vết rạn trên mặt người, nét tàn tạ mỏi mệt của hai chiếc xe cam nhông, của những người sống sót, gắng gượng đeo đuổi kiếp cầm ca, tằm trả nợ dâu. Ai muốn tìm đến những chân trời khác (bán ba, hát tân nhạc…) thì bỏ trại ra đi, người còn lại gắng gượng hay anh dũng nối nghiệp ông cha.
Bây giờ, tôi lớn lên, bị cái không khí đờn ca quyến rủ. Mỗi lần ngồi trong hậu trường hay dưới hàng ghế khán giả, người cứ lả đi, say mềm vì ánh đèn sân khấu, vì những tiếng hát, lời ca, vì những chuyến đi xa, qua những tuồng tích, những vai trò, những cuộc đời…phiêu linh, những cuộc tình…đầy nước mắt mà có hậu…
Bây giờ, gánh hát cơ hồ như sắp rã, đào kép hát ca tập dượt như những xác không hồn, như món nợ phải trả, nghề đã mất, chỉ còn nghiệp chường ! Nỗi vui chú Ba hồi mới hoà bình -từ rày mình về miệt vườn lưu diễn dễ dàng -, bị vơi đi bất ngờ khi ông ngoại mất. Ngoại tôi, soạn giả Bảy Úùt, chuyên môn viết lời ca, đôi khi đặt tuồng, vừa hết chiến tranh, ngoại bị bệnh gì không biết, ngày cứ héo hắt, teo tóp, vài tháng thì chết, lúc đó tôi mới bảy, tám tuổi. Chú Ba Xanh và cậu Năm Trường bao thầu lèo lái mọi việc. Cuộc sống trôi chảy gượng gạo, vì tài chánh thu vào liên tục thất bát, và vì cãi cọ lớn tiếng cũng hơi nhiều. Lúc đầu ai cũng lo sợ vì có "trên" nào đó muốn thanh niên chớ nên nghe hay ca vọng cổ, cải lương, vì thứ cổ nhạc chưa đủ cổ này quá uỷ mị, xa vời hiện thực, không tốt cho việc xây dựng xã hội mới. Nhưng họ cấm chỉ được một thời gian ngắn.
Nhưng cũng chưa phải là được tự do. Như về việc đặt tuồng, tôi nghe chú Ba và cậu Năm than thở hoài. Bởi tuồng nào anh Ba cũng bắt sửa lên sửa xuống, nào là chưa vững, chửi ngụy như vậy chưa mạnh mẽ, tố cáo văn hóa đồi trụy không sâu sắc, không được dùng chữ Hán Việt, phải dùng chữ quốc ngữ, vân vân…Chú Ba cằn nhằn hoài với người trong trại, có lúc chú giận dỗi nói với cậu Năm Trường :
- Nó có giỏi thì ngồi đặt nguyên một vở tuồng cho tao coi, đợi người ta làm rồi chê thì dễ biết mấy ! Mà tao đố nó biết dư giả giê i khác với dư dả dê đê như thế nào (!).
Ba tôi cũng có lần đụng độ với anh Ba :
- Chú mày khó quá, ai hơi sức đâu đi đếm mà chú mày chê tao vẽ thiếu…hai cọng râu bác. Tại râu ổng thưa chớ đâu phải tao cố tình vẽ thiếu ?
Hoặc :
- Mắt ai cũng con nhỏ con lớn đâu phải riêng chỉ bác Hồ, tao vẽ vậy là đúng sự thực, chú mày đòi vẽ cho bằng nhau, đâu được.
- Chú mày chê tao vẽ mặt bác đỏ quá, đúng đúng, nhưng thiếu sơn để tao pha thì đành chịu vậy. Ví dụ như tao chỉ có sơn xanh, tao cũng vẽ giống và đẹp như thường… tất cả nghệ thuật là ở đò, chú mày biết không ?
Ba cười nói với má : em thấy đó, chửi bới, đập phá, tẩy trừ tàn dư, tiêu huỷ đồi trụy, nuôi dưỡng thù hận : quá dễ ! Sáng tạo, xây dựng, yêu thương …mới thật là …trần ai khổ nhọc !
Cậu Năm nóng nảy : kham chưa nổi điều đang có thì chớ nói viễn vông..
May là anh vai vế nhỏ hơn ba má tôi, anh kêu má tôi bằng dì. Má anh với má tôi có chung ông bà ngoại. Hồi anh mới về, xã hội cũ còn "phong kiến, lạc hậu", quan trọng vai vế gia đình còn được đám tàn dư duy trì ; họ tuy yếu thế nhưng vì đông hơn nên đôi lúc anh phải nhượng bước. Chứ không thôi anh đã cho ba tôi đi học tập như dã cho cậu Sáu Mẫn (tức là hề Mẫn của đoàn).
Bữa hát đó cậu Sáu cương ẩu, cậu nói lối trước khi vô xàng xê là "…bà con ơi, bà con đừng có nghe tui nói, bà con hãy nhìn những gì tui làm…" Khán giả cười rần rần và vỗ tay khen cậu quá xá. Anh Ba lấy làm lạ vì thấy câu nói đó vô duyên lạt lẽo, tầm thường. Ðến lúc có người ghét cậu Sáu, cắt nghĩa cho anh thì anh đùng đùng nổi giận ; cậu Sáu ôm gói đi "học" hết sáu tháng.
Còn chị Ba. A, chị Ba "kẹo lạt" của tôi, chị vốn người đất Bắc, hồi chị mới vào ai cũng muốn làm quen với chị, hỏi chuyện "ở ngoải". Chị thật thà, hay..phán những câu làm mất lòng người. Như khi đến thăm dì Hai, là chị em bạn dì của má tôi, chị rờ rẫm mấy cây cột nhà đúc bê tông, rồi mạnh mẽ dõng dạc tuyên bố rằng :
- Nhà dì Hai tốt thế này, cột to thế kia chắc chắn là Mỹ Ngụy đưa tiền cho dì xây. Chứ ở ngoài cháu, nhà bộ trưởng còn chả bằng được như thế này.
Dượng Hai giận xanh mặt, dì Hai có máu tếu nên chỉ cười cười, giả giọng Bắc :
- Ừ thế là bởi vì dì của cháu đây vốn là …là bà cố nội của Mỹ nên nó cho tiền dì xây đấy cháu ạ ! Thằng Mỹ thường dối trá xảo quyệt, nhưng vào đến nhà dì thì trúng phải gió nên ngu cực kì !
Trong trại xảy ra chuyện gì chị cũng phê bình và hay nói "ở ngoài Bắc…thế này…", "dưới chế độ xã hội chủ nghĩa…thế kia…". Thí dụ :
Ở trong này…chẳng vệ sinh, cầu tiêu hễ không xây trong nhà thì lại cất ven sông, bọn Mỹ Ngụy chỉ lo hốt tiền, lo chém giết…không biết giáo dục nhân dân. Còn ngoài Bắc ấy à, có cầu tiêu tiểu công cộng có thùng…, có nắp, có…người đi lấy mỗi ngày…để làm phân bón, thật tiết kiệm…lại sạch sẽ, gọn gàng !
Dì Hai can các chị tôi :
- Ðừng thèm đôi co với nó, để nó ra đường phê bình kiểu đó và kể chuyện xã hội chủ nghĩa văn minh, chúng vả cho mẻ răng, nó sẽ tởn mặt tới già. Bà con đánh, mất công…mang tiếng.
Mộtù lần trại họp bàn chuyện gì đó có cả anh chị, chị nghiêm trang gọi anh là đồng chí. Cả trại về sau nói chuyện với anh Ba, gọi chị là "đồng chí vợ".
Mọi thân tình hoàn toàn tan rã hai năm sau, cùng lúc với cuộc tình anh chị Ba. Nghĩa là khi anh đeo riết cô Thanh Hồng, một trong mấy cô đào "lẳng" của gánh Ðồng Phước. Trong trại ai cũng… tán thành cuộc nhân duyên mới dù anh hơn Thanh Hồng gần hai chục tuổi. Chỉ có má tôi là thương xót chị Ba "thân gái bơ vơ nơi đất lạ quê người". Bà không đồng ý cái cớ -được "toàn thể nhân dân trong trại nhất trí"- ta về ta tắm ao ta của anh Ba. Thành thử chị còn lân la giao thiệp với mẹ con tôi, chớ trong trại, rồi ngoài xóm ít ai thèm đếm xỉa tới chị. Ðáng lẽ tôi cũng chuyện trò niềm nở hơn nhưng mấy tuần nay tin ba tôi vượt biên đã tới tai chị. Chị bán tín bán nghi mà không dám hỏi thẳng. Anh Ba thì không nói chi. E rằng nhân dân sẽ hết nhất trí. Dầu sao, ba tôi cũng có chút tiếng tăm trong trại lẫn ngoài xóm. Tôi đã tự dặn trong bụng : chị còn vòng vo thăm hỏi tôi sẽ nòi huỵch tẹt ra rồi "cắt đứt dây chuông", kể như huề, cho chị…chết luôn.
Ba với anh Hai đi rồi, chị làm gì được mẹ con tôi ? Tịch thu hai cái giường trong trại ? Niêm phong quán Thanh Danh, cái quán chỉ một bàn cây thấp và không có được ba chiếc ghế lùn lành lặn như quán cà phê thím Ba ? " Chả bõ dính răng !" như chị vẫn nói.
- Má đâu rồi con ?
Tôi giật mình ngẩng lên. Cậu Năm Trường nhìn tôi chăm chăm, hai con mắt thương yêu :
- Sáng giờ bán khá không con gái cưng ?
Trời ơi giọng cậu y như ba tôi khiến tôi muốn khóc, tôi bỗng nghe hờn cậu ; bèn sẳng giọng :
- Má con đi chợ từ sáng. Uả ! Con tưởng cậu đã đi theo đoàn…
- Coi kìa, lại sắp khóc phải không ? Má con về tới bây giờ nè… Cậu mới mua cho con mấy bản vọng cổ của Thanh Nga, học thuộc rồi ca cho cậu nghe. Kỳ này cậu nghỉ ở nhà dưỡng sức.
Tôi lật lật mấy cuốn bài ca mà giận mình vô cùng. Tôi ghen cho ba tôi. Rồi tôi biết mình vô lý, tôi bực bội, lí nhí cám ơn cậu. A, mấy vai tuồng cô Thanh Nga ca diễn gần đây.
- …Má con mới đi chợ, chưa về liền đâu, cậu hỏi chi vậy ?
- Tối nay đoàn Thanh Minh về hát rạp Cao Ðồng Hưng, tuồng Thái hậu Dương Vân Nga.
Tôi suýt nhảy cà tưng vì sung sướng. Cậu vuốt đầu tôi :
- Chiều nay hai mẹ con sửa soạn ăn cơm cho sớm, cậu có ba vé mời.
Cậu đi rồi tim tôi còn rộn rã, náo nức. Không phải vì ai cũng khen tôi có khuôn mặt và giọng ca giống Thanh Nga mà tôi mê cô đâu. Tôi quen với hình ảnh cô từ hồi mới lọt lòng mẹ. Buổi sáng ngủ dậy, ra khỏi mùng là tôi thấy cô.
Ba tôi mê cô từ hồi cô sang lưu diễn bên Pháp, ba tôi đang học hội họa ở Ba Lê. Khi bỏ ngang về Sàigòn, ba cứ lân la làm quen, sống gần giới cải lương. Gặp má tôi, ông theo riết. Cậu Năm suýt đánh lộn với ba vì khi đó, cậu đã và đang dày công luyện tập và…đeo đuổi má tôi.
Má tôi thường nói má với ba hữu duyên thiên lýù năng tương ngộ, còn với cậu thì vô duyên đối diện bất tương phùng. Cậu trở thành bạn thân với ba tôi nhưng khi đám cưới ba má thì cậu nhậu say, đập bể cây đàn guitare, thề "ở vậy". Ba má nói cách mấy cũng không lay chuyển lòng cậu. Mỗi khi cậy say mèm, bà con vực về trại là tôi thoáng thấy má tôi long lanh ngấn nước trong đôi mắt đen láy.
Trên phần vách nhà tôi, ba treo, dán đầy hình cô Thanh Nga. Bộ sưu tập "tem" của ba đó. Thanh Nga trong Người vợ không bao giờ cưới, trong Ðôi mắt người xưa, Loan mắt Nhung, Hai chuyến xe hoa… và đôi bức hình má tôi hồi bà sắp sửa trở thành đào chánh đoàn Ðồng Phước. Thời ba chưa bán cái máy hình thiệt to có cả bao da dầy cứng bóng láng và thơm nức mùi da. Bây giờ hình nào cũng ố vàng, cong góc. Còn ba…
Tôi ngắn nghía mãi không chán, càng nhìn càng so sánh càng thấy má giống Thanh Nga. Hình như má có bà con xa với gia đình cô, nhưng má ít khi muốn nói đến. Cũng như không khi nào má nhắc nhở đến nguyên nhân đã làm gián đoạn sự nghiệp cầm ca của má.

*

Chiều cơm nước thay đồ xong thì cậu Năm tới. Tôi lửng thửng đi sau lưng má và cậu. Thường khi, hễ vào Gia Ðịnh coi hát, cả nhà thả bộ rề rề vừa đi vừa hóng mát. Ði thành hàng hai, cậu với anh Hai đi trước, rồi tới ba má, tôi và Kha đoạn hậu. Ba má chỉ trỏ những căn nhà san sát, những dinh thự, kể rằng hồi xưa đó chỉ là ruộng rau muống, bãi rác…
Bây giờ cậu Năm đi cách xa xa má tôi, mặt cậu vui vẻ, nên tôi nghe còn hờn cậu. Bởi vậy trong rạp tôi ngồi chen giữa hai người. Rồi say mê nghe, mắt dán lên sân khấu uống từng lời ca, từng cử chỉ của người đàn bà vương giả…
" Hỡi các triều thần, bá quan văn võ. Ðây tấm long bào ta gìn giữ lâu nay. Aùo giành cho con trai ta kế vị sau này…"
" Chúng tôi là tiểu quốc, các ngài là đại bang, các ngài phải lấy nghĩa nhân mà đối xử với chúng tôi. Như vậy mới mong không tức nước vỡ bờ…"
" Việc thư hùng không phải nhờ nơi những lời cao ngạo. Dân ta bao lần tỏ ra cũng đủ tài binh lưọc xua tan trăm ngàn bão giông giữ yên một giải non sông…"
" Ôi đất nước của ta trời Nam một cõi vang lừng lịch sử oai hùng sao lại chịu khuất phục ngoại bang. Chúng đã để ý dòm ngó mảnh đất thân yêu này ắt chúng sẽ bày trò mượn cớ xâm lấn sang đây …"

Tôi chợt nhớ đến những câu chuyện thì thầm giữa những chú bác trong gánh hát. Nhất là theo chú Ba, "người ta" đang tìm cách khơi dậy căm thù, kêu gọi lòng đoàn kết, hy sinh. Nhưng không khí trong xóm không như ý "người ta" mong muốn, lúc bọn "bành trướng" Trung Quốc tấn công ở biên giới phía Bắc, nhiều người trong xóm dám lộ vẻ vui mừng, hi vọng…Cậu Năm buồn bã mỉa mai :
- Ðó, coi đó. Hồi xưa tao đi kiếm con nít trường Tàu để đánh lộn, bây giờ thiên hạ vậy đó, "người ta" chửi mình phản động cũng phải !
- Dân chúng ham mê cải lương thì đổ xô nhau đi coi, chứ còn nói về "tác động" của vở tuồng thì…
Khuya về, tôi tíu tít, hăng say nói về những màn đã xem. Ðến nỗi lúc băng qua đường, đường vắng hoe chỉ có một chiếc xe Wolkswagen đang trờ tới nhưng tôi không thấy. Tiếng bánh xe rít lên ngừng sát bên tôi ; cậu Năm ôm ngang lưng tôi kéo vào. Tôi quay lại nhìn người trong xe. Không nhìn thấy rõ mặt người lái, nhưng bên cạnh, là cô Thanh Nga.
Mặt cô thật bình thản tuy có đôi nét mệt mỏi, cô nhìn tôi mỉm cười bao dung, cô đẹp như thiên thần. Ðẹp quá vì cô hiện thực hơn lúc nãy, khi còn là một thái hậu bơ vơ mảnh mai trên sân khấu với một trách nhiệm quá to lớn, nặng nề.
Má tôi hít hà hốt hoảng :
- Trời ơi chút xíu nữa là xe đụng con rồi. Trời thần ơi, cô đẹp còn hơn vua chúa, hoàng hậu…Anh Năm thấy không lúc nầy cô có da có thịt, hai má đầy đặn, đôi mắt đen…minh mông, ô, cái mũi dọc dừa nhỏ xíu, cái càm nhọn nhọn…Chồng cô chở con tới rước đó, con thấy đứa nhỏ ngồi sau không hả Ngân. Cha, khuya lơ mà hãy còn thức theo cha mẹ.
Chúng tôi về trại cùng với vài người đi xem hát khác, đường khuya cũng thức dưới những lời trầm trồ, nhắc nhở tuồng tích, phê bình lời ca, cách diễn. Tiếng bàn bạc phê bình nhỏ dần, trở thành tiếng thì thào rồi im hẳn sau vài lời cằn nhằn ngái ngủ phát ra từ mấy dãy mùng cao thấp trắng, vàng xen lẫn với màu xanh lá cây nhà binh. Có giường thiếu mùng, chỉ tòn ten võng mây hay võng bố. Trại tối mờ, ánh sáng leo lét trên chiếc bàn thờ Tổ thoi thóp như sắp tắt. Lên giường, má tấn mùng cho tôi rồi trở qua giường của bà. Qua lớp vải thưa, tôi thấy cánh tay bà vắt qua trán, dường như có tiếng thở dài…

Tôi choàng tỉnh vì tiếng chân rầm rập, tiếng người la hét. Ðịnh thần, ngồi dậy, tôi ngơ ngác, tim đập thình thịch. Ðêm lành lạnh, sâu thẳm. Ngọn đèn dầu trên bàn thờ tổ vẫn còn cháy. Bên cạnh, giường má trống không.
Vài ngọn đèn néon bật lên. Tiếng la lại vang lên, hối hả nhưng rõ ràng :
- Trời ơi, tụi nó giết cô Thanh Nga rồi !
- Hai vợ chồng chết hết trơn !
- Trời ơi, tui thấy rõ ràng, tui nghe tiếng cô la nữa.
- Quân ác nhơn, thất đức !
- Trời ơi, mấy người đứng đó mà không ai dám làm gì để tụi nó bắn xong lên xe đi mất tiêu !
Mỗi người một câu, người hỏi kẻ đáp, người kêu trời, kẻ than thở. Tất cả lùng bùng bên tai tôi. Trời còn khuya lắm, trong xóm yên lặng chỉ tại trại Ðồng Phước là mọi người đều thức dậy, bàng hoàng, đau đớn. Rõ ràng là trước đây mấy giờ tôi còn thấy cô cất giọng ca ngọt ngào ai oán, tay nâng vạt áo chậm đôi giọt lệ lăn dài trên má phấn.
Má quay vào xác định điều khủng khiếp. Tôi dụi mặt vào vai má khóc ròng, không còn nghe tiếng ồn ào xung quanh. Lưng áo tôi cũng ướt nước mắt nóng hổi. Mà không chỉ mẹ con tôi. Tiếng khóc nghẹn ngào nghe như dậy bốn phía…Tôi thiếp đi trong tiếng nấc…
Cả ngày hôm sau không khí trong trại và cả ngoài xóm cũng sôi động khác thường. Người ta hỏi han, xầm xì, thương tiếc. Người hỏi, người kể. Buổi sáng toàn trại như đều đã nhìn thấy tận mắt trận ám sát dã man thảm sầu. Ðến chiều thì cả xóm biết rành từng chi tiết. Ðủ thứ giả thuyết được đưa ra. Má tôi thở dài nói nhỏ :
- Trời ơi hồng nhan bạc mệnh….một đời tài sắc có một không hai…Quân sát nhơn thế nào cũng giả tử.

*

Thím Ba Xanh rủ má tôi đi đưa đám người nghệ sĩ tài danh. Thím nghẹn ngào :
- Ðể chị em mình nấu xôi đem ra trụ ngoài bùng binh Sài Gòn, chờ xe đòn đi ngang, mình tháp tùng đưa cô đến chỗ yên nghĩ ngàn thu.
Tôi ở nhà coi quán, má và thím xách giỏ cơm nước, bánh trái, bông huệ đi cùng vài bà khác trong trại, ngoài xóm.
Chiều tối, đoàn người trở về bèo nhèo, bơ phờ, tức tối. Bà con vây quanh hỏi chuyện.
- Thiên hạ ngồi nghẹt bùng binh Sài Gòn.
- Thiệt tình đâu phải chỉ đám mình mới tính chuyện đưa tiễn cô.
- Thì đồng bào ai cũng thương yêu, ái mộ tài sắc cô, muốn chào cô lần cuối…Vậy mà….
- Quân khốn nạn, tàn ác…giết cô rồi mà không muốn nhân dân đưa đám cô..
- Chu cha, nói nhỏ thôi bà nội, biết aì giết mà bà cả quyết như vậy ?
- Trời ơi, còn ai vô đây nữa…Thời này ai có súng, có lựu đạn nói tui nghe coi ?
- Coi chừng đi mút chỉ đó nghen…
- Oái, thiệt là chán, chị em ngồi chờ, nắng cháy da đầu. Mà nó để hai cái hòm trong xe nhà binh, chạy qua một cái vù. Bà con ngơ ngác…
- Bây giờ biết cổ yên nghĩ chỗ nào ? Thiệt tình, chết thảm vậy mà chưa yên thân !
- Thì tại người ta sợ mấy bà thừa cơ nổi loạn, người ta đành đem đi êm.
- Ối, sao ông không dám nói thẳng là họ sợ " phục quốc quân " thừa cơ tấn công…
- Không biết "phục" phản gì mà cả chục ngàn người tụ họp không xin phép…thiệt coi nhà nước không có kí lô nào hết…
Người ngoài xóm cũng tụ tập xầm xì xiên xỏ đến nỗi công an khu vực phải đi rảo hoài để giải tán. Mọi sôi nổi tạm lắng khi báo chí đăng tin bọn chủ mưu vụ thảm sát là "bọn xấu theo Trung Quốc". Trời đất, chỉ vì cô thủ vai Thái Hậu, chọn mặt người gởi trọng trách bảo vệ tổ quốc ?
Ðó chỉ là sự phẳng lặng bằng lòng của con sông cạn nước mùa khô. Tôi thấy chú Ba cự nự hung với anh Ba. Nhiều lần. Tôi nghe được thím Ba nhỏ giọng cằn nhằn chồng :
- Bộ thằng Ba nó giết hay sao mà ông cứ nhè nó mà ông nhiếc móc ?
Chú sa sầm nét mặt, nghiến răng, không trả lời. Thím liều lĩnh :
- Tui nghe nói người ta thanh toán gia đình cô vì chuyện vượt biên, tiền bạc không thành…
Chú trợn mắt, lớn tiếng nạt một tràng khiến vợ lùi mấy bước :
- Bà nói gì ? Bà điên chưa ? Nghe tụi nó vu khống như vậy mà lọt lỗ tai ? Hả? Vợ chồng cổ đang lo giấy tờ xin đi Pháp. Bao nhiêu đó là đủ hiểu nguyên do rồi…Thiệt ác độc vô cùng, bà ra ngoài lóng tai nghe, mấy gánh hát xếp ve, đào kép đều co vòi. Bây giờ nó kêu vô đoàn nào là riu ríu nghe theo… Còn đứa nào dám tính chuyện ra đi nữa. Cô Thanh Nga mà chúng còn giết, mấy cái mạng cùi khác nghĩa lí gì ? Ðộc lắm, bắn có một mũi tên mà rụng tới cả chục con chim.
Lúc không có anh Ba và tai mắt anh, chú với cậu Năm và vài người vẫn bàn tán, tức tối. Rốt cuộc rồi cũng tới tai anh. Anh hay thuyết:
- Không tìm ra thủ phạm nên mấy người cứ bàn ra tán vô, vu oan…Dân miền Nam này còn…cá nhân chủ nghĩa quá.

Anh bực mình nói vậy một phần cũng vì ngày trước hai bên chưa…cảm thông nhau. Những đoàn cải lương từ Bắc vào và Nam ra cùng thề trong lòng sẽ chẳng bao giờ trở lại. Trong Nam ra, chưa ai có kinh nghiệm để đối phó với những "sự cố" như thiếu điện nước, đèn đuốc, sân khấu thô sơ và nhất là cái rét cắt da. Nên dù dược đồng bào ùn ùn ủng hộ, hễ nghe nói đi ra Bắc là gánh nào cũng tìm cách…thoái thác. Ngược lại, đoàn văn công Bắc vào biển diễn ở Sàigòn, thiên hạ bảo nhau tẩy chay. Một lần chú Ba rủ cậu Năm với ba tôi thả bộ về rạp Cao Ðồng Hưng đếm…khán giả nhân dịp đoàn cải lương Tiếng Chuông Vàng Thủ Ðô vào trình diễn. Ba tôi về nhà kể, giọng hể hả :
- Tao đếm được đúng bốn chiếc xe đạp dựng trước rạp. Nhân dân mắc làm gì mà chỉ có bốn người đi coi hát !
Cậu Năm nói :
- Ai nói anh là bốn khán giả ?
- Không chừng hơn bởi vì một người đèo một người …tối đa là tám mạng !
- Ôâng ơi, tám mạng đó là…đây nè, vợ chồng…đào kép chánh, vợ chồng đào kép phụ, thằng chính trị viên chỉ đạo, thằng bán vé, thằng gác cửa…. Vị chi là bảy, khán giả chỉ có một người…Ôâng nội nào đó trong uỷ ban nhân dân…được giấy mời ! Tóm lại cuộc trình diễn hoàn toàn…thất bại !
Sự thất bại đó về sau nầy đã bị xóa bỏ bằng cách người ta "xung công" đào kép. Những người nổi tiếng bị "lùa" vào những đoàn hát nhà nước. Thế là các rạp lại đông đầy. Hễ rảnh rỗi, chú Ba và ba tôi rủ nhau đi coi hát và thăm bạn bè, dù mỗi lần về ba đều có chuyện để cằn nhằn :
- Nhà nước khôn tổ sư, không làm gì hết mà cũng đòi chia lời. Còn lỗ không biết nhà nước có bù vô không ?
Má tôi tươi cười :
- Nào phải chỉ có những gánh hát mà anh phân bì, hàng quán, cửûa tiệm gì cũng phải chia, vậy là tuyệt đối công bằng.
- Em nói vậy mà nghe được à ? Công bằng ? Mấy thằng ôn dịch ngồi ghế chủ toạ, không làm gì mà được toàn...
Phượng Các
#5 Posted : Saturday, May 7, 2005 12:17:44 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)



Muguet, từ vườn nhà của nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến. Cám ơn Chị. Rose

VanhKhuyen
#6 Posted : Wednesday, June 1, 2005 1:56:08 AM(UTC)
VanhKhuyen

Rank: Newbie

Groups:
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 465
Points: 0

from www.gachnoi.com

Lấy Nhau Chẳng Đặng
Lợi dụng thời gian đổi diễn giả, tôi rời căn phòng họp lớn ồn ào tiếng người và nồng nực mùi khói thuốc lá để thoát ra phòng ngoài.
Ở phòng này, còn vắng vẻ và không khí còn thanh khiết. Thiên hạ và người lác đác cũng trốn ra, la cà bên những quán hàng ăn. Những tấm bảng giấy quảng cáo, mời mọc: bánh cuốn Ða Kao, thạch chè Hiển Khánh, bò viên Casino... Thì ra nhắc nhở suông chưa đủ. Khi nãy, xen kẽ với những bài hát, câu hò, ca vọng cổ, các nhà văn, nhà thơ lần lượt lên sân khấu nhắc nhở đến những buổi sáng ở Cây Quéo, những buổi trưa Bà Chiểu, những ngày mưa ở Bình Hòa, những phiên chợ ở Gò Vấp... Mọi người ngậm ngùi ôn lại hình ảnh trường xưa lớp cũ, bạn bè, lính tráng, công tư chức, kẻ mất người tù, kẻ đông người tây bây giờ. Rồi lát nữa đây, ra nhấm nháp những tiêu biểu cụ thể thì ai nấy có thể... yên tâm sống cho đến lần kỷ niệm sau.
Chợt có một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi từ phía sau lưng, một giọng nói ấm áp quen thuộc, nhưng từ lâu lắm, tôi cố tình đẩy ra bên ngoài trí nhớ.
- Xin lỗi cô Nguyễn, tôi có chuyện muốn nói với cô.
Câu nói bằng tiếng Pháp thật nhẹ, thật chậm rãi. Ðôi tay chàng ôm vai tôi vài giây rồi lập tức nới lỏng, gọng kềm êm ái chợt buông ra. Làm sao diễn tả cho chàng cái cảm giác tiếc nuối khôn cùng lúc đó? Tôi xoay người lại. Ðúng là Dân đang đứng trước mặt tôi, vẫn nụ cười đôn hậu và quyến rũ. Tóc đã bạc đi nhiều nhưng vẫn dáng người rắn rỏi, vẫn kính cận dày lấp lánh, đàng sau, hai con mắt vẫn thiệt thà, thông minh. Ba năm dài đằng đẵng, tôi héo sầu tuyệt vọng còn chàng vẫn cứ... tỉnh khô không thay đổi vậy ư? Tôi đứng chết trân, nước mắt tuôn ra ban đầu thì lặng lẽ, sau đó thì ra tiếng hu hu ư ử... Chàng kéo tôi ra khỏi tầm mắt đồng bào, một tay móc túi lấy khăn đưa tôi, một tay vỗ vỗ nhẹ vào lưng tôi. Tôi giật mình vô cùng, tôi thấy tôi dở ẹc, chưa giáp trận đã giơ cờ trắng. Nhưng này, tôi còn ước mơ ham hố gì nữa đây? Có trận địa nào, còn ván cờ nào nữa? Nhưng tôi chẳng đặng đừng cho phép mình nhâm nhi một cách thú vị cơn bối rối và nỗi ngây ngất đang dâng lên. Lại một thoáng tiếc nuối khi bàn tay chàng rời khỏi lưng tôi, tôi bay bổng theo chàng ra bãi đậu xe. Trên suốt quãng đường dài, tôi nhắm mắt, dựa đầu vào ghế, vừa sung sướng vừa sợ hãi nghe tiếng chàng hát nhỏ những bài nhạc xưa. Không gian lâng lâng, huyền ảo.
Khi cả hai ngồi trong quán, thì mặt trời đang lặn dần xuống biển, mây hồng từng đám lừng lững nhìn xuống bãi cát. Sóng nhịp nhàng vỗ về những ghềnh đá. Người ta đông đảo, dập dìu, nói cười vui vẻ trên bãi, trên những bao lơn, dựa vào thành gỗ, hay ngồi trên những tảng đá, ngồi trong những ngôi quán nhỏ sáng đèn, nhìn từ xa như những ngọn tháp. Chàng mở đầu:
- Ðây là Redondo Beach...
Tôi nhìn chàng, chờ đợi. Giọng chàng bỗng mềm đi:
- Anh thật may mắn... Người bạn rủ mãi mới chịu đi, lại định bỏ về sớm nữa chứ...
Tôi ngắm những sợi tóc bạc của chàng. Mỗi sợi tóc bạc là một ngày nhớ nhung phải không anh. Cho nên nhớ nhung, cũng như tóc bạc, không chỉ dài ra thôi mà còn lấn đất, thêm hoài, thêm hoài... Cũng như những kỷ niệm của chàng của tôi, lẫn lộn, quấn quít nhau, nguyên vẹn. Tôi đã kể cho chàng nghe những biến cố trong thế giới tuổi nhỏ của tôi. Có Lăng Ông, có rạp Huỳnh Long mười đồng hai phim Ấn Ðộ ca vũ nhạc thần thoại, có ao rau muống, những con cá ba màu ở xóm Khăn Ðen Suối Ðờn. Và trong tôi còn sống động những ngày thơ ấu của chàng... Nhưng tôi giận dỗi bâng quơ:
- Dân Tây tám chục phần trăm mà cũng đi dự "Ngày nhớ Gia Ðịnh"...
Chàng tha thiết:
- Anh thấy em từ lúc nghe cái ông có hàm râu cá chốt nhắc nhở về xóm Hàng Xanh và trận đánh hồi năm Mậu Thân... Anh nghĩ tới người dì của em...
Ừ, Tết Mậu Thân, tôi còn nhớ như in bữa ngồi xem ti vi ở cư xá đại học, cuộn phim cũ nhắc lại những trận đánh lớn nhân khi hiệp định Paris được ký kết. Tôi thấy lại bà dì áo bà ba, quần đen, chân trần, tóc bay trong gió, đứa con nhỏ trong tay, vừa chạy vừa khóc trong đám đông hỗn loạn. Tôi nhớ đã đành, mà Dân cũng chua quên... Tôi liếc chàng thật bén, giọng vùng vằng:
- Nói em nghe coi rạp Cao Ðồng Hưng nằm chỗ nào, chợ Bà Chiểu có món gì ngon?
Người bồi mang ra hai con cua luộc đỏ ối nằm kềnh càng trên đĩa. Dân điềm nhiên lấy khăn, rót rượu, đập vỡ vỏ cua, đưa tôi những cái ngoe với các sớ thịt cua trắng nõn. Vừa nói chuyện. Vẫn lối nói chuyện lôi cuốn, vừa kể lể tâm sự, vừa tra vấn. Tôi tự dặn mình hãy coi chừng, nhớ tấn công chứ đừng thèm giữ thế thủ. Trời ơi, ba năm rồi mà cứ tưởng như hôm qua. Chàng vừa mới làm quen, kín đáo điều tra tôi. Giọng chàng đang ngọt mật, chợt ngập ngừng, hỏi bằng tiếng Pháp:
- Cô Nguyễn, tôi có làm phiền cô không?
Tôi cười gượng, trả lời bằng tiếng mẹ đẻ:
- Thành bà rồi anh ơi! Con gái em vừa tròn một tuổi, hai bữa nay về ở nhà ông bà nội...
Chàng có nghe nhưng sao không một thoáng mây mờ trong ánh mắt? Ôi, tôi còn trông mong gì nữa vậy? Tôi cố tình quên đi khoảng thời gian đã qua nhưng sự thật vẫn rành rành và chứa đầy sóng gió. Ba năm đã qua, ba năm hay ba thế kỷ?
Như đọc được ý nghĩ tôi, chàng nghiêng đầu nói nhỏ:
- Em tính... nhất nhật bất kiến như tam thu hề, huống tam thu... Phải không, cái ông ba Tàu nào đó có nói... Em tính đi ba trăm sáu mươi lăm ngày nhân lên ba rồi bình phương lên.
Tôi vụt hỏi:
- "Người ta" ra làm sao? Có... đẹp không? Chắc là ngoan ngoãn lắm? Bố mẹ chọn hay là cái cô Oanh chọn?
Chàng lơ đãng nhìn ra ngoài, hất hàm chỉ chỗ có những ánh đèn chớp xanh đỏ:
- Nơi đó có nhiều trò cho những... bố trẻ con, mỗi lần thắng người ta đưa cho em một số thẻ với những điểm khác nhau, em cứ làm tính cộng rồi đổi lấy những con thú nhồi bông lớn nhỏ tùy theo...
Tôi muốn khóc:
- Các con chắc là dễ thương lắm, giống anh hay là...
- Thằng bé có đôi mắt giống... em.
Thôi đi ông ơi, xạo vừa vừa thôi, nhưng tôi chưa kịp nói với chàng câu đó thì, lạ lùng chưa, tôi chợt nhớ ra rằng cô con gái cưng của tôi có nụ cười y hệt chàng.
Chàng rót thêm rượu vào ly cho tôi, thở dài, hứa hẹn:
- Tuần sau anh đưa em đến một chỗ rất đẹp, đặc biệt, từa tựa vài khu ở Paris. Mấy năm ở nơi này, chắc em nhớ nhiều... Ðêm mát mẻ, diệu kỳ, mơ hồ mà rất hiện tại. Người đã thưa thớt dưới bãi nhưng vẫn đông đầy trong các hàng quán rực đèn. Khi chúng tôi đứng dậy ra về, tôi có cảm tưởng mình rời bỏ chốn vui chơi, mộng mị để trở về thực tế. Bụng buồn và... no óc ách, tôi xấu hổ khi ngoái cổ nhìn lại đống vỏ cua cao nghệu và chai rượu rỗng. Trước đó, theo bước chân chàng kể chuyện ba năm qua, nước mắt chảy đã đành mà miệng vẫn cứ nhai nhóc nhách không ngừng. Tôi muốn nhai, nuốt biến đi những nghẹn ngào, đau đớn, những quyết định thờ ơ đã có, đã khiến tôi trôi nổi nơi này, sống hững hờ không đợi chờ, mong muốn... cho đến hôm nay. Cuộc đời diễn tiến lặng lờ không có tôi nhập cuộc. Hồi đó Quỳnh, con em út của tôi đã trợn mắt, mím môi, hùng hổ:
- Chị ngốc lắm, chịu thua một con mụ chẳng có quyền hành chi đối với cuộc đời của chị, đầu hàng một anh chàng cù lần không có một chút gì hợp với chị...
Ðó là vì Quỳnh chưa rõ Ngôn đấy thôi, anh ít nói, hơi thô, nhưng thực tế, tốt tính, bộc trực, một con người trong suốt, sống dễ dàng không thắc mắc. Với lại, điều quan trọng nhất là tình yêu rất giản dị, trung thực anh đã dành cho tôi.
*
Khi tôi về, Ngôn còn ngồi loay hoay cộng trừ nhân chia với những giấy tờ biên nhận, hóa đơn, toa thuốc. Tôi luống cuống khi anh ngẩng lên nói:
- Biết liền mà...
- Anh... anh biết... biết gì, em... em...
May quá chưa tìm ra lời dối quanh thì Ngôn cười:
- Anh đã không muốn đi vì biết rằng "mấy cha" xúm nhau kể... chuyện đời xưa. Ðất Gia Ðịnh rộng mênh mông, bao quanh cả Sài Gòn, muốn đi giáp vòng và kể chuyện gió mưa bão táp thì có lẽ ba ngày mới xong. Em... hết nhớ Gia Ðịnh chưa?
Tôi ậm ừ qua loa. Ngôn lại cúi xuống đống sổ sách. Ðầu tôi đầy ắp những tháng ngày hạnh phúc xưa cũ, những nuối tiếc... xôn xao. Nếu không có chiếc khăn tay thơm dịu của chàng, tôi đã nghĩ rằng mình lỡ dại nằm mơ.
*
Tôi năn nỉ má tôi cuối tuần đến thăm anh chị sui luôn tiện bắt cháu ngoại về nuôi giùm tôi vài bữa. Cuộc sống nhàn rỗi, khép kín đến chán nản của tôi bỗng dưng chấm dứt đúng lúc. Từ hơn hai tuần trước, tôi đã ghi tên học lớp "chữ Nho tốc hành" tối thứ sáu, thứ bảy thì đi học hội họa, nhiếp ảnh. Chính Ngôn đã thúc hối tôi ra ngoài vì thấy tôi sống quá bình thường, làm nội trợ, làm mẹ, làm vợ ngoan ngoãn không một lời... ta thán. Ngôn cũng muốn chiều tôi, nhưng tiệm thuốc của anh chỉ đông khách vào cuối tuần, đóng cửa tiệm để dẫn vợ đi chơi hay theo vợ đi học chắc là sẽ lỗ nặng.
Thế là tôi có những buổi tối hồi hộp đợi bóng xe chàng trờ tới, và tôi lúc nào cũng mặt thời lơ láo, mắt thì nhanh. Những bộ mặt Á Ðông thoáng thấy đều có dáng dấp của ông bà già chồng tôi hay mấy bà cô của con gái tôi. Tôi cố tình lừa dối tôi, tưởng tượng mình như trước, đang hăm hở lao vào "bóng mát một cuộc tình", cố quên rằng xung quanh dây nhợ quấn quít tứ tung chằng chịt. Lâu lâu, hồi "tỉnh giấc Nam Kha", tôi rên rỉ, tôi tự cảnh tỉnh, mắng mình, nè mi ơi, hãy tự nhìn cho kỹ, hãy nhìn mi cho kỹ, trước khi phạm tội. Nhưng tôi có nghe tôi đâu, chàng có để tôi nghe tôi đâu. Buổi sáng vác túi sơn cọ đi học vẽ, chưa thấy trường chưa thấy thầy, tôi đã thấy tôi đang hấp tấp theo chàng chạy ra phi trường, bay một hơi tới San Francisco. Qua cây cầu treo màu đỏ, xuống phố Tàu ăn "tiểm sấm", chạy ra khu bến tàu cũ. Hòa mình vào dòng người rộng lượng vô danh. Em thấy chưa, cứ như là khu Montmartre, Beaubourg, có nhạc sĩ hát dạo, họa sĩ vẽ chân dung thần tốc, nghệ sĩ diễn tuồng câm. Ðêm còn tuyệt vời hơn nữa, ở lại đêm với anh, em sẽ thấy, em sẽ... em sẽ...
Chàng làm như tôi đang tiếp tục cuộc sống dở dang thuở trước, với thật nhiều hối hả để đền bù khoảng thời gian phí phạm. Nhưng chàng còn tỉnh táo, tôi hết rồi không liều lĩnh, đam mê xa xưa. Tôi lảng sang chuyện khác:
- Em chưa biết mặt "người ta", giới thiệu em đi, giả bộ nói em là học trò cũ của anh hồi em còn bên Pháp.
Cũng may chàng nhìn tôi thấu suốt nên buổi chiều đó, trên đường về nhà, chàng cầm tay tôi:
- Em có vẻ mệt, tuần sau mình sẽ gặp lại...
Nhưng chưa đủ hai ngày chàng đã gọi điện thoại:
- Mình ra biển, anh đến đón em!
Mới hai tuần lễ, tôi lên năm pounds và đầu óc nặng nề những lời thống trách, chì chiết. Chàng hiểu ngay, ở những lần hẹn sau chàng chỉ gọi rượu nhẹ và trái cây. Biết rõ tôi, chỉ có chàng. Thật vậy, chàng đâu quên cái tật kỳ cục của tôi: người ta uống rượu để tiêu sầu, còn tôi thì... ăn để tưởng nhớ. Hồi xưa, lúc được tin ông ngoại mất, tôi vừa khóc vừa chạy vù vô xóm mua một đồng mía ghim và những trái cốc ngâm cam thảo tỉa múi thật đẹp. Chấm một miếng muối ớt, tôi thấy ngoại đang thoăn thoắt leo dừa; bẻ một khía cốc chua, tôi ngồi xem ngoại kết lá quít làm ổ cho kiến vàng; ngậm miếng mía, tôi hình dung ngoại đang quăng lưới trên sông. Khi cắn đầu trái cóc tròn như mái dù, tôi còn thấy rõ ràng ngoại nằm võng kẽo kẹt, tay gác trên trán, bên ngoài trời mưa, bong bóng nước thi nhau vỗ trên sân đất ngập nước, trên mặt rạch. Khi nước mắt đã cạn, mí mắt sưng cứng, đầu óc lùng bùng, hỗn loạn thì trên bàn ngổn ngang bã mía và những hột cóc trơ xương. Tôi thù ghét thằng Bển, đứa em họ đưa tin dữ khi tôi vừa đi học về, trời đất hỡi, trong nhà không ai có đủ can đảm nói với tôi là ngoại vừa mới mất! Khi mới sang Pháp, mỗi một trang cours phải tiêu một thẻ sô cô la. Học xong năm thứ nhất, tôi trở thành một bao gạo biết đi!
Còn những lời mắng mỏ? Tôi cố moi óc tìm những lý lẽ biện hộ cho hành động của mình. Có phải vì Ngôn mải lo làm ăn, hờ hững với tôi? Có phải vì đời sống tôi không hạnh phúc, dù với một người chồng hoàn toàn, một đứa con đẹp đẽ? Hay chỉ là một phút dừng chân (xé lẻ) để quên con đường dài phẳng phiu, buồn hiu trước mặt?
Tôi lao đầu vào công việc bếp núc, may quần áo cho con, siêng năng đi... thăm ông bà nội của con tôi. Ðến nhà ba má, tôi cắt cỏ, cho gà vịt ăn. Nhưng tôi cố tránh gặp mặt Quỳnh, hai con mắt một mí rưỡi coi vậy mà thấy rõ hết. Một ngày nào đó, nó từ tốn dọ hỏi, tôi sợ rằng nó sẽ chọc thủng được cái bầu tâm sự nặng trĩu của tôi, tôi sẽ khai hết, thế nào cũng khai hết. Tuần trước nó đã đòi tôi ghi tên giùm để đi học vẽ chung với tôi, không lẽ con bé đã bắt đầu nghi ngờ gì chăng?
*
Thế rồi tôi cũng biết được mặt "người ta". Tôi mang con gái đến dự sinh nhật con trai lớn của chàng. Người đàn bà trẻ, nhỏ nhắn, dịu dàng, có vẻ hơi nhút nhát. Nhưng rõ ràng là chàng được yêu thương, săn sóc một cách vẹn toàn. Chàng ân cần, gần gũi với các con, chàng dịu dàng, từ tốn với vợ.
Sau giây phút bối rối, đau lòng, tôi lại nghe tự hào. Phải rồi, những sôi nổi, đam mê chàng đã dành hết cho tôi rồi, kẻ đến sau kia chỉ còn cái đuôi... bão! Tôi đã rồi chợt tắt nhưng tôi cũng đã có một phút huy hoàng, người đàn bà kia đang và sẽ chỉ le lói, dù là suốt trăm năm! Nhưng nơi thềm cửa tiễn khách, bàn tay nhỏ nhắn với cái hạnh phúc chỉ le lói đó đặt nhẹ trên cánh tay mạnh mẽ của chàng, đầy vẻ chiếm hữu. Tôi chua chát ngẫm nghĩ, ừ thế mà người ta có được chàng cho tới hơi thở sau cùng, còn tôi thì nhớ tiếc tới ngàn năm.
Trở về nhà, sau vài đêm thao thức, khổ sở, tôi quyết định không gặp chàng nữa, thôi kể như huề đi anh ơi, mỗi đứa có một đời sống, một gia đình, một bổn phận, và một "người khác" thương yêu và để thương yêu. Ðứng núi này dòm qua núi nọ làm chi?
Tôi hối hận mình không giữ lời khi nhận thấy tôi đang ngồi trên bệ đá, bên cạnh chàng, lắng nghe biển rì rào, tình tự. Bãi vắng lặng, những con chim hải âu cuối cùng còn luyến tiếc lượn quanh, tiếng kêu lạc lõng. Mặt trời chiều đỏ và to vừa chạm đám mây ở cuối chân trời, cả một vùng biển hồng rực rỡ nhưng buồn bã, câm nín.
Lâu lắm, chàng mới nói:
- Ðừng trách anh, đừng giận em. Hãy thanh thản, không toan tính. Anh vẫn... yêu em.
Tôi quay mặt về phía sau:
- Tim anh chắc là nhiều ngăn hơn người ta... Chắc to bằng thùng... container máy bay.
- Em không thấy sao, ngoại trừ những đứa trẻ, người nào cũng không thể sống mãi với trái tim người khác hay trái tim nhân tạo... Nói đùa thôi... vì méo mó nghề nghiệp. Anh mong mình chỉ sống cho hiện tại... ở nơi này. Không nhìn về phía trước, cũng chẳng trách cứ gì quá khứ.
Tôi biết vì sao chàng già không nổi. Tim óc lúc nào cũng có lớp lang thứ tự, ngăn này mở ra thì ngăn kia đóng lại. Hừ, không nhìn về phía trước, chẳng ngoái lại phía sau! Chàng tưởng cứ như vậy thì chẳng bao giờ vấp té?
Mãi về sau tôi mới hiểu những lời này của chàng. Lúc đó tôi hờn trách lung tung, giận mình, giận định mệnh, rồi giận cả chàng. Phải chi chàng... chờ tôi, đi tìm tôi, thế nào rồi cũng gặp. Bằng cớ hiển nhiên trước mặt. Tôi đòi hỏi có lẽ hơi nhiều. Xưa nay ngoại trừ anh chàng Lương Sơn Bá dám thác vì tình, có mấy ai (anh) "ở vậy" vì tình? Yêu ai yêu cả một đời mà vợ thì cứ lấy và "ghét" vợ đến nỗi bắt vợ đẻ... sòn sòn năm một.
Chàng cố cãi:
- Em luôn cả quyết một cách vô lý. Sống, phải có tình yêu, tình bạn, song cũng phải có một lý tưởng, một tham vọng nào đó nữa. Không thể vì thiếu cái này mà bỏ rơi tất cả những thứ khác. Phải dẹp qua một bên sự bất mãn, những điều không thỏa ý. Phải sống, dù như thế, cuộc đời trở nên bất toàn,không trọn vẹn.
Thật ra tôi trách chàng mà quên xét đến mình. Thử hỏi tôi có ở vậy chờ ai? Nếu không... thương sao tôi dám nhận lời Ngôn, có ai ép buộc tôi đâu? Không lẽ chỉ tại vì Ngôn có nụ cười giống chàng?
Một lần gặp trước, chàng nâng cằm tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi:
- Em sống có... hạnh phúc?
Tôi cười buồn, hỏi lại:
- Và anh, anh sống có hạnh phúc?
Rồi bỗng phát giận:
- Hạnh phúc là gì? Như thế nào thì gọi là hạnh phúc? Anh ngụ ý gì?
Không đợi chàng phản ứng, tôi nói một hơi:
- Hạnh phúc ư? Giản dị lắm. Ðó là buổi sáng thức dậy, nhìn khu vườn qua cửa sổ, thấy nắng vàng rực rỡ trên cây lá, nhìn đống chén dĩa sắp rửa, mớ quần áo sắp phải ủi, sàn nhà phải lau. Ðó là lúc nằm dài nghe nhạc, lúc đứng trước bếp lửa đảo mớ hành tí tách trong lớp dầu sôi, lúc thay tã cho con, lúc cho con ăn bột, lúc nhìn thấy hai cái răng cửa nhỏ xíu cắn vào đời sống. Ðó là lúc nghe con bi bô những tiếng nói đầu tiên. Ðó là lúc... rửa chuồng gà, nhìn đám gà con chíu chít bên mẹ. Hạnh phúc ư? Có gì đâu mà phải tìm kiếm. Ðó là một buổi tối, bắc ghế ngồi ngắm trăng, uống trà, nghe cõi lòng không vướng víu. Ðó là lúc ngồi ký chèque thanh toán nợ nần trong tháng, trái tim không dao động. Ðó là đôi lúc đớn đau nhận ra thân phận "gà què". Ðó là lúc bất bình thấy rằng đã nửa đời trôi qua mà còn chưa làm được chuyện gì vừa ý, đôi lúc còn luyến tiếc dĩ vãng. Ðó là lúc... Ðó là những lúc... đau khổ thấy rằng mình quá nhiều hạnh phúc!
Chàng nhìn tôi đắm đuối, giọng nhẹ như hơi thở:
- Anh không nhìn thấy chỗ của "hắn" ở trong đó. Em thật sự có hạnh phúc?
Tôi cắn môi nhìn chàng thống trách. Biết mình lỡ lời, chàng vội nói sang chuyện khác. Dường như hai đứa đã có một thỏa thuận ngầm, tôi sẽ không còn nhắc tới "người ta" của chàng cũng như chàng tránh nói về "hắn" của tôi. Dù rằng trong bất cứ cuộc đàm đạo, rong chơi về miền quá khứ nào của "phe ta" cũng luôn luôn phảng phất bóng "địch quân". Coi bộ không nhắc không được. Cho nên chàng lại tiếp tục, gieo vào đầu tôi một hạt mầm nguy hiểm:
- Em có dám bỏ tất cả? Chúng ta sẽ làm lại từ đầu... Tôi lạnh cả người, cố gượng đùa:
- Ở giai đoạn này mà anh còn muốn phiêu lưu?
- Em hãy nhìn những người Việt Nam khác ở nơi này, đa số đều bắt đầu lại từ số không, có khi từ cả một số âm! Mình trở về Pháp, trở lại M. hay bất cứ chỗ nào em muốn...
- Ông ơi, người ta bỏ đi vì đủ thứ chuyện: chính trị, tôn giáo, kinh tế... không ai khai mình thành boat people vì thất tình hay... trốn vợ, trốn chồng. Anh ơi, đừng bỏ mồi bắt bóng, em làm sao mà săn sóc anh cho bằng người ta, thương anh sao.. bằng người ta. Biết rằng chàng lỡ lời trong khi (tôi) quá chén, nhưng miệng thì nói đừng mà tim ngất ngây, da thịt nóng bỏng. Tâm hồn lâng lâng, đê mê như khi chàng tỏ tình lần thứ nhất. Nghĩ cho cùng, tôi không phải là kẻ may mắn hay sao, khi được hai lần trong đời, nếm cùng dòng suối ngọt với nỗi xúc động nguyên vẹn. Không, không, tôi đã lầm, không ai uống được hai lần cùng một dòng sông. Dòng đời đã đổi thay, bến bờ đã khác, tâm hồn đã nặng nề những hành trang lỉnh kỉnh với những vết thương, vết sẹo.
Chàng có thiệt tình liều lĩnh, hay chỉ là một ý nghĩ bốc đồng? Dù sao, chàng không còn nhắc nhở đến chuyện đó nữa. Những hạt mầm đang
lớn mạnh trong tôi, tôi phải làm gì, vun quén hay chà đạp cái cơ hội, dám sống đến kỳ cùng bản năng hay nghiến răng trở về cái hạnh phúc mà tôi hơn một lần định nghĩa?
*
Trọn một tuần dài, tôi không trả lời những cú phôn dồn dập, kêu gọi của chàng. Tôi muốn yên tĩnh suy nghĩ, sắp đặt, tìm một lối thoát khả dĩ làm... vừa lòng mọi người. Ðã quá nhiều phí phạm cho lần quyết định cũ, tôi không thể tự cho phép tái diễn lỗi lầm. Tôi sẽ viết cho Ngôn một bức thư dài, kể hết chuyện xưa, giải thích lý do sự ra đi đột ngột. Ngôn còn trẻ, có tiệm thuốc tây, sẽ có lắm cô sẵn sàng thế chỗ tôi. Gia đình hai bên cha mẹ sẽ ngượng ngùng mỗi lần gặp gỡ, nhưng thời gian sẽ xóa mờ tất cả, cuộc đời sẽ tiếp tục. "Vợ mới" của Ngôn sẽ sinh cho anh, cho ông bà nội một đứa, hai đứa cháu bụ bẫm, kháu khỉnh khác. ề, bởi vì tôi sẽ... mang con gái tôi đi cùng. Phần chàng, nếu "người ta" không chịu nuôi con thì chúng tôi sẽ lãnh luôn. Nhất định, chúng ta, con của chúng ta sẽ vô cùng thương yêu con của em và con của anh. Nhưng nếu Ngôn không bằng lòng ly dị? Nếu anh không chịu để tôi bắt con bé con? Tôi không thể nào bỏ rơi nó! Nếu ba má tôi xen vào? Nếu vợ chàng cũng không muốn buông tha chàng? Liệu chúng tôi có dám dứt bỏ tất cả để chỉ sống cho nhau? Chúng tôi đã thiếu can đảm thuở trước, bây giờ chắc gì đứa nào táo bạo hơn? Tới đây thì tôi bí lối.
Phải rồi, tình yêu bùng cháy lên lần nữa nhưng... than củi đam mê có còn nhiều cho đến mai sau hay chỉ một thoáng sau đó, lại là giằng xé oán trách, đổ thừa cho nhau. Ôi, tôi đã hết ngõ ra rồi.
Còn loay hoay khổ sở vì những câu hỏi, những giả thuyết thì một hôm chàng dám đến tìm tôi nơi tiệm thuốc... Lúc đó, Ngôn đang xem toa để lấy thuốc cho một bà khách. Tôi đang ngồi kiểm điểm sổ sách. Tôi ngẩn ngơ, rụng rời khi ngẩng lên nhìn thấy đôi mắt kính cận gọng vuông đen lù lù trước mặt:
- Chào cô, tôi muốn mua mười chai dầu xanh, năm hộp dầu cù là con cọp...
Chàng hạ thấp giọng, nói như hát:
- ... nhớ em nhiều...
Tôi lóng cóng lấy hàng, làm rớt hết món này đến món khác. Trời ơi là trời, tôi vừa cúi xuống nhặt nhạnh, vừa đảo mắt nhìn quanh theo ánh mắt chàng. Những thùng các tông chất đầy những chiếc nịt ngực đệm mút, những đôi dép xanh đỏ bằng nhựa. Những chồng băng nhạc, băng video, máy truyền thanh, máy thu băng. Những đồ chơi bằng nhựa rẻ tiền, những món nữ trang giả lòe loẹt treo đầy trên tường. Phía bên kia là một dãy quần áo trẻ con treo lủng lẳng với tấm bảng kẻ bằng mấy chữ nghệch ngoạc "Ðồ jogging con nít ở Hồng Kông mới qua. Ðại hạ giá một bộ 12$ hai bộ 20$." Bên cạnh còn có những cây vải đủ màu với giá biểu và hàng chữ "nhận gửi quà về Việt Nam". Tôi đã cố gắng xếp đặt cho gọn gàng các món hàng nhưng Ngôn chuyên môn bày biện đầy ra lấy cớ cho khách hàng dễ thấy. Lúc tôi run rẩy đưa chàng gói thuốc, chàng nắm tay tôi bóp nhẹ một cái, nói thật nhanh trước khi quay đi:
- Tha lỗi cho anh...
Tôi ném tờ giấy bạc vào tủ, ngồi thừ ra thở dốc vì cơn giận đang bốc lên ngùn ngụt. Tiếng Ngôn oang oang:
- Ðây thuốc xin gởi bà. Còn món này bà vui lòng trả cho quầy hàng bên ngoài... Dạ, hàng tốt lắm thưa bà, tôi có lấy về cho con gái tôi hai bộ hôm qua, mặc vào coi dễ thương lắm. Dạ, như vậy là bớt nhiều rồi, hạ nữa sẽ không có lời...
Ngôn lại gần tôi, vui vẻ:
- Em thu tiền cho anh, mấy đôi dép mười đồng, hai bộ đồ trẻ con hai mươi, đây tờ giấy năm mươi, em đưa lại bà khách hai mươi đồng... Chào bà, cám ơn bà...
Tôi làm theo lời Ngôn như cái máy. Người khách vừa đi khỏi, anh hí hửng nói:
- Ðể anh mở thùng máy cho em xem, đô la Mỹ lên giá vùn vụt. Thành ra lần này thừa tiền để mua thêm vài chục cái đồng hồ và máy tính điện tử... may quá bà khách cho biết mốt Hà nội bây giờ là màu trắng, mặc quần trắng, mang giầy trắng, chạy xe màu trắng mới có vẻ sang... Anh phải order thêm vài cây xoa suisse gân và giấy rửa hình... à... mà... mà... em... em sao vậy...
Tôi òa lên khóc, chạy ra khỏi tiệm. Lái xe rời bãi đậu, qua kính chiếu hậu nhòe nhoẹt nước mắt, tôi còn thấy anh đứng ngẩn ngơ nhìn theo.
*
Về nhà chưa được năm phút có tiếng chuông gọi cửa. Quỳnh đi thẳng vào nhà, nói mà không nhìn tôi:
- Em vừa vào tiệm thì anh ấy bảo em chạy về nhà xem. Anh ấy bảo Quỳnh coi... cạo gió cho chị, coi bộ chị muốn bịnh. Ông anh rể em ngộ ghê, ai lại... muốn bịnh bao giờ. Lúc nãy anh chị nhiều khách quá, em ngồi ăn chưa hết tô phở đã thấy năm sáu người khách. Tiệm phở Tốc nấu càng ngày càng tồi!
Tôi hơi lo, giả vờ mỉa mai:
- Rảnh rang ngồi nhâm nhi vừa đếm khách, thích quá ta... Thay vì đến bán phụ tao một tay. Mày ngồi ở tiệm phở từ bao giờ?
- Cũng chẳng lâu lắm đâu... vừa đủ thấy anh Dân vào tiệm và chị... ra khỏi tiệm.
Tôi quay mặt đi, cắn răng, hốt hoảng. Quỳnh vẫn chậm rãi:
- Em chỉ biết anh ấy qua ảnh chụp, nhưng vừa thấy em nhận ra anh ấy ngay...
Tôi hấp tấp:
- Quỳnh đừng... hiểu lầm chị. Chị cũng chỉ vừa gặp lại...
Quỳnh đứng dậy:
- Em có nói gì đâu. Em nghĩ là mình ít nhiều... thông cảm anh Dân, em thương chị, em quí anh Ngôn. Chuyện riêng của chị, em chẳng có ý muốn can thiệp... Thôi em đi đây, em tạt qua tiệm nói chị chỉ mệt chút xíu cho anh ấy an tâm.
*
Chuông điện thoại kêu réo không ngừng trong những ngày sau đó, nhưng tôi cương quyết bỏ máy xuống mỗi khi nhận ra tiếng chàng. Mỗi lần tôi tự khen khá lắm, tiếp tục đi em, cuộc đời em sẽ chính chuyên, thẳng tắp. Một ngày rồi một tuần, hai tuần, chàng như hiểu ý tôi, không thèm gọi nữa. Tôi chợt nghe tuyệt vọng nhưng đôi lúc nghe mình nhẹ nhõm. Dần dần tôi bình yên trở lại. Thế cũng hay, coi như tôi đã sống lại vài khoảnh khắc đam mê, đã khơi lại được chút tro sắp tàn. Còn mong muốn gì nữa, người ta đã chẳng từng rên rỉ rằng tình chỉ đẹp khi còn dang dở? Nói thì nói vậy chứ tôi chắc là nét hoa ủ dột hơi nhiều, Quỳnh xúi Ngôn đóng cửa tiệm đi chơi vài bữa. Khi Ngôn hỏi tôi nghĩ thế nào, tôi chợt nghe mình có lỗi, Ngôn thì cặm cụi làm ăn, tôi thì ngồi đó mà sầu mơ, bất công quá, hãy định thần lại thôi! Tôi bàn với Ngôn đi chơi một tuần ở Monterey, anh vui vẻ đồng ý khiến tôi ngạc nhiên sung sướng.
Tôi vừa sửa soạn hành lý, quần áo, đồ đạc lặt vặt, định chiều nay sau khi thanh toán sổ sách xong, tôi sang bên ông bà nội bắt con bé con về, ghé ông bà ngoại dặn dò công việc cho Quỳnh. Tối cả nhà đi ngủ sớm để ngày mai khởi hành trước khi mặt trời lên.
Chợt Ngôn gọi từ tiệm:
- Anh quên mất! Hôm qua có người nhà chị Mỹ Dân gọi đến nói từ giã em, sáng hôm nay gia đình chị ấy sẽ đáp máy bay về Paris.
Trống ngực tôi đập thình thình, tôi tưởng mình sắp đứt hơi. Mỹ là tên vợ chàng. Tôi muốn gào lên, muốn khóc, muốn... ngất đi.
Giọng Ngôn lo lắng:
- Hello... hello.. em còn ở đầu dây không? À, à... chị Mỹ Dân nào anh không biết? À bạn cũ... à... hèn chi anh không biết, hai vợ chồng chị ấy chỉ ở đây mười tám tháng thôi, ừ, hết hạn stage của chồng chị ấy, họ về ở hẳn bên Pháp. Gia đình chị ấy đều ở Paris. Em không biết trước? Người nhà chị nói rằng em không rảnh thì thôi, khỏi tiễn đưa phiền phức. Vợ chồng chị ấy gửi lời chúc em ở lại vui vẻ, hạnh phúc... hả giờ máy bay... anh không có ghi... Em phone ra airport hỏi xem, nếu anh không lầm thì mười giờ bốn mươi lăm hay mười một giờ bốn mươi lăm. Chuyến sau thì em đủ thì giờ hơn... ừ, thôi, em có đi thì nhớ lái xe cẩn thận... Gọi ra phi trường xong, tôi chạy bay ra nhà xe. Tay run lập cập, mãi mới mở được cửa xe, nước mắt như mưa. Cái xa lộ 104 thật đáng giận, xe kẹt ứ cả mấy lanes, xe chỉ nhích từng khoảng ngắn không nghĩa lý gì cả, tôi nghe ruột gan cháy bừng bừng. Tôi nào ngờ chàng chỉ ở nơi này có bấy nhiêu ngày.
Ôi, tại sao chàng không chịu nói trước. Chúng ta luôn luôn phung phí, tại sao? Làm sao tôi kịp nói với chàng những ý nghĩ, những dằn vặt bấy lâu nay? Làm sao để nói với chàng rằng tôi vẫn còn... yêu ? Rằng phải rộng lượng cho tôi thêm thời gian để suy nghĩ, anh không thấy rằng mọi sự diễn ra vô cùng chớp nhoáng, em choáng ngộp nên quyết định cắt đứt vừa rồi của em rất là đột ngột, thiếu... suy nghĩ chính chắn.
Tôi vào được phi trường trước khi cháy thành tro. Chỉ hơn nửa giờ nữa là máy bay cất cánh. Tôi nhìn ngay ra chàng trong đám người đứng ngồi bên cạnh những chiếc túi xách tay. Tôi vội lẩn vào quán nước bên cạnh.
Qua lớp cửa kính, tôi thấy chàng lóng ngóng tìm kiếm. Tôi đeo cặp kính đen to tướng, gọi nước khi người bồi bàn đến gần. Ngoài kia một người bạn của chàng còn nấn ná nói chuyện. Những người ra đi khác bình thản, lặng lẽ. Có những người tiễn đưa nói cười vui vẻ, đâu phải chuyến đi nào cũng là lần vĩnh biệt. Ðôi khi lại là những chuyến đi "cho rảnh nợ".
Khi loa lên tiếng mời khách lên máy bay, tôi đưa mắt theo dõi chàng, tôi như từng bước đang tiến tới đoạn đầu đài! Vợ chàng đi trước, ẵm đứa con nhỏ. Chàng theo sau, vác túi lên vai, sửa áo cho thằng con lớn, cột lại sợi dây giày cho nó và không ngừng ném những cái nhìn ngắn, rất ngắn, về phía cửa đến. Tôi nhìn theo chết sững cho đến khi cả gia đình bé nhỏ của chàng khuất sau lối quẹo. Trời ơi, tương kiến thời nan, biệt diệc nan! Tôi ngồi yên, đầu óc trống rỗng. Ngoài kia từng đợt, từng đợt người đến, người đi. Không gian thay đổi từng lúc, đầy ắp rồi trống trơn, ồn ào rồi yên tĩnh, nhộn nhịp rồi lặng lẽ. Tiếng động cơ ì ầm từng chập...
Tôi đứng dậy ra ngoài, nhìn phi đạo qua lớp cửa kính dày. Tôi dừng lại nơi chàng đã đứng, vuốt ve lưng ghế chàng đã dựa khi nãy. Lòng ngổn ngang, xót xa, đau đớn và tiếc nuối.
Khi tôi rời phi trường, trời đã về chiều, mặt trời đỏ hồng bên phải, xa lộ thênh thang, vắng vẻ, xung quanh chẳng còn ai hiện hữu... un seul être vous manque... Tôi về tới nhà, Ngôn hầm hầm:
- Em đi đâu mất biệt vậy? Tại sao không phone về, để nhà ai cũng lo... Thiệt tức quá đi, sổ sách ngoài tiệm chưa xong, cơm nước chưa có...
Ông chồng của tôi ơi, sao ông không hỏi bằng cách nào vợ ông về được tới nhà?
Ngôn vẫn tiếp tục cằn nhằn:
- Dặn gì cũng chẳng nhớ, tính gì xong lại quên, còn con phải đi rước nữa kìa...
Trời hỡi, nếu tôi đi luôn thì ai đứng lặng mà nghe mắng mỏ như thế kia...
Không, không, anh mắng nữa đi anh ơi, con vợ này thiệt đáng đánh đòn.
Tôi đứng yên, nghĩ ngợi lung tung, nửa muốn khóc, nửa muốn cười. Cơn hồng thủy đã qua anh có biết? Vợ anh về từ cõi rất xa xăm, anh có hay?
Thấy tôi vẫn lặng yên thiểu não, Ngôn dịu giọng:
- May mà Quỳnh vừa điện thoại cho hay ông bà ngoại đề nghị đưa cả nhà đi ăn bò bảy món, bằng không thì biết bao giờ mới xong để nghỉ ngơi cho sớm, thiệt tức ơi là tức...
Ôi, tôi có con em bằng kim cương, thông minh lóng lánh, quả tim bằng ngọc chói lòa khoan hồng. Tôi đến gần Ngôn, vuốt tóc anh, giọng thê thảm thiệt tình:
Thưa anh, anh giận em chi
Muốn có vợ bé, em thì cưới cho.
Ngôn hứ một tiếng dài rồi cười ha hả trong khi tôi đứt từng khúc ruột.
12-1987
Phan Thị Trọng Tuyến


Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.