Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Dân Ca Việt Nam - Trần Quang Hải
Phượng Các
#1 Posted : Saturday, January 8, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Dân Ca Việt Nam

Trần Quang Hải


tranqhai@club-internet.fr

Dân ca Việt Nam rất là phong phú. Tất cả những bài ca
do dân quê sáng tác và không thuộc nhạc triều đình,
nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo thì được xếp vào
loại dân ca. Xứ Việt Nam với gần 80 triệu người
Việt và 53 sắc tộc khác nhau thừa hưởng một truyền
thống dân ca đa diện. Ðịnh nghĩa danh từ dân ca, theo
tôi, là những bài ca không biết ai là tác giả, được
truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền
với đời sống hàng ngày của người dân quê, từ bài
hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến
các loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội
thường niên. Dân ca lại mang một màu sắc địa phương
đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, và
âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nhìn
chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với
tính chất mộc mạc, giản dị của nó.

Người nhà quê khi làm việc hoặc khi vui chơi hay hát
lắm. Ðứa trẻ chăn trâu, buổi chiều cho trâu về,
hoặc cỡi trên cổ, hoặc nằm trên lưng trâu, nhẹ nhàng
cất tiếng hát rồi năm mười đứa khác cùng họa theo.
Những đàn ông, đàn bà cấy lúa, cắt lúa, làm cỏ hay
tát nước ở dưới trăng hoặc ban đêm đập lúa, giã
gạo, cũng theo nhịp nhàng tay chân mà hát để quên mệt.
Trên các sông, nhất là trên sông Hương ở Huế, giữa
đêm khuya thường được nghe một chị lái đò ở xa xa
cất tiếng lanh lảnh hò "mái nhì" hay hò "mái đẩy",
giọng thực não nùng tê tái. Những người kéo gỗ trên
sông, những lũ kéo chài dưới biển, cũng thường dùng
tiếng "hò khoan", "dô ta" để làm cho rập tay chân. Ở
Bắc Việt, những đêm sáng trăng, nhất là đêm rằm
tháng tám, con trai, con gái trong làng thường họp nhau
để hát đối hay hát trống quân... (Ðào Duy Anh: Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương)

Dân ca Việt Nam được trình bày theo trình tự một
đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru
em khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn
lên, trưởng thành và chết đi, sẽ có những bài hát
liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người.

Tôi xin bàn về các bài hát ru em và các bài hát nghe
trong lúc trẻ em vui chơi, nô đùa. Chúng ta thường nghe
lúc còn ấu thơ, được chị, mẹ hay bà ngoại hoặc bà
nội ru cho ngủ. Loại hát này được gọi là hát ru (miền
Bắc), ru con (miền Trung), hay hát đưa em, ầu ơ ví dầu
(miền Nam). Âm giai dùng trong loại hát ru em được thay
đổi tùy theo vùng. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang
âm ngũ cung (do-ré-fa-sol-la-do). Miền Trung sử dụng âm
giai tứ cung (do-fa-sol-sib-do), và miền Nam thì chọn âm
giai ngũ cung (do-mib-fa-la-do). Tiết tấu nhẹ nhàng, thoải
mái, theo nhịp điệu buông thả của chiếc võng, chiếc
nôi, động tác mau chậm của mẹ trong khi làm việc hay
đong đưa lúc cho con bú. Người mẹ thường bày tỏ nỗi
lòng của mình, hay than van số phận hẩm hiu của mình qua
bài ầu ơ ví dầu.

Ầu ơ... Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

Lời ca thường lấy trong ca dao và thể thơ là lục bát.
Từ những cánh cò lặn lội bờ sông, những chiếc cầu
ván long đinh, cầu tre lắt lẻo, những tiếng chim vịt kêu
chiều, hay từ những cây đa, bến nước, con đò, đêm
trăng, vv... đã kết tụ lại thành những bài hát ru, ru con,
âù ơ ví dầu của các bà mẹ. Năm tháng cứ trôi đi,
thế hệ này sang thế hệ khác, thế kỷ này sang thế kỷ
nọ, tiếng mẹ ru cứ tiếp tục vang mãi trong lòng trẻ
thơ Việt Nam, vọng tới ngàn năm, ghi sâu đậm vào trong
ký ức của tuổi ấu thơ. Giọng ru con của bà mẹ gợi
lại hình ảnh quê hương, những lời khuyên dạy của mẹ:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Tiếng hát ru là cả một kho tàng văn chương bình dân,
đúc kết từ những lời thơ giản dị của tất cả những
bà mẹ vô danh của Việt Nam, lưu truyền qua ký ức của
hàng trăm triệu trẻ thơ qua các thời đại. Mẹ đã nuôi
con bằng lời ru con hiền hòa. Những tiếng "À á a à ời!
À á a à ơi!" của miền Bắc, hay "À á ơi...i...í...ì"
của miền Trung hoặc "Ầu ơ ví dầu" của miền Nam.

Ðứa trẻ từ lúc mở mắt chào đời, đến lúc còn
bồng ngửa trên tay mẹ, hay trên chiếc võng đòng đưa,
những lời ru con êm ả ngọt ngào của mẹ đã thấm vào
tâm não đứa trẻ. Nội dung của bài hát ru thường mang
tâp sự của người đàn bà đối vơí người mình
thương (cha mẹ, chồng, con). Thương con thì nhớ tới
chồng đi xa hành quân, hay bận dồi mài kinh sử, hay
có lúc tự than thân trách phận vì bị chồng phụ bạc.
Lời lẽ hát ru còn để tự nói lên lòng chung thủy với
chồng, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, lòng thương
yêu bao la của mình đối với con, về cách dạy con phải
xử thế với đời qua những kinh nghiệm sống của mình.
Ðó là bước đầu của việc giáo dục âm nhạc cho trẻ
thơ. Chưa có bài hát nào làm xúc động người bằng
bài hát ru. Có phải là một thiệt thòi mất mát cho một
đứa trẻ sinh ra lớn lên ở hải ngoại không còn được
nghe tiếng ru con của người mẹ? Có phải là một thiếu
sót đáng kể khi người mẹ Việt Nam ngày nay không còn
biết ru con ngủ với bài hát ru?

Ðến khi đứa trẻ lớn lên, trong lúc chơi giỡn thường
hay hát những bài mà đa số các giai điệu đều dựa
trên thang âm tam cung (do-fa-sol). Chẳng hạn, khi chơi ú
tìm, các trẻ em để ngón tay trỏ của mình vào trong lòng
bàn tay của một em trong bọn. Một đứa trẻ hát:

Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết chương
Ba vương thượng hạ
Ba cạ đi tìm
Ú tim oà ập.

Khi nói tới tiếng "ập" thì bàn tay nắm được ngón tay
người nào thì người đó nhắm mắt đếm để cho
những người khác chạy đi trốn. Hay trò chơi Thả đỉa
ba ba. Trò chơi này có một em làm đỉa, còn những em
kia lội qua sông. Các em thường chơi ở sân đình, sân
chùa, hay lúc chăn trâu ở một thửa ruộng. Hai bên bờ
ruộng, hai bên mé sân được coi là bờ sông. Em làm đỉa
đứng giữa sân hay giữa ruộng, còn những em khác chạy
qua chạy lại. Ðỉa phải rượt bắt người lội sông. Em
nào bị đỉa bắt thì phải làm đỉa thay thế.

Trước khi bắt đầu cuộc chơi, các em đứng quanh làm
thành một vòng tròn. Một em hát bài thả đỉa ba ba. Mỗi
tiếng chỉ vào một em. Em nào trúng vào tiếng chịu của
cuối bài hát thì làm đỉa để rượt bắt các em khác.

Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo thuyền như nước
Ðổ mắm đổ muối
Ðổ tưới hạt tiêu
Ðổ niêu phân gà
Ðổ phải nhà nào
Nhà ấy phải... Chịu.

Ngoài ra còn có những trò chơi khác như đánh trõng,
táng u, đánh dũa, hoặc là oánh tù tì (từ chữ Anh
là one, two, three, nghĩa là một, hai, ba) giúp cho trẻ
em Việt Nam giải trí trong khi nhàn rỗi, ngoài giờ học
hỏi ở nhà trường.



Hò từ chữ HÔ mà ra, có nghĩa là làm cho giọng mình
mạnh hơn. Do đó, Hò thường đi đôi với việc làm nặng
như kéo gỗ, chèo thuyền, đập đá. Trong lúc làm việc
nặng nhọc, để quên cái mệt thể xác, ngươì dân quê
thường dùng những câu hát để giải khuây. Mỗi việc
làm đều có bài hát riêng, phù hợp với công việc
làm. Nhưng tất cả các bài hát làm việc đều không có
nhạc khí đệm theo. Nhưng hò cũng có thể hát lúc nghỉ
ngơi, lúc hội hè, lúc đám tang như hò đưa linh, và có
khi dính liền với một vùng nào đó như hò Nghệ An, hò
Thanh Hóa, hò Sông Mã, hò Ðồng Tháp.

Có ba loại Hò chánh:

1- Hò trong lúc làm việc, tiết điệu ăn khớp với động
tác, và thường dùng những chữ như dô ta, rố khoan, hụ
là khoan, vv...

2- Hò trong lúc nghỉ xả hơi, thường là hò đối giữa
trai gái có tính cách đùa giỡn, chọc ghẹo hay tỏ tình.

3- Hò trong lúc lễ hội, thường là hò đối đáp để
tranh giải.

Hò làm việc thường hò đông người với nhau. Một
người hò trước và tất cả phụ họa theo sau. Người
hò chánh gọi là hò cái và những người phụ họa gọi
là hò con. Hò chia làm hai phần: lớp trống hay vế kể
thì do một người hát, còn lớp mái hay vế xô thì do
toàn thể phụ họa. Ở miền Nam, hò thường nghe trên
sông, hay lúc làm việc ngoài ruộng. Mỗi tỉnh, mỗi
vùng có những loại hò đặc biệt. Do đó có tên gọi
như hò Bến Tre, hò Cần Thơ, hò Bạc Liêu, hò Sa Ðéc,
hò đối Gò Công, hò đối Mỹ Tho, hò Ðồng Tháp. Ở
tỉnh Bến Tre, có thể có loại hò như sau:

Hò ớ ơ...
Xứ naò vui cho bằng xứ Cù Lao, ớ ơ...
Hò ớ ơ...
Tiếng muỗi kêu như ống sáo thổi
Bông mọc như hàng rào lý sương, ớ ơ...

Hoặc xuyên qua câu hò, chúng ta có thể biết người
hò thuộc địa phương nào như:

Hò, ớ ơ...
Ghe anh nhỏ mũi trắng lườn
Ở trên Gia Ðịnh xuống vườn thăm em, ớ ơ...

Tại tỉnh Bến Tre, có nhiều loại hò: hò cấy (Ba Tri,
Bình Ðại), hò lờ, hò công chúa, hò bản đờn (Bình
Ðại), hò mái đoản, hò mái trường, hò chèo ghe (dọc
sông Hàm Luông). Thêm vào đó nhiều kiểu hò khác
được tìm thấy ở Bến Tre như hò rơi (hò một mình),
hò kết (hò đối đáp), hò môi, hò mép, hò bắt quàng
(hò tùy hứng), hò văn (hò dùng nhiều chữ Nho), hò
thơ (Lục Vân Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Công
Cúc Hoa), hò truyện (Tam Quốc Chí, Ðông Châu Liệt
Quốc), hò tuồng, hò tiểu thuyết, hò thầy chùa, hò
quốc sự. Hàng trăm điệu hò được thu thập ở
miền Nam (Kiên Giang, Hậu Giang, đồng bằng sông Cửu
Long) với những điệu hò trên sông, hò trên cạn, hò
huê tình (loại hò suông một mình không có phần xô
phụ họa). Hò miền Nam gồm có hò ba lý xuất xứ từ
bài Bá Lý Hề của cải lương rất được thông dụng
giữa các ca sĩ chuyên nghiệp. Hò theo điệu ai oán dùng
để kể chuyện. A li hò lờ xuất hiện khoảng 50 năm
nay thôi, dùng thể thơ lục bát. Hò lô tô, hò cấy,
vv... Các loại hò thường được ứng khẩu tùy hứng,
nhạc thì chỉ có một giai điệu duy nhứt, hay theo một
thang âm đặc biệt miền Nam (do-mib-fa-sol-la-do). Miền
Trung là nơi tập trung của nhiều loại hò và nhiều giai
điệu hơn hai miền Bắc và Nam. Ngoài loại hò làm việc,
hò đối, còn có hò đưa đám ma. Ở Thanh Hóa có hò
sông Mã được chia làm năm loại hò tùy theo giai đoạn:
hò rời bến, hò đò ngược, hò đò xuôi, hò mắc
cạn, hò cập bến, với các đoạn kể, xô nhịp nhàng
theo nhịp một, nhịp hai. Hát đò đưa là giọng hát của
các cô lái đò lúc chở đò hát lên theo nhịp chèo
khua trên mặt nước. Giọng đò đưa nghe dễ bị cám
dỗ khi lòng yếu đuối. Cha mẹ thường cấm con gái
nghe giọng hát đò đưa:

Trai khôn tránh khỏi vợ thừa
Gái khôn tránh giọng đò đưa mới là!

Hát đò đưa trở nên phong phú khi vào tới miền Trung.
Vùng Nghệ Tĩnh có các cô cậu lái đò vừa chèo thuyền
vừa hát hoặc một mình (gọi là hát buông ) hay có khi
hát đối trai gái (gọi là hát cuộc). Trong hát cuộc,
hai chiếc thuyền có thể đi song song với nhau, hoặc
chiếc trước chiếc sau. Người hát ngoài trai gái lái
đò, có khi là khách đi đò cũng tham gia vào cuộc hát
cuộc. Qua những sinh hoạt như thế đã có biết bao mối
tình chớm nở qua lời hứa hẹn, dặn dò:

Sông sâu sóng vỗ rập rình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.

Trong khi chèo thuyền, chúng ta còn được nghe các loại
hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái đẩy. Có giả thuyết
cho rằng mái có nghĩa là mái chèo, và còn có giả
thuyết khác nữa cho rằng mái là đàn bà đối với
trống là đàn ông. Còn xấp có nghĩa là mau hơn, nhì
có nghĩa là đôi, là phải hát hai lần, còn đẩy có
nghĩa là làm cho thuyền đi tới. Ở vùng Thừa Thiên,
Quãng Trị, ngoài hò mái nhì (hò nhịp hai, theo nhịp
của mái chèo) và hò mái đẩy (nhịp điệu mạnh và mau
hơn không cần phải theo mái chèo khua mau) còn nghe hò mái
ba nghĩa là phải hát ba lần. Ở Quảng Bình có hò mái
duỗi, hò lả. Lúc trên cạn thì có hò khoan (hò giã gạo),
hò đâm vôi, hò mái ô (tức là hò lúc cắt cỏ, đi
cày hay đạp nước). Các loại hò làm việc như hò đạp
nước, hò tát nước, hò khiêng nước, hò xay lúa, hò
giã gạo, hò giã đậu, hò giã vôi, hò mài dừa, vv...
Các cô thiếu nữ dậy thì trong khi tát nước, thường
hát những câu trữ tình. Trong câu hát, các cô bắt
chước tiếng nước tát từ ao sang ruộng hay từ
sông vào đồng.

Thì thuồm! Thì thuồm!
Tát nước ao chuôm
Bóng trăng soi xuống, trăng suông soi vào!
Thì thào! Thì thào!
Nước chảy ào ào!
Cầu trời cho trận mưa rào tháng năm!

Tiếng gầu đụng trên mặt nước, tiếng nước được
múc lên, tát vào ruộng, tạo thành một tiết điệu
giúp cho điệu hò thêm nhịp nhàng. Khi leo giốc, thì
có hò leo giốc. Khi đập đá thì có hò nện hay hò
hụi. Tiết tấu rất nhanh, và theo nhịp đập đá.
Người kể hát một đoạn, thì toàn thể hát "hụ là
khoan" để làm tăng sức mạnh khi làm việc. Ở miền
Bắc, hò đẩy xe, hò kéo gỗ rất được phổ thông.
Ðây là lối hò đặc biệt của những người làm việc
nặng nhọc. Trong điệu hò kéo gỗ, bao giờ cũng có
mấy tiếng hò dô ta. Câu hát có khi nô đùa chọc phá:

Dô ta kéo gỗ làm đình
Con gái vô tình thì để vú ra!
Hò dô ta!

Hoặc một câu về tình ái với nội dung vui nhộn cốt
để cho những người làm việc phá lên cười quên đi
cái mệt của việc làm.

Một người hát một câu thì cả đám hát rố khoan, rố
khoan rố khuầy hay hố khoan trong điệu bắt cái hố
khoan hay bắt cá hò khoan do các người chài lưới hát.
Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy điệu hò giã vôi và
hò dứt chỉ ở miền Bắc nữa.

Hầu hết các điệu hò ở Việt Nam đều dùng thể thơ
lục bát với thể thức thêm những chữ không có nghĩa
vào như "là hụ là khoan, rố khoan rố khuầy", vv...

Với nghệ thuật ngắt câu khác nhau tùy theo từng điệu
hò hoàn toàn khác biệt và phong phú qua tài sáng tác
của các người dân quê, kho tàng dân ca do đó ngày càng
to lớn hơn và xuyên qua các lời ca trong điệu hò, chúng
ta thấy một nền văn chương bình dân phản ảnh trung
thực ngôn ngữ của tiếng nói Việt Nam.



Miền Nam có rất nhiều điệu hò và lý. Những bài nào
không thuộc vào hò thì là lý. Có nhiều điệu Lý. Lý
là những điệu hát dân gian từ vùng Bình Trị Thiên vào
tới miền Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn 200
bài Lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu
dựa trên thang âm ngũ cung miền Nam (do-mi-fa-sol-la-do, dây
oán) thêm vào những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm
cho làn điệu thêm phong phú, và tiết tấu thường là
nhịp đôi (2/4 hay 4/4). Người dân miền Nam đặt tên cho
các điệu lý dựa trên tên thú vật (Lý con mèo, Lý khỉ
đột, Lý con nhái, Lý con cua, Lý con sáo, Lý con quạ, Lý
con nhạn, Lý con kiến, Lý con thằn lằn, Lý chim khuyên,
Lý con trâu, Lý con cúm núm, Lý chuồn chuồn, Lý ngựa ô,
Lý quạ kêu, vv...), tên cây cỏ (Lý bông sen, Lý bông lựu,
Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý
cây chanh, Lý mù u), tên các món ăn (Lý bánh ít, Lý
bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng - có
lẽ người miền Nam thích ăn uống), hay tên phong cảnh (Lý
cảnh chùa, Lý quán rượu ). Lời ca rất mộc mạc, chỉ
hai câu thơ lục bát trong bài Lý chim khuyên như:

Chim khuyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi

mà được hát thành:

Chim khuyên (quầy a) ăn trái (quây a)
Nhãn lồng (à), nhãn lồng, ớ con bạn mình ơi!
Lia thia (quầy a) quen chậu (quây a)
Vợ chồng (à), vợ chồng, ớ con bạn quen hơi.

Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lý
và hò. Lý có nghĩa là hát của giai cấp dân quê (do
chữ lý làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp
vua chúa, quan liêu trí thức. Tất cả điệu lý được
thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế, hát tuồng, và
hát cải lương. Ðiệu lý giao duyên bốn mùa hay lý vọng
phu được hát theo điệu Nam ai Trung chuyển sang Ai Oán
Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lý bốn mùa
hay lý ru con. Thể thơ được dùng là thất ngôn:

Thí dụ như:

Giãi sông Ngân mây rầu rầu chuyển
Một bước đường trời biển chia hai
Hỡi nàng nàng ơi!
Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên.

Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên
lại thành lý giao duyên 12 tháng như:

Ðầu tháng giêng mãn thiên xuân sắc
Ai nấy vui mừng thiếp bặt mắt trông
Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở
Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông, vv...

Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được
dùng trong hát chèọ. Ðến khi bài Lý giao duyên được
sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ:

Ai đem con sáo sang sông
Ðể cho con sáo sổ lồng bay xa.

Thì lại được đổi lại là Lý con sáo. Ðiệu Lý con
sáo rất được quãng bá ở ba miền Bắc, Trung, Nam.
Mỗi miền với thang âm đặc thù đã tạo ra ba điệu
lý khác nhau: Lý con sáo Bắc, Lý con sáo Trung, và Lý
con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta còn biết thêm một điệu
Lý con sáo nữa là Lý con sáo Quãng. Ở Thừa Thiên, khi
hát bài lý con sáo, thay vì hát đoạn "ơi người ơi",
lại hát "tang tình tang". Bài lý con sáo được gọi là
Lý tình tang, và khi hát bài 10 thương thì được đổi
thành lý mười thương. Các điệu lý đều dựa trên
thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lý ba cô,
lý lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lý bắt bướm
hay lý cây đa. Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát
của người Việt rất tài tình. Qua hai bài Lý con sáo
Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa
vào những tiếng đệm bằng cách lập lại những chữ
trong câu chẳng hạn như "í a, ố tang tình tang", vv... mà
làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng. Dân ca
do đó đi sâu vào lòng dân và đôi khi còn ảnh hưởng
rất mạnh vào nhạc thính phòng Ca Huế hay Ðàn Tài Tử
miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương.

CÁC LOẠI HÁT LÀM VIỆC

Hát ví vùng Nghệ Tĩnh là một loại hát đối nam nữ
rất được phổ thông trong dân quệ Tục hát ví thịnh
hành nơi thôn quê, mà cả các nho sĩ cũng ham chuộng và
đóng góp nhiều qua sự sáng tác lời. Có khi dùng lời
cũ để hát. Có khi sáng tác lời mới. Những ai không
biết hát cũng thích đi dự buổi hát ví để nghe
người khác hát, theo dõi lời ca, thưởng thức giọng
hát. Hát ví Nghệ Tĩnh, ngoài những câu hát trao tình,
và những câu hát nói lên tâm trạng của trai gái, còn
có những câu hát đố rất tế nhị và hóc búa, với
những câu trả lời thật tài nói lên tài ứng khẩu
nhạy bén của đôi bên nam nữ.

Cô Xuân đi chợ Hạ
Mua cá Thu về chợ hãy còn Ðông
Trai nam nhi đối được, gái má hồng xin theo.

Ðối:

Anh ở bên Nam sang bán hàng thuốc Bắc,
Chữa con gái Ðông phòng cảm bệnh miền Tây
Ông Tơ Hồng, bà Nguyệt Lão như anh sang đây kết nguyền.

Hát ví là thú giải trí của ngươì dân quê Nghệ Tĩnh
sau một ngày mệt nhọc làm việc ngoài đồng. Có nhiều
việc làm cũng có tục hát ví như hát phường vải ở
Nam Ðàn (Nghệ An), Hát phường chiếu ở Can Lộc (Hà
Tĩnh), hát vá lươí ở các bờ biển, hát phương buôn
ở các vùng kẻ chợ, hát phường cấy trong các vụ gặt
cấy, vv... Hát các phường là lối hát đặc biệt của
vùng Nghệ Tĩnh, là một biến thể của hát ví và được
ca hát trong khi làm việc thuộc các nghề thủ công và
làm ruộng. Tại vùng Nghệ Tĩnh, các nghề nghiệp được
tổ chức thành phường, và những phường này có những
cuộc ca hát với nhau trong khi làm việc. Phường cấy và
phường vải là có tổ chức nhứt trong việc ca hát có
lề lối.

Hát phường củi, hay đúng hơn là hát chặt củi vì
người hát trong lúc đi chặt củi trong rừng. Nghệ Tĩnh
là vùng rừng núi nhiều cây cối. Người dân quê
thường rủ nhau vào rừng đốn củi sau mùa gặt. Vừa
chặt củi, thỉnh thoảng có tiếng hát lên tả nỗi nhớ
thương rừng núi nhưng tập trung nhiều hơn về yêu
đương.

Tiếng ai nói với bên non
Muốn sang coi thử có dòn hay không?

Có hỏi thì có trả lời:

Một ngày hai bận trèo non
Lấy gì mà đẹp mà dòn hỡi anh!

Hát phường cấy có khắp vùng Nghệ Tĩnh. Khi đến
mùa cấy, thợ cấy được mướn để cấy lúa. Họ
đi thành phường, và trong phường cấy thường có
đôi ba cô trông khá đẹp. Trai làng nghe có phường
cấy tới, lại biết có mấy cô đẹp, thì buổi tối
sau khi cơm nước xong, kéo nhau tơí nhà có phường
cấy để xin phép chủ nhà để hát đối đáp với
mấy cô. Lúc đầu là hát xã giao, tiếp đến là hát
chào hỏi, mời mọc. Qua các bài hát, các cô hỏi các
cậu tên tuổi, nguyên quán, nghề nghiệp. Các cậu
cũng dọ hỏi tên họ các cô. Cuộc trao đổi diễn ra
suốt cả đêm qua lời hát đầy ân tình:

Vừa ra vừa gặp anh đây
Một là duyên kỳ ngộ, hai trời xây đất vần.

Ðến khi phải từ giã nhau, hát những lời bịn rịn
thương nhớ:

Vì cam nên quít đèo bồng
Vì anh cần mẫn nên lòng em mơ.

hay:

Trăng khuya soi bóng anh đi
Thấy chân anh bước rọt (ruột) em thì quặn đau.

Hát phường vải là lối hát của những cô dệt vải.
Nhiều xã thuộc huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An có nghề
dệt vải. Trong lúc đưa thoi, dệt vải, các cô thường
hát với các cậu trong làng tới hát đối hoặc hát
tỏ tình, hát đố, hát thử tài. Ngành dệt vải khá
sung túc, nên các cô được đi học với các thầy đồ.
Vì vậy trong vùng phường vải có nhiều thầy giáo và
chính họ tham gia các buổi hát đối trong vai thông sự
để nhắc lời cho mấy cô phá lại các cậu tới thử
tài. Những đêm trăng sáng, tại nhà có sân rộng, hàng
đôi ba chục xa quay đều theo tiếng hát của các cô, các
bà làm thành một nhịp điệu nhẹ nhàng. Các thanh niên
ngồi xung quanh thành từng nhóm, hút thuốc lào, nghe hát
và tìm cách hát đối lại. Ðề tài xung quanh tình yêu,
hỏi thăm tên tuổi, thử tài kiến thức. Phần nhiều
đều được kết thúc tốt đẹp. Ðôi khi đi tới xích
mích, chửi bới. Một cô dệt vải bị khinh bỉ, liền
trả đũa ngay:

Thầy mẹ em còn chọn đá để gửi vàng
Không dư con gái, để gả cho chàng ngu si.

Khi đọ sức thử tài, gặp người tự xưng hay chữ
liền bị các cô thách:

Ðất Ðông Thành đồn rằng chàng: "Hay trự"
Vậy thiếp hỏi chàng: "thầy Mạnh Tử con ai?"

Sách Nho thường nói thầy Mạnh Kha là con bà Mạnh Mẫu,
người đã có công dạy con thành bậc thánh hiền, còn
ông cha thì mất sớm, không ai để ý tới tên họ. Có
người tức các thầy gà (thông sự) liền hát đáp:

Thầy Mạnh là do cụ Mạnh sanh ra
Tổ mẹ đứa hát, tổ cha đứa bày!

Hát phường vải có truyền thống lề lối đàng hoàng.
Câu văn nghiêm chỉnh, đúng niêm luật, thơ lục bát
phần đông nhưng có khi biến thể. Người hát phải
làm cùng nghề kéo bông. Con trai khi đến hát phải
đứng ở ngoài đường. Khi nào qua được chặng đầu
(hát dạo, hát chào), và chặng nhì (hát đố) thì mới
được mời vào bên trong nhà tiếp tục hát xe kết
trước khi hát tiễn. Ngày xưa Nguyễn Công Trứ, Phan
Bội Châu có tham dự với tính cách thông sự cuộc
thi hát phường vải và đặt lời cho nhiều bài hát.

Hát phường vải với mức sáng tác dồi dào mỗi lần
có cuộc gặp gỡ đã mang lại cho nền văn chương bình
dân nhiêù bài hát nhất. Rất tiếc là ngày nay hát
phường vải đã đi vào quên lãng với ngành dệt vải
đã "được" (hay "bị") kỹ nghệ hóa từ gần nửa thế
kỷ.

Hát Xoan là một loại hát đối của tỉnh Phú Thọ. Ngày
xưa thì hát ở cửa đình, trong các đám hội hè, vào
dịp đầu xuân. Ðáng lẽ phải gọi là Hát Xuân, nhưng
chữ Xuân là tên các vị thánh mẫu, và theo phong tục
Việt Nam phải kiêng tên nên dân chúng đọc trại ra là
Hát Xoan. Hát Xoan có phong tục lập thành phường thành
hội để gặp nhau tập hát những bài bản. Ðôi khi có
múa với sanh và phách phụ đệm pha lẫn với trò chơi
đánh cá. Hệ thống phường gồm có phường trưởng
(gọi là ông trùm), và một số đào và kép (tức là
những người hát trong phường). Tục lệ Hát Xoan có ba
giai đoạn: hát chúc tụng, hát đố, đối đáp, và hát
vặt cùng trò chơi "đánh cá". Khi có điệu đánh cá thì
có dân làng tham dự. Các thanh niên của làng và kép hát
đứng vào trong vòng làm cá. Các đào hát của phường
nắm tay nhau làm lưới, vừa hát vừa tìm cách bắt cá.
Người nào bị mấy cô bắt thì phải trả một buồng cau
hay một mâm xôi cho làng. Lời hát thường pha lẫn
tiếng Hán Việt.

Hát Ghẹo là một lối hát đối đáp cũng ở tỉnh Phú
Thọ. Lối hát này có phong tục kết bạn "nước nghĩa".
Khi nào hát phải gọi nhau bằng Anh, Chị. Cho nên Hát Ghẹo
còn gọi là Hát Anh Chị. Hát Ghẹo được tổ chức vào
ngày được mùa hay ngày đầu năm. Người hát có thể
là chuyên nghiệp hay tài tử. Làng nào đứng ra mời
và tổ chức cuộc hát (thường là ở trong nhà) phải
là phía nữ để mời làng có nam ca sĩ đến hát thi.
Tục lệ không cho phép hai bên nam nữ của hai làng lấy
nhau. Lời thơ theo thể lục bát và không dùng tiếng Hán.

Hát Ghẹo ở Thanh Hóa giống như Hát Ví, một loại hát
giao duyên, hát đối giữa trai gái. Hát ghẹo ở Thanh
Hóa không có tục "nước nghĩa". Trai gái gặp nhau, hát
ghẹo nhau rồi chia tay. Cách hát này gọi là hát lẻ. Khi
nào hát thi thì gọi là hát cuộc. Bài bản lấy từ các
điệu Trống Quân, Sa Lệch, Bồng Mạc, Hát cách. Bên
nào không đối lại được thì kể như thua cuộc. Thể
thơ thuộc loại lục bát.

Hát Giặm ở Hà Nam là loại hát dân ca có từ thời
nhà Lý. Mỗi năm đến ngày 1 tháng 2 âm lịch có mở
hội tế lễ Thần nhân để hát và múa. Các cô gái
từ 13 tuổi trở lên trong làng thích hát có thể hội
lại lập thành phường tập hát dưới sự chỉ huy của
bà trùm. Có lối 30 điệu hát khác nhau. Thể thơ
thuộc lục bát.

HÁT HỘI

Hát hội là loại hát đối giữa trai gái tùy hứng ca
hát đối đáp thi tài cao thấp trong những dịp lễ
đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát
sau một ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng. Tại các
đám hội xuân miền Bắc, trai gái gặp nhau thường
dùng miếng trầu mới hát để vui trong ngày hội, rồi
dùng cơ hội này để hẹn nhau trong những cuộc hát
đối khác trong năm. Hay có những trai gái đã quen
nhau, lợi dụng các buổi hát hội để tỏ tình với
nhau qua lời hát. Lễ giáo Việt Nam tuy khe khắt nhưng
tục lệ trong làng lại rất rộng rãi trong các buổi
hội xuân để cho trai gái được tự do tỏ tình nhưng
không được đi quá mức. Hát ví là giọng hát thông
thường nhất ở Trung Du và Trung châu miền Bắc. Ở
nhiều nơi khác thuộc miền Ðông hát ví còn được
gọi là Hát Ðúm. Hát Ví có đối có đáp, có hát để
gắn bó, và hát chia tay, cho những người mới gặp nhau
để làm quen và thường dựa vào cảnh vật để nói
lên tình ý của mình. Bài hát thường khởi sự bằng
câu Bảo này để tạo sự chú ý tơí câu hát và chấm
dứt bằng mấy tiếng Anh Cả anh Hai đó ơi, hay Chị Cả
chị Hai đó ơi để báo cho người nghe là chấm dứt
và cho người hát đối chuẩn bị đối lại.

Bảo này
Hỡi người đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời
Ði đâu vội mấy anh ơi,
Công việc đã có chị tôi ở nhà.
Anh Cả anh Hai đó ơi!

Ngươì khách lữ hành đi trên đường, nghe giọng hát
đầy quyến rũ, lời ca đầm ấm, đứng lại đáp để
làm quen:

Bảo này:
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi
Ðể anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Cô Cả cô Hai đó ơi!

Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò
lả ở vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát phường
vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú
Thọ, vv...

Hát hội hay hát đối đều mang những đặc điểm chung
như sau:

1. Người hát, làng xã, phải đối nhau chẳng hạn nhóm
nam ca sĩ đối lại với nhóm nữ ca sĩ, và thuộc làng xã
khác nhau.

2. Hầu hết đều là tình ca để đưa đên hôn nhân.

3. Ðặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong
quan họ có tục kết bạn và phải thuộc vào gia đình quan
họ. Truyền thống này được thấy ở hát ghẹo ở Thanh
Hóa, và hát xoan ở Phú Thọ có tục lệ "nước nghĩa".

4. Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng. Trong
một cuộc hát đối, các người hát thi đua về trí nhớ,
lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ưng biến, khi gặp khó
khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có
trình độ cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ
chức hát lấy giải.

5. Ðặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải
thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường
xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các
người hát cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà
của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì
giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng.

6. Hát hội xảy ra trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp,
nhứt là ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Phú Thọ miền Bắc xứ
Việt Nam mà thôi.

7. Mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn
giai đoạn:

ạ Hát mời ăn trầu trong trống quân. Hát giọng lề lối
trong quan họ. Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong
hát phường vải. Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát
ghẹo.

b. Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này,
bắt đầu các bài hát khó vì phải sáng tác tại chỗ,
như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng,
giọng vặt trong quan họ, hát đố, hát đối trong phường
vải, và hát đối, hát đố, hát xe kết trong hát ghẹo.
Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong trống
quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng
và đố lại. Bên nào không đối được thì kể như thua.
Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc biệt
là cây trống quân hay thổ cổ. Một cây mây dài bốn,
năm thước căng vòng cầu bắt ngang một cái hố được
đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào
cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.

c. Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài
hát khen tặng trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong
phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh trong quan họ.

d. Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã
bạn trong quan họ, hát thề, hát dặn, hát tiễn trong hát
ghẹo.

Hò, lý, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường
vải, Hát ghẹo, Hát xoan, cò lả, vv... rất gần với chúng
ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả hình ảnh
sống động của xã hội nông thôn Việt Nam và mỗi
người hát là một nhà thơ.

HÁT VÈ / NÓI VÈ

Vè là một bài văn kể một chuyện đặc biệt xảy ra
và ngụ ý khen chê. Bài văn làm theo thể thơ bốn chữ
năm chữ lục bát, hay song thất lục bát hoặc các thể
thơ biến thể. Hát những câu vè thường lấy giọng
đọc lên, không có đệm trên, đệm giữa, hay đệm
dươí như các lối hát dân ca khác, nhưng dựa trên
nhịp 2/4 Ở miền Nam, những câu vè về trái cây, các
loại cá, các thứ bánh, vv... ngoài lối vè kể chuyện.
Các câu vè thường bắt đầu bằng sáu chữ: Nghe vẻ
nghe ve Nghe vè...

Thí dụ vè trái cây:

Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè trái cây
Dây ở trên mây
Là trái đậu rồng
Có vợ có chồng
Là trái đu đủ
Chặt ra nhiều mủ
Lá trái mít ướt
Hình tựa gà xước
Vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm
Ðúng là bắp nâú
Hình thù xâu xấu
Trái cà dái dê
Ngứa mà gãi mê
Là trái mắt mèo
vv...

Hát vè để tiêu khiển trong lúc làm việc, hát lúc
nhàn rỗi một mình. Hát vè không có nhạc, nhưng có
tiết điệu. Gần đây ở Việt Nam, có nhiêù nhóm
nhạc trẻ đã chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được
ưa thích.

Dân ca Việt Nam rất phong phú, đa dạng, dính liền với
bài ca hơn là với dàn nhạc, và nhạc khí. Dân ca đi
liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò chơi trẻ em,
đến các điệu hò, lý, các điệu hát trong khi làm
việc, trong các lễ hội tạo cơ hội cho thế hệ gặp
nhau qua các loại hát giao duyên, qua tục "nước nghĩa",
"kết bạn", "ngủ bọn". Mức sáng tác bài bản mới
vượt qua những thể loại nhạc cung đình, nhạc bác
học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương
bình dân những đóng góp đáng kể (hát quan họ, hát
phường vải). Phần nhiều chỉ có tùy hứng lời trên
một điệu nhạc (hát trống quân, cò lả). Chỉ có hát
quan họ là vừa sáng tác lơì lẫn nhạc. Hiện có trên
700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát quan họ.

Hiểu được dân ca Việt Nam sẽ mang lại một niềm tự
hào cho chính mình, tạo một sự hãnh diện trong lòng khi
xứ mình có một nền văn học dân gian phong phú. Ngoài
dân tộc Việt hay Kinh, chúng ta còn có 53 sắc tộc anh
em sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam với hàng
trăm thể loại dân ca, nhạc khí hoàn toàn khác với dân
tộc Việt. Ðó là đề tài nghiên cứu trong tương lai.

----------

Sách tham khảo:

- Bảo Vân, 1979: Tục ngữ ca dao và dân ca, nxb Quê Hương,
304 trang, Toronto, Canada.

- Ðặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý, 1978: Quan Họ:
nguồn gốc và quá trình phát triển, nhà xuất bản
Khoa Học xã hội, 527 trang, Hà Nội.

- Lê Giang, Lê Anh Trung, 1991: Những bài hát ru, nxb Văn
Nghệ, 180 trang, TP Hồ Chí Minh.

- Lư Nhất Vũ, 1981: Dân ca Bến Tre, Ty Văn Hóa và Thông
Tin Bến Tre, 346 trang, Bến Tre.

- Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, 1985: Dân ca Kiên
Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Kiên Giang, 483 trang, Kiên
Giang.

- Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Thạch An, 1986: Dân
ca Cửu Long, Sở Văn Hóa và Thông tin Cửu Long, 391 trang,
Cửu Long.

- Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Minh Luân, 1986: Dân
ca Hậu Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Hậu Giang, 666 trang,
Hậu Giang

- Lư Nhất Vũ, Lê Giang (chủ biên), 1995: Dân ca Ðồng Tháp,
nxb Tổng Hợp Ðồng Tháp, 520 trang, Ðồng Tháp.

- Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc,
1962: Dân ca Quan Họ Bắc Ninh, nxb Văn Hóa, Viện Văn Học,
340 trang, Hà Nội.

- Nguyễn Chung Anh, 1958: Hát Ví Nghệ Tĩnh, 147 trang, Hà Nội.

- Nguyễn Ðổng Chi, Ninh Viết Giao, 1942: Hát Giặm, quyển 1,
348 trang, Hà Nội 1944: Hát Giặm, quyển 2, 340 trang, Hà Nội.

- Nguyễn Văn Huyên, 1934: Les Chants Alternés des Garcons et des
Filles en Annam, Paul Gueuthner, 224 trang, Paris, Pháp.

- 1997: "Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam", Nghiên
Cứu Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam, tập 1, nhiêù tác giả, nxb
Văn Hóa Dân Tộc,trang 11-216, Hà Nội.

-...
Users browsing this topic
Guest (3)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.