Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
cái TÌNH và cái LÝ trong Ca Dao Việt Nam
viethoaiphuong
#1 Posted : Saturday, February 27, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
CÁI TÌNH

TRONG CA DAO VIỆT-NAM









Ca dao là tiếng nói trung thực,phản ảnh rõ nét nhất trong văn chương bình dân, được miêu tả sự việc xẩy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những câu hò, điệu hát của nhân gian như những bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục;tình yêu,tình đời với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gủi,tuyệt vời.Ca dao còn hóa giải mọi tình huống uẩn khúc,lời ca ấy làm cho con người không còn cảm thấy đau khổ nữa “L’homme souffre,mais en chantan sa souffrace,il la dépasse”.

Vì vậy; nói đến văn chương bình dân chúng ta không thể quên thi ca bình dân mà ca dao nắm một vai trò chủ lực và những thể loại quen thuộc, không ước lệ,không qui cách,tuy nhiên lời thơ của ca dao vẫn giữ đúng vần điệu có khi rất chuẩn về luật bằng trắc nhờ đó mà dể đả thông tư tưởng, trực chỉ vào lòng người một cách sâu lắng.

Ca dao là ca hát,tự nó trở thành khúc đi thẳng vào lòng và bày tỏ được nội giới dù dưới một không gian hay thời gian nào ngoài ra ca dao còn là gia-huấn-ca,một tâm lý đạo đức,dạy làm người…đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói lên cái tình người,tình đời một cách chính xác hơn.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

giáo dục con trẻ khi mới lớn:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu giao tình

hoặc một ý nghĩa thâm sâu khác:

Cá không ăn muối cá ương

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư

Những câu ca dao lục bát như thế ắt phải nằm sẳn trên môi của mọi người một cách dể dàng và thông đạt lắm!



Đó là cái nhìn nội giới trong ca dao mà mỗi khi chúng ta phóng vào hiện tượng; đó là bản thể của “cái tình” trong ca dao.Tuy mỗi câu hò điệu hát có khác nhau nhưng cái nhìn của tình yêu vẫn là một và cái gặp gỡ đó,nói chung; là cái đồng tình bất biến của con người.Sự gặp gỡ chính nơi lòng ý thức,nơi thức tỉnh của ý thức trước những hiện hữu đời và gia đình hay chính là nơi những gì mà con người kêu lên thiết tha hay để bộc lộ sự thống khổ.Hình ảnh của thi ca nói chung và của ca dao Việt Nam nói riêng là tiếng kêu thức tỉnh của con người tạo nên, dùng để ví von của người dân quê trước cuộc đời.Mà cuộc đời này; con người đã gắng bó chặt chẽ trong mọi hoàn cảnh trong mọi tình huống của đời người,từ những tình cảm của cái tình đó đã nói lên được một cái gì âu yếm và thầm kín.

Anh đi ba bửa nhớ về

Rừng sâu nước độc chớ hề ở lâu

Hình ảnh “anh đi ba bửa”rồi”chớ hề ở lâu” nó biến ca dao thành thi ca,từ những hiện tượng thực thể biến thành tha thể xuất phát từ ngoại giới đi vào nội giới giữa mối liên hệ tha nhân và chủ thể nó cặp kè,sánh vai trong hoàn cảnh đối đáp để nên vợ nên chồng,ca dao không còn hiện diện với ca với hát mà biến dạng thành hò,câu hò trực diện với thực tại như một sự hiến dâng!

Trai nào nỗi tiếng anh hào

Anh mà đối đặng má đào em xin trao ơ…ơ

Cái vũ trụ mộng mơ ấy hoàn toàn ở trong đôi mắt chiêm ngưỡng của con người khi phóng cái nhìn vào tương lai giữa sự viên mãn của tình yêu.Vũ trụ này chưa hiện thực rốt ráo nhưng đã xuất phát một ước vọng thực hữu.Hình ảnh cuộc đời không bị tha hóa mà bắt nguồn từ vũ trụ thực hữu;vì vũ trụ ấy có thực trong cuộc đời này.

Trai nước Việt nỗi tiếng anh hào

Anh đà đối đặng vậy má đào xin trao dâng ơ…ơ

Hẳn nhiên; ý thức giữa trai gái rất đặc thù trong phạm vi lứa đôi,nói trắng ra là tình yêu qua mọi lứa tuổi, đặc biệt tình yêu nông thôn, ý thức ấy bừng lên từ cuộc sống và chiếu sáng cuộc sống đó là lối tả chân mà cảnh đời không có hoặc chưa có nên chi vũ trụ dự ước của con người cũng là những cảnh đời có thực mà được phóng nhiệm lên cảnh đời có thực trong ca dao.Cho nên ca dao phát ra giữa chốn đồng quê,giữa nơi xa phố thị tự nó dâng tràn trong nhân gian,vì thế tìm đến một tác giả trong ca dao đều trở nên không cần thiết và có muốn biết chăng nữa cũng không được vì mọi người đã đi vào cảnh đời một cách tự nhiên và tự nhiên như mình là tác giả vậy! Nó vượt thoát cả không gian và thời gian kể cả hiện tại,quá khứ và tương lai,vượt thoát từ những người sáng tạo ra ca dao,ca dao bỗng nhiên độc lập để tạo cái đắm đuối,rụt rè,e lệ nhưng đầy tính lãng mạn cho dù mối tình chân lấm tay bùn.

Ngó em chẳng dám ngó lâu

Ngó qua một chút đở sầu mà thôi!

Cái ngó ấy là cái ngó thức tỉnh,một cái ngó của kẻ tình si và cũng là cái nhìn mơ mộng của người đồng quê đứng trước cuộc đời có thực.Chính đó là sự sáng tạo của ca dao.Nói đến mơ mộng hình như chúng ta đụng phải một phản ứng tâm lý.Theo tâm lý học giài thích: khi mơ mộng thì đó không phải là một trạng thái thức tỉnh.Tâm lý học quan niệm như thế nầy”En suivant la pente de la reverie”Tiếp đó là cái mơ về của ý thức thức tỉnh “đở sầu” nằm trong ý thức mơ về (rêver à/daydreaming)mà ở đây mơ không có nghĩa là buông xả theo giòng đời và chìm dần trong mộng để rồi mất luôn tính sáng tạo nghệ thuật vì ý thức thức tỉnh thường đối lập với ý thức thức tỉnh nghệ thuật và làm lu mờ ý thức mơ về cho dù trong chiêm bao chăng nữa đã cho thấy một ý thức thức tỉnh.

Một duyên, hai nợ, ba tình

Chiêm bao lẫn quất bên mình năm canh

Thành ra mơ chiêm bao ở đây là cái nhìn sáng tỏ của cái mơ về giữa duyên,nợ và tình đã bừng lên trong ý thức về thân phận của người phụ nữ.

Mơ về hay chiêm bao không còn là mối sầu buông xuôi của tâm lý học mà trái lại mơ và chiêm để phóng thể ngôn từ”bên mình năm canh”trong giấc mơ nữa đêm trở nên ý thức chớ không phải chiêm bao vô thức.

Trong cái nhìn vũ trụ quan như thế đã cho ta thấy được ca dao là một lối sáng tạo hết sức đặc biệt mà chất liệu là cảnh đời,cô đọng trong từng câu hò điệu hát mượn từ ca dao để mơ về…



Ca dao không đòi hỏi tác giả là ai,nó đã trở thành của chung,tác giả chung giữa cuộc đời này mà trong thi ca vốn có sự bừng tĩnh đầy sáng tạo,ca dao đại diện cho những cuộc tình trọn vẹn hay tan hợp,nói lên nỗi nghẹn ngào,uất nghẹn tất cả qui về sự mơ về cõi thực để tìm thấy được chân lý của cuộc đời.Giờ đây ngôn từ sáng tạo của ca dao đã thành thơ,những thể thơ mới như ngày nay.

Cá lý ngư sầu tư biếng lội

Chim phượng hoàng nhớ cội biếng bay

Anh thương em đừng vội nắm tay

Miệng thế gian ngôn dực

Phụ mẫu hay sẽ rầy

Ca dao như thế đấy! mỗi khi đọc lên đã cho chúng ta cái cảm giác tợ như ức chế,như phụ rẫy như khoa phân tâm học quan niệm.Lối thoát bằng ức chế chỉ xẩy ra với cảnh đời,những người bị tập quán kiềm chế mới lâm vào khát vọng của bản năng cho nên mới tìm lối thoát bằng lối này hay hình thái khác để tránh né.Quan điểm đó đôi khi cũng có tính võ đoán và không hoàn toàn đúng hẳn,cho nên đừng để cái nhìn ức chế vào đây.Vì sao? Vì “anh thương em” có nghĩa là đừng vội đánh mất cái đẹp mà đây là tiếng nói mặn mà,bất luận ở đâu nơi chốn nào người phụ nữ Việt Nam đoan trang trong tiếng nói ấy tức tiếng nói của ca dao,tiếng nói soi sáng,tiếng nói của ái tình.

Em có thương anh

Em nói cho thiệt tình

Để anh lên xuống

Ơ…ơ chớ một ơ…ơ mình ơ bơ vơ

Đó là một thứ gì vô biên chân thật của tình đồng quê một bày tỏ cao nhất trong đời nhưng biết nói làm sao khi ý thức vô biên chưa có thì nói làm sao khi cái nhìn tuyệt đối chỉ ngưng trong hiện tượng của đất trời cho nên họ không ngần ngại bộc bạch một cách chân tình cho dù ngập ngừng bày tỏ “ơ.. ơ chớ một ơ.. ơ mình ơ..bơ vơ” Ca dao nông thôn nó diễn tả tích cực như thế đó!diễn tả cái mùi vị chất phát mặn mà, đượm bạc,cái ngập ngừng dể yêu ấy.

Đó là hướng đi lên của ngôn từ ca dao Việt Nam thoát ra từ tiếng nói văn chương bình dân để đạt tới hiệu năng của sự bày tỏ.Cho nên hình ảnh của ca dao;dù sao đi nữa nó vẫn có cái mới của riêng mình,mở ra một ngôn từ sáng lạn và nó cũng đánh dấu những bước thăng trầm của sức diễn đạt giữa người với người,những hình ảnh của ca dao vô hình chung trở nên tư liệu của cảnh đời:người,cảnh vật,nhân sinh và tình yêu.Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng nhờ ý thức chuyển vị đẹp đẻ đó của con người cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn “the beautiful-life”nhờ đó tình cảm con người được tỏa rạng.Cho nên khi bắt gặp một hình tượng trong ca dao,dù có mộc mạc bao nhiêu cũng mở rộng cho chúng ta một chân trời mới đầy ý nghĩa hơn nhất là tình yêu có một sắc màu luôn luôn lung linh của người con gái xuân thì dưới một cái gì lả lướt của ca dao.Ngôn ngữ ca dao rất cô đọng và tràn đầy.

Tóc em dài em cài bông hoa lý

Miệng em cười anh để ý anh thương

Ý nghĩa của ca dao là ở cái chỗ mộc mạc đơn sơ nhưng lại là một sự thức tỉnh nội tại,một sự khám phá của con người vừa hào hứng vừa can đảm mà chúng ta phải đón nhận như chính chúng ta đón nhận cuộc đời này. Đó là cái nhìn khám phá:

- Khám phá nội tâm bằng cái nhìn ngoại giới.

- Khám phá ngoại giới bằng cái nhìn nội tâm.

Chính hai cái nhìn tuy nghịch đảo nhưng bổ sung cho nhau để nhìn thấy giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao. Đó là một vũ trụ hiện thực để góp phần hạnh phúc cho đời.

Cho nên cái mộc mạc của nông thôn đã làm cho họ cảm thấy hạnh phúc,sung sướng và mỗi câu ca dao nói lên cảnh đời;dù trong mơ vẫn trung thực với đời.Vì vậy cái nhìn của họ như bao trùm từ ngoại giới đến nội giới đều đúc kết thành lời thơ,lời thơ đó chúng ta gọi là ca dao.

Nàng về nàng nhớ ta chăng

Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười

Mỗi lúc cái nhìn hay cái nhớ càng phóng ra rộng rãi, càng thấy cuộc đời đẹp và bao la diệu vợi,kể cả nụ cười nhe răng”cần cẩu” vẫn là niềm nhớ không quên,bởi vì; chán gì những cái nhớ mà lại đi nhớ hàm răng em cười,biết đâu trong cái nhớ đó có một chút gì lãng mạn của ca dao(?),tầm thường thật nhưng bao la và mênh mông vô cùng đối với ngôn từ của ca dao.



Thật ra đi vào cuộc đời, đi vào vũ trụ không dể dàng như thế mà chính là một sự khám phá không ngừng.Trong sự khám phá ấy,con người bắt gặp vừa mình vừa vũ trụ một lối khám phá tìm ra được hai hiện tượng. Đối tượng của sự tìm gặp chính là khám phá cái nội giới mà ca dao lãnh một phần trách nhiệm trong ngôn từ(kể cả đối thoại) và ý nghĩa.Nhưng trong hai tượng ấy người ta có thể phân biệt được;

- Bản ngã tự tại

- Vô ngã vũ trụ

Những cái vô ngã vũ trụ được hữu ngã hoá cho nên cái bản ngã tự tại ngay phút đầu đã trở thành cái vô ngã của bản ngã. Đó là sự cố đã khua động bản ngã của con người để sáng tạo và giúp cho con người thực hiện câu thơ để chia xẻ với tha nhân;con người đã nhìn cái đẹp một cách siêu thoát đó là cái vô ngã được hữu ngã hoá nhờ cái nhìn của bản ngã từ “một thương cho tới mười thương” là đề cao cái đẹp phong phú vừa cao đẹp vừa thẩm mỹ học và chính cái tôi bày tỏ lại đứng sau và được hữu ngã hoá vũ trụ để làm tan biến ngoại giới mà trở về với bản ngã mà không có cái tôi trong đó .

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua

Năm thương cổ yếm đeo bùa

Sáu thương nón thượng quai thao dịu dàng

Bảy thương nét ở khôn ngoan

Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

Chín thương em ở một mình

Mười thương con mắt đưa tình với anh

Do đấy con người của ca dao là con người của cuộc đời,của vũ trụ chớ không phải con người chỉ là con người như một ý thức bi đát về người.Lối về của vũ trụ đã chiếm cứ hiện tượng bằng bản ngã của mình,chính là lối đi về của tình thương,cái tình mà con người tìm thấy;tất cả ca dao là ở chỗ ấy và có thể nói ca dao có hai bề mặt là bản ngã và vô ngã cả hai mảng nầy dùng để xoa dịu những xót thương hay thương mong về tình cảnh khi con người mới dấn thân vào đời và vũ trụ.Bởi vì tâm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta sáng tạo những gì mà ta nhận thức được.

Từ những vị trí đó giấc mơ về vũ trụ giúp cho con người thoát được thời gian,không còn thấy sự lôi cuốn của thời gian.Từ bản thể nhìn ra đó là trạng thái của tâm thức và ca dao mở rộng trước mắt ta bằng hiện tượng của trạng thái tâm hồn.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chít chìu

Tất cả là biểu tượng để biểu dương trạng thái mơ về(Rêve a/daydreaming) đó là trạng thái thắc mắc về nhớ thương. Đấy là tâm hồn hiến dâng cho vũ trụ “chiều chiều” là thời gian thuộc khách thể,trong cái đau đớn “ruột đau”là thế giới của nội tại.Với ca dao những ngôn từ thường chứa đựng một nội dung mới của từ ngữ đều qui định một tâm thức trước cuộc đời và vũ trụ.

Mọi sự vật đều hướng tới với con người và đó là cơ hội để người nghệ sĩ đưa vào ca dao những khát vọng yêu đương một khát vọng đầy hứa hẹn,như cuộc tình hay cuộc đời mong muốn.

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn đỏ ngọn lu

Anh về học lấy chữ nhu

Chín trăng em đợi mười thu em chờ

Đó là hiện thực của sự bày tỏ về cảnh giới giữa thành thị với nông thôn và ngôn từ của cuộc sống đã lý giải cái tâm sự tha thiết và chân thật của người yêu,chân thật ở cái chỗ ẩn dụ đó.Người nghệ sĩ bình dân sắp xếp ngôn từ trong thơ để có cái nhìn sự vật và chính cái nhìn đó thoát ra một số tâm lý của con người và chính cái tầm thường đó chẳng hạn như “râu tôm”hay”ruột bầu” ở những nơi thôn dã đìu hiu được người nghệ sĩ cho sống lại cái tình chân đó như một đòi hỏi cần thiết mà nghe rất bình dị của lớp người muôn đời trong ao tù nước đọng.Ca dao bình dân nói lên được cái khát vọng đó mà nhà thơ bình dân của chúng ta hoà nhập một cách tài tình giữa vũ trụ đầy khát vọng tình người.

Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Đọc lên ta cảm nhận được phần nào lẽ sống,một lẽ sống nồng đượm của tình yêu khát khao đi từ chủ thể con người đến cuộc đời.Ca dao diễn đạt được cái mối giây liên lạc ấy.Mối giây đó không phải hai chiều giữa người và sự vật.Vũ trụ khát vọng của ca dao là hình ảnh cuộc đời mà con người mơ về một cái gì tầm thường nhưng ước sống.Ca dao tạo được cảnh giới mơ về cho những người thành thị và những người xa tầm vóc bình thường.Ngay cả việc mơ về của tình yêu trong cái dung dị đó nó đã hàm chứa một tương lai,một lối đi về của cuộc đời.Mơ về ở đây là cuộc đời có thực chính đấy là phần ý nghĩa hiện hữu của con người.Ca dao tạo nên những giấc mơ hiện thực như vậy đó; cho nên cuộc đời mà ca dao vốn có ý nghĩa và sống có ý nghĩa để đưa tới cảnh đời hiện thực.

Trầu vàng ăn với cau xanh

Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời

Cho nên văn chương bình dân thường nói lên tâm trạng khát vọng đôi khi nó pha lẫn màu sắc triết lý tiềm ẩn trong ca dao,nó có cái gì mầu nhiệm trong cuộc đời tình ái, đầy bí ẩn trong cái nhìn ẩn dụ(metaphorical) của con người đó là biện-chứng-tức-thì trong mỗi tâm trạng,một tình cảm đơn thuần.Nhưng với triết học có một sự tương quan tối thiểu giữa ta và cuộc đời như một tương quan giữa chủ thể và tha thể; đó là tương quan giữa con người với cuộc đời.Nên chi vượt qua cái nhìn đối tượng và cũng nhờ cái nhìn đó mà vượt qua được giới hạn để đi tới một giá trị trực tiếp.

Duyên,nợ,tình là khát vọng của tình cảm song hành với công việc và sự vật đó là cái nhìn mơ về của hạnh phúc,một gắng bó thực hữu giữa tình yêu vợ chồng một lối mơ về của ca dao,một khát vọng trung thành phát xuất từ cảnh đời hiện thực cho nên lối mơ về đó tạo nên một hiện hữu đồng nhất giữa người và vũ trụ.Con người trôi chảy vào đời nhờ những hình ảnh thuần đơn mà khát vọng đó đã tạo nên thơ;một nguồn thơ nhất thể.Thành thử vũ trụ khát vọng của ca dao là vũ trụ bắt nguồn từ cuộc đời thực hữu để tiến tới khát vọng.Vì thế ca dao là tiếng kêu chân thành của con người ham sống,yêu đời,yêu người.Ca dao không yêu cầu cái ủy mị đài các,mơ mộng viễn vông,ca dao đi gần với quần chúng,nhất là đồng bào miền quê và hoá giải mọi uẩn khúc,vui buồn đưa con người về với hạnh phúc.Tác giả của ca dao muốn vậy! Đó chính là cuộc đời mà người nghệ sĩ miền quê yêu cầu.

Sớm mai gánh nước mờ mờ

Đi qua ngõ giữa tình cờ gặp anh

Vào vườn hái quả cau xanh

Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu

Trầu nầy ăn thật là cay

Dù mặn dù lạt dù cay dù nồng

Dù chẳng nên vợ nên chồng

Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương

Cầm lược thì nhớ tới gương

Cầm trầu nhớ túi,nằm giường nhớ nhau.

Ca dao còn là hình ảnh, ở đây là những hiện tượng của bản thể.Do đó hình ảnh không còn là hiện tượng đơn thuần mà hiện tượng có nội dung cho nên mới được gọi là hình ảnh.Chính những chất liệu trong ca dao đã tạo nên hình ảnh,hình ảnh của vật thể,hình ảnh của vũ trụ,hình ảnh của tình yêu. Đó là những cái nhìn khai phóng của chúng ta để tìm ra cái nội dung đó;với cái nhìn của ca dao luôn luôn có sự ẩn dấu,tiềm ẩn, đẩy cái hình ảnh đó như thúc dục người nghệ sĩ ca dao phải ẩn mình, đấy là cái nhìn thuở ban đầu.Cái nhìn hai chiều song phương từ bản thể đến hiện tượng để rồi từ hiện tượng qui về bản thể tạo nên một nội dung hình thể như thế là cái nhìn trực tiếp của ca dao nói riêng và thi ca nói chung do đó những sự vật cùng từ ngữ tham dự vào cuộc đời và tạo nên hình ảnh và từ hình ảnh tạo nên ý nghĩa của mình.Cái nhìn đồng hoá mình với sự vật như vậy là cái nhìn trực tiếp đi vào bản thể không cần tìm đến bản thể mà thấy hiện tượng từ bản thể và từ đó tình yêu được bừng sáng lên và hiện hữu “Tôi đặt trái táo trên bàn,rồi tôi hoà mình vào trong trái táo. Ôi!tuyệt vời biết là bao…”(Henri Michaux) Tuy không trực tiếp bằng cái nhìn phối hợp của ca dao nhưng cũng tương đồng ý nghĩa.Tâm trạng đó người ta gọi là ý thức biểu tượng.

Qua đình ghé nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói,thương mình bấy nhiêu

Cho nên cái nhìn trong ca dao dù chỉ là cái nhìn ban đầu là truyền thừa vào biến trình diễn đạt của dân tộc,nội dung ý nghĩa vẫn còn vang vọng nhờ những hình ảnh đó.Cái ngôn từ trong ca dao Việt Nam trước sau vẫn vướng vít hình ảnh của tình yêu mà ca dao là môi giới trong lãnh vực của tình yêu.



Kết.

Ca dao là mạch thở của thơ,là nguồn sáng tạo vô tận,là ngôn từ của văn chương bình dân chứa đựng hết thảy tình người trong đó.Ca dao càng mộc mạc bao nhiêu thì càng chan chứa bấy nhiêu,ca dao không đỏm dáng,chải chuốt bóng bẩy mà thường xử dụng những ngôn từ thực tế của cuộc đời,mà chúng ta thường gắn liền với nhau:con người và cuộc đời,nó trở thành như định lệ.Nhưng nghĩ cho cùng đó chính là sức sống,chính bản thể thôi thúc,con người với hiện tượng tình yêu và từ hiện tượng nầy thoát ra hiện tượng khác bằng ý thức bản thể có ý hướng của mình.Valery có lần nói:”Le vrai poète

est celui qui inspire”Giòng thơ thực chỉ đến với người có tâm hồn bộc phát;người nghệ sĩ ca dao thực thi đúng tinh thần ấy, đó là ca dao khua động bản thể của con người,gợi lên sức sống để đi vào cuộc đời và hoà mình với hiện tượng rồi từ hiện tượng ấy hoà mình với sự vật để đột biến thành hình ảnh cho ca dao,lúc đó sự hiện diện của ca dao sáng tỏ không còn gì gọi là ẩn tàng hay ẩn dụ nó biến thành thi ảnh mang nội dung ý nghĩa biến động của bản thể con người.Do đó ca dao trở nên hiện hữu như ta đã thấy trong ca dao.

Cho nên những nhà nghệ sĩ nông thôn,không phải là nhà nghệ sĩ của văn chương bác học mà họ từ những người thợ cày,thợ gặt,trẻ chăn trâu đều có con mắt nhìn vào thực tế, họ nhìn thấu suốt giữa người và vật,ca dao nông thôn đầy cảm hứng thi vị.Nghệ sĩ ca dao bình dân thể hiện được ý thức đó nghĩa là muốn xây dựng một hình ảnh phải phóng bản thể của mình vào hiện tượng cho bản thể sống trong hiện tượng và trở thành hiện tượng của bản thể và cho sự vật là ta như ta trong sự vật.Vì đó; là khi bản thể giao tiếp với cuộc đời.

Tóm lại ca dao đã du nhập những giòng thơ của văn chương bình dân,biến hình từ câu hò điệu hát,trao đổi,hò đối đáp,cắt xén,rút gọn,dể dàng truyền khẩu từ đó được gọi là ca dao,nó thường mô tả tình người dưới muôn hình vạn trạng, từ nội giới tới ngoại giới. Đấy cũng là một phần bản thể dân tộc,một văn hoá văn minh truyền thống. Điều đặc biệt của ca dao ,ngôn từ không ước lệ,ca dao nói những gì thực hữu giữa cuộc đời,nương theo chiều sáng tạo của thi ca qua bao thế kỷ và chế ngự cả thơ Việt lẫn thơ Đường bằng những câu rất đơn sơ mà đầy ý nghĩa và đi sâu vào mọi tầng lớp trong xã hội một cách dể dàng và nhanh chóng.Một ngôn từ thiết tha,một đường giây giữa nội tâm và ngoại giới. Đó là nhân tố trong văn chương bình dân Việt Nam.Một thứ triết lý của văn chương bình dân cần phải tô điểm và nghiên cứu chiều sâu của nó ./.



VÕ CÔNG LIÊM (lễ tạơn khôngchín)

viethoaiphuong
#2 Posted : Monday, March 8, 2010 10:36:01 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Đường vào quê hương qua ca dao


( ảnh LT S/T từ Net )

Nếu phật giáo có tới tám ngàn pháp-môn hướng dẫn kẻ mộ đạo đến Chân, Thiện, Mỹ, thời muốn tìm về nguồn sống dân tộc, những người con yêu nước Việt có thể tìm ra bao lối về, trong đó Ca Dao có thể được coi như là một nẻo về của tâm thức, một trong muôn vạn đường vào dân tộc Việt Nam.

Như nhạc sĩ Phạm Duy đã viết: " Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, à a ơi tiếng ru muôn đời..." và " Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi..." , ngôn ngữ do đó không những chỉ là một phương tiện để truyền-thông, diễn đạt tình ý con người mà còn là hơi thở, sinh khí phản ảnh nền văn-hoá của một dân tộc, và gắn liền với vận-mệnh của một quốc-gia. Khi còn ấu thơ, chúng ta hầu hết đều được nghe những lời ru đầy tình tứ dân tộc trong các giấc ngủ chập chờn, và cho đến bây giờ, lang thang nơi xứ lạ quê người, " Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi" thỉnh thoảng vô tình bắt gặp trên các tạp chí Việt ngữ những câu Lục Bát quen thuộc như:

" Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng."

hay

" Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."

Ít ai trong chúng ta để ý rằng đó chính là những câu CA DAO giữa rừng Tục-ngữ, Ca-dao, và Dân-ca bàng bạc trên nên trời văn học bình-dân Việt Nam.

Vậy để nhận diện được những lời CA DAO như trên, ở đây chúng ta sẽ thử định nghĩa CA DAO một cách tóm tắt.

CA DAO là những câu hát ngắn, không có chương khúc. Tuỳ theo nội dung, số câu có thể diễn đạt từ hai, bốn, sáu, tám hay dưới hình thức song Thất Lục Bát, Lục Bát biến thể. Với âm điệu phong phú, những câu ca dao do đó có thể được ngâm nga hay hát lên mà không cần phải có tiếng đệm, tiếng láy, và thường để diễn tả tính tình, phong tục tập-quán của người bình-dân. Do đó CA DAO có khi còn gọi là PHONG DAO, do tiếng PHONG từ phong-tục. Vì sự phong phú trong nội dung ca dao, ở đây chúng ta sẽ giới hạn bài viết trong phạm vi Ca Dao Tổng Quát, tạm gác sang một bên những bài ca dao với nội dung hài hước, gia đình, và trữ tình.

Trước hết, muốn tìm hiểu những cơ duyên giao cảm cho sự chào đời của ca dao, thiết nghĩ không còn gì hơn là chúng ta ngược về quá khứ, trở về với xã-hội Việt Nam ngàn năm về trước. Có thể nói đơn vị căn bản của quốc-gia Việt Nam ngày xưa là làng quê bao bọc bởi những luỷ tre xanh, vốn được coi như là một lớp tường thành thiên nhiên ngăn chặn ngoại xâm. Giửa lớp tre xanh cổ kính đó, đời sống và tâm tình người dân mộc mạc hầu như cô động, tách biệt với những sinh hoạt bên ngoài, ngay cả với những làng xa xóm giềng. Chính khung cảnh xã hội biệt lập này phải chăng đã là một môi trường thuận tiện, làm nảy sinh những điệu hò câu hát là một trong vài thú tiêu khiển đơn sơ thường nhật thuở bấy giờ. Khi ta buồn ta không biết tỏ bày cùng ai, thôi thì ra đứng ngõ sau mà than rằng:

" Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ.
Nhện ơi! nhện hởi! nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi! sao hởi! nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân hà,
Bóng sao Tinh-đẩu đã ba năm tròn,
Đá mòn, nhưng da chẳng mòn,
Tào-khê nước chảy vẫn còn trơ trơ..."

Chỉ một bài ca dao ngắn ngủi, chúng ta đã có thể tưởng tượng ra một cảnh đồng quê Việt Nam trầm mạc trong một đêm trời lấp lánh đầy sao, và sau mái nhà tranh, ánh trăng chênh chếch soi bóng trên mặt ao mơ hồ bóng cá lội. Để rồi trong ánh trăng thanh, kẻ cô dơn bâng khuâng tự hỏi:

" Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, gọi là núi non?
Trăng bao nhiêu tuổi, trăng tròn?
Núi bao nhiêu tuổi, núi còn trơ trơ?"

Từ nổi buồn bâng quơ, khi đối diện với khung cảnh thanh tịnh, bát ngát của một đêm trăng toàn bích, kẻ cô đơn như chợt bước vào một thế giới vô ưu, đượm màu triết lý:

" Đố ai biết đá mấy hòn?
Tua-rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm?
Đố ai biết lúa mấy cây?
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá rừng?
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Đố ai lặn xuống vực sâu,
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa?
Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát? Ta chừa nguyệt hoa."

Những người dân quê của xã hội thời xưa không phải lúc nào cũng ưu tư phiền muộn, vì còn có biết bao nhiêu công việc đồng áng trông đợi. Để bù đắp cho nỗi vất vả của kẻ chân lấm tay bùn, hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên-đán, người dân Việt Nam lại gác cày, vui chơi cho bỏ những lúc làm lụng cực nhọc:

" Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
Tháng Tư, đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ, trở về tháng Năm.
Tháng Sáu buôn nhãn, bán trăm,
Tháng Bảy, ngày rằm, xá tội vong nhân.
Tháng Tám, chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng Chín, chung chân buôn hồng.
Tháng Mười, buôn thóc, bán bông,
Tháng Một, tháng Chạp, nên công hoàn toàn..."

Một khi đã trở về đời sống hằng ngày với những lo toan, người dân quê Việt Nam, vốn mang tâm hồn của một thi sĩ lãng mạn, cũng phải phơi bày một phần nào tâm tư và lề thói cư xử thực tế mà xã hội Việt Nam đã ngầm chấp nhận; trong đó hình thức ăn vận bề ngoài cốt biểu lộ sự tự trọng nay đã được tô điểm trở thành méo mó:

" Áo dài chớ tưởng là sang,
Bởi không áo ngắn, mới may áo dài."

Cảm thấy nguỵ biện không xong, ta lại bèn than rằng:

" Cha đời cái áo rách này,
Mất chúng, mất bạn vì mày, áo ơi!"

Từ nỗi ta thán vô ích, ta đâm ra tức tối tạo-hoá đã gây ra cảnh đời đen bạc, để rồi đi đến lý sự cùn, nhạo báng:

" Hơn nhau tấm áo, manh quần,
Thả ra ai cũng ở trần như ai."

Tới đây chúng ta không thể bật cười khi chợt nhớ một câu " ca dao thời đại" tương tự:

" Học cho lắm, tắm cũng ở truồng."

Thế mới biết, tâm tư và tính tình người Việt Nam chúng ta trải qua bao thời đại hầu như không hề thay đổi. Thế nên:

" Cơm ăn chẳng hết thì treo,
Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng."

Hay tương tự như thế:

" Cà thâm thường bỏ góc chạn,
Đến khi hoạn nạn, lại hỏi cà thâm."

Hoặc thẳng thừng hơn:

" Khi vui thì vổ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai."

Kể gì người đời, vì ngay cả đến trời ta vẫn thường hay bỏ quên.

" Có bệnh thì vái tứ phương,
Không bệnh, chẳng mất nén hương giấy vàng."

Hỷ, nộ, ái, ố, và ganh ghét, đố kỵ, bội bạc vốn là những dặc tính tất nhiên của mọi xã hội, trong ca dao Việt Nam, những điều này còn được diễn tả mĩa mai cay đáng hơn:

" Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đổ Trạng, chín nghìn anh em."

Thói đời là thế nhưng sao tráng được, bởi chưng:

" Lòng sông, lòng biển, dễ dò.
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người."

Ca dao như thế, ngoài tính cách phô trương những nét trữ tình và phong tục, tập quán của xã hội Việt Nam, còn chê bai thói đời đen bạc, tư cách thấp của con người: nhưng đó chính là một kho tàng luân lý vô giá, một bài học hữu ích cho kẻ hậu sinh tập rèn nhân cách.

Đường vào dân tộc qua ca dao như đường thiên lý, dài vô hạn. Càng đi, ta càng khám phá ra nhiều điều thích thú có liên quan đến đời sống, tâm tư, và cung cách xử thế của người dân Việt, lồng trong một khung cảnh đầy màu sắc quê hương. Cứ như lữ khách đi vào lòng dân tộc, bắt đầu từ ải Nam-Quan đến mũi Cà Mau. Qua mỗi địa danh, lữ khách dừng lại chiêm ngưỡng thắng cảnh cùng các di tích lịch sử, sực nhớ đến công lao dựng nước của tiền nhân.

" Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng."

Hay là:

" Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm ra khơi."

Đường vào dân tộc qua ca dao còn dài, chúng ta có thể dừng chân tạm nghỉ để ngày mai lại sẽ lên đường. Viết đến đây, kẻ viết bài bỗng sự nhớ đến một câu ca dao của tiền nhân như báo trước sự đổi đời lịch sử ngày ba mươi, tháng tư năm 75:

" Trời làm một trận lăng nhăng,
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông."

Lịch sử phải chăng là một vòng tròn khép kín, một sự lập lại. Biết đâu vài chục năm nửa, cháu chắt những người Việt hải ngoại khi muốn tìm về dân tộc Việt Nam qua ca dao bằng... COMPUTER, lúc bấm nút chợt mới ngẩn người vì thấy những câu " CA DAO" khó hiẻu như sau:

" Mai mốt ông về có thằng túm hỏi.
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì?
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi.
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li!"
(thơ Cao Tần)

Phạm Đức Tiến


viethoaiphuong
#3 Posted : Thursday, March 11, 2010 10:11:54 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Tiếng cười trong ca dao

Bên cạnh mảng ca dao trữ tình, ca dao hài hước cũng phản chiếu một khía cạnh khác trong tâm hồn của người bình dân ngày xưa, chứa đựng tinh thần lạc quan, sức sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng của nhân dân. Không những thế, tiếng cười trong ca dao cũng chính là những uất ức bất bình , những thái độ ứng xử , điều chỉnh hành vi , hướng tới một cuộc sống tốt đẹp công bằng hơn.

Ca dao hài hước chứa đựng cái nhìn, thái độ, tình cảm của người bình dân trước các hiện tượng đời sống, mối quan hệ tình cảm giữa người với người. Không những thế tiếng cười còn là vũ khí tinh thần giúp họ vượt lên bao khó khăn của đời sống. Tiếng cười trong ca dao phong phú nhiều cung bậc, có khi là tiếng cười trào lộng dí dỏm, có khi là tiếng cười chua chát trước sự thật đáng cười đáng chán, cũng có khi là tiếng cười phản kháng trước thực trạng xã hội còn nhiều bất công ngang trái.

Từ thực tại còn nhiều vất vả cay cực, người bình dân đến với nhau trong tiếng đùa vui, mượn tiếng cười ngỏ bày tâm tình một cách ý vị:

Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn…

Chàng trai ngỏ lòng với cô gái bằng lối nói khoa trương để cho thấy ngay rằng anh đang đùa. Nhưng liệu có phải hoàn toàn là một lời nói đùa không? Có thể hình dung ra hoàn cảnh của đôi nam nữ yêu nhau qua bài ca dao : họ sống nghèo khổ nhưng vô cùng lạc quan. Lời đối đáp có chút tinh nghịch nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi cho phận nghèo. Ngôn ngữ phóng đại khoa trương khỏa lấp đi một sự thật mà người đời quen gọi là “nói khoác” thực ra đã mang một ý vị chua chát đả phá vào những hủ tục ngăn cách con người tìm đến với nhau. Chàng trai đã có những lễ vật dẫn cưới thật sang trọng: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò… nhưng cuối cùng lại là con chuột béo thật ấn tượng. Lí giải thật hợp tình hợp lẽ : con voi to đùng kia là hàng quốc cấm – phép nước luật vua không cho phép, dẫn trâu dẫn bò thì lo họ hàng nhà gái máu hàn, rút gân – chứng tỏ chàng trai là người “chu đáo” với đàng gái biết bao! Sợ cho nhà gái hay là một lời đay nghiến, mỉa mai những người đã nghĩ ra chuyện thách cưới ác nghiệt khiến cho đôi lứa phải chịu cảnh dở khóc dở cười. Con chuột béo là một thái độ đáp lại bằng cách giễu cợt cay chua. Nhưng lời đáp lại của cô gái dù đùa vui mà lại ẩn chứa một nỗi lòng đáng quí :

Chàng dẫn thế em lấy làm sang
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang…

Ngầm chứa trong lời đáp là sự động viên chàng trai vững tâm để đi đến hạnh phúc. Vẫn là thách cưới nhưng chàng trai hoàn toàn có thể đáp ứng được bằng chính sức lao động của mình. Cái tinh tế trong lời cô gái vừa là phản ứng trước việc thách cưới phá ngang , vừa là mong mỏi chàng trai là người cần cù siêng năng xứng đáng với tấm tình của cô. Không những thế, cô còn đem tới lời nhắn nhủ về sự cần kiệm: củ to mời làng, củ nhỏ mời họ, và không bỏ sót củ mẻ, củ rím, củ hà. Lời đáp khéo léo ấy đem lại niềm hy vọng và lạc quan về hạnh phúc.
Ca dao hài hước còn mang theo những suy ngẫm về thực trạng xã hội phong kiến vốn dành ưu ái đặc quyền cho nam giới. Vẫn là mô típ làm trai cho đáng nên trai nhưng không phải là lời ca ngợi vào khả năng “vá trời lấp bể” mà chỉ là :

Làm trai cho đáng sức trai
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng

Từ bản chất của những người yêu lao động, người bình dân phê phán và chế giễu những kẻ lười biếng mà huênh hoang. Ý nghĩahài hước toát ra từ hình ảnh đối nghịch : sức dài vai rộng mà lại khom lưng chống gối chỉ để gánh hai hạt vừng. Động tác kia chẳng khác nào mô phỏng hình ảnh các vị chức sắc quan lại chỉ giỏi khom lưng luồn cúi, chống gối quì lụy để tiến thân. Người bình dân chế giễu những kẻ vô tích sự ấy, mang tiếng là gánh vác sơn hà nhưng thực tế chẳng khác nào những bọn vô công rỗi nghề ăn bám người khác. Thật bất hạnh cho những ai vớ phải một ông chồng như thế! Ca dao cũng sẵn những lời ta thán của những người phụ nữ :

Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo

Trong quan hệ gia đình, có lẽ phải gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ thì người vợ mới có chuyện so sánh chồng mình với chồng người. Hình ảnh anh chồng thật thảm hại trong tương quan đi ngược về xuôi với sờ đuôi con mèo. Bất cứ người phụ nữ nào cũng mong muốn chồng mình giỏi giang cáng đáng việc quốc gia đại sự hay chí ít cũng là trụ cột gia đình. Còn anh chồng trong bài ca dao này cứ quẩn quanh xó bếp, nhu nhược hèn kém. Nhưng lời than thở giận hờn ấy không thay đổi được số phận. Than thở thế thôi, dẫu gì cũng vẫn là chồng em , vẫn là nghĩa tình duyên nợ với nhau. Đàng sau lời ca dao ấy là nỗi lòng trĩu nặng, phản chiếu một mong mỏi chồng mình cũng được bằng anh bằng em, để người vợ có thể mở mày mở mặt.

Trong ca dao không chỉ có tiếng cười chế giễu mà còn bao tiếng cười đầm ấm tình thương yêu gắn bó với nhau. Người bình dân biết cười đời và cũng biết cách cường điệu phóng đại những tật xấu của mình để tự cười mình. Không phải là tiếng cười thiên lệch dành cho nam giới mà cả giới nữ cũng có nhiều cái đáng cười. Điểm đặc biệt là tất cả những sự lệch chuẩn ấy đã thành cái đáng yêu trong một gia đình hạnh phúc:

Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!

Chắc không người phụ nữ nào lại tự lôi ra tất cả những “thói hư tật xấu” của mình đầy đủ đến thế với một cách nói phóng đại tô đậm những cái ngược hoàn toàn với chuẩn mực “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” phong kiến. Không hề gò mình ép khuôn vào một cách sống giả tạo gò bó, điều mong muốn của người bình dân là có một gia đình hạnh phúc, một sự thông cảm chia sẻ trong đời sống vợ chồng. Điệp khúc chồng yêu chồng bảo… không hề che giấu niềm tự hào có một người chồng tuyệt vời. Có lẽ các triết lí của các học giả đáng kính cũng rút tỉa ra từ thực tại cuộc sống phong phú đáng yêu này mà thôi: “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng thiếu nữ mà ở trong đôi mắt của kẻ tình si” (Kant). Người chồng yêu vợ như thế quả là hiếm có trong một xã hội vốn khắt khe với những chuẩn mực nặng nề, những qui tắc cứng nhắc . Không những thế, đó chính là sự điều chỉnh hành vi của người bình dân bởi lẽ không người phụ nữ nào lại muốn giữ những nét xấu trong mắt chồng. Cười vui là thế nhưng cũng có ý nghĩa cảnh tỉnh nhẹ nhàng cho việc giữ gìn hạnh phúc. Bởi lẽ chồng yêu thì hạnh phúc nhưng chồng ghét thì là tai họa, là tan vỡ.

Tiếng cười dân gian trong ca dao quả thật đã chứa đựng nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa. Tiếng cười ấy phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết vượt lên hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó khăn thực tại để lạc quan yêu đời. Tiếng cười ấy là sức sống tâm hồn khoẻ khoắn của những con người luôn ý thức giá trị bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.

Được đăng bởi Trần Hà Nam

viethoaiphuong
#4 Posted : Monday, March 15, 2010 12:03:12 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm, gần gũi, quen thuộc như lũy tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên ruộng đồng.



(Hình minh họa)

Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ xưa - đau khổ, cay đắng đến cùng cực nhưng vẫn đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần.

Với những quan niệm phong kiến hà khắc, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ đã dành mọi ưu tiên cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình, trong xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào ca dao than thân:

- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

- Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi.

Dường như sự bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung cho tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi.

Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:

- Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bẩy chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu.

- Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non.

Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:

- Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò.

- Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

- Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần.

Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Dân gian hướng về những người vợ lẽ chịu nhiều thua thiệt hơn cả để cảm thông, lắng nghe họ giãi bày xót xa, cay đắng:

- Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con.

- Thân em làm lẽ chẳng nề
Có như chính thất, ngồi lê giữa đường.

Quên đi những nhọc nhằn của cuộc sống lao động, người phụ nữ bình dân cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:

- Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này.

- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:

Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.

Cũng có khi thật tế nhị, ý tứ, nết na:

Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người

Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:

- Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi.

- Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau

Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:

- Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm, sông hương mặc người.

- Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.

Ở thời nào vẻ đẹp của người phụ nữ cũng như một hằng số bất biến, ẩn chứa sự nhẫn nại, cam chịu, sự thủy chung son sắt. Dù bị vùi trong khổ đau, bất hạnh thì vẻ đẹp của người phụ nữ vẫn tỏa sáng lấp lánh.

(Theo Hoilhpn)
viethoaiphuong
#5 Posted : Wednesday, April 14, 2010 6:17:52 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Mạn Bàn Về Các Loài Hoa

Hằng năm sau khi mùa Đông mặc áo ấm ra đi, mùa Xuân phơi phới lại đến để bắt đầu một năm mới theo chu kỳ của tạo hóa thiên nhiên cho không gian chúng ta bừng sống lại của hương hoa phảng phất, để muôn hoa phô sắc thắm và người ta nói đến sự thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa, để chúng ta sẽ bàn thêm về những loại hoa. Một cành mai gầy trong gió đông hay một chiếc lá ngô đồng rụng báo hiệu mùa thu sắp đến, hay một đóa sen tỏa hoa vào mùa hạ; Hoặc một nụ tầm xuân vừa hé nở … đều được con người chiêm ngưỡng, quan sát như những biến dịch của trời đất, rồi từ đó suy nghiệm, nhận ra những qui luật tiến hóa của thiên nhiên trong ý niệm sanh diệt.

Hoa là biểu hiện cho cái đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Sự hiện diện của hoa trong địa cầu hay cuộc sống giúp cho tâm hồn con người dễ hòa nhập vào với thiên nhiên,vơi bớt những ưu phiền. Cái đẹp của hoa biểu tượng cho sự hoàn thiện và vĩnh cửu, dù cho hoa có sanh diệt theo lẽ vô thường. Người ta yêu hoa vì cái đẹp của hoa, của đời và của người. Nhưng con người khi yêu cái đẹp đã vô tình đem cái đẹp của hoa giam vào xã hội nhân thế đa đoan. Con người tùy theo sở thích, quan niệm riêng tư trong cung cách xử thế, đã phân định đẳng cấp cho hoa như: Mẫu đơn là Vương giả chi hoa; Hà hoa(hoa sen) là Quân tử hoa; Nguyệt Quế là Hoàng hậu hoa; Sơn trà là Trân phẩm hoa; Đỗ quyên là Tây Thi hoa, v.v.…



Ba từ ngữ đồng nghĩa "Huê", "Bông" hay "Hoa" được con người chia thành hai lọai chính: loại đẹp (sắc) và loại thơm (hương). Nên ta có những hoa vừa đẹp vừa thơm (hữu sắc hữu hương), những hoa chỉ đẹp không thơm (hữu sắc vô hương), những hoa chỉ thơm không đẹp (hữu hương vô sắc), hay đến những hoa không đẹp không thơm ( vô hương vô sắc/hoa cỏ ngậm ngùi hic, hic...). Đó chỉ mới nói về sự thưởng ngoạn hương sắc hoa. Còn nói về thể chất hoa thì có hoa mỏng manh, có hoa bền bỉ, có hoa mềm mại,có hoa cứng cát …Về màu sắc thì muôn màu như trắng, đỏ, tím, vàng... Chưa kể đến sự hiện hữu của hoa trong văn chương thi phú, thơ ca... cho đến “nền“ văn hóa ẩm thực, như các loại hoa không ăn được và hoa ăn được dùng làm thực phẩm.

Hoa dùng làm thực phẩm thì cũng có hoa đẹp, hoa không đẹp, nhưng thôi xin không bàn về sắc hương nữa , mà chỉ nói đến các món ăn được chế biến từ các loại bông hoa như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình, bông hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen, bông súng và hoa thiên lý.

BÔNG BÍ:

Bông bí dùng để ăn là bông bí đực của cây bí rợ, không thể đậu trái. Bông bí lớn, màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó nhỏ đem ra chợ bán, nhưng không có nhiều, chỉ có theo mùa. Thông thường bông bí đem về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẫn, phần tiếp giáp giữa cuống và bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh, xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu…xào bông bí phải canh cho vừa chín mới còn dòn. Món đặc sắc nhất của bông bí là “bông bí dồn thịt chiên“ hay còn gọi là chả bông bí.

Bông bí vừa chớm nở phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, xoi tim, rửa sạch, để ráo.Tôm, mực, thịt nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột năng. Bẻ gập các cánh hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ để bông bí còn màu vàng tươi, không bị cháy xém. Chả bông bí beo béo, thơm thơm, chấm nước tương dầm ớt. Món ăn này thường được làm trong những ngày giỗ, tết của gia đình hay tụ họp, đãi đằng, chả bông bí không những phổ biến ở miệt vườn lụcv tỉnh nam bộ, mà còn nổi tiếng ở miền trung như Huế nữa. Ca dao miền Nam có câu:

"Má mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh"

Hiện nay với trào lưu fast-food đã Tây phương hóa dần dần cung cách ăn uống ở Đông phương nói chung, ở Việt Nam nói riêng, bạn tôi nhà thơ TTSH đã cho câu thơ “ý nghĩa” rằng thì là:

"Má mong đưa thiếp lên thành
Biết ăn fast-food cho rành… người ta"

HOA CHUỐI:

Người miền Bắc gọi là hoa chuối,thì người miền Nam lại gọi là bắp chuối. Thường buồng chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp chuối có màu tím, ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành nhiều món ăn như: trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và chiên làm đồ chay…

- Gỏi bắp chuối (nộm hoa chuối ): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non xắt mỏng, ngâm nước pha chanh hay dấm cho khỏi đen và ra bớt nhựa, vớt ra, để ráo.Trộn chung với tôm thẻ, thịt heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt luộc chặt miếng… rồi rau răm, củ hành tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ, nước mắm pha đường, chanh, tỏi, ớt.

- Canh chua bắp chuối: Bắp chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua me dầm với tôm, cá, lươn…

- Bắp chuối bào trộn với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung với các món nước như: bún riêu, bún bò, lẩu các loại…

- Phần trắng giữa bẹ bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như gà xào xả ớt, tôm lăn bột chiên.

Cây chuối rất dễ trồng ở Việt Nam. Hình ảnh của bờ tre đầu làng, bụi chuối te tàu sau vườn là hình ảnh của quê nhà trong tâm người xa xứ, bụi chuối còn là hình ảnh người đàn bà Việt Nam trong ca dao:

"Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh theo vợ bé, bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẳm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông"

BÔNG ĐIÊN ĐIỂN:

Còn được gọi là “hoa mùa lũ” hay “hoa cứu đói”. Do mỗi năm, khoảng một tháng sau khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ đầy cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong những ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân chống xuồng ba lá đi hái bông điên điển tươi bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông, luộc bông ăn cầm cự đói:

"Cầm trên tay chùm “hoa mùa lũ”
Tên lòai hoa chân chất quê nhà
Bông điên điển nở vào kỳ giáp vụ
Vượt lên trên ngầu đục phù sa
“Hoa cứu đói “, bà con thường gọi thế"
(Bùi Văn Bồng)

Bông điên điển lặt, rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng 3 ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá, kho thịt, nấu canh với cá rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc dưới nước. Người ta giăng lưới, câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là có cá rô con, rô mề cỡ mấy ngón tay. Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm, nếm gì thêm cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn. Bông điên điển dùng làm rau sống nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt; Làm mắm chay hoặc Nấu canh chua. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá linh từ Biển Hồ trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me sống vừa chua, làm lẩu, nhúng chỉ duy nhất bông điên điển vào. Hoặc bông điên điển được nấu canh chua với cá bông lau, đậu bắp như trong thơ Bùi Chí Vinh:

"Tôi biết có nồi canh điên điển
Cá bông lau, đậu bắp, mỡ hành
Em ngậm cái màu bông chín nõn
Thẹn thùng không nói được tiếng : anh
… Con sáo sang sông, con sáo hiếm
Kỳ hoa thành lẩu đãi nhà quan
Đâu biết có nồi điên điển luộc
Ăn thay cơm trên sóng thủy thần
Em ngậm cái bông màu nước mắt
Kỷ niệm buồn như một tiếng anh"

Hay hình ảnh bông điên điển và bông lục bình trong ca dao miền Nam:

Lục bình bông tím, điên điển bông vàng Điên điển mọc ở đất làng Lục bình trôi nổi như chàng hát rong

BÔNG LỤC BÌNH:

Còn có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống nổi trên mặt nước, có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành chùm ở ngọn. Hoa không đều, có màu tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu, dính liền nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy (3 dài, 3 ngắn). Người ta dùng bông lục bình làm gỏi, chấm nước cá kho.

"Lục bình ai thả trôi sông
Mà sao tím cả mấy giòng sông quê
Xa nhà, xa mấy triền đê
Mà nghe thương nhớ lối về mênh mông
Ai về tìm lại khỏang sông
Có hoa tim tím cánh đồng ngày xưa"
(Hòai Trâm)

BÔNG LẺ BẠN:

Cây lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt Nam. Cây trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây có thân rất ngắn, lá mọc gần như sát đất. Lá không cứng, có bẹ, đầu thuôn dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím. Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách lá, ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông sò huyết (oyster plant). Hoa màu trắng, dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh với xương heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.
Đâu phải tại bông mà mình thành lẻ bạn:

"Tại tía má em đành đọan
Đốn ngọn cây bần
Chê anh nghèo áo chẳng ấm thân
Không cho ghe cá được gần ghe tôm."

BÔNG HẸ:

Cây hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho. ông hẹ tiếng Tàu gọi là Cửu thái, tiếng Anh là Chives. Bông hẹ màu trắng. Nấu canh với đậu hủ tươi ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà (tim , gan ,mề), nghệ ăn để trị ho.

BÔNG MƯỚP:

Cây mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn đã ra hoa. Người ta thường có câu: ”Nụ cà, hoa mướp“. Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen. hông bằng bông bí, nhưng hoa mướp cũng được dùng luộc, xào lòng gà, ngon nhất là hoa mướp hương , ăn bùi và béo.

BÔNG KIM CHÂM:

Tiếng Tàu gọi là kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên. Cây thường mọc hoang. Cuống hoa da`i từ 80- 100 cm, đầu cuống chẻ làm hai, có từ 6-12 hoa. Hoa màu vàng, phơi khô thành màu nâu. Người ta thường dùng hoa kim châm khô với nấm mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà… Hoa kim châm có vị ngọt, tính mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu cam. Ngày nay cây được trồng nhiều ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam.

BÔNG SÚNG:

Cây súng là giống cây mọc hoang dại quanh năm ở dưới nước của đồng bằng miền Nam. Từ ao, hồ, đầm đến mương, kênh, rạch,láng, bàu, trũng… Vùng Đồng Tháp Mười cây súng mọc nhiều nhất, nên ca dao miền Nam có câu:

"Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm"

Cây súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng nhạt, nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng: Súng sen được trồng ở đầm chùa, ao làng có bông màu tím đỏ, rất to. Súng dại có cuống lá nhỏ, bông màu trắng hay tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều ô. Bông có 4 lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng. Thật ra, người ta chỉ xài phần thân, cọng súng màu nâu, nhưng vẫn gọi đó là bông súng.

Bông súng muốn ăn phải tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch. Bông súng dùng trộn gỏi; Ăn sống với mắm kho; Nấu canh chua với cá đồng; Bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa.



BÔNG SEN:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy. vàng
Nhụy vàng, bông trắng , lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"

Hoa sen từ xưa đến giờ vẫn được xưng tụng là một loài hoa thanh khiết, được dùng để dâng, cúng Phật . Hoa sen hữu hương, hữu sắc. Hoa sen trắng mang vẻ tinh khiết. Hoa sen hồng có nét thắm tươi. Phù cừ là tên một loài sen nổi tiếng. Nói về hoa sen thì không bút mực nào kể cho xiết. Từ chuyện ngài Ma Ha Ca Diếp nhìn sen mà bừng nở tâm hoa, mỉm cười ngộ đạo trong câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” của Phật giáo đến những cái diệu kỳ, tinh túy của hồn hoa sen. Hoa sen là một loại thực vật đắc dụng vô kể , không bỏ xót thứ gì. Trong địa hạt Đông y , mỗi bộ phận của cây sen có tính trị liệu khác nhau:

- Gương sen (liên phòng) , lá sen (hà diệp), vỏ ngoài hột sen: tánh mát, trị tiêu chảy, cầm máu.
- Hột sen (liên nhục):
vị thuốc bổ tì, bổ thận.
- Nhụy sen (liê tu): thông thận, cầm máu,giữ tinh(liên tu bất tận).
- Tim sen (liên tử tâm/lõi xanh trong hột sen): an thần, trị huyết áp cao.
- Ngó sen (liên ngẫu): thanh nhiệt, dùng sống giải rượu, nấu chín giải độc trong thức ăn đồ biển.

- Củ sen: chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh.

Trong phạm vi ẩm thực, cây sen được xử dụng từ: Gương sen phơi khô đem đun thay củi; Lá sen gói cơm, xôi, quà bánh giữ được hương vị rất lâu; Lá sen non nấu cháo trị chứng giữ nước, phù thủng…

Hột sen tươi hay khô được xỏ xâu dùng nấu chè , làm bánh, làm mứt, tiềm vịt, tiềm gà,… Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm mứt, luộc, chiên bột, hầm canh… cho đến trà ướp hương sen. Hoa sen vị ngọt, hơi đắng, không độc, có tánh ấm, giúp an thần, trị xuất huyết. Có một món ăn nấu từ hoa sen của nhà văn Tản Đà, đã trở thành giai thoại: Vịt hấp hoa sen. Ông cho rằng tinh túy của sen đọng lại ở hoa, nên dùng cánh hoa sen phủ kín vịt để hấp cách thủy. Vịt ở đây là vịt tơ vừa, được làm sạch bằng rượu, khử mùi bằng gừng, ướp gia vị cho thấm trước. Khi vịt chín, bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả thịt vịt mềm, không bị béo ngậy cùng hoa thơm, nọt. Đến hết vẫn còn “vương vấn“ hương vị, cứ như là: ” Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng“ ( Nguyễn Du ), còn theo ý thơ của Mạnh Giao: "Thiếp tâm ngẫu trung tị , tuy đoạn do khiên liên" (Lòng thiếp tơ trong ngó sen, dù đứt còn vương hoa)

BÔNG SẦU ĐÂU:

Tên gọi sầu đâu dễ bị lầm lẫn với tên gọi là thầu đâu, là sầu đông của cây xoan ta. Cây sầu đâu có nhiều ở vùng Thất sơn, An Giang, Châu Đốc, những tỉnh giáp giới Campuchia. Cây sầu đâu thân gỗ, cao to,vỏ sần sùi ,chứ không trơn láng như thân cây xoan ta. Lá xoan ta độc, không ăn được, còn lá non và bông sầu đâu thì ăn được. Lá sầu đâu dùng làm thuốc sốt rét. Bông sầu đâu ra hoa vào mùa xuân, màu trắng, mọc thành từng chùm như hoa nhãn, dùng làm gỏi. Gỏi sầu đâu tương đối dễ làm: Rửa sạch bông và lá non, có thể trụng sơ qua nước sôi. Nướng khô cá sặc rằn, khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào. (Nếu không có khô thì có thể thế bằng cá lóc nướng trui xé nhỏ). Trộn thêm rau thơm, hành tây xắt mỏng, xoài băm sợi… Ăn với nước mắm me, đường, ớt. Gỏi sầu đâu có vị đắng nhưng hậu ngọt dai.

"Thấm hoài vị đắng sầu đâu
Thương bông so đũa trắng đầu… má ơi !"
NTTN

BÔNG SO ĐŨA:

Cây so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng của đồng bằng sông Cửu Long. Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám, xù xì, nứt nẻ. Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa. Thân cây so đũa dùng làm cột nhà, cấy nấm mèo. Lá là món hảo của dê. Bông so đũa mọc ở trên cao, kết thành từng chùm , có 2 màu: trắng và tím. Bông so đũa có vị nhân nhẫn đắng, nhưng ngọt hậu. Đầu tháng 10 âm lịch trở đi , cây so đũa đồng loạt ra hoa, cùng lúc với mùa cá linh để có món ăn nức tiếng là cá linh nấu canh chua bông so đũa. (Cá linh thường được dùng làm mắm để dành; Chế biến nhiều món như kho mặn, kho mẳn lót mía, kho mắm với cà tím, kẹp vỉ nướng, chiên giòn, nấu canh chua với bạc hà… ). Bông so đũa lặt cuống, rửa sạch. Nấu nước sôi,dầm me, thả cá linh, nêm vừa miệng, hớt bọt, cho bông so đũa vào là nhấc xuống liền , để bông còn giòn mới ngon. Trên mặt bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ, thêm một chút tỏi phi, vài lát ớt tươi. Không có cá linh, người ta nấu canh chua so đũa với tôm, tép. Bông so đũa còn dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá lóc bọc bằng bông so đũa hấp, chấm nước mắm đồng dầm ớt.

HOA THIÊN LÝ:

Cây thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét, thân non có lông, lá mọc đối. Hoa mọc thành chùm màu vàng chanh hay trắng ngà. Ban đêm hoa tỏa hương thơm ngát, nên còn được gọi là Dạ lai hương:

"Đêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương tự ngàn xa, bỗng quay về
Dạt dào trên hè, ngoài trời khuya
… Nhờ đêm đưa lối những ai làm ngát hương đời
Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi ! (Phạm Duy)

Lá và hoa thiên lý được thu hái vào mùa hè, dùng tươi. Rễ thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác dụng chửa bịnhtrĩ, trị giun kim. Rễ chửa tiểu buốt hay ra máu. Hoa thiên lý giống như cái chuông gió nhỏ, lấp ló trong những tán lá xanh mướt. Ngoài chức năng làm đẹp:

"Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Miệng em cười hữu ý anh thương"

Cộng mùi hương thoang thoảng, hoa thiên lý còn có vị ngon ngọt, tánh mát, được người nông dân miền Bắc coi như một loại rau có sẵn trong nhà. Hoa thiên lý đi vào ca dao qua câu:

"Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen"

Canh thiên lý mang hương vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý không phức tạp. Chọn những chùm hoa mới nở, ngâm nước cho hết kiến, chùm hoa to thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ. Ở thành phố thì nấu hoa thiên lý với thịt heo bằm, giò sống. Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua đồng giã nhỏ là canh có hương vị đậm đà ngay. Hoa thiên lý xào với thịt bò, có ướp chút gừng và nước tương cho thấm. Ngày nay, người ta dùng hoa thiên lý như một loại rau sống, nhúng với lẩu các loại:

Người ấy dạo xưa vẫn hay sang
Xin mẹ từng chùm thiên lý hoa vàng
Về nấu nồi canh hoa thiên lý
Tưởng bắc đò sang nối họ hàng
Bướm đậu vô tình, bướm lại bay
Để giàn cây mướt nở hoa đầy…
Chiều nay ngắt từng chùm thiên lý
Cánh mỏng manh, nhụy trắng, hoa vàng.

Chiều nay nấu nồi canh thiên lý
Giải nỗi sầu trong lòng nặng mang.
LH

Nhiều dân tộc khác cũng có các món ăn chế biến từ các loài hoa như: người Nhật ăn hoa cúc đồng, người Pháp nấu thức ăn với choux-fleur, artichaut , người Hy Lạp dùng bông bí để chiên, dân Nam Mỹ có hoa của cây yucca dùng làm salad , xào.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du có câu:

”Chơi hoa dễ có mấy người biết hoa“. Ý cụ dùng là ám chỉ về sự thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng hương sắc của đất trời ban tặng cho con người qua biểu tượng là muông hoa mỹ mieều trong không gian chúng ta. Còn kiểu nếm hoa để thưởng hoa trong phạm vi bài sưu tầm này, thì người viết được văn hữu TTSH phang ngay cho tước hiệu là: “Huê học giả“ khi đọc bản thảo. Phân tích từng chữ thì thật là “khổ“ lắm thay !!! Bần bút xin miễn nhận phong vị cao sang này vậy. May sao nhà văn lão thành Võ Phiến trong bài “Ăn và đọc” đã phần nào "cứu bồ" cho người viết đỡ đặng chút đỉnh ý tưởng văn chương qua một đoạn văn như thế này: ”Nhưng văn chương nghệ thuật không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương, và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người địa phương… Như vậy, người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người đã ăn cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch sự, trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng ?". Sau cùng, người viết muốn mượn ý tưởng của cụ Võ Phiến kết thúc bài biên khảo về hoa tại đây.

Xuân Phương
viethoaiphuong
#6 Posted : Wednesday, April 21, 2010 10:01:49 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Đặc sản Quảng Ngãi qua ca dao



Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Mộ Đức

Chỉ bốn câu vẻn vẹn 16 chữ, người bình dân đã giới thiệu được cả bốn đặc sản nổi tiếng của Quảng Ngãi, gắn nó với những địa danh tiêu biểu nhất. Về đặc sản cá bống sông Trà, có thể kể đến những câu ca dao rất hay khác, như:

Phải đâu chàng nói mà xiêu
Tại con cá bống tại niêu nước chè

Nước chè lá Minh Long sắc đặc phải nói là rất ngon sau mỗi bữa cơm, nhất là bữa cơm có món cá bống sông Trà kho tiêu. Dân gian đã mượn chuyện tình duyên đôi lứa để làm cái ''đòn bẩy'' bật lên sức hấp dẫn của đặc sản. Cũng với kiểu như vậy, với don, một đặc sản bình dân, lại có câu:

Con gái còn son
Không bằng tô don Vạn Tượng

Với lối nói thậm xưng, dân gian giới thiệu đặc sản của mình với một niềm tự hào không cần giấu giếm, song vẫn giữ được sự tế nhị gấp nhiều lần kiểu quảng cáo. Bởi ca dao giới thiệu đặc sản với một tấm lòng trong sáng, còn dạng tiếp thị thế kia lại ít dấu ấn văn hóa, dù nó ra đời trong một thời đại văn minh.

Một chút trào lộng, nhưng vẫn luôn trong sáng, người dân còn có câu khá vui:

Nghèo thì nghèo, nợ thì nợ
Cũng kiếm cho được con vợ bán don
Mai sau nó chết cũng còn cặp vị

Một chút chua chát, người dân kể chuyện tình lắt léo trắc trở do không môn đăng hộ đối mà vô hình trung lại giới thiệu được cái giá trị của đặc sản mắm nhum:

Sớm mai anh ngủ dậy
Anh súc miệng
Anh rửa mặt
Anh xách cái rựa quéo
Anh lên hòn núi Quẹo
Anh đốn cây củi còng queo
Anh than với em cha mẹ anh nghèo
Đôi đũa tre yếu ớt không dám quèo con mắm nhum.

Quảng Ngãi là xứ mía đường, nên dễ hiểu là ca dao cũng đề cập nhiều đến đường mía đặc sản.

- Ở đây mía ngọt nhiều đường
Tìm trai xứ Quảng mà yêu cho rồi
- Nước mía trong cũng thắng thành đường
Anh thương em thì anh biết chớ thói thường ai hay

Cũng cần biết xưa kia có nơi đặt ra lệ phạt người bẻ trộm mía để ăn, nên mới có cái hoạt cảnh khôi hài này:

Mía ngọt tận đọt
Heo béo tận lông
Cổ thời mang gông
Tay cầm lóng mía
Vừa đi vừa hít
Cái đít sưng vù

Chuyện mía lan sang chuyện đường với nhiều loại đường đặc sản như đường cát: ''Thiếp gửi cho chàng, một cục đàng rim, một tiềm đường cát'', ''Bậu về nhớ ghé Ba La, mua cân đường phổi cho ta với mình''. Bên cạnh mạch nha, đường phổi còn có đường phèn: ''Thơm ngon như món mạch nha, ngọt qua đường phổi, thơm qua đường phèn...''. Cũng có thể kể, ngoài hải đảo Lý Sơn còn có bánh ít lá gai nổi tiếng: ''Muốn ăn bánh ít lá gai, lấy chồng hải đảo sợ dài đường ghe''. ở rừng thì có đặc sản quế Quảng nổi tiếng ở Trà Bồng, song lại gắn với ý niệm xa xôi, cách trở: ''Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê, lên non tìm quế, quế về rừng xanh''. Quế Trà Bồng cũng vang danh không kém gì mía đường:

Ai về Quảng Ngãi
Cho tui gởi ít tiền
Mua dùm miếng quế lâu niên
Đem về chị bệnh khỏi phiền bà con

Giới thiệu đặc sản, ca dao luôn quyện với tình người, quyện với những sinh hoạt rất đời thường, rất tự nhiên, thuần phác.


Theo Diễn Đàn Ẩ Thực

viethoaiphuong
#7 Posted : Sunday, May 2, 2010 5:38:10 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Ca Dao & Bệnh Tương Tư..

Tương tư là một trạng thái tâm hồn cực kỳ kỳ cục.
Như mọi trạng thái… tâm thần khác, nó là hậu quả hay kết quả của một tình cảm bất thường, hào hứng và nguy hiểm nhất:

Tình yêu!
Có yêu người ta mới tương tư!
Không yêu, người ta chẳng thèm dòm mặt, chẳng thèm để ý cho mệt.
Thêm một chi tiết nữa là người ta chỉ tương tư khi tình yêu chưa được thoả mãn, bị thiếu thốn rất nhiều hay hơn nữa:
Bị từ chối.-Tương tư trở thành căn bệnh.

Ðã là bệnh thì không kể già, trẻ, lớn bé, nam nữ hay đen trắng.
Trái tim còn đập thình thịch trong ngực là người ta còn có thể mắc bệnh tương tư.

“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”

Gặp mặt nhau, chưa biết nàng bằng lòng mình chưa, chàng cứ thấy trái tim mình thôi thúc, kêu réo ầm ỹ:
- Ðúng tần số rồi, đúng đối tượng rồi, yêu đi thôi! Yêu đi thôi!
Chàng làm sao được bây giờ ngoài việc làm cho sự thôi thúc trong lòng được đáp ứng.
-Chàng tìm cách gần gũi người mơ, nói cho người ta biết rằng chàng đang yêu và tìm cách cho nàng yêu chàng.
Dip may, gặp nàng bên đường trong một đêm trăng, chàng thủ thỉ hỏi han:

”Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”

Từ ánh trăng vàng rực rỡ trên dòng sông, long lanh chiếu trong chiếc gầu sồng của nàng rồi hắt ra thành một giải luạ bạc trải dài trên đồng lúa cuả một đêm trăng, chàng về nhà, nhớ trăng, nhớ nước, nhớ người mà ngẩn ngơ tự hỏi:

”Nước non một gánh chung tình.
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?”
Riêng chàng, chàng nhớ lắm. Nhớ từ ánh trăng vàng mông mênh tới nụ cười e thẹn với đồng tiền trên má bởi vì đâu dễ tìm được người trong mộng. Chàng đã đi hết lục tỉnh Nam Kỳ mới bắt gặp được người mơ:
”Trên rừng có cây bông kiểng.
Dưới biển có cá hóa long.
Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong.
Anh đi lục tỉnh giáp vòng.
Tới đây trời khiến đem lòng thương em!”

-Chàng nhớ nhung lắm, chàng “thương” lắm hưng chàng hổng dám nói ra:
”Thò tay anh ngắt cọng ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ!”

Chàng chỉ dám hỏi bâng quơ để coi người ta có chịu trả lời mình không:
”Lá này là lá soan đào
Tương tư gọi nó thế nào hỡi em?”
Lỡ nhung nhớ, lỡ tương tư, bây giờ lại phải xa nhau, nỗi đau kể sao cho hết:

”Ðứt tay mấy chút chẳng đau.
Xa em một chút như dao cắt lòng.”
-Yêu nhau rồi, không thể nào chịu được chia xa, nó in hệt dao cắt lòng chàng.
Chàng nhất định phải được cùng nàng nên chồng vợ.
Dù cha mẹ rầy la, đánh mắng thì chàng cũng xin chịu chết để được gần nàng:
”Anh thương em trầu hết lá lươn.
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay.
Dầu mà cha mẹ có hay.
Nhất đánh nhì đầy hai lẽ mà thôi.
Gươm vàng để đó em ơi.
Chết thì chịu chết.
Lìa đôi anh không lìa!”
Nhớ nhung, thương nhớ làm chàng thức suốt đêm dài. Chàng tơ tưởng được thở than cùng nàng, được thề thốt một đời chung thủy.
Chập chờn hết đêm, chàng giật mình tỉnh dậy, thấy mình vẫn một mình:

”Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng.
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời.
Canh hai vật đổi sao dời.
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung.
Mặc ai, ai thẳng, ai dùn mặc ai.
Canh tư hạc đậu cành mai.
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng, tưởng tơ.
Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không.”

Ðêm ngủ không yên, ngày tơ tưởng mặt, lòng nặng chĩu sầu tương tư.
Chàng nhớ lắm. Ở nơi nào đó, nàng đang ngồi bên song cửa, chàng muốn hỏi ai kia rằng lòng nàng có như tấm lòng chàng?
Có thấy cô đơn, có cần người chia xẻ, có thắt thẻo đợi chờ?
Ngồi tựa song đào.
Hỏi người tri kỷ ra vào vấn vương?
Gió lạnh đêm trường.
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường chờ ai?”
Chàng nặng lòng đến thế. Còn nàng, từ ngày ăn miếng trầu cay cũng đâm ra thẫn thờ, nhớ nhớ, quên quên.
”Từ ngày ăn phải miếng trầu.
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.
Biết là thuốc dấu, bùa yêu.
Làm cho khúc mắc nhiều điều xót xa,
Làm cho quên mẹ quên cha.
Làm cho quên cả đường ra lối vào.
Làm cho quên cá dưới ao.
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.”
-Chàng tương tư ai đó thì cũng có người đang nhớ nhớ, thương thương ai. Ðể che dấu những tình cảm của mình, người ta đã phải dối mẹ, dối cha:

”Thương nhau cởi áo cho nhau.
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.
Tại mẹ may áo rộng tay.
Con quen gió mát, áo bay mất rồi.”
-Cảnh vật quen thuộc, yêu dấu chung quanh, đâu đâu cũng có bóng hình:
”Qua đình ngả nón trông đình.
Ðình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ sầu bấy nhiêu.”
Khi trang điểm, lúc đứng ngồi, lòng càng xót xa thương nhớ:

”Cầm lược thì nhớ đến gương.
Ôm chăn nhớ chiếu!
Nằm giường nhớ …ai?”

-Nhớ thương làm người ta ngủ không yên, ăn không được, quay quắt nhớ miếng trầu ngày nào:

”Một thương hai nhớ ba sầu.
Cơm ăn chẳng được ăn trầu cầm hơi.”
-Chiếc khăn, ánh đèn, đôi mắt cũng hùa nhau mà... nhớ thương mãi người nào đó:

”Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai, khăn vắt lên vai?
Khăn thương nhớ ai, khăn chùi nước mắt?
Khăn thương nhớ ai, khăn giặt để vai?
Ðèn thương nhớ ai mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai mắt ngủ chẳng yên?”

Lễ giáo bắt người con gái phải kín đáo, phải thụ động nên tình yêu càng lắng đọng, nỗi tương tư càng chua xót vì không dám cùng ai chia xẻ, tỏ bày:

”Anh buồn có chốn thở than.
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya!”

Ngắm gió, nhìn mây, thấy mình không được như con chim, con cá và Nàng trông ngóng mãi một bóng hình:
”Con chim buồn, con chim bay về cội
Con cá buồn, con cá lội trong sông
Em buồn, em đứng em trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”
-Trông gần rồi lại ngó xa mà bóng hình ai vẫn biền biệt:
”Ngày ngày em đứng em trông.
Trông non, non ngất.
Trông sông, sông dài.
Trông mây, mây kéo ngang trời.
Trông trăng, trăng khuyết.
Trông người, người xa…”

Trời, mây, non nước vẫn chỉ mãi một mầu nhạt nhoà cho trăng cô đơn , cho hoa buồn bã:

”Vì mây cho núi lên trời.
Vì cơn gió thổi, hoa cười với trăng
Vì sương cho núi bạc đầu.
Vì cơn gió mạnh cho rầu rĩ hoa
Vì mây cho núi lên cao.
Mây còn mờ mịt, núi nhòa mờ xanh.”

Bao lâu nữa nàng sẽ cô đơn, sẽ bạc đầu như ngọn núi dưới sương tuyết, thời gian?

”Non xanh bao tuổi non già?
Vì chưng sương tuyết hóa ra bạc đầu?”

Tương tư vì xa cách hay không được đáp ứng để mình mãi bâng khuâng nhưng không đau đớn, đắng cay bằng bị phụ tình:

”Lá khoai anh ngỡ lá sen
Bóng trăng anh ngỡ bóng đèn anh khêu!”

Người yêu đã một thời thề thốt nay ngoảnh mặt, quay lưng để chàng tiếc công yêu đương, thương nhớ:

”Cầm vàng mà lội qua sông.
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng!”

-Người ta phụ mình chỉ vì cái nghèo đeo đuổi, vậy mà ngày đó có người đã hẹn biển, thề non.
-Chàng tiếc cho một mối tình và cũng tiếc cho một lần lỡ tin yêu:

”Ai phụ tôi đất trời chứng giám
Phận tôi nghèo đâu dám phụ ai
Tưởng giếng sâu tôi nới sợi dây dài
Ngờ đâu giếng cạn, tiếc hoài sợi dây!”

Biết người ta phụ bạc rồi, sao lòng mình cứ xót xa, tiếc nuối rồi mãi ước ao, năn nỉ:

”Ðờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho đây đấy đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương.”

Không, con người mình đêm ngày nhớ thương, muốn cả đời gắn bó đã nhất định làm con chim hót mãi trong lồng!

Nhưng... ước chi, một ngày nào đó, con chim sẽ được xổ lồng:

”Chim khôn mắc phải lưới hồng
Hễ ai gỡ được đền công lạng vàng
Anh rằng anh chẳng lấy vàng
Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh.”

-Chàng đã yêu, chàng đã đau đớn vì yêu. Nàng có hay cho mối tình chung thủy, gắn bó một đời cuả chàng hay nàng nhất định chia tay, theo chồng xa xứ, để lại một người thương nhớ, khóc đau:
Dế kêu dưới đống phân rơm
Tui xa người nghĩa bưng chén cơm khóc ròng.”

Chàng sẽ ngày ngày tương tư người phụ ngãi mà tự hỏi và trách hoài người ra đi:

”Chồng gần không lấy
Bậu lấy chồng xa
Mai sau cha yếu, mẹ già
Chén cơm, đôi đũa, kỷ trà ai dưng?”

Nếu chẳng phải tự nàng phụ bạc mà tại mẹ cha rẽ thúy, chia uyên thì niềm cay đắng lại thêm nhiều phần chua xót, tủi nhục:

”Tiếc thay bác mẹ nhà nàng
Cầm cân không biết là vàng hay thau
Thật vàng chẳng phải thau đâu
Mà đem thử lửa cho đau lòng vàng!”

Nỗi đau này ai thấu cho ai?
Có chăng là những người cùng cảnh đã lỡ một chuyến đò tình để mắc bệnh tương tư

Tương tư chẳng ốm cũng sầu
Con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn.

Kathy Trần
viethoaiphuong
#8 Posted : Thursday, May 13, 2010 1:37:08 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Đôi nét cảm nhận về bài ca dao "Hai quả hồng" Oan hay không OAN(27/03/2010)

HAI QUẢ HỒNG

"Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều"


Người gì mà quái lạ đến như vậy? Ca dao đã từng nói đến chuyện có vẻ lạ lùng:

"Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này"


Hoặc quá hơn chút nữa:

"Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nắm tơ tưởng nghĩ ông láng giềng
"

Nhưng người đời rồi cũng chấp nhận. Còn người đàn bà này lại cư xử với chồng như thế thì không thể nào... thương được! Rành rành đây là cách ăn ở cư xử của một người và cũng là một loại người thiếu chính chuyên, được đưa ra đây để mọi người chê bai, diễu cợt, làm gương cho khách hồng quần.

Bao năm nay, người viết bài này vẫn yên tâm với cách hiểu như vậy. Nhưng gần đây ngẫm lại, chợt nhận thấy hình như mình thiếu công bằng và khắt khe.

Người con gái này không yêu chồng hoặc yêu chồng ít hơn yêu trai thì đã hẳn. Nhưng chúng ta đừng vội đem ngay luân lý đạo đức ra kết án cô mà tội nghiệp. Trên đời này có người phụ nữ nào lại không muốn yêu chồng, thương con. Nhưng chẳng may lấy phải người chồng chẳng bao giờ yêu mến thì làm sao mà yêu cho được? Cái thời của những câu ca dao là cái thời "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" thì những chuyện trái duyên không phải là hiếm hoi. Có bao nhiêu cảnh cọc cạch: "chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng". Có bao nhiêu trường hợp chồng chỉ là một "ông lão móm", cô gái "lấy cho qua lần thì thôi". Hay đây nữa một anh chồng:

"Chồng em vừa xấu vừa đen
Vừa kém con mắt vừa hèn chân đi
Chồng em rỗ sứt rỗ sì
Chân đi chữ bát mắt thì ngưỡng thiên"

Người chồng bị ép gả như thế làm sao cô gái có thể yêu cho được? Ông chồng đó chỉ là người được ràng buộc vào cuộc đời người con gái bằng tập tục, lễ giáo mà thôi. Chồng của cô gái này chắc cũng là một người như thế. Còn người được gọi là "trai" đối lập với ông chồng kia là ai? Dĩ nhiên, đó là người không lấy được cô, là người không được thừa nhận trong giấy tờ là chồng. Nhưng có thể anh chính là người bạn "biết nhau từ thuở buông thừng", anh chính là người trai làng mà cô đã từng hò hẹn thề nguyền. Chỉ tại bác mẹ, tại mối manh, tại bao nhiêu trắc trở mà cô không lấy được anh. Nhưng tình xưa vẫn còn nguyên đó, "dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng". Làm sao có thể ngăn được lòng cô vẫn hướng về anh? So ra, người khác còn quyết liệt hơn cô nhiều:

"Ví dù thầy mẹ đan rọ thả trôi
Thả trôi thì thả, lòng tôi vẫn thương chàng"


Còn cô không dám cưỡng lại tập tục, cô đi lấy người chồng mà mình không yêu. Vậy nên cô mới cư xử với trai hậu hơn với chồng, dành phần hơn cho cái người không phải là chồng về danh nghĩa nhưng là chồng trong tình cảm, trong tâm trí của cô.

Điều đáng nói ở đây là đức hy sinh của cô gái này và sự nhân hậu vốn như là bản tính tự nhiên trong tấm lòng phụ nữ. Anh chồng, tuy cô không yêu, nhưng cô vẫn dành cho anh ta một trái, dù là trái hồng chát. Và dù cô không yêu, nhưng cô vẫn dành cho anh ta một phần tình thương chứ không phải "bỏ rơi" tuyệt đối. Duy có bản thân mình thì cô chẳng dành cho mình một chút gì hết. Hai quả hồng, cô đem cho cả hai người. Tình thương cô cũng dành chia cho hai người tất cả. Cô chẳng giữ lại chút gì cho mình, cô chẳng hề nghĩ về mình. Mặc dù hoàn cảnh của cô chắc chắn là hết sức ái ngại, đáng thương.

Dân tộc ta quả thật là nhân ái và độ lượng!
(Theo tác giả Vũ Nho)
viethoaiphuong
#9 Posted : Monday, August 9, 2010 8:14:19 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
VỀ THĂM QUÊ CHỒNG QUA CA DAO

Nguyễn Thị Kim-Thu

Tôi được sinh ra và lớn lên ở miền Sông Hậu gạo trắng nước trong, với cánh đồng phẳng lặng, cò bay thẳng cánh, vườn cây tươi tốt, hoa trái quanh năm. Khi còn tuổi đi học, tôi chưa hề thấy biển, thấy núi. Nhưng từ ngày được quen biết với anh, người mà sau này thành chồng, tôi được anh giới thiệu quê hương của mình, nơi có biển xanh đẹp, có Hòn Chồng, có Tháp Bà, là xứ của trầm hương, của yến sào, rất xa lạ với tôi nhưng đầy quyến rũ:

Tỉnh Khánh Hòa đậm đà mưa nắng,
Non chồng nghĩa nặng, nước chứa tình thâm,
Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm,
Mây xây tháp bút, trăng dầm bến ngân.

Khánh Hòa là Xứ Trầm Hương.
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào thơm ngọt tình quê,
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.

Khánh Hòa biển rộng, non cao,
Trầm hương Vạn Giã, yến sào Nha Trang.

Rồi anh mô tả những phong cảnh đẹp của vùng quê anh:

Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà
Muốn trông trời bể bao la
Con thuyền nho nho thì ra Hòn Chồng
Muốn xem cá lạ Biển Đông
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây
Muốn vui với nước cùng mây
Mây tuôn suối ngỏ nước đầy Suối Tiên
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về
Lòng mong nương bóng Bồ Đề
Lên Chùa Hải Đức gần kề Nha Trang

Anh đứng Hòn Chồng
Trông sang Hòn Yến
Lên Thăm Tháp Bà
Về viếng Sinh Trung
Non xanh nước biếc chập chùng
Biết bao liệt nữ, anh hùng em ơi

Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng?
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư.

Rồi anh đề nghị với tôi:

Anh đứng Nha Trang
Trông sang xóm Bóng
Lên thăm Tháp Bà
Về viếng Sinh Trung
Non xanh nước biết chập chùng
Biết bao liệt nữ anh hùng, em ơi
Em hãy nhận lời
Cùng anh kết ngãi
Đầu ghềnh cuối bãi
Ta hãy nương nhau
Biển Cù nước mãi còn sâu
Công linh chẳng trước thì sau cũng thành

Cây quế thiên thai mọc ngoài khe đá
Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm
Đôi ta như quế với trầm
Trời xui gặp gỡ sắt cầm trăm năm

Rồi anh thề nguyền:

Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Nha Trang cạn nước
Anh mới từ duyên em

Đứng ở Hòn Chồng trông sang Hòn Yến,
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang sơn cẩm tú chập chùng,
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng.

Tôi thuộc loại không dễ dàng tin người, nhất là người ở những tỉnh xa xôi. Thấy tôi do dự, anh cho tôi biết là trai gái quê anh một dạ chung tình, không lang chạ:

Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả
Bóng trăng rằm sắp ngã về đông
Chẳng thà giục mã về không
Chớ không cướp vợ tranh chồng người ta

Nước nào trong bằng nước Sông Hinh
Đố ai ăn ở chung tình bằng em
(Sông Hinh ở Đại Lãnh)

Đó là lý do nhiều trai xứ khác thường đến Nha Trang cưới vợ:

Trăng rằm mười sáu trăng treo
Anh đóng giường Lèo cưới vợ Nha Trang

Tuy nhiên, tôi vốn sống nơi đất ruộng phì nhiêu, vườn cây nặng trĩu trái ngon thơm ngọt, cá tôm béo ngậy đầy sông rạch ruộng đồng. Mặc dầu biết quê anh đẹp thật, nhưng tôi vẫn e ngại cuộc sống khó khăn của Miền Trung nơi mang danh “đất cày lên sỏi đá”. Biết ý, anh bèn thuyết phục tôi về đời sống phong phú của quê mình, với bao nhiêu món ăn đặc sản:

Tiếng đồn Bình Định tốt nhà,
Phú Yên tốt lúa, Khánh Hoà tốt trâu

Chợ Nha Trang trăm vật trăm ngon
Em vừa cái miệng kẻo chồng con em nghèo

Yến sào Hòn Nội
Vịt lộn Ninh Hòa
Tôm hùm Ðình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều

Đi đâu cũng nhớ Khánh Hòa
Nhớ biển Nha Trang gió mát
Nhớ Ninh Hòa nhiều nem

Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hởi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống ghềnh,
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương.

Mía Phú Ân trồng đám
Bát ngát như rừng…
Chợ chiều buôn gánh bán bưng,
Rủi có sâu vài đốt, khuyên anh đừng vội chê.
Trăm năm giữ vẹn lời thề
Mưa đông vẫn ngọt, nắng hè càng thanh.

Ngó lên Đất Đỏ nhiều bắp, nhiều khoai
Ngó xuống Đồng Dài nhiều mía, nhiều tranh.
Ngó vô Đồng Cọ nhiều lúa bạch canh, áo già.
Mỹ Phong, Mỹ Thuận, Mỹ Hòa,
Phú Điền, Phú Cốc thiệt là nhiều cau.

Rồi anh mô tả Khánh Hòa Nha Trang, ngoài trầm hương, yến sào, với bao đặc sản, mà còn là xứ của Mai Vàng rất nên thơ. Cứ vào dịp Tết, mai vàng nở rộ trên khắp núi đồi thơ mộng:

Đầm Xương Huân én tía
Rừng Phước Hải mai vàng
Lở duyên thiếp phải xa chàng
Xuân về có nhớ Nha Trang thời về.

Bước chân lên Đèo Cả
Thấy mả ông Cao Biền
Có đôi chim hạc đang chuyền nhành mai

Em đi chợ Tết Nha Trang
Nhớ mua một nhánh mai vàng cho anh

Nhưng tôi vẫn ngại ngùng, vì quê anh ở tận Miền Trung xa lắc xa lơ, làm sao tôi có thể bỏ cha mẹ để lấy anh, khi tương lai còn mờ mịt:

Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc nào ngược bằng dốc Nha Trang ?
Mỗi tiếng em than, hai hàng lụy nhỏ
Còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai ?
Mẹ già, còn có em trai,
Phận em là gái, nay mai phải theo chồng.

Rồi anh hứa hẹn sẽ xây một ngôi nhà đẹp, một lẫm lúa lớn cho cuộc sống lứa đôi:

Anh về mua gỗ Hà Ra
Cất nhà lẫm thượng tháng ba em về.

và tỉ tê tâm sự:

Đèo nào cao bằng đèo Cây Cốc?
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Anh thương em thương hủy thương hoài
Dẫu mà có ghẻ, có chốc có sài anh vẫn còn thương

Vì vậy, cuối cùng tôi đồng ý gá nghĩa cùng anh. Sau lễ cưới, anh đưa tôi về Nha Trang ra mắt họ hàng bên chồng và đồng thời hưởng tuần trăng mật.

Đúng vậy, Nha trang đẹp và thơ mộng lắm. Từ bải biển, tôi thả hồn ngắm nhìn biển cả bao la xanh ngát, với đàn chim yến lơ lửng trên trời, và những đảo xanh chập chùng trên sóng nước:

Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây

Yến đâu văng vẳng trên cao
Lửa chài soi bóng Cù Lao trước thuyền

Vì là lần đầu tiên xa nhà, xa cha mẹ, nhìn thấy cảnh biển rộng bao la, tôi chạnh lòng nhớ đến cha mẹ già ở tận miệt Hậu Giang:

Buồn trông mặt bể Nha Trang
Thương cha nhớ mẹ lệ tràn thấm bâu

Để an ủi tôi, anh đưa tôi đến Chụt, tuy là một làng nhỏ sống bằng nghề đánh cá nhưng khá thị tứ, bán buôn nhộn nhịp, và Cầu Đá để xem hàng trăm giống cá biển Đông trong Viện Hải Dương Học:
Nha Trang đến Chụt không xa
Kẻ vô mua nệm, người ra bán buồm

Muốn xem cá lạ Biển Đông
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây

Rồi anh đưa tôi lên thăm Thành Diên Khánh. Anh kể cho tôi nghe lai lịch của dòng họ anh, kể từ thời cụ tổ đến đây làm quan dưới thời Gia Long, cách đây 200 năm, rồi cụ tổ định cư luôn ở đây khi về già, và vì vậy giòng họ anh được thành hình ở vùng này từ thời đó. Thành ngày xưa là tỉnh lỵ, dầu bây giờ chỉ là quận lỵ, nhưng buôn bán vẫn rất sầm uất.

Cầu Thành ghe gốm lên rồi
Sao chưa đi chợ còn ngồi chi đây.

Bên kia sông Cầu Thành là Phú Lộc, Đại Điền với núi Hòn Ngang hùng vĩ, là vùng trù phú với nhiều gái đẹp đa tình:

Ai về Phú Lộc gửi lời
Thư nầy một bức nhắn người tri âm
Mối tơ chín khúc ruột tằm
Khi tháng tháng đợi khi năm năm chờ
Vì tình ai lẽ làm lơ
Cắm sào quyết chí đợi chờ bến xuân

Đất Hòn Ngang chưa mưa đã rã
Gái Hòn Ngang chưa gả đã theo
Thò tay ngắt ngọn dưa leo
Để anh lo cưới đừng theo họ cười

Đi ngược dòng sông tới gần nguồn là vùng Phú Cốc:

Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo cao, dốc ngược đường dài
Anh còn qua được huống chi vài lạch sông

Phú Cốc là vùng đất tiếp giáp vơi các ngọn núi cao thuộc rặng Trường Sơn, như Hòn Dữ, Hòn Bà:

Từ khi giặc nổi can qua
Xa em Hòn Dữ Hòn Bà cũng xa


Tại Thành, anh kể cho tôi nghe về lịch sử của Thành Diên Khánh, những cuộc chiến tranh tàn khốc giữa chúa Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn, về cuộc kháng chiến chống Pháp của 3 vị anh hùng:

Ba ông là bậc anh hiền,
Gọi "Khánh Hòa Tam kiệt"
Người người đều biết,
Đều thương, đều tiếc
Chưa thỏa nguyền núi sông
Tấm thân xem nhẹ như lông hồng
Hỏi anh còn nhớ
"Quảng Phước tam hùng là ai"?

Tiếng đồn anh hay chữ
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa :
Từ ngày Tây cướp nước ta,
Những ông nào dựng cờ khởi nghĩa
Anh hãy nói ra cho em tường.


- Nghe lời em hỏi mà thương,
Thương người nghĩa liệt tơ vương vấn lòng.
Vì thù non sông,
Họ thề không đội trời chung với giặc ác
Từ Nam chí Bắc,
Thiếu chi gan sắt đá đồng.
Ở Khánh Hòa thì có ba ông :
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị,
Ông Trịnh Phong trấn nơi Biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu,
Ba ông một dạ, nghìn thu danh truyền.

Từ Thành, rẻ theo quốc lộ số 1 chúng tôi đến Suối Dầu, viếng đồn điền cao su và mộ Yersin. Tại đây, anh kể cho tôi biết về nhà bác học Yersin tại Khánh Hòa, rồi anh chỉ ngọn núi Hòn Bà, phong cảnh Suối Tiên cách đó mươi cây số. Sau đó chúng tôi đến Vịnh Cam Ranh nổi tiếng thế giới:

Cam Ranh cửa ấy lênh lang
Thủy Ba canh trót đi đường năm canh

Ai câu xuống Lố ông già
Ngâm thơ Mũi Điện, ngắm hoa Ao Hồ
(Lố, Mũi Điện, Ao Hồ là 3 địa danh của Cam Lâm)

Sau khi trở lại Nha Trang ngơi nghĩ vài ngày, anh đưa tôi thăm viếng vùng phía bắc Nha Trang. Theo quốc lộ 1, đi về hướng bắc, khi qua Cầu Hà-Ra trên Sông Cái, anh giải thích cho tôi biết là trước đây hơn 300 năm, Khánh Hòa là tỉnh Kauthara của nước Chiêm Thành, nên ngày nay còn nhiều địa danh mang tiếng Chăm nhưng người Việt phát âm tương tự, như “Nha Trang” từ “Ya-Tră”, “Hà-Ra” từ “H’ra”, “Cam Ranh” từ “Kamran”, “Chụt” từ “Chutt”, v.v. của người Chăm.

Dòng Sông Cái thật phẳng lặng và êm đềm. Nhìn về hướng tây là những vườn dừa tươi đẹp. Sông Cái phát nguồn từ núi Hòn Dữ thuộc Trường Sơn, với nhiều thác ghềnh nguy hiểm, như Thác Ngựa (hay Ngựa Lồng), Trâu đụng, Giằng xay:

Anh muốn tìm nguồn nước trong
Nên đi ngược giòng Sông Cái
Hay vì bị bùa ngải
Nên anh bỏ bãi lên nguồn
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
Thề xưa lời đã nặng lời
Anh cố xa em đi nữa
Nếu chẳng phải ý trời thời cũng khó xa

Ngựa Lồng, Trâu Đụng, Giằng Xay
Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà ngồi


Nước sông Cái trong xanh im lìm chảy, nhưng khi đến gần Cầu Xóm Bóng thì chia làm đôi giòng, bên trong bên đục:

Sông Nha Trang cát vàng nước lục
Thảnh thơi con cá đục lội dọc, lội ngang

Cùng chung có một giòng sông
Mà sao bến đục bến trong hỡi người

Sau đó, chúng tôi đến Xóm Bóng, viếng Tháp Bà:

Ai về Xóm Bóng, Hà Ra
Đi ngang Hòn Chữ mà xem Tháp Chàm

Ngó ra Hòn Chữ thêm phiền
Uổng ơi là uổng lời nguyền năm xưa
(Hòn Chữ ở ngoài biển, ngay cửa Sông Cái)

Rồi anh kể cho tôi biết sự tích Bà Thiên Y Thánh Mẩu, lịch sử xây dựng Tháp Bà và sự liên hệ với Hòn Bà. Anh cũng cho biết là ở Khánh Hòa có 2 ngọn núi Hòn Bà, một ở Diên Khánh mà chúng tôi vừa đi ngang mấy ngày trước, và một ở Ninh Hòa mà chúng tôi sắp đến. Từ đỉnh cao trên ngọn đồi Tháp Bà, anh chỉ cho tôi thấy vết tích của chiếc bánh lái thuyển đã hóa đá ở dưới chân cầu Xóm Bóng. Đây là dấu vết còn lại của hạm đội quân Tàu xâm lược mà chính Bà phải đau lòng tiêu diệt, bởi vì chồng Bà là kẻ xâm lăng đem quân Tàu đổ bộ vào Nha Trang cướp phá. Vì vậy, dân Khánh Hòa thờ phụng Bà, hàng năm đều làm lễ Vía:

Ai về Xóm Bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa dâng Bà còn không?

Tiếng đồn mười tám tháng ba
Có Bà Hậu Thổ chói lòa hào quang
Tháng ba chiêng trống ầm vang
Có Bà Chúa Ngọc bay ngang Hòn Bà
Hào quang trên núi sáng lòa
Cứu dân độ thế nhà nhà yên vui



Tháp Bà và Hòn Chồng

Bà rất linh thiêng, mỗi khi ghe tàu gặp khó khăn di chuyển đều khấn vái Bà:

Lạy Bà cho nổi gió đông
Cho thuyền tôi chạy cho chồng Bà lên

Lạy Bà cho thổi gió nồm
Chồng Bà ở Quảng giong buồm theo vô

Sau đó, chúng tôi đến Hòn Chồng:

Cát lăn còn cuốn gió đông
Anh đi Hòn Chồng sao chẳng rủ em

Khi lên Đèo Rù Rì, vì đây là lần đầu tiên qua đèo, nhìn xuống vực sâu thăm thẳm, tôi hoảng sợ, nhắc khéo anh phải cẩn thận tay lái:

Rù Rỳ đèo uốn chữ chi
Anh lên đèo cho khéo
Kẻo nữa có đi mà không về

Chẳng bao lâu, chúng tôi đến Ninh Hòa.

Ninh hòa có núi, có non
Có sông, có biển, có Hòn Vọng Phu
Có Hòn Khói, có Hòn Dù
Có Lăng Bà Vú, có Tiên Du, Hòn Hèo
Chùa Kỳ vắng vẻ trăng treo
Kỳ Lân dạo xóm bắt heo chộ gà

Ninh Hòa là một thung lũng bao vây bởi núi cao, trong số đó có Hòn Vọng Phu cao vút ẩn hiện trong mây trắng chập chùng, với hình tượng mẹ bồng con u buồn nhìn ra biển cả:

Vọng Phu thuộc dãy núi Bà
Phước Sơn chất ngất gọi là núi Ông
Phải chi đây đó vợ chồng
Gánh tương tư khỏi nặng lòng nước non
(Núi Ông hay núi Đại Lảnh, trên có Thạch Bia của vua Lê Thánh Tông)

Bao năm đâu quản nắng mưa
Bồng con đứng đợi vẫn chưa thấy về
Thời gian bôi xóa lời thề
Mẹ con hóa đá bên lề tháng năm.

Bồng con ngồi tựa trên non
Trăng thu vằng vặc, dạ còn nhớ trông

Nhìn về núi Vọng Phu xa
Sáng ngời một dãi lụa là đẹp tươi
Thác bay uốn lượn giữa trời
Nghìn năm còn hát những lời yêu thương

Vọng Phu là đầu nguồn của nhiều sông lớn ở đây, trong số đó có Sông Dinh lớn nhất chảy qua Ninh Hòa:

Chảy từ núi Vọng Phu xa
Sông Dinh sông Cái chỉ là một thôi
Sông Dinh thẳng một dòng trôi
Sông Cái nước đỏ giữ lời sắt son
Đêm Thu núi Vọng Phu buồn
Gởi về sông cũ nửa vầng trăng xưa

Núi cao tứ phía, biết trồng mía ngang đâu
Sông sâu cát lấp, biết trồng dâu ngã nào
Sông Dinh ai bới ai đào
Để cho con nước chảy vào vòng cung

Sông Dinh có ba ngọn nguồn
Anh nhớ em băng đèo vượt suối
Nhưng chưa biết đường tìm tới thăm em
Ghé vô chợ Ninh Hoà mua một xâu Nem
Một chai rượu bọt
Để quên nỗi nhớ thương

Ninh Hòa có Chợ Dinh bên bờ Sông Dinh:

Bẻ bông đem bán Chợ Dinh
Phải giá em bán, phải tình thì mua
Bạn không tu sao ghé vào chùa
Bạn không mê đạo tổ sao qua bùa tứ giăng
Rượu không say sao ve chén ngã lăn
Bạn không thương người đó sao năng tới hoài
Anh không nhớ khi Lưu Bị có tài
Đến khi trống giục ngồi ngoài ngó vô
Em là người mắc nạn đơn cô
Anh đây có nước cam lồ cứu cho

Ninh Hòa cũng có Hòn Bà, về phía Tây Nam cách Ninh Hòa độ 10 km. Trên núi có nhiều cây Dó cho trầm hương, người địa phương cho rằng trầm hương trên núi này là của Bà Thiên Y Thánh Mẫu nên cũng gọi núi này là Hòn Bà.

Miễu Bà ở cạnh Ao Bà
Cùng nằm trên núi Hòn Bà linh thiêng
Uy Bà cọp dữ hóa hiền
Ơn Bà rải khắp mọi miền nhân gian

Từ giả Ninh Hòa, chúng tôi viếng Hòn Khói, nới có ruộng muối bao la, có ngọn Hòn Hèo cao ngạo nghễ:

Ai về Hòn Khói quê tôi,
Non xanh nước biếc, muối ngời trắng trong.

Ninh Diêm muối mặn tình sâu
Người đi xin chớ để sầu cho ai

Đường Ninh Diêm cong cong, vẹo vẹo
Gái Ninh Diêm chưa ghẹo đã theo,
Thò tay ngắt ngọn dưa leo,
Để anh lo lễ cưới, đừng theo họ cười.

Cửa Đò Hòn Khói xa xăm
Kinh ngoài Hòn Đỏ, kinh trong Bãi Trầy

Ngày xưa, tại Dốc Mỏ trên quan lộ (nay là quốc lộ 1) là vùng đèo heo gió hút, có lắm truông, những tay giang hồ thường tụ tập ở đây để làm cướp lớn:

Muốn "ăn to" thì lên Dốc Mõ
Muốn "ăn nhỏ" thì xuống Hòn Hèo.

Mũi Hòn Thị là cùng điểm của dãy Hòn Hèo, ăn sâu ra khơi, là điểm cực đông của Việt Nam . Ngoài biển có các đảo: hòn Chà Là, hòn Hổ, hòn Rồng, hòn Đụng Chóp Vung, hòn Bạc, v.v.

Không ghé thì lại chạy ngay
Đi hết nửa ngày mũi Cỏ, Cây Sung
Chà Là, Hổ, Đụng Chóp Vung
Kinh ngoài Hòn Bạc kinh trong Ninh Hòa

Rồi anh đưa tôi đến vùng Xuân Tự, Tư Bông, Vạn Giã, đến Đèo Cả. Phong cảnh vùng này đẹp tuyệt vời, bên núi cao, bên biển rộng bao la xanh ngát:

Ðường vô xứ Vạn xứ Ninh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Xe qua Đèo Cả sóng vang
Qua suối Đại Lãnh gió càng lạnh hơn
Từ khi nước biết tuổi non
Trăng thu vằng vặc dạ còn nhớ mong
Mai về hỏi núi hỏi sông
Vì đâu Vạn Giã, Tu Bông lỡ làng?
Mai về hỏi phượng hỏi hoàng
Vì đâu Hội Khánh, Phú Cang chia lìa?

Bước lên Ðèo Cả
Trông vào Vạn Giã, Tu Bông
Biết rằng cha mẹ đành không?
Anh chờ em đợi uổng công hai đàng

Ngó lên đỉnh núi Ba Non
Công cha nghĩa mẹ làm con phải đền
(Núi Ba Non tức núi Tam Phong, phần nối dài của Vọng Phu tới Đèo Cả).

Cũng ở dãy núi này có vùng gọi là Đá Bàn, Đá Dựng là nơi chướng khí, có một thời biết bao nhiêu người đến đây “tu nghiệp” dài hạn:

Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Lòng ta thương bạn quá chừng bạn ơi
Thà rằng không biết thì thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi sao đành

Biết bao bà vợ bà mẹ băng rừng lội suối để đến đây thăm chồng, thăm con:

Em về Cồn Cạn ta nhớ bạn quá chừng,
Trèo truông quên mệt, giậm rừng quên gai.
(Cồn Cạn ở vùng Tu Bông).

Cuộc gặp gở thật ngắn ngủi, cuối cùng cũng phải ngậm ngùi từ biệt với lời dặn dò vợ hiền:

Anh đi em ở lại nhà
Biển sâu em lặn lội nuôi mẹ già đợi anh

Người vợ, mẹ già bùi ngùi nhìn lại, tự nhũ không biết bao giờ mới đoàn tụ gia đình:

Ngó lên Đất Đỏ cỏ dày
Nghĩa nhơn thăm thẳm mỗi ngày một xa

Và biết bao gia đình ly tán, cha mẹ anh em nay mỗi người mỗi ngã:

Ai về Bình Định thăm cha
Phú yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em

Tại Vạn Giã có sông Bình Trung, có chợ Vạn Giã nổi tiếng về thơm:

Ai về Vạn Giã, nhắn với ả bán thơm
Thế gian lắm miệng lắm mồm
Nói Nam thì ngot, nói Nồm thì chua
Thôi đừng uổng tiếng ăn thua
Gắng sao bán được đầu mùa là hay

Bình Trung dòng nước xanh trong
Chảy về Trung Dõng, Vân Phong, Thái Bình
Anh với em đẹp mối duyên tình
Đợi mùa cau chín sẽ trình mẹ cha

Dòng sông Vạn Giã mơ màng
Chảy về đồng lúa Phú Cang trẻ màu
Duyên ta chẳng biết về đâu?
Vì nghèo têm phải lá trầu, trầu không

Tuy nhiên, Tu Bông có khí hậu rất oi bức, với Gió Lào nóng hừng hực trong mùa hè, nhưng mưa dầm suốt mấy tháng trong mùa đông, nơi có nhiều lũ lụt và giông bão:

Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng
Thương cha, thương mẹ, thương chồng thương con

Mưa nào bằng mưa Đồng Cọ
Gió nào bằng gió Tu Bông
Vịnh nào bằng vịnh Vân Phong
Nghĩa nào bằng nghĩa vợ chồng thương nhau

Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi
Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa

Lập lòe trời chớp Vũng Rô
Mây che Hòn Yến gió vô Chóp Chài

Mây Hòn Hèo
Heo Đất Đỏ
Mưa Đồng Cọ
Gió Tu Hoa
Cọp Ổ Gà
Ma Đồng Lớn
(Tu Hoa hay Tu Bông, vì cử tên dâu của vua Gia Long là Nguyễn Thị Hoa).

Vì địa thế đặc biệt của dảy Vọng Phu, Tam Phong, nên đây là vùng mưa và bảo nhiều nhất của Khánh Hòa:

Ông tha mà bà khổng tha
Trời cho cây lụt hăm ba tháng mười

Vì bảo tố hay thường xuyên có gió chướng, ghe thuyền gặp nhiều khó khăn di chuyển, bình thường chỉ 3 ngày, khi có gió chướng phải mất tới 7 ngày để chạy thuyền từ Hòn Gầm gần đèo Cổ Mả đến Bà Gia (Vạn Ninh) cách nhau chỉ 20 km:

Hòn Gầm nghe sóng bổ vang
Đi bảy ngày đàng mới đến Bà Gia

Khánh Hòa nổi tiếngvề Cọp, nhất là ở các truông ở vùng này, là nổi hải hùng của người dân:

Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận

Cọp núi Lá, cá Sông Hinh
Cọp Ổ Gà, ma Đồng Cháy

Đồng Cháy nằm dưới chân Đèo Cả, là nơi tranh hùng giữa 2 quân đội Việt và Chiêm Thành trong một trận quyết tử năm 1652, khi tướng Hùng Lộc được lệnh chúa Nguyễn Phúc Tân vượt biên giới Đèo Cả tấn công và chiếm giữ Khánh Hòa, cả hàng vạn quân lính hai bên chết tại chân đèo. Oan hồn vất vưởng hàng mấy trăm năm. Và biết bao nhiêu góa phụ mất chồng tại nơi này:

Chiều chiều mây phủ Ðá Bia
Ðá Bia mây phủ cô kia mất chồng

Chúng tôi leo lên đỉnh Đèo Đại Lảnh, nơi có Thạch Bia (hay Đá bia) do vua Lê Thánh Tông dựng lên năm 1472 làm ranh giới Việt Chiêm. Nhìn ra đại dương, hay nhìn về vùng Vân Phong, Đại Lãnh phong cảnh đẹp tuyệt vời:

Đầu ghềnh mũi Nạy gie ra
Qua hai mũi ấy đó là Ô Rô
Vũng Ô Rô bốn mùa che khuất
Dựa mặt Nồm mặt Bắc cũng hay
Sơn xuyên phong cảnh là đây
Non cao bia tạc đá xây ngàn trùng
(Vũng Ô Rô hay Vũng Rô)

Lòng tôi tràn trề hạnh phúc đứng bên anh, nhìn phong cảnh bao la, hùng vĩ, tôi thật sự hảnh diện làm con dâu của vùng nổi tiếng xinh đẹp. Tuy vậy, nhìn lên vùng Đá Dựng, Đá Bàn lòng tôi không khỏi bùi ngùi cho số phận những lứa đôi không được may mắn như chúng tôi.


Bải biển Đại Lãnh

Anh bước chân lên Đèo Cả
Anh trông sang Vạn Giã,
Anh ngó lại Tu Bông,
Biết rằng cha mẹ đành không,
Anh chờ em đợi, uổng công hai đàng...

Đứng trên đèo Cổ Mã,
Ngó xuống Vạn Giã, Tu Bông,
Biết là phụ mẫu đành không,
Chàng chờ thiếp đợi, uổng công hai đàng.

Cảm tạ. Tôi chân thành cám ơn chồng tôi, TS Trần Đăng Hồng đã giúp tôi hoàn chỉnh bài này.

Anh Quốc, tháng 2/2010
Nguyễn Thị Kim Thu
viethoaiphuong
#10 Posted : Wednesday, September 29, 2010 11:08:30 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
TIẾNG HÁT CÂU HÒ DÂN GIAN

VÕ THU TỊNH


Tiếng hát câu hò của dân ta có lẽ đã xuất hiện từ thời rất xa xưa, thời mà xã hội ta bất đầu thành hình trên cơ sở nông nghiệp. Trong khi canh tác, trai gái nông thôn thường có dịp gặp gở, tiếp xúc nhau ở các buổi tát nước, cấy mạ, nhổ cỏ, gặt lúa, giả gạo, chèo đò... Họ thường dùng những câu hát, tiếng hò để tăng thêm đà làm việc và nhất là để quên đi phần nào sự mệt nhọc của mình. Về sau, họ cũng dùng những câu hát tiếng hò ấy để tự tình với nhau, như mấy câu ướm gợi của chàng trai sau đây :

Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Hay

...Gặp em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này :"Có lấy anh không?"

Câu nói ướm tình không quanh co, nữa thật nữa đùa, nhưng cô gái không quan tâm đến điều ấy. Đi chỗ nào lại chẳng gặp phải một chàng trai hát hò trêu ghẹo như thế. Có cậu còn sỗ sàng nói ẩu hơn nữa, cũng chẳng làm sao :

Vú em chum chúm núm cau
Cho anh bóp cái, có đau anh đền
Vú em chỉ đáng ba tiền
Cho anh bóp cái, anh đền quanh năm

Nhưng cũng có chàng trai, ăn nói kín đáo, lịch sự hơn :

Gặp em anh nắm cổ tay
Nhờ vá cái áo, nhờ may cái quần...
...Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngã cánh hồng cho sang

Hoặc

Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người
Một người mười tám đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như ...mình.

Con trai tỏ tình yêu trước với con gái như thế là điều thường xãy ra trong xã hội phong kiến Nho giáo phụ hệ

Nhưng ở xã hội nông thôn ta thời trước, có điểm rất đặc biệt là các cô gái cũng dùng tiếng hát, câu hò để trêu ghẹo hay để tỏ tình yêu trước bạn trai.

" Ngày xưa, có chàng kia vào rừng bắn chim, gặp một người con gái.

Cô ả hát đùa một câu :
Chim gì trên rừng có vú
Cái gì dưới bể không đầu ?
Anh mà đối được
Em xin làm hầu thứ hai."
Chàng trai liền đáp lại rằng
Con giơi trên rừng có vú
Con cua dưới bể không đầu
Anh đà đối được
Em hãy về làm hầu nhà anh !"

"Cô ả chỉ hát mấy câu để đùa ghẹo, không ngờ chàng trai đối được ngay, nên xấu hổ bỏ chạy." (1)

Nhưng có khi, một vài câu hò hát đùa cợt lại đưa đến chỗ thành vợ thành chồng.

" Xưa có một cô gái, một hôm đi hái mướp, lúc đang đứng cởi áo ra khều, một cậu con trai đi qua trông thấy, lên giọng hát :

Vú em như quả mướp hương
Tay anh phật thủ(a), đôi đường lấy nhau.

Cô gái vội vã mặc áo và hát lại :

Mình em như mướp nở hoa
Mình em như bướm bay qua trên nghành

Cậu con trai liền hát theo :

Em như hoa mướp trên ngành.
Đây anh con bướm tung hoành càng vui.

Cô gái hát tiếp :

" Anh hùng ví biết thuyền quyên.
xin đưa quả mướp làm tin gọi là !

" Rồi cô con gái đưa cành hoa mướp cho cậu con trai, cậu con trai đưa nụ cà cho cô con gái. Sau đó hai cô cậu lấy nhau. Nên trong dân gian thành ngữ có câu : "Nụ cà, hoa mướp" để chỉ đôi bên còn mơn mởn thanh tân." (2)

Cũng có khi, chỉ nhờ đáp được một câu hát đố mà chàng trai lấy được vợ :

" Ngày xưa có người học trò đi hỏi vợ, gặp phải chị ả này ví von đối đáp, thách rằng :

" Gái này chẳng văn chương phú lục gì cả, chỉ xin đố một câu, hể đáp được thì bằng lòng. " Người học trò nhận lời. Người con gái hò lên một câu, đố rằng :

Dưới đời gì lớn hơn voi
Gì cao hơn núi gì dài hơn sông ?
Người học trò ứng khẩu hát đáp lại ngay ;
Anh đây dạ lớn hơn voi.

Chí cao hơn núi , tình dài hơn sông !

" Chị ả chịu là tài. Rồi, chỉ vì một chút đối đáp mà nên vợ thành chồng." (3)

Cũng có trường hợp, một câu hò đối đáp qua đường, thế mà sáu bảy năm sau, chàng trai tìm cô gái cưới làm vợ.

" Xưa có bà sư đem môt đứa con gái nhỏ về nuôi để sau hầu hạ đỡ đầu trong chùa. Khi cô ả lớn lên , độ mười lăm mười sáu tuổi, nhan sắc đã hơn người và thông minh cũng không kém ai.

" Trong làng có anh học trò, ngày ngày đi đến trường, thường ngồi nghỉ mát dưới gốc hai cây gạo ở trước chùa. có một buổi, anh ta đang ngồi nghỉ mát, thấy cô gái có nhan sắc kia đi ra hái hoa. Anh ta nói đùa đôi câu. Cô gái chẳng đáp chỉ hát rằng :

Em như hoa gạo trên cây
Anh như cái đám cỏ mây giữa đường.

" Anh học trò biết cô gái hát chọc, nên hát lại rằng :

Một mai trời tốc gió rung.
Hoa gạo nhảy xuống nằm cùng cỏ may.

" Hát xong, anh học trò về nhà, cô con gái trở lại chùa, hai bên từ đó không liên lạc gì với nhau cả. Cách độ sáu bảy năm sau, anh học trò thi đỗ. Bao nhiêu nhà giàu tấp tểnh muốn đem con gái gã cho nhưng anh không nhất định nơi nào. Một đêm anh nằm chiêm bao thấy một ông lão vào nhà, đến tận giường mà bảo rằng :" Cây gạo, cây gạo, bách niên giai lão."

" Anh ta chợt tỉnh lại, suy nghỉ hồi lâu, nhớ ngay đến lúc còn đi học, ngồi nghỉ dưới gốc hai cây gạo tai như còn nghe văng vẳng tiếng của người con gái hái hoa hát đối đáp với mình khi xưa. Sáng dậy, anh đi dò hỏi biết cô gái vẫn còn tại chùa, anh liền thưa đầu đuôi với cha mẹ, và xin cho người đi dạm.

" Bà sư bằng lòng ngay, mà cô gái lại càng bằng lòng hơn. Hôm đám cưới, bà sư có thơ mừng, hai câu kết như sau :

Cỏ ướm lòng hoa hoa đợi cỏ
Ba sinh âu hẳn cũng duyên trời.

" Hôm nhị hỉ (b), bà sư nói với con rễ rằng :

Ai ngờ chốn am thanh, cảnh vắng này mà lại có dâu rễ về nhị hỉ.

Cô dâu nữa vui, nữa thẹn nói rằng :

" Bạch thầy, cũng nhờ có " gốc trời gió rung" mà chúng con mới có ngày hôm nay.: (4)

Câu hát tiếng hò không phải chỉ là phương tiện cho trai gái tỏ tình yêu với nhau hầu đi đến cưới hỏi thành vợ thành chồng mà thôi. Câu hát tiếng hò còn là một phương tiện mà các phụ nữ ngày xưa dùng để khẳng định lập trường tình cảm của mình đối với mọi người chung quanh như ở chuyện cổ tích dưới đây :

" Ngày xưa, có một người lấy hai vợ. Vợ cả đẹp mà hiền lành. Vợ hai đã xấu lại còn chua ngoa, độc ác. Ban đầu hai người vợ ở chung một nhà. Về sau, hai người ngày nào cũng cãi nhau, đánh nhau, chồng không sao chịu được, cho mỗi người ở riêng một nhà, nhưng cũng không cách xa nhau mấy. Có một thời , người chồng đi buôn vắng nhà, vợ cả nghe vợ hai ở bên nhà nghêu ngao hát rằng :

Chồng chung chồng chạ !
Ai khéo hầu hạ
Thì được chồng riêng !
Chi mà sợ, chi mà kiêng !

" Vợ cả biết vợ hai muốn gây sự với mình, mà vẫn làm thinh không nói năng gì. Nhưng trong bụng không thể không giận được. Hôm sau về nhà kể chuyện cho mẹ, cho em nghe. Mẹ khuyên rằng :

Một sự nhịn chín sự lành. Thôi con hãy cứ nhịn nó đi, đừng hát đối đáp làm gì. Đợi chồng con về sẽ hay.

Người em gái cũng nhủ rằng:

- Cần chi phải để tâm. Chị không nghe người ta nói :

Dù anh năm bày nàng hầu
Em đây cũng cứ ngồi đầu chính thê !

" Người vợ cả nghe theo mẹ và em, về nhà mặc cho vợ hai hò hát khiêu khích gì, vẫn tiếp tục làm thinh..." (5)

Và trong dân gian ngày xưa, cũng có một câu chuyện khác nữa :

" Nhà kia có con gái đã nhận gả cho một người ở cùng làng. Nhà trai sêu tết đã đôi ba năm, và nhà gái đã hẹn năm sau cho cưới. Đôi bên con trai con gái đã có lòng yêu nhau.

Chẳng may trong năm, đứa con trai trèo cây khế thế nào, ngã què tay. Cha mẹ đứa con gái toan lật không muốn cho cưới, định đem gã cho nhà khác. Nhưng đữa con gái không nghe. Cha mẹ bảo sao cũng không được, ai nói gì cũng mặc kệ, đứa con gái chỉ hát :

Hai tay vin bẻ chanh, chè
Vừa đôi thì lấy tay què mặc tay !

" Cuối cùng, cha mẹ cũng phải chìu theo đứa con gái mà cho chàng trai què tay ấy cưới."(6)

Ngoài ra, câu hát tiếng hò cúng còn la phương tiện giúp cho người đàn bà thời xưa bày tỏ được những nổi băn khoăn trước một vấn đề khó xử, không biết nói năng ăn ở ra sao :

" Xưa có hai vợ chồng nhà kia, chẳng may chạy giặc mỗi người lạc một ngã. Người vợ chạy trốn lên rừng, nhịn đói, nhịn khát, khốn khổ quá sức. May gặp được anh kiếm củi mang về nhà nuôi mới khỏi chết. Rồi lâu ngày không biết nương tựa vào đâu, đành phải ở lại với anh kiếm củi làm vợ chồng.

" Mấy năm sau, giặc giã yên, người chồng đi tìm mãi mới gặp. Vợ thấy, nghỉ bụng rằng:

" Bây giờ ta không về với chồng thì ta bất nghĩa, mà ta về với chồng thì ta bị tiếng bất trinh"

" Trong lòng lưỡng lự không biết nên làm thế nào cho phải, chị ta mới hát một đôi câu thử xem hai bên " nghĩa cũ tình nay" xử trí với nhau thế nào ? Câu hát rằng :

Muốn tắm mát lên ngọn sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay em vít cả đôi cành
Quả chín thì hái, quả xanh không lẻ dừng.
Ba bốn năm nay ăn ở trên rừng
Chim kêu, vượn hú, nữa mừng, nữa lo
Em trót sa lỡ bước xuống đò !

Người kiếm củi nghe hát, liền nói với người chồng cũ rằng :

"Thôi, bây giờ bác đã tìm được bác gái, thì bác đem bác ấy về. Tôi bằng lòng".

Người chồng cũ đem tiền bạc ra để tạ ơn người kia, nhưng người kia nhất định không chịu nhận. Rồi hai vợ chồng đem nhau về. (7)

Từ nghìn năm trước, xã hội ta vốn đã tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Về sau, đến khi nước ta bị Trung Hoa đô hộ, thì xã hội việt nam chuyển dần sang chế độ phụ hệ, phong kiến, Nho giáo. Nhưng Nho giáo chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ ở tầng lớp vua quan, phú thương, nho sĩ. Ở đô thị, con trai con gái nhất thiết không được đường đột tiếp xúc với nhau, việc yêu thương, kết hôn đều do cha mẹ định đoạt. Nhà nho xưa có câu dạy con cháu :

Con trai chớ đọc Phan Trần
Con gái chơ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.

Vì trong chuyện Phan Trần, trai gái hẹn hò nhau trong chùa, trước bàn thờ phật, trong chuyện Kiều, cha mẹ đi vắng, đêm khuya Kiều một mình qua nhà Kim Trọng đàn hát, tình tự, thề nguyền.

Trái lại, trong chuyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, khi Lục Vân Tiên giữa đường cứu Nguyệt Nga khỏi tay bọ cướp, thì Nguyệt Nga trong kiệu bước ra để tạ ơn , thì Lục Vân Tiên vội vàng ngăn lại :

Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai !

Nhưng suốt bao nhiêu thế kỷ bị Bắc thuộc, ảnh hưởng Nho giáo vẫn không thắm nhuần sâu rộng xuống nông thôn Việt Nam được. Phải chăng, dân gian ta ngày xưa vẫn coi Nho giáo như là một văn hóa ngoại bang đã theo gót quân xâm lăng du nhập vào nước ta. Cho nên , dân gian vẫn khuyến khích các cô gái đồng quê Việt giữ theo phong tục mẫu hệ của dân Việt ngày xưa :

Ăn chơi cho hết tháng hai
Để làng Gióng đám cho trai trọn đình.
Trong thời đánh trống rập rình
Ngoài thì trai gái tự tình với nhau."

Qua câu hát tiếng hò, các cô gái trẻ có thể nói xa nói gần, ví von, đùa cợt, nữa đùa, nữa thật, tình tứ lã lơi, ranh mãnh, ngạo nghễ, các chàng trai có muốn giận cũng không giận được, nếu đồng tình thương yêu nhau thì càng hay, hoặc có từ chối, các cô gái không vì thế mà mất mặt.

Đến cuối thế kỷ thứ 17, năm Ất hợi (1695), Thích Đại Sán ở Quãng Đông, được chúa Nguyễn Phúc Chu rước sang nước ta để giảng kinh. Vị cao tăng Trung Hoa này rất ngạc nhiên nhận thấy nước Việt Nam, sau bao nhiêu thế kỷ Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa rất lâu, nhưng phụ nữ nông thôn chưa chiu ghép mình vào lễ giáo Khổng Mạnh, mà công khai tự do đi xớm về khuya một mình, trọn quyền giao dịch, mua bán...thật trái hẳn với phụ nữ Trung Hoa luc đó,không bao giờ được phép ra khỏi nhà, nếu cần đi giao dịch buôn bán, thăm viếng họ hàng cũng phải có người theo gót trông chừng, canh giữ.

Tóm lại, dùng câu hát tiếng hò để bày tỏ tình yêu trước con trai như thế, các thôn nữ ta đã tiếp tục một tập quán còn xót lại của chế độ mẫu hệ Việt Nam, để duy trì phần nào thế chủ động của họ trong sự trao đổi tình cảm của họ đối với nam giới, trong việc thử thách, chọn lựa đôi bạn đời của mình, cho được vừa ý mà thôi. Một hành động hợp lý, "tiến bộ", có tính cách "đi trước thời đại"

Mặc khác," câu hát tiếng hò" đòi hỏi một trình độ nghệ thuật đa dạng cao : ứng tác nhanh của một thi sĩ, giọng hát hay của một ca sĩ, diễn tấu giỏi như một kịch sĩ.

Mà nghệ sĩ tính vốn là một bản chất tự hữu của con người Việt Nam, tình ý được diễn đạt bằng một ngôn ngữ thanh âm phong phú, lên bỗng xuông trầm, cấu tứ nhịp nhàng, cân đối... Cho nên , ta không ngạc nhiên khi nhận thấy một phần lớn các cô gái thôn quê ngày trước đã ứng tác những câu hát, tiếng hò một cách dễ dàng để sử dụng như một vũ khí sắc bén để tranh thủ, duy trì vớt vát cho được một uy thế, đặc quyền của nữ giới trong chế độ mẫu hệ ngày xưa, mà ngày nay đã bị sụp đổ tan tành.

VÕ THU TINH

Chú thích :

(a) Phật thủ : một thứ quả, đầu núm chỉa ra năm nhánh chúm lại như năm ngón của bàn tay, nên gọi là "Phật thủ" (tay của Phật)

(b)Nhị hỉ : Hai ngày sau lễ cưới, có lệ vợ chồng mới lấy nhau về làm lễ tạ ơn cha me nhà gái. Đó gọi là lễ Nhị hỉ.

(1) Nguyễn Văn Ngọc. Truyện cổ nước Nam. Tập 1, xb hà Nội. 1932.

(2) Nguyễn Văn Ngọc. Truyện cổ nước Nam. Tập 1.s.đ.d. Nụ cà, hoa mướp, tr.164-165.

(3) Nguyễn Văn Ngọc. Truyện cổ nước Nam. Tập 1.s.đ.d. Trời tốc, gió rung, tr.101-103.
viethoaiphuong
#11 Posted : Tuesday, November 9, 2010 3:29:26 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Con trâu trong ca dao, dân ca



Thứ năm, 22 Tháng 1 2009 16:26

Trong lịch sử can chi đã quen dùng ở phương Đông số thứ tự thứ 2 là Sửu tượng trưng bằng con trâu. Giờ Sửu được tính từ 1 đến 3h đêm, là thời gian yên tĩnh nhất, mọi người ngủ say, thế nhưng con trâu lại thức lặng lẽ nhai lại.
Tháng Sửu là tháng Chạp, là tháng mà mọi người hân hoan đón Tết. Trong 12 con vật thời gian, trâu là con vật to nhất, khỏe nhất. Trâu sớm được thuần hóa, gần gũi với con người, giúp con người trong việc đồng áng nên người nông dân coi trâu như người bạn thân.

Trong ca dao dân ca, trâu được nói đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, tình yêu nam nữ... đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Thế nên trong cơ nghiệp nhà nông con trâu được xếp hạng nhất "Con trâu là đầu cơ nghiệp".

Tuổi sửu con trâu kềnh càng,
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.

Trâu thay sức người làm công việc đồng áng nên việc mua sắm trâu là việc hệ trọng. Nhà nghèo thường khó sắm được trâu để làm mùa, phần nhiều là mướn trâu.

Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay

Từ buổi đầu lịch sử, khi dân ta biết trồng cây lúa nước con trâu đã là người bạn thân thiết gắn bó với nông dân. Tất cả đều phải cần cù làm lụng, hỗ trợ cho nhau để có miếng ăn.

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

Đôi khi người nông dân cũng tâm tình thì thầm to nhỏ cùng trâu như nói chuyện với một đứa trẻ con.

Nghé ơi ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu
Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần

Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày thong thả đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó rơm khô. Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ.

Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu

Nông dân rất quý con trâu, nó là một phần tài sản của họ. Nó đã được đưa ra so sánh đánh giá sự giàu nghèo.

Thằng bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Và hình ảnh thằng Cuội chăn trâu cũng thật thà đáng thương

Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng

Hình ảnh con trâu cũng được dùng để phê phán những kẻ lừa đảo chỉ biết vì quyền lợi cá nhân.

Lái trâu, lái lợn, lái bò
Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào

Hoặc tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm

Thật thà như thể lái trâu,
Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.

Ai cũng biết buôn bán thì không thể có sự thật thà, quan hệ mẹ chồng, nàng dâu cũng rất phức tạp, khó có sự dung hòa được.

Lại có câu ca dành cho người thích lấy vợ dại, ngoan hiền

Vợ dại thì đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm

Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình có sẵn quý hơn vì nó là có thực.

Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm

Và rất nhiều người bằng lòng với cuộc sống hiện tại, cho như thế là sung sướng hơn người.

Ai bảo chăn trâu là khổ
Không, chăn trâu sướng lắm chứ?
Ngồi lưng trâu ta hát nghêu ngao...

Con trâu cũng là đề tài để người ta trêu chọc nhau một cách tình tứ trong những lúc lao động để quên đi nỗi mệt nhọc, vất vả.

Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta có trước có sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình

Hoặc để gợi chuyện làm quen nhau:

Hỡi cô cắt cỏ bên đồng
Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Thân em là gái được là bao nhiêu?

Các cô gái cũng hóm hĩnh, đáo để không kém

Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm

Đến khi có vợ rồi nên một lòng một dạ không nên bắt chước những người đi trước năm thê bảy thiếp để rồi gặp phải cảnh.

Ba vợ bảy nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.
Trâu anh con cưỡi con dòng
Có con đi trước lòng thòng theo sau.

Và đôi khi là những hình ảnh ẩn dụ về những ngang trái mà con trâu phải gánh chịu.

Con trâu có một hàm răng
Ăn cỏ đồng bằng uống nước bờ ao
Thời sống mày đã thương tao
Bây giờ mày chết cầm dao xẻ mày
Thịt mày tao nấu linh đình
Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mày tao tiện con cờ
Làm dao, cán mác, lược dày, lược thưa…

Thời gian dần qua đi. Theo đó, hình ảnh mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu, hát ngêu ngao những bài đồng dao cũng đã dần mất đi. Thế nhưng hình ảnh làng quê, đồng ruộng, cây lúa, con trâu vẫn thấm sâu vào tâm hồn người dân Việt.

Sưu tầm
viethoaiphuong
#12 Posted : Thursday, December 9, 2010 10:37:17 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


• Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng

• Muốn sang thi bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phai yêu lấy thầy





Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng

thì nói đến thời đại huy hoàng của lịch sử: Lý Thường Kiệt, phá Tống Bình Chiêm. Câu ca dao ví quân dân ta yếu lực chỉ bằng lực con châu chấu mà dám đá xe Đại Tống và Quân ta dưới tài lãnh đạo của Lý Thường Kiệt đã đánh thắng tới Ung Châu, trong nội địa trung Hoa v.v.

==

Muốn sang thi bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy


Câu này đã gây nhiều tranh luận vì Cầu là chữ nôm mà Kiều là chữ Hán hai chữ đều có nghĩa là cầu .

Theo tiếng Việt cổ thì kiều là cái yên ngựa thí dụ:

Ngựa ô anh thắng kiều vàng
Anh tra khớp bạc anh đón nàng về dinh

Hoặc:

Sông sâu ngựa lội ngập kiều
Dẫu anh có phụ còn nhiều nơi thương

vậy cầu kiều ở đây không viết hoa và (nếu không phải vì lỗi đả tự) thì chữ "thi" phải đổi ra thành chữ "thì" và cầu kiều là cái cầu cong có mái như các cầu đi qua những cái hào xung quanh nhà các quý tộc:


Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy

Ý của câu ca dao này chỉ chú trọng đến ý nghĩa của vế 2 còn vế đâu có sai lạc chút ít cũng khôn làm giảm gía trị ý nghĩa của câu ca dao có tính cách khuyến học
Y toàn câu là: Muốn ở nhà cao cửa rộng có cầu mái cong thì phải lo học

Thêm vài câu ca dao khuyến học:

Ăn vóc học hay

Dốt đế đâu học lâu cũng biết

Học thày không tày học bạn

Người không học như ngọc không mài

Ngọc bất trác bất thành khí
Nhân bất học bất tri lý

Một kho tàng (vàng) không bằng một nang chữ

Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học

Ông bảy mươi học ông bảy mốt

Không thày đố mày làm nên
v.v.


Hà Phương Hoài

viethoaiphuong
#13 Posted : Friday, December 10, 2010 5:47:48 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Nếp sống cũ trong ca dao (II)

Friday, 10 December 2010 16:40 Gìn vàng giữ ngọc .Hoàng Yên Lưu

Người dân ở cái nôi của ca dao tục ngữ như ven Sông Hương, Cửu Long, Hồng Hà, Thái Bình... lấy sinh hoạt nông nghiệp làm chính. Nhất là ở lưu vực sông Hồng và sông Thái, nơi quê nghèo, nhà nông quanh năm “trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” nên chỉ mong có dịp nghỉ ngơi:

Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu

Ngày phong lưu có quyền nghỉ ngơi chính là vào ba tháng mùa xuân. Chỉ cần lúa đầy vựa, khoai đầy bồ là đủ vì tinh thần tri túc vốn là bản chất của nhà nông. Được mùa không những trong năm no đủ mà còn có niềm tự hào đã đảo ngược nấc thang xã hội vốn cho kẻ sĩ lên hàng đầu:

Nay mừng những kẻ nông phu
Cầu cho hòa cốc, phong thu bình thời
Vốn xưa nông ở bậc hai
Thuận hòa mưa gió ấy thời lên trên!

Nghỉ ngơi, giải trí trở thành một nhu cầu trong một chương trình vui xuân.

Sau “tháng một, tháng chạp nên công hoàn toàn” nhà nông chuẩn bị Tết.
Tết âm lịch là một ngày lễ thiêng liêng nhất của dân tộc ta, đây là dịp đoàn tụ, cũng là lúc người trong gia đình chia sẻ nguồn vui và nguồn hy vọng cho một năm mới như nhà thơ Anh thơ đã từng mô tả một ngày tết năm xưa. Bức tranh sau đây tuy giản dị nhưng không thiếu hình đường màu sắc và chân thực. Nguồn vui trong xóm làng tuy tưng bừng nhộn nhịp nhưng vẫn được phủ trong bầu không khí linh thiêng, kính cẩn và với bản chất mộc mạc nên thơ:

Trước cổâng làng chòm nêu vừa thức gió
Bụi mưa phùn đã đổ xuống sân vôi
Tràng pháo chuột đua nhau đì đạch nổ
Xác giấy hồng bắn cả cánh hoa rơi

Trong nhà đỏ bàn thờ nghi ngút khói
Những đàn bà tíu tít chạy bưng mâm
Lũ con trẻ vui mừng thay áo mới
Bên ông già hương nến quá chuyên tâm

Ngoài đường ngõ bùn lầy theo nước chảy
Thằng cu con quần đỏ cưỡi lưng bà
Các cô gái đội vàng hương ôm váy
Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua.

Đây là dịp hội hè mở ra và trai thanh gái lịch có dịp gặp gỡ hoặc đi lễ chùa chiền như Hồ Dzếnh nhớ lại:

Ngày xưa còn nhỏ ngày xưa
Tôi đeo khánh bạc, lên chùa dâng nhang
Lòng vui quần áo xênh xang
Tay cầm hương, nến, đỉnh vàng mới mua
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên:
“Lòng thành lễ Phật đầu niên
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng!”
Chị tôi phụng phịu má hồng
Vùng vằng chút nữa quên bồng cả tôi
Tam quan, ngoài mái chị ngồi
Chị nghe đoán thẻ chị cười luôn luôn
Quẻ thần thánh mách mà khôn
“Số này chồng đắt mà con cũng nhiều!”

Nhữõng ngày hội xưa kia từ Tết, Tết Đoan ngũ, Xá tộâi vong nhân, Trung thu cho tới các ngày hội giỗ tổ Hùng vương, nhớ ơn các bậc anh hùng như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo và Quang Trung... là dịp nhiều nơi hát quan họ, nơi hát trống quân, chỗ hát xẩm... rất tưng bừng nhộn nhịp. Tình ý phơi phơi và bay bổng trong những điệu huê tình hay những lời hát đối đáp hóm hỉnh và người hỏi cũng như kẻ đáp phải nhanh trí và tâm hồm cần ăm ắp chất thơ:

Gái đố:
Cái gì nó bé, nó cay
Cái gì tuy bé mà hay cửûa quyền?
Trai đáp:
Hạt tiêu nó bé nó cay
Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền!
Gái đố:
Đố anh biết đá mấy hòn
Núi cao mấy ngọn, trăng tròn mấây đêm
Trai đáp:
Đá kia chỉ có một hòn,
Núi cao một ngọn, trăng tròn đêm nay.
Gái đố:
Quả gì năm múi sáu khe
Quả gì nứt nẻ như đe thợ rào?
Quả gì kẻ ước người ao?
Quà gì lấp lánh như sao trên trời?
Quả gì ăn đủ năm mùi?
Quả gì to lớn có người ngồi trong?
Quả gì khắc chữ chạm rồng?
Quả gì cùi trắêng nước trong hỡi chàng?
Quả gì da nó vàng vàng?
Quả gì lăn lóc giữa đàng cái đi?
Quả gì da nó xù xì?
Chàng mà đối được thiếp thì theo không.
Trai đáp:
Quả khế năm múi sáu khe
Quả na nứt nẻ như đe thợ rào
Quả mận người ước kẻ ao
Quả mơ lấp lánh như sao trên trời
Quả lê ăn đủ năm mùi
Quả động to lớn có người ngồi trong
Quả chuông khắc chữ chạm rồng
Quả dừa cùi trắng nước trong đó nàng!
Quả thị da nó vàng vàng
Bùa yêu lăn lóc giữa đàng cái đi
Quả mít da nó xù xì
Nay anh đối được, em thì theo anh!

Cũng trong dịp tết lễ chúng ta biết thêm nột loại ca dao nữa, đó là đồng dao. Đồâng dao là những khúc hát của trẻ con khi vui chơi, hát hỏng lúc tết về hay trong ngày hội mở.
Các nhà phong tục học từ Phan Kế Bính tới Toan Ánh cho biết: “Đêm ba mươi Tết, cả ở thành thị và thôn quê nhiều nơi trẻ con nhà nghèo mỗi toán năm ba đứa, mang một chiếc ống bằng tre đựng mấy đồng tiền vừa đi vừa lắc lên thành tiếng “súc sắc”, đứng hát trước cửa mỗi nhà để xin tiền:

Nhà nào nhà này, còn đèn còn lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp;
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu;
Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm.
Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ, những con tốt lành,
Những con như tranh, những con như rối.

Đêm ba mươi Tết nhà nào mà chẳng còn đèn còn lửa, câu hát có dụng ý làm cho người ta bận mấy cũng phải tiếp đón chúng, nếu không mở cửa thì có khác gì nhà đã tro lạnh khói tàn, không còn ai nữa. Tục này mất hẳn đã lâu, đã hơn năm mươi năm rồi”.

Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục còn nói tới Tết Trung thu và các trò chơi trong lễ hội dân tộc này: “Rằm tháng Tám là Tết Trung thu. Tết này ta thường gọi là tết trẻ con...hay tết 'trông giăng'.
Đồ trẻ con chơi trong tết này toàn là các thứ bồi bằng giấy như lá voi ngựa, kỳ lân, sư tử, rồng, hươu, tôm cá, bươm bướm, bọ ngựa cho chí cành hoa, giàn mướp, đèn cù, đèn xẻ rãnh, đình chùa, ông nghè đất, con thiềm thừ...

Trẻ con tối hôm ấy, dắt díu nhau từng lũ, đám thì nhảy vô, đám thì kéo co, đám thì bắt cái hồ khoan, đám rước đèn, rước sư tử trống thanh la đánh vang cả đường, tiếng reo đùa rầm rĩ. Lại nơi nọ hát trống quân, nơi kia hát trống quýt, tổng chi gọi là cách trung thu thưởng nguyệt”.

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh trong Tứ Dân Văn Uyển số 1, tháng 05/1935, trong bài “Trẻ con hát trẻ con chơi” có nhắc tới một tục lệ thú vị trong Tết Trung thu. Vào đêm rằm trẻ em xếp thành hàng, chọn một người trưởng đoàn, thay nhau hát “bắt cái hồ khoan” vang cả phố phường. Lời “bắt cái hồ khoan” có thể thay đổi nhưng nhịp điệu thì giống nhau. Chúng có thể là:

Bắt cái! Bắt cái! Hồ khoan!
Tôi là con gái kẻ Mơ-Hồ khoan!
Tôi đi bán rượu tình cờ gặp anh-Hồ khoan!
Bắt cái! Bắt cái! Hồ khoan!
Tôi là con gái Tràng sinh-Hồ khoan!
Tôi đi bán rượu qua dinh ông Nghè-Hồ khoan!

Bài hồ khoan cũng có thể khác bản của giáo sư Doãn Quốc Sĩ diễn giảng:
“Vào dịp Tết Trung thu, các em trong làng xóm tụ tập nhau để rước đèn. Em trưởng đoàn vừa điều khiển cuộc rước đèn theo các đường trong làng trong xóm, vừa điều khiển nhịp hát hồ khoan, nội dung câu hát thường có tính cách luân lý đại để như sau:

Bắt cái này, bắt cái này, hồ khoan!
Ai ơi chớ vội cười nhau
Cây nào mà chẳng có sâu chạm cành.
Hồ khoan!
Bắt cái, bắt cái này, hồ khoan!
Làm người mà chẳng biết suy
Đến khi nghĩ lại còn gì là thân
Hồ khoan!

Trong ngày vui của hiếu nhi, phong dao được sáng tạo thêm hay đổi mới thuận miệng trẻ nhỏ, thuận tai và trí óc trẻ thơ. Lời có thể ngô nghê nhưng lại nhiều hình ảnh và thi vị. Chúng ta có thể tưởng tượng ra bày trẻ ríu rít ngõ trước ngõ sau, trên con đường trải đầy ánh trăng, tay trong tay vừa đi vừa nhảy nhót hay ngồi thụp xuống cất giọng cười lanh lảnh giòn tan như pha lê:

Rung răng rung rẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cửa nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp!
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây!

(còn nữa)

Last Updated ( Friday, 10 December 2010 16:53 )
viethoaiphuong
#14 Posted : Friday, January 21, 2011 12:49:46 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Vắng Như Chùa Bà Đanh


Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương, Hà Nộị Vì để tránh húy miếu vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành Thụy Khuệ Vào thời đó, viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu hết những người này đều theo đạo Phật).
Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu vực đất này để lập trường Trung học bảo hộ (1907) - nay là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế chùa Châu Lâm phải dời về phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa Phúc Lâm.
Dấu tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh). Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có công dựng lên chùa này, vì thế mà ngôi chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số người đến lễ bái chùa này ngày một ít đị Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng của chùa này:

Dấu bố cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hóa khép cửa chùa .


Cảnh vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh dần dần đã trở thành một hình ảnh để so sánh với bất cứ một cảnh vắng vẻ nàọ "Vắng như chùa Bà Đanh" là một sự vắng vẻ yên tĩnh gợi nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con người. Ca dao Hà Nội có câu:

Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.
Phượng Các
#15 Posted : Friday, January 21, 2011 1:10:16 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Tựa bài là Cái Tình....mà tựa topic là Cái Nhìn .....Chị vhp có thấy không vậy?
viethoaiphuong
#16 Posted : Wednesday, January 26, 2011 3:17:59 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Hoa tím lục bình



Thân em như đám lục bình
Lênh đênh theo những dòng tình ngược xuôi...

Hoa tím lục bình, hoa tím bằng lăng, hoa sim tím, hoa mua mầu bông phấn, phượng tím đồi Blao,... tất cả đem lại cho ta những nguồn cảm hứng chân chất kỳ lạ. Ngày xưa, còn quần đùi áo thưa. Cơm ngày hai buổi sớm trưa đến trường. Xong trường, hay những ngày trốn học, tôi thường lặn lội đi tìm lục bình con, hay bèo tây để về ép cá lia thia đẻ. Những độ đá cá lia thia đã dẩn dắt chúng tôi vào một khung trời ngây dại, hòa mình với thiên nhiên. Hấp thụ khí âm dương, lớn dần theo miếng cơm canh cá. Mầu tím hoa lục bình tô mầu cho những cuộc tình thôn dã, bình dị. Có những lúc chèo xuồng lấy mái dầm quơ một đám hoa lục bình làm quà cho người yêu. Những cây lục bình thân phình to mà rỗng tuếch, nằm chen chúc nhau trong vòng tay đầy hoa tím ngát. Có những lúc mãi mê chờ đợi người yêu, ngồi bên ao bóp thân lục bình lép bép.

Hò ơ, Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường.
Cha mẹ em kén rể..(ơ)
Hò ơ... Cha mẹ em kén rể mà lỡ anh tầm thường, biết được hay không.
Hò ơ nói vậy mà chơi.
Chớ gió thổ hiu hiu, lục bình trôi riu ríu
Anh đừng bận bịu, bớ điệu chung tình.
Con nhạn bay cao khó bắn..(ơ)
Hò ơ... Con nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao quỳnh khó câu... ơ
Có những lúc gái quê, mê chàng chân lấm ca rằng:
Nước chảy liu riu, lục bình trôi riu ríu.
Anh ở một mình, khi đau yếu ai nuôi ?
Rồi lúc cô nàng trách:
Lục bình bông trắng.
Điên điển bông vàng.
Điên điển mọc ở đất làng.
Lục bình trôi nổi như chàng hát rong...

Cây lục bình có tên khoa học là Eichhornia crassipes(water hyacynth,jacinthe d'eau,jacinto-aquatico)thuộc họ Pontederiacea, mọc ở ao hồ,sông rạch.phân bố trong vùng nhiệt đới ở Châu Á,Châu Mỹ.Vùng Nam Mỹ có thêm giống Ẹ azureăSw.)
Lục bình hôm nay ở VN được vớt đại trà, phơi khô làm ra những sản phẩm thủ công tiêu thụ trong nước hoặc xuất cảng. Bên cạnh đó những nông dân nghèo vẫn dùng nó bầm ra để nuôi vịt, nuôi heo.. Ở những vùng xa, học trò nghèo vẫn bám vào đám lục bình trôi để qua sông đi học.
Ngồi bên bờ sông Tiền, sông Hậu... nhìn những đám lục bình trôi trên nước sông phù sa mầu vàng sắt, nghĩ tới thân phận mình... như đám lục bình, nước lớn trôi lên, nước ròng trôi xuống. Một nỗi buồn viễn xứ mênh mang...
Về chiều, không còn luyến tiếc dòng sông Seine, mê mẫn với Volga, là đà trên dòng Mississippi, tôi sẽ về bên dòng Sông Cửu... để nhìn lục bình trôi, nhìn hoa tím nhạt của lục bình đi dần vào màu tím thẩm của dĩ vãng, bên cạnh những người yêu và những người bạn chân tình.

Nguyễn Quý Định
viethoaiphuong
#17 Posted : Thursday, January 27, 2011 1:54:11 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Tại sao lại cúng Táo Quân vào ngày 23 tháng Chạp?


Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà
(ca dao)


Xưa có hai vợ chồng son, nhà nghèo sống bằng nghề làm mướn. Một năm trời làm đói kém khắp nơi, người chồng từ biệt vợ đi kiếm ăn nơi khác, hẹn sau 3 năm không về thì vợ đi lấy chồng khác.

Người vợ ở nhà may mắn được một nhà giàu cưu mang nên thoát khỏi trận đói. 3 năm qua chồng nàng vẫn không về. Vợ người chủ qua đời. Sau 3 năm đoạn tang, nàng chờ thêm 1 năm nữa mới nối duyên với ông chủ tốt bụng. Được 3 tháng thì chồng cũ trở về, tìm đến an ủi và từ biệt. Người vợ nài nỉ và người chồng mới xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết ra đi. Rồi chàng treo cổ tự vẫn. Người vợ cảm thấy vì mình mà chồng cũ chết nên trầm mình xuống ao. Người chồng mới cũng tự dằn vặt mình nên uống thuốc độc tự tử.

Chuyện tình của họ làm Diêm vương cảm động, ngài đã hóa phép cho họ thành ba ông đầu rau để ngọn lửa luôn đốt nóng tình yêu và họ được sống gần nhau mãi mãi. Đồng thời phong cho 3 người chức Táo Quân trông nom bếp núc của từng nhà trên trần thế… coi sóc cuộc sống. Và cứ 23 tháng Chạp hàng năm thì cưỡi cá chép lên thiên đình bẩm tấu với Ngọc Hoàng mọi việc tốt xấu của gia chủ. Từ đó người dân Việt Nam lấy ngày này làm Tết Táo Quân.

(Theo Truyện cổ tích Việt Nam
do tác giả Nguyễn Đổng Chi biên soạn)
viethoaiphuong
#18 Posted : Saturday, February 5, 2011 7:18:47 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
CÁI TÌNH
TRONG CA DAO VIỆT-NAM




Ca dao là tiếng nói trung thực,phản ảnh rõ nét nhất trong văn chương bình dân, được miêu tả sự việc xẩy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những câu hò, điệu hát của nhân gian như những bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục;tình yêu,tình đời với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gủi,tuyệt vời.Ca dao còn hóa giải mọi tình huống uẩn khúc,lời ca ấy làm cho con người không còn cảm thấy đau khổ nữa “L’homme souffre,mais en chantan sa souffrace,il la dépasse”.

Vì vậy; nói đến văn chương bình dân chúng ta không thể quên thi ca bình dân mà ca dao nắm một vai trò chủ lực và những thể loại quen thuộc, không ước lệ,không qui cách,tuy nhiên lời thơ của ca dao vẫn giữ đúng vần điệu có khi rất chuẩn về luật bằng trắc nhờ đó mà dể đả thông tư tưởng, trực chỉ vào lòng người một cách sâu lắng.

Ca dao là ca hát,tự nó trở thành khúc đi thẳng vào lòng và bày tỏ được nội giới dù dưới một không gian hay thời gian nào ngoài ra ca dao còn là gia-huấn-ca,một tâm lý đạo đức,dạy làm người…đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói lên cái tình người,tình đời một cách chính xác hơn.

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra


giáo dục con trẻ khi mới lớn:

Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu giao tình

hoặc một ý nghĩa thâm sâu khác:

Cá không ăn muối cá ương
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư


Những câu ca dao lục bát như thế ắt phải nằm sẳn trên môi của mọi người một cách dể dàng và thông đạt lắm!

Đó là cái nhìn nội giới trong ca dao mà mỗi khi chúng ta phóng vào hiện tượng; đó là bản thể của “cái tình” trong ca dao.Tuy mỗi câu hò điệu hát có khác nhau nhưng cái nhìn của tình yêu vẫn là một và cái gặp gỡ đó,nói chung; là cái đồng tình bất biến của con người.Sự gặp gỡ chính nơi lòng ý thức,nơi thức tỉnh của ý thức trước những hiện hữu đời và gia đình hay chính là nơi những gì mà con người kêu lên thiết tha hay để bộc lộ sự thống khổ.Hình ảnh của thi ca nói chung và của ca dao Việt Nam nói riêng là tiếng kêu thức tỉnh của con người tạo nên, dùng để ví von của người dân quê trước cuộc đời.Mà cuộc đời này; con người đã gắng bó chặt chẽ trong mọi hoàn cảnh trong mọi tình huống của đời người,từ những tình cảm của cái tình đó đã nói lên được một cái gì âu yếm và thầm kín.

Anh đi ba bửa nhớ về
Rừng sâu nước độc chớ hề ở lâu


Hình ảnh “anh đi ba bửa”rồi”chớ hề ở lâu” nó biến ca dao thành thi ca,từ những hiện tượng thực thể biến thành tha thể xuất phát từ ngoại giới đi vào nội giới giữa mối liên hệ tha nhân và chủ thể nó cặp kè,sánh vai trong hoàn cảnh đối đáp để nên vợ nên chồng,ca dao không còn hiện diện với ca với hát mà biến dạng thành hò,câu hò trực diện với thực tại như một sự hiến dâng!

Trai nào nỗi tiếng anh hào
Anh mà đối đặng má đào em xin trao ơ…ơ


Cái vũ trụ mộng mơ ấy hoàn toàn ở trong đôi mắt chiêm ngưỡng của con người khi phóng cái nhìn vào tương lai giữa sự viên mãn của tình yêu.Vũ trụ này chưa hiện thực rốt ráo nhưng đã xuất phát một ước vọng thực hữu.Hình ảnh cuộc đời không bị tha hóa mà bắt nguồn từ vũ trụ thực hữu;vì vũ trụ ấy có thực trong cuộc đời này.

Trai nước Việt nỗi tiếng anh hào
Anh đà đối đặng vậy má đào xin trao dâng ơ…ơ


Hẳn nhiên; ý thức giữa trai gái rất đặc thù trong phạm vi lứa đôi,nói trắng ra là tình yêu qua mọi lứa tuổi, đặc biệt tình yêu nông thôn, ý thức ấy bừng lên từ cuộc sống và chiếu sáng cuộc sống đó là lối tả chân mà cảnh đời không có hoặc chưa có nên chi vũ trụ dự ước của con người cũng là những cảnh đời có thực mà được phóng nhiệm lên cảnh đời có thực trong ca dao.Cho nên ca dao phát ra giữa chốn đồng quê,giữa nơi xa phố thị tự nó dâng tràn trong nhân gian,vì thế tìm đến một tác giả trong ca dao đều trở nên không cần thiết và có muốn biết chăng nữa cũng không được vì mọi người đã đi vào cảnh đời một cách tự nhiên và tự nhiên như mình là tác giả vậy! Nó vượt thoát cả không gian và thời gian kể cả hiện tại,quá khứ và tương lai,vượt thoát từ những người sáng tạo ra ca dao,ca dao bỗng nhiên độc lập để tạo cái đắm đuối,rụt rè,e lệ nhưng đầy tính lãng mạn cho dù mối tình chân lấm tay bùn.

Ngó em chẳng dám ngó lâu
Ngó qua một chút đở sầu mà thôi!


Cái ngó ấy là cái ngó thức tỉnh,một cái ngó của kẻ tình si và cũng là cái nhìn mơ mộng của người đồng quê đứng trước cuộc đời có thực.Chính đó là sự sáng tạo của ca dao.Nói đến mơ mộng hình như chúng ta đụng phải một phản ứng tâm lý.Theo tâm lý học giài thích: khi mơ mộng thì đó không phải là một trạng thái thức tỉnh.Tâm lý học quan niệm như thế nầy”En suivant la pente de la reverie”Tiếp đó là cái mơ về của ý thức thức tỉnh “đở sầu” nằm trong ý thức mơ về (rêver à/daydreaming)mà ở đây mơ không có nghĩa là buông xả theo giòng đời và chìm dần trong mộng để rồi mất luôn tính sáng tạo nghệ thuật vì ý thức thức tỉnh thường đối lập với ý thức thức tỉnh nghệ thuật và làm lu mờ ý thức mơ về cho dù trong chiêm bao chăng nữa đã cho thấy một ý thức thức tỉnh.

Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẫn quất bên mình năm canh


Thành ra mơ chiêm bao ở đây là cái nhìn sáng tỏ của cái mơ về giữa duyên,nợ và tình đã bừng lên trong ý thức về thân phận của người phụ nữ.

Mơ về hay chiêm bao không còn là mối sầu buông xuôi của tâm lý học mà trái lại mơ và chiêm để phóng thể ngôn từ”bên mình năm canh”trong giấc mơ nữa đêm trở nên ý thức chớ không phải chiêm bao vô thức.

Trong cái nhìn vũ trụ quan như thế đã cho ta thấy được ca dao là một lối sáng tạo hết sức đặc biệt mà chất liệu là cảnh đời,cô đọng trong từng câu hò điệu hát mượn từ ca dao để mơ về…

Ca dao không đòi hỏi tác giả là ai,nó đã trở thành của chung,tác giả chung giữa cuộc đời này mà trong thi ca vốn có sự bừng tĩnh đầy sáng tạo,ca dao đại diện cho những cuộc tình trọn vẹn hay tan hợp,nói lên nỗi nghẹn ngào,uất nghẹn tất cả qui về sự mơ về cõi thực để tìm thấy được chân lý của cuộc đời.Giờ đây ngôn từ sáng tạo của ca dao đã thành thơ,những thể thơ mới như ngày nay.

Cá lý ngư sầu tư biếng lội
Chim phượng hoàng nhớ cội biếng bay
Anh thương em đừng vội nắm tay
Miệng thế gian ngôn dực
Phụ mẫu hay sẽ rầy


Ca dao như thế đấy! mỗi khi đọc lên đã cho chúng ta cái cảm giác tợ như ức chế,như phụ rẫy như khoa phân tâm học quan niệm.Lối thoát bằng ức chế chỉ xẩy ra với cảnh đời,những người bị tập quán kiềm chế mới lâm vào khát vọng của bản năng cho nên mới tìm lối thoát bằng lối này hay hình thái khác để tránh né.Quan điểm đó đôi khi cũng có tính võ đoán và không hoàn toàn đúng hẳn,cho nên đừng để cái nhìn ức chế vào đây.Vì sao? Vì “anh thương em” có nghĩa là đừng vội đánh mất cái đẹp mà đây là tiếng nói mặn mà,bất luận ở đâu nơi chốn nào người phụ nữ Việt Nam đoan trang trong tiếng nói ấy tức tiếng nói của ca dao,tiếng nói soi sáng,tiếng nói của ái tình.

Em có thương anh
Em nói cho thiệt tình
Để anh lên xuống
Ơ…ơ chớ một ơ…ơ mình ơ bơ vơ


Đó là một thứ gì vô biên chân thật của tình đồng quê một bày tỏ cao nhất trong đời nhưng biết nói làm sao khi ý thức vô biên chưa có thì nói làm sao khi cái nhìn tuyệt đối chỉ ngưng trong hiện tượng của đất trời cho nên họ không ngần ngại bộc bạch một cách chân tình cho dù ngập ngừng bày tỏ “ơ.. ơ chớ một ơ.. ơ mình ơ..bơ vơ” Ca dao nông thôn nó diễn tả tích cực như thế đó!diễn tả cái mùi vị chất phát mặn mà, đượm bạc,cái ngập ngừng dể yêu ấy.

Đó là hướng đi lên của ngôn từ ca dao Việt Nam thoát ra từ tiếng nói văn chương bình dân để đạt tới hiệu năng của sự bày tỏ.Cho nên hình ảnh của ca dao;dù sao đi nữa nó vẫn có cái mới của riêng mình,mở ra một ngôn từ sáng lạn và nó cũng đánh dấu những bước thăng trầm của sức diễn đạt giữa người với người,những hình ảnh của ca dao vô hình chung trở nên tư liệu của cảnh đời:người,cảnh vật,nhân sinh và tình yêu.Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng nhờ ý thức chuyển vị đẹp đẻ đó của con người cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn “the beautiful-life”nhờ đó tình cảm con người được tỏa rạng.Cho nên khi bắt gặp một hình tượng trong ca dao,dù có mộc mạc bao nhiêu cũng mở rộng cho chúng ta một chân trời mới đầy ý nghĩa hơn nhất là tình yêu có một sắc màu luôn luôn lung linh của người con gái xuân thì dưới một cái gì lả lướt của ca dao.Ngôn ngữ ca dao rất cô đọng và tràn đầy.

Tóc em dài em cài bông hoa lý
Miệng em cười anh để ý anh thương


Ý nghĩa của ca dao là ở cái chỗ mộc mạc đơn sơ nhưng lại là một sự thức tỉnh nội tại,một sự khám phá của con người vừa hào hứng vừa can đảm mà chúng ta phải đón nhận như chính chúng ta đón nhận cuộc đời này. Đó là cái nhìn khám phá:

- Khám phá nội tâm bằng cái nhìn ngoại giới.

- Khám phá ngoại giới bằng cái nhìn nội tâm.

Chính hai cái nhìn tuy nghịch đảo nhưng bổ sung cho nhau để nhìn thấy giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao. Đó là một vũ trụ hiện thực để góp phần hạnh phúc cho đời.

Cho nên cái mộc mạc của nông thôn đã làm cho họ cảm thấy hạnh phúc,sung sướng và mỗi câu ca dao nói lên cảnh đời;dù trong mơ vẫn trung thực với đời.Vì vậy cái nhìn của họ như bao trùm từ ngoại giới đến nội giới đều đúc kết thành lời thơ,lời thơ đó chúng ta gọi là ca dao.

Nàng về nàng nhớ ta chăng
Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười


Mỗi lúc cái nhìn hay cái nhớ càng phóng ra rộng rãi, càng thấy cuộc đời đẹp và bao la diệu vợi,kể cả nụ cười nhe răng”cần cẩu” vẫn là niềm nhớ không quên,bởi vì; chán gì những cái nhớ mà lại đi nhớ hàm răng em cười,biết đâu trong cái nhớ đó có một chút gì lãng mạn của ca dao(?),tầm thường thật nhưng bao la và mênh mông vô cùng đối với ngôn từ của ca dao.

Thật ra đi vào cuộc đời, đi vào vũ trụ không dể dàng như thế mà chính là một sự khám phá không ngừng.Trong sự khám phá ấy,con người bắt gặp vừa mình vừa vũ trụ một lối khám phá tìm ra được hai hiện tượng. Đối tượng của sự tìm gặp chính là khám phá cái nội giới mà ca dao lãnh một phần trách nhiệm trong ngôn từ(kể cả đối thoại) và ý nghĩa.Nhưng trong hai tượng ấy người ta có thể phân biệt được;

- Bản ngã tự tại
- Vô ngã vũ trụ

Những cái vô ngã vũ trụ được hữu ngã hoá cho nên cái bản ngã tự tại ngay phút đầu đã trở thành cái vô ngã của bản ngã. Đó là sự cố đã khua động bản ngã của con người để sáng tạo và giúp cho con người thực hiện câu thơ để chia xẻ với tha nhân;con người đã nhìn cái đẹp một cách siêu thoát đó là cái vô ngã được hữu ngã hoá nhờ cái nhìn của bản ngã từ “một thương cho tới mười thương” là đề cao cái đẹp phong phú vừa cao đẹp vừa thẩm mỹ học và chính cái tôi bày tỏ lại đứng sau và được hữu ngã hoá vũ trụ để làm tan biến ngoại giới mà trở về với bản ngã mà không có cái tôi trong đó .




Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai thao dịu dàng
Bảy thương nét ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt đưa tình với anh


Do đấy con người của ca dao là con người của cuộc đời,của vũ trụ chớ không phải con người chỉ là con người như một ý thức bi đát về người.Lối về của vũ trụ đã chiếm cứ hiện tượng bằng bản ngã của mình,chính là lối đi về của tình thương,cái tình mà con người tìm thấy;tất cả ca dao là ở chỗ ấy và có thể nói ca dao có hai bề mặt là bản ngã và vô ngã cả hai mảng nầy dùng để xoa dịu những xót thương hay thương mong về tình cảnh khi con người mới dấn thân vào đời và vũ trụ.Bởi vì tâm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta sáng tạo những gì mà ta nhận thức được.

Từ những vị trí đó giấc mơ về vũ trụ giúp cho con người thoát được thời gian,không còn thấy sự lôi cuốn của thời gian.Từ bản thể nhìn ra đó là trạng thái của tâm thức và ca dao mở rộng trước mắt ta bằng hiện tượng của trạng thái tâm hồn.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chít chìu


Tất cả là biểu tượng để biểu dương trạng thái mơ về(Rêve a/daydreaming) đó là trạng thái thắc mắc về nhớ thương. Đấy là tâm hồn hiến dâng cho vũ trụ “chiều chiều” là thời gian thuộc khách thể,trong cái đau đớn “ruột đau”là thế giới của nội tại.Với ca dao những ngôn từ thường chứa đựng một nội dung mới của từ ngữ đều qui định một tâm thức trước cuộc đời và vũ trụ.

Mọi sự vật đều hướng tới với con người và đó là cơ hội để người nghệ sĩ đưa vào ca dao những khát vọng yêu đương một khát vọng đầy hứa hẹn,như cuộc tình hay cuộc đời mong muốn.

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn đỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ


Đó là hiện thực của sự bày tỏ về cảnh giới giữa thành thị với nông thôn và ngôn từ của cuộc sống đã lý giải cái tâm sự tha thiết và chân thật của người yêu,chân thật ở cái chỗ ẩn dụ đó.Người nghệ sĩ bình dân sắp xếp ngôn từ trong thơ để có cái nhìn sự vật và chính cái nhìn đó thoát ra một số tâm lý của con người và chính cái tầm thường đó chẳng hạn như “râu tôm”hay”ruột bầu” ở những nơi thôn dã đìu hiu được người nghệ sĩ cho sống lại cái tình chân đó như một đòi hỏi cần thiết mà nghe rất bình dị của lớp người muôn đời trong ao tù nước đọng.Ca dao bình dân nói lên được cái khát vọng đó mà nhà thơ bình dân của chúng ta hoà nhập một cách tài tình giữa vũ trụ đầy khát vọng tình người.

Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon


Đọc lên ta cảm nhận được phần nào lẽ sống,một lẽ sống nồng đượm của tình yêu khát khao đi từ chủ thể con người đến cuộc đời.Ca dao diễn đạt được cái mối giây liên lạc ấy.Mối giây đó không phải hai chiều giữa người và sự vật.Vũ trụ khát vọng của ca dao là hình ảnh cuộc đời mà con người mơ về một cái gì tầm thường nhưng ước sống.Ca dao tạo được cảnh giới mơ về cho những người thành thị và những người xa tầm vóc bình thường.Ngay cả việc mơ về của tình yêu trong cái dung dị đó nó đã hàm chứa một tương lai,một lối đi về của cuộc đời.Mơ về ở đây là cuộc đời có thực chính đấy là phần ý nghĩa hiện hữu của con người.Ca dao tạo nên những giấc mơ hiện thực như vậy đó; cho nên cuộc đời mà ca dao vốn có ý nghĩa và sống có ý nghĩa để đưa tới cảnh đời hiện thực.

Trầu vàng ăn với cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời


Cho nên văn chương bình dân thường nói lên tâm trạng khát vọng đôi khi nó pha lẫn màu sắc triết lý tiềm ẩn trong ca dao,nó có cái gì mầu nhiệm trong cuộc đời tình ái, đầy bí ẩn trong cái nhìn ẩn dụ(metaphorical) của con người đó là biện-chứng-tức-thì trong mỗi tâm trạng,một tình cảm đơn thuần.Nhưng với triết học có một sự tương quan tối thiểu giữa ta và cuộc đời như một tương quan giữa chủ thể và tha thể; đó là tương quan giữa con người với cuộc đời.Nên chi vượt qua cái nhìn đối tượng và cũng nhờ cái nhìn đó mà vượt qua được giới hạn để đi tới một giá trị trực tiếp.

Duyên,nợ,tình là khát vọng của tình cảm song hành với công việc và sự vật đó là cái nhìn mơ về của hạnh phúc,một gắng bó thực hữu giữa tình yêu vợ chồng một lối mơ về của ca dao,một khát vọng trung thành phát xuất từ cảnh đời hiện thực cho nên lối mơ về đó tạo nên một hiện hữu đồng nhất giữa người và vũ trụ.Con người trôi chảy vào đời nhờ những hình ảnh thuần đơn mà khát vọng đó đã tạo nên thơ;một nguồn thơ nhất thể.Thành thử vũ trụ khát vọng của ca dao là vũ trụ bắt nguồn từ cuộc đời thực hữu để tiến tới khát vọng.Vì thế ca dao là tiếng kêu chân thành của con người ham sống,yêu đời,yêu người.Ca dao không yêu cầu cái ủy mị đài các,mơ mộng viễn vông,ca dao đi gần với quần chúng,nhất là đồng bào miền quê và hoá giải mọi uẩn khúc,vui buồn đưa con người về với hạnh phúc.Tác giả của ca dao muốn vậy! Đó chính là cuộc đời mà người nghệ sĩ miền quê yêu cầu.

Sớm mai gánh nước mờ mờ
Đi qua ngõ giữa tình cờ gặp anh
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu nầy ăn thật là cay
Dù mặn dù lạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương
Cầm lược thì nhớ tới gương
Cầm trầu nhớ túi,nằm giường nhớ nhau.


Ca dao còn là hình ảnh, ở đây là những hiện tượng của bản thể.Do đó hình ảnh không còn là hiện tượng đơn thuần mà hiện tượng có nội dung cho nên mới được gọi là hình ảnh.Chính những chất liệu trong ca dao đã tạo nên hình ảnh,hình ảnh của vật thể,hình ảnh của vũ trụ,hình ảnh của tình yêu. Đó là những cái nhìn khai phóng của chúng ta để tìm ra cái nội dung đó;với cái nhìn của ca dao luôn luôn có sự ẩn dấu,tiềm ẩn, đẩy cái hình ảnh đó như thúc dục người nghệ sĩ ca dao phải ẩn mình, đấy là cái nhìn thuở ban đầu.Cái nhìn hai chiều song phương từ bản thể đến hiện tượng để rồi từ hiện tượng qui về bản thể tạo nên một nội dung hình thể như thế là cái nhìn trực tiếp của ca dao nói riêng và thi ca nói chung do đó những sự vật cùng từ ngữ tham dự vào cuộc đời và tạo nên hình ảnh và từ hình ảnh tạo nên ý nghĩa của mình.Cái nhìn đồng hoá mình với sự vật như vậy là cái nhìn trực tiếp đi vào bản thể không cần tìm đến bản thể mà thấy hiện tượng từ bản thể và từ đó tình yêu được bừng sáng lên và hiện hữu “Tôi đặt trái táo trên bàn,rồi tôi hoà mình vào trong trái táo. Ôi!tuyệt vời biết là bao…”(Henri Michaux) Tuy không trực tiếp bằng cái nhìn phối hợp của ca dao nhưng cũng tương đồng ý nghĩa.Tâm trạng đó người ta gọi là ý thức biểu tượng.

Qua đình ghé nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói,thương mình bấy nhiêu

Cho nên cái nhìn trong ca dao dù chỉ là cái nhìn ban đầu là truyền thừa vào biến trình diễn đạt của dân tộc,nội dung ý nghĩa vẫn còn vang vọng nhờ những hình ảnh đó.Cái ngôn từ trong ca dao Việt Nam trước sau vẫn vướng vít hình ảnh của tình yêu mà ca dao là môi giới trong lãnh vực của tình yêu.

Kết.

Ca dao là mạch thở của thơ,là nguồn sáng tạo vô tận,là ngôn từ của văn chương bình dân chứa đựng hết thảy tình người trong đó.Ca dao càng mộc mạc bao nhiêu thì càng chan chứa bấy nhiêu,ca dao không đỏm dáng,chải chuốt bóng bẩy mà thường xử dụng những ngôn từ thực tế của cuộc đời,mà chúng ta thường gắn liền với nhau:con người và cuộc đời,nó trở thành như định lệ.Nhưng nghĩ cho cùng đó chính là sức sống,chính bản thể thôi thúc,con người với hiện tượng tình yêu và từ hiện tượng nầy thoát ra hiện tượng khác bằng ý thức bản thể có ý hướng của mình.

Valery có lần nói:”Le vrai poète est celui qui inspire”Giòng thơ thực chỉ đến với người có tâm hồn bộc phát;người nghệ sĩ ca dao thực thi đúng tinh thần ấy, đó là ca dao khua động bản thể của con người,gợi lên sức sống để đi vào cuộc đời và hoà mình với hiện tượng rồi từ hiện tượng ấy hoà mình với sự vật để đột biến thành hình ảnh cho ca dao,lúc đó sự hiện diện của ca dao sáng tỏ không còn gì gọi là ẩn tàng hay ẩn dụ nó biến thành thi ảnh mang nội dung ý nghĩa biến động của bản thể con người.Do đó ca dao trở nên hiện hữu như ta đã thấy trong ca dao.

Cho nên những nhà nghệ sĩ nông thôn,không phải là nhà nghệ sĩ của văn chương bác học mà họ từ những người thợ cày,thợ gặt,trẻ chăn trâu đều có con mắt nhìn vào thực tế, họ nhìn thấu suốt giữa người và vật,ca dao nông thôn đầy cảm hứng thi vị.Nghệ sĩ ca dao bình dân thể hiện được ý thức đó nghĩa là muốn xây dựng một hình ảnh phải phóng bản thể của mình vào hiện tượng cho bản thể sống trong hiện tượng và trở thành hiện tượng của bản thể và cho sự vật là ta như ta trong sự vật.Vì đó; là khi bản thể giao tiếp với cuộc đời.

Tóm lại ca dao đã du nhập những giòng thơ của văn chương bình dân,biến hình từ câu hò điệu hát,trao đổi,hò đối đáp,cắt xén,rút gọn,dể dàng truyền khẩu từ đó được gọi là ca dao,nó thường mô tả tình người dưới muôn hình vạn trạng, từ nội giới tới ngoại giới. Đấy cũng là một phần bản thể dân tộc,một văn hoá văn minh truyền thống. Điều đặc biệt của ca dao ,ngôn từ không ước lệ,ca dao nói những gì thực hữu giữa cuộc đời,nương theo chiều sáng tạo của thi ca qua bao thế kỷ và chế ngự cả thơ Việt lẫn thơ Đường bằng những câu rất đơn sơ mà đầy ý nghĩa và đi sâu vào mọi tầng lớp trong xã hội một cách dể dàng và nhanh chóng.Một ngôn từ thiết tha,một đường giây giữa nội tâm và ngoại giới. Đó là nhân tố trong văn chương bình dân Việt Nam.Một thứ triết lý của văn chương bình dân cần phải tô điểm và nghiên cứu chiều sâu của nó ./.

VÕ CÔNG LIÊM
viethoaiphuong
#19 Posted : Tuesday, February 8, 2011 6:23:13 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Tát nước đầu đình




Nhân dịp Xuân về, Tết đến , kính mời quí vị độc giả thưởng thức bài ca dao Tát Nước Đầu Đình, một bài ca dao rất hay và vui trong kho tàng văn học dân tộc.

Phạm Thị Nhung


Tát Nước Đầu Đình là một bài ca dao tỏ tình hay nổi tiếng của dân tộc. Bài ca dao này đặc biệt rất vui, vừa tươi về ý vừa đẹp về lời.

Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng anh lại giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò
một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo
giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Qua bốn câu đầu (c.1-4) , chàng trai ngỏ lời với cô bạn về chuyện bỏ quên áo và xin lại áo.

Đây có thực là chủ đích của chàng không? Hẳn là không rồi. Chính thế, câu chuyện bỏ quên áo chàng kể dù rất tự nhiên với đầy đủ những chi tiết cụ thể như:

Thời gian: hôm qua, chứng tỏ việc mới xảy ra.

Điạ điểm: đầu đình, nơi có đầm sen, một khung cảnh êm đềm,thân quen, vừa cổ kính vừa thơ mộng nơi thôn dã.

Trường hợp: đi tát nước, một công việc lao động bình thường.

Nhưng sau đó, chi tiết bỏ quên cái áo “trên cành hoa sen” đã làm cho câu chuyện đảo lộn tất cả:Chuyện đang thực trở thành hư cấu, lời nói đang bình thường trở thành ba hoa.

Song hư cấu mà dễ thương vì bịa đặt bởi hữu tình, cố ý mượn cớ quên áo để làm quen ; và ba hoa mà thanh nhã, có duyên.

Nếu xét về lý, không ai lại vắt cái áo trên cành hoa sen, một loại cành nhỏ, rỗng, “trong thông, ngoài thẳng” rất giòn, dễ gẫy, áo tất sẽ rơi xuống đầm nước

Nhưng xét về tình thì hình ảnh chiếc áo vắt trên cành hoa sen chẳng là một cách nói cho đẹp lời, đẹp ý mỹ nhân hay sao? người thiếu nữ nào mà không ưa thích những hình ảnh thanh nhã, lời nói lịch sự bóng bẩy? Vả trong thực tế, có chàng trai nào tán gái mà không ba hoa, bay bướm? Có chàng còn đòi ngả cành hồng làm cầu, bắc qua sông đón bạn tình sang chơi nữa là:

Đôi ta cách một con sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

Thì chuyện “Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen” không phải là điều khó hiểu. Huống chi trong những lời trò chuyện tình tứ giữa trai gái, những hình ảnh hư hư thực thực như thế lại dễ làm cho tình cảm các cô man mác, tâm hồn các cô bềnh bồng trong cõi mộng mơ. Bởi thế, ta có thể tin rằng lời kể chuyện có chút ba hoa nhưng thanh tao và duyên dáng kia đã gây được thiện cảm của đối phương.

Lại nữa, từ câu 3 sang câu 4, không khí trò chuyện đã thay đổi rõ rệt :

-Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?

Từ lời hỏi han thân mật, lịch sự vừa phải, chuyển sang lời ướm hỏi, thăm dò một cách ỡm ờ, nửa đùa nửa thực; nửa như có ý trêu ghẹo hóm hỉnh, nửa lại có ý tấn công một cách âu yếm tình tứ, làm cô gái thẹn thùng luống cuống, không kịp phản ứng hay chưa biết phản ứng ra sao&

Không bỏ lỡ cơ hội, chàng trai liền dẫn câu chuyện cái áo bỏ quên đi xa hơn trong bốn câu tiếp(c.5-8)

-Áo anh sứt chỉ đường tà

Lần nầy chàng lấy cớ áo bị “sứt chỉ đường tà”, để giới thiệu hoàn cảnh gia đình của mình một cách khéo léo , tế nhị:

-Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.

Phụ nữ thường hay thắc mắc về người bạn trai đang tán tỉnh mình còn độc thân hay đã có gia đình, biết được tâm lý ấy, chàng trai liền trả lời ngay cho bạn yên lòng.

Đã qua được hai điểm khó khăn khởi đầu của cuộc tỏ tình là gợi chuyện làm quen và giới thiệu gia cảnh, chàng trai tiến thêm bước thứ ba:

-Áo anh sứt chỉ đã lâu

Chàng nói ra cái điều chàng không được ai săn sóc để gợi lòng thương cảm của cô bạn, đồng thời chàng lại có cớ đưa câu chuyện đi xa hơn nữa: “áo anh sứt chỉ đã lâu” mà chưa ai khâu cho, thôi thì :

-Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Và để tiến vào giai đoạn chót của cuộc tỏ tình, chàng trai đưa đề nghị về chuyện trả công trong 8 câu cuối(c.9-16):

-Khâu rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng anh lại giúp cho.

Anh giúp những gì nào?

-Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.

Còn hơn thế nữa kia :

-Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Những gì chàng hứa trả công, hứa giúp toàn là đố sính lễ rước dâu, như vậy ý chàng đã rõ, chàng muốn cưới nàng làm vợ, và đây chính là lời cầu hôn vậy.

Chàng trai sử dụng đại danh từ phiếm chỉ ”cô ấy” một cách mập mờ, nửa kín nửa hở trong lời đề nghị mượn khâu là rất khéo, vì nếu cô gái tỏ ý không bằng lòng, chàng còn có lối thoát: “tôi mượn cô ấy chứ có mượn em đâu”. Đồng thời cũng là cách nói gián tiếp tế nhị cho đối tượng khỏi thẹn.

Đặc biệt khi kể về những đồ sính lễ trong ngày rước dâu, giọng chàng trai bỗng trở nên rộn ràng, hào hứng : những từ ngữ “giúp em” với “một” rồi “đôi” được lập đi lập lại dồn dập, xen kẽ nhau, chẳng khác nào tiếng lòng reo vui, phấn khởi của chàng lúc đó, vì chàng tin rằng mình đã thành công, cô bạn gái đã chịu chuyện, lắng nghe và hoàn toàn im lặng. “Im lặng là bằng lòng !”, con gái xưa nay chẳng thế sao ?!

Chúng ta cũng biết, trong nhiều bài ca dao trữ tình khác, cái áo thường được nhắc đến như một phương tiện để bầy tỏ tình cảm của nhân vật, như :

-Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.

-Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em đắp, gió tây lạnh lùng.

-Yêu ai tha thiết, thiết tha
Áo em hai vạt trải ra chàng ngồi.

v.v...và v.v&

Nhưng cái áo bỏ quên trên cành hoa sen ở đây phải kể là một sáng kiến độc đáoNó không chỉ là cái cớ dẫn khởi mà còn được khai triển trong từng giai đoạn tấn công tình cảm đối phượng, cũng như thổ lộ tình yêu cuả chàng trai ở đây, để tiến dần đến chuyện cầu hôn thành công như ý muốn.

Tóm lại, câu chuyện “bỏ quên áo” trong bài ca dao Tát Nước Đầu Đình trên là hoàn toàn hư cấu :Cái áo bỏ quên kia có thật không mà hỏi xin lại Ai đã bắt được áo và đã trả lại chưa mà đòi mượn khâu ? Tà áo có sứt chỉ thật không ? Mà dẫu có thì cũng không ai trả công và giúp đỡ người khâu bằng từng ấy lễ vật, rõ là cái áo tưởng tượng ! Nhưng cũng chính nhờ vào những chi tiết tưởng tượng, hư cấu bầy đặt ấy mà chàng trai ở đây đã bộc lộ được một sự thật, rất thật, đó là tình yêu trong sáng, thơ mộng, lãng mạn và cũng rất trân trọng, đằm thắm của chàng đối với người con gái mà chàng muốn cưới làm vợ.

Bài ca dao Tát Nước Đầu Đình quả là một bài ca dao tỏ tình tuyệt vời, nó đẹp từ hình thức đến nội dung, nó sẽ mãi mãi còn gây được niềm xúc động xôn xao và thú vị trong lòng độc giả, nhất là đối với lứa tuổi thanh xuân đang bước vào ngưỡng cửa của tình yêu.

Nhân đây tôi cũng xin giới thiệu một bài ca dao khác, cùng một đề tài tỏ tình, và cũng mượn chuyện quần áo làm cái cớ để cầu thân, rồi tính dần đến chuyện hôn nhân, để chúng ta có dịp nhận xét:

Tình cờ bắt gặp nàng đây
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần
Để mà kết nghĩa tương thân
Sau này chỉ Tấn, tơ Tần se duyên.

Đọc bài ca dao sau,ta thấy sao nó trơ trụi quá, nó chỉ có xác mà không có hồn. Ngay xác nó cũng khô cứng, thiếu hẳn những gì gọi là duyên dáng, óng ả của ngôn từ, của cách diễn đạt. Về nội dung nó chỉ là một chuỗi ý xếp cạnh nhau, thiếu hẳn cái hồn, cái cảm xúc của tác giả. Điều này cho ta thấy, có ý chưa đủ mà còn cần phải có hứng cảm ; nhờ hứng cảm, ý thoát ra được thành những lời thơ mềm mại, tự nhiên, có sức hấp dẫn và phản chiếu được tâm hồn cùng tình cảm của tác giả.

pham thi nhung
viethoaiphuong
#20 Posted : Thursday, March 3, 2011 11:20:14 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Sự tích bài thơ "Trèo lên cây bưởi..."




Trèo Lên Cây Bưởi…
(Trích trong cuốn“Những điều nên biết” của Nguyễn Văn Thái)

1
“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay!

2
“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?

3
“Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!”



Chùm thơ này đã có trong dân gian từ lâu; nhiều người tưởng rằng nó là chỉ một bài ca dao thuần túy; mà đã là ca dao thì không biết ai là tác giả. Gọi nó là chùm thơ vì đây không phải là một bài mà là ba bài hợp lại, gieo theo thể liên vận, gắn với “Giai thoại Đào Duy Từ”.

Truyện kể rằng: “Năm Đinh Mão (1627), chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương (chúa Nguyễn Phúc Nguyên) và đòi Sãi Vương phải cho con vào chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hội họp triều thần hỏi mưu kế. Lộc Khê hầu Đào Duy Từ khuyên chúa Sãi bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.


Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê hầu mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử Lại Văn Khuông làm sứ giả mang ra Thăng Long (Hà Nội này nay), tạ ơn vua Lê và chúa Trịnh.

Nhờ có chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Văn Khuông ứng đối rất trôi chảy. Chúa Trịnh hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn sứ giả đi thăm kinh thành, để chờ Chúa dạy bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang của Đào Duy Từ trao cho từ trước. Đọc xong, Khuông cùng cả phái đoàn lẻn trốn về Nam. Thấy phái đoàn sứ giả đột ngột trốn về, chúa Trịnh sinh nghi, bèn cho người đập vỡ mâm lễ, lại thấy tờ sắc phong khi
trước, và 1 tờ giấy viết bốn câu thơ chữ Hán sau:


“Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.”

Cả triều đình không ai hiểu ý nghĩa bài thơ, cuối cùng Trịnh Tráng phải cho mời một nhà nho thông thái uyên bác tới giải nghĩa. Đọc xong, nhà nho giải thích rằng:


Mâu nhi vô dịch nghĩa là chữ Mâu không có dấu phẩy là chữ Dư;
Mịch phi kiến tích nghĩa là chữ Mịch bỏ bớt chữ Kiến còn lại là chữ Bất;
Ái lạc tâm trường nghĩa là chữ Ái để mất (lạc) chữ Tâm thì thành chữ Thụ; và
Lực lai tương địch nghĩa là chữ Lực đối địch (tương địch) với chữ Lai là chữ Sắc.

Vậy, gộp cả bốn chữ mới lại thành câu:
“DƯ BẤT THỤ SẮC,” nghĩa là “Ta không nhận sắc phong.”

Nghe xong, Trịnh Tráng vội thét lính đuổi bắt Lại Văn Khuông, nhưng lúc đó Khuông cùng cả phái đoàn đã cao chạy xa bay rồi.

Trịnh Tráng muốn ra quân đánh chúa Nguyễn nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc giã nổi lên, đành phải hoãn lại.

Trịnh Tráng cho người dò la biết được việc Sãi Vương không nhận sắc phong đều do một tay Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa Trịnh tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn (Đàng Trong) về với triều đình vua Lê và chúa Trịnh (Đàng Ngoài).

Chúa Trịnh lập mưu, sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng với bốn câu thơ:


1

“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay!”.




Lời thơ nói đến chuyện anh (chúa Trịnh) và em (Đào Duy Từ) thuở nhỏ, trèo cây hái hoa bưởi, bước xuống vườn cà hái nụ hoa tầm xuân. Ý thơ trong như ngọc, là lời nhắn nghĩa tình, nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài. Nếu trở về sẽ được triều đình trọng dụng còn nếu không thì ngầm ý đe dọa.

Người ta đồn rằng Đào Duy Từ đã xây mộ cho cha mẹ tại Bình Định để tránh bị Đàng Ngoài khống chế theo cách làm của Gia Cát Lượng đón mẹ của Khương Duy vào Hán Trung thuở xưa. Vì thế Đào Duy Từ không sợ hãi chúa Trịnh trả thù; và ông đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:



2

“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”



Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hy vọng, bèn cho người đem lễ vật nhiều hơn, và mang theo lá thư của chúa Trịnh vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.


Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:


3

“Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa mà chồng (*) em ghen!”

(*) Chồng, có ý nói là chúa Nguyễn.

Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời…”
(Nguồn: My Opera/Danh nhân story)


Vài điều nói thêm về Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572- 1634) sinh tại tỉnh Thanh Hóa. Ông rất thông minh nhưng ông không đươc dự thi vì cha ông làm nghề ca hát. Ông giận chúa Trịnh đối xử bất công cho nên ông bỏ vào Nam (dưới sự cai trị của chúa Nguyễn)

Đào Duy Từ vào Nam, sống bằng nghề chăn trâu thuê cho một nhà giàu ở Bình Định. Chủ nhà là người ham mê văn học, đã phát hiện ra Đào Duy Từ là người có tài, nên đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha Úy Nội Tán.

Trong chín năm, từ 1625 đến 1634, Đào Duy Từ đã giúp chúa Nguyễn xây dựng và mở mang bờ cõi về phương nam vì ông có tài cả về chính trị, kinh tế, quân sự, và văn chương thơ phú nữa.

Trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn, ông đã xây một chiến lũy để ngăn ngừa quân Trịnh. Chiến lũy này chạy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Người dân gọi chiến lũy này là Lũy Thầy (tức là lũy do Thầy Đào Duy Từ xây dựng).


***
Ngày 20 tháng 5 năm 2010
mc/nvt

Users browsing this topic
Guest
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.