Rank: Advanced Member
Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 9,291 Points: 11,028
Thanks: 758 times Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
|
Chức Năng Gan Thử Nghiệm Bất Bình Thường Nghĩa Là Gì ? (What Do Abnormal Liver Function Tests Really Mean?) Cuong Trinh, M.D., Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph, D.Ph. Một thử thách thông thường trong ngành chữa trị tổng quát là xác định ý nghĩa của mức độ chức năng gan hơi cao và phân biệt bệnh gan nặng với những trường hợp có kết quả dương giả do bệnh của một cơ quan khác hay do một bệnh gan không đáng kể như gan có nhiều mỡ. Mức độ aminotransferases Aminotransferases, aspartate aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase (ALT) là hai chỉ định hao tổn gan được xử dụng nhiều nhất và xác nhận sự hoại tử gan. Cả hai thường hiện diện trong huyết thanh ở mức độ thấp, dưới 30-40 U/L. Khi sự gia tăng của mức aminotransferases kéo dài thì cần phải tìm kiếm cho ra nguyên nhân. Sự gia tăng mức độ aminotransferase cần phải được xác nhận bằng cách thử nghiệm lại. Việc này rất quan trọng vì trong một vài nhóm (ví dụ những người hiến máu), khoảng 1/3 số bệnh nhân với mức độ AST tăng nhẹ sẽ có kết quả bình thường khi thử lại. Sau đó ta cần phải hỏi kỹ bệnh sử gia đình và khám bệnh tổng quát. Khi hỏi bệnh sử ta cần chú trọng tới những thuốc dùng, uống rượu, sử dụng những thuốc ngoài quầy hay thuốc bất hợp pháp, trường hợp bị vàng da hay đau gan, đau bụng, bệnh sử gia đình về gan hay sơ gan, những bệnh về tình dục, những bệnh như ung thư, tiểu đường, bệnh mập phì và xút cân mau chóng. Một bệnh nhân đau gan vì uống rượu có thể có bệnh sử gia đình về gan hay sơ gan, bệnh nhiễm sắc tố sắt trong máu (hemochromatosis), bệnh Wilson, hay bệnh thiếu alpha 1-antitrypsin. Nếu mức độ ALT và AST dưới 2 lần giới hạn cao nhất của bình thuờng và không có bệnh gan mạn tính nào được phát giác, ta có thể dò tìm bệnh theo chỉ dẫn của hai tường trình về thử nghiệm được thực hiện gần đây nhất. Nghiên cứu thử nghiệm thứ nhất đề nghị điều trị lâm sàng kỹ lưỡng ngay thì đỡ tốn kém với những bệnh nhân không có triệu chứng và kết quả thử nghiệm âm về bệnh do siêu vi, bệnh chuyển hóa, bệnh cơ quan miễn nhiễm nhưng kết quả aminotransferase cao môt cách kinh niên. Thử nghiệm thứ nhì theo dõi 36 bệnh nhân có mức độ aminotransferase cao (ít nhất 50% trên bình thường) của ALT, AST hay ALP (alkaline phosphatase). Những bệnh nhân có chứng cớ rõ ràng đã mắc bệnh gan đặc biệt được loại ra. Tất cả bệnh nhân được sinh thiết gan nhưng chỉ có 2 người cần phải thay đổi cách chữa trị sau khi có kết quả. Những hướng dẫn hiện tại nhấn mạnh rằng nếu mức độ ALT và AST tiếp tục cao hơn hai lần bình thường, sinh thiết gan phải được thực hiện. Dù rằng kết quả của sinh thiết chỉ đưa tới bệnh gan có mỡ, nó cũng làm cho y sĩ và bệnh nhân được yên tâm. Mức độ cao giúp việc chẩn bệnh Đối với một bệnh nhân không có triệu chứng và gia tăng ALT hay AST riêng rẽ, định bệnh tùy thuộc vào độ cao. Dù rằng chưa có sự thoả thuận về định nghĩa thế nào là cao nhẹ, trung bình hay nhiều, một định nghĩa đã được đề nghị. Gia tăng nhẹ được thấy trong bệnh gan không do rượu mà do mỡ, gồm có gan có mỡ thông thuờng và không do rượu gây nên (nonalcoholic steatohepatitis), và gan viêm do siêu vi mạn tính. Gia tăng trung bình được thấy trong gan viêm do siêu vi mạn tính, gan viêm vì rượu và một số bệnh gan khác, có sơ gan hay không. Gia tăng cao được thấy trong gan viêm nặng cấp tính, hoại tử gan vì ngộ độc, vì thuốc, trường hợp kích ngất, hay thiếu máu trong gan. Mức độ rất cao (trên 2000-3000m U/L) thường được thấy trong truờng hợp uống acetaminophen quá liều hay môt người nghiện rượu uống quá nhiều aceraminophen. Biểu hiệu của nồng độ diếu tố gan tăng cao Thử nghiệm Bình thường Tăng nhẹ Tăng trung bình Tăng nhiều AST 11-32 < 2-3 2-3 tới 20 > 20 ALT 3-30 < 2-3 2-3 tới 20 > 20 ALP 35-105 < 1.5-2 1.5-2 tới 5 > 5 GGT 2-65 < 2-3 2-3 tới 10 > 10
AST= Aspartate aminotransferase ALT= Alanine aminotransferase ALP= Alkaline phosphatase GGT= Gamma-glutamyl transferase Những nguyên nhân tăng mức độ aminotransferases Những nguyên nhân thông thường tăng diếu tố gan gồm có gan chứa mỡ (hepatic steatosis or fatty infiltration of the liver), tổn thương gan do rượu gây nên, gan viêm do siêu vi B và C, nhiễm sắc tố sắt (hemochromatosis) và gan viêm tự miễn nhiễm (autoimmune hepatitis). Những thử nghiệm máu và những nguyên nhân gây mức độ aminotransferase cao Thử nghiệm đầu tiên Kháng thể gan viêm C (hepatitis C antibody) trong huyết thanh để tìm sự hiện diện của kháng thể gan viêm C nhiễm trùng mạn tính. Kháng sinh bề mặt gan viêm loại B (HBsAg), kháng thể bề mặt (anti-HBs), và kháng thể lõi (anti-HBc) tìm gan viêm loại B kinh niên với sự hiện diện của kháng sinh bề mặt và kháng thể lõi (dương).
Lượng sắt trong huyết thanh, và khả năng liên kết sắt toàn phần cho biết có bị nhiễm chứng nhiễm sắc tố sắt trong máu (hemochromatosis) không.
Lượng ceruloplasmin trong huyết thanh: luợng ceruloplasmin giảm chứng tỏ bệnh Wilson.
Protein điện di trong huyết thanh (serum protein electrophoresis): gia tăng polyclonal immunoglobulins, antinuclear antibodies, smooth muscle antibodies chứng tỏ bệnh gan viêm tự miễn nhiễm (autoimmune hepatitis). Sự giảm băng alpha globulins chứng tỏ sự thiếu hụt alpha 1-antitrypsin.
Những thử nghiệm khác nếu thử nghiệm trên có kết quả âm Thử nghiệm phản ứng dây đảo ngược sao chép polymerase (reverse transcriptase polymerase) tìm hiện diện của RNA vi rút gan viêm loại C.
Phân loại alpha 1-antitrypsin nếu thấy có sự hiện diện của phenotip ZZ thì chứng tỏ có sự thiếu hụt alpha 1-antitrypsin.
Antiendomysial antibodies, antigliadin, và kháng thể transglutaminase trong mô chứng tỏ sự hiện diện bệnh viêm ruột loét (celiac sprue).
Creatine kinase và aldolase: gia tăng diếu tố chứng tỏ bệnh thuộc cơ vân.
Một số chuyên gia thấy có lợi khi làm tất cả thử nghiệm trong nhóm đầu, ngoại trừ truờng hợp có nguyên nhân rõ rệt như nghiện rượu.
Môt số khác thích áp dụng lối thứ tự như:
Hõi cặn kẽ bệnh nhân về sự uống rượu, hay hỏi thân nhân nếu nghi ngờ bệnh nhân không nói thật.
Tìm kiếm những yêu tố gây bệnh gan có mỡ không do rượu gây nên (nonalcoholic liver disease).
Thử nghiệm tìm kháng thể gan viêm loại C.
Thử nghiệm tìm gan viêm loại B.
Tìm kiếm bệnh nhiễm sắc tố sắt.
Tìm những nguyên do hiếm hơn như thiếu hụt alpha 1-antitrypsin, bệnh Wilson, và đôi khi bệnh viêm ruột loét miệng (celiac sprue).
Bệnh gan do rượu gây nên Bệnh này là bệnh thông thường nhất tại Hoa Kỳ. Y sĩ cần phải nghĩ tới bệnh này khi nguời bệnh uống 7-8 g rượu mỗi ngày (khoảng 5 ly). Đàn bà có thể mắc bệnh khi uống ít hơn (2 ly mỗi ngày). Định bệnh căn cứ trên một tỷ lệ AST/ALT 2:1. Ít khi thấy mức độ AST cao hơn 8 lần bình thuờng và ALT cao hơn 5 lần bình thường trong bệnh nhân nghiện rượu. Mức độ ALT có thể bình thường ngay cả đối với bệnh nhân mắc bệnh gan nặng do rượu gây nên.
Đo GGT (gamma glutamyl transferase) cũng có ích.
Mức độ GGT cao hơn 2 lần bình thuờng cho bệnh nhân có tỷ lệ AST/ALT bằng 2:1 cho ta biết là bệnh nhân nghiện rượu. Tuy nhiên vì GGT thiếu tính đặc thù nên nó không thể dùng riêng rẽ được.
Dược phẩm, thảo dược và những chất khác
Tổn thương gan do dược phẩm và các chất hóa học khác chỉ gây khoảng từ 1-2% những bệnh gan mạn tính/kinh niên thôi. Những dược phẩm thông dụng có thể gây tổn thuơng gan gồm có trụ sinh, thuốc trị kinh phong, chất áp chế hydroxymethylglutaryl-CoA reductase, NSAIDs và thuốc trị bệnh lao.
Cách dễ nhất để xác định xem một dược phẩm có gây nên sự tăng mức aminotransferase hay không là ngưng thuốc để xem hàm lượng diếu tố có trở lại bình thường hay không. Nếu thuốc trên cần thiết cho bệnh nhân và không có thuốc khác để thay thế, ta cần phải phân tích lợi hại và xét xem có cần phải tiếp tục thuốc dù rằng kết quả thử nghiệm cho biết có bất thường.
Gan viêm do siêu vi Nguy cơ mắc bệnh gan viêm do siêu vi C (HCV) cao nhất đối với bệnh nhân đã được truyền máu, chích thuốc vào tĩnh mạch, sử dụng cocaine, xâm mình, chọc lỗ thủng trên thân mình, và bừa bãi về tình dục.
Tỷ lệ bệnh gan viêm do siêu vi C ở Mỹ được ước chừng khoảng 3.9 triệu (1.8% dân số) phần lớn số đó không biết là mình mắc bệnh (theo tài liệu trong báo NEJM 1999; 341: 556-62). Trong đa số bệnh nhân mắc bệnh gan viêm do siêu vi C, mức độ ALT từ 1.5 tới 2 lần mức độ AST, nhưng nếu bệnh sơ gan (cirrhosis) phát ra trong gan viêm do siêu vi loại B hay C, tỷ lệ AST/ALT trở lại bình thường hay mức AST có thể hơi cao hơn một chút.
Thử nghiệm đầu tiên để định bệnh HCV là thử nghiệm miễn nhiễm diếu tố (enzyme immuno assay/EIA) về kháng thể đối với HCV, có một mức nhạy cảm (sensitivity) từ 92% tới 97% tùy loại xét nghiệm. Một kết quả thử nghiệm dương trong một bệnh nhân có yếu tố nguy cơ mắc bệnh đủ để định bệnh, nhưng chẩn bệnh thường được xác định bằng phản ứng đảo ngược giây chuyền reverse transcriptase polymerase để đo mức độ HCV RNA. Một thử nghiêm có kết quả dương cần phải được tiếp tục bằng sinh thiết gan để ước lượng mức độ tổn thương gan. Những bệnh nhân gan viêm loại C kinh niên và có bằng chứng bị sơ gan cần được chữa trị.
Những thử nghiệm đầu về gan viêm do siêu vi B (HBV) gồm có HBV kháng nguyên bề mặt (HBs Ag), kháng thể HBV bề mặt (HBs antibody), và kháng thể lõi B (HBc antibody).
Một kết quả dương (+) cho kháng thể bề mặt HBV (anti HBs antibody) và kháng thể lõi (anti HBc antibody) chứng tỏ cơ thể đã được miễn nhiễm và cần phải tìm kiếm lý do khác đã gây gia tăng diếu tố.
Môt kết quả dương (+) cho kháng nguyên bề mặt HBV (HBs Ag) và kháng thể lõi (HBc antibody) chứng tỏ sự hiện diện cuả bệnh gan viêm loại B.
Những thử nghiệm để xác định xem siêu vi có sao chép (replication) hay không, gồm có sự hiện diện trong huyết thanh của kháng nguyên e (HBe Ag), kháng thể e (Hbe antibody) và lượng HBV DNA cần được thực hiện. Đối với những bệnh nhân mà mức độ HBV DNA cao hơn 10 copies/ml và có ALT cao, thiết sinh gan và chữa trị bằng thuốc kháng siêu vi (antiviral) cần được bắt đầu.
Gan viêm vì tự miễn nhiễm (Autoimmune hepatitis) Bệnh thường xảy ra cho đàn bà tuổi trẻ tới trung niên với tỷ lệ đàn bà đàn ông là từ 4 so với 1. Điện di protein trong huyết thanh (serum protein electrophoresis) là một cách thử nghiệm tốt. Trên 80% bênh nhân mắc bệnh này có tăng gammaglobulin trong huyết thanh, một mức độ polyclonal gammaglobulin cao hơn hai lần bình thường giúp định bệnh. Mặc dù những thử nghiêm kháng thể kháng nhân (antinuclear antibodies), kháng thể kháng cơ trơn (antibodies against smooth muscle) và kháng thể hạt nhỏ gan-thận (microsomal antibodies kidney-liver) thường được sử dụng, chúng có thể không hiện diện trong bệnh gan viêm tự miễn nhiễm. Sinh thiết gan cần được thực hiện.
Bệnh gan chứa nhiều mỡ không do rượu gây nên (Nonalcoholic steatohepatosis - NASH) Tỷ lệ bệnh gan chứa nhiều mỡ không do rượu gây nên được ước chừng cao tới 20% trong dân chúng tại Hoa Kỳ. Đối với NASH tỷ lệ bệnh được ước lượng khoảng 3%. Trái lại với bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu gây nên, bệnh nhân bị NASH (nếu không bị sơ gan) thuờng có tỷ lệ AST/ALT dưới 1:1.
Người ta thường cho rằng bệnh này hay xảy ra cho đàn bà trung niên, bị mập phì hay mắc bệnh tiểu đường, nhưng kinh nghiêm gần đây cho thấy đàn ông cũng có thể mắc bệnh và mập phì hay bệnh tiểu đường có thể không hiện diện. Ngoài ra duợc phẩm như prednisone, methotrexate, thuốc estrogens, amiodarone, tamoxifen, nifedipine và diltiazem cũng có thể gây nên bệnh. Nó còn có thể là kết quả của sự tiếp xúc với các chất làm tan hữu cơ, tiếp chất dinh dưỡng vào tĩnh mạch lâu ngày và một số bệnh về gien trầm trọng.
Đối với một vài bệnh nhân bị NASH, bệnh có thể tiến triển tới sơ gan, vì vậy sự tích cực để định bệnh còn trong vòng bàn cãi. Siêu âm gan hay đo CT scan có thể giúp xác định bệnh nhưng hiện nay chưa có cách chữa trị. Sinh tố E, ursidiol và thuốc để trị tiểu đường loại 2 như pioglitazone, rosiglitazone và metformin đang được thử nghiệm để trị bệnh. Cách chữa trị căn bản là xuống cân, trị bệnh tiểu đường và trị chứng lipid cao trong máu.
Những nguyên nhân tăng aminotransferase hiếm hơn Nhiễm sắc tố sắt trong máu
Bệnh này xảy ra cho 1 trên 300 người trong dân chúng (theo bài viết trong báo Ann Intern Med, 1998; 129: 925-31), thuờng được xác định bởi một mức độ ferritin cao, một mức độï bảo hòa sắt cao trong huyết thanh (high serum iron saturation) và sự hiện diện của hai copies của gen HFE. Đa số bệnh nhân có triệu chứng tuổi từ 40 tới 50, mắc chứng ngủ lịm (lethargy), đau nhức khớp và giảm ham muốn tình dục nhưng phần đông bệnh đều không có triệu chứng gì cả.
Vì biến chứng có thể nặng nếu bệnh không được chữa trị sớm, ta cần luôn luôn nghĩ tới bệnh này khi mức độ diếu tố gan chỉ hơi cao.
Bệnh Wilson Môt sự hỗn loạn bài tiết chất đồng của mật, bệnh Wilson có thể làm tăng aminotransferase cho bệnh nhân không có triệu chứng gì khác của bệnh. Bệnh bộc phát giữa 5 và 25 tuổi nhưng sự định bệnh có thể tới tuổi 40. Nó xảy ra cho 1 trong 30,000 người, bệnh này có thể xác định khi phát hiện vòng Kayser Fleischer, mức độ ceruloplasmin thấp trong huyết thanh, sự bài tiết đồng nhiều trong nước tiểu và mức độ đồng trong gan cao.
Bệnh thiếu hụt alpha 1-antitrypsin Bệnh do gien thuờng thấy ở người da trắng, nó là một bệnh biến thể không hiếm trong gan. Một mức độ alpha 1-antitrypsin thấp, tới 20% của bình thuờng, hoặc giảm alpha 1-globulin trên điện di, hay cả hai giúp định bệnh. Để xác định ta cần thử biểu hình protease áp chế (protease inhibitor phenotype) vì mức độ alpha 1-antitrypsin có thể tăng trong trường hợp viêm.
Bệnh celiac sprue ẩn Bệnh này đuợc định bệnh bằng cách đo kháng thể endomysial, antigliadin, và transglutaminase trong mô. Những kết quả cần được xét nếu bệnh nhân bị xút cân, đau bụng, đầy hơi và có mỡ trong phân. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây, bệnh celiac sprue ẩn là nguyên nhân của sự tăng mạn tính aminotransferase cho 13 trong số 140 nguời bệnh không có triệu chứng được giới thiệu tới một chẩn y viện chuyên trị bệnh gan. (Hematology 1999; 29: 654-57).
Nguyên nhân gia tăng ALP
Gia tăng mức độ Alkaline Phosphatase (ALP) được nhận thấy trong bệnh nghẹt ống mật, bệnh thâm nhập gan như ung thư gan, bệnh gan do dược phẩm gây nên và bệnh sơ gan mật nguyên thủy (primary biliary cirrhosis). ALP có thể gia tăng ít trong ba tháng chót của thai nghén và sự mọc xương sinh lý và nó không hiếm đối với những người trên 50 tuổi khỏe mạnh. Đo mức độ 5- nucleotidase và GGT thường tăng cùng với ALP nếu nguyên nhân là do gan cũng giúp tìm nguồn gốc của sự tăng ALP.
Nguyên nhân tăng GGT Gia tăng GGT chứng tỏ nguyên nhân do nghẹt ống mật hay do tổn thương tế bào gan. Nếu cả hai GGT và ALP đều tăng, nhất là ALP thì nguyên nhân vì ống mật gan coi như chắc chắn. GGT tăng mà ALP không tăng thường do gan viêm vì rượu. Khi cả hai ALP và GGT tăng đều từ gan ra đánh dấu sự di căn ung thư tới gan, có thể xác định bằng chụp quang tuyến gan.
Nguyên nhân tăng bilirubin Một sự tăng conjugated bilirubin có thể do siêu vi, hóa chất, rượu hay nghẹt ống dẫn mật hay sơ gan. Hội chứng Gilbert là nguyên nhân tăng unconjugated bilirubin trong khi các thử nghiệm gan khác bình thường thường được thấy trong 5% dân số. Sự tan huyết (hemolysis) có thể phân biệt được với hội chứng Gilbert bằng cách đếm huyết cầu tổng quát (CBC), đếm reticulocyte và phết máu ngọai biên. Trong bệnh tan huyết (hemolysis), số reticulocyte sẽ cao và phết máu ngoại biên sẽ bất thường trong khi trong hội chứng Gilbert chúng sẽ bình thường.
Khi nào chụp hình gan và khi nào làm sinh thiết gan Chụp hình gan khi bệnh nhân khi AST và ALT tiếp tục cao trong khi các thử nghiệm khác bình thường.
Chụp hình gan rất có ích nếu ALP hay GGT cao. Ta có thể thấy nghẹt ống dẫn mật trong gan (bướu) hay ngoài gan (bướu hay sạn cấn lên ống dẫn mật).
Sinh thiết gan dành cho bệnh nhân có mức độ AST hay ALT cao 2 lần hơn bình thường trong khi các thử nghiệm và chụp hình đều bình thường.
14 June 2004 Tham khảo 1. Das A, Post AB. Should liver biopsy be done in asymptomatic patients with chronically elevated transaminase? A cost-utility analysis. Gastroenterology. 1998; 114:A9
2. Sorbi D, Magill DB, Thistle JL, et al. An assessment of the role of liver biopsies in asymptomatic patients with chronic liver test abnormalities. Hepatologỵ 1999; 30:477A
oOo
THUỐC TÂY CÓ NGUY CƠ GÂY ĐỘC CHO GAN CỦA BẠN Có nhiều mức độ tổn thương gan do tác dụng phụ của thuốc . Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng có nhiều tổn thương gan do thuốc điều trị gây ra . Vị trí gan trong cơ thể I. Giới thiệu:
Có nhiều mức độ tổn thương gan do tác dụng phụ của thuốc . Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng có nhiều tổn thương gan do thuốc điều trị gây ra . Những thuốc thường gây tổn thương gan : thuốc điều trị lao , thuốc trị tiểu đường , thuốc điều trị nấm , ……..Có những mối liên quan không chỉ do tương tác thuốc với thuốc mà còn do thuốc với tình trạng bệnh của bệnh nhân . Những bệnh nhân có bệnh gan mãn tính sẵn dễ bị ngộ độc thuốc hơn bệnh nhân gan bình thường . Có bằng chứng cho thấy rằng có sự tương tác giữa thuốc và bệnh ở bệnh nhân đồng nhiễm HBV và HIV hay HCV và HIV.
II. Phạm vi ngộ độc gan do thuốc gây ra:
Tổn thương gan do thuốc gây ra từ sự thay đổi sinh hóa tối thiểu , không đặc hiệu đến viêm gan cấp , viêm gan mãn , suy gan cấp , bệnh đường mật kéo dài , ngay cả xơ gan và ung thư gan. Hơn nữa thuốc có thể gây ra gan thấm mỡ , u hạt gan , trong một số trường hợp xảy ra bệnh phospholipid , hay hội chứng Budd-Chiari.
*Những thuốc gây ngộ độc gan: Thuốc
Điều trị
Gây bệnh gan Acetaminophen Giảm đau,hạ sốt Viêm gan Anabolic steroids Giúp tăng trưởng cơ U gan Chlorpromozine (Thorazine) Bệnh tâm thần Giả -xơ gan mật nguyên phát Cimetidine(Tagamet) Bệnh viêm lóet dạ dày Viêm gan cấp và bệnh đường mật Ciprofloxin Kháng sinh Viêm gan mật Clindamycin(Cleocin) Kháng sinh Viêm gan cấp Cocaine Tâm thần Viêm gan cấp Corticosteroids(Prednisone) Kháng viêm Gan thấm mỡ Coumadin Bệnh máu Viêm gan cấp và bệnh đường mật Cyclosporine A Ức chế miễn dịch Bệnh đường mật Diazepam (Valium) Thuốc ngủ Viêm gan cấp và bệnh đường mật Erythromycin estolate Kháng sinh Bệnh đường mật Estrogens và androgens Kích thích tố sinh dục U gan Halothan Gây mê Viêm gan cấp và mãn Ibuprofen Giảm đau Viêm gan cấp INH Bệnh lao Viêm gan Methotrexate Viêm khớp Xơ gan Methyldopa(Aldomet) Cao huyết áp Viêm gan tự miễn Metronidazole (Flagyl) Kháng sinh Viêm gan cấp Naproxen(Anaprox) Giảm đau Viêm gan cấp và bệnh đường mật Omeprzole Lóet dạ dày Viêm gan Thuốc ngừa thai uống Ngừa thai U gan Phenytoin Chống co thắt Viêm gan cấp Rosiglitazone(Avandia) Tiểu đường Suy gan Salicylates(Aspirin) Giảm đau Viêm gan cấp ,mãn Tamoxifen Ung thư vú Viêm gan cấp Tetracycline Kháng sinh Gan thấm mỡ
1.Thông số tiên đóan tổn thương gan do ngộ độc thuốc
Có vài cách tiên đóan bệnh gan mãn và cấp tính trở nên có biểu hiện lâm sàng . Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh gan do thuốc thường không đặc hiệu . Tổn thương gan do thuốc có thể chỉ biểu hiện bằng một hoặc nhiều hơn sự bất thường của chỉ số sinh hóa . Phần lớn tăng men gan do thuốc không triệu chứng và không tiến triển . Có ít bệnh nhân suy gan đột ngột đưa đến tử vong hay phải ghép gan . Phần lớn bệnh nhân có triệu chứng giống viêm gan cấp , viêm gan mãn hay bệnh đường mật . Sự phát triển của vàng da thấy được trên lâm sàng (bilirubin >3mg/dl) kèm theo sự tăng men gan cho tiên đóan tổn thương gan trầm trọng .
2.Phân lọai ngộ độc gan do thuốc:
Tổn thương gan do thuốc có thể phân lọai: tổn thương tế bào gan, tổn thương đường mật , hoặc tổn thương phối hợp cả hai. Có nhiều lọai thuốc không chỉ gây tổn thương đơn độc mà gây tổn thương phối hợp. Những thuốc gây tổn thương gan có đặc điểm cho biết thời gian khởi phát bệnh , tần số , tiến triển bệnh , lọai ngộ độc gan . Tổn thương gan do thuốc thường có đặc điểm giống bệnh lý tự miễn.
III. Chẩn đóan tổn thương gan do thuốc:
Chẩn đóan tổn thương gan do một lọai thuốc nào đó gây ra thường dựa trên hòan cảnh bệnh và sự nghi ngờ của thầy thuốc nhận thấy rằng thời điểm khởi phát tổn thương gan liên quan đến lọai thuốc đang sử dụng mà thuốc này có khả năng gây độc cho gan như đã nói ở trên. Giải quyết biểu hiện của tổn thương gan thường là ngưng dùng thuốc gây độc gan. Đánh giá mô học của gan để biết mức độ tổn thương gan và tổn thương lọai gì , không phải để biết tổn thương do thuốc gì.
Chẩn đóan thường dựa vào:
_Đặc điểm khởi phát bệnh
_Vàng da bất ngờ
_Sinh thiết gan để biết mức độ tổn thương gan
_Men ALT tăng hơn gấp 3 lần bình thường
_Tuổi , phái tính , thuốc dùng , yếu tố p 450
IV. Yếu tố ảnh hưởng tính nhạy cảm đối với bệnh gan do thuốc:
_Tuổi _Phái tính
_Liều lượng và thời gian dùng thuốc
_Chế độ dinh dưỡng
_Sự sử dụng cùng lúc nhiều thuốc
_Uống rượu
_Dạng trình bày của thuốc
_yếu tố di truyền
Có một số thuốc tăng nguy cơ gây độc tính đặc biệt đối với người hơn 50 tuổi. Một số tác nhân : valproic acid , Erythromycin thường gây độc cho gan ở trẻ em, valproic acid thường gây độc ở trẻ em có rối lọan về di truyền ti lạp thẻ. Phenytoin hiếm khi gây độc đặc biệt cho gan trừ khi dùng hơn 6 tuần. Đa số thuốc, nữ thường có ảnh hưởng độc cho gan nhiều hơn là nam.
V. Những thuốc đặc biệt mà bác sĩ chuyên khoa gan nên chú ý đặc biệt:
1.Acetaminophen :
Thuốc gây độc cho gan tùy theo liều sử dụng. Khi điều trị cần chú ý xem xét liều lượng gây độc cho gan. Với liều nhỏ hơn 2-3 g/ngày acetaminophen thấy an tòan và bệnh nhân chịu đựng được . Khi dùng đường uống với liều lớn hơn 10-15 g sẽ đưa đến tổn thương gan nặng thường sẽ tử vong , liều này dùng khi có ý định tự sát. Tổn thương gan do acetaminophen là dạng phổ biến của bệnh gan do thuốc , đặc biệt hơn là dạng duy gan cấp , thường thấy ở bệnh nhân ở Mỹ. Nồng độ men gan transaminase ở bệnh nhân ngộ độc acetaminophen thường lớn hơn 5.000 UI/l.
Ở người nghiện rượu , liều aetaminophen thông thường điều trị vẫn có thể gây độc cho gan , vì vậy phải cẩn thận khi dùng acetaminophen cho người nghiện rượu , không dùng nước uống có cồn để uống acetaminophen.
2.Isoniazide(INH)
Từ giữa thế kỷ 20 , INH là thuốc điều trị chính cho bệnh lao . Sự tăng men gan thấy xuất hiện vài tuần sau khi bắt đầu điều trị lao khỏang 10-20% bệnh nhân dùng INH. Sự tăng men gan này thường ở mức vừa phải và không liên quan dấu hiệu hay triệu chứng bệnh gan.Ở nhiều bệnh nhân tăng men gan tiếp tục dùng INH vẫn chịu đựng được và có thể sau đó men gan lại trở về gần bình thường . Nếu có tăng men gan , ngưng dùng INH thì men gan trở về bình thường trong vòng 1---4 tuần . Tuy nhiên vẫn có ít bệnh nhân khi dùng INH có thể suy gan cấp ( có thể xảy ra khỏang 0,1 %---2% bệnh nhân).
Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi có nhiều nguy cơ bị viêm gan khi dùng INH , bệnh nhân trẻ em ít khi có tổn thương gan xảy ra. Bệnh nhân nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn nam. Khi điều trị nên theo dõi kỹ , để phát hiện viêm gan do INH để ngưng điều trị kịp thời tránh ảnh hưởng nặng cho gan . Đặc điểm tổn thương gan do INH gây ra:
_ Men ALT tăng nhẹ:
.Xảy ra khỏang 10-20% bệnh nhân
.Xảy ra khỏang 2 tháng điều trị
.Phần lớn có thể khỏi được mà không cần ngưng INH
_ Tổn thương gan trầm trọng với vàng da:
.Xảy ra khỏang 1% bệnh nhân
.Xảy ra khỏang 2% ở bệnh nhân trên 50 tuổi
.Xảy ra ở nữ nhiều hơn nam
_Suy gan tối cấp:
.Xảy ra 10% bệnh nhân đang vàng da
.Tiếp tục điều trị khi gan đang viêm nặng
.Có thể phục hối nếu bệnh nhân không tử vong
Nguy cơ ngộ độc INH càng tăng ở bệnh nhân nghiện rượu.
3.Hợp chất thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ và vitamin A:
Nhiều sản phẩm thuốc từ cây cỏ có thể gây độc cho gan vì sự chế biến thường không theo một tiêu chuẩn nài cả. Còn nhiều khó khăn để xác định tổn thương gan do thảo dược. Thông thường phải có sự khai báo của bệnh nhân về thảo dược đã sử dụng.
a.Kava-Kava
Kava là cây cùng dòng họ với cây tiêu . Từ nhiều thế kỷ qua thường được dùng làm nước uống để điều trị lo lắng , mất ngủ và những triệu chứng tiền mãn kinh ở dân vùng đảo Nam Thái bình Dương. Những năm gần đây Kava được dùng ở châu Âu và Mỹ. Nhiều trường hợp suy gan cấp và đưa đến tử vong do Kava đã xảy ra. Nhiều sản phẩm chiết xuất từ kava bày bán trên thị trường gây tổn thương gan. Độc cho gan có thể do phương pháp chiết xuất kava từ rễ của cây.Theo cổ điển , chiết xuất được làm bằng cách ngâm rễ cây vào nước và hòa tan với sữa dừa. Ngày nay người ta dùng ethanol hay acetone để pha chế nên gây độc cho gan.
Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh gan thường xuất hiện trong vòng vài tuần đến 4 tháng sau khi bắt đầu dùng kava. Ở nhiều bệnh nhân chỉ có duy nhất dấu hiệu tăng men gan . Tuy nhiên ở vài bệnh nhân suy gan cấp , tử vong có thể xảy ra.
b.Vitamin A (Retinol)
Uống vitamin A quá nhiều là nguyên nhân gây ngộ độc gan phụ thuộc vào liều lượng có thể đưa đến xơ gan với báng bụng và tăng áp lực tỉnh mạch cửa. Uống thường xuyên liều lớn vitamin A (>25.000 đơn vị /ngày) có thể gây ngộ độc mãn tính và tổn thương gan. Tổn thương gan có thể xảy ra khi uống 15.000---40.000 đơn vị /ngày trong một năm , nhưng liều cao hơn có thể ngộ độc trong vòng vài tháng. Tổn thương gan nhiều hay ít tùy thuộc liều lượng và thời gian sử dụng. Nhiều bệnh nhân có bệnh gan do vitamin A gây ra có khi không nhận thấy , chỉ khi bác sĩ lâm sàng thấy có hiện tượng bệnh nhân dùng vitamin A kéo dài kèm viêm gan mỡ, tăng áp lực tỉnh mạch cửa. Người nghiện rượu nguy cơ càng cao. Hình ảnh lâm sàng của bệnh là khởi phát của xơ gan với báng bụng , tăng áp lực tĩnh mạch cửa ,dãn tỉnh mạch thực quản. Tăng men gan 70% bệnh nhân, tăng nhẹ phosphatase kiềm , thỉnh thỏang có tăng nhẹ bilirubin. Ở bệnh nhân không ngộ độc vitamin A thường có giảm albumin và giảm prothrombin .
VI.Tổn thương gan do dùng thuốc điều trị bệnh nhân nhiễm HIV và siêu vi B hoặc siêu vi C.
Rất khó biết trước được và rất khó đối phó với những độc tính do thuốc gây độc cho gan ở bệnh nhân HIV trải qua quá trình điều trị bệnh. Những bệnh nhân này thường liên quan bệnh gan do rượu , gan thấm mỡ , viêm gan mãn tính B , C và bệnh gan do độc tính thuốc điều trị. Có ba lọai thuốc điều trị HIV: Pis, NRTIs, NNRTIs đều gây độc gan. Tình huống càng khó khăn phức tạp khi phải điều trị kèm viêm gan B , C. Tuy nhiên việc điều trị cần thiết để tránh cho bệnh nhân không tử vong do xơ gan.
Bệnh nhân nhiễm HIV có nhiễm HCV dễ ngộ độc gan do thuốc , bệnh nhân nhiễm HCV có nhiễm HIV càng thúc đẩy HCV phát triển và dễ xơ gan , bệnh nhân dễ bị xơ gan hơn nhiễm HCV một mình. Những bệnh nhân này rất dễ ngộ độc thuốc chẳng hạn acetaminophen… và khi dùng rượu rất dễ ngộ độc và dễ đưa đến xơ gan và tử vong.
oOo
Hãy Tìm Hiểu Về Ung Thư Gan
Gan ta Ung thư là một nhóm bệnh hoặc căn bệnh được di truyền và khiến tế bào trong người thay đổi và tăng số một cách không thể kiềm chế được. Nhiều loại tế bào ung thư trở thành một đống gọi là bướu. Tế bào ung thư độc có thể xâm lấn vào những mạch máu và bạch huyết, và lan tràn qua những bộ phận khác của cơ thể và từ đó tiếp tục mọc lớn và cản trở những cơ năng bình thường của bộ phận đó. Gan (St) Ung thư gan gồm có hai loại, một loại bắt nguồn từ gan (gọi là ung thư gan hạng nhất) và một loại bắt nguồn từ những bộ phận khác trong người và tràn đến gan (được gọi là ung thư gan di căn hoặc ung thư gan hạng nhì). Ung thư gan hạng nhất bắt đầu trong gan, bộ phận lớn nhất trong thân thể mình. Những chức vụ của bộ phận gan gồm có: Tích trữ vi-ta-min và chất dinh dưỡng Trao đổi chất dinh dưởng trong cơ thể Kiểm soát mức đường trong máu Phát xuất yếu tố đông máu Khử hoạt tính của thuốc độc và những hoá chất khác Ung Thư Biểu Bì Tế Bào Gan (Hepatocellular carcinoma, HCC) HCC, vẫn được gọi là hepatoma, là loại bướu độc thông thường nhất của ung thư gan hạng nhất. Tuy rằng HCC hiếm có đối với đa số người dân Hoa Kỳ và Âu Châu, nó chính là một trong 3 nguyên nhân lớn nhất khiến người chết vì ung thư trong nhiều quốc gia Á Châu và Phi Châu. Tài liệu từ Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization) cho biết rằng ít nhất là 550,000 người chết hàng năm vì HCC, 75% (khoảng 400,000) của số đó là dân của những quốc gia trong vùng Đông Nam Á Châu và dọc theo bờ Thái Bình Dương. Cở chừng 80% của những trường hợp ung thư gan là vì gan của bệnh nhân bị nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan B (HBV) kinh niên từ lúc còn bé (đây chính là trường hợp của nhiều người gốc Á Châu có viêm gan B), phần còn lại là bởi vì nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan C. Trung Tâm Kiềm Chế và Đề Phòng Bệnh (Centers for Disease Control and Prevention) cho biết rằng sự bất đồng sức khỏe lớn nhất giữa người Mỹ gốc Á Châu và người Mỹ trắng là ung thư gan. Chích ngừa để phòng chống viêm gan B có thể ngăn cản ung thư gan trong 80% người gốc Á Châu ở Hoa Kỳ và khắp thế giới. Triệu Chứng Ung thư gan được gọi là sát thủ âm thầm vì đa số bệnh nhân vẫn cảm thấy khỏe mạnh và không có dấu hiệu hoặc triệu chứng. Những đống bướu nhỏ không có thể tìm được qua cách mò vì vị trí của gan nằm dưới xương sườn và vì thế bị che khuất. Sự đau nhức thường không có thể cảm giác được cho đến lúc đống bướu đã mọc lớn, và một số bướu không gây đau nhức hoặc những triệu chứng khác cho dù nó đã to lớn. Thêm một nguyên do rắc rối nữa là mức mọc của một số loại ung thư gan. Những giai đoạn chót của ung thư gan, lúc nó đã to lớn hoặc lúc nó gây trở ngại cho những cơ năng của gan, có thể sanh ra những triệu chứng rõ ràng như đau nhức trong vùng trên phải của bụng, giảm cân, ăn không ngon miệng, và cuối cùng là mắt và da bị vàng thêm (bệnh hoàng đản) và bụng bị phồng lên. Sự chẩn đoán lúc đã quá muộn có thể giải thích tại sao bệnh nhân chỉ có thể tiếp tục sống trung bình 3-6 tháng sau khi bệnh đã được phát hiện, và tại sao y giới thường hoài nghi lúc đề cập đến ung thư gan. Cách duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị chính là chẩn đoán ung thư lúc còn sớm bằng cách truy tìm ung thư trong những người gốc Á Châu đang có viêm gan B và trong những người đang bị xơ gan vì nhiễm viêm gan B hoặc C. Truy Tìm Ung Thư Gan Một điều quan trọng mọi người phải thừa nhận là tất cả những người gốc Á Châu có viêm gan B vì bị nhiễm lúc còn trẻ có nguy cơ cao đễ phát triển bệnh ung thư gan cho dù họ có xơ gan hay không. Nguy cơ này cao hơn trong những người đàn ông và những người nào có ung thư gan di truyền trong gia đình. Mọi người đồng ý rằng vấn đề truy tìm ung thư gan thường xuyên rất là quan trọng cho những người gốc Á Châu có viêm gan B, nhưng công việc này đối với những người Mỹ trắng đã bị nhiễm lúc đã lớn tuổi hiện vẫn đang gặp nhiều tranh luận. Tuy rằng những bệnh nhân gốc Á Châu có thể phát bệnh ung thư gan vào lúc đang còn tuổi thanh niên, tài liệu từ Hoa Kỳ cho biết rằng sự nguy cơ phát triển ung thư gan bắt đầu lên cao vào khoảng 30 tuổi. Một cách hợp lý để đối phó tình trạng này là bắt đầu thường xuyên truy tìm ung thư gan bắt đầu vào lúc 30-40 tuổi nếu bệnh nhân là người gốc Á Châu. Việc truy tìm đại khái gồm có một cuộc thử máu để xem xét mức alpha-fetoprotein (AFP) cách mỗi 6 tháng và siêu âm gan mỗi năm một lần (Tại Đài Loan, bệnh nhân nên được siêu âm mỗi năm hai lần). Chỉ một trong hai cách thử nghiệm riêng có thể khiến chẩn đoán sai lầm. Mức alpha-fetoprotein chỉ lên cao trong 60-70% trường hợp ung thư gan, vì thế chỉ thử máu riêng thôi sẽ bỏ sót 30-40% trường hợp ung thư gan. Siêu âm có thể bỏ sót 20% của những trường hợp ung thư gan chưa tới 2 cm, nhất là khi việc phân tích hình siêu âm khó khăn vì gan bị xơ hại. Sau khi phát bệnh xơ gan, bệnh nhân nên được truy tìm thường xuyên. Ước Định Tình Trạng Ung Thư Gan Siêu âm cho gan hoặc xem xét bằng CT thường có thể được áp dụng để chẩn đoán HCC, nhưng hai cách này thường không có đủ độ nhạy bén để có thể nhận ra những vết thương tổn nhỏ có nhiều tiêu điểm hoặc để áp dụng trong kế hoạch điều trị. Chủ yếu là sự ước định kỹ lưỡng ở vùng bụng qua cách xem xét bằng máy CT xoắn ốc với hai phương diện. Máy CT xoắn ốc nhanh lẹn này có năng lực để dò xét gan dưới phương diện động mạch không lâu sau khi bệnh nhân được nhận thức phẩm trong tĩnh mạch để làm chất tương phản. Các cục bướu thường hay thâu nhận chất tương phản và vì thế ngay cả các cục bướu chứa đựng nhiều mạch máu vẫn có thể nhận thấy được. Những cục bướu loại này thường bị bỏ sót nếu dung kỷ thuật CT thông thường và máy dò xét chậm chạp. Một vết thương tổn chứa đựng nhiều mạch máu được thấy rõ ràng dưới phương diện động mạch mà...
|