Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Những người chị trong thơ Nguyễn Bính - Võ Phiến
Phượng Các
#1 Posted : Saturday, December 18, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)

Những người chị trong thơ Nguyễn Bính

Võ Phiến


Bài này viết vào khoảng năm 1974, đã trao cho ông Trần Phong Giao để đăng vào một tạp chí văn nghệ ở Sài Gòn do ông phụ trách. Bài chưa kịp đăng, xảy ra biến cố 30-4-1975. Đầu năm 1991, một người bạn cho biết bài ấy vừa xuất hiện trên tạp chí Bách Khoa Văn Học số 2, ở Sài Gòn, dưới bút hiệu Mai Thế Liên. Nếu không có sự lưu tâm của bạn, chút tài liệu nhỏ mọn có thể đã thất thoát; tác giả xin trân trọng cảm tạ. (V.P.)




Có một lần Nguyễn Bính tự phê:

Yêu, yêu, yêu mãi thế này!

Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu.

Và ông đề nghị:

Ai yêu như tôi yêu nàng

Họp nhau lại họp thành làng cho xinh.

Thương nhau dựng một ngôi đình,

Thờ riêng một vị thần linh là Nàng.

("Làng yêu đương")

Nguyễn Bính tự phê sáng suốt và đề nghị một sáng kiến thật ngộ nghĩnh.

Mặc dầu yêu gái không phải là chuyện đặc biệt cho lắm, kẻ đồng tâm với Nguyễn Bính tập hợp lại e không chỉ thành một làng mà thành cả một nước (có còn xinh chăng); nhưng cái yêu ở đây vẫn có chỗ khác thường, là yêu mãi, sa lầy... Tuy vậy, cái khác thường nhất của Nguyễn Bính, mà ông không chịu nói đến, đó là các bà chị. Vâng, khác thường không phải là Nàng — vị thần linh — mà là những bà chị của thần linh.

*

Tôi không thu thập được nhiều thơ Nguyễn Bính, nhưng cũng có trong tay hàng chục bài thơ về các chị. Nhiều nhất là những bài thơ gửi chị Trúc. Ngoài ra, có bài gửi “Người chị dưới mái trăng non”; có bài nói về người chị hàng rượu; lại có bài nói về một bà chị trống trơn, không cần minh định:

Năm xưa chị chưa lấy chồng,

Chị đan tấm áo len hồng cho tôi.

Năm nay chị lấy chồng rồi,

Mỗi kỳ gió lạnh không người đan len.

("Gió lạnh")

Tại sao gặp lúc gió lạnh lại không nghĩ đến sự ấp ủ của mẹ, đến những khắng khít êm ấm bên cạnh nàng mà lại nghĩ đến chị? Chúng ta không có tài liệu để mong được hiểu về điểm tâm sự ấy của Nguyễn Bính; nhưng đã rõ ràng là trong trường hợp này chị là chỗ hướng về khi trời trở lạnh hay lòng trống lạnh: người chị như thế đã thành một biểu tượng, không cần có mặt mũi, không cần mang tên tuổi riêng biệt.

Thơ Nguyễn Bính thường vẫn có cái vẻ dễ dàng, mộc mạc của ca dao. Những bài thơ liên quan đến các chị thì lại không thế: phần lớn là những công trình vừa dài vừa điêu luyện. Có những bài dài hàng trăm câu, lại chỉ dùng có một vần.

Tự buộc mình vào những rắc rối khó khăn như thế, thi sĩ có ý làm những chuyện tiểu xảo chăng? Trái lại, nếu muốn chọn những bài thơ nào của Nguyễn Bính mà chứa đựng nhiều chân tình, chắc chắn trong số đó phải có những bài thơ gửi chị.

Thật vậy, trong nội dung thơ Nguyễn Bính thường cũng không mấy cầu kỳ. “Sa lầy trong yêu” như ông, ông hay nói về ái tình; nhưng tuy nói nhiều ông cũng không thiết tìm ra những lối nói độc đáo, tân kỳ. Toàn những nàng con gái lầu hoa, cô lái đò, cô gái hái mơ, những chuyện mơ làm đôi bướm, mơ đậu trạng nguyên để chờ nàng gieo cầu v.v... Về các nàng toàn khuôn sáo cũ kỹ, nhưng về chị của các nàng thì không thế.

Hãy nghe ông tíu tít hỏi chị Trúc:

Đố chị thư này ai viết nhé!

Chị ơi! Em bé chị đây mà!

Được tin người ấy cho em biết:

Chị Trúc giờ đang bận chữa nhà

Nhà mới bao giờ chị chữa xong?

Bao giờ cho thợ chén hồi công?

Bao giờ chị dọn sang bên đó?

Xem lịch, khai trương, đốt pháo hồng?

("Xây lại cuộc đời")

Lại nghe ông ngậm ngùi nhắc về chị Tuyết:

Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên,

Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy,

Đường mòn, nắng nhạt soi tà tà,

Biển khơi, gió mặn thổi hây hẩy.

("Bài thơ vần Rẫy")

Kỷ niệm mỗi chiều về Rẫy, việc chữa nhà, việc xem lịch, việc ăn hồi công... xác thực, cụ thể biết bao! Các nàng thuộc cõi mơ, các chị của nàng thuộc cuộc đời thực tại sống động, gần gũi.

Yêu là ngón sở trường của các thi sĩ, vậy mà mỗi nhà thơ thường chỉ có một mối tình lớn trong đời: Liên của Đinh Hùng, Tố của Hoàng, Mộng Cầm của Hàn Mặc Tử... Tình chị là chuyện hiếm hoi, riêng ở Nguyễn Bính lại bắt gặp bóng dáng ba bốn người chị. Ba bốn người: khó có thể là sự ngẫu nhiên. Hết người chị này thi sĩ lại sà vào một người chị khác; trong tâm hồn ông hẳn phải có một khía cạnh nào nghiêng về thứ tình cảm ấy, liên tiếp xô đẩy ông về phía những người thiếu phụ ấy.

Và thứ tình cảm đã khởi hứng cho ông viết nên những bài thơ công phu về hình thức, độc đáo về nội dung đến thế, tưởng cũng là một yếu tố đáng kể trong thi nghiệp của Nguyễn Bính.

*

Tình chị em sự thực nó ra làm sao?

Nguyễn Bính có kể với nữ sĩ Mộng Tuyết về chuyện chị Trúc;[1] nhưng ông không có hồi ký để kể lại với chúng ta. Còn về trường hợp của chính mình thì nữ sĩ Mộng Tuyết đã thuật lại.[2]

Nguyễn Bính hứa với nữ sĩ Mộng Tuyết xem nữ sĩ là người chị tinh thần, người chị thứ hai sau chị Trúc.

Đối với chị, Bính thường quấn quít bên cạnh như một chú em ngoan ngoãn. Ban ngày, chị ở ngoài tiệm thì Bính cũng ra tiệm, để “trông hàng cho chị”, để “xem chị may áo”, để “đi gửi thư cho chị”. (Chị viết xong cái thư nào, Bính giành đi bỏ thùng thư bưu điện cái ấy.) Buổi chiều, chị về trong Rẫy, Bính đưa chân. Buổi tối, chị ở Rẫy, Bính lại vào nghe truyện đến khuya. Chị mặc tang phục, Bính khen chị đẹp não nùng, như một bài thơ buồn. Chị gửi nhiều thư cho một người nào, Bính hờn dỗi, bảo chị làm cho Bính phát ghen.

Căn cứ vào thái độ đối với chị Mộng Tuyết, đọc lại một số bài thơ, hãy phỏng đoán về thái độ của Nguyễn Bính đối với chị Trúc.

Quấn quít là chuyện tất nhiên, bởi vì chị Trúc thân tình cố cựu hơn chị Tuyết. Cứ xem cách xưng hô thì Bính còn làm nũng với chị Trúc gấp mấy. Với chị Tuyết, Bính xưng tôi; nhưng với chị Trúc còn xưng đến “em bé”, “Bính em” cơ:

Chị ơi! Em bé chị đây mà!

("Xây lại cuộc đời")

Chị hãy nghe lời em bé đây

("Chị đã ghen")

Bính em một tấm lòng vàng

("Xây hồ bán nguyệt")

Đi bỏ thư cho chị, trông cửa hàng cho chị... là một cách quấn quít mà cũng là một tâm lý thích tự làm cho có vẻ bé thêm. Cũng như trong cách tự xưng “em bé”, “Bính em”, cũng như trong cách “đố chị”.

Về dung nhan của chị Trúc, Bính chỉ có câu:

Chị vẫn môi son vẫn má hồng

("Xuân tha hương")

Nhưng điều đó không đủ để chứng tỏ ông ít quan tâm đến nhan sắc của chị Trúc. Bởi vì cứ theo dõi trong thơ thì Nguyễn Bính không có một lời nào nói về cái đẹp não nùng của chị Tuyết, ấy vậy mà ngoài đời ông có những câu xưng tụng nhiệt liệt đến thế. Trong thơ thi sĩ vẫn giữ sự tôn cách hơn ngoài đời.

Nữ sĩ Mộng Tuyết chỉ nói về sự quấn quít lúc gần; ở chị Trúc, em Bính còn bộc lộ lòng nhớ thương lúc xa chị:

Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống,

Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng.

("Xuân tha hương")

Nhớ thương như thế thì đòi hỏi sự chuyên nhất cũng là chuyện dĩ nhiên:

Ôi, chị một em, em một chị,

Giời làm xa cách mấy con sông.

Mấy sông mấy núi mà xa được,

Lòng chị em ta vẫn một lòng.

("Xuân tha hương")

Tuy vậy, ở Hà Đông mới một em một chị, vào đến Hà Tiên thì em đã hai chị rồi. Điều ấy không hề gì, rồi em còn có ba chị, bốn chị không chừng. Về người chị thứ ba, tức cũng là chị của cô Nhi nào đó, chúng ta không được biết gì nhiều. Chỉ biết rằng tình quyến luyến chị em ở đây cũng dính liền với một hình ảnh “thần linh”, y hệt như hai trường hợp trước của Nguyễn Bính. Bên cạnh người chị “Dưới mái trăng non” có cô cháu mười bảy tuổi tên Ngọc; bên cạnh người chị trong bài "Hoa với rượu" có cô bé Nhi; còn với chị Trúc, em Bính kể lể hơi nhiều tình yêu. Có khi là một mối tình cũ hẳn từng được chị khuyến khích:

Cố nhân chẳng biết làm sao ấy,

Rặt những tin đồn chuyện bướm ong.

...

Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc,

Chắp nối nhau hoài cũng uổng công.

("Xuân tha hương")

Có khi lại là những mối tình bốn phương mà chị hẳn chưa hề được biết:

Mấy lần em tính chị ơi,

Làm quà cho chị một người em dâu.

("Một chiều say")

Em say em tính thế, chứ thực ra nàng con gái đầu tiên mà em yêu và mang ra tỉ tê với chị Trúc là ai vậy? Có phải là cô Oanh nào đó đã đi liền với chị Trúc trong hai câu thơ chăng?

Nghỉ học, cô Oanh loà một mắt,

Lấy chồng, chị Trúc bó hai tay.

("Trời mưa ở Huế")

Cả hai người con gái đều ở Hà Đông, nơi tưởng nhớ khôn nguôi của Nguyễn Bính, mặc dù quê ông ở Nam Định:

Để hồn về tận xứ Hà Đông

("Xuân tha hương")

Thương về Hà Nội, nhớ về Hà Đông

("Một chiều say")

Thành thử các người chị đã được tìm đến vì Nguyễn Bính muốn tự làm bé bỏng để thấy được tưng tiu. Trong "Hoa với rượu", người chị xem Nguyễn Bính không khác Nhi: chợ về mua quà cho cả hai, ngày giỗ cho cả hai uống rượu... “Chị Nhi thường bảo với u tôi”. Chị nàng và u tôi: Chị ở đây phần nào đóng vai trò của người mẹ trong tình cảm người con trai có cái nhu cầu được ấp ủ.

Nhưng chỉ là người mẹ, không đủ. Bé Bính là thứ bé quá quắt: vừa là em bé vừa là gã đàn ông phiêu bạt, lăn lóc. Cho nên người chị cũng là người bầu bạn để nghe Bính trút bầu tâm sự. Khi thì nói về chuyện đời lang bạt:

Chị ơi, trôi nổi là thân tôi,

Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải.

("Bài thơ vần Rẫy")

Những khi khác, nói về chuyện ái tình, đem kỷ niệm về cô này cô nọ ra nhỏ to với chị. Chị thường chứng kiến bước đầu một mối tình của em (với cô Nhi), dự tính một chuyện nhân duyên cho em (với cô Ngọc); thậm chí chị cũng là một yếu tố trong hạnh phúc lứa đôi mà em mơ ước nữa. Em tưởng tượng ngày được chung sống với người yêu rồi:

Chiều chiều hai đứa sang thăm chị,

Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu.

("Hoa với rượu")

Chiều chiều thăm chị là một hình ảnh đẹp trong trong một cảnh sống hạnh phúc mơ tưởng. Nhưng cái hay nhất ở một người chị là vừa làm mẹ hiền, làm bầu bạn, chị vừa là một người nữ, môi son má hồng, đẹp não nùng!

*

Chị là thế,thật hay ho và thú vị. Nhưng trên đời, xưa nay có mấy ai đã làm một nam nhi trưởng thành mà còn công nhiên vòi chị? Dù là thi sĩ cũng chỉ gọi đến chị... Hằng mà thôi.

Lý Bạch, Đỗ Phủ... không kêu chị; Nguyễn Công Trứ hào hùng không có thơ cho chị đã đành, mà Nguyễn Du ủy mị, Tản Đà lãng mạn cũng tuyệt không có người chị “tinh thần” nào; Tú Xương lêu lổng, suốt đời la cà bên đám đàn bà con gái:

Một trà, một rượu, một đàn bà

nhưng cũng khó tưởng tượng người thi sĩ ấy xưng em, xưng bé Xương với một người chị nào.

Trong làng thơ từ trước đến nay chỉ có một “em Bính”. Người chị tinh thần là một đóng góp hoàn toàn mới lạ của Nguyễn Bính vào kho đề tài thơ ca ở nước ta và ở nhiều nước ngoài ta.

Nói về Nguyễn Bính, nhiều người vẫn bảo ông là người dân quê, thơ ông là ca dao, khơi động nếp sống truyền thống, hồn ông mang cái mộc mạc quê mùa của người nông dân nghìn đời... Người ta chỉ chú ý đến cái rất cũ của ông mà không chú ý đến cái rất mới của ông. Người ta chú ý quá nhiều đến những chỗ ông giống quá khứ, giống thiên hạ; mà không chú ý đúng mức đến chỗ ông khác lạ, không giống ai.

Không giống ai trong quá khứ, mà cũng không giống ai trong lớp người sau ông một thế hệ. Thật vậy, cho đến nay có nhà thơ nào chị chị em em? Không phải rằng con trai không còn nhận thấy ở những người con gái hơn tuổi mình chút ít những nét khả ái, đáng mến đáng quí; cũng không phải rằng con gái không còn cảm tình đối với những người con trai kém tuổi mình ít nhiều. Tuy nhiên một cậu con trai thoáng nghĩ: “Con trai mà xưng em kể cũng khỉ thật.” Thằng Dũng nào đó tả một đứa học trò, thế mà đối với cô giáo nó thầm yêu, nó còn không muốn xưng em. Tìm cho được thơ “chị em”, khó là phải.

*

Tình chị em, trước hiếm sau hiếm, món độc quyền ấy Nguyễn Bính giữ trọn hay có chia xẻ phần nào cho lớp người đồng thời chăng? Cái khuynh hướng tình cảm nghiêng về người chị là một khía cạnh độc đáo của tâm hồn người đàn ông ấy, hay là tâm hồn người đàn ông thời ấy?

Cùng thời với Nguyễn Bính, không cùng làm thơ như ông nhưng cùng là nghệ sĩ, có một ông Nguyễn khác — Nguyễn Tuân — cũng có một bà chị: chị Hoài. Chị Hoài cũng là bà chị “tinh thần”, và cũng có một dung nhan xuất sắc với món tóc rất được chú em tán thưởng.

Việc bắt gặp mấy bà chị ấy, chị Trúc, chị Tuyết, chị Hoài... không đủ để cho chúng ta quyết đoán về đặc điểm tâm hồn của cả một thế hệ. Nhưng sự việc nhỏ nhặt cũng là việc khác thường, lẽ nào không có chút ý nghĩa?

Nguyễn Bính than với chị: “trôi nổi là thân tôi” thì Nguyễn Tuân cũng nhiều lần nói về cuộc đời lang bạt kỳ hồ của ông. Về điểm này đời sống của hai ông Nguyễn có tính cách tiêu biểu. Vào thời ấy, đàn ông đua nhau sống đời lang bạt, hay mơ ước một đời lang bạt. Lưu Trọng Lư nói đến “nửa đời phiêu lãng”, Thế Lữ “rũ áo phong sương trên gác trọ”, nhân vật lừng lẫy nhất của Nhất Linh — chàng Dũng — cũng như hầu hết các nhân vật nam phái của Lê Văn Trương... sống một đời phong trần... Hệt Nguyễn Bính, thanh niên hồi ấy họ hay than vãn về chuyện thân thế trôi nổi đấy (nhất là với đàn bà con gái, hoặc chị hoặc em); nhưng đừng có ai nghe họ mà lầm: Giúp đỡ họ nơi ăn chốn ở đầy đủ êm ấm, họ oán hận ngay! Họ vờ than thở mà lấy làm hãnh diện về cuộc đời lang bạt ngoài sương gió.

Họ làm gì ngoài sương gió? Có người hé cho thấy mập mờ là hoạt động cách mạng; có người phân bua vu vơ qua quít là đi theo tiếng gọi của... hải hồ; có người không giấu nổi rằng sự thực chỉ là đi chơi bời, rượu chè, hút xách... Dẫu sao, văn chương một thời đã làm cho sương gió có một bí ẩn thơ mộng, quan niệm một thời đem so sánh cuộc sống bên song cửa đã ngầm gán cho lối sống người đàn ông hồi ấy một ý nghĩa ngang tàng, hào hùng, ít ra cũng trình bày một hình ảnh nam nhi dạn dày, già dặn... Và chính lớp đàn ông phong thái dạn dày ngang tàng ấy đã là lớp đàn ông đầu tiên trong lịch sử nước ta xướng lên việc thờ Nàng.

Người đàn ông dày dạn ngang tàng thời tiền chiến của ta không giống các bậc tiền bối ở nước ta, ở xã hội phương Đông, nhưng cũng không hẳn là một sự quái dị. Người ta có thể nghĩ đến những chàng hiệp sĩ đa tình trong các truyện thời Trung cổ ở châu Âu, những anh hùng vô địch, hoặc xông pha trận mạc, hoặc chém giết quái vật, vượt muôn trở lực thực hiện kỳ công, để rồi cuối cùng đem thành tích về dâng lên nàng.

Thế rồi, thời đại của con người hùng đã qua, đến bây giờ, nam nữ đã bình quyền, địa vị phái nữ cao vọt lên, đàn bà làm thủ tướng là chuyện thường, con gái đốt xú-cheng... Bây giờ chuyện thờ Nàng lại thành huyền thoại lố bịch. Trái lại, con trai thời nay đối với nữ giới lại có thái độ khinh mạn. Trong nhiều cuốn truyện người ta gọi: đứa con gái. Ngoài đời không có thần linh đã đành, cũng không còn “Nàng”, mà chỉ có những “em”: em này thơm như múi mít, em kia đáng đồng tiền bát gạo... Lối nói ngụ ý một sự đánh giá, một ý thức hưởng thụ trâng tráo. Có thể nữ giới đối với nam phái thời nay cũng có thái độ tương tự, để cho trọn nghĩa bình quyền. Dù sao, đã hết thời của thần linh.

Như vậy, có một điểm khá rõ trong tâm hồn những chàng trai phong trần thời tiền chiến, ngoài việc yêu đương đến sa lầy trong yêu: ấy là thái độ trọng vọng đối với gái.

Thái độ ấy không liên hệ trực tiếp với những người chị của Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân. Tuy nhiên cũng có thể nghĩ: Đã thờ nàng được thì sao lại không vòi chị được nhỉ? Một khi phụ nữ đã được suy tôn thì sự suy tôn, tùy tuổi tác, tùy trường hợp tình cảm... có thể mang nhiều hình thức khác nhau. Dẫu sao sáng kiến tôn xưng những người chị tinh thần cũng dễ phát sinh ở một thời như thế hơn là những thời kỳ khác, thiếu vị thần linh đẹp tóc.

*

Đó là về thời của Nguyễn Bính, mà chưa có trường hợp của Nguyễn Bính. Về phần ông, Nguyễn Bính cũng có cái ủy mị khá đặc biệt. Thơ tình của ông có những câu dịu dàng, dễ cảm lòng đàn bà:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của Trời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

("Tương tư")

Nhan đề các thi phẩm của ông liên hệ quá nhiều đến thân phận đàn bà, có khi cho thấy tác giả tự đồng hoá với phận gái: "Hương cố nhân", "Người con gái lầu hoa", "Lỡ bước sang ngang", "Mười hai bến nước"...

Con người ủy mị ấy muốn làm cho đáng thương. Yêu thì khối người yêu như ông; nhưng ở ông sự yêu đương nhiều khi có vẻ gì qui lụy, tội nghiệp lắm kia:

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

("Chân quê")

Con tằm được mấy tiền tơ,

Chao ôi! mà ước mà mơ lấy nàng?

("Nhà tôi")

Hồn anh như hoa cỏ may,

Một chiều cả gió bám đầy áo em.

("Hoa cỏ may")

Ngay khi ông xưng anh mà còn thế, huống hồ khi xưng em. Ông sở trường trong tài gây xúc động bằng cái giọng của một kẻ bị hất hủi, ruồng rẫy.

Từ thái độ tự làm ra đáng thương đến thái độ làm ra bé bỏng, đâu có xa gì?

_________________________

[1]Tạp chí Văn, Sài Gòn, 1968.


[2]Như trên.

Phượng Các
#2 Posted : Monday, April 17, 2006 1:00:32 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)

Chị Trúc trong Thơ Nguyễn Bính


Thời Báo (Canada), 19/10/00

Ký giả Lô Răng

Theo Bùi Hạnh Cẩn, tác giả NGUYỄN BÍNH VÀ TÔI, đồng thời cũng là anh em con cô con cậu ruột với tác giả LỠ BƯỚC SANG NGANG, thì bà thân của Nguyễn Bính mất rất sớm, khi Nguyễn Bính mơi 3 tháng tuổi. Nguyễn Bính rời quê nội làng Trạm sang ở thôn Vân, quê ngoại (cùng thuộc huyện Vụ Bản - Nam Định) và lớn lên ở đó. Bùi Hạnh Cẩn và Nguyễn Bính như vậy vừa là anh em, vừa là bạn học, bạn thơ từ thủa thiếu thời. Do vậy nên những tiết lộ của họ Bùi soi sáng nhiều điều trong thơ họ Nguyễn.

Có lẽ Nguyễn Bính là thi sĩ đầu tiên (đối với tôi) đã trang trọng đưa "người chị" vào thơ. Tập Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính xuất hiện năm 1938. Gần 60 năm sau tôi mới được nghe bài thơ Chị Tôi của Đoàn Thị Tảo cuối thập kỷ 90 vừa qua. Người tình, người mẹ, người em gái nhỏ ở trong thơ xưa nay không thiếu. Riêng một người chị, ngay từ những bài thơ đầu tiên và sau này suốt cuộc đời thơ, Nguyễn Bính đã giới thiệu "Chị Trúc" một cách thiết tha, đằm thắm. Trong 3 bài Lỡ Bước Sang Ngang đăng lần đầu tiên trên TIỂU THUYẾT THỨ NĂM năm 1938 đều có ghi "Tặng chị Trúc". Sau này nhiều bài thơ khác, khi đi lưu lạc giang hồ, đặc biệt những bài "Trăm câu một vần", "Xuân tha hương" và "Xuân vẫn tha hương", tác giả đều gửi tâm sự về quê nhà, kể lể nỗi niềm cùng chị Trúc:

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi chị một em, em một chịt
Giời làm xa cách mấy con sông ...
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Tết này, ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng.
Rượu say nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng...

Trong "Xuân vẫn tha hương", tác giả nằm đón giao thừa ở Huế, "suông cả ân tình rượu cũng suông", đốt ngọn đèn lên nhìn cái bóng cô đơn của mình in trên vách mà thở than cùng chị:

Đêm ba mươi Tết quê người cũng
Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương
Chị ạ, em không người nước Sở
Nhớ nhà đâu mượn tích Trương Lương
Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ
Ôi nhà, ôi chị.. ôi quê hương

Trong nhiều bài thơ khác, hình ảnh chị Trúc cứ thấp thoáng xa gần. Chị Trúc đối với Nguyễn Bính là chiếc khăn hồng chị cho để thấm những giọt lệ đời:

Chị cho em chị chiếc khăn thêu
Ý chị thương em khóc đã nhiều
Khóc chị ngày xưa, giờ lại khóc
Cho mình khi tắt một tình yêu..

Chị Trúc là một quê hương để nhớ về - là một đối tượng hết sức thân thương trìu mến để tác giả sẻ chia mọi nỗi cô đơn cũng như những phút giây hạnh phúc:

Chiều chiều hai đứa sang thăm chị
Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu...

Đọc thơ Jacques Prévers người ta nhớ Barbara - đọc thơ Argon người ta quen với Alsa, đọc Kiều người ta mong gặp Kim Trọng - đọc Lục Vân Tiên người ta nghĩ đến Nguyệt Nga... Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng muốn biết chị Trúc là ai mà người thơ gửi gấm nhiều tâm sự? Nguyễn Bính đã mất trên 30 năm rồi. Người thơ đã nằm im dưới mộ - Nguyễn Bính có một cái hơn người là càng ngày người ta càng đọc, càng ngâm thơ ông. Do vậy nên cái mong mỏi tìm hiểu về chị Trúc càng ngày càng thêm nôn nả.

Như để trả lời vấn nạn của chúng ta, người anh em của Nguyễn Bính, cũng là người bạn học, bạn thơ thủa thiếu thời, Bùi Hạnh Cẩn đã dành một chương trong cuốn "Nguyễn Bính và Tôi" để nói đến chuyện này: "Những bài thơ về chị Trúc".

Bùi Hạnh Cẩn kể rằng Nguyễn Bính sau khi mất mẹ từ rất nhỏ, ông thân của nhà thơ là Nguyễn Đạo Bình tục huyền - cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Bính (tên tục là Nguyễn Trọng Bính) chỉ có 2 người anh trai: Nguyễn Mạnh Phác và Nguyễn Ngọc Thu - Nhà thơ không có người chị ruột nào. Vậy chị Trúc là ai?

Người phụ nữ ấy (chị Trúc của nhà thơ) thật ra không có liên hệ họ hàng ruột thịt gì với nhà thơ hết. Theo Bùi Hạnh Cẩn, đó là một phụ nữ họ Lê tên là N.TH. (họ Bùi không hài rõ tên, chỉ ghi như vậy) người đẹp, da trắng, môi hồng, mũi dọc dừa, đôi mắt trong như nước hồ thu. Đặc biệt người phụ nữ này đã có chồng ở thị xã Hà Đông. Ở nơi này có anh ruột của Nguyễn Bính là Nguyễn Mạnh Phác vừa dạy học vừa làm văn nghệ viết kịch, viết báo, làm thơ. Ở tỉnh nhỏ, như thế đã là có giá. Sau này khi Nguyễn Bính nổi danh với Lỡ Bước Sang Ngang thì ông anh Mạnh Phác lại càng được mọi người nể trọng, và đương nhiên chị Trúc người được nhà thơ đề tặng cũng nổi tiếng theo. Thật ra lúc ấy "chị Trúc" chỉ là người em văn nghệ của Nguyễn Mạnh Phác. Một buổi nhà thơ Lê Văn Trương về Hà Đông thăm thú bạn bè - Mạnh Phác, được mời viết cho báo Ích Hữu do Lê Văn Trương phụ trách. Cần phải có một bút hiệu mới cho Mạnh Phác. Ngày xưa, theo lời ông cậu ruột của anh em họ Nguyễn, tức là thân sinh của Bùi Hạnh Cẩn, thì bà thân của họ Nguyễn "đẻ rơi" Mạnh Phác ngoài lộ. Do vậy nên ngoài tên khai sinh Mạnh Phác còn có tên riêng ở nhà là "cu Đường". Bây giờ cần có một bút hiệu, mọi người mới ghép tên "người em văn nghệ" Trúc với tên riêng Đường thành bút hiệu Trúc Đường. Trúc Đường sau đó trở thành nhà viết kịch có tiếng ở miền Bắc.

Dạo đầu thập kỷ 40, trong không khí ngột ngạt của đệ nhị thế chiến sắp tràn tới Đông Dương, các văn nghệ sĩ có phong trào "đi", hay là "giang hồ vặt", theo khẩu hiệu do Nguyễn Tuân đề xướng "Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da ta làm chiếc valise". (NT cũng mượn câu nói này của một nhà văn Pháp, tôi không nhớ được tên). Nhưng đi để mà không biết đi đâu?"

Ta đi nhưng biết về đâu nhỉ?
Đã dấy phong trào khắp bốn trời.

Mấy ông nhà văn, nhà thơ trẻ Nguyễn Bính, Tô Hoài, Trọng Can từ Bắc vào miền Trung, vô Nam rồi lại trở ra... Hãy nghe Tô Hoài kể lại trong hồi ký: "Chúng tôi ghé xuống Thanh Hóa trước tiên.. chúng tôi lại xuống Huế. Vào Huế, lại sống vật vờ như ở Thanh Hóa. Thỉnh thoảng Nguyễn Bính gửi thơ về đăng báo, nhờ Trúc Đường gửi tiền nhuận bút vào trọ. Nhưng thơ làm sao nuôi nổi người, huống chi lại những 3 người. Cũng đến ngày phải đi... chỉ có một mình Nguyễn Bính ở lại Huế".

Đây là thời kỳ Mạnh Phác và chị Trúc gửi thư và tiền vào cho Nguyễn Bính ở Huế. Đó cũng là thời kỳ Nguyễn Bính viết Xuân Tha Hương và Xuân vẫn tha hương.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Một chị một em, em một chị
Giời làm chia cách mấy con sông...

Chị Trúc, người Nguyễn Bính đề tặng thơ rất trang trọng, người Nguyễn Bính thiết tha sẻ chia tâm sự, thật sự ra chỉ là một "người em văn nghệ" của anh mình: Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phác.

Đó chỉ là một hình bóng phụ nữ thoáng qua trong đời Nguyễn Bính. Nhưng nhà thơ trân trọng tôn thờ hình bóng đó, vì Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ thủa nhỏ, đã thiếu tình mẫu tử, lại không có chị, có em nào gần gũi. Chị Trúc thật ra rất xa mà lại rất gần đối với Nguyễn Bính. Đó cũng là ảo giác của người gần chết khát trong sa mạc, tưởng rằng mình sắp đến được một ốc đảo đầy suối trong và bóng mát...


xv05
#3 Posted : Wednesday, August 15, 2007 3:58:31 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Hình ảnh một cô gái 17 tuổi trước khi đi lấy chồng, dặn dò em gái ở lại trông nom nhà cửa, mẹ cha, đàn em thơ dại được kể qua thi bản Lỡ Bước Sang Ngang. Thế rồi mấy năm sau duyên tình gãy đổ, nàng đành sống cảnh góa bụa khi tuổi mới nửa chừng xuân. Cuộc đời tưởng đâu dừng ở đó, nhưng tình yêu lại đến, nàng tiến thêm bước nữa cạnh một chàng trai nghệ sĩ. Nàng đã sống qua những giờ phút thần tiên với người tình mới, nhưng định mệnh khắc khe, chàng cũng ra đi và nàng trở về khóc cho số phận mình.

Lỡ Bước Sang Ngang được coi là thi phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Bính
.



Lỡ Bước Sang Ngang

"Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa .

Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Hôm nay xác pháo đầy đường
Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây...

I

Rượu hồng em uống cho say,
Vui cùng chị một vài giây cuối cùng.
(Rồi đây sóng gió ngang sông,
Đầy thuyền hận,, chị lo không tới bờ)
Miếu thiêng vụng kén người thờ,
Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em.
Đêm nay là trắng ba đêm,
Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn.
Một vai gánh vác giang san...
Một vai nữa gánh muôn vàng nhớ thương.

Mắt quầng, tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì !
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu,
Cách mấy mươi con sông sâu,
Và trăm nghìn vạn nhịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi\... cũng là đành...
Sang ngang lỡ buớc riêng mình chị sao ?
Tuổi son nhạt thắm phai đào,
Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người !
Em đừng khóc nữa, em ơi !
Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em !
Một đi bảy nổi ba chìm,
Trăm cay nghìn đắng, con tim héo dần
Dù em thương chị mười phần,
Cũng không ngăn nỗi một lần chị đi ."


Chị tôi nước mắt đầm đìa,
Chào hai họ để đi về nhà ai...
Mẹ trông theo, mẹ thở dài,
Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran.
Tôi ra đứng ở đầu làng
Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa.


II

Giời mưa ướt áo làm gì ?
Năm mười bẩy tuổi chị đi lấy chồng.
Người ta: pháo đỏ rượu hồng
Mà trên hồn chị: một vòng hoa tang .
Lần đầu chị bước sang ngang,
Tuổi son sông nước đò giang chưa tường.
Ở nhà em nhớ mẹ thương
Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ .
Mẹ ngồi bên cửi se tơ
Thời thường nhắc: "Chị mầy giờ ra sao ?"
"-- Chị bây giờ"... nói thế nào ?
Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang.
Chị từ lỡ bước sang ngang
Trời dông bão, giữa tràng giang, lật thuyền.
Xuôi dòng nước chảy liên miên,
Đưa thân thế chị tới miền đau thương,
Mười năm gối hận bên giường,
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh.
Mười năm đưa đám một mình,
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên .
Mười năm lòng lạnh như tiền,
Tim đi hết máu, cái duyên không về.

"Nhưng em ơi một đêm hè,
Hoa soan nở, xác con ve hoàn hồn.
Dừng chân bên bến sông buồn,
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang .
Đoái thương, duyên chị lỡ làng.
Đoái thương phận chị dở dang những ngàỵ
Rồi ... rồi ... chị nói sao đây !
Em ơi, nói nhỏ câu này với em...
...Thế rồi máu trở về tim
Duyên làm lành chị duyên tìm về môi .
Chị nay lòng ấm lại rồi,
Mối tình chết, đã có người hồi sinh.
Chị từ dan díu với tình,
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng."

Tim ai khắc một chữ "nàng"
Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo .
Nhưng yêu chỉ để mà yêu,
Chị còn dám ước một điều gì hơn .
Một lần hai lỡ keo sơn,
Mong gì gắn lại phím đàn ngang cung.
Rồi đêm kia, lệ ròng ròng
Tiễn đưa người ấy sang sông chị về.
Tháng ngày qua cửa buồn the,
Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa .


III

Úp mặt vào hai bàn tay,
Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm .


"Đã đành máu trở về tim,
Nhưng không ngăn nỗi cánh chim giang hồ.
Người đi xây dựng cơ đồ...
Chị vềtrồng cỏ nấm mồ thanh xuân .
Người đi khoác áo phong trần,
Chị về may áo liệm dần nhớ thương .
Hồn trinh ôm chặt chân giường,
Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây .
Năm xưa đêm ấy giường này,
Nghiến răng... nhắm mắt... chau mày ... cực chưa !
Thế là tàn một giấc mơ,
Thế là cả một bài thơ não nùng !
Tuổi son má đỏ môi hồng,
Bước chân về đến nhà chồng là thôi !
Đêm qua mưa gió đầy giời,
Trong hồn chị, có một người đi qua ...


Em về thương lấy mẹ già,
Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công.
Chị giờ sống cũng như không
Coi như chị đã sang sông đắm đò."


(Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến - Quyển Thượng)
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.