Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Lê Thị Nhị
linhvang
#1 Posted : Wednesday, October 27, 2004 4:00:00 PM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 9:15 am

Lê Thị Nhị sinh ngày 25 tháng 1 năm 1943 tại Bắc Ninh.
Lớn lên ở Hà Nội.
Vào Sài Gòn năm 1954.
Tới Hoa Kỳ năm 1981.
Hiện cư ngụ tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ, với 3 con, và cộng tác với tạp chí Cỏ Thơm, Kỷ Nguyên Mới xuất bản ở Hoa Kỳ.
Sách đã xuất bản: Ngày Về (1996), Mùa Đông Hò Hẹn (1999), Sóng Thời Gian (2002)
_________________
Linh Vang
www.geocities.com/linhvang
linhvang
#2 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:44:53 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 9:41 am
Tiêu đề: Tuyển tập Văn- Ngày Về của Lê Thị Nhị

Ngày Về - Lời Giới Thiệu
Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do

Ngày Về của Lê Thị Nhị là một tuyển tập văn gồm truyện ngắn và đoản văn, một số truyện đã cho đăng báo nay được tác giả tu chính để in và số còn lại là những tác phẩm mới viết.
Đêm Cuối Cùng, Yêu Dấu Xưa, Vợ Hiền và Quê Hương, Ngày Về, và Tâm Sự có bối cảnh ở Việt Nam. Nhân Vật Tiểu Thuyết, Buổi Sáng Hạnh Phúc, Giấc Mơ, Đêm, và Người Mẹ có bối cảnh ở Hoa Kỳ. Thằng Sừng, và Sẽ Nói Với Em có bối cảnh ở Hoa Kỳ và Việt Nam.
Đêm Cuối Cùng mô tả sinh hoạt của một gia đình trước khi rời nước ra đi. Yêu Dấu Xưa khơi lại những cảm xúc của một Việt kiều về chốn cũ, thăm người xưa, và để tìm lại những rung động của một thời hoa niên đã mất. Ngày Về khai thác tâm trạng của một người trẻ Mỹ lai, từ Hoa Kỳ du lịch Việt Nam để tìm lại người thân và những kỷ niệm của ấu thời. Tâm Sự chứa đựng tâm tư của một thiếu nữ trẻ người Việt ở trong nước và một thanh niên Mỹ lai trong cuộc gặp gỡ ở Việt Nam.
Những tác phẩm có bối cảnh ở Hoa Kỳ đã được tác giả dùng ngòi bút bén nhạy để ghi nhận những xung đột về nếp sống giữa cha mẹ và con cái, những đam mê hay dằn vặt của những người trẻ có ý thức về quê hương Việt Nam, và những quan niệm về sống hạnh phúc trong một số gia đình Việt.
Nhìn một cách chung, người đọc sẽ thấy cảm xúc của tác giả được phơi trải một cách có trình tự trong tuyển tập, qua đời sống của các nhân vật, khởi đi bằng những lo lắng bồn chồn lúc rời đất nước; đến những phức tạp, dằn vặt của cuộc sống nơi quê người; và những nao nức trở lại thăm quê khi nếp sống đã ổn định.
Được thực hiện bằng văn phong trong sáng, đối thoại dí dỏm, và tả cảnh gợi hình - một điểm đặc sắc ít thấy trong các văn phẩm xuất bản ở hải ngoại hiện nay – chúng tôi tin rằng Ngày Về sẽ đem lại cho độc giả những phút giải trí thoải mái và lành mạnh.
Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
(trong Ngày Về)
linhvang
#3 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:46:26 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 9:47 am
Tiêu đề: Nhân Vật Tiểu Thuyết - Lê Thị Nhị

Nhân Vật Tiểu Thuyết
Lê Thị Nhị

Nga đang nằm dài trên giường xem phim Tàu thì Hưng về. Nàng nói với chồng cho có lệ, mắt vẫn không rời T.V.
- Anh về rồi cơ à? Chết chửa, em chưa nấu nướng gì hết!
Hưng đến bên, hôn nhẹ lên trán vợ, cười hiền hòa:
- Anh đã mua sẵn Pizza đây rồi, em ngừng xem phim một chút, mình ăn cho nóng, kẻo nguội hết ngon.
Nga vòng tay, ghì chặt lấy Hưng:
- Chồng ai mà dễ thương thế này? Chắc em tu mười kiếp nay mới được gặp anh.
Hưng nheo mũi nhìn vợ:
- Anh tu hai mươi kiếp mới lấy được em, một người đàn bà tuyệt vời...trong phòng ngủ.
Nga nhéo cánh tay chồng:
- Anh ngạo em đấy phải không?
- Ái, đau quá, anh nói thật mà!
Hưng vào bếp, sửa soạn bữa ăn tối "dã chiến" cho hai vợ chồng. Chàng xắn tay áo, tráng vội đống chén đĩa cho vào máy rửa chén. Chàng cũng không quên cất vào hộc tủ chai nước mắm, lọ tiêu, hộp muối nằm rải rác trên bàn ăn. Miếng chanh đã vắt hết nước và mấy miếng napkin vo tròn gần đó cũng được Hưng quăng vào thùng rác. Hưng vừa làm những công việc này vừa huýt sáo một cách vui vẻ. Hưng đã quen thuộc với sự bề bộn của gia đình chàng từ ba mươi năm nay, “Từ ngày có em về”. Chàng vẫn thường nói đùa với vợ “There is no place like home.”
Mấy năm gần đây, sự bừa bộn đỡ hơn một chút vì các con đã có vợ, có chồng và ra ở riêng cả nên căn nhà chỉ còn có hai vợ chồng già. Nói là già vì chàng đã có dâu, có rể chứ thật ra với số tuổi năm mươi, ở cái xứ Mỹ này hãy còn được coi là trẻ. Hưng lại thích bơi lội, thể thao và ưa vui đùa ca hát nên cả về tâm hồn lẫn thể chất chàng vẫn còn phong độ lắm. Duy chỉ có Nga là hơi đẫy đà một chút vì nàng ít vận động, lại hay ăn vặt. Nga thường chế nhạo những bà, những cô lo lắng chăm sóc sắc đẹp của mình đến mất ăn, mất ngủ. Bóp mồm, bóp miệng không dám ăn vì sợ mập. Có người lại tốn tiền đi banh da, xẻ thịt để "trùng tu nhan sắc". Mỗi khi đi với chàng, Nga chỉ trang điểm qua loa và ăn mặc rất xuề xòa, mà thường thì Nga thích ở nhà hơn. Mỗi lần Hưng rủ đi đâu, Nga đều hỏi:
- Em có "phải" đi không anh?
Lâu dần, thành lệ, Nga và Hưng chỉ đi chung trong những dịp cưới xin, giỗ chạp hoặc đi thăm các con. Điểm đáng yêu nhất của Nga là nàng đã cho Hưng một không gian thênh thang để thở, để sống. Không gian đó thênh thang đến nỗi đôi khi chàng có cảm tưởng chàng còn độc thân. Cũng có lúc Hưng thèm được Nga kiểm soát giờ giấc đi về của chàng, hỏi han mối quan hệ của chàng với người này, người kia... Nhưng không, Nga vẫn sống rất hồn nhiên. Nga đi làm, đưa hết tiền lương cho chồng để Hưng lo mọi việc mắm muối tương chao trong gia đình. Về tới nhà, Nga đọc sách báo, xem phim Tàu và T.V.
Vợ chồng chàng chẳng mấy khi trò truyện. Mỗi người một thế giới riêng. Tuy vậy, mỗi khi gặp nhau, cả hai đều nói với nhau những lời ngọt ngào, tình tứ bởi vì tình yêu giữa vợ chồng chàng vẫn còn đó. Những đứa con ngoan đã đem lại niềm vui chan hòa, nên từ ngày lấy nhau, Hưng và Nga chưa hề có những chuyện xào xáo hay một bóng hình nào chen vào phá vỡ sự bình yên của họ.
Đôi khi, chàng cũng lo sợ cho cái sự bình yên ấy, lo sợ cho sự xa cách về tâm hồn giữa hai vợ chồng. Nhiều lần, chàng đã gợi chuyện nói với Nga. Nói về một đề tài nào đó, một cuốn sách nào đó mà nàng đang đọc, nhưng câu chuyện cũng không kéo dài được lâu, vì hình như Nga chỉ đọc qua loa những tình tiết éo le, còn nội dung thì nàng chẳng để ý tới. Những nhân vật trong phim bộ thì Nga rành lắm! Nàng nhớ từng mẩu đối thoại, từng câu pha trò, từng lời triết lý, mà những điều này thì Hưng nghe như vịt nghe sấm, bởi vì chàng chưa bao giờ đủ kiên nhẫn ngồi xem một băng chứ nói gì đến xem hết một bộ phim. Càng ngày Hưng càng thấy khoảng cách giữa chàng và vợ xa dần, xa dần. Mỗi ngày, sau khi đi làm về, chàng ăn qua loa bữa cơm tối với Nga rồi ra thư viện cho tới lúc thư viện đóng cửa mới về nhà.
Chàng bị bệnh mất ngủ kinh niên, nên sau khi Nga xem phim mệt lả, lăn kềnh ra ngủ thì chàng đi pha trà, uống một mình, rồi bắt đầu ngồi vào bàn viết. Thời còn trẻ, Hưng bận lo cơm áo nên chẳng viết được nhiều. Bây giờ là lúc Hưng sáng tác mạnh nhất. Bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc sống, bao nhiêu điều học hỏi từ trong sách vở, tích lũy trong Hưng từ mấy chục năm nay, bây giờ Hưng mới có dịp giãi bày trên những trang giấy trắng.
Những tác phẩm của Hưng được xuất bản đều đều và được đón nhận rất nồng nhiệt của độc giả Việt Nam trên khắp thế giới. Duy chỉ có một nơi, tác phẩm của Hưng không được hoan nghênh, đó là căn nhà của chàng. Các con thì không biết đọc tiếng Việt, mà vợ chàng thì chàng biết chắc là nàng không thích đọc văn của chàng vì nó khô khan, không có những tình tiết lâm li bi đát để cho nàng có thể khóc sụt sùi. Tuy thế, vợ chàng vẫn lịch sự khen ngợi:
- Văn của anh hay lắm! Lôi cuốn lắm! Em đọc một mạch không ngừng nghỉ.
Hưng thường ân hận vì đã không dạy các con tiếng Việt. Giá hồi chúng còn bé, mỗi ngày chàng chịu khó dạy chúng nửa tiếng đồng hồ thì bây giờ cũng đỡ lắm. Nhưng rồi chàng lại tự bào chữa: "Cũng tại lúc đầu sang đây, mình phải vật lộn với cuộc sống nên chẳng có giờ rảnh".
Đôi khi, cách sống và cách suy nghĩ của vợ và các con không làm chàng hài lòng, nhưng chàng cũng chẳng bận tâm lâu. Chàng vốn tính dễ dãi, chấp nhận và bằng lòng với cái mà mình có.
Tiếng Nga vọng ra từ phòng ngủ:
- Anh làm gì mà lâu vậy? Pizza nguội hết còn gì!
- Xong rồi, em ra ăn đi!
- Thôi, anh mang vào đây cho em. Em đang xem dở đoạn này hay lắm.
Hưng lắc đầu rồi mang đĩa Pizza, ly nước và mấy miếng khăn giấy vào cho vợ.
Nga đón lấy đĩa Pizza:
- Cảm ơn anh. À, hôm nay anh có ghé chợ Việt Nam lấy báo không?
- Có nhưng anh còn để ở ngoài xe.
- Anh ra lấy cho em đi!
- Em cần xem gì mà gấp thế?
- Xem tử vi và xem tiếp truyện dài của Quỳnh Dao.
Hưng ra xe lấy báo mang vào cho vợ, rồi chàng trở vào bếp ăn qua loa miếng Pizza nhỏ. Một vài miếng nấm chẳng đủ làm cho miếng Pizza bớt khô khan. Hưng bỗng thấy thèm được ăn cơm với canh chua, cá kho tộ.
Ăn xong, như thường lệ, Hưng vào phòng, hôn nhẹ lên trán vợ:
- Anh đi thư viện nhé!
- Dạ, anh về sớm nghe! Tối nay có tuyết đấy.

Hưng đẩy nhẹ cánh cửa, bước vào thư viện. Doris, người quản thủ thư viện, mỉm cười khi thấy chàng đến gần. Bà ta nói thật khẽ:
- Hôm nay ông tới trễ hơn mọi hôm.
Rồi không đợi Hưng hỏi, Doris đưa cho Hưng hai quyển sách mà sáng nay Hưng đã gọi điện thoại yêu cầu giữ lại giùm. Hưng nói cảm ơn, cầm sách đi về phía cái bàn quen thuộc mà chàng vẫn ngồi mỗi ngày. Đây là thư viện lớn nhất của quận chàng ở, và cũng gần nhà nên Hưng đã tới đây gần mười năm. Tất cả những gì trong thư viện này, đối với chàng như có một liên hệ mật thiết. Đặc biệt là Doris với nụ cười ấm áp và đôi mắt nâu màu hạt dẻ mơ màng.
Cái bàn nho nhỏ ở góc phòng, bên ô cửa kính đã như là của chàng tự bao giờ. Từ cái bàn đó, qua khung cửa kính, Hưng đã biết bao nhiêu lần ngắm rừng cây thay lá.
Mùa Xuân, những lộc non nhú ra từ những cành khô rồi xòe tung, xanh mướt, rung rinh theo gió nhẹ. Mùa hè, tàn lá xanh rì che khuất những ngôi nhà có tường bằng gạch đỏ trên ngọn đồi cao.
Mùa thu, màu lá vàng đỏ đậm nhạt đã tạo cho khu rừng một vẻ đẹp mơ màng mỗi khi chiều tà.
Mùa đông đến, tuyết phủ trắng xóa mênh mông khiến chàng nghĩ, cảnh tiên cũng chỉ đẹp đến thế là cùng.
Đã bao lần Hưng đếm bước trên những lối đi hẹp giữa những kệ sách cao sát trần nhà để rồi ngừng lại tại một khu nào đó, chọn một quyển sách mà chàng mốn. Chàng thuộc lòng từng khu, từng góc của thư viện. Từ chỗ chàng ngồi, chàng phải đi bao nhiêu bước thì tới khu sách về lịch sử, bao nhiêu bước thì tới khu sách văn chương, bao nhiêu bước thì tới khu sách Việt Nam?... Ba cái máy chụp bản sao ở góc phòng, cái nào in rõ, cái nào in mờ, chàng cũng nhớ. Nhân viên thư viện và những người thường xuyên đến thư viện này chàng thấy họ quen thuộc như những người thân trong gia đình.
Có khi chàng thích ngồi hàng giờ ở khu sách dành cho trẻ em. Chàng say xưa đọc những quyển sách đầy tranh ảnh, màu sắc rực rỡ hoặc ngắm những em bé, mắt tròn xoe, xanh biếc như những hòn bi ve và mái tóc hung hung, vàng vàng với những bộ quần áo xinh xắn...
Chàng nhớ tới tuổi thơ của chàng nơi quê cũ trong những ngày tao loạn. Chàng thấy cậu bé Hưng, năm tuổi, ngồi xếp vòng tròn trong một cái thúng, mân mê cái kèn làm bằng lá chuối, để chị Hoa gánh kĩu kịt chạy xuống xuôi tránh giặc Tây, cùng với con heo nhỏ ở thúng bên kia. Chàng nhớ tới cái ngòi bút lá tre và quyển vở Olympic giấy trắng tinh mà chàng được mẹ cho khi về tới Hà Nội.
Hưng đang suy nghĩ miên man thì có tiếng chân đi rất nhẹ và một giọng nói thoảng bên tai:
- Hôm nay ông nên về sớm. Tuyết sắp đổ nhiều đấy ông ạ.
Hưng ngước nhìn Doris nói đùa:
- Tôi xin tuân lệnh!
Doris mỉm cười, để lộ đôi hàm răng đều và trắng muốt:
- Hình như hôm nay ông quên mang khăn quàng cổ? Ở cái hộp “Lost and Found” đằng kia có một cái khăn người nào để quên đã mấy ngày, ông có thể dùng tạm rồi mai mang đến cũng được.
Hưng không ngạc nhiên về sự tỉ mỉ của Doris, nhưng chàng hơi bối rối:
- Cảm ơn bà, trước khi về, tôi sẽ xin mượn chiếc khăn đó.
Hưng bâng khuâng nhìn theo dáng Doris khuất sau những kệ sách. Chiếc váy lót bằng ren màu trắng của Doris ló ra ở phía sau cứ ám ảnh Hưng trong lúc chàng thu dọn sách vở. Hưng băn khoăn không biết có nên nói cho Doris biết hay không? Bình thường bà ta ăn mặc rất cẩn thận và diêm dúa. Không hiểu sao hôm nay lại sơ ý đến thế? Lúc ra về, khi đi ngang bàn của Doris, Hưng bỗng nói với Doris một câu mà chàng không hề định trước:
- Bà cũng nên sửa soạn đi về đi! Để xe ở lại, tôi đưa bà về kẻo đường trơn lắm.
Doris thoáng nhìn Hưng, hơi ngạc nhiên, rồi cúi xuống thu dọn giấy tờ, xếp vào cái khay nhỏ trên bàn, bên góc trái.
- Vâng, xin ông chờ tôi một chút.
Hưng giúp Doris mặc áo choàng. Những ngón tay búp măng thon thon trắng nõn nắm lại để xỏ tay vào áo choàng bằng nỉ màu đen mượt mà. Thấy Doris quấn quanh cổ bằng một cái khăn nỉ màu đỏ đậm có tua ở hai đầu. Hưng cười, nói đùa:
- Trông bà như cô bé quàng khăn đỏ.
Doris nhìn Hưng thẹn thùng. Hưng cố lấy giọng tự nhiên:
- Chó sói sẽ không dám đến gần bà, vì đã có tôi bảo vệ, phải thế không?
Doris đi sát vào Hưng, mỉm cười với ánh mắt tinh nghịch:
- Hay chính ông là con chó sói mà tôi không biết?
Trên đường về nhà Doris, tuyết đổ mỗi lúc một dày thêm, nhưng đường không trơn lắm. Tuy nhiên, Hưng vẫn cho xe chạy rất chậm. Không hiểu vì tính Hưng cẩn thận hay chàng muốn kéo dài thời gian để có đủ thời giờ nghe tâm sự của Doris. Giọng bà ta ấm, thì thào như gió thoảng.
Đôi mắt nâu màu hạt dẻ của Doris bỗng trở nên mơ màng khi nói về cuộc tình buồn với một sĩ quan Việt Nam, hồi Doris phục vụ trong quân đội Mỹ tại Việt Nam. Cuộc tình ngắn ngủi nhưng đã để lại trong lòng Doris những kỷ niệm khó quên. Từ ngày người yêu chết trận, Doris vẫn ở một mình để nhớ thương, tiếc nuối chuỗi ngày đắm mình trong hạnh phúc. Cái hạnh phúc mong manh của một mối tình giữa vòm trời lửa đạn. Hình như Doris xúc động mạnh trong lúc kể chuyện, đôi khi giọng xa vắng như lạc hẳn đi.
Khi nói, đôi môi mỏng của Doris hé ra rất nhỏ nhưng cũng đủ cho Hưng thấy hàm răng ngà ngọc. Hai cây quạt nước vẫn nhanh nhẹn gạt phăng đi những màn tuyết thay phiên nhau bám vào kính xe để Doris có thể ngắm những bông tuyết trắng xóa xoay xoay trong không gian. Hai hàng mi dài và cong của Doris thỉnh thoảng khép lại như muốn che dấu niềm đau xưa cũ đang dâng tràn lên khóe mắt. Suốt đoạn đường dài, Hưng chỉ biết yên lặng, nhưng đầu chàng, tim chàng, tay chàng hình như chúng đang muốn nổi loạn. Hình ảnh Nga vừa lướt qua trong trí thì tiếng Doris kéo Hưng trở về với thực tại:
- Ông đang ngạc nhiên vì đàn bà Mỹ mà cũng si tình và chung thủy phải không? Những gì ông thấy trên báo chí, màn ảnh đều không phản ảnh trung thực đời sống của dân Mỹ đâu ông ạ, một phần nào đó thôi.
- Vâng, tôi cũng nghĩ như thế. Nếu xứ Mỹ mà chỗ nào cũng bắn nhau loạn lên như trên màn ảnh thì chẳng ai dám sống ở Mỹ nữa.
Bỗng Doris nói:
- Chết thật, từ nãy tôi cứ nói về mình mãi. Bây giờ, để cho công bằng, ông hãy cho tôi biết về ông đi.
Hưng quay sang, nhìn Doris rồi nói đùa:
- Tôi tưởng không bao giờ bà cho tôi nói.
Doris cũng cười:
- Sống ở Mỹ, ông phải tập cái tính biết đòi hỏi. Hiền quá, ở cái xứ này sẽ bị bắt nạt ông ạ.
- Ở nhà tôi bị vợ bắt nạt quen rồi. Không những quen mà còn thích nữa.
Nhắc tới vợ, Hưng thở phào nhẹ nhõm. Những kỷ niệm của những ngày yêu nhau, những năm tháng sống êm đềm trong tình chồng vợ như một cuốn phim quay nhanh trong đầu. Rồi Hưng như một cậu bé trả bài cho cô giáo, chàng huyên thuyên kể đủ thứ chuyện về vợ chàng cho Doris nghe. Chàng cũng không quên nhắc tới ngày đầu gặp Nga, ngày đám cưới Nga đẹp như tiên...Khi Hưng ngừng nói thì chàng thấy Doris đăm đăm nhìn về phía trước. Tuyết vẫn rơi mỗi lúc một dày hơn. Bông tuyết mỗi lúc một lớn hơn. Sự yên lặng bao trùm thật lâu. Trong cái xe nhỏ bé, ngoài hơi thở của hai người còn có cả hơi thở của cái máy sưởi đang tỏa ra một sức nóng dịu dàng, ấm áp.
Hưng liếc nhìn đôi mắt buồn của Doris. Bàn tay của chàng đã nắm chặt bàn tay mềm mại của Doris tự lúc nào. Khi xe dừng trước cửa nhà, Doris nói:
- Cảm ơn ông. Ông có thể vào uống ly trà cho ấm rồi hãy về không?
Hưng ngập ngừng một chút rồi đáp:
- Vâng, được chứ. Tôi cũng đang thèm một ly trà nóng.
- Nhưng tiếc là tôi không có loại trà mà ông thường uống.
Hưng thành thật:
- Tôi nghĩ, uống trà mà có bạn thì trà nào cũng có hương vị đậm đà cả. Nhất là vào lúc trời lạnh như thế này.
Giọng Doris đượm buồn:
- Tôi uống trà một mình mãi rồi cũng quen ông ạ.
Hưng theo Doris bước vào nhà. Đèn bật sáng, chàng ngỡ ngàng trước cảnh trí của căn phòng khách mang dáng vẻ Đông phương. Những giỏ lan tím, treo lơ lửng phía gần cửa sổ. Bộ bàn ghế mây óng ả kê sát tường trông thật gọn gàng, đẹp mắt. Một bức tranh sơn dầu treo trên tường vẽ cảnh rừng núi và người đàn bà thượng địu con lội suối. Thấy Hưng ngắm bức tranh, Doris giải thích:
- Tôi vẽ theo trí nhớ, cảnh rừng núi Pleiku của nước ông đấy. Ông có nhận ra không?
Hưng gật đầu và xúc động trước tình cảm đằm thắm mà Doris thể hiện nơi bức tranh kia.

Hưng về đến nhà thì vợ chàng đã ngủ say. Chàng thay quần áo thật nhanh và chui vào chăn nằm cạnh vợ. Hưng choàng tay ôm vợ. Nga ú ớ:
- Anh về rồi à? Sao khuya thế? Đêm nay, em chờ anh mãi.
Hưng thoáng hối hận:
- Cho anh xin lỗi.
Nga dụi đầu vào ngực chồng:
- Đừng anh! Mai em còn phải đi làm sớm. Ai bảo hồi nãy anh không về.

Hưng vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán vợ rồi chàng nhắm mắt cố đi tìm giấc ngủ. Hình ảnh căn nhà của Doris cứ chập chờn trong tâm trí chàng. Căn phòng khách xinh xắn với bộ ghế mây óng ả, những giò lan tím treo lơ lửng. Căn bếp gọn gàng với bức tranh tĩnh vật và tờ lịch tháng giêng gắn trên tủ lạnh. Lúc đi ngang phòng Doris để vào phòng đọc sách và nghe nhạc, chàng thoáng thấy một chiếc gối ôm nằm lẻ loi trên cái giường đôi bằng gỗ màu nâu đậm. Khăn phủ giường và gối đều có màu xanh lơ dịu dàng. Trong căn phòng thật ấm cúng, chàng đã uống trà và nói chuyện với Doris suốt buổi tối. Hương trà thơm nhè nhẹ và vị ngọt đậm như còn đọng nơi đầu lưỡi chàng. Sự thông minh, dí dỏm của Doris trong câu chuyện đã lôi cuốn chàng vào một thế giới kỳ thú. Chàng quên cả thời gian, quên cả ngoài trời tuyết đang rơi phũ phàng , trắng xóa không gian.
Hưng vòng tay ôm vợ như thể muốn chạy trốn những tư tưởng đang lan man trong đầu. Nga vẫn ngủ ngon lành như một em bé. Trằn trọc một hồi lâu, bỗng Hưng thở dài, bước xuống giường, đi về phía phòng làm việc. Những ý tưởng, tình tiết cho một truyện tình đang tràn ngập trong đầu. Chàng phải viết, viết thật nhanh để có thể hoàn tất trong đêm nay. Nhân vật nữ chính của truyện nhất định phải là Doris với giọng nói ấm áp, đôi mắt nâu màu hạt dẻ và những ngón tay búp măng thon thon. Nhân vật nam chính sẽ là một sĩ quan Việt Nam đã bỏ mình trong trận đánh ở An Khê năm nào. Nhất định, nhất định, chàng sẽ không cho một nhân vật nam nào lảng vảng trong chuỗi ngày cô đơn của Doris. Hãy để yên cho bà ta sống "Trên ngọn tình sầu!" Hãy để yên cho bà ta sống với "thú đau thương" trọn đời, trọn kiếp.
Chàng phải can đảm, thật can đảm trong việc loại bỏ nhân vật cho tác phẩm này./.

Lê Thị Nhị -Tuyển tập Ngày Về

linhvang
#4 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:47:34 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 9:51 am
Tiêu đề: Buổi Sáng Hạnh Phúc - Lê Thị Nhị

Buổi Sáng Hạnh Phúc
Lê Thị Nhị

Những tháng ngày giá lạnh và những trận bão tuyết của mùa đông đã qua đi. Trời bắt đầu vào Xuân. Những con chim nhỏ ríu rít hót ca khắp vườn sau ngõ trước. Những chú sóc nâu, xám, cùng nhau nô đùa, chạy thoăn thoắt trên thảm cỏ xanh non, trên những cành cây đang đâm chồi, nẩy lộc. Bầu trời cao, xanh thăm thẳm. Những tia nắng ấm áp đã mang lại vẻ vui tươi cho vạn vật sau những ngày ảm đạm, vắng bóng mặt trời.
Trâm chầm chậm bước đi trên con đường nhỏ tráng xi măng dành cho người đi bộ, hít thở cái không khí trong lành của buổi bình minh. Tâm hồn Trâm nhẹ lâng lâng và cảm thấy như đang được vây kín bởi một niềm hạnh phúc vô biên. Trâm mỉm cười nghĩ tới mẹ, tới chị, tới các con, các cháu. Tất cả những người thân yêu của Trâm còn đang ngủ ngon hay còn đang "nướng" thêm một tí trên giường nệm êm ái hoặc cuộn tròn trong một cái chăn ngoài phòng khách.
Căn nhà nhỏ với bốn phòng ngủ, thường ngày chỉ có năm người: mẹ, chị Yến, cháu Hoài, Trâm và bé Tí. Nhưng cuối tuần và ngày lễ, căn nhà được tăng cường thêm: vợ chồng cháu Hữu, cháu Hùng từ Virginia qua, con trai và con gái Trâm, Tuấn và Bích, từ trường về, Chương, bạn của Hoài cũng có mặt đều đặn vì từ mấy năm nay Chương đã trở thành một phần tử của đại gia đình này. Diện tích của ngôi nhà được xử dụng tối đa vào những ngày đó.
Hoa, vợ cháu Hữu, luôn luôn quanh quẩn trong bếp để nấu những món ăn đặc biệt. Chị Yến loay hoay dọn dẹp. Hoài, Hữu, Hùng, Chương, Tuấn, Bích và bé Tí chuyện trò như pháo nổ đêm giao thừa. Mẹ Trâm ngồi dựa lưng vào ghế nệm dài, nét mặt rạng rỡ, thỉnh thoảng góp chuyện cùng con cháu. Con cháu chuyện trò càng ồn ào, bà càng vui. Tối hôm qua, các cháu chơi tam cúc và bầu cua tôm cá với bà. Sau đó, lại ăn bánh, uống trà mãi tới một giờ khuya mới đi ngủ. Đã mấy tháng nay gia đình Trâm mới có một buổi tối vui như thế vì thời gian sau này mẹ Trâm đau luôn, không ngồi và đi lại được.
Trâm nghĩ mẹ sẽ khỏe luôn vì mùa đông đã trôi qua. Nắng ấm sẽ làm mẹ khỏi bệnh đau lưng, nhức mỏi. Con cháu quây quần, niềm hy vọng đoàn tụ với các con các cháu còn kẹt lại Việt Nam, giúp mẹ tăng tuổi thọ. Những lúc con cháu bận đi làm, đi học, mẹ giở từng trang cuốn “album” nhỏ, ngắm nghía ảnh các con, các cháu, các chắt. Mẹ cũng thường mở cái hộp bánh LU, đựng đầy thư cũ, đọc đi đọc lại từng cái một. Sau cặp kính lão, thỉnh thoảng, những giọt lệ lại lăn dài trên đôi gò má hom hem.
Đã từ lâu lắm rồi, niềm vui của mẹ không trọn vẹn vì con cháu ở ba nơi cách biệt: Mỹ, Úc và Việt Nam. Mẹ thường xót xa khi nghĩ đến cảnh khổ cực của con cháu bên nhà. Mỗi lần ăn một miếng ăn ngon, mẹ lại chép miệng thở dài: “Tội nghiệp mấy đứa ở nhà, chẳng bao giờ được ăn như vậy.” Mẹ thường giữ lại những quần áo của các con, các cháu không còn mặc nữa, ủi phẳng phiu, gói vào từng bao ny lông, mẹ bảo: “Để dành, khi mấy đứa ở Việt Nam sang thì mặc.”
Mẹ Trâm đã tám mươi sáu tuổi, nhưng tóc vẫn đen, mắt vẫn tinh tường và tinh thần vẫn sáng suốt. Hồi mẹ tám mươi tuổi, mẹ từ giã con cháu ở Việt Nam, rời quê cha đất tổ, một mình qua Thái Lan rồi qua Úc ở với anh Dũng. Phải là người can đảm lắm mẹ mới quyết định được việc đi, ở này. Lòng nhớ thương, mong ước được gặp con trai và các cháu nội xa cách mười sáu năm trời đã khiến mẹ gạt lệ ra đi.
Ngày tiễn mẹ ra phi trường Tân Sơn Nhất, các anh chị và các cháu đã khóc cạn nước mắt khi nhìn cái bóng nhỏ và gầy của mẹ mất hút ở cuối hành lang ra sân bay. Trong một bức thư gửi cho Trâm, anh Lê viết: “Em không thể tưởng tượng được nỗi đau buồn của cả nhà khủng khiếp như thế nào trong buổi tiễn đưa mẹ.”
Sau khi tiễn mẹ, anh Lê thôi hẳn làm thơ tình ái. Anh đã hoàn tất hai tập thơ “Ngợi Ca Mẹ” trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Có lẽ vì phải xa mẹ nên tình yêu thương mẹ bấy lâu vẫn nằm im trong tận đáy lòng bây giờ mới có dịp trổi dậy mạnh mẽ. Trâm còn nhớ bài thơ "Sau Ngày Mẹ Lên Đường" của anh Lê. Mỗi lần đọc lại bài thơ này, mẹ lại sụt sùi khóc.
Chiều tím, sương buông hè phố lạnh,
Một mình con đếm bước lang thang,
Hồn quê mấy mảnh trăng tan vỡ,
Chút mộng ngày xanh đã úa vàng.

Hàng cây rét mướt, buồn hiu quạnh,
Nhà mẹ đây, hình bóng mẹ đâu?
Lối chợ ai che màu áo cũ?
Hồn con lãng đãng mộng xưa sau!

Hỡi ơi đất rộng trời cao thẳm,
Hun hút ngày qua, khuất nẻo về,
Chợt ngước nhìn lên...lầu cửa đóng,
Chập chờn ai đó? Dáng ai kia?

Ngõ hẹp vang câu vọng cổ buồn,
Hồn con dào dạt sóng muôn phương,
Bây giờ mẹ ở phương nào nhỉ?
Mây trắng giăng đầy mây nhớ thương.

Dĩ vãng còn nguyên dấu ngậm ngùi,
Con tìm đâu nữa, một giờ vui?
Trăm năm cuộc sống chừng mê hoặc,
Một thoáng vèo qua mấy tuổi đời!

Cho dẫu chưa mang sầu tử biệt,
Đã đeo nặng trĩu sầu sinh ly,
Hồn con từng vết dao ai chém?
Ai dỗ con từng cơn mộng mê?

Trời tháng mười không dưng trở lạnh,
Con bàng hoàng mấy tiếng ho khan,
Thời gian trở gót đi chầm chậm,
Nhớ tuổi xuân con cũng ố vàng.

Song cửa chênh vênh vầng nguyệt khuyết,
Nghìn thu chìm tiếng võng xa xưa,
Hồn tôi xoải cánh sầu vô tận,
Tìm dấu mòn qua tuổi ấu thơ.

Mẹ Trâm ở Úc được ba năm thì chị em Trâm đón mẹ qua Mỹ. Tám mươi ba tuổi, một lần nữa mẹ lại vượt đại dương một mình. Trâm đón mẹ ở phi trường Los Angeles. Lẫn trong đám người ngoại quốc to lớn và nhanh nhẹn một dáng người nhỏ nhắn hiện ra. Mẹ Trâm đó, vẫn dáng đi khoa thai, vẫn cái khăn nhung đen mỏ quạ. Mẹ mặc áo gấm thất thể màu xanh lam có hoa nhỏ. Trâm ôm mẹ, hỏi mẹ có mệt không? Mẹ giơ hộp sâm đã thái thành từng miếng mỏng:
- Mẹ không mệt, vì mẹ ngậm sâm. Này, con ngậm đi một miếng.
Với mẹ, sâm là thần dược, ngậm sâm là mọi bệnh tiêu tan hết.
Mẹ và Trâm ở lại nhà Mai, bạn nàng, trong hai ngày rồi mới lấy máy bay về Washington D.C. Trong hai ngày, mẹ vẫn khỏe nên Trâm và Mai đưa mẹ đi phố, đi chợ Việt Nam. Nắm tay mẹ đi giữa phố phường, Trâm tưởng như mình đang ngược dòng thời gian, cùng mẹ đi ngắm phố Hàng Ngang, Hàng Đào của Hà Nội năm xưa.
Từ ngày mẹ sang Mỹ, gia đình Trâm tràn ngập niềm vui. Những ngày nghỉ, con cháu quây quần quanh mẹ. Các con Trâm bắt đầu tập chơi tam cúc để chơi với bà. Những ngày giỗ, Tết, mẹ làm cơm canh cúng các cụ rất thịnh soạn và mong các con các cháu có thể về tham dự đầy đủ. Mẹ thích đọc báo và ngâm thơ. Mẹ nhớ cả những bài thơ mà mẹ làm khi Trâm còn nhỏ.
Những chuyện xảy ra trong đời mẹ, mẹ nhớ như vừa xảy ra ngày hôm qua. Tuấn, con trai Trâm, là đứa cháu đã có công nhất trong việc giúp bà sống lại với quá khứ. Sau những giờ làm bài, học bài trong căn phòng đóng kín cửa, Tuấn thường ôm bà và hỏi han đủ chuyện. Những câu hỏi mà cháu đã hỏi bà không biết bao nhiêu là lần. Cháu hỏi, là đã thuộc câu trả lời của bà. Nhưng vì biết rằng đó là một nhu cầu, một hạnh phú của bà nên cháu cứ hỏi, hỏi hết ngày này qua tháng khác.
- Bà ơi! Hồi ông cưới bà, bà mấy tuổi? Bà có biết mặt ông trước ngày cưới không?
- Bà có mấy anh chị em nhỉ? Cháu nhớ bà là út, chị của bà là bà Nga, bà Ngạn, bà Khiết, còn những ai nữa hả bà?
- Bà ơi, tại sao bà Nhỡ, chị của ông ngoại lại ở tuốt trên Yên Bái? Tại sao sư già lại tu ở chùa Cầu Bây?
- Hồi cụ ngoại mất ở Huế, bà có vào không? Mộ cụ để ở chùa Vạn Phước phải không bà? Đám tang cụ chắc to lắm?
Mắt bà cười, miệng bà cười, đáp lời cháu:
- Hồi ông cưới bà, bà mới mười ba tuổi, ông mười sáu, đang học ở Hà Nội, bà không biết mặt ông trước ngày cưới. Cưới xong ông lại ra Hà Nội, bà ở nhà quê với cụ, cụ góa chồng, bà Quỳnh đã lấy chồng ở Hà Nội, bà Nhỡ lấy chồng ở yên Bái, sư già đi tu nên cụ cưới bà về cho nhà đỡ vắng vẻ.
- Cụ người Huế nhưng cụ ông người Bắc Ninh. Sau này cụ vào thăm bà Quỳnh nên mất ở Huế. Lúc cụ đau, bà vào thăm, cụ dặn bà nếu cụ mất ở Huế, cố mang xương cốt cụ về Bắc Ninh. Vì loạn lạc, bà không làm được theo lời cụ dặn dò, thành ra, mộ cụ ông và mộ ông ngoại ở Bắc Ninh. Mộ cụ bà ở Huế, mai mốt mộ bà ở Mỹ.
Mẹ Trâm góa chồng từ năm bốn mươi tuổi. Và từ đó, vũ trụ của mẹ là sáu anh chị em Trâm. Hồi bố Trâm mất, anh Dũng ở Hà Nội không về dự đám tang được vì Việt Minh chiếm đóng quê Trâm. Được tin bố mất, anh bỏ bữa cơm chiều ở nhà chị Tú, ra bờ hồ, ngồi khóc một mình. Ít lâu sau, anh lo đón mẹ và anh chị em Trâm ra Hà Nội. Anh đi làm rất vất vả để giúp gia đình. Anh Dũng là tấm gương sáng cho anh chị em Trâm trong suốt cuộc đời. Anh chị em Trâm yêu thương, đùm bọc nhau trong mọi hoàn cảnh, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Trâm mở cửa bước vào nhà. Mẹ và tất cả mọi người đã quây quần ngoài phòng khách. Hoa và Bích đang loay hoay trong bếp chuẩn bị bữa ăn sáng. Mẹ ngồi ở ghế dài, mặc cái áo len màu trắng. Tuấn bá cổ bà hỏi:
- Tối hôm qua bà được bao nhiêu tiền hả bà?
Mẹ cười rất vui với ánh mắt sáng và cái miệng móm mém:
- Kể cả tiền keng anh Hoài cho, bà được mười tám đồng.
Tuấn đùa:
- Bà cho cháu nhé, bà thương cháu nhiều nhất mà!
- Mấy đứa ở bên này sướng rồi! bà để dành khi nào đủ cho mỗi đứa ở Việt Nam mười đồng thì bà gửi.
Tuấn hỏi:
-Thế bà đã để dành tiền gửi về Việt Nam để làm giỗ cụ chưa?
- Có, nhưng bà chưa gửi. Còn những mấy tháng nữa cơ mà!
Ngừng một lúc, mẹ tiếp:
- Bà vẫn muốn gửi một món tiền kha khá để các bác làm vốn. Rồi mỗi năm cứ lấy tiền lời ra để mà làm giỗ, làm Tết, không biết có được không?
- Cháu thấy như vậy là hay nhất, mỗi năm bà khỏi phải lo lắng gửi về mà ở nhà vẫn có tiền.
- Với lại bà già rồi, sống nay, chết mai, biết gửi được mấy lần nữa?
Tuấn hôn lên vầng trán nhăn của bà:
- Bà không có chết. Bà sẽ sống lâu trăm tuổi. Bà còn đi ăn đám cưới cháu. Bà còn kể chuyện cổ tích cho con của cháu nghe nữa cơ mà!
Bé Tí đang ngồi xem truyền hình, nghe anh nói, phá lên cười:
- Anh Tuấn đã tìm được cô nào chưa mà đã nói chuyện đám cưới và có con?
Tuấn mỉm cười, nhìn Trâm trả lời em:
- Mẹ thích cô nào là anh cưới cô đó, anh khỏi cần phải mất công đi tìm, vì mai mốt anh ở với mẹ mà!
Bé Tí hỏi:
- Thế nhỡ vợ anh cũng muốn ở với bố mẹ cô ấy thì anh tính làm sao?
- Thì ở chung hết. Con anh sẽ có cụ, bà nội, bà ngoại và bố mẹ, tha hồ mà được chiều.
Bé Tí lại cười:
- Anh Tuấn có bằng Tiến sĩ về “Xạo” hồi nào vậy?
Hoài đáp giùm Tuấn:
- Từ hồi nó lên ba tuổi. Nhưng mà nó xạo dở ẹc, nghe là thấy xạo rồi.
Tuấn nói:
- Như vậy tức là anh Hoài Xạo hay lắm? Thế thì em nhận anh làm sư phụ, anh chịu không?
Từ trong bếp, Hoa nói vọng ra:
- Mấy người đàn ông dọn bàn để ăn sáng! Bánh cuốn nóng hổi đây, lẹ lên kẻo bà đói bụng.
Hoài lè nhè:
- Đàn ông không vào bếp. Đàn ông không dọn bàn! Đó là truyền thống dân tộc, mình phải gìn giữ.
Bích tuyên bố dứt khoát:
- Thế thì đàn ông nhịn đói. Để đàn bà ăn hết!
Nói qua nói lại một lúc, cuối cùng, việc dọn bàn vẫn là của nhà bếp với sự trợ giúp của bé Tí. Đàn ông không phải nhịn đói, và hôm nay, gia đình Trâm vẫn giữ được "truyền thống dân tộc."
Trong khi ăn, cả nhà “hội thảo" rất sôi nổi về đàn ông và đàn bà ở xã hội Việt Nam và xã hội Mỹ. Phái nữ gồm Bích, Hoa, bé Tí đã gầm thét lên vì những bất công mà phụ nữ ở xã hội Việt Nam phải gánh chịu. Phái nam gồm Hữu, Hoài, Hùng và Chương thở ngắn than dài vì “đầu thai lầm thế kỷ”, nên đã phải sống trong xã hội Mỹ, một xã hội bênh vực quyền lợi của người phụ nữ một cách quá lố. Tuấn, không hiểu vì sợ chị Bích đòi lại đĩa bánh cuốn nóng hổi với những lát chả lụa thái mỏng và hành phi thơm phức, hay vì cảm thông với cả hai phe mà trong trận chiến, Tuấn chỉ ngồi im, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười phụ họa.
Trong lúc Hùng ca ngợi người phụ nữ Việt Nam thuở xưa "Công, dung, ngôn, hạnh, tam tòng tứ đức", hy sinh cho chồng con...thì Bích ngừng ăn, trợn mắt, hét lên:
- Đàn ông Việt Nam ngày xưa khôn lắm! Không cho đàn bà đi học, để cho ngu đi, để họ bảo gì phải nghe nấy! Đàn ông viết sách, làm thơ giả vờ ca ngợi phụ nữ để phụ nữ phải ép hồn, ép xác mà sống theo mẫu người mà các ông đã nặn ra. Nào là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu...”
Các cụ ông lại còn cho các cụ bà có "cái quyền" đi cưới vợ bé cho chồng nữa chứ! Thử hỏi có người đàn bà nào khùng đến nỗi muốn đi cưới vợ khác cho chồng không?
Chương cười khà khà:
- Hùng bắt trúng "đài" của Bích rồi đấy! Coi chừng chạy không kịp đó nhé!
Sau khi ăn điểm tâm và dọn dẹp xong, bé Tí nhanh nhẩu trải tấm mền xanh và một miếng bìa ra giữa phòng khách:
- Nào, ăn kem bốn màu với bà, cho bà vui (Chơi tứ sắc). Anh Hoài, bác Yến, anh Hùng vào đây. Cháu chơi ké với bác Yến.
Những quân bài nhỏ xíu, bốn màu, được xoa xoa trên tấm bìa cứng, được bốn người chơi bài cầm gọn ghẽ trên tay. Những đồng tiền keng, chạy qua chạy lại từ người này sang người khác. Tiếng cười nói rộn rã. Trâm ngắm mẹ, nét mặt mẹ thật vui và hiền hậu.

Ngoài kia, nắng đã lên cao. Nắng xuyên qua cành lá, lung linh rọi vào phòng khách qua khung cửa kính. Trâm mỉm cười, hài lòng với buổi sáng hạnh phúc mà Trâm đã may mắn có được. Trâm tận hưởng và sẽ luôn luôn giữ mãi trong lòng, để được yêu thương, để được sống./.

Lê Thị Nhị -Tuyển tập Ngày Về
linhvang
#5 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:48:36 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 9:55 am
Tiêu đề: Giấc Mơ - Lê Thị Nhị

Giấc Mơ
Lê Thị Nhị

Mai nằm nghiêng, đầu hơi ngẩng lên, âu yếm ngắm chồng. Trong vùng ánh sáng êm dịu của căn phòng xinh xắn, Phong ngủ ngon lành. Hình như những tất bật, lo âu, đã không còn hiện hữu trên cuộc đời này. Khuôn mặt Phong hồn nhiên, an lạc. Cánh tay rắn chắc, bàn tay gân guốc, nằm im, ngoan hiền. Cái miệng rộng không còn hăm hở, tham lam. Đôi mắt khép lại, thôi nhìn nàng đắm đuối, cuồng si. Tấm mền xanh lá cây đắp ngang ngực Phong, lên xuống nhè nhẹ theo hơi thở của chàng. Mai mỉm cười hạnh phúc. Cái hạnh phúc thật tròn, thật đầy, của một người vợ biết được chồng yêu thương. Cái hạnh phúc thật trong, thật sáng của một người mẹ có những đứa con ngoan ngoãn, thành công. Cái hạnh phúc tuyệt vời của một người nhìn thấy công lao khó nhọc của mình đang trổ hoa kết quả.
Chiều nay, khi đi làm về, Mai đã ngạc nhiên thấy xe của Phong đậu trước cửa nhà. Nàng lo lắng than thầm: “Chắc Phong lại mất việc!”.
Những cái hóa đơn phải trả hàng tháng lướt nhanh trong đầu nàng. Mai nghĩ đến số tiền để trong quỹ tiết kiệm: “Chắc kỳ này phải lấy ra quá! Tiền lương của nàng và tiền thất nghiệp của Phong đâu có đủ chi tiêu trong gia đình!”
Mai bước vào nhà với nét mặt không vui. Phong đón nàng ở cửa, cười thật tươi:
- Em nghỉ một chút, rồi thay áo đẹp, chúng mình đi ăn hiệu, mừng anh có việc mới.
Mai thở phào nhẹ nhõm:
- Thấy xe anh ở nhà, em hết hồn, tưởng anh mất việc. Anh xin việc mới sao không nói với em?
- Nói trước, sợ xui.
- Anh mà cũng tin dị đoan?
- Một phần thôi. Phần nữa là anh không muốn em hy vọng khi việc mới chưa đi tới đâu cả.
Mai hấp tấp hỏi chồng:
- Việc mới ở đâu vậy hả anh?
- Ở Metro, lương cao nên anh quyết định nghỉ việc dọn dẹp ở cao ốc, từ hôm nay.
Phong nheo mắt, nhìn vợ nói tiếp:
- Thế là từ nay, anh chỉ làm đêm cho em thôi, em chịu chưa?
Mai cười, nói lảng:
- Lúc này, khu mình ở, kém an ninh, có anh ở nhà, em cũng đỡ sợ.
Phong quàng tay ôm ngang lưng vợ:
- Muốn anh ở nhà, chỉ vì thế thôi à?
- Anh muốn em nghĩ khác?
- Không phải anh muốn em nghĩ khác, mà là em đã nghĩ khác. Nhưng em không dám nói ra, đúng không?
Rồi Phong cười vang:
- Chuyện người lớn, can chi mà em mắc cở? Anh thì anh vui lắm! Anh muốn la hét cho sập trời, động đất, vì mấy năm nay đi làm đêm, vợ chồng không được ngủ bên nhau, nhiều lúc anh muốn khùng lên vậy đó!
Mai an ủi chồng:
- Sự cực khổ của cả gia đình mình đã có kết quả rồi đó anh. Này nhé, các con anh đã tốt nghiệp đại học, căn nhà mình đã trả gần hết. Mình lại có một số tiền khá khá trong quỹ tiết kiệm. Bây giờ, chúng mình làm ít hơn một chút cũng được anh ạ.
Phong đề nghị:
- Mấy năm nay, vợ chồng mình chẳng bao giờ thấy mặt trời, mặt trăng. Chẳng bao giờ được ôm nhau ngủ trọn một đêm. Anh định hè này tụi mình đi trăng mật ở biển mấy ngày, mướn khách sạn đàng hoàng, em chịu không?
Mai lườm chồng:
- Chưa gì anh đã định tiêu hoang rồi! Đi như vậy, tốn chết! Vả lại, các con còn phải đi làm.
Phong cười nhăn nhó:
- Anh có định đi với các con đâu! Vợ chồng mình đi “trăng mật” mà!
- Thế ai nấu ăn cho các con?
- Em rõ khéo lo! Chúng nó tự nấu lấy được mà. Nếu lười, chúng nó ăn hiệu hay ăn “pizza” mấy bữa là được rồi.
Nghe chồng nói, Mai cũng xiêu lòng. Từ ngày sang Mỹ, mặc dù Mai là người thích sống đơn giản, nhưng cuộc sống ở đây vẫn quay tít nàng như một con bông vụ. Những nhu cầu vật chất của gia đình nàng ngày một gia tăng khiến nàng phải làm ngày, làm đêm. Những bữa cơm gia đình họp mặt chỉ còn là điều mơ ước, không thể thực hiện. Niềm vui của vợ chồng nàng bây giờ là trả những cái hóa đơn đúng kỳ hạn, là cái “balance” trong chương mục tiết kiệm, là những đồ đạc đắt giá trong nhà. Vợ chồng nàng cũng là tấm gương cho các con noi theo.
Bạch Cúc, Thu Hồng và Tuấn đều chăm làm, chăm học. Mỗi sáng sớm, các con nàng cùng nhau đến trường bằng một cái xe cũ. Học xong, cả ba đứa làm việc ở trường, sau đó, lại đến thẳng hiệu ăn gần đó làm tiếp, đến gần mười hai giờ khuya mới về tới nhà. Nhiều lần, Mai cằn nhằn:
- Các con làm việc nhiều như vậy, làm sao mà học?
Lúc nào, nàng cũng được các con trả lời:
- Làm ở trường nhàn lắm, chúng con vừa làm, vừa học được mà mẹ. Có việc, không làm, cũng phí.
“Có việc, không làm, cũng phí!” là lý luận chung của cả gia đình nàng. Thành ra khi nghe các con nói vậy, Mai chỉ còn biết cười xòa. Tuy nhiên, nàng vẫn cảm thấy áy náy, xót xa khi nhìn dáng đi thất thểu của các con sau một ngày dài vất vả.
Đôi khi, Mai ngẩn ngơ luyến tiếc khoảng thời gian đã trôi qua. Chớp mắt một cái, các con nàng đã khôn lớn. Mới hôm nào, đôi bàn tay nhỏ xíu của Tuấn còn lướt trên phím dương cầm để tặng mẹ những bản nhạc mà mẹ ưa thích. Mới hôm nào, Bạch Cúc còn nhí nhảnh trong điệu vũ trống cơm. Mới hôm nào, Thu Hồng còn tròn miệng hát hò trong một chương trình văn nghệ thiếu nhi. Hình như Mai không hề biết, từ bao giờ, mái tóc Phong đã bạc phơ và mái tóc nàng không thể không nhuộm mỗi tháng một lần. Khuôn mặt và thân thể nàng đã không còn dùng son phấn, áo quần, để che lấp được sự tàn phá của thời gian. Cánh tay rắn chắc và bàn tay gân guốc của Phong vì làm việc nhiều, vẫn không che dấu được vẻ chậm chạp, mệt mỏi, của tuổi năm mươi. Mai chợt nhớ tới Vân, chị của nàng. Đời sống của chị sao mà an nhàn, vui vẻ thế. Có lần chị bảo:
- Cô lo gì mà lo lắm thế! Làm gì mà làm ngày, làm đêm, không biết trời biết đất gì hết! Làm thì cũng phải hưởng chứ!
Mai than:
- Tụi em làm thế mà vẫn không đủ chi dùng trong gia đình đó chị ơi! Ở đó mà hưởng. Em phục chị sát đất, lúc nào chị cũng tà tà mà cuối cùng, cái gì chị cũng có.
Chị Vân cười ngất:
- Tôi nợ như chúa chổm đó cô ơi! "Credit card" cái nào cũng đầy ắp, gia tài có cái nhà thì thỉnh thoảng lại tái tài trợ để lấy tiền ra mà tiêu. Các con tôi, chúng đều có người yêu tên là “Loan” cả. Chúng nó mượn tiền tối đa để trả học phí nên có ra trường cũng còn lâu mới được sờ đến tiền.
Ngừng một lúc, chị chép miệng:
- Ôi! Tiêu trước thì đừng tiêu sau. Chứ tôi thấy gia đình cô, tôi hãi quá! Nhà thì trả hết, con tốt nghiệp đại học mà không nợ một xu. Tương lai thì sáng sủa lắm, nhưng hiện tại thì thê thảm quá!
Mai tròn mắt khi biết được bí quyết sông an nhàn và thảnh thơi của chị Vân. Nhớ lại lời khuyên của chị “Làm thì cũng phải hưởng” Mai thấy ý định hai vợ chồng đi biển nghỉ ngơi vài ngày của chồng thật hợp lý. Thực ra, Mai cũng rất thèm được cùng chồng sống những ngày thảnh thơi, hạnh phúc, gần gũi với thiên nhiên, nô đùa cùng sóng biển...
- Em nghĩ gì mà thừ người ra thế?
Tiếng Phong khiến Mai giật mình. Nàng nhìn chồng với ánh mắt mơ màng:
- Em đang thấy chúng mình nằm dài trên bãi biển, tắm nắng, ngắm trăng sao và nghe sóng vỗ rì rào...
Phong ôm lấy vợ:
- Như thế nghĩa là em bằng lòng?
- Đề nghị của anh hấp dẫn quá! Thôi thì liều một phen.
Phong bàn:
- Em tạm thời nhường chức thủ quỹ cho anh nhé? Đi chơi mà em cứ so đo từng đồng, mất cả vui. Không chừng em lại mang cơm nắm muối mè và thịt kho mặn đi "trăng mật" thì chính phủ Mỹ sẽ trục xuất chúng mình về Việt Nam đấy!
Mai cười khúc khích:
- Muối mè và thịt kho mặn làm cho tình chồng vợ của mình thêm mặn mà chứ có sao đâu anh?
- Thôi em ơi! Nhạt nhạt được rồi! Anh sợ thịt kho mặn còn hơn sợ Việt Cộng nữa đấy!
Mai lại cười, tiếng cười trong như pha lê vang lên trong căn phòng nhỏ. Suốt buổi chiều, Phong và Mai quấn quít bên nhau như một cặp nhân tình trẻ. Họ nhắc lại quá khứ mộng mơ, những buổi chiều lộng gió, Mai ngồi sau lưng Phong trên chiếc xe Vespa, nép sát vào người chàng, chạy vòng vòng khắp thành phố Sàigòn. Những buổi dạ vũ tưng bừng náo nhiệt của gia đình không quân, Phong và Mai ôm nhau, quay tròn trong tiếng nhạc luân vũ. Rồi ngày cưới, Mai đẹp như một nàng tiên, Phong oai như một anh lính tầu bay. Rồi đứa con đầu lòng, đứa con thứ hai, đứa con thứ ba ra đời. Họ nhớ lại những ngày gian khổ, vượt trùng dương đi tìm đất mới. Rồi họ đến Mỹ. Rồi họ đi làm ngày, làm đêm. Rồi họ chẳng nhìn thấy mặt trời, mặt trăng. Rồi họ chẳng nhìn thấy mặt nhau.
Hôm nay như một phép lạ, vợ chồng Mai được sánh vai nhau bước vào một hiệu ăn sang trọng, được ngồi đối diện nhau nói chuyện xưa sau. Đêm về, trong căn nhà ấm cúng, dưới ánh đèn mờ, Mai được gối đầu lên cánh tay chồng, nghe hơi thở của chàng, nghe chàng thủ thỉ những lời yêu đương mà đã từ lâu nàng chẳng được nghe. Mai choàng tay ôm chồng, ngủ thiếp đi trong niềm hạnh phúc ngọt ngào và giấc mơ “trăng mật” với biểm trời xanh mênh mông, nắng vàng, cát trắng...
Mai mở choàng mắt khi nghe tiếng chim hót ríu rít ngoài song cửa. Những tia nằng đầu ngày len lỏi qua vòm cây, lọt vào phòng, lung linh nhẩy múa trên tấm thảm màu ngà. Cây quạt trần năm cánh, màu nâu đậm, quay tròn, thật đều và thật chậm. Trên tường, bức ảnh hai vợ chồng chụm đầu vào nhau, cười hân hoan trong ngày cưới được treo phía trên ba bức ảnh của Bạch Cúc, Thu Hồng và Tuấn mặc áo choàng, đội mũ đen trong ngày ra trường với nụ cười rạng rỡ. Mai định đánh thức chồng dậy để chia sẻ với chàng những niềm vui đang tràn ngập trong tâm hồn nàng. Nhưng khi nhìn nét mặt hồn nhiên, đôi mắt khép chặt, đôi môi mím như cười của chàng, nàng lại thôi. Mai thầm nhĩ: “Tội nghiệp, lâu lắm mới được một giấc ngủ ngon!”
Mai vào phòng tắm, ngâm mình trong bồn nước ấm, mơ màng tính toán chuyện tương lai. Nàng sẽ đề nghị với Phong, bán căn nhà này để mua một căn khác ở một khu sang hơn, an ninh hơn. Vợ chồng nàng sẽ chỉ đi làm việc ban ngày để còn thời giờ nghỉ ngơi và chăm sóc nhà cửa. Khi các con đi làm, lương khá, nàng sẽ bắt chúng góp tiền ăn tiền ở. Rồi nàng sẽ để dành riêng cho mỗi đứa, phòng khi có đám hỏi, đám cưới. Việc quan trọng của nàng là phải liên lạc với bạn bè để lo tìm dâu, tìm rể. Hồi nào tới giờ, các con nàng mải làm, mải học thành ra có quen ai đâu, nói gì tới bạn trai, bạn gái. Hay mình giúp chúng nó mua nhà trước, kẻo thấy có tiền lại tiêu phung tiêu phí cho bằng hết. Ấy, không được, phải lo cưới vợ, lấy chồng trước. Chậm chạp quá, những cậu, những cô học giỏi, đẹp trai, xinh gái người ta “vớt” hết, còn đâu đến lượt mình? Tên của những người bạn có con cùng lứa tuổi với con nàng lướt nhanh trong đầu. Nàng phải mở tiệc để bọn trẻ gặp gỡ nhau trước đã, sau đó, cô cậu nào chịu nhau mới tính đến chuyện gặp gỡ riêng để tìm hiểu nhau thêm. Nếu không tìm được cô nào, cậu nào ở đây thì nàng sẽ rủ các con đi chơi Cali, Texas. Hai nơi đó, nàng có nhiều bạn cũ, nhất định sẽ tìm được dâu hiền, rể quý. Nghĩ tới được làm xui gia với bạn bè, Mai mỉm cười thú vị. Nàng cất tiếng hát nho nhỏ bản nhạc La Vie En Rose mà nàng hằng ưa thích.
Có tiếng gõ cửa phòng tắm rồi Phong nói vọng vào:
- Cho anh tắm chung với!
Mai đỏ mặt gắt chồng:
- Suỵt! Coi chừng các con nghe thấy!
- Chúng nó đi làm rồi!
- Thường thì sáng thứ bẩy các con ở nhà mà!
- Ừ, nhưng hôm nay sở họ cần, họ gọi, không lẽ chúng nó chê à?
Mai vừa cài nốt cái khuy áo vừa nói:
- Em đang định ra đổ bánh cuốn nóng để cả nhà cùng ăn sáng.
Phong đề nghị
- Chúng mình đi Virginia ăn phở rồi đi chợ Việt Nam, luôn thể lấy mấy tờ báo về đọc cho vui nghe em?
- Dạ!
Mai bước ra khỏi phòng tắm với cái khăn lông màu xanh vắt chéo trên đầu, che mái tóc còn ướt. Dáng dấp mảnh mai của nàng thướt tha trong bộ áo ngủ mỏng, rộng thùng thình dài chấm gót chân. Nét mặt không son phấn của nàng tươi thắm như hoa đồng, cỏ nội. Phong chợt nhớ tới Thanh, bạn chàng. Trong một buổi họp thân hữu, sau khi đã nốc hết một chai rượu mạnh, anh chàng lè nhè: “Thằng nào nói yêu vợ là nói láo! Vợ thì yêu thế chó nào được!” Phong bật cười thành tiếng. Mai ngơ ngác hỏi:
- Tại sao tự nhiên anh cười?
Phong giải thích:
- Ngắm em, anh chợt nhớ tới anh Thanh, anh ấy bảo người nào nói yêu vợ là nói láo.
Mai cười:
- Anh ấy nói trúng tim đen các ông, phải không?
- Có thể đúng với nhiều người đàn ông, nhưng không đúng với anh. Càng ở lâu với em, anh càng yêu. Kiếp này được lấy em, kiếp sau, kiếp sau nữa anh cũng vẫn muốn lấy em.
Mai cười dòn tan:
- Anh nói dối trơn tru như mấy anh chàng bán xe hơi. Nhưng mà em cũng thích lắm, còn hơn phải nghe những sự thật phũ phàng.
Phong ghé vào tai vợ, thì thầm:
- Bây giờ, anh chứng tỏ cho em biết là anh yêu em thật sự, em chịu không?
Mai đẩy chồng ra:
- Anh kỳ quá à! Để em trang điểm, rồi chúng mình đi ăn sáng kẻo anh lại kêu ầm lên vì đói bụng bây giờ.

Buổi sáng thứ bẩy tại khu thương mại Eden thật đông vui, nhộn nhịp. Mai nắm tay Phong đi hết hiệu này sang hiệu khác. Niềm vui vì Phong có việc mới khiến hôm nay họ tiêu tiền có vẻ thoải mái hơn thường lệ. Phong và Mai ngừng lại lâu nhất ở hiệu sách. Phong ngỡ ngàng vì thấy sách mới xuất bản nhiều quá sức tưởng tượng của chàng. Từ mấy năm nay, làm việc vất vả, Phong đã phải bỏ cái thú đọc sách. Hôm nay Phong muốn thưởng cho mình một vài cuốn sách nhưng chàng đắn đo mãi không biết nên mua cuốn nào? Cuối cùng, chàng chọn hai cuốn của hai tác giả mới ở hải ngoại và một cuốn của nhà văn nữ ở trong nước mà chàng đã đọc một bài phê bình trên một tuần báo.
Lúc ra khỏi hiệu sách, Mai nói với chồng:
- Hôm nay vợ chồng mình sang quá! Đã đi ăn phở lại còn mua sách và băng nhạc nữa!
- Mười mấy năm rồi còn gì nữa em, mình phải hưởng một chút chứ, sắp già đến nơi rồi.
Mai nhìn chồng âu yếm:
- Già rồi chứ còn sắp gì nữa anh. Tóc anh đã bạc trắng, trán em đã đầy những vết nhăn, anh không thấy sao?
Buổi sáng, buổi chiều, êm đềm trôi qua. Phong và Mai như ngược giòng thời gian, sống lại những ngày xưa dấu ái.
Bữa cơm tối, cả gia đình quây quần chuyện trò vui vẻ. Trên bàn, món bún thịt nướng thơm phức. Tuấn hít hà, suýt soa:
- Thơm quá! Ngon quá! Ngon hơn “Pizza” nhiều!
Bạch Cúc nói:
- Thế là bố mẹ yên tâm Tuấn sẽ lấy vợ Việt Nam nhé!
Thu Hồng hỏi bố mẹ:
- Con trai cần lấy vợ Việt Nam, còn con gái thì lấy Mỹ cũng được, phải không bố mẹ?
- Mai phản đối:
- Không được, mẹ không biết nói tiếng Mỹ, phải múa tay, múa chân để nói chuyện với con rể Mỹ và các cháu thì phiền lắm!
Phong hỏi Thu Hồng:
- Con cảm anh chàng mắt xanh, tóc vàng nào rồi hay sao mà dạo đàn vậy?
- Nếu con có, bố mẹ có chịu không?
Phong đáp:
- Lấy chồng là quyền của con, không thích là quyền của bố mẹ.
Bạch Cúc cười vang:
- Thu Hồng nó dọa bố mẹ đó, bố mẹ đừng lo. Nó có quen một anh chàng Việt Nam, coi bộ cô cậu chịu nhau lắm nhưng nó chưa chịu bật mí đó thôi!
Nghe Bạch Cúc tiết lộ bí mật, mắt Mai sáng hẳn lên, nàng hấp tấp hỏi:
- Anh ta là con cái nhà ai vậy? Học gì? đi làm chưa? Hôm nào con phải mời anh ta về nhà ăn cơm cho bố mẹ biết mặt.
Tuấn nháy mắt bảo chị:
- Chị phải lấy ngày sinh tháng đẻ của anh chàng để bố mẹ coi số tử vi xem có hợp không đã!
Thu Hồng đề nghị:
- Chị Bạch Cúc và Tuấn cũng phải đưa ngày sinh tháng đẻ của “ai đó” để bố mẹ đi coi tử vi luôn thể. Thầy nói hợp nhau thì mới tiến tới, nếu không thì gài số de ngay cho đỡ mất thời giờ.
Mai cười hả hê:
- Cả ba đứa đều có người yêu rồi à? Thế mà mẹ cứ lo con của mẹ ế! Mẹ đang định mở tiệc hoặc đưa mấy đứa đi Cali, Texas để tìm vợ, tìm chồng đấy.
Thu Hồng cười khúc khích:
- Mẹ làm như các cụ ngày xưa ấy! Thời nay, chúng con phải tự lo lấy việc tìm vợ , tìm chồng chứ!
- Đành vậy, nhưng mẹ chỉ sợ mấy đứa bận làm, bận học quá nên không có dịp gặp ai. Vả lại, bên này rộng lớn quá, người Việt ở rải rác khắp nơi, muốn gặp nhau cũng khó.
Bạch Cúc nói:
- Chẳng cần tìm mẹ ạ! Ông trời đã nặn cho mỗi người chúng ta một người, đúng ngày, đúng tháng, trời sẽ cho gặp để lên xe bông.
Tuấn đùa:
- Mong rằng cô nàng ông trời nặn cho em đừng bị "abortion"
Cả nhà cùng cười vang sau câu nói của Tuấn.
Câu chuyện cứ thế tiếp tục mãi tới khuya, xoay quanh đủ mọi đề tài. Hình như đã lâu lắm, hôm nay gia đình Mai mới có một bữa cơm xum họp vui vẻ. Mọi người tranh nhau nói, thi nhau cười. Mỗi người ôm một giấc mơ, một tương lai tươi sáng trong lòng./.

Lê Thị Nhị - Tuyển tập Ngày Về
linhvang
#6 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:49:44 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:01 am
Tiêu đề: Người Mẹ - Lê Thị Nhị

Người Mẹ
Lê Thị Nhị
(Người Mẹ là truyện ngắn đầu tay của Lê Thị Nhị đã được rất nhiều báo chí các nơi đăng lại vào những dịp: Ngày Cho Mẹ và Vu Lan. Các đài phát thanh ở Virginia, Texas, Cali, Canada...cũng cho đọc truyện này nhiều lần. Người Mẹ được nhiều người ưa thích vì đã nói lên được tâm tình và cuộc sống của những bà mẹ Việt Nam hiện đang sống nơi các "Nhà Dưỡng Lão" tại hải ngoại, cũng như đã nhắc nhở những đứa con đang mải mê chạy theo danh lợi đừng quên rằng người mẹ Việt Nam có những mơ ước rất nhỏ nhoi là được sống đơn giản trong tình gia đình thấm thiết! Linh Vang)

**************************************

Hình như ở vào lứa tuổi mùa đông của cuộc đời, mọi sở thích của bà Hương đã thay đổi. Sự thay đổi rõ rệt nhất là sở thích về màu sắc, các mùa và giấc ngủ.
Thời còn trẻ, bà Hương thường mặc áo màu xậm như màu đen, màu nâu, màu ve chai hoặc màu dưa cải úa. Bởi vì bà có một nước da trắng và khuôn mặt luôn luôn trông trẻ hơn so với số tuổi nên bà muốn mình già hơn một tí, đậm đà thêm một tí. Bây giờ thì bà lại muốn trẻ hơn một tí, sáng sủa thêm một tí. Do đó bà thường mặc những màu nhạt. Bà cũng không còn say mê ngắm cảnh chiều thu với những cụm mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh lơ và những chiếc lá vàng rơi nghiêng theo cơn gió nhẹ. Niềm vui của bà bây giờ là những buổi sáng mùa xuân, nắng ấm trải chan hòa khắp nơi nơi, là tiếng chim hót ríu rít trên cành, là những cơn gió thoảng ngoài hiên mơn man những chậu hoa, chậu lá đủ loại mà bà đã vun trồng.
Bà cũng thường đứng ngoài ban công, phóng tầm mắt về khu rừng phía sau cao ốc này, ngẩn ngơ ngắm những lộc non vừa trẩy lá xanh mướt sau một trận mưa xuân.
Bà không ngủ nhiều như xưa. Không phải vì bà mất ngủ như những người già khác mà vì bà muốn như thế. Bà có một ý nghĩ rất lẩn thẩn “Có một lúc mình sẽ ngủ luôn không thức dậy nữa. Bây giờ mà ngủ nhiều thì uổng quá!

Thấm thoát bà Hương đã vào ở khu nhà già này được một năm. Bà đã quen dần với đời sống ở đây. Quen dần với những bữa cơm chiều cùng các cụ già tóc bạc phơ, ngồi bên nhau hồi tưởng lại dĩ vãng đã xa xưa hoặc nói về các con, các cháu với sự yêu thương, hờn giận.
Bà Hương đã hội nhập với thế giới này. Bà đã tìm được một niềm vui, sự ấm áp bên những người bạn mới. Bà cũng không còn cảm thấy khó chịu mỗi lần gặp bà Thủy, với bộ mặt trét đầy phấn và đôi tay mang bốn cái vòng và bốn cái nhẫn bằng cẩm thạch xanh biếc.
Duy có một điều mà bà chưa quen là mỗi buổi sáng xuống ăn điểm tâm, được tin một cụ nào qua đời, bà lại suy nghĩ vẩn vơ suốt mấy ngày sau đó. Không phải vì bà liên tưởng đến cái chết của chính mình mà sợ sệt. Bà vẫn nhớ đến những tàu lá chuối héo khô sau khi thân chuối cho đời những trái chín ngọt ngào ở vườn sau nơi quê cũ. Hình như có một dao động nào đó trong tâm hồn bà. Những lúc đó, hình ảnh Hoa, con gái bà và hai đứa cháu ngoại, thằng Trường, con Nga đến với bà thật rõ, thật gần và thật ấm áp. Bà muốn trở về ngay ngôi nhà rộng mênh mông, nguy nga như một lâu đài ấy, để nhìn thật lâu vào khuôn mặt con gái, để ôm ghì hai đứa cháu vào lòng.
Bà biết, bà chỉ cần nhấc điện thoại lên, là bà có thể thực hiện được điều mong ước đó. Một chiếc xe sẽ đưa bà đến tận nhà của Hoa. Bà sẽ dẫm chân lạo xạo trên sỏi, trên lối đi nhỏ hẹp được ôm ấp bởi hai luống hoa Pensée tím vào mùa xuân, hoa cúc vàng vào mùa thu. Bà sẽ không vào khách mà bà đi thẳng vào bếp, mở tủ lạnh lấy những thứ cần thiết ra để nấu cho con gái, con rể và các cháu một món ăn đặc biệt. Rồi bà sẽ vào phòng của thằng Trường, con Nga dọn dẹp giùm chúng nó cho ngăn nắp vì phòng của hai đứa thường bề bộn.
Lại còn cái bàn trang điểm của Hoa trong phòng nàng nữa.. Cứ như một cái cửa hàng phấn son vậy. Đồ vật để lung tung không có thứ tự gì hết.
Rồi bà sẽ ra thăm bụi tre, xem nó có lan ra nhiều không? Và thân của nó bao lớn rồi? Bà cũng sẽ ra vườn hoa để xem mùa xuân năm nay Hoa có trồng thêm loại nào không? Phải nói là Hoa thuê người trồng mới đúng. Vì chẳng bao giờ Hoa có thời giờ rảnh để làm vườn. Vợ chồng Hoa làm chủ một tiệm ăn nổi tiếng là đông khách nên bận rộn suốt từ sáng cho tới nửa khuya. Hoa không có cả thời giờ với các con và thưởng thức vườn hoa ngào ngạt sắc hương thì còn nói chi đến việc săn sóc cây cảnh.
Bà Hương không hiểu nổi con. Bà cứ thắc mắc hoài tại sao Hoa phải làm việc vất vả quá như thế để có tiền mua một căn nhà to lớn, đẹp đẽ một cách không cần thiết?
Khi vợ chồng Hoa mua ngôi nhà đó, bà rất vui. Bà vui không phải vì ngôi nhà nguy nga, đồ sộ, nằm trên ngọn đồi và hai mẫu đất phía sau, với rừng cây cao bóng mát. Bà vui vì bụi tre ở góc vườn đã cho bà cảm giác như được nương bóng lũy tre làng nơi quê cũ. Lối đi có lót sỏi đã nhắc nhở bà nhớ tới những người bạn thuở ấu thơ đã cùng bà chơi ô ăn quan, chơi rải ranh với những hòn sỏi trắng tinh, xinh xắn. Những người bạn thuở ấu thơ, cái Chính, cái Chổng, cái Khuy...bây giờ cũng đã là những cụ già nhăn nheo, móm mém đang ở một nơi nào đó hoặc đã về đất, về trơ
Nhưng bà thật không hài lòng vì căn nhà quá rộng ấy! Căn nhà đã cho bà một cảm giác cô đơn, quạnh quẽ. Cô đơn, quạnh quẽ ngay cả những lúc con cháu có mặt ở nhà với những cánh cửa các phòng đóng im ỉm. Mỗi người một phòng, mỗi người một thế giới. Thỉnh thoảng mới có bữa cơm cả gia đình cùng ăn với nhau một cách vội vã. Bà Hương không muốn nhai mấy chục lần một hột nho khô như lời một thiền sư đã khuyên các thiền sinh trong một buổi tu học. Nhưng quả thật, bà không thấy ngon miệng trong những bữa cơm như thế.
Bà biết rằng nếu bà nói bà không thích căn nhà đẹp đẽ, khang trang này thì nhiều người cho là bà điên. Mà có lẽ bà điên thật! Vì bà vẫn ao ước được ở những ngôi nhà nhỏ hẹp để đi ra đi vào bà lại được nhìn thấy con cháu. Con vui thì bà vui, cháu buồn thì bà an ủi, con cháu ốm đau thì bà lo lắng.
Bây giờ, cuộc đời bà thật nhạt nhẽo và vô tích sự. Ngay cả việc bếp núc bà cũng không giúp gì được cho con vì gia đình Hoa không thích ăn cơm Việt Nam. Hoa thường nói “Ăn thức ăn Mỹ vừa bổ vừa nấu nướng nhanh mà lại không dơ bếp. Tội gì mà ăn cơm Việt Nam cho lách cách!”
Hoa lại thường mang thức ăn từ tiệm về nên căn nhà bếp lúc nào cũng bóng lộng, không có một hạt bụi. Cả phòng khách và phòng ăn cũng thế. Sạch sẽ, ngăn nắp như một cái phòng triển lãm đồ đạc. Sự bừa bãi dễ thương chỉ thấy nơi các phòng ngủ. Bà cho là sự bừa bãi dễ thương vì chỉ nơi đó bà mới thấy bóng dáng của sự sống, của các con, các cháu. Bà vẫn thèm ăn cơm Việt Nam với dưa chua, cá kho, mực tươi xào cà chua, bắp cải. Bà vẫn thèm bún thang, bún riêu, bún ốc... Nhưng thấy con bận rộn, bà không muốn con phải thắc mắc và lo cho bà. Bà cũng không muốn làm dơ bếp nên bà vẫn cười vui khen hamburger ngon, tấm tắc khi ăn những đĩa cơm, rau được khui từ hộp ra, hâm nóng trong Microwave vài phút.
Bà khen thức ăn Mỹ như khi xưa bà đã khen con gái đàn hay trong những ngày đầu học nhạc. Như bà đã khen những bức vẽ nguệch ngoại nhiều màu sắc khi Hoa học lớp mẫu giáo.

Bà Hương đi đi lại lại trong phòng thật lâu. Ý nghĩ về thăm con và cháu cứ loay hoay trong đầu bà. Cuối cùng, bà lắc lắc cái đầu, như một con vịt muốn rũ bỏ nước ướt trên mình khi lên đến bờ ao.
Giờ này vợ chồng Hoa còn ở ngoài tiệm. Thằng Trường con Nga còn đi chơi banh. Thôi thì ở lại đây coi phim Tàu, nghe nhạc, hoặc xuống phòng khách gặp những người bạn già cùng nhau nói chuyện xưa sau. Hay là sang gặp bà Thủy, nghe bà ấy khoe về con, về cháu cho bà ấy vui, cho bà ấy hạnh phúc.
Thời gian mới vào khu nhà già này, bà Hương thấy bà Thủy kiêu kỳ và phách lối đến dễ ghét. Mỗi tuần, bà Thủy được con đón về, bà ta rất hãnh diện. Trước khi về với con, thế nào bà Thủy cũng phải ghé vào các phòng chào bạn bè, hoặc nhìn trước, nhìn sau xem có ai thấy mình không. Rồi bà phân trần:
- Ấy, tôi cũng muốn ở lại đây với các cụ cuối tuần cho vui mà các cháu nó cứ bắt về. Tuần này chúng làm chá cá cho tôi ăn, không về chúng nó lại giận.
Lúc đầu bà Hương rất khó chịu vì bà Thủy vui trên nỗi buồn của người khác và nhất là ánh mắt thương hại mà bà Thủy dành riêng cho bà. Sau này thì bà Hương cũng quen đi, nhất là từ khi bà Thủy được xem hình ngôi nhà của Hoa và mỗi tuần bà Hương được xe đón vào sáng thứ bảy từ chín giờ tới chiều mới thả về thì bà Thủy kính nể bà lắm. Mỗi thứ hai, bà Hương lại được con gái gửi cho một bình hoa tươi do tiệm mang đến khiến bà Thủy không còn dám khoe khoang nhiều về con cháu nữa. Mỗi lần nhận được hoa, bà Hương lại cắm ra làm ba bình. Bà vốn không thích những bình hoa cắm theo kiểu Mỹ, trông giống như một mâm xôi đủ màu sắc. Bà bày một bình trên bàn thờ Phật, một bình trên bàn thờ các cụ và bố mẹ, còn một bình, bà bày trên cái bàn viết nhỏ kê ở góc phòng phía cửa sổ. Cái góc thân mật, bà vẫn gọi như thế.
Bà Thủy thường nói với bà Hương:
- Hôm nào, bà phải cho tôi gặp mặt cô Hoa mới được. Thời nay, sao lại có người con hiếu hạnh đến như thế cơ chứ! Thật là quý hóa quá!
Bà Hương than:
- Ối chà, cháu nó bận lắm, thành ra tôi phải sửa soạn sẵn, cháu nó tới là tôi đi ngay.

Nhiều hôm, bà Hương còn tản bộ ở con đường nhỏ dẫn vào cao ốc để chờ xe đến nên bà Thủy chưa hề có dịp gặp người con hiếu thảo ấy. Tuy nhiên, niềm hạnh phúc của bà Hương chỉ do bà Thủy loan truyền đi trong khu nhà dưỡng lão này. Còn bà Hương thì ít khi nói về mình và các con, các cháu. Bà Hương thường rất kiên nhẫn ngồi nghe các cụ khoe hoặc than thở về con cháu. Bà thường an ủi các cụ:
- Con nào mà chẳng thương cha mẹ. Nhưng đời sống ở đây vất vả quá nên nhiều người không có thời giờ để ý đến cha mẹ đó thôi. Đừng trách chúng mà mình cũng mất vui đi.
Đây là ý nghĩ thật hay không thật của bà Hương, nào ai biết được? Nhưng cũng nhờ những câu nói đại loại như thế mà nỗi buồn bị con cháu bỏ rơi của các cụ cũng vơi đi được phần nào. Bà Hương luôn luôn tươi cười vui vẻ với tất cả mọi người, nên ai cũng quý, cũng thương, cũng coi bà như một người tri kỷ. Và điều mà mọi người thích nhất ở bà là biết lắng nghe và không đưa chuyện, gây xích mích giữa người này với người kia. Mỗi khi có cuốn truyện h oặc tờ báo mới bà lại sẵn sàng cho người khác mượn. Trong túi áo hay trong ví, bà Hương thường có kẹo để mời bạn bè như ngày xưa người ta mời nhau ăn trầu mỗi khi gặp gỡ. Ngoài ra, bà còn có thuốc nhức đầu, sâm thái sẵn từng miếng mỏng, một ít tăm xỉa răng để trong cái hộp đựng son xinh xinh. Dĩ nhiên, trong ví bà cũng không thiếu hộp phấn hồng, thỏi son và lọ kem lót da mặt. Ba thứ mà bà cho là người phụ nữ, nhất là những người lớn tuổi không thể không có, không thể không dùng mỗi buổi sáng khi thức dậy.

Sáng nay, một biến cố đã xảy ra trong khu nhà dưỡng lão này. Cái tin bà Hương bị ngất xỉu và nằm mê man trong phòng tắm từ lúc nào không ai hay biết đã được loan đi thật nhanh, thật sớm. Nói là biến cố vì bà Hương còn trẻ so với đa số các cụ ở đây, và thường ngày bà rất ít đau yếu. Mà cũng chẳng nghe ai nói bà bệnh tim hoặc cao huyết áp nên không ai có thể ngờ được sự việc xảy ra. Hơn nữa, bà Hương lại là người được nhiều người yêu mến, nên ai cũng xúc động, thương cảm.
Nếu không có việc bà Thủy gõ cửa hỏi mượn bà Hương mấy con tem để gởi thư về Việt Nam thì có lẽ cũng chẳng ai biết bà Hương đã bị mê man bất tỉnh để mà gọi xe cứu thương. Lúc tám giờ sáng, bà Thủy gõ cửa rất lâu mà vẫn không thấy bà Hương ra mở cửa. Bà nghĩ thầm “Bà này chúa là đi ngủ khuya thành ra giờ này mà còn ngủ say như chết vậy. Mình đập cửa ầm ầm như vậy mà cũng không nghe.”
Bà Thủy quay về phòng. Rồi không hiểu sao, bà lại chạy sang phòng bà Hương đập cửa thêm một lúc nữa. Vẫn không thấy động tĩnh gì, bà Thủy đâm lo. Bà chạy vội xuống văn phòng báo tin cho bà Rachel, quản lý khu nhà dưỡng lão này. Bà Rachel nhanh nhẹn lên mở khóa, vào phòng bà Hương. Khoảng năm phút sau, một xe cứu thương và hai xe cảnh sát đã hú còi inh ỏi tới nơi chở bà Hương vào bệnh viện. Bà Thủy khóc sụt xùi đi xuống phòng ăn, bà năn nỉ ông Phong:
- Ông có xe, ông làm ơn chở chúng tôi vào nhà thương với bà ấy đi ông.
Không đợi bà Thủy nói lần thứ hai, ông Phong bỏ dở bữa ăn điểm tâm, nói:
- Cụ nào xong rồi thì mình đi ngay. Xe tôi chở được bốn cụ thôi. Tôi đi một chuyến trước rồi sẽ về đón thêm mấy cụ nữa.
Một cụ đề nghị:
- Nhiều lắm là mình đi hai chuyến, không lẽ mình vào chật cả nhà thương à?
Các cụ bàn nhau, nhường nhau để đi vào nhà thương. Các cụ họp tại phòng của bà Ngọc để tụng kinh cầu an cho bà Hương hoặc tại phòng cụ Vũ để đọc kinh cầu Chúa. Trên gương mặt các cụ hằn lên nỗi đau buồn, những giọt nước mắt lăn dài trên những gò má hom hem. Những món ăn điểm tâm đã được quẳng vào thùng rác nơi góc phòng. Bình hoa hồng trên cái bàn nơi cửa ra vào đã có một hai bông héo, gục đầu buồn bã. Những cái lá cũng đã ngả sang màu vàng úa.

Bà Thủy và các cụ già khác đi đi lại lại hoặc ngồi yên trong phòng đợi của bệnh viện, ai nấy đều có vẻ nôn n óng lắm. Tất cả đều cầu cho bà Hương được cứu chữa kịp thời. Hy vọng bà chưa bị mê man quá lâu. Họ hy vọng vào những bác sĩ tài giỏi ở bệnh viện nổi tiếng này. Bà Thủy vẫn khóc sụt xùi. Bà nhìn những vị bác sĩ như nhìn những vị thiên thần. Bà nhớ tới những củ sâm ngàn năm ở trong phim Tàu đã chữa lành những bệnh nan y. Bà muốn ở đây chờ tin tức của bà Hương, nhưng bà cũng muốn về phòng bà Ngọc để tụng kinh cầu an. Bà loay hoay nghĩ ngợi mãi không biết nên về hay nên ở?
Một người đàn bà Việt Nam còn trẻ, chạy hấp tấp vào phòng đợi, rồi đến cái bàn hỏi tin tức, nói bằng tiếng Mỹ với người ngồi đó. Bà Thủy đoán ngay đó là cô Hoa, con gái của bà Hương. Bà Thủy chạy tới bên cô Hoa nói:
- Cô là cô Hoa phải không? Tôi là bà Thủy. Bà cụ đã được đưa vào phòng cấp cứu rồi, chúng tôi chờ từ nãy mà chưa có tin tức gì cả.
Nước mắt rưng rưng, cô Hoa Nghẹn ngào đáp:
- Vâng, thưa cụ, cháu là Hoa. Cháu cảm ơn các cụ đã lo lắng v à giúp đỡ mẹ cháu.

Cô Hoa được vào phòng phía trong để thăm mẹ. Dù chỉ mới thoáng gặp, bà Thủy cũng thấy là cô Hoa rất đẹp và ăn nói lễ phép. Bà chép miệng nói với các cụ đứng bên cạnh khi nhìn theo bóng cô khuất dần phía hành lang bệnh viện:
- Gớm, người đâu mà lại được cả người lẫn nết!
Bà Thủy và các cụ vẫn kiên nhẫn ngồi ở phòng đợi. Không ai nói với ai một lời. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Những người Mỹ to lớn cũng ngồi, đứng chờ tin tức của người thân hoặc chờ đến lượt để được bác sĩ khám nghiệm ở quanh đó nên các cụ giữ ý, không muốn nói tiếng Việt Nam, gây sự chú ý của họ. Hai cây kim dài ngắn trên cái đồng hồ lớn treo trên tường vẫn nhúc nhích đều đặn. Chẳng một ai quan tâm đến giờ giấc. Nào có ai bận rộn gì đâu? Bây giờ, lòng dạ nào mà coi phim Tàu, nghe nhạc. Lòng dạ nào mà xoa mạt chược, tứ sắc hoặc ngồi nói chuyện gẫu với nhau.
Mãi gần mười hai giờ, cô Hoa mới ra báo tin:
- Mẹ cháu bị đứt gân máu, bây giờ còn mê man, không biết bao giờ mới tỉnh. Cháu xin cảm ơn các cụ và xin các cụ cứ về nhà nghỉ ngơi, có tin gì cháu sẽ báo để các cụ biết ngay.
Bà Thủy nói với cô Hoa:
- Bây giờ có cô ở đây với bà là chúng tôi yên tâm rồi! Gớm, sáng nay tôi sợ quá!
Cô Hoa cảm ơn bà Thủy một lần nữa:
- Cũng may có bà phát hiện ra sớm chứ không thì chẳng cứu nổi mẹ cháu đâu. Cháu cảm ơn cụ nhiều lắm.
Bà Thủy thành thật:
- Cô đừng khách sáo. Chúng tôi ai cũng quý bà nhà cả. Ở trong khu nhà dưỡng lão, chúng tôi coi nhau như ruột thịt vậy.
Buổi chiều, bà Thủy lại đi xe buýt vào thăm bà Hương. Bà được cô Hoa cho biết bệnh tình của bà Hương không thuyên giảm. Bác sĩ phải dùng máy để giúp sự sống cho bà Hương. Cô Hoa khóc, bà Thủy cũng rưng rưng nước mắt, rồi an ủi:
- Cô cũng đừng buồn lo quá! Thế nào rồi bà cũng qua khỏi. Có nhiều người mê man đến cả tuần rồi vẫn tỉnh lại đấy cô ạ.
Cô Hoa buồn rầu:
- Cháu cũng cầu cho mẹ cháu khỏi bệnh. Mẹ cháu hãy còn trẻ quá mà!
Bà Thủy nói cái ý nghĩ mà bà ấp ủ bấy lâu trong lòng:
- Cô thật là một người con có hiếu quá! Thời nay, những người con như cô thật hiếm hoi.
Cô Hoa thoáng ngạc nhiên và thẹn thùng vì lời khen ấy. Cô không hiểu mẹ cô đã nói gì về cô với bà Thủy. Suốt đời, cô đã làm gì được cho mẹ?
Khi bà Thủy tỏ ý muốn về thì cô Hoa Nói:
- Cháu cũng phải về phòng mẹ cháu để lấy giấy tờ và mấy thứ lặt vặt. Để cháu đưa cụ về luôn thể.
Bà Thủy mừng rỡ:
- Thế thì tốt quá. Tôi khỏi phải đi xe buýt.
Cô Hoa cùng bà Thủy đi ra bãi đậu xe, tới bên một cái xe màu trắng thật lộng lẫy, cô Hoa mở cửa cho bà Thủy rồi đi vòng sang phía bên kia, ngồi trước tay lái. Bà Thủy vừa thắt dây an toàn vừa nói:
- Cô mới mua xe này hồi nào vậy? Xe đẹp quá!
Cô Hoa ngạc nhiên: “Tại sao bà ấy lại hỏi vậy? Xe này mình mua lâu rồi mà!”
Cô chưa kịp trả lời, bà Thủy đã tiếp:
- Mọi lần tôi thấy cô tới đón bà bằng cái xe màu xanh xanh. Xe đó cũng đẹp và mới lắm mà cô đã lại đổi xe rồi.
Cô Hoa luống cuống làm sao mà khi lùi xe ra, cô đụng vào cái xe bên cạnh. Cô ghi một mảnh giấy, cài vào cái xe mà cô đã đụng rồi lái xe ra khỏi cổng bệnh viện, chạy thẳng về phía nhà dưỡng lão. Trên xe, bà Thủy vẫn nói chuyện đều đều nhưng tai cô Hoa như ù đi, cô nghe câu được, câu mất.
- Ở trong khu nhà dưỡng lão này, cụ nào cũng khen cô là người con hiếu thảo, lại biết làm ăn buôn bán giỏi. Mỗi thứ Bảy cô đến đón bà là chúng tôi cứ để ý xem mặt cô mà chẳng bao giờ gặp. Bà cứ bảo cô bận lắm nên chỉ ghé đón bà là đi ngay. Mỗi thứ Hai, cô gửi hoa cho bà, bà vui lắm mặc dù cái ban công của bà đã như một vườn hoa rồi. Nhưng bà không để y nguyên cái bình hoa đó đâu. Bà cắm thành ba bình. Bà bảo cắm hoa mà chen chúc chật chội thì không đẹp mà lại tốn nhiều hoa.

Cô Hoa chào bà Thủy rồi mở cửa vào phòng mẹ. Ba bình hoa trên bàn thờ Phật, bàn thờ các cụ và trên cái bàn ở góc phòng hãy còn tươi tốt. Quyển nhật ký của mẹ để trên bàn hãy còn mở ra, mẹ đang viết dở một trang. Đọc xong, cô Hoa gấp quyển nhật ký của mẹ, để vào ngăn kéo.
Cô Hoa gục xuống bàn khóc nức nở. Cô thì thầm: “Mẹ ơi! con có ngờ đâu con chiều mẹ, đưa mẹ vào đây để có bạn già trò truyện như mẹ mong muốn mà ra nông nỗi này. Mẹ ơi, mẹ phải sống thêm với con thêm ít năm nữa. Mẹ cho con một cơ hội, một cơ hội để làm mẹ vui. Bây giờ thì con hiểu mẹ rồi. Mẹ ơi! Mẹ ở lại với con, mẹ đừng bỏ con một mà đi. Con sẽ đến đón mẹ mỗi thứ Bảy, nhất định không phải là cô Cheng mà mẹ đã thuê để làm công việc đó. Chính tay con sẽ cắm những bình hoa đơn sơ nhưng có hồn để tặng mẹ. Mẹ sẽ không phải đặt từ tiệm những bình hoa như mâm xôi với nhiều màu sắc để tặng chính mình. Con sẽ đẻ thêm cho mẹ một đứa cháu để mẹ bồng ẵm, để mẹ thương yêu. Mẹ sẽ chỉ đến viện mồ côi khi lòng mẹ dâng lên một nỗi xót thương cho những đứa trẻ không may mắn. Con sẽ tập cho các cháu biết ăn mắm tôm, cá kho, dưa chua, bún thang có thêm giọt cà cuống...để cùng bà ăn những bữa cơm gia đình đầm ấm.
Mẹ ơi! Mẹ ơi, cho con làm lại từ đầu, mẹ nhé!

Lê thị Nhị
linhvang
#7 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:50:51 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:04 am
Tiêu đề: Đêm Cuối Cùng - Lê Thị Nhị

Đêm Cuối Cùng
Lê Thị Nhị

Chiếc đồng hồ trên tường thong thả buông mười hai tiếng. Đã mười hai giờ khuya! Loan âu yếm nhìn ba đứa con xinh đẹp đang ngủ ngon lành trên một cái giường thật lớn. Cái giường vừa đủ cho bốn mẹ con nàng. Mặc dù nhà khá rộng và có nguyên cả một phòng phía trong bỏ trống nhưng các con không chịu ngủ riêng nên Loan phải dùng cái giường này để mỗi tối truyện trò và kể chuyện cho các con trước giờ ngủ. Lúc các con yên giấc, Loan mới rón rén trở dậy làm tiếp những việc lặt vặt, hoặc viết nhật ký. Đó là những giây phút của riêng Loan, những giây phút mà nàng có thể trầm mặc với những suy tư và nở những nụ cười hạnh phúc của một người mẹ. Một ngày, đối với Loan, thật đầy ý nghĩa, từ buổi sáng sớm, lúc thức dậy, cho tới nửa đêm, lúc nằm duỗi dài chân tay đi tìm giấc ngủ.
Thường thường, bé Gào được nằm cạnh mẹ vì là út cưng. Còn phía bên kia, Tin Tin và bé Nhè thay phiên nhau. Nhưng hôm nay bé Nhè không chịu để chị nằm cạnh mẹ. Bé lý luận:
- Bé Gào được nằm cạnh mẹ hoài. Con cũng bé hơn chị mà không được chị nhường.
Loan dỗ dành:
-Tại vì con là con trai. Đáng lẽ con phải nhường chị luôn cơ đấy!
- Con trai cũng muốn nằm cạnh mẹ chứ bộ!
Phân xử mãi không có kết quả, cuối cùng Loan phải ghé vào tai Tin Tin nói nhỏ, Tin Tin mới chịu nhường em. Nhưng bé Nhè lại nhè nữa, mếu máo nói:
- Con không chịu mẹ nói thầm với chị đâu! Tại sao mẹ không nói thầm với con?
Bé Gào cũng xông vào trận chiến:
- Mẹ, quay qua đây nói thầm với con.
Loan phải vất vả lắm mới ổn định được tình thế. Rồi Loan kể chuyện cổ tích cho tới lúc các con ngủ thiếp đi mới thôi. Loan đặt nhẹ lên trán mỗi con một nụ hôn. Thời gian qua thật mau, Tin Tin đã mười tuổi, bé Nhè chín tuổi và bé Gào năm tuổi. Nhìn lại quãng ngày qua và những ngày sắp tới, lòng Loan dấy lên một nỗi buồn nhè nhẹ. Loan xót thương các con, vì chúng cũng như nàng, thiếu hẳn tình thương và sự dìu dắt của một người cha.
Loan bước ra khỏi màn. Nhìn sang cái giường nhỏ kê ở góc phòng, thấy con Hòa chưa ngủ, Loan dặn:
- Con để ý trông các em giùm cô nhé. Cô lên sân thượng hóng gió một chút.
- Dạ. Nhưng khuya lắm rồi, cô cũng đi ngủ kẻo cô lại bệnh nữa.
- Không sao đâu. Cô chỉ muốn lên lầu một chút cho thoáng thôi. Ở dưới này hầm quá! Vả lại, quạt máy làm cho cô hơi mệt.
- Dạ!
Con Hòa lại dạ. Hình như trời sinh ra nó để nó nói dạ. Nó an phận đến tội nghiệp.
Bỗng nó rụt r è hỏi:
- Thưa cô, cô và các em bao giờ đi ạ?
Loan dịu dàng đáp:
- Nay mai thôi con ạ.
Loan thoáng ân hận vì không cho con Hòa biết là ngày mai nàng và các con sẽ lên đường. Không phải nàng không tin nó, nhưng Loan muốn tránh cho nó sự xúc động, và nhất là không muốn bố mẹ chồng nghi ngờ. Từ ngày có phong trào vượt biên, bà Nam, mẹ chồng nàng , đã luôn nhắc nhở:
- Con đừng vượt biên nghe con. Con bệnh hoạn, lại yếu đuối, đừng mang con đi bỏ chợ, tội nghiệp chúng nó.
Ông Nam cũng thường nói:
- Mấy chục triệu người, người ta sống được, mình cũng sống được. Con cứ ở nhà, con có làm sao thì các cháu đã có bố mẹ lo.
Loan thấy sự lo sợ của ông bà Nam không phải là không có lý do. Ngay cả các bạn thân của Loan, khi thấy Loan chuẩn bị vượt biên với ba con nhỏ, ai nấy đều nói:
- Mày liều thật, nghĩ lại đi! Cho dù có thoát đi nữa, sang đó, làm sao mà sống? Mày lại mang chứng bệnh hiểm nghèo đó nữa!
- Còn lâu tao mới chết! Bệnh ung thư nó không làm gì tao đâu. Vì nó biết tao chưa thích chết, tao hãy còn yêu đời lắm!
Rồi xòe bàn tay ra, Loan nói:
- Nè, xem bàn tay tao. Đường may mắn thẳng tắp. Thế nào tao cũng thoát.
Có tiếng con Hòa khóc thút thít. Loan an ủi nó:
- Con đừng buồn! Cô và các em đi rồi, thế nào gia đình chú Hưng cũng về đây ở với ông bà.
Ngừng một lúc, Loan thở dài, tiếp:
- Chẳng biết lần này có thoát không hay là lại quay về như những lần trước.
Hòa nói nhỏ:
- Đêm hôm qua, con ngủ mơ thấy cô và các em đi thoát và đánh điện về.
Hòa mới mười lăm tuổi, quê ở miền Trung, chị nó làm cho Loan năm năm rồi về lấy chồng và nó vào thay thế. Loan đã đưa cho mẹ nó một số tiền lương năm năm để mẹ nó làm vốn buôn bán. Loan thương nó như một người thân trong gia đình. Cứ nghĩ, ở vào cái tuổi của nó mà đã phải xa cha mẹ, anh chị em, để đi làm thuê, làm mướn, cũng đủ cho Loan cảm thấy xót xa và yêu thương nó rồi. Ngược lại, con Hòa cũng thương Loan lắm. Nó không biết xử dụng ngôn ngữ để biểu lộ, nhưng nó thể hiện trong hành động tình thương và lòng biết ơn đối với Loan.
Sau biến cố bẩy mươi lăm, ông bà Nam bàn:
- Hay là cho con Hòa về quê? Để nó ở đây cũng sợ, mai mốt nó ra phường khóm nó tố thì rắc rối lắm!
Loan lưỡng lự:
- Con nghĩ là mình cứ để nó ở lại, nó ngoan lắm, không sao đâu. Không có nó, bà lại bận mà con cũng không có thời giờ lo việc ngoài được.
Mấy năm qua rồi, con Hòa vẫn làm việc chăm chỉ và ngoan ngoãn. Nó cũng rất ghét cái loa nheo nhéo ở đầu ngõ. Nó vẫn mê giọng hát Chế Linh, Thanh Tuyền hơn là những giọng hát the thé của các cô ca sĩ mới từ Hà Nội vào. Nó thích thú sưu tầm những lời ca nhại các bài hát hoặc những câu đố, câu vè của dân Sàigòn để đả kích chế độ mới: “Như có bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán. Lời bác nay thành đói rách điêu tàn...” “Cùng nhau đi vượt biên. Hà Tiên hay Rạch Giá. Mười hai cây vàng lá. Ta quyết chí đi thôi...”, “Nam kỳ khởi nghĩa thôi công lý. Đồng Khởi vùng lên mất tự do.”
Hòa cho Tin Tin, bé Nhè, bé Gào học tập cẩn thận những bài hát, những câu vè đó. Trước khi chấm dứt buổi học tập, nó không quên ra lệnh:
-Mấy đứa chỉ được hát nho nhỏ ở trong nhà thôi nghe chưa? Ra đường, mấy đứa mà hát thì công an sẽ bỏ tù mấy đứa. Mấy đứa sẽ không được ngủ với mẹ và không được ăn cơm với bí tết đâu.
Không biết con Hòa đã huấn luyện lũ con của Loan cách nào mà coi bộ chúng có vẻ học tập tốt lắm! Một hôm bé Gào đứng ưỡn ngực trước cửa, nói vọng sang nhà hàng xóm:
- Dì Bích Liên ơi! nhà cháu nghèo lắm, ăn khoa lang sùng và bo bo không à!
Nhìn khuôn mặt láu lỉnh với đôi mắt tròn xoe của bé Gào, bà hàng xóm cười nói:
- Trưa nay, dì sang, bé cho dì ăn khoai lang sùng và bo bo với nhé!
- Không được đâu dì Bích Liên! Cả ngày hôm nay, cả ngày mai, cháu sẽ xuống ăn cơm nhà bà ngoại.
Thì ra, ở chế độ này, đứa bé mới lên năm tuổi đã biết nói dối, đã biết đóng kịch.
Loan nhớ lời của Chương, một người bà con của nàng. Chương là một giáo sư, một nhà văn nổi tiếng:
- Em tưởng anh mê chế độ à? Không bay lên trời, không lặn dưới biển được thì anh phải theo họ để giữ nồi cơm thôi. Văn thơ của anh, toàn làm theo toa đặt hàng cả. Trong lớp học, anh giảng chính trị thao thao bất tuyệt, anh cũng ngượng lắm chứ!
Rồi Chương thành thật khuyên Loan:
- Em lo cho các con vượt biên đi. Không thể sống ở đây được đâu. Anh quen rồi, vả lại anh cũng có chút địa vị. Em có điều kiện, tội gì.
Không cần Chương khuyên, Loan cũng đã và đang lo chuyện vượt biên. Vì thực ra, từ ngày biết rõ về chế độ mới, đa số người dân miền Nam đều mơ một con tàu để vượt đại dương. Nhưng số người vượt thoát được không phải là nhiều, và số người bị chìm sâu trong lòng biển cả không phải là ít. Tuy vậy, phong trào vượt biên vẫn lan rộng như một vết dầu loang. Dân Sàigòn còn nói: “Cái cột đèn nó cũng muốn vượt biên” hoặc “Những người còn ở lại đều là dân ba N (nghèo, nhát, ngu)”
Loan nhớ tới một số “trí ngủ” của Sàigòn, họ ngủ khì ngủ khịt, rồi họ nghe đài B.B.C., V.O.A. Rồi họ hội họp nhau ở những quán cóc để bàn luận chính trị, họ chờ ngày chế độ Công Sản tự nó dãy chết để họ có thể cứu dân, giúp nước.
Loan nhớ tới những người có lòng, muốn ở lại để làm một chút gì cho quê hương, để chia sẻ những khổ đau, khó khăn chất ngất với đồng bào.
Loan không chờ, không đợi một phép lạ nào đến với dân Việt Nam đau khổ. Lòng yêu thương các con thúc đẩy Loan tìm đường vượt biển. Loan mơ ước các con nàng được sống, được thật sự sống ở một khung trời xa xôi nào đó. Các con nàng không thích hợp với cái thiên đường hạ giới này. Loan đã từ chối sự giúp đỡ của một người chú muốn giúp nàng có thể đi nước ngoài chữa bệnh. Loan dại gì mà phung phí những tháng ngày còn lại, dại gì xa các con, dù chỉ một ngày. Bệnh của Loan, cho dù bác sĩ không nói, Loan cũng biết nàng còn rất ít thời gian. Mỗi lần bóc một tờ lịch là Loan biết rằng mình đang đi gần đến cõi chết. Do đó, Loan hối hả lo vượt biên. Đóng tiền chỗ này, họ chưa kịp gọi, Loan đã lo đường khác. Loan húc càn, húc bậy như một con trâu điên, không cần để ý đến người tổ chứa là lạ hay quen. Mất mát khá nhiều, nhưng Loan vẫn không nản chí. Lần này, nàng hơi lo vì số vàng đã cạn gần hết. Loan không dám nghĩ tiếp, Loan nói với chính mình:
- Thế nào mình cũng thoát!
Loan bước nhẹ trên những bậc thang để lên sân thượng. Khi qua tầng lầu hai, phòng của ông bà Nam, Loan nghe tiếng quạt máy chạy xè xè. Ngày nào cũng vậy, ông bà Nam đi ngủ khoảng chín giờ tối và thức dậy lúc bốn giờ sáng để tụng kinh, niệm Phật. Trái hẳn với Loan, ngủ muộn và dậy muộn là thói quen, một cái thú mà không bao giờ Loan thay đổi.
Lên đến tầng lầu ba, Loan bước vào phòng thờ. Các ban thờ luôn luôn có hoa trái tươi và đèn sáng. Loan thắp nhang các ban thờ và lâm râm khấn vái.
Buổi sáng nay, xuống mẹ, thấy Loan thắp nhang bàn thờ bố, chị Trang đã nói đùa:
- Mày lại hối lộ bố, mày lại mưu định gì nữa đây?
Loan bước ra sân thượng, hương nhài thoang thoảng trong đêm cho Loan một cảm giác dễ chịu. Nhìn bầu trời đầy sao, Loan nhớ một bản nhạc của Hoàng Trọng và Vĩnh Phúc “Nhìn sao thề rằng yêu mãi người ơi...” Loan không thề, nhưng Loan biết chắc rằng Loan sẽ yêu mãi mảnh đất quê hương này. Nghĩ tới phải sống xa Việt Nam, Loan đứt từng khúc ruột. Nước mắt Loan dà dụa, cổ họng Loan nghèn nghẹn.
Từ biệt cây ngọc lan với những búp trắng thơm tinh khiết trên con đường Trương Minh Giảng. Từ biệt những đêm hè cùng các con ngắm trăng sao trên sân thượng của ngôi nhà mến yêu. Từ biệt tất cả những người thân trong đời. Từ biệt những người bạn quý...
Đang suy nghĩ miên man, bỗng Loan nghe tiếng dép và tiếng bà Nam:
- Mẹ đã ngủ được một giấc mà con chưa đi ngủ cơ à?
Loan lau nước mắt, cố lấy giọng tự nhiên đáp:
- Nóng quá, con ngủ không được nên lên đây hóng gió một chút.
Bà Nam ân cần:
- Con phải ráng ăn ngủ cho có điều độ, chứ không lại ốm thì khổ.
Loan cảm động trước sự săn sóc của bà Nam, nàng gượng cười, nói đùa:
- -Dạ, nhưng hồi này con khỏe lắm! Con đang định gửi bố mẹ mấy cháu, con vào rừng con ở cho rồi, ở ngoài này chán quá!
Bà Nam cười dòn tan:
- Chà, con nằm giường không có nệm thì ngủ không được mà còn nói chuyện vào rừng.
Loan tủm tỉm cười:
- Mẹ không biết đấy thôi, nằm trên cỏ còn êm hơn nằm trên nệm nhiều. Lại thơm mùi cỏ, mùi đất nữa, thích ắm!
Chuyện trò lan man với bà Nam một lúc, Loan vừa ngáp vừa nói:
- Con buồn ngủ quá rồi, mẹ cũng đi ngủ lại đi, sắp đến giờ bố mẹ niệm Phật rồi đấy.

Sáng hôm sau Loan mang các con đi vượt biên. Chuyến đi thành công vì bàn tay nàng có đường may mắn thẳng tắp!
Dù tất bật với cuộc sống mới nơi xứ lạ, nhưng không bao giờ Loan quên hình ảnh đêm cuối cùng trên sân thượng nơi quê nhà, với bầu trời đầy sao, hương nhài thoang thoảng và tiếng cười dòn tan của bà mẹ chồng hiền hậu./.
_________________
Linh Vang
linhvang
#8 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:51:43 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:07 am
Tiêu đề: Yêu Dấu Xưa - Lê Thị Nhị

Yêu Dấu Xưa
Lê Thị Nhị

Bốn mươi ngàn, tức là bốn đồng tiền Mỹ, Thúy sẽ được bác phu xe chở đi vòng quanh thành phố Hà Nội trọn ngày và Thúy muốn đi đâu thì tùy ý. Nhất định là Thúy sẽ ngừng lại ở cửa nhà của Toàn rồi. Căn nhà có giàn hoa thiên lý ngào ngạt hương thơm đã ghi dấu một quá khứ ngọc ngà của nàng thời học trò áo trắng. Quá khứ êm đềm, thơ mộng đã bám chặt vào tâm hồn Thúy, chẳng hề nhạt phai theo năm tháng.
Sau khi trả giá xong xuôi, Thúy leo lên chiếc xe xích lô cũ kỹ, ngồi dựa lưng về phía sau, đưa mắt ngắm cảnh phố phường Hà Nội sau một thời gian dài xa cách. Khoảng thời gian gần nửa thế kỷ như thu ngắn hẳn lại. Những con đường nhỏ hẹp với những ngôi nhà tường vôi loang lổ mà Thúy đi qua hình như vẫn còn vương vấn những dấu yêu của một thời xa xưa ấy... Phố Hàng Gai, Hàng Ngang, Hàng Đào, vẫn là những phố đông vui, tấp nập. Khi xe đi ngang qua hồ Hoàn Kiếm, trong lòng Thúy bỗng khơi dậy một ký ức xa xăm...

Thúy bước xuống tầu điện rồi đi thẳng ra bờ hồ. Mặt nước lăn tăn gợn sóng, loang loáng dưới ánh mặt trời. Một cơn gió thoảng làm bay bay tà áo lụa Hà Đông của Thúy và lay động những cành liễu mơ màng rủ bóng xuống ven hồ. Giữa buổi trưa hè nóng nực, làn gió nhẹ và hơi nước bốc lên từ mặt hồ đã cho Thúy một cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Lòng Thúy rạo rực theo từng bước chân. Thỉnh thoảng Thúy nhìn trước nhìn sau, xem có ai quen nhìn thấy mình không? Thúy nhủ thầm: “Hẹn hò với Toàn mà có ai thấy thì xấu hổ chết, mình phải cẩn thận mới được!”
Mặc dù điểm hẹn của hai người ở phía sau đền Ngọc Sơn, và vào buổi trưa ít người đi chơi bờ hồ, nhưng Thúy vẫn lo lắng. Có lúc Thúy muốn đi thật nhanh để gặp Toàn. Có lúc nàng lại ngập ngừng không muốn bước để quay về. Nhưng rồi Thúy cũng đi qua cây cầu gỗ, vòng ra phía sau đền. Toàn đang ngồi dưới một gốc cây đọc sách, Thúy rón rén đến bên:
- Anh chờ Thúy có lâu không?
Toàn vừa trải tấm khăn mùi xoa xuống đất cho Thúy ngồi vừa đáp:
- Anh ra đây sớm lắm. Vì ở nhà cứ đi ra đi vào lại sợ cô Loan cô ấy nghi. Cô bé ấy tinh lắm!
Thúy tủm tỉm cười:
- Đúng là có tật, giật mình.
Toàn hỏi:
- Vậy Thúy nói dối ở nhà thế nào để ra đây với anh?
- Thúy nói với mợ, Thúy đi chợ Đồng Xuân và Hàng Ngang, Hàng Đào, để tìm vải may áo dài.
- Thế mà bé Mai không đòi đi theo à?
- Không, cô bé sợ đi bộ lắm!
Toàn âu yếm nhìn Thúy. Trông nàng thật ngây thơ xinh đẹp. Mái tóc đen dài chải túm phồng phồng ở phía trước và kẹp lơ lửng bằng cái kẹp ba lá phía sau. Đôi mắt bồ câu đen láy, linh động. Mũi cao và thon, ngăn đôi gò má trắng hồng. Miệng nàng tươi như hoa nở. Thấy Toàn nhìn mình đăm đăm, Thúy đỏ au đôi má. Nàng ném một hòn sỏi xuống mặt hồ:
- Đố anh đếm được bao nhiêu cái vòng tròn đang lan tỏa trên mặt nước?
- Anh chịu thua. Anh cũng đố em đếm được nhịp tim anh đập?
Thúy đặt bàn tay búp măng lên ngực Toàn:
- Em cũng chịu thua. Thế là chúng mình hòa cả làng nhé!
Toàn vẫn còn ngẩn ngơ trước vẻ xinh đẹp của Thúy:
- Thúy có biết các bạn anh bảo em giống ai không?
- Giống ai hả anh?
- Ava Garner.
- Anh và các ông ấy cứ cho Thúy đi tầu bay giấy, làm Thúy tưởng thật, tự ngắm mình, vỡ mấy cái gương rồi đấy!
Chợt nhớ tới bức thư Thúy gửi cho chàng vài hôm trước, bức thư chỉ vỏn vẹn có một câu: “ Cần gặp anh gấp lúc một giờ trưa ngày mười tháng hai.” Bức thư không ký tên, nét chữ mềm mại và màu mực tím đã làm chàng vui mừng v à lo âu. Vui vì được gặp người yêu, lo vì không biết có chuyện gì quan trọng đến nỗi Thúy phải viết thư hẹn chàng, điều mà từ trước tới nay chưa bao giờ xảy ra. Toàn hỏi Thúy:
- Chúng mình chỉ gặp nhau sớm hơn thường lệ hay là có chuyện gì khác vậy em?
Thúy đang vui bỗng thoáng buồn. Nàng đăm đăm nhìn một nhành liễu đu đưa soi bóng xuống mặt hồ. Thúy ngập ngừng nói:
- Hôm chủ nhật vừa rồi, bà cả Thuấn đến xin cưới em cho Việt. Mợ có vẻ bằng lòng nhưng mợ cho em tự quyết định, thành ra em phải hỏi ý kiến của anh.
Toàn choáng váng trước cái tin động trời ấy. Mồ hôi chàng toát ra, lòng vô cùng bối rối. Yêu Thúy, chàng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hôn nhân. Những cuộc hò hẹn, những buổi cùng nhau đạp xe đi chơi chùa Láng, đền Voi Phục...đã khiến cho đời chàng thêm tươi, thêm ấm áp, sau những giờ phút miệt mài với sách đèn, hoặc căng thẳng với những sinh hoạt bí mật của đoàn thanh niên.
Đối với Toàn, Thúy càng ngày càng trở nên cần thiết. Tuy nhiên nếu bảo Toàn phải quyết định việc trăm năm với Thúy lúc này thì quả là khó khăn. Vì chàng còn đang học dở dang, lại còn con đường đầy chông gai mà chàng đang theo đuổi.
Nếu chàng bảo Thúy chờ đợi thì nàng sẽ phải chờ đến bao giờ? Liệu chàng có đủ can đảm khuyên Thúy nhận lời lấy Việt không? Cuộc đời chàng sẽ ra sao nếu mất Thúy? Nàng sẽ nghĩ gì về một người yêu vô trách nhiệm như chàng? Nếu Toàn cưới Thúy, liệu chàng có được cấp trên chấp thuận không? Cả trăm câu hỏi nhẩy múa trong đầu chàng. Toàn yên lặng, cầm một nhánh cây khô vẽ chằng chịt trên mặt đất.
Thúy nhìn vẻ mặt đăm chiêu, khổ sở hiện rõ trên khuôn mặt Toàn mà lòng ngổn ngang trăm mối. Nàng đã suy nghĩ rất nhiều rồi mới viết thư hẹn Toàn trưa nay. Mặc dù yêu Toàn tha thiết, nhưng nàng là người rất thực tế, nên nhân dịp bà cả Thuấn đến xin hỏi nàng cho Việt, Thúy muốn xem ý Toàn thế nào.
Nếu Toàn muốn tiến tới, hoặc muốn nàng chờ đợi thì nàng sẽ từ chối lời cầu hôn của Việt. Nếu Toàn chỉ muốn kéo dài tình trạng yêu đương lãng mạn thì Thúy đành phải xa chàng. Trong thâm tâm, Thúy rất sợ sẽ trở thành một cô gái quá lứa, lỡ thì. Hơn nữa, Việt cũng là người tốt, có công ăn việc làm và hai gia đình đã quen biết nhau từ lâu. Với một tâm hồn đơn giản, Thúy nghĩ, nàng sẽ an phận, hạnh phúc, bên một người chồng tốt, không phải là Toàn. Tuy vậy, niềm mơ ước có Toàn trong cuộc sống, đối với Thúy, cũng rất mạnh mẽ. Mới chỉ nghĩ tới đoạn tuyệt với Toàn thôi, mà mấy ngày hôm nay Thúy đã khóc cạn cả nước mắt rồi. Không biết đến khi sự thật xảy ra thì sẽ khủng khiếp như thế nào?
Toàn run run nắm bàn tay mềm mại của người yêu, nói rất nhỏ:
- Việc này bất ngờ quá, cho anh vài ngày để suy nghĩ, anh sẽ trả lời em sau nhé.
Hình như cả Toàn và Thúy đều mơ hồ nhận thấy có một khoảng cách giữa hai người đang hiện hữu, nên thời gian còn lại của cuộc hẹn hò, hai người nói chuyện với nhau rất gượng gạo, nhạt nhẽo.
Hai tuần sau, Thúy nhận được Loan trao cho một quyển tiếu thuyết của Nhất Linh, bên trong có kẹp một phong thư. Toàn đã cho Thúy biết những lý do hai người phải đành xa nhau. Bức thư đó đã xoay chuyển hẳn cuộc đời của Thúy, đã đưa đẩy Thúy vào một cuộc hôn nhân đầy sóng gió.
Trước ngày cưới, Thúy còn liều lĩnh đi chơi với Toàn một lần chót. Nàng muốn ôm gọn trong lòng hình ảnh con đường Cổ Ngư lộng gió, hồ Hoàn Kiếm nước trong xanh phẳng lặng, chùa Láng êm đềm thanh tịnh, đền Voi Phục rợp bóng cây cao...

Chiếc xe chạy loanh quanh độ hai ba tiếng đồng hồ thì Thúy đã thấy được gần trọn vẹn bộ mặt của thành phố Hà Nội. Cuối cùng thì Thúy muốn bác phu xe chở nàng tới một con đường thân yêu của những ngày xưa cũ. Con đường có ngôi nhà nhỏ với giàn hoa thiên lý ngào ngạt hương thơm. Thúy thắc mắc trong lòng: "Không biết Toàn có còn ở đó không? Toàn có bao giờ nhớ tới lời hứa năm nào là sẽ luôn luôn chăm sóc giàn hoa thiên lý để lấy hoa cài trên mái tóc nàng hay không?”.
Tới đầu ngõ nhà Toàn, tim Thúy đập nhanh. Nàng cười thầm cho trái tim trẻ mãi không già của mình. Ngõ hẻm hình như chật chội hơn xưa vì nhà nào cũng lấn ra phía ngoài một mái hiên nho nhỏ để dựng xe đạp hoặc bán hàng quà vặt.
Chiếc xe ngừng lại trước cửa ngôi nhà hẹp, dài và cũ kỹ. Giàn hoa lý năm xưa không còn nữa! Thúy dơ tay bấm chuông, một cô gái khoảng ngoài hai mươi tuổi đẩy cánh cửa sắt màu xanh lá cây đậm ra và hỏi:
- Bà tìm ai ạ?
- Tôi muốn gặp ông Toàn. Ông ấy có còn ở đây không hả cô?
Cô gái đưa mắt nhìn Thúy nói:
- Mời bà ngồi chờ một chút, cháu ra quán, mời bố cháu về ngay.
Thúy còn đang mải ngắm bức ảnh của một người đàn bà trẻ và đẹp bày trên ban thờ thì Toàn và cô gái trở về. Toàn đứng trước mặt Thúy với đôi mắt mệt mỏi, dáng dấp già nua, tiều tụy. Mái tóc của Toàn đã bạc trắng, hình như không còn một sợi nào đen. Có lẽ Toàn cũng đang chiêm ngưỡng cái dung nhan tàn tạ của Thúy với làn da nhăn nheo như một đôi dép da cũ và nụ cười héo hắt trên môi nàng. Thúy thầm nghĩ: “Nếu chúng mình có nhau từ ngày xưa, chắc chúng mình không phải ngỡ ngàng vì sự thay đổi của nhau qua năm tháng. Giá chúng mình có nhau từ ngày xưa, cô gái kia đã là con của mình rồi, và giàn hoa thiên lý chắc vẫn còn thơm ngát trước nhà mỗi độ nở hoa.”.
Toàn kinh ngạc reo lên:
- Thúy! Em về bao giờ thế? Làm sao em biết anh ở đây?
Thúy đáp:
- Em chỉ muốn ghé thăm ngôi nhà xưa và giàn thiên lý, không ngờ lại được gặp anh.
Toàn giới thiệu Thúy và con gái:
- Đây là bác Thúy, bạn của bố từ hồi còn bé và đây là Thủy, con gái duy nhất của anh.
Toàn mời Thúy vào ngồi và bảo Thủy pha trà. Cái dáng mảnh mai của Thủy khuất sau tấm mành trúc có hình hai cô gái mặc áo dài, tay cầm nón lá. Toàn ngồi đối diện với Thúy, nhìn nàng với ánh mắt trìu mến, khe khẽ thở dài:
- Anh tưởng sẽ chẳng bao giờ được gặp lại em.
Thúy liếc nhìn bức ảnh người đàn bà trẻ đẹp trên ban thờ. Toàn giải thích:
- Trầm là mẹ cháu Thủy. Trầm mất hồi cháu mới ba tuổi vì bị bom, lúc đó tụi anh ở Bạch Mai. Sau khi các cụ mất, anh mới dọn về đây.
Thủy mang hai tách trà nóng, đặt trên bàn:
- Mời bác và bố xơi nước ạ!
Tiếng nói của Thủy trong và nhẹ, khuôn mặt giống như hệt khuôn mặt của mẹ nàng. Đôi mắt của Thủy đen láy, mơ màng với hai hàng mi dài và rậm khiến Thúy nhớ tới đôi mắt của Toàn năm xưa. Thúy đưa tách trà nóng lên môi, nhấp một ngụm nhỏ. Lâu lắm Thúy mới lại được uống trà ướp hoa sói. Hương trà tỏa ra nhẹ nhàng. Qua làn khói ấm, Thúy như thấy mình đang nắm tay Toàn đi trên lối vào chùa Cầu Bây giữa hai hàng hoa sói thơm lừng.
Thúy nói với Thủy:
- Cháu giống mẹ cháu quá! Lại giống cả bố nữa.
Thủy nhoẻn miệng cười, đáp:
- Thưa bác, những bạn cũ của mẹ cháu cũng nói thế. Các bác ấy bảo, gặp cháu ở ngoài đường, không cần ai giới thiệu, cũng biết cháu là con mẹ cháu.
Thủy đi chợ mua thức ăn. Toàn và Thúy ở nhà nói chuyện xưa tích cũ. Bốn mươi năm đã qua đi, hai người có biết bao nhiêu chuyện để nói cho nhau nghe. Toàn vắn tắt cho Thúy biết về quãng đời gian truân của chàng:
- Em có giận anh không? Thực ra hồi đó, anh đau khổ lắm! Anh bị giằng co giữa tình yêu em và khát vọng của một người trẻ muốn làm một cái gì cho quê hương. Cuối cùng, anh đành chọn xa em. Sau ngày em cưới, anh vào Khu Tư để chính thức nhập cuộc chiến. Anh được kết nạp vào đảng nhờ những thành tích anh đạt được khi còn ở Hà Nội. Anh hăng say, mù quáng. Những việc làm đê tiện, tàn nhẫn nhất của anh hồi đó vẫn làm cho anh hãnh diện vì anh cho rằng mình đang phục vụ cho một lý tưởng cao đẹp.
Những gian truân của anh trong chiến tranh chắc em đã biết rồi, anh không cần nói nữa. Nhưng cái đau đớn nhất của anh là anh đã nhận ra rằng mình bị lừa quá sớm. Điều này kéo theo những nỗi khổ đau, dằn vặt cả về tinh thần lẫn vật chất mà anh phải gánh chịu. Một lần anh sắp bị xử bắn vì tội phản động thì Trầm liều lĩnh che chở và giúp anh vượt ngục. Cũng may, Trầm vừa là cán bộ cao cấp vừa có gốc lớn nên họ chỉ thuyên chuyển Trầm đi nơi khác để tránh tiếng của dư luận. Tụi anh lấy nhau được năm năm thì Trầm bị chết trong một trận ném bom của Mỹ ở Bạch Mai.
Giọng kể của Toàn đều đều, bình thản. Thúy không tìm thấy một sự xúc động nào trên khuôn mặt già nua ấy. Có lẽ, thời gian và những biến động của đất nước đã làm cho tâm hồn Toàn trở nên chai đá.
Toàn cầm tách trà lên uống một ngụm rồi nói:
- Từ nãy, anh vô duyên, cứ nói về mình mà quên hỏi về cuộc đời của em.
- Cuộc đời của em ư? Chẳng có gì đáng nói. Lấy chồng, đẻ con, sống như cỏ cây gỗ đá. Khi chồng chết trận, sống như gỗ đá, cỏ cây. Hôm nay bỗng vui vì được gặp lại anh. Chỉ tiếc là giàn hoa thiên lý năm xưa không còn nữa.
Toàn hứa hẹn:
- Lần sau em về, thế nào cũng có giàn hoa thiên lý. Chỉ sợ lần này về, em thất vọng không bao giờ trở lại nữa thôi.
Thúy thoáng buồn:
- Liệu chúng mình còn đủ thời giờ để trồng giàn hoa thiên lý không anh?
Vừa lúc đó, Thủy đi chợ về. Thúy đề nghị:
- Bây giờ thì anh và em phụ với Thủy làm cơm, em đói lắm rồi.
Toàn hỏi Thúy:
- Con có mua rau muống và cà bát dầm tương để thết bác Thúy không đấy?
Quay qua Thúy, Toàn giải thích:
- Anh nghe người ta đồn là Việt kiều ở Mỹ về, chỉ thích ăn rau muống và cà thôi, phải không em?
Toàn Thúy và Thủy cùng đi vào bếp. Cái bếp chật chội với một cái lu sành đựng nước dự trữ, hai cái bếp dầu hôi kê trên một cái bàn ọp ẹp bên cạnh một cái chạn cũ kỹ. Toàn châm bếp, đặt nước luộc gà. Thủy vo gạo thổi cơm. Thúy ngồi xuống một cái ghế gỗ nhỏ, thấp gần sát mặt đất, nhặt rau muống. Thủy có vẻ bối rối về cảnh nghèo nàn của cha con nàng. Toàn thản nhiên, chuyện trò dí dỏm.
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu khiến Thúy mỉm cười vu vơ. Thúy chợt nghĩ tới ngày nàng sẽ trở lại Mỹ. Có lẽ, Thúy sẽ không còn đi tìm quá khứ mộng mơ của bốn mươi năm về trước. Thúy sẽ không còn thấy Toàn với đôi mắt mơ màng nắm tay nàng đi trên lối vào chùa Cầu Bây ngào ngạt hương hoa sói hoặc cùng nhau ngồi phía sau đền Ngọc Sơn ngắm mặt nước lăn tăn gợn sóng...
Có lẽ, hình ảnh Toàn già nua, tiều tụy với đôi mắt mệt mỏi, mái tóc bạc phơ, vẻ buồn vương vấn của Thủy, căn bếp chật chội cũng như bó rau muống có ngọn nhỏ xanh non sẽ theo Thúy trong suốt những tháng năm còn lại của nàng nơi xứ lạ quê người./.

Lê Thị Nhị -Tuyển tập Ngày Về
linhvang
#9 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:52:43 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:12 am
Tiêu đề: Vợ Hiền và Quê Hương - Lê Thị Nhị

Vợ Hiền và Quê Hương
Lê Thị Nhị

Vừa ra khỏi bệnh viện, Sâm đã thấy bác tài xế đứng dựa lưng vào xe với điếu thuốc lá trên môi. Sâm đến bên bác tài, vỗ vai thân mật.
- Bác đợi tôi có lâu không? Xin lỗi bác nhé, có một bệnh nhân cần cấp cứu nên tôi ra hơi trễ.
Bác tài rít thêm một hơi dài trước khi ném nửa điếu thuốc còn lại xuống đất:
- Cậu thật là khác với những ông chủ ở đây.
- Khác ở chỗ nào hở bác?
- Cậu thì lúc nào cũng nói năng lịch sự và vui vẻ với người làm, còn các ông chủ ở đây hách dịch ghê lắm, “Mua mâm thì đâm cho thủng” mà!
Nghe bác tài nói, Sâm sung sướng trong lòng. Hai mươi năm sống ở Mỹ, chàng chỉ học được ở người Mỹ điều đó. Các ông chủ Mỹ, lịch sự, tươi cười ngay cả lúc đá văng nhân viên ra khỏi công ty của họ. Điều này, tốt hay xấu, Sâm cũng không biết, nhưng chàng sống như vậy đã quen rồi. Sâm nhớ tới Hương Giang, cô vợ trẻ của chàng. Hương Giang thường thủ thỉ:
- Những lúc gần nhau, anh trân trọng dịu dàng, cho em cảm giác được yêu thương, che chở. Anh là phần thưởng mà Trời, Phật đã ban cho em trong cuộc đời này. Em chỉ sợ em vụng về, không biết làm anh vui.
Giọng Huế trọ trẹ và những lời nói chết người ấy đã đưa Sâm vào thế giới kỳ ảo của tình yêu và hạnh phúc. Bạn bè, bà con họ hàng, ai cũng bảo chàng có phước, cưới được Hương Giang làm vợ. Hơn ai hết, Sâm biết được điều đó.
Sâm ngồi vào chiếc ghế bên cạnh bác tài theo thói quen hằng ngày:
- Bác cho tôi lên đường Nguyễn Huệ nhé!
- Dạ, cậu khỏi nói tôi cũng biết mà. Chiều thứ bẩy nào cậu chẳng lên đường Nguyễn Huệ để mua bông hồng tặng cô.
Sâm như nhìn thấy nét mặt rạng rỡ của Hương Giang khi đón nhận bó hồng vàng rực rỡ do chàng tặng. Chàng tự hỏi, không biết chiều nay Hương Giang sẽ mặc áo màu gì để đón chàng? Mái tóc, nàng sẽ để xõa, bới cao hay cột bằng chiếc khăn lụa mỏng màu tím? Hương Giang mặc áo màu gì chàng cũng thấy nàng đẹp. Tóc nàng để kiểu nào, chàng cũng thấy nàng cao sang duyên dáng. Tuy vậy, Sâm vẫn thích thú vì Hương Giang luôn luôn cho chàng những ngạc nhiên trong sự trang điểm hàng ngày. Cưới nhau đã gần một năm rồi mà Sâm vẫn náo nức mỗi khi gặp vợ. Mỗi ngày chàng đều khám phá được một điểm dễ thương nào đó ở nơi nàng. Căn nhà của vợ chồng Sâm là một tổ ấm, một nơi chốn mà đi đâu chàng cũng chỉ muốn trở về. Đôi mắt ướt, cặp môi hồng, hai cánh tay nuột nà của Hương Giang luôn luôn quấn chặt lấy chàng như một loài dây leo bám vào thân cổ thụ.
Sâm bồn chồn nhìn đường phố. Con đường Phan Thanh Giản vào giờ tan sở thật đông đúc. Một rừng xe đạp, xe gắn máy, xe xích lô, chạy ngang, dọc. Chiếc xe Toyota Camry màu đỏ mới tinh của chàng trở nên cồng kềnh, chậm chạp. Mặc dù bác tài xế bấm còi pin pin liên hồi, nhưng hình như chẳng có ai quan tâm tới. Đôi lúc, Sâm có cảm tưởng, nếu chàng xuống đi bộ chắc là nhanh hơn nhiều.
Xe hơi ở đây, theo ý chàng, chỉ có bốn điều lợi cho chủ của nó: Một là oai, hai là khỏi phải hít bụi, ba là có thể vặn máy lạnh để tránh cái nóng khủng khiếp của Sàigòn, bốn là sau cơn mưa, không bị nước bắn tung tóe từ những vũng nước lớn trên khắp các nẻo đường của thành phố. Sâm đã phải trả một giá rất đắt để được làm chủ chiếc xe này. Mà chàng lại phải trả ngay một lúc mới khổ chứ! Thực ra cũng có thể trả góp, nhưng Hương Giang bàn:
-- Trả góp, mình phải trả nhiều tiền lời lắm phải không anh? Hay là sẵn tiền, mình trả luôn cho khỏi lôi thôi, lại đỡ tốn tiền lời, anh nhỉ.
Với chàng, Hương Giang nói gì mà chẳng đúng. Thế là mua nhà, mua xe, chàng đều trả tiền mặt. Cũng may khi quyết định về Việt Nam làm việc và cưới vợ, Sâm đã bán căn nhà của chàng ở Mỹ và gom góp tất cả tiền bạc đã dành dụm nên chàng cũng có một số tiền khá lớn. Lúc đầu, Sâm tưởng với số tiền ấy Sâm sẽ là vua của thành phố này. Nhưng sau đó, chàng mới vỡ lẽ ra là số tiền của chàng chẳng thấm tháp gì so với giới giầu có mới ở Sàigòn. Sâm cũng không hiểu họ kiếm tiền ở đâu ra mà nhiều thế?
Chàng vẫn thường nhắc nhở các bạn từ Mỹ về Việt Nam:
- Đừng tưởng dân Việt Nam ai cũng nghèo cả đâu. Có nhiều người giầu lắm! Tiền của họ, họ đốt mình như không đấy!
Thật vậy, nhiều lần đi dự dạ tiệc do những người quen khoản đãi, Sâm đã chóng mặt khi nhìn cái hóa đơn tính tiền. Sâm thì chẳng bao giờ dám nghĩ đến việc mời mọc tốn kém đến như thế. Cũng may, Hương Giang nấu ăn ngon, bầy biện bàn tiệc rất khéo léo, tiếp đãi ân cần tế nhị nên những bữa tiệc ở nhà vẫn được mọi người hoan nghênh lắm.
Sâm thường hãnh diện sự quyết định về Việt Nam làm việc của mình. Chàng nhớ lại những tháng ngày vô vị, buồn tênh nơi xứ Mỹ. Hằng ngày, Sâm làm việc như một cái máy ở bệnh viện. Về đến nhà, ăn qua loa, dán mắt vào cái máy truyền hình một lúc, rồi lăn ra giường, ôm gối, ngủ một mình.
Nhiều đêm, trằn trọc mãi, chàng trở dậy, uống rượu và nghe nhạc. Có những đêm, vừa chợp mắt thì cái beeper đã kêu tít tít và chàng phải lái xe như bay để vào nhà thương.
Sâm cũng đã cố gắng tham dự những buổi sinh hoạt cộng đồng để giúp đồng bào, kết thêm bạn mới và tìm một bóng hồng cho đời bớt lẻ loi, tẻ nhạt.
Đồng bào thì cũng chẳng ai cần chàng giúp. Người quen thì nhiều nhưng bạn thì thật hiếm hoi. Năm này qua năm khác, chàng vẫn hoàn toàn cô đơn giữa chốn đông người. Những cô gái cùng trang lứa với Sâm thì đã có gia đình, con bồng, con mang. Số còn lại, thì sắc đẹp quá ư là khiêm nhường, tính hạnh cũng chẳng ra gì: dở Mỹ, dở Việt, dở Tây, dở Tàu. Các cô gái trẻ thì chê chàng già. Vả lại các cô cũng có học nên họ chẳng thèm quan tâm tới mảnh bằng bác sĩ của chàng. Một mảnh bằng mà chàng đã phải tốn biết bao là công sức, thời giờ và tiền bạc.
Có vài lần, Sâm thử thân mật với mấy cô gái Mỹ. Nhưng chàng thấy hoàn toàn không hợp. Tuy họ nóng bỏng như lò lửa nhưng chàng vẫn có cảm giác họ là những pho tượng bằng thạch cao trưng bày trong tủ kính. Chuyện vợ con, Sâm cho vào quên lãng, không để ý tới nữa.
Thế rồi mùa hè năm ngoái, chàng được đề cử về Việt Nam để giúp bệnh viện Bình Dân trong vòng một tháng. Không ngờ, đây là một ngã rẽ của đời chàng. Một ngã rẽ thần tiên, thơ mộng. Chàng chỉ ở Sàigòn vài ngày thôi, cái cảm giác khó chịu vì nóng nực, bụi bậm và thiếu tiện nghi đã không còn nữa. Chàng thấy mình hòa nhập với cái xã hội này. Chàng yêu thương từng con người, từng cành cây, từng ngọn cỏ của quê hương.
Một tháng công tác qua mau. Sâm trở về Mỹ, thu xếp mọi việc để trở lại Việt Nam làm việc trong hai năm theo một phái đoàn y tế Mỹ. Trong tận đáy lòng, Sâm muốn lợi dụng dịp này để tìm lại khoảng thời gian hai mươi năm mà chàng đã mất mát. Quê hương, đối với Sâm, không còn mơ hồ nữa. Quê hương của chàng giờ đây là những con đường với nhiều ổ gà và bụi bậm, là những trận mưa, là những trận bão miền Trung, là cơn mưa phùn xứ Bắc, là cái nóng nung người miền Nam.
Sâm không hề tiếc nuối đời sống tiện nghi ở Mỹ. Chàng chấp nhận sống một cuộc sống có ý nghĩa trên quê hương chàng. Ngoài việc chăm sóc bệnh nhân ở nhà thương, Sâm còn là giảng viên của viện Đại Học Y Khoa Sàigòn.
Định mệnh đã cột chặt đời chàng với Hương Giang, một cô gái Huế xinh đẹp, dịu hiền, đảm đang. Hương Giang là nhân viên của bệnh viện. Sâm gặp nàng trong chuyến viếng thăm Huế do cơ quan tổ chức. Thoạt thấy Hương Giang, Sâm đã ngây ngất vì sắc đẹp của nàng. Nhưng Sâm không dám làm quen, vì chàng biết, mình quá lớn so với cô bé. Vả lại, thời gian chàng ở lại Việt Nam thật là ngắn ngủi. Buông thả tình cảm, chàng nghĩ, chỉ là chuốc lấy họa vào thân. Do đó, Sâm cố tránh né Hương Giang. Sâm càng tránh né, thì Hương Giang càng chú ý và tìm cách gần chàng. Cuối cùng, tâm hồn và thể xác chàng đã chơi vơi trong ánh mắt long lanh và đôi cánh tay nuột nà của Hương Giang, trên con đò nhỏ, vào một đêm trăng, trên giòng sông Hương thơ mộng.

Một đám cưới linh đình được tổ chức sau hai tháng quen nhau. Mẹ chàng từ Mỹ về lo đám cưới cho chàng rất hài lòng vì Sâm đã chọn được người vợ xinh đẹp, đảm đang và thuộc con nhà danh giá. Bố của Hương Giang là một ông lớn của thành phố Sàigòn. Sâm cũng không gặp ông ta nhiều vì Hương Giang bảo ông ta bận luôn. Thỉnh thoảng, chàng chỉ gặp bà Hoa, mẹ của Hương Giang. Bà Hoa đẫy đà, nói năng khéo léo, nhưng trong cái khéo léo ấy, chàng thấy có vẻ như bà đang đóng kịch. Mắt bà Hoa đã nhỏ, hai túi mỡ ở dưới mắt lại làm cho nhỏ hơn. Sống mũi của bà ta gãy, hai cánh mũi lại to, giống như mũi sư tử. Theo tướng số, người như thế thì giầu. Miệng bà rộng với đôi môi dày. Hôm nào bà quên thoa son, đôi môi ấy thâm xì như miếng thịt ôi của buổi chợ chiều.
Nhiều khi Sâm tự hỏi, tại sao một người đàn bà như thế lại có một cô con gái tuyệt vời như Hương Giang? Nhưng chỉ cần Hương Giang của chàng đẹp và thông minh, dịu hiền là đủ. Chàng chẳng cần quan tâm tới bố mẹ vợ.
Sau ngày cưới, Sâm ít gặp bà Hoa hơn, Hương Giang nói:
- Anh ít thời giờ, để em đi thăm nom bố mẹ được rồi. Bố mẹ không trách đâu.
Tất nhiên là Sâm không phản đối. Vì thật lòng, chàng cũng không có nhiều tình cảm với bố mẹ của Hương Giang. Để vui lòng vợ, Sâm vẫn thỉnh thoảng mua quà cáp để Hương Giang mang về biếu bố mẹ nàng.
Sau khi ở tiệm hoa ra, Sâm bảo bác tài ghé tiệm vàng Kim Hoa ở đường Lê Thánh Tôn để mua một cái vòng cẩm thạch tặng vợ nhân dịp kỷ niệm cưới sắp tới.
Khi về tới nhà, Hương Giang đón chàng với vụ cười thật tươi:
- Chà, bó hồng vàng bữa nay đẹp quá anh hỉ!
Tóc Hương Giang xõa xuống ngang lưng, mái tóc thề muôn thuở của những cô gái Huế. Đôi chân dài bó sát trong cái quần màu tím dịu dàng. Qua lần vải phin trắng mỏng của cái áo tay phồng, da thịt nàng hồng hồng, trông thật hấp dẫn. Sâm ngẩn ngơ ngắm vợ. Hương Giang hỏi:
- Sao mà anh đứng sững ra vậy?
Sâm cười, hôn trên trán vợ:
- Em đẹp như một nàng tiên!
Hương Giang đẩy Sâm ra, nguýt yêu chồng:
- Anh lại nịnh đầm nữa rồi!
- Anh nịnh em chứ có nịnh đầm bao giờ đâu!
Hương Giang nắm tay Sâm, đưa chàng vào phòng tắm:
- Em đã chuẩn bị đủ cả, anh tắm cho mát rồi ra ăn cơm.
Hương Giang quay trở ra, khép cửa lại. Sâm nhìn theo bước chân chim của vợ, mỉm cười hạnh phúc. Những tia nước mát lạnh từ cái hương sen trên cao tuôn xả xuống tóc, xuống mặt, xuống thân thể chàng. Sâm nhắm mắt lại, khuôn mặt kiều diễm, mùi hương tóc, đôi mắt ướt và cánh tay nuột nà của Hương Giang như quấn quýt lấy chàng. Sâm mỉm cười ngu ngơ vì một ý nghĩ thoáng qua trong đầu.
Tắm xong, Sâm đi ra phòng ăn. Chàng hơi ngạc nhiên vì bữa ăn quá thịnh soạn. Một cái lọ nhỏ bằng pha lê với hai đóa hồng vàng đặt giữa bàn ăn. Trên bàn, la liệt những món ăn mà chàng ưa thích: bún bò, chạo tôm, bánh lá, bánh ít trần...Mỗi đĩa thức ăn, Hương Giang đều trang trí bằng những hoa cúc, hoa hồng, hoa ngọc lan cắt tỉa bằng hành tây, cà chua, củ cải rất tỉ mỉ và đẹp mắt.
Có tiếng Hương Giang vọng ra từ phòng ngủ:
- Anh ơi! vào đây em nhờ một chút.
Sâm bước vào phòng ngủ, Hương Giang tíu tít:
- Anh lấy giùm em cái vali ở trên nóc tủ. Hôm nay em muốn mặc bộ áo lụa Hà Đông mà lần đầu chúng mình gặp nhau.
Sâm thắc mắc:
- Ăn ở nhà mà em cũng mặc áo dài, sao lạ lùng vậy?
- Đời có nhiều chuyện lạ lùng lắm, anh chưa biết đâu.
Sâm không để ý đến lời nói của vợ, chàng đề nghị:
- Em muốn mặc áo dài, hay là chúng mình đi ăn tiệm rồi đi nhẩy luôn thể nhé?
Hương Giang nũng nịu:
- Hôm nay là ngày đặc biệt, em chỉ muốn chúng mình ở nhà thôi. Có nhau là vui rồi, đâu cần đến chỗ đông người hả anh?
Sâm nghĩ mãi không ra hôm nay là ngày gì, cuối cùng chàng hỏi:
- Tại sao em bảo hôm nay là ngày đặc biệt?
Hương Giang giọng hờn rỗi:
- Thế ra anh không nhớ à? Anh không nhớ thì thôi, em cũng chẳng thèm nói.
Sâm cuống quýt:
- Xin lỗi em, thật tình anh không nhớ.
Hương Giang nhìn chồng âu yếm:
- Thôi, em tha cho anh đó! Hôm nay là ngày kỷ niệm cưới của chúng mình chứ còn là ngày gì nữa.
Sâm cười vang:
- Em lầm rồi! Còn một tua nữa mới là ngày kỷ niệm cưới của chúng mình mà! Mười bốn tháng mười, có chết đi sống lại, có đầu thai kiếp khác anh cũng không thể quên được, em biết vậy không?
Hương Giang cũng cười:
- Em tính theo ngày ta mà!
Sâm ôm lấy vợ:
- A! Thế thì chúng mình sẽ có hai ngày kỷ niệm cưới. Để anh vào lấy quà cho em nhé.
Sâm đi vào phòng rồi trở ra với cái hộp nữ trang màu vàng óng ánh. Hương Giang mở nắp hộp, nàng cảm động thấy cái vòng ngọc quý giá nằm trên lớp bông gòn trắng muốt.
- Vòng đẹp quá anh ạ!
Sâm bảo:
- Vào phòng tắm, sát xà bông vào tay, anh đeo cho.
Hương Giang ngoan ngoãn làm theo lời Sâm. Sau đó Hương Giang cũng tặng quà cho chồng: một sợi dây chuyền vàng tây có mặt là cái thuyền nhỏ xíu. Sâm sung sướng vì món quà mang đầy ý nghĩa đó. Chàng hôn như mưa lên mặt vợ thay lời cảm ơn.
Suốt bữa cơm tối, Sâm cứ ngắm vợ và cười thầm: “Cô nàng đúng là nhiều chuyện, ăn ở nhà mà cũng lên khung như đi dự tiệc vậy.”
Hương Giang cũng không quên mở nhạc nhè nhẹ. Những bài hát mà vợ chồng chàng thường ưa thích như quyện lấy không gian nhỏ hẹp của căn phòng.
Một năm sống với Hương Giang, Sâm đã quen và yêu mến cách sống đỏm dáng của nàng. Tối nay, Hương Giang ăn nhiều và nói nhiều hơn mọi khi. Sâm nghĩ, có lẽ vì nàng xúc động khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm đã qua.
Ăn cơm xong, Hương Giang nói:
- Chúng mình ra ban công ngắm hoa quỳnh nở đi anh, sắp tới giờ rồi đấy! Bát chén cứ để đấy, ngày mai con Hòa nó tới, nó dọn.
- Ý kiến hay lắm! Để anh đi pha trà, lấy bánh đậu xanh nhé!
Từ lúc ra ban công, Hương Giang trở nên ít nói, nàng giải thích:
- Lúc nãy, em nói nhiều rồi. Bây giờ chỉ muốn yên lặng chờ hoa nở.
Sâm chiều ý nàng. Chàng ngước mắt nhìn ánh trăng sáng vằng vặc và bầu trời đầy sao lấp lánh. Một cơn gió thoảng làm lay động khóm lá quỳnh to, dài và xanh mướt. Những nụ hoa hé nở chầm chậm rồi bung cánh trắng xóa rung rinh, hương thơm nhè nhẹ tỏa khắp không gian.
Hương Giang thở dài:
- Tội nghiệp hoa quỳnh quá phải không anh? Đẹp và thơm nhưng chỉ nở về đêm mà sáng mai đã tàn rồi!
Cái vẻ đa sầu đa cảm của Hương Giang khiến Sâm chợt nhớ tới nàng Kiều của cụ Nguyễn Du. Chàng nắm bàn tay mềm của vợ, âu yếm nói:
- Mình đi ngủ nghe em.
Đôi mắt ướt của Hương Giang như hứa hẹn, như đồng lõa với điều chàng đang nghĩ: căn phòng ngủ có gắn máy lạnh, cái giường rộng với khăn trải phẳng phiu và đôi gối bông êm ái.

Khi Sâm tỉnh dậy thì Hương Giang không còn nằm bên chàng. Sâm nhìn đồng hồ, đã mười giờ sáng. Chắc giờ này Hương Giang đang loay hoay trong bếp để chuẩn bị bữa ăn điểm tâm cho hai vợ chồng. Chàng tung chăn ngồi dậy, bước xuống giường. Vừa đi vào phòng tắm, Sâm vừa huýt sáo một cách vui vẻ.
Lúc soi gương chải đầu, chàng mỉm cười thầm nghĩ: “Mình bốn mươi, Hương Giang hai mươi, vậy mà trông cũng không chênh lệch lắm!” Ngắm bóng mình trong gương một lần nữa, Sâm hài lòng với dáng dấp trẻ trung của mình trong chiếc áo thung trắng và quần jean màu xanh nhạt.
Sâm rón rén đi ra phòng ăn, chàng muốn dành cho Hương Giang một ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên lại là Sâm. Bởi vì phòng ăn cũng như mọi nơi trong nhà đều vắng bóng Hương Giang. Cô bé người làm tên Hòa cũng chưa thấy tới, mặc dù chén bát bừa bãi tối hôm qua đã được dọn dẹp gọn gàng, sạch sẽ. Một đĩa bánh cuốn Thanh Trì và chả lụa để trên bàn ăn, bên cạnh đó là một cái phong bì đề: Gửi anh yêu dấu. Màu mực tím và nét chữ của Hương Giang khiến Sâm xúc động. Sâm lật đật lấy thư ra và đọc thật nhanh. Tay Sâm run run cầm lá thư. Tim chàng như ngưng đập. Đầu chàng choáng váng, mắt mờ lệ. Những giòng chữ như nhẩy múa, như những gai nhọn đâm khắp thân thể chàng:

Anh yêu dấu,
Khi anh đọc những giòng chữ này thì em đã đi xa thật xa. Duyên số của chúng mình chỉ có thế thôi anh ạ. Một năm sống chung với anh, tuy ngắn ngủi, nhưng đối với em vô cùng quý giá. Anh biết không, em như cô bé Lọ Lem, biết trước là tới mười hai giờ khuya thì cỗ xe ngựa sẽ biến thành quả bí, nên em đã khóc thầm từng phút, từng giây những lúc được ở bên anh. Nếu không nghĩ tới cha mẹ em thì em đã tự tử chết ngay đêm qua trong vòng tay anh. Ôi, nếu được chết như vậy thì em sung sướng biết là chừng nào. Em không còn can đảm để viết dài dòng nữa. Em xin vắn tắt để anh hiểu mọi chuyện.
Cha em bị đe dọa đến tính mạng. “Bà lớn” cứu giúp cha em với điều kiện là em phải làm con nuôi bà ta. Em nhận lời và hy vọng nếu không được sung sướng thì cũng được bình yên khi sống với bố mẹ nuôi.
Nào ngờ, họ lợi dụng em, bắt em làm nhiều điều mà em không muốn. Rồi bà ta sắp xếp cho em gặp anh và ra lệnh cho em phải quyến rũ anh, lấy anh làm chồng. Thoạt đầu, em tưởng bà ta muốn khai thác anh và em trong một mưu đồ chính trị nào đó. Nhưng sau này em mới hiểu bà ta đã nghĩ ra một phương pháp làm ăn mới. Nhà, xe và tất cả tài sản mà anh đã để cho em đứng tên, em đã phải chuyển sang tên bà Hoa mấy tháng sau đó. Nhưng bà ta vẫn giữ lời hứa là cho em được sống với anh một năm.
Vậy hôn nhân của chúng ta là giả nhưng tình yêu của em với anh vô cùng thật. Anh biết vậy không anh?
Sáng nay, bà Hoa sẽ cho người đến đón em đi sớm. Đi đâu? Sống ra sao trong những ngày sắp tới, em cũng không biết nữa. Nhưng chắc chắn là những ngày sắp tới, đối với em sẽ vô cùng thê thảm. Em sẽ chẳng còn được anh ôm vào lòng. Em sẽ chẳng được cùng anh ngắm hoa quỳnh nở, bầu trời đầy sao sáng và ánh trăng dịu dàng như đêm qua nữa. Khi em đi rồi, xin anh giữ gìn sức khỏe và cố gắng vui mà sống. Ở một nơi nào đó, em luôn luôn và mãi mãi nhớ thương anh. Em cũng xin anh đừng tìm em và gây rắc rối với bà Hoa khi bà ấy tới để lấy nhà. Anh không thể đương đầu với bà ấy đâu.

Vĩnh biệt anh
Em
Hương Giang
Sâm buông rơi tờ thư, ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, chết lặng người đi một lúc thật lâu. Khi trí giác trở lại, chàng cắn chặt môi đến rớm máu, ngồi bất động, cay đắng nhận ra thực tế phũ phàng. Sau hơn một năm sống trong xã hội chủ nghĩa, tình mất, tiền mất, cái niềm tin và hứng khởi khi từ Mỹ về Việt Nam cũng đã bị thực tại làm tan biến đi như mây khói./.

Lê Thị Nhị -Tuyển tập Ngày Về
linhvang
#10 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:53:37 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:15 am
Tiêu đề: Thằng Sừng - Lê Thị Nhị

Thằng Sừng
Lê Thị Nhị

Mây đang dạo bước trên đường phố, dọc theo bãi biển để ngắm hàng hóa và kẻ qua, người lại thì có tiếng gọi ơi ới ở phía sau:
- Cô Mây! Cô Mây!
Rồi một người đàn ông trạc ngoài ba mươi, diêm dúa trong bộ quần áo thể thao màu trắng, chạy đến trước mặt Mây cười toe toét:
- Cô nhớ con không? Con là thằng Sừng đây này!
Mây cũng cười thật vui. Hình ảnh Sàigon và khu chợ trời nhộn nhịp trong những năm đầu mất nước chợt lướt nhanh trong trí nàng. Mây cười nói:
- Phải Nguyễn Văn Sừng, tuổi con dê, đảng trưởng đảng chôm chỉa ở khu Nguyễn Thông không?
Người đàn ông tên Sừng cười hăng hắc:
- Cô hay thật, con không ngờ cô nhớ cả gia phả của con nữa!
- Trong đời, có mấy người đặc biệt như anh? Tôi phải nhớ chứ!
Sừng hơi khựng lại vì cách xưng hô của Mây, chàng đề nghị:
- Cô cứ gọi con là con hay là Sừng và xưng là cô như ngày xưa, con thích hơn.
Mây ngắm nghía Sừng rồi đáp:
- Anh lớn rồi, lại có vẻ “oai” nữa, xưng hô như vậy coi bộ không ổn.
Sừng cười hồn nhiên:
- Với cô, con vẫn là thằng Sừng năm xưa cô ạ.
Một người đàn bà khá đẹp và hai bé gái khoảng chín mười tuổi vừa đi tới, Sừng giới thiệu:
- Đây là cô Mây hồi xưa ở khu Nguyễn Thông, đây là Quỳnh, vợ con và hai cháu Thu Vân, Thanh Vân.
Quỳnh reo lên:
- A cô Mây! Thỉnh thoảng nhà em có nhắc tới cô. Hôm nay được gặp cô, có lẽ nhà em vui hơn trúng số!
Sừng nói với vợ:
- Nhất định rồi! Bây giờ em đưa các con đi phố, đi càng lâu càng tốt. Ba mẹ con muốn mua gì thì mua để anh mời cô vào quán uống nước và nói chuyện xưa tích cũ.

Mây đẩy cánh cửa sắt, dồn sát vào một bên, rồi xếp lại những hàng hóa trên một cái bàn thấp kê ở ngay phía cửa ra vào. Nàng làm những công việc này tỉ mỉ như một cô bé đang chơi những món đồ chơi lạ. Một nỗi buồn tủi dấy lên trong lòng khi Mây nhớ đến thầy cô và các bạn. Từ nay, Mây phải chính thức lăn vào đời để kiếm tiền nuôi mẹ ốm đau và ba đứa em nhỏ.
Từ ngày bố Mây đi “học tập cải tạo”, cả nhà chỉ trông vào mình nàng. Đồ đạc trong nhà đã bán đi gần hết. Cũng may, nhà nàng ở mặt đường nên Mây cũng bắt chước những người hàng xóm buôn bán để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.
Có tiếng cãi vã vọng sang từ tiệm kế bên:
- Đồ quỷ sứ chúng mày! Bước đi chỗ khác để cho tao buôn bán. Mới bảnh mắt ra đã đến ám quẻ rồi. Tao thì đập cho một trận bây giờ.
- Tụi tôi đứng ngoài này kệ cha tụi tôi chớ, mắc mớ gì tới bà?
- Mắc mớ chớ sao không? Tụi bay rình rình, lúc tao sơ ý lại ăn cắp ăn trộm, ai còn lạ gì tụi bay.
- Này, bà đừng có vu khống đó nghe. Chừng nào bắt được tận tay tụi này ăn cắp hãy hay. Bà nói láo nói lếu, tụi tôi đập bể tiệm bà ra thì đừng có trách.
- À, tụi bay giỏi nhỉ? dám dọa tao đấy phải không? Tao mà thưa công an thì tụi bay ở tù mút chỉ nghe các con.
- Nhà tù làm chó gì có chỗ mà chứa những đứa như tụi tôi mà bà dọa cho mất công!
Lời qua tiếng lại một hồi rồi hai bên cũng ngưng chiến. Mây nhớ đến lời dặn dò của bà Tú ở tiệm kế bên: “Bán hàng ở đây, cô phải để ý mấy đứa nhỏ bụi đời, chúng nó ăn cắp như ranh ấy!”
Mây vừa nghĩ tới đó thì ba bốn đứa trẻ đã “viếng” gian hàng của nàng. Chúng chỉ độ chín mười tuổi. Cả mấy đứa đều ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu, nhưng trông rất khỏe mạnh. Một thằng bé có đôi mắt sáng và cái trán cao nhô ra, đưa tay sờ sờ vào cái đồng hồ báo thức, nhìn Mây và hỏi:
- Cô mới mở tiệm hả?
- Ừ, cô mới mở được hai ngày.
Thằng bé có vẻ thành thạo:
- Ở đây, thường thường buổi chiều đông hơn buổi sáng, bán hàng đã lắm!
Một nét vui thoáng xuất hiện trên khuôn mặt khắc khổ và bướng bỉnh của thằng bé. Có lẽ, nó đang nghĩ tới những buổi chiều đông đúc, một cơ hội cho bọn chúng làm ăn.
Mây chỉ vào một cái ghế kê ở lối đi vào và nói:
- Ngồi chơi đi em, mới sáng ra cũng chưa có khách khứa gì đâu.
Thằng bé mở lớn đôi mắt nhìn Mây. Nó có vẻ thương hại cho cô chủ tiệm ngây thơ đã không biết thân thế và sự nghiệp của bọn chúng. Nó đứng im một lúc, rồi lẳng lặng ngồi xuống.
Mây hỏi:
- Em ở đây với bố mẹ hả?
- Không, con ở một mình. Con bị thất lạc bố mẹ hồi năm bảy mươi lăm.
Hình như thằng bé không muốn nhắc đến chuyện cũ, nó vội vã đứng lên:
- Thôi, chào cô, bọn con phải đi tìm cái gì ăn sáng.
- Em tên gì nhỉ?
- Con tên là Sừng.
- Thỉnh thoảng Sừng ghé cô chơi nhé!
Trong khi Mây nói chuyện với thằng Sừng thì một đứa trong bọn đã luồn tay xuống dưới gầm bàn, lấy một vật gì rồi lảng ra chỗ khác.
Buổi chiều hôm ấy, thằng Sừng trở lại, nó hỏi Mây:
- - Tại sao sáng nay cô biết bọn con ăn cắp mà cô không la và bắt lại?
- Cô đâu có biết. Thế bọn em ăn cắp của cô thật à?
- Cô nói xạo. Bạn con bảo cô nhìn thấy mà cô làm bộ ngó lơ.
- Cô đâu có điên như vậy.
Thằng Sừng cười phá lên:
- À, thì ra cô điên thật! Biết tụi con là dân bụi đời, đến ăn hàng ở tiệm cô mà cô còn bắc ghế mời ngồi. Ban đầu, con tưởng là cô không biết chứ, con ngu thật!
Từ hôm đó, Mây có một người bạn nhỏ tên là Sừng.
Thằng Sừng thường dặn dò đám đàn em:
- Tụi mày không được lạng quạng ở tiệm cô Mây nghe chưa! Đứa nào không nghe lời tao, tao khai trừ ra khỏi đảng thì đừng có trách.
Ít lâu sau, thằng Sừng mang đám đàn em đi làm ăn ở nơi khác. Thỉnh thoảng nó trở lại thăm Mây, khi thì biếu nàng gói xôi, khi thì vài trái bắp, khi thì mượn nàng chút tiền để chi dùng cho cả bọn. Lần nào, nó cũng trả lại sòng phẳng.
Một lần, Mây đề nghị với thằng Sừng:
- Cô cần người phụ bán hàng, con về làm cho cô được không?
Thằng Sừng suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:
- Không được cô ạ. Con phải lo cho tụi bạn, không có con, tụi nó như rắn không đầu.
Thằng Sừng buồn rầu tiếp:
- Con lớn rồi, con có thể giải nghệ. Nhưng lũ nhỏ thì vô phương cô ạ. Ngoài việc ăn cắp ăn trộm, chẳng biết làm ăn gì, ai mướn tụi nó hả cô?
Một đêm, gia đình Mây đang ngủ thì có tiếng đập cửa rầm rầm:
- Cô Mây! Cô Mây! Con là Sừng đây, mở cửa cho con với!
Mây mở cửa, thằng Sừng chạy áo vào nhà với khuôn mặt tím bầm và cánh tay be bét máu. Nó thở hồng hộc, nói không ra hơi:
- Con bị công an đánh, cô cho con trốn ở đây nhé?
Mây khóa cửa cẩn thận, nói rất nhỏ:
- Nói khẽ chứ, để cô tắt đèn, kẻo họ thấy con thì nguy lắm!
Sáng sớm hôm sau, Mây chở thằng Sừng ra bến xe, mua cho nó một vé đi Đà Nẵng theo lời yêu cầu của nó. Trước khi lên xe, thằng Sừng rơm rớm nước mắt:
- Cô nói với tụi nhỏ bạn con là con thương tụi nó lắm, nhưng con phải đi vì ở lại họ sẽ giết con mất!
Từ đó, thằng Sừng đi biệt tăm, biệt tích cho tới ngày hôm nay, tình cờ Mây gặp lại nó nơi xứ lạ quê người. Ngoài cái trán nhô và đôi mắt sáng, người đàn ông trước mặt nàng không còn một vẻ nào của thằng Sừng năm xưa.
Mây ngồi yên bên ly nước cam vàng óng, mắt nhìn ra biển, lắng nghe Sừng kể lại cuộc đời nổi trôi của có...

Một sự màu nhiệm đã đưa đẩy Sừng leo lên con tàu vượt biển vào một đêm không trăng. Đêm hôm ấy, Sừng đang nằm trốn ở một bụi cây, ngủ khò sau một ngày lang thang bán đậu phọng rang trên bãi biển thì có những tiếng chân chạy thình thịch vang lên. Đã quá quen với sinh hoạt của vùng biển, nên Sừng biết ngay đây là một toán người vượt biên. Sừng dở mình, định ngủ tiếp. Bỗng có tiếng trẻ khóc thút thít, gọi mẹ nho nhỏ:
- Mẹ ơi! Mẹ đâu rồi?
Sừng nghe như tiếng kêu khóc của chính mình mấy năm về trước. Năm bảy mươi lăm, nó cũng bị thất lạc bố mẹ trong lúc chạy giặc như cô bé này. Và từ đó, nó sống lay lứt nơi đầu đường xó chợ với những đứa bạn cùng cảnh ngộ. Sừng dụi mắt, ngồi phắt dậy, chạy theo cái bóng đen nhỏ xíu. Nó bồng cô bé lên và bảo:
- Để anh bồng , đuổi theo mẹ cho kịp nhé!
Không đợi cô bé trả lời, Sừng bế thốc cô bé lên, cắm đầu mà chạy. Tiếng sóng biển vỗ ầm ầm trong đêm khuya tĩnh mịch. Gió rít từng cơn, thổi phần phật chiếc áo khiến Sừng cảm thấy lành lạnh. Bầu trời tối đen, thỉnh thoảng có một vài vì sao ở thật cao và thật xa.
Chẳng bao lâu, Sừng thấy đoàn người đang xô đẩy nhay leo lên một con tàu được dấu sát bờ biển, phía sau lùm cây um tùm. Nó bồng cô bé, len vào đám đông. Rồi nó bị kéo lên tàu. Một khối người khổng lồ ngồi chồng chất lên nhau dưới hầm tàu. Tiếng khóc, tiếng kêu la, tiếng gọi nhau ơi ới. Máy tàu bị trục trặc. Mọi người nín thở chờ đợi. Mãi thật lâu sau mới có tiếng oang oang từ trên boong tàu vọng xuống:
- Trời hừng sáng rồi, mọi người muốn đi luôn hay quay về?
Những tiếng hét: “Đi luôn! Đi luôn!” vang lên.
Từ lúc lên tàu, cô bé vẫn ôm cứng lấy cổ của Sừng mà khóc. Một người ngồi bên, nhận ra cô bé, la to lên:
- Chị Liên ơi! Có bé Quỳnh ở trên tàu này!
Một người đàn bà từ đằng xa, vừa khóc vừa nói:
- Cam ơn Trời Phật! Quỳnh ơi! Con ơi! Mẹ đây này!
Cô bé tên Quỳnh được chuyền từ tay Sừng qua tay nhiều người để đến với mẹ.
Lúc này Sừng mới nhận ra là một bàn chân của mình dẫm phải miểng chai, máu hãy còn rỉ xuống sàn tàu. Sừng thò tay vào túi quần, lấy ra một cái khăn mùi xoa màu xanh lá cây cũ kỹ, nó buộc chặt vào chân để cầm máu. Sừng cảm thấy cồn cào trong bụng. Thì ra hồi tối, vì quá mệt, nó đã lăn quay ra mà ngủ, không kịp ăn uống gì. Sừng hy vọng một lát nữa, họ phát thức ăn cho những người trên tàu, nó sẽ được ăn ké. Sừng chợt nhớ mấy đứa bạn. Ngày hôm nay, không thấy Sừng, chúng nó sẽ tưởng Sừng bị bắt. Thế nào chúng cũng đi tìm mấy tên công an, hối lộ mỗi tên một bao thuốc lá Vàm Cỏ để chuộc Sừng ra như mọi lần. Không tìm được Sừng, chúng sẽ tưởng Sừng bị bắt, giải đi xa hoặc bị bắn chết và liệng xác ở đâu đó rồi.
Sừng áy náy trong lòng. Giá mà có thể quay trở lại thì tốt quá! Chưa bao giờ nó có ý định vượt biên, mặc dù nó biết có nhiều người nghèo vẫn thường canh me, chờ khi có tàu vượt biên là leo đại lên, hoặc gánh và chôn dấu giùm vài thùng dầu là có thể được đi theo. Hồi nãy, Sừng chỉ muốn giúp cô bé tìm mẹ mà thành bị kẹt cứng trong cái hầm tàu này.
Con tàu chạy được một hồi lâu. Đã có nhiều người kêu khát nước. Một người đàn ông, dáng người bé nhỏ với cái đầu hói và cặp mắt ti hí, ở trên bo ong tàu đi xuống, đứng ở cầu thang ra lệnh:
- Mọi người phải ngồi yên tại chỗ, lát nữa ra khỏi hải phận quốc tế mới được phát nước uống.
Tiếng máy tàu chạy xình xịch, tiếng trẻ con khóc hu hu, tiếng người lớn nói chuyện ồn ào hoặc cầu kinh niệm Phật lầm rầm tạo thành một âm thanh hỗn độn. Hình như trong cơn nguy hiểm, tất cả mọi người đều trở thành con ngoan của Chúa, của Phật, của các đấng linh thiêng. Họ mong được Chúa thương, Phật độ, được các đấng linh thiêng giúp cho con tàu được thuận buồm xuôi gió để họ có thể đến được bến bờ.
Khi được báo tin là đã ra đến hải phận quốc tế, mọi người reo hò ầm ĩ. Có tiếng vọng xuống, ra lệnh:
- Những người nào quá mệt được lên boong tàu, những người khác ngồi yên tại chỗ.
Sừng đỡ một cụ già lên boong tàu và ở lại trên đó. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng lung linh đổ xuống mặt nước xanh biếc. Giữa cái mênh mông của biển cả, con tàu nhỏ xíu như một chiếc lá, nhồi lên nhồi xuống theo những cơn sóng nhấp nhô, hãi hùng. Thỉnh thoảng, một đàn cá voi, nối đuôi nhau, trồi lên, lặn xuống trông thật gần và đáng sợ!
Cuộc hành trình gian lao và đói khát rồi cũng trôi qua. Sau ba ngày ba đêm lênh đênh trên biển, con tàu cặp ben tại đảo Pulau Laut của Nam Dương, hòn đảo thơ mộng với những hàng dừa cao chạy dài theo bãi biển. Hòn đảo ấm áp tình người với những người dân hiền hòa chất phác.
Sau đó, mọi người được chuyển sang đảo Sedanau và Ku Ku. Cuối cùng là đảo Galang. Những buổi học tiếng Mỹ, những bữa cơm Cao Ủy no đủ, những trưa hè đùa rỡn với sóng biển rồi cũng qua đi. Sừng được một gia đình người Mỹ bảo trợ về Washington D.C., thủ đô của nước Mỹ.
Từ đó, Sừng không còn là chú bé bán đậu phọng rang trên bãi biển Đà Nẵng. Tình thương của cha mẹ nuôi, cuộc sống êm đềm, tiện nghi và một quá khứ khổ đau đã là những yếu tố để tình cảm và trí tuệ của Sừng phát triển mạnh mẽ.
Sừng say mê học, đối với Sừng, học là một đam mê, một khám phá. Sau khi tốt nghiệp trung học với một số điểm khá cao, Sừng được hầu hết các đại học nổi tiếng nhận vào học. Sau khi đắn đo mãi, Sừng đã chọn trường Georgetown. Để tiện việc học hành, Sừng thuê một căn phòng trong một cao ốc gần trướng. Hằng ngày, Sừng đi bộ tới trường, mãi khuya mới về nhà. Cuối tuần, Sừng về thăm gia đình bố mẹ nuôi và gia đình Quỳnh, cô bé mà Sừng đã bồng trong chuyến vượt biên ngày nào. Sừng cũng dành thời giờ để đi dự những buổi sinh hoạt của cộng đồng Việt Nam trong vùng. Những sinh hoạt này, đã trở thành một nhu cầu cần thiết trong đời sống của Sừng.
Thời gian qua mau...Sừng đã thành công trên đất Mỹ. Quỳnh đã trở thành vợ của Sừng và họ đã có hai cô con gái. Để nhớ ơn Mây đã giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn, Sừng đặt tên các con là Thu Vân và Thanh Vân.

Sừng ngừng kể chuyện, giọng đầy xúc động:
- Nếu đêm hôm đó, cô không cho con trốn tại nhà và cho con vé xe đi Đà Nẵng thì không biết đời con bây giờ ra sao cô nhỉ?
Mây cười ròn tan:
- Số tử vi của anh khá thì không có tôi anh cũng vẫn sẽ được người khác giúp. Và cuối cùng, anh sẽ vẫn như ngày hôm nay thôi.
Sùng nhăn mặt:
- Cô lại gọi con bằng anh rồi!
Hình ảnh thằng Sừng và đám bạn nhỏ chuyên ăn cắp ăn trộm ở khu chợ trời Nguyễn Thông trong những năm đầu mất nước chợt trở về trong trí Mây thật thân thiết và gần gũi. Mây mỉm cười thân mật:
- Chủ Nhật tuần sau, Sừng mang vợ và hai con lại cô ăn cơm nhé!
Lê Thị Nhị
_________________
Linh Vang
www.geocities.com/linhvang
linhvang
#11 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:54:44 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:18 am
Tiêu đề: Đêm - Lê Thị Nhị

Đêm
Lê Thị Nhị

Huyền đưa tay bấm nút. Tiếng rên rỉ của cô ca sĩ trong một bản nhạc tình thời tiền chiến phát ra từ máy cassette ngưng bặt. Huyền nghe rõ từng hơi thở, từng nhịp tim đập của chính mình. Chuông đồng hồ thong thả buông hai tiếng rời rạc. Đã hai giờ khuya!
Huyền đưa tay vén tấm màn che cửa sổ. Ngọn đèn vàng hắt ra những tia sáng yếu ớt, rọi xuống sân cỏ trước nhà và lối đậu xe trống vắng. Một con mèo chạy vụt qua, rồi mất hút sau căn nhà đối diện.
Huyền ngồi vào bàn viết, định sắp xếp tình tiết cho một truyện dài do tòa soạn báo Gia Đình yêu cầu. Mọi đêm, sự vắng lặng giúp Huyền trong việc sáng tác. Nhưng đêm nay thì không. Huyền nguệch ngoạc chưa được hai trang giấy đã lại đứng lên, đi về phía máy truyền hình và bấm nút. Một chương trình chọc cười vô duyên không làm cho Huyền bớt nỗi bồn chồn, lo lắng trong lúc này. Huyền lại bấm nút, tắt máy.
Nếu là cuối tuần thì Huyền không thắc mắc. Nhưng hôm nay là ngày thường, có nghĩa là chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa các con nàng phải vào lớp học, hỏi sao nàng không lo? Có họa chăng nàng là gỗ đá, cỏ cây.
Khi Hiến và Hạnh lên đại học, Huyền đã phải khó khăn lắm mới thuyết phục được các con học ở gần nhà. Đổi lại, Huyền phải hứa sẽ tôn trọng hoàn toàn tự do và đời sống riêng tư của chúng. Thành ra, những trường hợp như đêm nay, Huyền chỉ được quyền lo lắng mà không được quyền hỏi han và khuyên bảo.
Phương, chồng nàng, vắng nhà luôn, có khi cả hai tháng mới về. Phương làm cho một hãng điện toán có chi nhánh ở nhiều nước trên thế giới nên chàng đi đây, đi đó như người ta đi chợ. Khi ở nhà thì chàng hội họp liên miên, vì chàng có máu chính trị trong người. Lúc nào Phương cũng tất tả, quan trọng như chàng sắp sửa xoay chuyển cả tình hình đất nước Việt Nam ở phía bên kia quả địa cầu. Lại còn cô nhân tình mắt xanh của Phương khi nàng và các con còn ở Việt Nam nữa, không biết chàng còn mặn nồng không? Phần thì bận lo cơm áo, phần thì không có lòng ghen tuông nên nàng cũng chẳng để ý tới.
Điều mà Huyền buồn không phải vì mình mà vì các con. Nếu Phương ráng nhín chút thời giờ dạy dỗ con cái thì đỡ biết mấy. Huyền thương các con thiếu sự dìu dắt của một người cha. Mối liên hệ của Phương với vợ con chỉ qua những tấm chi phiếu mà chàng đem về hàng tháng. Như thế, Huyền nghĩ, Phương cũng đã là một người chồng, người cha tốt rồi. Có thiếu gì anh chàng vượt biển, rồi bỏ luôn vợ con không thèm bảo lãnh và giúp đỡ.
Huyền đã quen với sự đi sớm về trễ không báo trước của chồng, nay đến lượt các con. “Mẹ cứ coi như chúng con ở trong trường. Đừng kiểm soát và giảng luân lý cho chúng con nữa, chúng con lớn rồi.”
Ôi! Đối với những bà mẹ, những đứa con của mình chẳng bao giờ lớn cả. Điều này, làm sao các con của nàng hiểu được?
Để có thể im lặng cho vừa lòng các con, Huyền đã tập một nếp sống mới: nếp sống bấm nút. Muốn nghe, nàng bấm nút cassette. Muốn nhìn, nàng bấm nút T.V., V.C R. Muốn nói, nàng bấm điện thoại.
Nếu nói thời đại này là thời đại bấm nút thì quả là không sai. Bấm nút một con búp bê, nó cũng biết nói “I Love You”. Những băng nhạc ru bé ngủ, những số điện thoại đọc truyện cho thiếu nhi...đã cướp đi vai trò của người mẹ, bà nội, bà ngoại. Đôi khi con cháu tưởng những người thân này không còn ở trên trần thế! Cũng may, phong tục của người Mỹ còn có ngày sinh nhật, ngày của cha, ngày của mẹ, ngày Valentine để con cháu chạy ra tiệm Hallmark, mua những tấm thiệp thật lộng lẫy, với những lời hay, ý đẹp để tặng ông bà, cha mẹ. Điều đó, được coi như một lô xổ số trúng an ủi cho các bậc sinh thành.
Huyền ngồi bên cửa sổ. Tay nàng lơ đãng lật từng trang cuốn Album gia đình. Trong ảnh, trông gia đình nàng thật hạnh phúc. Trong ảnh, không thấy những bữa cơm vội vã, lặng lẽ; chỉ thấy bàn ăn có vẻ thịnh soạn và mọi người đều cười thật tươi. Trong ảnh , không thấy những buổi đi chơi ngoài trời nhạt nhẽo, gượng ép; chỉ thấy trời xanh, mây trắng, thảm cỏ xanh mượt, cả gia đình ngồi ăn trên một tấm khăn trải thật lớn có hoa sặc sỡ. Những tấm ảnh chụp ở tiệm, sự xa cách nhau nhường chỗ cho sự gần gũi, âu yếm, vai kề vai, má kề má.
Huyền gấp cuốn Album lại, đưa mắt nhìn ra ngoài, chờ đợi. Có ánh đèn từ xa chiếu lại. Rồi một cái xe đậu trước nhà.
Phương lạch cạch mở khóa, bước vào:
- Chưa đứa nào về hả em?
- Hai đứa ở lại thư viện học, ngày mai thi cuối khóa.
- Em để ý dậy dỗ hai đứa, coi chừng tụi nó hư đấy!
- Dạ!
- Trễ rồi, sao em chưa đi ngủ?
- Em đã ngủ được một giấc, mới dậy uống nước đó thôi.
- Vậy hả. Anh cũng phải đi ngủ ngay, mai còn phải đi làm sớm.
Phương, Huyền vào phòng riêng của mỗi người, đóng cửa lại.
Một lúc sau, biết Phương đã ngủ say, Huyền rón rén ra phòng ngoài để đợi các con. Huyền cố đọc sách để quên đi thời gian đang trôi thật chậm chạp.
Khi Hạnh về, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Hạnh hỏi mẹ:
- Trễ rồi, sao mẹ chưa đi ngủ?
- Mẹ đã ngủ được một giấc, mới dậy uống nước đó thôi.
- Thế ạ!
- À này, con, hồi nãy mẹ tưởng con không về nên mẹ nói với bố là con ở lại thư viện học vì mai phải thi cuối khóa.
Hạnh nhăn mặt hỏi mẹ:
- Mẹ muốn con nói như vậy với bố? Cũng được, nhưng lần sau mẹ đừng nói vậy. Con không cần phải nói dối.
Hạnh chào mẹ, rồi vào phòng đóng cửa lại. Huyền yên tâm vì Hạnh đã về, nàng không cần đợi Hiến nữa. Con trai mà, lo gì! Huyền vào bếp. Lần này thì nàng uống nước thật. Ly nước mát lạnh làm tan đi những âu lo trong lòng nàng. Huyền vào phòng, ngủ thiếp đi...

Chuông điện thoại reo vang. Huyền với tay nhấc ống nghe. Một giọng Mỹ đặc sệt ở bên kia đầu dây:
- Hello! Làm ơn cho tôi nói chuyện với bà Nguyễn
- Vâng, tôi nghe đây!
- Thưa bà, đây là nhà thương Fairfax. Chúng tôi báo để bà biết là con trai bà tên là Hiến bị tai nạn xe hơi và đang ở phòng cấp cứu.
- Vâng, tôi sẽ lại ngay.
Huyền vội vã thay quần áo rồi lái xe như bay vào bệnh viện. Vừa đến phòng cấp cứu, Huyền đã thấy hai người lao công mặc áo màu xanh, đẩy một cái băng ca ra. Huyền nhìn thấy mặt Hiến đầy máu me. Một người nói với nàng:
- Chúng tôi rất tiếc, cậu ấy đi rồi!
Huyền hãi hùng ôm lấy thân thể của con, khóc thét lên! Và nàng tỉnh dậy.
Thì ra Huyền ngủ mơ! Nàng đẩy cái gối ôm sang một bên, mồ hôi nàng còn lấm tấm trên trán. Tim nàng còn đập thình thịch. Huyền tung chăn, ngồi dậy, chạy ra phòng ngoài. Huyền đưa tay vén tấm màn che cửa sổ: ba cái xe nằm ngoan ngoãn trước nhà, một điểm sáng thật nhỏ, thật xa trên bầu trời tối đen như mực./.
Lê Thị Nhị
linhvang
#12 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:55:55 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Sun May 09, 2004 10:21 am
Tiêu đề: Sẽ Nói Với Em - Lê Thị Nhị

Sẽ Nói Với Em
Lê Thị Nhị

Có tiếng mở khóa lạch cạch rồi Băng gọn gàng trong bộ váy ngắn, chạy ào vào phòng như một cơn lốc, miệng nói tíu tít:
- Anh Sâm ơi! em thi xong rồi, bài làm khá lắm! Anh thưởng em cái gì nào?
Sâm chưa kịp trả lời, Băng đã đến bên, ôm ghì lấy Sâm mà hôn. Bỗng Băng đẩy Sâm ra, tròn mắt nhìn người yêu:
- Anh làm sao thế này? Em tưởng em đang ôm khúc cây, em tưởng em đang ôm hôn một tảng đá.
Khuôn mặt thanh tú với đôi mắt đen láy và đôi môi đỏ hồng của Băng đã kéo Sâm trở về với thực tại. Chàng thoáng ân hận:
- Xin lỗi em, anh không được khỏe. Vả lại, anh cũng đang có nhiều chuyện không vui.
Băng ngồi phịch xuống ghế, hét to:
- Em biết anh không có ốm đau gì hết! Lại ba cái chuyện hội hè đình đám, yêu nước, cứu nước nó hành hạ anh đấy thôi.
Sâm biết Băng bắt đầu khiêu chiến, nên đánh trống lảng:
- Hôm nay trời đẹp quá! Chúng mình ra bờ sông Potomac đi dạo và ngắm hoa anh đào nghe em?
Nước mắt chạy vòng quanh, Băng lắc đầu:
- Em không muốn đi, anh có bao giờ nhìn thấy hoa đâu mà rủ em đi ngắm hoa. Dưới mắt anh, mỗi gốc cây anh đào là một hình ảnh của quê hương Việt Nam. Mỗi cành hoa anh đào đều mang một tấm ảnh của một em bé bên trại tỵ nạn.
Sâm hôn nhẹ lên trán Băng, kéo nàng vào lòng:
- Tội của anh to thế cơ hả? Thôi, cho anh xin lỗi nhé!
Băng òa khóc:
- Nói thật với anh, em không thể chịu nổi cái tình trạng như thế này nữa! Anh cứ đi đây đi đó lung tung, để mặc em cô đơn một mình. Mỗi khi đi đâu vơi em thì mặt anh bí xị như cái bánh bao chiều. Khiêu vũ với em thì anh thẫn thờ nhìn lên trần nhà như người mất hồn và đẩy em như người ta đẩy xe bò. Anh tưởng em là gỗ đá hay thần tiên? Em là người, em là người, anh nhớ chưa?
Cuộc tấn công ồ ạt và bất ngờ của Băng làm Sâm bối rối. Những lời phàn nàn của Bang như vậy vẫn thường xảy ra. Nhưng chưa bao giờ Sâm thấy Băng giận dữ và buồn như lần này. Sâm tự hỏi, không biết vì Băng hãy còn nhớ tới chuyến đi sang trại tỵ nạn hai tháng vào dịp hè vừa qua của chàng, hay là đã có một đám mây nào che khuất tình yêu nồng nàn mà Băng đã dành cho chàng trong suốt mấy năm vừa qua. Dù vì lý do nào đi nữa thì Sâm cũng thấy tình trạng này bất ổn. Sâm vẫn biết, Băng đã chịu nhiều thiệt thòi khi yêu chàng. Nàng còn trẻ và ham vui, trong khi đó, đã lớn hơn nàng bẩy tuổi, chàng lại già trước tuổi nên cả hai người đôi khi cảm thất thật là khổ sở. Tuy vậy, họ vẫn yêu nhau thắm thiết, không thể nào rời xa nhau được. Sâm nhìn người yêu, thành thật nói:
- Anh biết em buồn, nhưng anh không biết phải làm sao bây giờ?
- Anh không biết thì nghe em nói đây. Mình thương nhau sáu năm rồi, anh đã học xong và có việc làm. Em cũng không còn bé nữa. Mình phải tạo dựng một mái ấm gia đình, anh biết chưa? Ba cái lý tưởng, tư tưởng vĩ đại của anh, anh bỏ bớt đi để có cuộc sống bình thường như người ta, được không anh?
Sâm ngập ngừng:
- Anh đâu có lý tưởng gì, chẳng qua là anh sống và nghĩ một cách không bình thường đó thôi. Hoặc nói thẳng ra là anh điên điên, gàn gàn.
- Nếu anh biết mình điên thì tốt rồi! Mà anh có thấy những sinh hoạt lẩm cẩm chỉ mang đến cho anh nhiều sự buồn phiền, bực tức hơn là vui vẻ hay không? Rốt cuộc, anh cũng chẳng làm được những việc mà anh mong muốn.
Đôi mắt đẫm lệ và lời nói của Băng như những vết dao đâm vào trái tim đang bị thương của chàng. Sâm nghĩ, lúc này không phải là lúc hai người có thể đối thoại với nhau. Chàng yên lặng, xiết nhẹ bàn tay mềm mại của người yêu, khe khẽ thở dài. Băng dịu giọng:
- Đâu phải em đòi hỏi nhiều! Em yêu anh, em cũng muốn được anh thương yêu và săn sóc, anh có biết không?
- Anh biết chứ! Nhưng yêu nhau, mình phải quên những gì đang xảy ra xung quanh chúng ta hả em? Điều này, anh làm không được!
- Không hẳn là như vậy. Nhưng rõ ràng là thương anh, em buồn lắm! Anh nghĩ kỹ đi, hay là chúng mình xa nhau để anh được tự do, để anh khỏi phải nghe em than thở và đòi hỏi những điều mà anh không thể cho em được.
- Anh không muốn được tự do, anh muốn được nghe em than thở và đòi hỏi.
Băng mỉa mai:
- Em cứ việc đòi hỏi và anh cứ hát bài “Đường ta ta cứ đi” phải không anh?
Sâm nắm lấy tay Băng, kéo nàng đứng dậy. Chàng hôn lên đôi mắt ướt của nàng, âu yếm nói:
- Thôi, chúng ta “ngưng chiến” nhé? Trời đẹp quá, em muốn đi bất cứ đâu, muốn làm bất cứ gì, anh cũng chiều ý em. Đừng hành hạ anh nữa, tội nghiệp!
Băng chán nản:
- Em chẳng muốn gì bây giờ cả. Em đi về, khi khác gặp nhau vậy.
Sâm không giữ Băng lại mà chàng chỉ hẹn khi tiễn Băng ra cửa:
- Tối mai, anh sẽ đón em khoảng bảy giờ nhé.
Trong thâm tâm, Sâm lo sợ cho cuộc gặp gỡ ngày mai. Đã đến lúc Sâm phải chọn lựa giữa hai con đường: một là có Băng trong cuộc sống, hai là tiếp tục cuộc sống độc thân để thực hiện những ước mơ của đời mình. Sự chọn lựa này, đối với Sâm thật là khó khăn. Cho đến bây giờ, Sâm cũng không biết ngày mai sẽ phải nói gì với Băng.

Sâm luồn hai tay về phía sau, dùng làm gối kê đầu. Hai chân duỗi thẳng, mắt nhìn đăm đăm lên trần nhà. Chưa bao giờ Sâm thấy chán nản như lúc này. Băng đã đi từ lâu mà tiếng nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây: “Rốt cuộc rồi anh cũng chẳng làm được những điều anh mong muốn.”
Những việc mà Sâm muốn làm thì thật là nhiều nhưng Sâm không biết phải bắt đầu từ đâu? Nhóm bạn hữu của chàng thì một số đã bỏ cuộc vì bị “dị ứng” trong lúc sinh hoạt. Số còn lại thì bị phân hóa bởi phương thức làm việc, mặc dù có chung một mục đích.
Sâm nhớ lại cuộc cãi vã với Hưng mấy tuần nay mà cảm thấy bực bội trong lòng. Cũng đành, từ nay mỗi người đi một hướng. Sự mất mát này đối với Sâm thật quá lớn lao. Vì đã từ bao năm nay, Hưng là một người bạn thân thiết và hiểu Sâm hơn bất cứ người bạn nào.
Sâm đưa mắt nhìn qua căn phòng nhỏ. Mười năm, phải, đúng mười năm, cuộc đời Sâm đã gắn liền với căn phòng này và ngôi trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ. Hai cái kệ cao và dài với những quyển sách dày cộm. Những mảnh bằng tốt nghiệp trung học, cử nhân, tiến sĩ và những bằng khen thưởng được lồng trong những khuôn hình bằng gỗ treo la liệt trên tường một cách trơ trẽn. Phía dưới là một cái bàn học. Trên bàn, ngoài sách và giấy bút còn có một tấm ảnh Sâm và các bạn đứng chật cả sân khấu, hát bài quốc ca Việt Nam, trong một chương trình văn nghệ liên trường. Sâm thở dài. Những người bạn đã cùng Sâm chia sẻ những nụ cười, niềm vui qua tiếng hát, câu hò mang đầy tình tự dân tộc, nay đã mỗi người một ngả. Sự xa cách không gian còn có thể nối lại, nhưng sự xa cách về tư tưởng thì biết làm sao đây? Vấn đề về hay không về Việt Nam, để góp phần xây dựng đất nước, lâu nay là một đề tài sôi nổi, làm phân tán cái cộng đồng Việt Nam nhỏ bé này. Trong hàng ngũ sinh viên, cái nạn chụp mũ nhau thì không có. Nhưng cũng không đoàn kết và vui vẻ như xưa. Tuy vậy, Sâm và các bạn vẫn không nản lòng. Sâm có một niềm tin mạnh mẽ vào tương lai dân tộc, vào tuổi trẻ Việt Nam. Sâm hy vọng những người trẻ trong và ngoài nước sẽ kết hợp với nhau để làm nên những trang sử mới.
Những tin tức về cởi mở kinh tế và sự thay đổi chính trị tại quê nhà dồn dập đưa sang, khiến mọi người hân hoan, hy vọng. Sâm và các bạn hăng say, bận rộn chuẩn bị cho ngày về. Những buổi hội thảo về chính trị, tương lai kinh tế Việt Nam...được tổ chức liên tục, thay thế cho những buổi văn nghệ nhẹ nhàng, những buổi dạ vũ náo nhiệt. Những tờ báo của các nhóm trẻ đã phát hành khắp nơi. Những hoài bão, những suy tư, những điều họ đã học hỏi, được gói ghém trong những bài viết bằng tiếng Anh, tiếng Việt, đã như một luồng gió mới thổi vào sinh hoạt của cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Sâm và các bạn đã xông xáo vào trong mọi lãng vực của cộng đồng. Tình trạng phân hóa, trăm hoa đua nở rồi trăm hoa đua tàn của các hội đoàn khiến những người trẻ ngỡ ngàng. Những nhân vật có đôi chút uy tín, một thời là thần tượng của giới trẻ, đã bị xụp đổ qua những bài báo, những lời đồn đại, hoặc chính những hành động của họ, khiến những người trẻ hoang mang.
Qua các trại tỵ nạn để giúp đồng bào, Sâm mới thấy sự bất lực của mình trước nỗi tuyệt vọng của những người đã hy sinh cả mạng sống để đi tìm tự do.
Về Việt Nam theo một phái đoàn ngoại quốc để chứng kiến sự đổi mới, sự cởi mở của chế độ, Sâm đã thất vọng tràn trề. Cái bề mặt sầm uất, náo nhiệt của Sàigòn với những quán cà phê, phòng trà, vũ trường và hàng hóa ngoại quốc tràn ngập đã không che dấu được sự nghèo đói của cả một dân tộc.
Chưa bao giờ người ta thấy sự chênh lệch giữa kẻ giầu, người nghèo lại quá mức như thế! Những người đầy tớ của dân có biệt thự, xe hơi, vàng từng ký lô...Người dân, làm chủ, thì ngủ đường, ngủ chợ, ăn sắn, ăn khoai.
Sâm không mong đợi một phép lạ, một sớm, một chiều có thể thay đổi tình trạng của đất nước. Nhưng những sự đổi mới và cởi mở không biết đã thực sự bắt đầu chưa? Và giới trẻ trong nước có đủ sức mạnh, vượt qua những ngọn núi sừng sững đang ngăn cản bước tiến của họ không?
Sâm bỗng nhớ đến Trang, một người bạn mà Sâm đã gặp gỡ và thân thiết trong những ngày lưu lại Sàigòn. Sâm còn nhớ rõ ngày đầu gặp Trang, Sâm e dè và ghét cay ghét đắng cái giọng tuyên truyền khoác lác và ngoan cố của “cô bé Việt Cộng” đó. Nhưng sau vài lần nói chuyện, và nhất là sau buổi đi Nha Trang cùng với cơ quan của nàng, Sâm mới vỡ lẽ ra rằng đằng sau cái mặt nạ kia, Trang là một “cô Bắc kỳ nho nhỏ” thật dễ thương và ôm chung một ước mơ với chàng.

Trang và Sâm lặng lẽ đi dọc theo bãi biển, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hàng dừa cao đứng im sững trong đêm. Thỉnh thoảng một luồng gió biển thổi vào làm lao chao cành lá trên ngọn cây. Ánh trăng vàng đổ chan hòa xuống vùng biển mênh mông. Từng làn sóng nhấp nhô, rồi vỗ vào bờ ầm ầm phẫn nộ. Sóng cuốn đi cả những con dã tràng đang bò lồm cồm tìm bạn.
Trang lên tiếng, phá tan không khí yên lặng giữa hai người:
- Anh Sâm can đảm thật, dám dạo chơi với Việt Cộng. Anh không sợ bị thủ tiêu hay sao?
Sâm thành thật:
- Hồi đầu gặp Trang, tôi cũng hơi ngán. Nhưng bây giờ thì quen rồi!
Trang thở dài:
- Cái khổ của chúng mình là không biết ai là bạn, ai là thù. Thực ra, anh coi Trang là thù cũng đúng vì Trang là cán bộ nhà nước, vì Trang là đảng viên.
- Nếu tôi không may mắn thoát được năm bảy mươi lăm thì bây giờ tôi cũng là cán bộ nhà nước như Trang vậy thôi. Theo tôi, dù sống ở hai nơi khác biệt, nhưng nếu chúng ta có cùng chung một hướng đi thì vẫn có thể là bạn.
- Có bao nhiêu tình bạn như vậy hả anh?
- Không nhiều, nhưng chắc là có. Một ngày nào đó, bức tường ngăn cách giữa chúng mình sẽ phải xụp đổ Trang ạ.
- Cũng có nhiều lúc Trang mơ mộng như anh. Nhưng rồi Trang vẫn phải sống rất “hiện thực”. Từ ngày Trang tốt nghiệp kỹ sư xây dựng và ngã vào một cái nệm bông, trong lúc ở đây gặp cơn sốt về xây cất nhà cửa, khách sạn, mở mang đường xá thì Trang đã không còn là Trang nữa. Đời đã dạy Trang, muốn sống, phải có mánh mung, thủ đoạn, kéo bè, kết cánh. Trang bắt đầu nhận thấy những người trưởng thành không còn mơ mộng hão huyền. Mà mơ những cái có thật như nhà, như xe, như tiền, như vàng lá...Những kỳ vọng mà xưa kia Trang đặt vào giới trẻ không còn trong Trang nữa. Vì Trang đang ở trong hàng ngũ của họ. Một thúng cà chua thối, những quả khác làm sao còn nguyên vẹn, phải không anh? Nếu anh ở vào hoàn cảnh của Trang, anh cũng vậy thôi. Không thể nào khác được, không thể nào làm khác được.
- Tôi thấy Trang có vẻ bi quan quá đấy nhé! Trong đám những người trẻ ở đây còn có những người như Trang thì lo gì thế hệ của chúng ta không xoay chuyển được tình thế.
Trang cười dòn tan:
- Những người như Trang, chỉ có đủ khả năng xoay chuyển cái túi rỗng của mình thành cái túi đầy đầy để trả thù những tháng năm đói rách thôi.
Ngừng một lát, Trang tiếp:
- Trong công việc, Trang cũng có dịp gặp gỡ những người trẻ từ nước ngoài trở về. Một số định lợi dụng cơ hội để tìm danh, tìm lợi, để làm cha thiên hạ. Số còn lại là những người trẻ đầy nhiệt tình, muốn làm một chút gì cho quê hương. Dù sao, thành phần thứ hai đã làm Trang khâm phục và quý mến.
- Trang xếp tôi vào thành phần nào?
- Dĩ nhiên là thành phần thứ hai. Do đó, giờ này Trang mới đi dạo với anh để nói lên những gì ấp ủ trong lòng. Trang sống giả dối nhiều rồi. Hôm nay, xin anh một lần cho Trang nói thật. Trang cũng không hiểu sao Trang lại cảm thấy gần gũi và tin tưởng anh như thế?
- Có lẽ tại trông tôi “cù lần” quá!
- Anh không “cù lần” Nhưng trông anh như “con nai vàng ngơ ngác”.
- Cảm ơn Trang đã ví tôi với hình ảnh đẹp tuyệt vời đó. Và cảm ơn Trang đã tâm sự cùng tôi đêm nay. Tuy nhiên, tôi mong rằng từ nay Trang không còn bi quan nữa. Vì từ nãy, cái tính hay tô hồng cuộc sống của tôi đã lây sang Trang rồi đó.
Tiếng Trang mơ hồ theo cơn sóng vỗ:
- Trang chỉ có bút màu đen, làm sao tô hồng được hả anh?

Sau chuyến viễn du Việt Nam và các trại tỵ nạn, mọi sinh hoạt của Sâm và các bạn như chìm xuống. Sự bồng bột, sôi nổi không còn nữa. Chàng và các bạn có vẻ chín chắn hơn trong mọi hoạt động. Bọn Sâm tránh né sự xung đột giữa các phe phái và cố gắng tạo cơ hội để làm việc. Nhưng những cố gắng ấy chỉ mang lại những kết quả nhỏ nhoi, khiến nhiều người nản chí. Sâm thường an ủi các bạn:
- Mình phải kiên nhẫn, đừng bỏ cuộc. Bỏ cuộc là hèn nhát, vô trách nhiệm. Thế nào rồi tình thế cũng phải thay đổi.
Sâm thở dài nghĩ tới các bạn, nghĩ tới người yêu. Các bạn ơi! Có phải tôi đã nói “Bỏ cuộc là hèn nhát, là vô trách nhiệm” phải không? Băng ơi! Có phải em đã nói “Rốt cuộc, anh cũng chẳng làm được những gì mà anh mong muốn” phải không em? Ngày mai, ngày mai gặp em, anh không biết sẽ phải nói gì với em đây? Nhưng nhất định anh sẽ nói, nhất định anh sẽ nói với em./.
Lê Thị Nhị
linhvang
#13 Posted : Thursday, October 28, 2004 4:56:59 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Tác giả linhvang
Gởi: Mon Jul 12, 2004 1:55 am

Đọc Ba Tập Truyện Ngắn của Lê Thị Nhị

Ngô Tằng Giao

Nhà văn Lê Thị Nhị là tác giả của ba tập truyện ngắn: "Ngày về" (1996), "Mùa đông hò hẹn" (1999) và "Sóng thời gian" (2002). Tạm viết tắt là NV, MĐHH và STG để dễ bề trích dẫn.

Dàn trải trong suốt ba tập truyện ngắn này, mỗi tập gồm 12 truyện, người đọc cảm nhận được một số điều mà tác giả muốn gửi gấm.

Trước hết tác giả đề cao tình yêu quê hương. Tình quê hương lúc thì được ấp ủ một cách thầm kín, lúc thì bùng lên dữ dội trong lòng mọi người, từ một cô gái quê mùa đến một người trí thức khoa bảng, từ một chàng trai trẻ đến một vị cao niên.

Trong truyện "Bóng quê xưa" chúng ta nghe được tâm sự của một cô gái quê đang phải lê bước trên đường rời xa thôn xóm để ra tỉnh kiếm việc: "... nàng muốn thu gọn hình ảnh quê hương vào lòng để làm hành trang cho những ngày xa xứ sắp tới. Không khí này, nàng đã thở từ thuở nằm nôi. Đồng lúa kia đã nuôi nàng khôn lớn. Bóng đa nọ đã che mưa che nắng cho nàng và đám trẻ thơ ngây trong lúc chơi đùa..." (MĐHH tr.82).

Rồi đến tâm trạng của bác sỹ Sâm ở nước ngoài muốn trở về để giúp nước. Chàng chỉ ở Sài Gòn mới vài ngày thôi mà đã: "...yêu thương từng con người, từng cành cây, từng ngọn cỏ của quê hương"..."Quê hương của chàng giờ đây là những con đường với nhiều ổ gà và bụi bậm, là những trận mưa, là những trận bão miền Trung, là cơn mưa phùn xứ Bắc, là cái nóng nung người miền Nam" (NV tr.129).

Tình quê hương vương vấn trong lòng giới trẻ như trong truyện "Ngày về". Vũ, cậu con trai Mỹ lai, khi về thăm lại quê xưa đã tâm sự với cô hướng dẫn viên du lịch: "... tôi chỉ muốn về quê, thở cái không khí mà tôi đã thở thuở ấu thơ, ăn những món ăn đã nuôi tôi ngày bé, gần gũi những người tôi yêu thương"... "Tổ quốc giống như người mẹ. Đâu có người con nào bỏ mẹ mình chỉ vì mẹ nghèo phải không cô?" (NV tr.59).

Tâm trạng người lớn tuổi cũng đâu khác gì. Bà cụ Hương trong truyện "Người mẹ" vui khi nghe tin con mua nhà ở Mỹ, không phải vui vì căn nhà rộng và đẹp mà "Bà vui vì bụi tre ở góc vườn đã cho bà cảm giác như được nương bóng lũy tre làng nơi quê cũ" (NV tr.85).

Tình quê hương rạo rực trong lòng người sắp xa tổ quốc. Trong truyện "Đêm cuối cùng" Loan trước khi vượt biên đã trào dâng cảm nghĩ: "Loan biết chắc rằng Loan sẽ yêu mãi mảnh đất quê hương này. Nghĩ tới phải sống xa Việt Nam Loan đứt từng khúc ruột. Nước mắt Loan dàn dụa, cổ họng Loan nghèn nghẹn" (NV tr.105).

Bà Loan trong truyện "Giấc mơ tan", mơ về quê cũ và vẫn luôn cầu mong cho đất nước được tươi đẹp và hạnh phúc như lời người con nói: "Mẹ đừng có lo. Giới lãnh đạo mới gồm những người trẻ ở trong nước và ở hải ngoại về, toàn những người có học, có tinh thần và thông minh lắm. Thế nào nước mình cũng khá mà!" (STG tr.188). "Một ngày dạo chơi Hà Nội, mẹ con Loan như lạc vào một thế giới thần tiên..." (STG tr.93).

Hình ảnh của quân nhân chế độ cũ tại miền Nam Việt Nam được đề cao một cách trang trọng. Truyện "Gọi người tôi thương" kể lại biến cố bi thảm lúc Sài Gòn đang đổi chủ vào năm 1975. Ngay tại cơ quan của mình Nguyễn bắn vào thái dương tự sát. Vợ Nguyễn phía trong chạy ra chỉ kịp thấy: "Đầu Nguyễn ngoẹo vào thành ghế, mặt chàng bê bết máu và đôi mắt mở trừng trừng"... "Trước khi tôi ngất lịm đi bên cái xác đầy máu me của người tôi thương, tôi còn thấy lá Quân kỳ cùng hàng chữ Tổ Quốc - Danh Dự treo trên tường, phía sau bàn làm việc của chàng" (MĐHH tr.119) .

Kế đến là những cảm nghĩ về thực trạng của xã hội mới trên quê hương sau năm 1975. Trong truyện "Sẽ nói với em" anh chàng Sâm đã có nhận xét rằng: "Chưa bao giờ người ta thấy sự chênh lệch giữa kẻ giàu, người nghèo lại quá mức như thế! Những người đày tớ của nhân dân có biệt thự, xe hơi vàng từng ký lô... Người dân làm chủ thì ngủ đường, ngủ chợ, ăn sắn, ăn khoai" (NV tr.170).

Những tệ nạn xã hội bi thảm bị vạch trần trong truyện "Đêm giao thừa". Cô bé 13, 14 tuổi, nghèo, dù là con "liệt sĩ". Cô bé tưởng được người hảo tâm dắt đi mua cho quần áo ấm nào ngờ bị lừa vào ổ điếm. "Khi người đàn ông dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn đứng lên đi về phía cô bé thì cô cũng run lẩy bẩy rồi ngã huỵch xuống sàn, nằm ngay đơ như một xác chết" (MĐHH tr.22).

Chẳng phải chỉ có cô bé nghèo hèn ít học bị lừa mà ngay cả kẻ trí thức cũng vẫn bị mắc vào bẫy như bác sỹ Sâm trong truyện "Vợ hiền và quê hương". Sâm về Việt Nam làm việc và lấy vợ. Bị vợ và bè đảng của vợ dàn cảnh để lừa. Mất hết cả nhà cửa, xe cộ và mọi tài sản quý giá khác: "Sau hơn một năm sống trong xã hội chủ nghĩa, tình mất, tiền mất, cái niềm tin và hứng khởi khi từ Mỹ về Việt Nam cũng đã bị thực tại làm tan biến đi như mây khói" (NV tr.136).

Cái thực chất của lòng dân đã được khéo léo nói đến trong truyện "Đêm cuối cùng". Loan nghe Chương, một người bà con vừa là giáo sư vừa là nhà văn nổi tiếng, tâm sự: "Em tưởng anh mê chế độ à? Không bay lên trời, không lặn xuống biển được thì anh phải theo họ để giữ nồi cơm thôi. Văn thơ của anh toàn làm theo toa đặt hàng cả" (NV tr.103).

Sự chán ghét chế độ mới được bộc lộ rõ trong truyện "Người yêu Việt kiều" như ý nghĩ thầm kín của Liên: "Sống trong xã hội này, ai mà không mơ ước một sự vượt thoát. Sự vượt thoát không phải thuần vì miếng cơm manh áo mà còn vì những bất công, bất trắc và vô hy vọng ở đời sống này" (MĐHH tr.128).

Tác giả cực lực lên án chiến tranh như suy nghĩ của cô Phượng trong truyện "Suối tương tư". Phượng đi thăm bức tường kỷ niệm ở thủ đô nước Mỹ ghi tên những người đã tử trận trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam trước kia: "Phượng thở dài nhè nhẹ khi nghĩ tới đồng bào của nàng đã phải sống kinh hoàng trong chiến tranh. Một cuộc chiến tranh mà họ không lựa chọn. Những bom đạn, sản xuất từ một nơi xa xăm nào đó đã được mang tới đây để tàn phá phần đất nhỏ bé và dân tộc hiền hòa này" (MĐHH tr.147).

Hay như suy nghĩ của vợ một quân nhân trong truyện "Mùa thu mong manh": "Từ ngày làm vợ một người lính trận, sống kề cận với chồng, Tuyết mới thấy chiến tranh tàn khốc đang tiêu hủy đi nhiều phần đất của quê hương, đang giết hại hàng triệu người dân vô tội. Những người lính ở bên này hay bên kia chiến tuyến, chẳng ai thích chiến tranh. Nhưng họ vẫn phải cầm súng bắn vào nhau..." (STG tr.70).

Tác giả cũng nêu lên cái ước vọng hòa bình như tâm trạng của vợ Nguyễn khi nghe thầy tụng kinh trong truyện "Gọi người tôi thương": "Tiếng chuông, tiếng mõ như đưa tôi vào một thế giới xa xăm, an lạc. Một thế giới không có hận thù. Không có bom đạn của Mỹ, của Liên Xô, Trung Quốc. Một thế giới không có sự tranh chấp giữa chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia. Một thế giới mà con người được quyền sống theo sự tuần hoàn của vũ trụ, không bị chính con người hủy diệt" (MĐHH tr.120).

Tình mẹ con nổi bật trong truyện "Buổi sáng hạnh phúc": "Mỗi lần ăn một món ngon, mẹ lại chép miệng thở dài: "Tội nghiệp mấy đứa ở nhà, chẳng bao giờ được ăn như vậy"... "Mẹ cũng thường mở cái hộp bánh Lu, đựng đầy thư cũ, đọc đi đọc lại từng cái một. Sau cặp kính lão, thỉnh thoảng những giọt lệ lại lăn dài trên đôi gò má hom hem" (NV tr.22).

Vì con mẹ nhiều khi hy sinh hết cả như trong truyện "Chiếc áo ấm Redskin". Gia đình mới qua, chưa có việc làm, lòng thương con nổi lên trong lòng bà Hoa. "Hôm qua, trời trở lạnh. Tim bà đau thắt lại khi nhìn các con từ trường lớp trở về nhà với những nét mặt tái mét, chân tay run lập cập vì thiếu áo ấm..." (STG tr.11). Bà lỡ dại nên phạm tội trộm cắp áo ở siêu thị chỉ vì con nhưng "Bà bỗng mỉm cười khi nghĩ ngày mai các con sẽ được ấm áp lúc đi tới trường. Và đặc biệt, khuôn mặt bé Luân sẽ thật rạng rỡ khi nó mặc chiếc áo Redskin" (STG tr 19-20).

Tình con đối với mẹ cũng thắm thiết. Ngân đưa mẹ từ thủ đô D.C qua California để ở với chị gái mình cho mẹ được vui. Ngân xa mẹ và biết mẹ bị bệnh ung thư khó qua khỏi cái chết "Mắt cô cay cay. Hình như cô khóc! Cô Ngân mường tượng ra căn nhà cô từ nay vắng bóng mẹ. Chuông điện thoại sẽ thôi reo vào lúc mười giờ sáng. Cái ghế sa lông sẽ chẳng còn dáng mẹ nằm nghiêng, đón ánh nắng đầu ngày lọt vào qua song cửa. Căn bếp hẹp, không còn bóng mẹ vào ra" (STG tr. 147).

Tác giả có một quan niệm khá tự do về tình yêu nam nữ, về chân hạnh phúc. Trong truyện "Một đời rồi cũng qua..." tiếng gọi của con tim chân chính đã lấn át đi các khuôn phép gia đình cổ điển cũ: "Thay vì ra đình dự buổi hát thì cô Nhỡ lẻn ra phía bờ ao với một cái bị nhỏ đựng quần áo và mấy đồng bạc để gặp người tình, rồi hai người lặng lẽ bỏ làng ra đi theo tiếng gọi của tình yêu" (STG tr.57).

Cô con gái của Bà Hương trong truyện "Mùa xuân gặp gỡ" đã sắp xếp để Mẹ mình có cơ hội gặp lại người yêu thuở xa xưa, cô nói với mẹ: "Trong cuộc sống đôi khi cũng nên điên một chút mới thú vị mẹ ạ!"... "Hạnh phúc hay không là do mẹ đấy! Ai đời ở thế kỷ hai mươi mốt rồi mà mẹ đã không đi tìm để bắt hạnh phúc lại còn trốn chạy nó nữa, thật là mẹ quê quá đi thôi!" (STG tr.94).

Tuy thế tác giả vẫn luôn đề cao lòng chung thủy giữa vợ chồng khi thì trong hoàn cảnh bi thảm như của vợ Nguyễn trong truyện "Gọi người tôi thương". Vợ Nguyễn rên xiết: "Nguyễn ơi, em phải đi tìm anh. Cho em cùng chết, đừng bỏ em một mình"... "Từ trong đáy thẳm của lòng, câu nói đó vang lên, vang lên. Cùng với tiếng súng đì đùng tôi gọi tên người tôi thương"... "Nguyễn ơi, Nguyễn ơi, hãy chờ em" (MĐHH tr.115). "Bốn người lính vội vã dùng xẻng, đẩy đống đất trên miệng huyệt xuống, lấp kín quan tài, chôn kín hồn tôi" (MDHH tr.122) .
Khi thì mang tính chất dí dỏm như lời của Phong nói với vợ là Mai trong truyện "Giấc mơ": "Càng ở lâu với em, anh càng yêu. Kiếp này được lấy em. Kiếp sau, kiếp sau nữa anh cũng vẫn muốn lấy em" (NV tr.43).

Tác giả tế nhị nêu ra vấn đề "hôn nhân dị chủng", một vấn đề khó mà tránh được trong cuộc sống gia đình của kẻ di dân với hai nền văn hóa khác biệt nhau. Trong truyện "Lửa gần rơm" thời ý kiến của người bố là: "Đối với ông, việc con gái có bồ Mỹ là một điều đại vô phúc. Nhiều lúc ông đã gay gắt với con. Bước qua xác chết của Bố rồi hãy lấy chồng Mỹ con ạ!". Trong khi đó ý kiến người con là: "Theo con, lấy người mình yêu và yêu mình là được rồi. Con không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo gì hết"..."Bố cũng lạ thật! Con lấy chồng chứ Bố có lấy chồng đâu mà Bố lo". (MĐHH tr.45-48). Để rồi người bố lại phân vân: "Chỉ phải mỗi cái tội nó là Mỹ" (MĐHH tr.50).

Trong truyện "Giấc mơ" thời ông bố lại có một lập luận chống đối một cách khác: "Lấy chồng là quyền của con, không thích là quyền của bố mẹ" (NV tr.44).

Thấm nhuần được giáo lý thâm sâu của Đạo Phật tác giả đã đưa ra một triết lý về cái chết rất ung dung tự tại như tâm trạng Bà Hương trong truyện "Người mẹ": "Không phải vì bà liên tưởng đến cái chết của chính mình mà sợ sệt. Bà vẫn nhớ đến những tàu lá chuối héo khô sau khi thân chuối cho đời những trái chín ngọt ngào ở vườn sau nơi quê cũ" (NV tr.84).

Hay như tư tưởng của Loan trong truyện "Gói mì cuối cùng": "Mỗi lần bóc một tờ lịch Loan lại thấy đời mình mong manh như lá mùa thu. Nhưng thay vì buồn đau thì nàng lại quẳng gánh lo đi để sống thật vui...", "...chỉ có những người cận kề với cái chết mới biết sự sống là quý giá" (MĐHH tr.68).

Sau khi đã cận kề với cái chết con người nhiều khi thay đổi quan niệm. Truyện "Đẫm ướt sương đêm" nhắc tới việc Mỵ về Việt Nam muốn gặp lại người chồng phụ bạc. Mỵ tự tử nhưng được người cứu. Sau đó Mỵ tâm sự: "Tôi nghĩ, phút giây khủng khiếp vừa rồi sẽ không tái diễn với tôi nữa đâu, vì tôi vừa chợt nhận ra rằng, nỗi đau khổ của tôi chỉ là hạt bụi so với nỗi đau khổ của ông và của cả dân tộc mình. Và đúng như ông đã nói, người chồng bạc bẽo ấy, không đáng để cho tôi chết vì họ" (STG tr. 31).

Tác giả đưa ra quan niệm lạc quan là "hãy sống với hiện tại" như trong truyện "Buổi sáng hạnh phúc". "Trâm mỉm cười hài lòng với buổi sáng hạnh phúc mà Trâm đã may mắn có được" (NV tr.30). Hoặc như lời cô Hằng, hướng dẫn viên du lịch, nói với anh Vũ, Mỹ lai, ở nước ngoài về thăm quê: "Thường thường người đời ít biết quý cái mà mình đang có...". Và câu trả lời của Vũ: "Bởi vậy con người thường không biết là mình đang hạnh phúc" (NV tr.59-60).

Trong bản thân con người vốn đã có sẵn cái mầm "thiện". Tác giả nhận chân điều này và nêu ra triết lý về sự lương thiện trong truyện một cô bé đang kêu khóc vì bị lạc mẹ trong một cuộc vượt biên đã được một tên "bụi đời" như "thằng Sừng" mà cũng có lòng nhân ra tay cứu vớt. Nó bồng cô bé đuổi theo tìm gặp lại mẹ. "Sừng nghe như tiếng kêu khóc của chính mình mấy năm về trước. Năm 75 nó cũng bị thất lạc bố mẹ trong lúc chạy giặc như cô bé này" (NV tr.146).

Hoặc như lòng nhân đạo của bác tài xế đã cứu người ra khỏi ổ mãi dâm trong truyện "Đêm giao thừa". Bác nghĩ: "Đêm giao thừa, mình làm phúc giúp cho con bé thoát nạn. Cầu trời sang năm mới, xin được việc làm tốt để khỏi phải lái xe cho bọn ma cô, tú bà này nữa" (MĐHH tr.23).

Trong các truyện ngắn của mình tác giả cũng không quên đưa vào những nét dí dỏm nhẹ nhàng và những nhân vật hài hước. Như anh chàng Dũng với mối tình khờ khạo trong truyện "Tỉnh mộng". Anh chàng bị Nương lừa gạt, lợi dụng như một "con nai vàng ngơ ngác" (STG tr. 165). Hay như Miên vì hiểu lầm nên ghen với chồng là Minh trong truyện "Ghen". Bà bạn truyền kinh nghiệm cho Minh trong công tác giữ chồng: "Thực ra tôi cũng biết, nhiều khi phải đi với tôi, mặt anh ấy cũng dài ra như mặt ngựa ấy mà". "Đàn ông hay... thương người, mình xểnh ra một tí là họ đi thương người khác ngay" (STG tr.37).

Lời dí dỏm của cặp tình già gặp lại nhau khi Hương khi cười khúc khích và nói: "Ừ, đẹp đôi lắm! Chúng mình có thể cùng nhau hợp ca bản nhạc 'Răng rụng xuống cầu' rồi đấy anh ạ!" (STG tr.93). Hoặc như quan niệm về tình yêu trong truyện "Mùa thu ngà ngọc": "Sống mà không có tình yêu thì như phở không hành, bánh canh không ớt, chán chết" (MĐHH tr.190). Hoặc như quan niệm của Bà Lâm trong truyện "Rể hiền, con thảo". Bà nói với con gái "Chà! Đàn ông nào khi ngoại tình và bỏ vợ cũng nói là không hợp. Thật ra, chỉ vì ăn cơm mãi, họ chán, họ muốn ăn phở đấy thôi. Chán phở rồi, họ lại muốn ăn mì, ăn hủ tíu" (STG tr.137).

Cốt truyện dí dỏm như trong truyện ngắn "Nhà thơ, nhà văn" (STG tr.115). Vợ anh chàng Tiến thuê người viết văn hộ mình để mình trở thành nhà văn với mục đích "trả thù" một cách đích đáng cô bạn nhà văn Thu Thủy, một người "rất lối" với bạn bè! Dí dỏm như lời của những người lãnh công tác giới thiệu sách của bạn bè mình trong truyện "Người viết truyện": "Bạn bè mà, phải nghiến răng mà khen chứ!" (MĐHH tr.172).

Khi viết lời giới thiệu cho cuốn "Ngày về" của nhà văn Lê Thị Nhị, Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do đã đưa ra nhận xét rằng: "Văn phong trong sáng, đối thoại dí dỏm, và tả cảnh gợi hình - một điểm đặc sắc ít thấy trong các văn phẩm xuất bản ở hải ngoại hiện nay... Đem lại cho độc giả những phút giải trí thoải mái và lành mạnh". Lời nhận xét này tỏ ra xác đáng và thật ra phải được nói chung cho cả ba tuyển tập truyện ngắn của Lê Thị Nhị.

Nhiều tài liệu biên khảo về thể loại truyện ngắn thường cho rằng "truyện ngắn là sản phẩm của tưởng tượng". Tiếc rằng kết luận này không đúng với các truyện ngắn của Lê Thị Nhị. Dường như hầu hết các truyện ngắn của tác giả đều là những mảnh đời thực sự với những nhân vật có thực ngoài đời. Người đọc truyện phải suy nghĩ để mà tự cảm thụ.

Lê Thị Nhị đã dùng ngòi bút của mình mà thổi bùng lên ngọn lửa nồng trong tình yêu quê hương; bộc lộ niềm kiêu hãnh và bày tỏ sự tri ân các chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù là những người đã hy sinh ngoài mặt trận, tuẫn tiết khi đất nước rơi vào tay cộng sản hay đã phải tạm lánh ra nước ngoài; nhà văn đồng thời mạnh mẽ vạch trần ra những tệ đoan xã hội ở trong nước, lên án chế độ chính trị không mang lại tự do và hạnh phúc thực sự cho con dân, cực lực lên án chiến tranh và nêu cao ước vọng hòa bình.

Lê Thị Nhị cũng đề cao tình cảm chân chính trong gia đình giữa cha mẹ và con cái, ủng hộ sự tự do có tính cách giải phóng trong tình yêu, ca ngợi tình nghĩa thủy chung tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam và dưới lăng kính của tôn giáo đưa ra những suy tư thanh thoát về cái chết, về "tính bản thiện" của con người...

Tất cả những thông điệp mà Lê Thị Nhị muốn gửi gấm đến độc giả đã được người đọc cảm thụ trọn vẹn đúng như Lâm Ngữ Đường đã từng viết trong "Một quan niệm về sống đẹp" rằng: "...sách hay là sách dắt ta vào cái cảnh giới trầm tư chứ không phải chỉ tả sự thực mà thôi".
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, USA, mùa Vu Lan năm 2002)
_________________
Linh Vang
www.geocities.com/linhvang
Chôm Chôm
#14 Posted : Sunday, November 28, 2004 10:08:41 AM(UTC)
Chôm Chôm

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 353
Points: 15
Woman

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
Những mùa Thu

Núi cao, mây xám, lá vàng
Gió hiu hiu thổi, mơ màng nhớ ai
Thu xưa lạc lối thiên thai
Tay trong tay nắm, gót hài reo vui
Hé môi đón những ngọt bùi
Cô đơn chừng đã ngậm ngùi bước đi
Mắt nhìn đắm đuối cuồng si
Bâng khuâng những tưởng xuân thì hồi sinh
Ơn trời mình đã gặp mình
Ơn đời-mình đã thắm tình lứa đôi
Tình yêu mình đã lên ngôi
Tình yêu mình đã đâm chồi nở hoa
Thời gian lặng lẽ trôi qua
Tình ta cũng đã nhạt nhòa dấu yêu
Thế rồi có một buổi chiều
Vàng thu, lá rụng, tình yêu xa rồi...

Lê Thị Nhị
linhvang
#15 Posted : Tuesday, March 29, 2005 1:51:12 PM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Gọi Người Tôi Thương
Lê Thị Nhị

Tôi hốt hoảng gọi tên người tôi thương và bừng tỉnh dậy. Trong bóng tối của căn hầm trú ẩn, tay mẹ nắm chặt tay tôi. Tôi khóc nức nở:
- Con vừa mơ thấy Nguyễn bắn vào thái dương tự sát khi Việt Cộng tràn vào Quân Đoàn.
Tất cả mọi người trong gia đình tôi đều im lặng. Mẹ xiết mạnh tay tôi hơn. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của mẹ vì tiếng súng không còn rền vang như lúc chúng tôi mới chạy ùa vào đây, chỉ còn những tiếng súng nhỏ từ xa vọng lại.
Tôi băn khoăn hỏi:
- Tại sao không mở máy phát thanh để nghe tin tức hả mẹ?
- Vẫn mở đấy chứ con. Nhưng tự nhiên không nghe gì cả.
Tôi lại hỏi:
- Có tin gì của Bố không, mẹ?
- Bố có gọi về. Bố nói, Bố đang ở trong Quân Đoàn, bên cạnh Nguyễn.
Trái tim tôi như muốn vỡ tung ra thành muôn ngàn mảnh khi nghĩ tới hai người thân yêu nhất của đời tôi đang chiến đấu trong tuyệt vọng với kẻ thù tàn bạo.
Đầu óc tôi đặc quánh lại khi cái máy phát thanh đang im lìm bỗng phát ra khúc nhạc dạo lạ tai rồi tiếp theo là lời kêu gọi của Tổng thống Dương Văn Minh:
“ Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng vì chúng tôi ở đây chờ gặp chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận và để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào”.
Tai tôi ù đi. Người tôi run lên và nước mắt tôi trào ra.
Rồi cũng từ cái máy phát thanh đáng ghét ấy, vang lên một giọng nói khác: “ Thưa quý vị tư lệnh Quân Đoàn, quân binh chủng, địa phương quân, nghĩa quân, nhân dân tự vệ, tôi, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay mặt Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng vắng mặt, yêu cầu tất cả quý vị tướnhg lãnh và quân nhân các cấp hãy triệt để thi hành lệnh của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa về ngưng bắn, các cấp chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa hãy sẵn sàng liên lạc với các cấp chỉ huy quân đội của Chính phủ Lâm Thời Miền Nam, để thực hiện cuộc ngưng bắn một cách không đổ máu”.
Tôi không còn nghe gì nữa cả. Tôi rút nhanh tay khỏi tay mẹ, chui vội ra khỏi hầm trú ấn, tôi nói với lại;
- Con phải đi tìm Bố và Nguyễn.
- Tôi cắm đầu chạy như bay ra đường phố. Tiếng khóc, tiếng gọi của mẹ không làm tôi chùn bước. “Nguyễn ơi! em phải đi tìm anh. Cho em cùng chết, đừng bỏ em một mình.” Từ trong đáy thẳm của lòng, câu nói đó vang lên, vang lên. Cùng với tiếng súng đì đùng, tôi gọi tên người tôi thương: “Nguyễn ơi, Nguyễn ơi, hãy chờ em.”
Trời nắng tháng Tư như đổ lửa. Thỉnh thoảng tiếng đạn bay vèo vèo và những vệt sáng lóe lên rồi lại tắt ngúm. Tiếng xe tăng di chuyển ầm ầm. trên khắp các ngả đường, những toán bộ đội ôm súng chạy huỳnh huỵch. Những vũng máu đỏ tươi, loang loáng bên những xác chết nằm sóng soài, ruột gan lòi ra, óc văng tung tóe. Những ngôi nhà đổ nát, những bức tường lỗ chỗ vết đạn bom. hàng cây kinh sợ, đứng im phăng phắc. Gió hãi hùng, trốn tận đâu đâu. Không khí ngột ngạt, tanh tưởi.
Chạy mệt gần đứt hơi tôi mới đến được trước cửa Quân đoàn. Hai chiếc xe tăng chắn ngang lối vào. Bên trong cánh cổng sắt và hàng rào kẽm gai, nhiều toán bộ đội chạy qua, chạy lại, tay lăm lăm cầm súng như sẵn sàng nhả đạn. Tuyệt nhiên tôi không thấy một người lính Quốc Gia nào. Tôi nghĩ, có lẽ họ đã rút cả vào bên trong tòa nhà, nơi có phòng làm việc của Nguyễn.
Tôi chạy băng qua hai chiếc xe tăng, lách mình vào cái cửa nhỏ phía bên trái. Trong căn phòng có lính gác mọi ngày, tôi thấy hai tên bộ đội mặt non choẹt nhưng có vẻ dữ dằn. Thấy tôi, chúng chạy ra, cản tôi lại. Một tên có cái giọng Bắc khàn khàn la lên:
- Cái nhà chị này muốn chết à mà vào đây? Chạy đi chỗ khác đi.
Một giọng khác, ngọng nghịu và tàn nhẫn hơn:
- Để tớ cho nó về chầu Diêm Vương. Chắc nó “nà” gián điệp Mỹ Ngụy đấy.
Tôi khóc lóc van xin tên bộ đội:
- Tôi biết các anh sẽ giết hết chúng tôi, nhưng xin các anh làm ơn cho tôi vào trong kia để cùng chết với những người ở trong đó.
Tên bộ đội có giọng khàn khàn nói:
- Cách mạng rất khoan hồng, chỉ giết những đứa có tội với nhân dân thôi.
Tên kia, vẫn giọng tàn nhẫn:
- Đồng chí này “nôi thôi” quá! Nó quan hệ với những đứa ở trong kia thì nó cũng có tội, cho nó một phát đạn cho rồi.
Tên kia hất hàm bảo bạn:
- Cho nó vào đi, đồng chí đỡ mang tội giết thêm một mạng người.
Tên bộ đội dữ dằn cười ha hả, chĩa súng vào tôi:
- Tội của tớ cao bằng núi rồi, giết thêm một mạng ăn thua mẹ gì.
Tôi nhắm mắt lại. Hình ảnh Nguyễn bắn vào thái dương tự sát trong giấc mơ vụt hiện về trong trí khiến tôi bình tĩnh chờ chết.
Nhưng tôi bỗng nghe tiếng cười sặc sụa:
- Dọa mày một tí thôi. Hôm nay Cách Mạng thành công, ông cho mày vào trong đó chết cho có bạn.
Đám bộ đội trong sân làm ngơ để tôi lọt vào căn phòng phía sau tòa nhà, ăn thông với văn phòng của Nguyễn bằng một cánh cửa khép hờ. Căn phòng mà Nguyễn thường dùng để nghỉ ngơi những lúc chàng phải làm việc nhiều, không thể về nhà.
Tôi đẩy nhẹ cánh cửa. Những người thân cận của Nguyễn đều có mặt trong phòng, chỉ trừ Bố tôi.
Nguyễn của tôi ngồi thừ người trong chiếc ghế bành màu xanh lá cây đậm. Trông chàng bơ phờ, hốc hác. Đôi mắt sâu hoắm, đỏ ngầu. Nét mặt chàng đanh lại. Thấy tôi, chàng đứng lên bảo mọi người:
- Các anh em ra ngoài và hãy nhớ lời tôi dặn.
Khi người cuối cùng vừa bước ra khỏi phòng, tôi chạy ào tới, ôm chặt lấy Nguyễn. Tôi nghe tiếng tim chàng đập mạnh. Chàng ghì chặt lấy tôi, nghẹn ngào:
- Bố đang bàn giao ở phòng bên cạnh.
Tôi bàng hoàng xúx động. Tôi run run hỏi:
- Tình hình không còn cứu vãn được nữa hả anh?
Chàng mím môi, lắc đầu:
- Hôm qua, anh và toàn ban tham mưu còn thảo kế hoạch chiến đấu tới cùng để giữ vùng này. Nhưng bây giờ thì muộn qua rồi em ạ.
- Hồi nãy em không thấy Đại tá Lâm?
- Ông ta ôm cả lệnh hành quân, chạy rồi!
- Em nghe nhiều tướng tá cũng đã di tản. Quân lính như rắn mất đầu, quăng súng, hàng địch. Có người tự sát.
Nguyễn thở dài, yên lặng. Chành dìu tôi ngồi xuống chiếc ghế nệm dài. Nguyễn nhìn tôi, nét mặt và lời nói thật bình thản:
- Tới nước này rồi thì hãy quên chuyện đời đi một tí. Nói chuyện mình đi em.
Tôi nhìn chàng, nhìn thấu cả tâm can chàng. Nước mắt tôi tuôn trào nhưb suối chảy. tôi áp mặt vào áo chàng để thấm nước mắt.
Nguyễn hỏi:
- Em còn nhớ lần đầu mình gặp nhau không?
- Hôm ấy, em đang ở trong câu lạc bộ chờ bố thì anh lầm lì đi vào. Anh đòi uống nước chanh, chú Minh nhà bếp đang bận nên nhờ em pha giùm và mang ra cho anh.
Chàng ngắt lời:
- Anh nhận lấy và ngó lơ em luôn.
- Em ấm ức mãi, vì anh không coi em ra kí lô nào cả.
Chàng mỉm cười:
- Ly nước chanh em pha cho anh hôm ấy giống như chè vậy đó.
Tôi dụi đầu vào ngực chàng:
- Em mải nhìn khuôn mặt khó chịu của anh nên tay cứ tiếp tục bỏ đường vào ly mà không biết.
Chàng ghé vào tai tôi, thì thầm:
- Bây giờ, anh đang thèm một ly nước chanh, em và trong, pha cho anh nhé.
Mặt tôi rời khỏi vùng ngực ấm áp của chàng. Nguyễn nâng cầm tôi lên. Chúng tôi hôn nhau thật lâu. Nụ hôn đam mê, dịu dàng quấn quít. Nụ hôn mằn mặn bờ môi, cay cay khóe mắt.
Tôi vào phòng trong, pha một ly nước với thật nhiều đường, thật nhiều chanh và mấy viên nước đá lấy từ cái khay nhôm trên ngăn đá trong cái tủ lạnh nhỏ hiệu Sanyo.
Tôi vừa quay trở ra thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ phòng bên. Ly nước trên tay tôi rơi xuống, vỡ ta tành. Muôn nghìn mảnh thủy tinh lớn bé nằm phơi mình trên nền gạch hoa đỏ thẫm.
Tôi chạy ào ra. Đầu Nguyễn ngoẹo vào thành ghế, mặt chàng bê bết máu và đôi mắt mở trừng trừng.
Tôi vuốt mắt chàng, hôn lên mắt, lên má, lên mũi, lên môi chàng. Tôi nhặt vội khẩu súng lục nằm lăn lóc dưới sàn, đưa lên thái dương, bóp cò.
Thì ra chàng đã không để lại cho tôi một viên đạn nào. Tôi hối hận vì chưa kịp nói với chàng là tôi muốn cùng chết với chàng như ý định của tôi khi tìm đến đây.
Khi đám người bên ngoài ùa vào phòng thì người tôi mềm rũ ra như một giải lụa. Trước khi tôi ngất lịm đi bên cái xác đầy máu me của người tôi thương, tôi còn thấy lá Quân Kỳ cùng hàng chữ Tổ Quốc, Danh Dự treo trên tường, phía sau bàn làm việc của chàng.

Tôi tỉnh dậy, đưa mắt nhìn quanh. Tôi biết tôi đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra.
Chiếc giường sắt nhỏ, lò so trũng xuống khiến thân hình tôi mỏng dính dưới lớp chăn rằn ri màu xanh lá cây mềm mại. Cái gối bông êm êm, mặt gối có hai con chim sẻ mà tôi thêu tặng Nguyễn, còn ướt đẫm nước mắt của tôi. Tôi cắn chặt môi. Bất giác, tôi nhớ lại nụ hôn vĩnh biệt chàng, nụ hôn mằn mặn bờ môi, cay cay khóe mắt.
Tôi nghe tiếng nói lao xao rồi Bố tôi đẩy cửa bước vào hỏi:
- Con ra làm lễ tẩm liệm cho Nguyễn được không?
Tôi tung chăn, nhảy vội xuống đất, rồi cùng Bố sang phòng bên.
Xác Nguyễn được đặt nằm ngay ngắn trên cái ghế dài. Máu me trên mặt, trên người chàng không còn nữa. Đầu chàng đã được băng lại từ thái dương trở lên. Nét mặt và đôi môi chàng tím tái. Chàng nằm bất động, bình yên trong bộ quân phục có gắn nhiều huy chương trên ngực áo. Cái bàn làm việc của chàng được biến thành bàn thờ với hai ngọn nến cháy lung linh. Khói hương tỏa ra mờ mờ trước bức ảnh chàng mặc quân phục đứng bên cạnh chiếc xe jeep, chụp nơi cổng trại gia binh.
Tôi nghẹn ngào nói nhỏ với Bố:
- Con vào trong, pha cho Nguyễn ly nước chanh, con sẽ ra ngay.
Bố nhìn tôi thương xót:
- Cũng may cụ Bá cho cái áo quan và mâm trái cây đẩ bày bà thờ.
Tôi thắc mắc:
- Tại sao cụ Bá lại có sẵn áo quan hả Bố?
Bố tôi giảng giải:
- Người già ở đây thường mua sẵn áo quan, có khi họ còn xây sẵn cả mộ phần nữa.
Tôi lại hỏi:
- Bọn họ cho mình chôn cất Nguyễn tử tế hả Bố?
- Ừ, vì cụ bá có con tập kết ra Bắc, làm lớn lắm nên cụ can thiệp giùm.
Bố tôi không nói gì thêm. Tôi lẳng lặng vào trong pha cho Nguyễn một ly nước chanh rồi trở ra đặt trên bàn thờ.
Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, một vị sư bắt đầu tụng kinh. Giọng thầy nho nhỏ, đều đều, xa vắng. Tiếng chuông, tiếng mõ đưa tôi vào một thế giới xa xăm, an lạc. Một thế giới không có hận thù. Không có bom đạn của Mỹ, của Liên Xô, Trung Quốc. Một thế giới không có sự tranh chấp giữa chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia. Một thế giới mà con người được quyền sống theo sự tuần hoàn của vũ trụ, không bị chính con người hủy diệt.
Thầy tụng kinh xong thì hai người lính cúi xuống, ôm xác Nguyễn lên, đặt vào quan tài. Bố tôi đưa cho một ít quần áo và những thứ lặt vặt mà Nguyễn dùng hàng ngày:
- Con xếp vào quan tài cho Nguyễn.
Nước mắt tôi rơi lã chã. Từng món, từng món đồ dùng của Nguyễn được tôi xếp xung quang chàng. Tất nhiên, có cả chiếc lược và chiếc gối có thêu hai con chim sẻ nâu mà tôi đã tặng chàng. Cuối cùng, tôi đắp lên người chàng lá Quân kỳ, rồi lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ.
Khi nắp quan tài được đậy lại, nước mắt tôi cạn khô. Tôi đứng chết lặng người nhìn ánh nến lung linh, nhìn khói nhang cuộn vòng, mờ ảo, nhìn đôi mắt nheo nheo của Nguyễn trong ảnh. Tôi thấy tôi đang cùng Nguyễn ngồi trên chiếc xe Jeep màu xám, chạy lọc xọc qua những con đường đất đỏ đầy ổ gà, qua những lũy tre xanh, qua những cánh đồng lúa chín vào những chiều lộng gió, những buổi trưa hè oi ả. Tôi thấy tôi đang ngồi câu cá bên Nguyễn nơi một con lạch nhỏ. Mỗi khi cá cắn câu, chúng tôi giật lên, rồi lại gỡ cá ra khỏi lưỡi câu, thả xuống mặt nước. Nguyễn thường ngắm những con cá bơi lội tung tăng dưới nước sau khi được thả và nói:
- Trông chúng dễ thương thế kia mà người ta cố bắt chúng lên để mà chiên, mà nấu. Con người thật dã man, em nhỉ.
Tôi thấy Nguyễn thật tội nghiệp. Chàng thương mọi loài vật, nâng niu từng cành cây, cọng cỏ, vậy mà chàng phải chỉ huy những trận đánh ác liệt khiến bao người phải bỏ mạng, nhà cửa bị tan hoang, ruộng đồng, rừng xanh bị thiêu hủy. Là cấp chỉ huy, Nguyễn được hưởng nhiều ưu đãi, chàng cũng có thể giầu vì những chuyện mua quan bán chức xảy ra thường xuyên trong xã hội này. Nhưng chàng sống thật đơn giản. Tài sản của chàng, chẳng có gì hơn ngoài cái máy ảnh hiệu Canon, dàn máy hát, một tủ sách và bộ cờ tướng. Một lần chàng hỏi tôi:
- Nếu anh tử trận, gia tài của anh để lại cho em chỉ có thế, em có buồn không?
Tôi lắc đầu, nhìn thật lâu vào mắt chàng và cảm thấy chàng đã cho tôi một điều vô cùng quý giá. Đó là niềm tin, niềm tin trong đêm đen còn điểm sáng. Niềm tin trong cái thế giới hỗn mang này còn có những tấm lòng nhân ái.
Chiếc xe chở quan tài Nguyễn và chiếc xe Jeep chở vài người thân của Nguyễn được hai xe jeep của bộ đội hộ tống, chạy thẳng về hướng nhà cụ Bá. Cụ đã dành cho Nguyễn một khoảnh đất trong khu vườn sau để Nguyễn an giấc ngàn thu.
Lúc hạ huyệt, mọi người có mặt đều yên lặng. Tôi run run ném xuống nắp áo quan một nhánh huệ và nắm đất đầu tiên. Qua màn nước mắt, tôi thấy nhánh huệ nằm dài bên bát cơm với quả trứng luộc đã được bóp bẹp ra, để lộ một chút lòng đỏ trứng vàng vàng. Bốn người lính vội vã dùng xẻng, đẩy xuống đất trên miệng huyệt xuống, lấp kín quan tài, chôn kín hồn tôi.
Mặt trời đã tắt hẳn. Màn đêm buông xuống thật nhanh. Một cơn gió thổi khiến tôi rùng mình. Tôi nắm chặt tay Bố, lê bước trên con đường đất hẹp dưới những tàn cây rậm rạp. Tôi quay đầu lại, cố nhướng mắt lên nhìn nấm mộ Nguyễn lần cuối cùng. Rồi tôi nhắm mắt lại, thầm gọi tên người tôi thương “Nguyễn ơi! Nguyễn ơi! Hãy chờ em./.”
Lê Thị Nhị
linhvang
#16 Posted : Saturday, April 9, 2005 10:32:17 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Đêm Giao Thừa
Lê Thị Nhị

Gió đêm từ mặt hồ Gươm thổi lên lồng lộng khiến cô bé run lập cập. Cô khoảng mười ba, mười bốn tuổi. Khuôn mặt cô tái mét và đôi môi tím lại. Cái áo len cũ kỹ cũng không giúp cô ấm áp được là bao. Có lẽ, chỉ một chút thôi, ở một phần thân thể. Những luồng gió quái ác cứ lùa vào cái quần đen bạc phếch, mỏng dính, khiến đôi chân khẳng khiu của cô đứng không vững. Thỉnh thoảng cô thọc tay vào túi áo hoặc ngồi thụp xuống, co ro, khoanh tay trước ngực. Bên cạnh cô, những cây mía dài dài, cong cong với phần ngọn nhiều lá non, nằm ngổn ngang. Kẻ qua người lại tấp nập. Hình như mọi người chỉ cốt diện quần áo đẹp, đổ ra khu bờ hồ, đi lên, đi xuống để ngắm nhau và hàng trăm quả bong bóng bay đủ màu sắc, chiếu sáng xuống mặt hồ. Trong đêm đen mịt mùng, vùng ánh sáng hiếm hoi nơi đây đã có một sức hấp dẫn kỳ lạ đối với người dân Hà Nội.
Riêng với cô bé thì cô chỉ mong sao bán mau hết mía để về nhà chuẩn bị cúng giao thừa với mẹ, Nói là nhà, chứ thật ra chỉ là một góc nhỏ dưới mái hiên chợ Đồng Xuân, nơi mà mẹ con cô trú ngụ từ hai năm nay. Nơi nào cô ở, thì gọi là nhà, cô nghĩ thế. Lúc đầu tới đây, mẹ con cô bị những người cũ bắt nạt ghê lắm. Họ cũng là những người bỏ làng xóm, ra Hà Nội lang thang kiếm sống. Cái cảnh “ma cũ bắt nạt ma mới”, ở đâu mà chẳng có, mẹ cô bảo thế.
Nhưng sau một thời gian nhịn nhục, chiều chuộng những “con ma cũ’, thì đời sống của mẹ con cô cũng được ổn định và vui vẻ. Mẹ con cô nay đã có những người quen mới. Họ cùng chia xẻ một góc chợ, cho nhau mượn cái soong, cái chảo. Tặng nhau củ khoai, miếng sắn. Mẹ con cô đã hòa nhập với cái xã hội của những người sống chui ở lề đường Hà Nội. Cô đã quên dần những thángngày đói khổ nơi quê nhà và hài lòng với cuộc sống hiện tại. Cô chỉ thấy nhơ nhớ cái nghĩa trang liệt sĩ rông mênh mông, trong đó, có ngôi mộ của bố cô. Ở đây, không ai biết cô là con liệt sĩ. Không ai biết bố cô đã chết oai hùng như thế nào khi sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế. Không ai biết mẹ con cô có cái bằng “Gia đình liệt sĩ” đang để lót dưới đáy thùng quần áo. Nhưng ở đây cô đã được ăn no hơn. Những miếng thịt mỡ béo ngậy, những miếng thịt gà dính da vàng ươm, cô đã thấy thấp thoáng một tháng đôi ba lần trong những bữa cơm của mẹ con cô. Cô cũng đã được thưởng thức mùi vị của phở, của mì khi cùng những đứa bé đồng cảnh ngộ, lảng vảng bên những hàng ăn trong chợ, chờ khi khách ăn xong thì chụp vội cái bát, húp xì xụp trước khi bà hàng kịp đổ ụp vào cái chậu để dành cho lợn.
Mỗi sáng, mẹ cô bưng một thúng xôi đi bán khắp các hang cùng ngõ hẻm. Còn cô thì được bà Dậu bán hoa cho mượn vài bó huệ bán rong quanh chợ để lấy tiền ăn quà. Cô thích công việc này lắm. Cô ôm những bó huệ trắng ngần và thơm ngát, đứng ngay đầu chợ, chỉ một thoáng là đã bán hết. Khi mặt trời đứng bóng, cô về nhà lục cơm nguội ăn với cà muối rồi chờ cái Túy sang chơi.
Hôm nay là ngày cuối năm, mẹ con cô bán mía cho những người đi chơi bờ hồ để kiếm thêm tiền. Nhưng mẹ cô hơi mệt nên về sớm và cô bán thay cho mẹ. Người đi thì thật đông, nhưng chẳng có mấy người mua, mặc dù cô luôn luôn mời chào. Mãi tới khuya, cô mới bán hết đống mía. Cô đang định đi về thì cô nghe tiếng gọi tên mình ơi ới:
- Mai ơi! Mai ơi!
Cô bé còn đang ngơ ngác nhìn quanh thì thấy Thúy đã chạy ào tới, nắm tay cô mừng rỡ:
- Tớ không ngờ gặp đằng ấy ở đây. Tối nay vui quá nhỉ?
Cô bé đáp lời bạn:
- Giao thừ mà lị! Năm nay nhà nước lại thả bong bóng sáng nữa, đâu có tối mò mò như mọi năm.
Thúy nói:
- Chỉ tiếc là không có pháo.
Cô bé đồng ý với bạn:
- Ừ, Tết mà không có pháo, không có vẻ Tết gì cả.
Thúy khoe với bạn:
- Năm nay nhà tớ cúng to lắm. Mẹ tớ gói bánh chưng, mua giò chả với ba con gà nữa.
Cô bé thắc mắc:
- Bố đằng ấy là cán bộ mà cũng cúng à? Lạ nhỉ!
Thúy thì thầm:
- Mẹ tớ bảo là từ hồi 1975, bố tớ vào Nam, thấy bà nội tớ cúng kiếng nên giầu lắm. Thế là bố mẹ tớ cũng lập bàn thờ từ hồi đó cơ.
Mai ngẩn ngơ:
- Thảo nào nhà đằng ấy bây giờ cũng giầu. Thế thì tớ phải nói mẹ tớ lập bàn thờ mới được.
- Ừ, nhà đằng ấy lập bàn thờ đi rồi tớ mang hương sang cho mà cúng, nhà tờ nhiều lắm.
Bỗng cô bé thở dài:
- Nhưng mà tớ ở xó chợ thế thì bày bàn thờ thế nào được?
Thúy nhìn bạn thương hại, nghĩ ngợi một lúc rồi reo lên:
- Tớ nghĩ ra rồi. Chúng mình chỉ cần tìm một cái thùng gỗ nhỏ dùng làm bàn thờ. Mỗi tối, mẹ đằng ấy chỉ việc để ra lề đường, rồi thắp hương, cắm vào cái cốc đựng gạo mà cầu Trời cầu phật là được rồi.
Cô bé nhắc:
- Cầu cả Chúa nữa
Thúy ra vẻ thành thạo:
- Cầu Chúa, cầu Đức Mẹ, phải vào nhà thờ.
- Vậy hả?
Hai cô bé đang tíu tít truyện trò thì bố mẹ Thúy đi tới. Mẹ Thúy nói:
- Con chạy lung tung, làm bố mẹ tìm từ nãy đến giờ, hư quá!
Thúy nũng nĩu:
- Con thấy bố mẹ nói chuyện với chú Thông lâu quá nên đứng đây chờ bố mẹ mà.
Quay sang cô bé, Thúy nói nhỏ:
- Sáng mai tớ sang đằng ấy sớm. Tớ sẽ cho đằng ấy cái bánh chưng con, ngon lắm! Thôi, tớ đi nhé, bạn cũng về ngay đi kẻo lạnh.
Mắt cô bé bỗng cay cay. Cô cảm động vì lời nói của bạn và tủi thân vì biết bố mẹ Thúy vẫn cấm hai đứa chơi với nhau, mặc dù Thúy ở đối diện nhà cô, băng qua đường là có thể gặp nhau rồi. Chỉ khác, nhà Thúy là nhà thật, còn nhà cô chỉ là một góc dưới mái hiên chợ. Tuy là con nhà giầu nhưng Thúy không làm bộ làm tịch và rất thích chơi với cô. Mỗi ngày, sau khi đi học về, thế nào Thúy cũng lén bố mẹ, chạy tọt sang để gặp cô, kể chuyện trường lớp, thầy cô và bạn hữu. Thúy cũng thường kể cho cô nghe những chuyện vui cười hoặc cổ tích mà Thúy đã đọc được trong sách báo. Hai đứa cũng thường hát vang những bài hát quen thuộc mà chúng đã nghe hằng ngày trên đài. Nhiều hôm Thúy còn đem cả thức ăn cho cô nữa. Nhất là những thứ kẹo ngoại, thứ nào cũng ngọt lừ và ngậm mãi mới tan hết trong miệng. Có hôm, bố mẹ Thúy đi vắng, Thúy dẫn cô vào nhà chơi, cô choáng cả mắt vì nhà Thúy đẹp quá. Đồ chơi của Thúy thì nhiều lắm, toàn là đồ ngoại quốc cả. Con búp bê của Thúy lớn như một đứa bé, vặn dây cót lên thì nó biết đi và biết nói tiếng Mỹ nữa.
Cô bé tần ngần ngắm Thúy ấm áp trong chiếc áo len đan hình quả trám màu xanh lơ, nắm tay bố mẹ, đi về phía chiếc ô-tô màu trắng, đỗ ở bên kia đường. Cô bé thèm thuồng địa vị của bạn. Cô thầm nghĩ: “ Giá bố mình đừng làm liệt sĩ thì bây giờ mình cũng được sung sướng như Thúy vậy”.
Chiếc ô-tô chở gia đình Thúy chạy vút đi. Cô bé cũng thẫn thờ lê bước, đi về phía chợ Đồng Xuân, bỏ lại đằng sau long khu bờ hồ đông vui tấp nập. Gió thổi mạnh từng cơn khiến nhiều lúc cô bé có cảm tưởng như cả thân hình cô bay về phái trước. Cứ như thế, cô bé đi dưới bầu trời tồi đen và những ngọn đèn đường lờ mờ trong sương đêm. Cô nhớ tới mẹ và sáng kiến lập bàn thờ của Thúy. Cô mỉm cười, chân bước mau hơn.
Trong lòng đường, một vài chiếc ô-tô sang trọng chạy vụt qua, làm cho những người đi xe đạp, xích lô phải nép sát vào lề. Bỗng cô bé nghe tiếng còi xe kêu pin pin, rồi một chiếc ô-tô ngừng lại. Cô liếc nhìn chiếc xe màu đỏ rồi lại tiếp tục rảo bước. Có tiếng giầy lộp cộp ở phía sau và một giọng nói đàn bà vang lên thật ngọt ngào:
- Mai lên xe cô đưa về cho đỡ lạnh.
Cô bé quay hẳn lại rồi reo lên:
- A cô Trầm! Cô đi đâu mà cô mặc áo đẹp thế?
- Cô đi ăn tiệc về, nhân tiện ghé ngang bờ hồ một tí. Đông và vui quá cháu nhỉ? Thế cháu cũng đi xem bong bóng đấy ư?
- Cháu đâu có đi chơi. Tối nay đáng lẽ mẹ cháu bán mía, nhưng mẹ cháu bị mệt nên về sớm, cháu phải bán thay mẹ cháu đấy chứ.
- Tội nghiệp cháu cô quá! Thôi lên xe cô đưa về. Đêm nay gió rét quá!
Cô bé chưa kịp trả lời thì cô Trầm đã nắm tay lôi đi. Cô bé líu díu bước lên xe ngồi cạnh cô Trầm. Cô cảm thấy ấm áp và cái ghế nệm thật êm ái. Từ hai tháng nay, ngày nào cô trầm cũng ra mua hoa của cô bé. Đôi khi cô còn cho cô bé cả ngàn bạc để ăn quà nữa. Thành ra, bây giờ, cô Trầm như một người thân mới của cô. Cô Trầm khoảng ngoài ba mươi tuổi. Cô Trầm đẹp và hiền hậu. Mỗi khi mua hoa, cô Trầm đều truyện trò rất vui vẻ. Ngày thường cô ăn mặc cũng đẹp nhưng hôm nay cô mặc cái áo đầm màu vàng lóng lánh lại càng sang trọng hơn. Cô bé vẫn biết là cô Trầm giầu, nhưng cô không ngờ cô Trầm lại có cả ô-tô nữa.
Cô Trầm dịu dàng hỏi cô bé:
- Cháu đã được đi ô-tô bao giờ chưa?
- Thưa cô, đây là lần đầu tiên ạ.
- Thế thì cô cho cháu đi chơi một vòng Hà-Nội nhé.
Cô bé hốt hoảng:
- Cảm ơn cô, cho cháu về ngay để còn kịp cúng giao thừa với mẹ cháu.
- Còn sớm mà! Đi một vòng rồi về nhà cô một tí, cô cho cháu áo đẹp để mặc Tết.
Giọng cô Trầm trơ ûnên buồn rầu:
- Cháu ngoan và giống con cô lắm nên mỗi lần gặp cháu là cô nhớ tới con gái của cô. Con cô cũng bằng tuổi cháu, nhưng bị thương hàn chết đã ba năm nay rồi,
Cô bé cũng cảm thấy buồn lây với cái buồn của cô Trầm. Cô nhỏ nhẹ nói:
- Tội nghiệp cô quá! Tội nghiệp cả con cô nữa! Cô giầu thế này mà con cô không sống để mà hưởng.
Cô Trầm hỏi:
- Thế cháu có bằng lòng về nhà cô một chút không?
- Thưa cô vâng ạ. Chỉ một lúc thôi cô nhé. Rồi sáng mai cháu sẽ mang hoa đến để cô cúng cho con của cô. À, con của cô thích hoa gì nhỉ?
- Con của cô thích hoa huệ.
- Thảo nào, cô hay mua hoa của cháu. Mẹ cháu cũng thường cúng cho bố cháu hoa huệ nữa.
Nhắc tới mẹ, cô bé lại băn khoăn lo lắng. Nhưng cô chỉ yên lặng, không dám nói gì nữa vì cô muốn tôn trọng nỗi buồn của cô Trầm.
Xe chạy lòng vòng trên những con đường hẹp và tối, rồi vào một con đường rộng rãi, có đèn sáng và những ngôi nhà mới xây cất. Có nhà cao đến ba bốn tầng. Cô bé hỏi:
- Phố này tên là gì vậy cô? Sao mà có nhiều nhà to thế!
- Lát nữa vào nhà cô cháu sẽ thích lắm. Vì nhà cô cũng có hai tầng mà xung quanh lại có vườn hoa và hồ thả cá vàng nữa.
Cô bé chợt nhớ đến lời hứa sáng mai sẽ mang hoa đến cho cô Trầm, mặt cô tiu nghỉu:
- Thế thì mai cháu đâu có cần mang hoa đến nhỉ?
Cô Trầm vui vẻ:
- Không cần đâu cháu, hôm qua cô mua huệ của cháu rồi mà. Vả lại từ nhà cháu đến nhà cô xa lắm, không đi bộ được đâu.
Cô Trầm vừa nói dứt câu thì chiếc ô-tô cũng ngừng lại trước một căn nhà hai tầng khá lớn. Bác tài xế bấm còi pin pin ba lần thì có người chạy ra, mở toang hai cánh cổng sắt để cho xe chạy thẳng vào trong.
Cô Trầm nắm tay cô bé bước xuống xe sau khi nói với bác tài xế:
- Thôi, cho bác về nhà cúng giao thừa. Sáng mai đến sớm mà lãnh tiền mừng tuổi.
Cô bé lo lắng hỏi:
- Ấy chết, sắp đến giao thừa rồi hả cô? Cháu cũng phải về kẻo không kịp. Với lại, không có bác tài thì làm sao cô đưa cháu về được?
Cô Trầm cười khanh khách:
- Cô biết lái xe mà. Vào một lúc rồi cô đưa về ngay.
Cô Trầm nắm tay cô bé, bước lên mấy bậc thềm để vào nhà.
Cô bé ngơ ngác ngắm căn buồng khách bày biện sang trọng và chùm đèn điện sáng trưng ở giữa trần nhà. Qua khung cửa sổ, cô bé thấy bác tài vẫn đứng cạnh chiếc ô-tô nhìn vào. Trong bóng tối lờ mờ của khu vườn, cô thấy bác giơ tay vẫy vẫy, rồi dắt cái xe đạp dựng gần đấy, đi ra phía cổng.
- Cháu vào buồng của cô, cô cho cháu bộ quần áo mới, mặc vào cho đẹp để đón giao thừa nhé.
Tiếng cô Trầm khiến cô bé giật mình. Từ nãy mải ngắm căn buồng, cô quên bẵng sự có mặt của cô Trầm ở bên cạnh. Cô cười ngượng nghịu:
- Nhà cô đẹp quá! Giống nhu lâu đài trong truyện cổ tích vậy. À, cô cho cháu quần áo thì để mai cháu mặc. Bây giờ muộn quá rồi.
- Cô muốn cháu mặc ngay bây giờ để xem có vừa và đẹp không?
- Cô làm như cháu là cô bé lọ lem được bà tiên cho quần áo đẹp vậy.
Cuối cùng thì cô bé cũng chiều theo ý cô Trầm sau khi cô Trầm nói với giọng thật buồn:
- Thực ra, cô chỉ muốn cháu mặc bộ áo này để xem cháu giống con cô đến mức nào.
Cô bé đã trút bỏ cái quần đen bạc phếch, cái áo màu cháo lòng và cái áo len cũ kỹ. Bộ quần áo mới bằng một loại vải mềm mại, màu xanh nhạt có những hoa trắng nhỏ xíu đã khiến cho cô bé không còn nhận ra chính mình khi nhìn vào cái gương soi trong buồng tắm. Một thoáng vui, một thoáng tủi thân chợt đến trong lòng cô. CÔ chợt nhớ tới mẹ đang chờ cô ở một góc hiên chợ Đồng Xuân. Cô muốn mặc lại bộ quần áo cũ, chạy bay về với mẹ. Nhưng cô lại nhớ rằng, cô Trầm đang chờ cô ở ngoài kia. Cô nhanh nhẹn đi ra buồng khách, cô nói to:
- Cô ơi, cháu mặc áo mới rồi đây này, cô xem có đẹp không?
Cô bé khựng hẳn lại, mắt mở lớn khi không thấy bóng dáng cô Trầm đâu mà chỉ thấy một người đàn ông lùn và béo ụt ịt đang ngồi gác chân lên bàn, phì phà thuốc lá. Cô liếc nhanh căn buồng: cửa ra vào đã được đóng kín mít, hai cánh cửa sổ cũng đã được khép lại tự bao giờ. Khi người đàn ông dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn, đứng lên đi về phía cô bé thì cô cũng run lẩy bẩy rồi ngã huỵch xuống sàn, nằm ngay đơ như một xác chết.
Người đàn ông bực bội, xổ một tràng tiếng tàu rồi bế cô bé lên, đặt sấp trên giường trong buồng ngủ. Ông móc trong túi quần, lấy ra một lọ dầu và một đồng tiền bằng bạc. Ông kéo áo cô bé lên và bắt đầu cạo gió.
Người đàn ông chờ mãi mà cô bé vẫn không tỉnh lại. Thỉnh thoảng ông lại dơ tay lên, nhìn đồng hồ, ra vẻ nôn nóng lắm.
Cuối cùng, ông không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Ông trèo lên giường, nằm cạnh cô bé. Ông xoay người cô bé lại, ngắm nghía khuôn mặt tái xanh như không còn giọt máu. Đôi mắt ti hí của ông đờ ra và bàn tay với những ngón to như quả chuối mắn bắt đầu di động trên thân thể gầy còm của cô bé.
Người đàn ông đang mơ mơ màng màng thì có tiếng chạy và tiếng còi thổi toe toe. Chuông cửa reo liên hồi rồi tiếng đập cửa rầm rầm khiến ông ta giật bắn người lên. Cửa ra vào bị phá tung và mấy người công an ôm súng xồng xộc đi vào. Một người trong bọn họ, chạy vào căn buồng bên cạnh, nói nhỏ với cô Trầm:
- Cái anh chàng Đài Loan này đi chơi gái không chọn giờ tốt. Cái động này sinh hoạt cả năm có làm sao đâu mà hôm nay bỗng dưng bị tố cáo. Chắc nó chưa sơ múi gì đâu.
Cô Trầm lo lắng hỏi:
- Liệu có sao không anh Ba?
- Yên trí đi, làm thủ tục một tí thôi. Mọi chuyện đã có anh lo cho. Có ăn có chịu mà.
Cô Trầm cười tít mắt:
- Cũng may, bây giờ còn là năm cũ. Nếu không, bị dông cả năm.
Người đàn ông Đài Loan đã chỉnh tề trong bộ áo vét sang trọng và chiếc cà vạt màu đỏ. Ông ta và cô Trầm nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu một lúc rồi cô Trầm nói nhỏ với người công an tên Ba:
- Sư cha nhà nó, nó tưởng em gạt nó.
- Em có nghi ai tố cáo không?
- Không! Không biết tại sao ông Hùng lại biết để ra lệnh cho anh nhanh như thế.
- Từ nay phải cẩn thận hơn mới được. Nếu không thì ở tù cả lũ đấy.
Khi đám công an và người đàn ông Đài Loan ra khỏi căn nhà thì cô bé cũng tỉnh lại. Cô ngơ ngác nhìn quanh và nhìn xuống bộ quần áo đang mặc trên người. Cô Trầm đến bên cô bé đon đả nói:
- Nhanh lên cháu, cô đưa về, kẻo không kịp đón giao thừa với mẹ.
Nghe nhắc đến mẹ, đến giao thừa, cô bé nhẩy tụt xuống giường la lên:
- Chết thật, thì ra từ nãy giờ cháu ngủ mơ.
Cô Trầm mỉm cười, nắm tay cô bé đi ra xe. Vừa lúc đó, chiếc đồng hồ trên tường thong thả buông mười hai tiếng. Chiếc ô-tô màu đỏ chạy vụt đi.

Dưới gốc cây sấu già, gần ngôi nhà hai tầng, một người đàn ông ngồi trên yên xe đạp, mỉm cười trong bóng đêm, lẩm bẩm: “Đêm giao thừa, mình làm phúc giúp cho con bé thoát nạn. Cầu Trời, sang năm mới, xin được việc làm tốt để khỏi phải lái xe cho bọn ma cô, tú bà này nữa.”
Chôm Chôm
#17 Posted : Sunday, April 10, 2005 7:43:14 AM(UTC)
Chôm Chôm

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 353
Points: 15
Woman

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)
Chùa Cầu Bây

Về thăm quê ở Bắc Ninh
Về thăm làng cũ, mái đình cong cong
Về thăm sóng lúa đòng đòng
Tả tơi trước gió long đong thân gầy
Về thăm ngôi chùa Cầu Bây
Còn đâu ao cá bên cây ngô đồng?
Còn đâu thơm ngát khóm hồng?
Còn đâu hàng sói ai trồng năm xưa?
Còn đâu chiếc võng đong đưa?
Sư già nằm đó những trưa mùa hè
Vườn sau thiếu vắng bụi tre
Cây cao rậm lá, bóng che giàn trầu
Láng giềng xưa cũ nay đâu?
Cô đơn một bóng cây cau cao gầy
Hương nhài thoang thoảng đâu đây
Chích choè nhẩy múa trên cây vải thiều
Lung linh vạt nắng ban chiều
Vi vu gió thổi cánh diều vút bay
Chùa trong, xin bạch cùng Thầy
Con là đệ tử chùa này năm nao
Từ ngày còn có cái ao
Từ ngày còn có hàng rào bụi tre
Ở đây trọn một mùa hè
Nơi đây con nhớ muối mè, cà tương
Sớm hôm lên chốn Phật đường
Chú Kỳ Chú Cúc dâng hương cúi đầu
Chắp tay con cũng nguyện cầu
Quan Âm Bồ Tát nhiệm mầu chứng minh
Xin ngài phù hộ chúng sinh
Mai cho con oản xinh xinh vàng vàng
Chuông chùa thong thả ngân vang
Mặt trời đã lặn, chiều sang êm đềm
Cùng thầy bước lên chùa trên
Trươc bàn thờ Phật, tay mềm rung rung
Cuối ngày hồn bỗng rưng rưng
Cuối ngày lòng bỗng vô cùng thiết tha
Nào đây là chốn quê cha
Này kia quê mẹ, nhà nhà tả tơi
Xa xa vẳng tiếng à ơi
Ru con yên ngủ, quên đời khổ đau.

Lê Thị Nhị
(Kỷ Nguyên Mới, số 42, tháng ba, năm 2004)

Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.