Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
Điểm Huyệt TRUYỆN QUYỀN CHƯỞNG
Người ta thường coi sự đọc tiểu thuyết là đi “du lịch ngồi trên ghế bành” ( armchair-travel), nghĩa là ngồi ở nhà nhưng hồn xuất du đi vào những cảnh đời khác, những chân trời mới với bao nhiêu tình tiết nhân sinh ...Ở Tây phương vào đầu thế kỷ 19 , cây bút Jules Verne người Pháp đã trứ danh với loạt tiểu thuyết dự tưởng khoa học ( romans scientifiques d’ anticipation) gọi là Voyages extraordinaires ( Những chuyến du hành dị thường) đã đưa những độc giả thanh thiếu niên đi vòng quanh địa cầu bằng khinh khí cầu, chui sâu vào lòng đất, bay từ trái đất lên mặt trăng, lặn 2000 dặm dưới đáy biển... Ở Đông phương, cây bút viết tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã tiếng tăm lừng lẫy trong lòng thế kỷ 20. Đọc những pho truyện chưởng kiếm của Kim Dung, hồn trí của bạn không những bị kéo lùi về dĩ vãng cổ thời mà còn bị mê hoặc bới những chuyện thần kỳ thuộc đủ lãnh vực đi từ chuyện múa quyền đánh kiếm cụ thể miên man qua bao nhiêu điều khác cao siêu như triết lý, tôn giáo, ẩm thực, ái tình, y học v.v... Truyện chưởng hiệp của Kim Dung không những làm say mê những độc giả học sinh trong tuổi mộng mơ mà còn quyến rũ những độc giả cao niên lịch lãm chuyện đời. Một trong những điều minh chứng đã biểu lộ qua ngòi bút miêu tả của Kim Dung với chuyện tấn công địch thủ trên những huyệt đạo của họ bằng những thủ pháp gọi là “ điểm huyệt”. Nhìn trên thực tế, võ thuật là dùng chân tay và khí giới gây thương tích cho đối phương bằng thương tích có tính chất cơ học như bầm da, rách thịt, gẫy xương, dập nội tạng ... Nhưng trong truyện chưởng kiếm của Trung Hoa, người ta lại dùng một thủ pháp thần kỳ gọi là “điểm huyệt” với sự dùng những ngón tay đè vào một điểm nào đó trên da gọi là “huyệt” của địch thủ cũng đủ để giết hay làm tê liệt họ.
HUYỆT VỊ VÀ KINH MẠCH LÀ GÌ?
Huyệt theo nghĩa nguyên thủy của chữ nho là cái lỗ, cái hang. Viết ra chữ thì thấy cái hình một mái hang có con rắn nằm cuộn khúc. Theo ý niệm về y khoa Trung Hoa có từ khoảng nhiều ngàn năm trước Thiên Chúa, trên diện tích bi phu của người ta có hằng trăm chấm nhỏ li ti gọi là “huyệt “. Những huyệt vị nối liền với nhau thành một mạng lưới của nhiều đường chạy chằng chịt khắp cơ thể gọi là “kinh lạc tuyến” hay nói giản tiện là huyệt đạo. Mỗi huyệt đạo lại nối liền mật thiết với mỗi bộ phận lục phủ ngũ tạng nằm trong cơ thể.
Con người vào thời thái cổ khám phá rằng mỗi khi một vùng cơ thể bị đau thì lấy ngón tay thoa vuốt thì bổng cảm thấy bớt đau hoặc giả mỗi khi nhức đầu thì ấn tay vào màng tang, lúc đau bụng lấy đá nóng chườm thì thấy nhẹ. Có lẽ từ những sự kiện sơ khởi đơn sơ đã nẩy ra ý niệm châm chích một huyệt vị nào đó ở ngoài da để thấy một cơ phận bên trong được giảm đau. Những vật dụng để kích thích ban sơ là những mũi đá nhọn, một cái gai tre... rồi sau khi con người tiến lên giai đoạn đồ đồng thì dùng những cái kim đồng để rồi tiến lên dùng kim vàng, kim bạc. Còn dùng hơi nóng thì ban đầu là viên đá,viên gạch nóng để chườm da rồi sau tiến lên sự dùng lá ngải để “cứu “ hay đốt trên các huyệt vị. Nhìn cách viết các chữ Tầu thì ta thấy rõ tiến trình của ngành châm cứu: kim đá là “ biêm” viết với bộ “thạch”, những cái kim về sau gọi là “ châm” được viết tuần tự với bộ “ trúc” (tre) và bộ “ kim” (kim khí); còn chữ “cứu” là đốt viết với bộ “hỏa”. Kỹ thuật về châm cứu cũng phát huy ra nhiều loại: dùng kim gọi là “châm”, dùng tay thì tùy theo thao tác cử động mà biến thành những ngành khác nhau: “điểm huyệt “là dí đè bằng ngón tay trên huyệt vị, “ án ma” là ấn và chà sát, “ thôi nã” là dùng một cái đũa gỗ hay hổ phách đẩy kéo dọc theo những huyệt đạo v.v... [ Ở Việt Nam, còn giữ tàn tích của sự châm cứu thời thượng cổ dùng đồ đá với những phong tục chích lể bằng mảnh chai, mảnh sành, bắt gió, cạo gió và chườm bụng bằng gạch nóng gói trong những thứ như lá ngải, hoắc hương và gừng...]
Xem trên thì sự kích thích vào các huyệt đạo rõ ràng có tác dụng trị bịnh, nhưng đồng thời con người cũng khám phá rằng khi đánh lộn nhau thì những ngón xỉa tay, những quả đấm hay cú đá tình cờ vào một vài vùng hiểm yếu bằng trong lúc giao đấu -nôm na là đánh trúng “chỗ phạm”- lại khiến địch thủ bị tổn thương hay mạng vong. Từ đó, “điểm huyệt” trở thành một phương cách võ thuật mà giới võ lâm phải chuyên tâm học hỏi gồm sự nghiên cứu vị trí của những huyệt vị hiểm yếu và công phu rèn luyện những thao tác của bàn tay khi xuất chưởng.
Theo ngành châm cứu, trên cơ thể con người có hơn 350 huyệt. Và đa số huyệt vị này có thể nhân đôi lên vì chúng có một huyệt đồng loại nằm đối xứng trên phía bên kia thân thể nên con số tổng cọng là hơn 660 huyệt. Tất cả những huyệt này được phân bố khắp toàn thân từ đỉnh đầu đến gan bàn chân, tuy nhiên có vùng thưa thớt lại có vùng chi chít rậm rạp. Những huyệt này được nối liền bằng 14 đường mạch gọi là “kinh mạch tuyến” như sau: _ Có hai đường kinh mạch chạy lẻ đơn độc là Nhâm Mạch chạy chính giữa phía trước cơ thể ; Đốc Mạch chạy phía sau theo dọc sống lưng. _ 12 đường kinh mạch đôi chạy song song trên mỗi phía thân thể phải và trái, nối liền thân mình với tứ chi: Những kinh mạch là những giây liên lạc hoặc hướng tâm hoặc ly tâm giữa lục phủ ngũ tạng bên trong với lớp da bên ngoài ( 5 tạng là tâm, can, tì, phế, thận; 6 phủ là tiểu trường, đảm, vị, đại trường, bàng quang, tam tiêu) Thủ Thái Âm Phế kinh Thủ Dương Minh Đại trường kinh Túc Thái Âm Tì kinh Túc Dương Minh Vị kinh Thủ Thiếu Âm Tâm kinh Thủ Thái Dương Tiểu trường kinh Túc Thái Âm Thận kinh Túc Thái Dương Bàng quang kinh Túc Quyết Âm Can kinh Túc Thiếu Dương Đảm kinh Thủ Quyết Âm Tâm bào lạc kinh Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu kinh
Trong những cơ phận trong người, ta thấy ngoài tim, gan, ruột, phổi... còn có *Tâm bào lạc hiểu là cái màng bọc ngoài quả tim nhưng chính là một mạng lưới thần kinh tự động điều khiển những nhịp tim đập rất quan trọng và *Tam tiêu là ba cái lò khí lực nằm phân bối như sau : Thượng tiêu nằm trên hoành cách mạc, Trung tiêu nằm giữa rốn và hoành cách mạc, Hạ tiêu nằm dưới rốn ( tương đương với 3 tùng thần kinh giao cảm và đối giao cảm theo cơ thể học hiện đại)
TAM THẬP LỤC HUYỆT NGUY HIỂM Ở THÂN NGƯỜI
Trong võ thuật, có 36 huyệt coi là nguy hiểm. Những huyệt này có thể có vài tên khác nhau tùy theo áp dụng trong châm cứu hay vào khoa võ thuật. Kẻ võ sinh khi luyện tập về điểm huyệt tuyệt đối cấm khinh suất đem ra áp dụng thí nghiệm vì có thể sẽ gây ra án mạng hay thương tổn. Trong bài này chúng tôi chỉ liệt kê đại khái trong mục đích thuần túy biên khảo và không chịu trách nhiệm về mọi sự tự ý thi hành của người đọc ngoài ngành chuyên môn.
Chín huyệt chí mạng ( vital points) là những huyệt “phạm” rất quan hệ đến sự sống chết nếu đánh mạnh vào khiến người ta chết. 1) Bách hội huyệt ( còn gọi là Thiên linh huyệt) nằm chính giữa đỉnh dầu; 2) Khí môn huyệt ( hay Hoàn kết huyệt) nằm ở lõm yết hầu ở trước cửa; 3) Đưởng môn huyệt ( hay Huyết huyệt) nàm ở vùng tim chính giữa ngực, đánh mạnh là hộc huyết mà chết ngay; 4) Tề môn huyệt nằm đúng lỗ rốn liên kết với ruột trong bụng; 5) Hội âm huyệt nằm chính vào bộ phận sinh dục nam nữ, đánh trúng làm mạng vong; 6) Não hộ huyệt nằm dưới ót sau; 7) Thiên khích huyệt ( còn gọi là Thiên khách huyệt hay Nhĩ căn huyệt) nằm ở lõm sau vành tai; 8)Bối lương huyệt (hay Phế hải huyệt) nằm ở phần trên của đốt sống lưng số 7, tương ứng với lá phổi nằm ở trước và nối kết với vùng não sau ót bên trên 9) Mạng môn huyệt ( hay Tích tâm huyệt) nằm ở phần dưới của đốt sống lưng số 7; đây là điểm nhược nhất của cột sống lưng , nằm đối xứng với Bối lương huyệt ở trên
Chín huyệt huyễn vựng đánh vào làm quáng mắt và chao đảo té nhào (dizzy points): 1) Thái dương huyệt ( ở vùng màng tang) đánh mạnh có thể chết, nhẹ thì lộn nhào 2) Văn thính huyệt ( ở lõm trước tai) 3) Tai giác huyệt ( ở chính giữa khớp hàm ) 4) Tuyền ki huyệt ( ở 2 phân dưới lõm yết hầu, tương ứng với chỗ 2 cuống phổi tách ra) 5) Tướng đài huyệt ( nằm hai phân trên hai núm vú, tương ứng với hai lá phổi bên trong) 6) Kỳ môn huyệt ( nằm chếch dưới Tướng đài huyệt) 7) Chương môn huyệt ( nằm trên xương sườn thứ 11 dưới Khách môn huyệt, huyệt này bên phải rất quan trọng vì tương ứng với lá gan bên trong, đánh làm dập gan) 8) Vĩ long huyệt (nằm ở mút xương cụt của sống lưng) 9) Dũng tuyền huyệt (nằm chính giữa gan bàn chân). Hai huyệt Vĩ long và Dũng tuyền khi đánh mạnh sẽ thốn tận óc.
Chín huyệt á khẩu (dumb points)
1) Kiên tĩnh huyệt ( nằm ở hai hõm vai phía trước), đánh mạnh làm tê liệt và cứng đơ; 2) Á môn huyệt ( nằm dưới Não hộ huyệt, tương ứng ngay vào vị trí của dây thanh huyền vời hệ thần kinh) đánh mạnh sẽ té xuống động kinh và câm vĩnh viễn 3) Phượng nhãn huyệt ( nằm ở điểm lõm giữa hai xương cánh gà, nơi đốt xương sống thứ hai) đánh mạnh làm ho ra máu. 4) Nhập động huyệt ( nằm ở giữa hai xương cánh gà, xế ngoài bên dưới Phượng nhãn huyệt) đánh trúng làm đau và tê liệt 5) Phượng vĩ huyệt ( nằm 3 phân dưới Nhập động huyệt) đánh trúng làm ho ra máu và tê liệt 6) Tinh xúc huyệt ( nằm dưới Phượng vĩ huyệt, trong hõm hai xương sườn cụt ) huyệt bên phải tương ứng với lá gan, huyệt bên trái ứng với lá lách; 7) Tiếu yếu huyệt ( nằm dưới Tinh xúc huyệt nơi thăn thịt eo lưng, tương ứng với trái thận bên trong) 8) Uyển mạch huyệt ( nằm ở cổ tay, nơi lương y thường bắt mạch) 9) Thái xung huyệt ( nằm ở hõm giữa hai xương thứ 1 và thứ 2 trên mu bàn chân) Chín huyệt ma tý ( numb points) Ma tý là cảm giác tê liệt 1) Cự cốt huyệt nằm ở chỗ hõm giữa vai và cổ 2) Thiên trụ huyệt nằm ở hai bên cổ phía sau, đánh mạnh khiến người ta têliệt, té xuống và có thể chết; 3) Tý nhu huyệt nằm ở mặt trong ở giữa bắp tay trên 4) Khúc trì huyệt nằm ở chính giữa của khớp cùi chõ. 5) Hổ khẩu huyệt nằm ở giữa ngón tay cái và ngón trỏ 6) Bạch hải huyệt nằm trên bắp vế cách 4 phân dưới bụng 7) Ủy trung huyệt nằm ở sau khớp gối 8) Trúc tân huyệt nằm chính giữa mặt sau bắp chuối 9) Công tôn huyệt nằm ở chỗ hõm giữa xương trụ và mắt cá
Ngoài 36 huyệt hiểm yếu trên, ngành châm cứu và võ thuật còn phân biệt 21 huyệt quan trọng khác: 16 huyệt phía trước thân người là: 1) Kiết hầu 2) Thiên đột 3) Hoa cái 4) Đảm trung 5)Trung đình 6) Cưu vĩ 7) Cự khuyết 8) Trung hoàn 9) Kiến lý 10) Thủy phân 11) Thần khuyết 12) Âm giao 13) Khí hải 14) Đan điền 15) Quan Nguyên 16) Trung cực 5 huyệt phía sau thân người là 1) Á môn 2) Đại chùy 3) Linh đài 4) Tích trung 5) Chí dường. Những huyệt quan trọng này đóng một vai trò đặc biệt: Nếu đả thương trúng phạm vào thì sẽ gây ra những chứng bịnh liên quan: ví dụ đánh vào huyệt Âm giao dưới rốn sẽ gây ra đau bụng quặn lên, đánh vào Đan điền thì tổn thương vào phổi và tim; đánh trúng huyệt Quan nguyên thì tổn thương đến thận v.v...
TRƯƠNG TAM PHONG VÀ ĐIỂM HUYỆT
Đọc lại lịch sử của võ Thiếu lâm, chúng ta được biết là sư tổ Đạt Ma đã khám phá ra La hán quyền để làm thư dãn gân cốt; ngoài ra, ngài cò viết hai sách là Dịch cân kinh và Tẩy tủy kinh để giúp các sư tăng rèn luyện thân thể... Vài trăm năm sau, sư Giác viễn sáng chế ra Thất thập nhị quyền của Thiếu lâm tự, và một vị khác tên là Bạch Ngọc Phong sáng tạo ra Thiếu lâm Ngũ quyền: Long quyền luyện về thần, Hổ quyền luyện về xương, Báo quyền luyện về lực, Xà quyền luyện về thở, Hạc quyền luyện về linh. Võ Thiếu lâm là loại Ngoại công có đặc tính kiên cường, mau lẹ, nặng và chủ công. Còn võ thuật Thái cực và Hình Ý là loại Nội công, có đặc tính mềm, chậm và nhẹ. Nói đến Thái cực quyền, người ta phải nhắc đến Trương Tam Phong là người khai sáng. Sinh vào cuối đời Tống, trong buổi thiếu thời, Trương Tam Phong đã học nhiều năm tại Thiếu lâm tự. Sau đó, ông bỏ ra ngoài chu du nhiều nơi để tìm người giao đấu và học hỏi thêm. Trong chuyến ngao du giang hồ, ông cũng gặp nhiều tay tài giỏi với lối đánh khác hẳn Thiếu Lâm phái. Vào những năm cuối đời, ông chuyên về Đạo giáo, đóng cửa tu luyện, dạy các môn sinh và sáng chế ra một lối võ thuật tham bác vừa lối của Thiếu lâm, vừa của những danh thủ thiên hạ gọi là Thái cực quyền.
Vào cuối đời Đường, có nhiều danh thủ với đường lối võ thuật khác Thiếu lâm phái được kể như sau: Hứa Chất Bình người ở An huy, Lý Đạo tử ở Võ Đang sơn chủ trương Tiên thiên quyền, Hồ Kính tử ở Giang tô lập ra Hậu thiên quyền, Hàn Củng Nguyệt lập ra Tiểu cửu thiên. Đến đời Tống về sau, Trương Tam Phong tham bác võ thuật của bốn danh thủ trên vào căn bản của võ Thiếu lâm mà lập ra Thái cực quyền.
Nhưng đặc biệt hơn cả là Trương Tam Phong là người chính thức đem điểm huyệt vào võ thuật kể từ đời Tống về sau. Ông đã thừa kế kiến thức về huyệt vị và kinh lạc từ hai vị danh y là Biển Thước và Hoa Đà đã áp dụng nó vào y thuật. Biển Thước sống đời Xuân Thu Chiến quốc ( 300 trước TC) và Hoa Đà sống vào đời Tam quốc ( 190 trước TC). Trương Tam Phong sanh tai Long Hổ sơn ( Giang Tây ) vào năm 1247 trong triều đại vua Lý Tông đời Nam Tống. sau gia đình dời lên Liêu Bắc ( Liêu Ninh). Tên của ông lưu danh lịch sử khi vua khai sáng nhà Minh là Chu Nguyên Chương muốn vời ông ra dẹp dân của một bộ lạc ngoan cường nhưng ông từ khước và sống ẩn tại miền Vân Nam ( Hoa Nam). Về chuyện áp dụng kỹ thuật điểm huyệt, nói dúng ra trước Trương Tam Phong có một người tên là Bằng Đạo Nhất đã chú ý khả năng những huyệt đạo trong nhiều lối dùng khác nhau nhưng ông này không bao giờ đem ra thi hành. Trương Tam Phong nghiên cứu sách của họ Bằng và khai triển thành 36 lối điểm huyệt. Tại đại sảnh trên Võ Đang sơn, ông làm một tượng đồng vẽ hơn 300 huyệt, trong đó có 36 huyệt hiểm yếu như chúng ta đã biết. Ông chỉ dạy bí thuật điểm huyệt cho những môn sinh có đức hạnh vì sợ kẻ ác tâm học hỏi lợi dụng mà làm điều phi nghĩa. Nghe nói tượng đồng của họ Trương rất lớn nhưng rỗng ruột trong chứa dựng thủy ngân, còn những huyệt hiểm yếu là những lỗ thủng được trám bằng sáp ong, thành ra khi học mà châm trúng huyệt thì thủy ngân sẽ chảy ra.
NHỮNG QUI TẮC QUAN TROÏNG VỀ ĐIỂM HUYỆT
Điểm huyệt là một kỹ thuật tối quan trọng trong nghề võ nên chẳng phải ai cũng học được. Tiếng Hoa gọi nó là Dim Hsueh ( điểm huyệt) hay Dim Mak ( điểm mạch), Võ sư Douglas H. Y. Hsieh đã viết một cuốn sách Dim Mak và chú dịch là The Poison Hand Touch of Death (in ở Đài loan và phát hành do Mc Lisa Enterprises, Honolulu, Hawaii , tái bản 7 lần). Theo sách này, có nhiều qui tắc quan trọng cần nắm khi áp dụng điểm huyệt: 1) Sử dụng bộ phận nào của cơ thể làm khí giới đánh địch thủ (như tay đấm, ngón xỉa, chân đá, gót đạp ...) 2) Hướng đánh 3) Hít thỡ đúng cách 4) Tuổi của địch thủ 5) Phái tính của địch thủ 6)Cấp độ sức lực của cú đánh 7) Số lần đánh 8)Kỹ thuật điểm huyệt 9) Cấu tạo bắp thịt của địch thủ 10) Giờ giấc và thời tiết 11) Thời điểm dự bị khi điểm huyệt 12) Khả năng võ thuật của địch thủ.
HUẤN LUYỆN VỀ ĐIỂM HUYỆT
Huấn luyện về điểm huyệt, theo võ sư Hsieh viết trong cuốn Cao cấp Điểm mạch ( Advanced Dim Mak), gồm 4 phần : 1) Luyện tay 2) Luyện thuần thục 3) Luyện siêu đẳng 4) Thực hành. Tuy nhiêu, riêng về luyện tay rất thay đổi tùy theo các trường phái võ thuật, chẳng hạn phái Thái cực thích dùng kiểu Hạc chủy bằng cách chúm 5 ngón lại giống hình mỏ chim hạc để mổ vào đối phương trong khi các môn phái khác dùng bàn tay, ngón tay,cùi chõ, đầu gối để đạt cùng mục đích. Thông thường là dùng 2 ngón tay, đôi khi lại chỉ dùng một ngón trong Nhất chỉ thiền. Riêng về Nhất chỉ thiền đòi hỏi võ sinh phải đặc biệt giỏi về công phu đánh bằng ngón tay, nếu không khó có thể áp chế đối phương. A- Luyện tay: chia thành nhiều cấp độ từ thấp lên cao (1) Luyện tay không: ban đầu võ sinh học cách nắm những ngón vào lòng bàn tay rồi từ từ duỗi thẳng các ngón khi đưa bàn tay về trước đồng thời với sự vận khí từ huyệt Đan điền dưới rốn dồn vào tay rồi vào các ngón tay. Tập như thế mỗi lần 36 động tác, mỗi ngày 2 lần, tập liên tục một tháng. (2) Luyện thọc tay a- Thọc tay vào đậu: võ sinh luyện thọc 2 hay 3 ngón tay của mình vào một thùng đựng đậu xanh hay đen. Ban đầu thì thọc nhẹ rồi dần dà chọc mạnh lên. Và càng ngày lại càng đổ thêm đậu vào thùng. Mỗi lần thọc tay là mỗi lần vận khí Đan điền dồn lực vào các ngón tay b- Thọc vào cát rồi thọc vào bi sắt là lúc cấp độ luyện thọc tay càng tăng lên. Đương nhiên, võ sinh phải chịu càng lúc càng đau đớn nhưng sau một hai năm công phu luyện tập, những ngón tay chai cứng, khỏe mạnh có thể chọc thủng một tấm sắt mỏng (3) Luyện dồn lực để xỉa ngón tay vào những tấm ván thông rồi tăng lên xỉa vào những phiến đá mỏng và láng (4) Luyện cho những ngón tay nhúm bắt và cầm giữ một hòn đá hình nón nặng càng lâu càng tốt rồi luyện nằm sấp rồi chúm các ngón tay vào đất để “push up” cả thân hình lên (5) Luyện chỉ-phong và chưởng phong a- với đèn cầy: Đứng trước một ngọn đèn cầy đang cháy, đưa những ngón tay rồi xỉa thẳng mạnh vào nó nhưng phải dừng lại khi ngón tay còn cách ngọn lửa khoảng 1 phân. Tập như thế cho đến trình độ chỉ-phong-lực của mình đủ sức thổi tắt đèn cầy b- với chồng giấy báo: Để một xấp giấy báo 100 tờ dưới đất, rồi vận khí Đan điền vào bàn tay của mình rồi đánh mạnh vào đó. Ban đầu chỉ một vài tờ báo ở trên mặt rách nhưng luyện tập bền bĩ thì về sau cả chồng báo sẽ rách nát ra.
B- Luyện thuần thục: Khác với cách luyện công phu khác, luyện điểm huyệt đòi hỏi võ sinh phải (1) thuộc lòng và nhận định vị trí chính xác của 36 huyệt hiểm yếu và 21 huyệt quan trọng để đánh làm sao cho thật trúng thì mới có thể áp đảo địch thủ. (2) Nắm vững thời điểm: Theo y kinh cổ điển, khí và huyết luân lưu trong châu thân con người theo một lộ trình và ứng với một thời điểm chính xác. Muốn điểm huyệt có hiệu quả, cần phải điểm trúng vào chính lúc khí huyết chạy ngang huyệt vị đó. Châu thân người ta có 12 đường kinh mạch ứng với 12 giờ trong chu kỳ của một ngày, Lộ trình khí huyết luân lưu lại cũng theo giờ giấc mỗi mùa trong năm xuân hạ thu đông mà thay đổi. Võ sinh phải chuyên tâm học hỏi và nắm vững những điều trên khi áp dụng điểm huyệt. Nếu điểm sai thì không có kết quả còn bị địch thủ phản công lại. (3) Lục vấn: do đó trong thời gian huấn luyện, võ sư thường phải dò bài và quay các môn sinh luôn, gọi là lục vấn: ví dụ như đọc tên một huyệt thì hỏi ngay nó thuộc kinh mạch nào, nằm chính xác ở đâu?
C- Luyện siêu đẳng cho những người cao thủ thượng thừa đã thuần thục nhuần nhuyễn trên những bước luyện tập cơ bản ở trên. [ Tôi nhận thấy những hiệu quả của sự luyện siêu đẳng miêu tả trong cuốn Cao cấp Điểm Mạch mang tính cách “ siêu nhân”thần kỳ, khó có thể quan niệm với con mắt thực tế qua những định luật cơ học, nhưng với mục đích biên khảo, tôi xin trích dịch tóm lược để thấy từ chuyện thực tế đến hư cấu, sự tưởng tượng của con người đã can dự vào rất nhiều.] (1) Luyện siêu lực chỉ-phong tầm xa: tức là luyện điểm huyệt với đối tượng địch thủ ngoài tầm tay bằng cách treo những cục gòn rồi đứng ở xa cách nó để chỉ ngón tay vào nó, chỉ-phong lực sẽ làm cục gòn lay động. Dần dà tiến lên cấp độ, treo một guồng len rồi đến treo một quả cầu kim khí nặng 30 pounds (sic), phóng chỉ lực ra từ ở xa sẽ khiến chúng lay động. (2) Luyện xuyên thấu lực: tức là khả năng xuyên thấu của những ngón tay vượt qua những chướng ngại vật ( lớp áo dầy hay áo giáp)để xuyên vào da thịt địch thủ. (3) Luyện tinh nhuệ nhãn lực: để thấy rõ ngày cũng đêm khi giao đấu để nhận định những điễm hiểm yếu của địch . a- Luyện theo ngoại công tập cho mắt mình nhìn rõ những vật chung quanh bằng cách ngồi trong phòng với ánh sáng ban đầu hơi mờ mờ cho đến khi tối đen như mực . b- Luyện theo nội công là leo lên đỉnh đồi chờ lúc mặt trời bắt đầu mọc. Ban đầu, nhắm mắt lại để định thần và nín thở trướch khi mở mắt ra nhìn mặt trời trong vòng 1 khắc đồng hồ. Xong thì nhắm mắt lại, từ từ lăn nhãn cầu từ góc trái bên trên qua góc phải bên dưới với góc độ khoảng 72 độ; xong lại lăn nhãn cầu ngược lại giống như trên cùng một góc độ. Luyện mắt như thế 36 lần thì nghỉ . Bền bỉ luyện tập như thế trong 3 năm thì nhãn lực trở nên tinh nhuệ có thể thấy những vật nhỏ trong bóng tối.
D- Thực tập để lâm chiến:
Trước hết, thực tập vào ban ngày trên những hình nhân bằng gỗ hay vật liệu khác có kích thước như thực trên đó có vẽ những huyệt vị và kinh lạc. Sau đó là thực tập về đêm: nhúng tay vào vôi bột rồi tập nhận định những huyệt vị để xỉa ngón tay điểm huyệt trong bóng tối, xong rồi bật đèn sáng để kiểm soát đúng hay sai.
ĐIỂM HUYỆT TRONG TRUYỆN KIM DUNG
Tác giả Kim Dung đã nói gì về điểm huyệt trong những tác phẩm chưởng kiếm đầy tính chất hư cấu của ông ? Trong những bộ truyện chưởng kiếm của ông, nhân vật siêu đẳng về thủ pháp điểm huyệt là Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ trong Tiếu Ngạo Giang hồ. Xứng đáng với cái tên Nhất Chỉ, ông này chỉ dùng một ngón mà điểm huyệt để giết người mà cũng dùng một ngón để chẩn mạch trị bịnh cứu người. Thủ pháp điểm huyệt thường được Kim Dung với bộ óc uyên bác nói đến trong những bộ truyện của ông. Bác sĩ Trần văn Tích, trong bài Y, Dược và Chưởng Kiếm, đã viết khá kỹ về những huyệt đạo mà tác giả Kim Dung mô tả một cách chính xác và liên quan mật thiết đến y thuật đúng như kinh điển cổ y thư trong những bộ truyện của ông. Ví dụ như trong Lục Mạch thần kiếm, nhân vật Kiều Phong đã tấn công vào các huyệt Lao cung, Nhị gian, Hậu khê và Tiền cốc của các địch thủ, những huyệt này đều có vị trí trên chi trên. Nhân vật Quách Tường khi giao đấu với Vô Sắc thiền sư trong Cô gái Đồ Long đã xỉa vào hai hiểm huyệt là Thiên Đỉnh và Cự cốt ở vùng cổ vai của đối phương. Ở Lục Liễu sơn, Trương Vô Kỵ từng cở giầy Triệu Minh rồi dở Cử Dương Thần Công “cù” vào huyệt Dũng Tuyền ( Triệt Hoa)) dưới gan bàn chân người đẹp. Khi Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn nổi cơn điên bóp cổ Hân Tố Tố sắp nghẹt thở thì Trương Thúy Sơn xuất quyền nện vào huyệt Thần Đạo của Đốc Mạch trên lưng của ông này. Chính Tạ Tốn khi muốn cứu Không Kiến đại sự đang sắp chết thì điểm vào huyệt Linh Đài của Đốc Mạch nằm giữa 2 đốt sống lưng thứ 6 và 7... Tuy nhiên, theo Trần văn Tích thì “Nhưng cũng có những huyệt do Kim Dung “phịa” ra. Ví dụ trong tiêu cuộc của Đỗ Tổng tiêu đầu, Trương Thúy sơn đã thấy nhiều người chết nét mặt tươi cười vì bị kẻ địch điểm vào Tiếu yếu huyệt là một huyệt vốn không thấy có trong các sách châm khoa. Một người thứ hai bàn thật kỹ về nghệ thuật viết của Kim Dung là Vũ Đức Sao Biển trong bộ 4 cuốn “Kim Dung giữa đời tôi”. Ông này cũng đề cập đến khía cạnh sáng tác hư cấu của Kim Dung trong kỹ thuật điểm huyệt là : phong toả huyệt đạo và đả thông huyệt đạo coi như khí lực chạy trong châu thân con người như một luồng nước, hay một luồng điện khí mà người ta có thể đóng khóa lại và mở ra tùy tài tập luyện: Muốn phong tỏa huyệt đạo, người học võ phải hiểu được toàn bộ hệ thống huyệt đạo của con người, phải nhả vào huyệt đạo bao nhiêu kình lực mới đủ sức phong tỏa. Phong tỏa huyệt đạo nhằm khắc chế một địch thủ, nhằm chữa thương cho một người, giúp người đó tránh được cảm giác đau đớn hoặc giảm cảm giác đau đớn. Phong tỏa huyệt đạo còn nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm độc, an tĩnh và trấn định thần kinh. Những nhân vật của Kim Dung đã sử dụng thủ pháp châm cứu để phong tỏa huyệt đạo như vậy. Hồ Thanh Ngưu, Trương Vô Kỵ đã dùng gai, dùng tăm tre thay cho kim sắt, châm cứu cho bệnh nhân. Từ vị trí các huyệt đạo của y học, Kim Dung đã mô tả những đòn thế đánh vào các huyệt đạo để giải khai tình trạng bị phong tỏa, dề gây những chấn thương trầm trọng cho địch thủ....
Tác phẩm kiếm huyệt của Kim Dung cũng đề cập đến động tác đả thông huyệt đạo, giúp người luyện võ thăng tiến công lực, đốt giai đoạn trong quá trình rèn luyện để đạt nhanh mới mức thượng thừa. Ông thường nói đến những nhân vật đã được đả thông hai trọng điểm Sinh tử huyền quan. Đặc biệt trong Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Vô Kỵ mới 12 tuổi đã bị thương vì Huyền Minh chưởng khí lực âm nhu khiến con người rét lạnh, được Trương Tam Phong đem lên chùa Thiếu lâm nhờ chữa trị. Nhà sư giả hiệu Viên Chân đã dùng Cửu Dương công của phái Thiếu lâm để khắc chế khí âm Huyền Minh chưởng trong con người Vô Kỵ. Tuy nhiên, với bản tính độc ác, Viên Chân đồng thời giúp Vô Kỵ đả thông luôn hai đường huyệt Nhâm Đốc, mong cho khí âm hàn Huyền Minh Chưởng tái phát, Trương Vô Kỵ có thể chết sớm ( tr 76 – 77 quyển Thượng của bộ Kim Dung giữa đời tôi – Vũ Đức Sao Biển)
KẾT LUẬN:
Đâu là Thực tế ? Đâu là hư cấu? Đó là mối hoài nghi chính đáng. Câu chuyện điểm huyệt hay điểm mạch đã dựa trên cơ sở những hệ thống huyệt vị và kinh mạch chạy phân bố khắp châu thân. Quan niệm về “Khí” và hệ thống huyệt vị và kinh mạch trong Y Võ học Trung quốc cho đến nay vẫn là một huyền bí hay nói đúng ra một sự khiêu khích đầu óc tò mò tìm hiểu của những chuyên gia. Khoa học hiện đại đang cố gắng giải thích “ Khí” như một loại sinh- điện hay hóa học phân tử v.v... nhưng khách quan mà nói vẫn chưa có cơ sở thuyết phục. Tuy nhiên trên thực tế, Y học Trung quốc kể như đã thành công ít nhiều trong sự áp dụng kiến thức này vào sự trị liệu của ngành châm cứu, án ma, thôi nã... đối với một số chứng bịnh, cũng như luyện Taichi ( Thái cực quyền) làm kiện tráng lục phủ ngũ tạng trong thân thể,tăng tuổi thọ. Nếu những châm cứu sư dùng những cây kim, hơi nóng hay những kích thích điện khí v.v... trên những huyệt vị để làm giảm đau hay thuyên giảm hay trị dứt những rối loạn cơ thể, thì những tay cao thủ võ lâm nếu lão luyện trong thao tác xuất chiêu chỉ lực thật chính xác đúng huyệt vị, đúng thời thần, đúng giác độ v.v... thì ngón tay điểm huyệt đúng là một thứ “sát thủ đao” vô cùng lợi hại để gây ra thương vong tàn phế cho đối phương. Hình như cho đến bây giờ về kỹ thuật luyện ngạnh công, khinh công, điểm huyệt rất ít người thành công khi sử dụng nó . Phải chăng sự luyện tập điểm huyệt còn đòi hỏi nhiều điều bí kíp sâu kín mà những chân sư có lương tâm trong võ giới không dám truyền dạy một cách vô trách nhiệm cho các môn đệ chăng rồi từ đó trở thành thất truyền? Trên thực tế về cơ thể học, ai cũng biến trên châu thân của người ta có những chỗ “ phạm yếu” – nôm na gọi là “ điểm phạm” ví dụ như vùng yết hầu cần cổ, chấn thủy dạ dầy, hậu chẫm sau ót nếu đánh nhẹ thì làm ná thở, đánh mạnh thì gây “chí mạng” tử vong vì tương ứng vào vị trí những tùng thần kinh ( vegetative plexus )... Còn ở những vùng khác mà y-võ-học cho rằng chứa những huyệt vị “ ma túy”, “ á khẩu”, “huyễn vựng” ... thì vẫn còn là những sự hoài nghi vì chưa ai dám thử chăng trên thực tế chăng? Một điều đáng nói là tâm trí người ta thường chuộng những chuyện thần kỳ vi diệu nên do đó, khi bàn về chuyện điểm huyệt muốn cho nó hấp dẫn ăn khách , những cây bút tiểu thuyết và giới làm phim ảnh đã cố tình thêm thắt tô điểm chuyện giao đấu võ hiệp với rất nhiều sự hư cấu. Có lần mới đây, Kim Dung ghé Việt Nam được người ta phỏng vấn, ông nói những điều về võ thuật và y thuật trong những truyện tiểu thuyết của ông phần lớn chỉ là chuyện hư cấu nhất là về chuyện điểm huyệt như tôi trích dẫn trên.
LÊ VĂN LÂN
|