Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

24 Pages«<1213141516>»
Nhac & Bảo Tàng tranh ảnh nghệ thuật...
viethoaiphuong
#261 Posted : Saturday, February 2, 2013 2:54:47 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ BẢY 02 THÁNG HAI 2013
Roch Voisine đón Valentine với một tập nhạc mới



Tuấn Thảo
Trong số các nghệ sĩ đến từ vùng đất lạnh, Roch Voisine là nam ca sĩ nổi tiếng người Canada rất ăn khách tại Pháp trong suốt những năm 1990. Sau một thập niên thành công vang dội, Roch Voisine từ những năm hai ngàn trở đi, ít còn được báo chí Pháp nhắc tới. Năm 2013 đánh dấu ngày anh trở lại dưới ánh đèn sân khấu.

Vào tháng hai sắp tới đây, nhân mùa lễ tình yêu Valentine, Roch Voisine sẽ trình làng tập nhạc mang tựa đề DuoPhonique. Duo có nghĩa là song ca, còn Phonique có nghĩa là âm thanh. Đây là một album chọn lọc, tập hợp các ca khúc ăn khách nhất của Roch Voisine, hoà âm phối khí lại với dàn nhạc giao hưởng thủ đô Praha. Do là album song ca, nên nam ca sĩ Canada đã triệu mời khá nhiều tên tuổi của làng nhạc Pháp.

Đến từ vùng Québec có Isabelle Boulay, Lynda Lemay và Cœur de Pirate (nghệ danh của nữ ca sĩ Béatrice Martin). Phía các ca sĩ Pháp có Patricia Kaas, Chimène Badi, Julie Zenatti, Patrick Fiori … Sau các tên tuổi đàn anh như Gérard Lenorman, Serge Lama và gần đây hơn nữa là Enrico Macias và nhóm Chico & the Gipsies (hậu thân của ban nhạc Gipsy Kings), đến phiên Roch Voisine lao vào việc khai thác các tuyển tập song ca, một thể loại khá thịnh hành, nhưng cũng vì thế mà có xu hướng lạm phát.


Sinh năm 1963 tại Edmundston, thuộc bang Nouveau-Brunswick, Roch Voisine sinh trưởng trong một gia đình người Canada nói tiếng Pháp. Thời niên thiếu, do có năng khiếu chơi thể thao, nên anh được gia đình cho theo học khoá đào tạo chuyên ngành, một phần thời gian học chữ, phần lớn còn lại chơi môn khúc côn cầu (hockey) để thành vận động viên chuyên nghiệp.

Vào năm 16 tuổi, Roch Voisine bị chấn thương trong một trận đấu. Anh buộc phải nghỉ ngơi để dưỡng thương, nhưng sự nghiệp thể thao của anh coi như là tiêu tan, do Roch Voisine không tìm lại được trình độ thi đấu như xưa. Cũng may cho anh là bên cạnh thể thao, anh còn nhiều sở thích khác, trong đó có đam mê chơi đàn ghi ta. Trong thời gian đầu, anh làm hoạt náo viên cho một chương trình nhạc trẻ truyền hình.

Vào năm 24 tuổi, anh chọn hẳn con đường sân khấu qua việc ghi âm album đầu tay vào năm 1987. Sự nghiệp âm nhạc của Roch Voisine thật sự cất cánh vào năm 1989. Tập nhạc thứ nhì với tình khúc chủ đề Hélène phá kỷ lục số bán tại châu Âu. Anh nổi danh cùng thời với nam ca sĩ Patrick Bruel và nhờ có khuôn mặt, vóc dáng bảnh trai nên làm điêu đứng các thiếu nữ.


Có người nói đùa rằng Roch Voisine tuy chỉ hát một mình trên sân khấu, nhưng lại có sức quyến rũ của một ban nhạc boys band. Thập niên 1990 là thời kỳ cực thịnh của các nhóm nhạc thanh niên nhắm vào đối tượng trẻ : từ các ban nhạc như Take That, Backstreet Boys, ‘N Sync phía Anh Mỹ cho tới Alliage, 2 be 3 hay Westlife phía châu Âu, tất cả các nhóm đều khai thác cùng một bí quyết : ngoại hình bắt mắt, ca khúc dễ nhớ cũng như nhóm nhạc trẻ One Direction đang ăn khách hiện giờ.

Cho tới những năm hai ngàn, Roch Voisine liên tục ghi âm và lưu diễn, tính đến nay anh đã trình làng trên dưới 15 album. Nhưng từ năm 2003 trở đi, sự nghiệp của anh bắt đầu lu mờ. Thời gian lập gia đình (2004-2008) cũng là giai đoạn nam ca sĩ ít còn xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. Cho dù sau đó, anh vẫn tiếp tục ghi âm, tham gia vào nhiều dự án âm nhạc với các nghệ sĩ khác như Bryan Adams hay Carlos Santana, nhưng tên tuổi của Roch Voisine ít còn được báo chí Pháp nhắc tới. Các buổi biểu diễn của anh chủ yếu diễn ra ở quê nhà và vùng Québec.


Nhưng Roch Voisine vẫn duy trì được một tầng lớp hâm mộ khá đông đảo, nhờ vậy mà các album sau này của anh tuy không được quảng cáo rầm rộ nhưng vẫn được bán một cách đều đặn. Từ năm 2008 trở đi, Roch Voisine bắt đầu ghi âm một loạt album tập hợp các bản cover của những bài hát kinh điển, dựa theo mô hình bộ toàn tập gồm năm cuộn CD mang tựa đề American Songbook của danh ca nhạc rock người Anh Rod Stewart.

Được phát hành dưới tựa đề Americana, bộ sưu tập của Roch Voisine bao gồm 3 cuộn CD, bao gồm khoảng 40 ca khúc nổi tiếng Anh Mỹ, cộng với một số ca khúc Pháp từng được chuyển dịch sang tiếng Anh. Thể loại mà anh chọn trình bày thường là các ca khúc country, các bản ballad của Elvis Presley hay của Willie Nelson, rất hợp với lối phối khí mộc, ca sĩ hát một mình hay có giọng bè, chỉ cần đệm với piano hay ghi ta thùng.


Được ghi âm từ năm 2008 đến 2011, nhưng ba cuộn CD này lại không được phổ biến rộng rãi trên thị trường Pháp. Mãi đến đầu năm nay, các album này mới được tập hợp lại thành một bộ, và sẽ được phát hành song song với tập nhạc DuoPhonique mà nam ca sĩ chuẩn bị trình làng trong tháng Hai. Đối với người Pháp, năm 2013 đánh dấu ngày Roch Voisine xuất hiện trở lại trên sàn diễn sau nhiều năm vắng bóng châu Âu.

Lần cuối Roch Voisine tham gia vào một chương trình tại Pháp là cách đây hai năm, với tư cách là khách mời chứ không phải là thành viên ban giám khảo trong khuôn khổ một cuộc thi tiếng hát truyền hình (X Factor). Bộ toàn tập Americana cùng với album song ca DuoPhonique có thể xem như là một món quà tặng đầu năm dành cho giới hâm mộ, được phát hành vào lúc nam ca sĩ người Canada chuẩn bị ăn mừng sinh nhật 50 tuổi.

take me home country roads - ROCH VOISINE
http://www.youtube.com/w...bedded&v=0RArlFuYFbQ
viethoaiphuong
#262 Posted : Monday, February 4, 2013 1:37:43 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Những vũ công mới trình diễn lần đầu khiêu vũ tại Vũ hội Nhạc kịch Semper lần thứ 18 năm 2013 ở Dresden, đông Đức.
VOA-2.2.2013
viethoaiphuong
#263 Posted : Monday, February 11, 2013 3:30:06 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Thứ bảy 09 Tháng Hai 2013
Giải thưởng ca nhạc Pháp Victoires de la Musique 2013


Diễn viên kiêm ca sĩ Lou Doillon tại lễ trao giải Victoires de la Musique 2013 (AFP)

Tuấn Thảo
Tối hôm qua 08/02/2013, giới chuyên nghiệp đã tổ chức lễ trao giải thưởng ca nhạc Pháp Victoires de la Musique 2013 tại nhà hát Zenith ở Paris. Năm nay, làng nhạc Pháp đặc biệt vinh danh các tài năng trẻ, tiêu biểu qua các gương mặt như Lou Doillon, Camille hay La Grande Sophie …

Trong hạng mục diễn đạt, năm 2013 đánh dấu sự thành công bất ngờ của Lou Doillon, đoạt giải giọng ca nữ xuất sắc nhất. Bất ngờ bởi vì Lou Doillon vào nghề trước hết như một diễn viên. Là con gái ruột của nữ ca sĩ Jane Birkin và đạo diễn Jacques Doillon, cô ban đầu vào nghề đóng phim trong hơn một thập niên liền, rồi sau đó mới chuyển qua ca hát như trường hợp trước đó của người chị cùng mẹ khác cha là Charlotte Gainsbourg.

Trong năm qua, Lou Doillon đã trình làng album đầu tay. Tuy toàn bộ tập nhạc được hát bằng tiếng Anh nhưng cách diễn đạt đậm đặc chất folk, cộng thêm lối hoà âm phối khí rất mộc đã thuyết phục được giới phê bình lẫn công chúng.

Về phía nam, giải ca sĩ xuất sắc nhất về tay Dominique A. Cho dù anh đã có hơn 20 năm tay nghề, và cho tới nay đã cho ra mắt 10 album, nhưng mãi đến nay, ngòi bút sáng tác của Dominique A mới nhận được sự khen thưởng của giới phê bình và làng chuyên nghiệp.

Về phía hạng mục khác, nữ ca sĩ La Grande Sophie đoạt một giải dành cho album ca khúc – nhạc nhẹ. Giải album rock thì về tay nhóm Skip the Use. Giải trình diễn được trao cho ban nhạc Shaka Ponk. Còn giải ca khúc hay nhất trong năm theo sự bình chọn của khán giả, lại về tay nữ ca sĩ Camille, nổi tiếng hàng đầu nhờ cái tài phá cách giai điệu.

Nhưng điều gây nhiều bất ngờ hơn cả trong đêm hôm qua là sự thành công ngoạn mục của ban nhạc trẻ C2C. Nhóm này gồm 4 tay DeeJays chuyên hoà âm và sáng tác nhạc điện tử. Album của họ với tựa đề là Tetra vừa hàm ý là Bộ Tứ, vừa có nghĩa là một ngàn Giga, đã gây ngạc nhiên khi đoạt cùng lúc 4 giải quan trọng dành cho album nhạc điện tử, video clip hay nhất, tài năng mới của làng sân khấu và tài năng đầy triển vọng theo bình chọn của khán giả.

Đây là lần đầu tiên kể từ khi có lễ trao giải Victoires de la Musique, một ban nhạc đoạt được hết các giải thưởng được đề cử. Điều đó chứng tỏ rằng : dòng nhạc điện tử French Touch của Pháp, ngoài việc xuất khẩu mạnh ra nước ngoài, còn là một lò đào tạo các gương mặt mới.

Lou Doillon au Studio Ferber - Devil or Angel
http://www.youtube.com/watch?v=N1nSeYks3Qw

Jane Birkin & Daughters - Never Alone
http://www.youtube.com/watch?v=zo_lHaa8DSY
viethoaiphuong
#264 Posted : Thursday, February 14, 2013 3:03:51 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Mumford & Sons, The Black Keys đoạt các giải Grammy hàng đầu
In



Thành viên của ban nhạc Mumford & Sons, từ trái: Ted Dwane, Marcus Mumford, Ben Lovett và Winston Marshall.


Mike O’Sullivan - VOA - 11.02.2013
LOS ANGELES — Ban nhạc dân ca rock Mumford and Sons của Anh Quốc đoạt giải hàng đầu về album xuất sắc nhất trong năm tại lễ trao giải Grammy hôm qua, nhờ tác phẩm Babel. Các giải thưởng âm mhạc năm nay được chia giữa các nghệ sĩ kỳ cựu trong ngành và các nghệ sĩ độc lập. Từ Los Angeles, thông tín viên VOA Mike O’ Sullivan gửi về bài tường thuật sau đây.

Ban nhạc Mumford and Sons đoạt giải Grammy về album xuất sắc nhất và đã trình bày ca khúc ăn khách I Will Wait tại buổi lễ trao giải.

Song giải Grammy cho album nhạc rock xuất sắc nhất lại lọt vào tay The Black Keys với album El Camino. Ban The Black Keys đoạt giả ca khúc rock xuất sắc nhất cho Lonely Boy, giải trình diễn nhạc rock xuất sắc nhất và ca sĩ Dan Auerbach của ban nhạc này đoạt giải nhà sản xuất trong năm.


​​Nhạc sĩ Úc gốc Bỉ Gotye đoạt giải Grammy cho ca khúc trong năm với bản Somebody That I Used to Know, trình diễn cùng với nghệ sĩ Kimbra của New Zealand.

Ca khúc này cũng đem lại cho cặp nghệ sĩ này một giải Grammy về song ca xuất sắc và Gotye đoạt thêm một giải Grammy cho album Making Mirrors.

Ban tam ca nhạc rock Fun được bầu là nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, và ca khúc ăn khác We Are Young, trình bầy cùng với Janelle Monae đem về cho các tác giả ca khúc này giải ca khúc xuất sắc trong năm.

Ở hậu trường, thành viên Andrew Dost trong ban nhạc cho biết ban nhạc không xa lạ với sân khấu ca nhạc nhưng đây là lần đầu đoạt giải Grammy.

Ca sĩ Dost nói đây là một đêm đáng ghi nhớ và các giải thưởng mang lại một cảm giác rất đặc biệt khó tả.

Ca sĩ Kelly Clarkson đoạt giải Grammy về album giọng ca pop xuất sắc với bản Stronger.

Clarkson bắt đầu sự nghiệp qua chương trình tuyển lựa tài năng American Idol trên truyền hình và tiếp tục trở thành một ca sĩ ngôi sao. Cũng như Carrie Underwood. Cô này đoạt giải Grammy về trình diễn đơn ca nhạc đồng quê xuất sắc nhất nhờ bản Blown Away.

​​Ở hậu trường, ca sĩ Underwood nói cô lớn lên với tình yêu nhạc đồng quê.

Ca sĩ Underwood cho biết cô yêu cái thế giới nhạc đồng quê và những người trong cái thế giới đó, và cảm thấy người nào cũng có thể tham gia, cho dù thích thể loại nào.

Ban nhạc Zac Brown đoạt giải Grammy về album nhạc đồng quê xuất sắc nhất nhờ tác phẩm Uncaged.

Ca sĩ Adele của Anh quốc đoạt giải trình diễn đơn ca nhạc pop xuất sắc nhất qua bản Set Fire to Rain. Cô nói cuộc tranh đua rất gay go, với Kelly Clarkson, Carly Rae Jepsen, Katy Perry và Rihanna trong hạng mục này.

Adele muốn gửi tình thương tới các nữ ca sĩ khác bởi vì tất cả đều đã tận lực làm việc mà trông bên ngoài tưởng như là dễ dàng.

Ða số các giải Grammy đã được trao trước khi buổi lễ được phát hình, trong đó có giải Grammy cho album nhạc thế giới xuất sắc, về tay cố nhạc sĩ Ấn Ðộ Ravi Shankar.

Nhạc sĩ Jazz Latinh Arturo Sandoval đoạt giải Grammy về tập thể nhạc jazz qua tác phẩm vinh danh nghệ sĩ jazz vĩ đại Dizzy Gillespie, có tựa là Dear Diz.

Ở hậu trường, Sandoval nói thể loại jazz đã gợi cảm hứng cho ông trong suốt 5 thập niên.

Nhạc sĩ Sandoval nói ông không hề mất đi nhiệt tình. Mỗi ngày ông đều tập luyện, cải tiến, viết nhạc mới y như lúc mới khởi nghiệp. Tuy đã chơi nhạc 54 năm nhưng đối với ông, dường như chỉ là từ tuần trước.

Các ca sĩ nhạc rap Jay-Z, Kanye West và nhạc sĩ điện tử Skrillex mỗi người đều đoạt 3 giải thưởng.
viethoaiphuong
#265 Posted : Saturday, February 16, 2013 2:30:47 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ BẢY 16 THÁNG HAI 2013

Andrea Bocelli : Đam mê êm đềm nhạc tình La tinh



Tuấn Thảo
Besame Mucho, một trong những ca khúc tuyệt đỉnh của dòng nhạc trữ tình La Tinh từng được Andrea Bocelli ghi âm vào năm 2006. Đầu năm nay, danh ca tenor người Ý trở lại với một album mới mang tựa đề Passione (Đam Mê), đưa bao tình nhân vào cõi hương trầm, nơi thì thầm của dư âm, bóng hình lạc chốn xa xăm cho nhạc tình thêm sâu đậm.

Tập nhạc Đam Mê có thể được xem như là phần tiếp nối của các album trước như Romanza (Chuyện tình) và Amore (Tình Yêu). Album này cũng đánh dấu 20 năm sự nghiệp của Andrea Bocelli, kể từ cái ngày anh đoạt giải nhất tại liên hoan ca nhạc San Remo, ra mắt album đầu tay với tựa đề Biển đêm yên tĩnh (Il Mare Calmo della Sera).

Đúng với tên gọi của nó, album đề tựa Đam Mê bao gồm tất cả là 18 ca khúc kinh điển của dòng nhạc lãng mạn trữ tình, thể hiện qua 5 thứ tiếng khác nhau là Anh, Ý, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong số 18 ca khúc này, có 4 bản song ca ghi âm với các giọng ca tên tuổi ăn khách hiện giờ.

Chẳng hạn như Jennifer Lopez song ca với anh nhạc phẩm Quizas, Quizas, Nelly Furtado trong bản nhạc Corcovado, Chris Botti hát chung bài When I Fall In Love và một bài song ca ảo La Vie en Rose - Cuộc đời màu hồng, trong đó giọng ca của Andrea Bocelli nhờ vào công nghệ âm thanh thời nay mà hòa quyện với tiếng hát của Edith Piaf, nhân 50 năm ngày giỗ của nữ danh ca người Pháp.


Tập nhạc mới của Andrea Bocelli đan xen nhiều thể loại : bán cổ điển, nhạc nhẹ, pop jazz và La Tinh. Nếu như trước đây, danh ca tenor người Ý đã từng thể hiện rất thành công nhạc phẩm tiếng Pháp Les Feuilles Mortes (Autumn Leaves trong tiếng Anh, còn lời tiếng Việt là Tình như lá rụng), thì lần này Andrea Bocelli chưa đủ say đắm, đậm đà trong Cuộc đời màu hồng, cách vuốt chữ chưa đủ quyến rũ mượt mà như ông hoàng Elvis trong bản nhạc Love Me Tender.

Đổi lại chất giọng tenor pinto của Andrea Bocelli, nhờ có âm vực sâu rộng, một làn hơi khỏe khoắn, cách nhã chữ đầy đặn, thật sự phát huy trọn vẹn trong cách thể hiện các bản nhạc La Tinh, trong cả hai thể điệu rumba và bossa nova, cho dù người yêu nhạc vẫn cảm nhận là anh hát tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha thoải mái hơn là tiếng Bồ Đào Nha.


Nhịp điệu càng khoan thai, tiết tấu càng chậm rãi, giọng ca của Andrea Bocelli càng tràn đầy sinh lực. Sức sống ấy tuy chưa hừng hực dục vọng cuồng nhiệt đam mê như Luis Miguel (chẳng hạn như trong bản Perfidia), nhưng đủ mạnh để thắp sáng ngọn nến con tim, để rồi trong những đoạn cao trào bùng cháy lửa tình trong đáy tâm hồn. Xúc cảm qua lối diễn đạt của Andrea Bocelli là một niềm đam mê êm đềm, không đốt hết luồng sinh khí trong ngắn ngủi khoảnh khắc, mà tựa như sóng ngầm xuất phát từ đáy sâu, từ từ dâng cao đến tột đỉnh triều cường.

Với một cách thể hiện như vậy, thử hỏi Andrea Bocelli làm sao mà không thành công. Từ khi tên tuổi của anh được gắn trên Đại lộ Danh vọng (Hollywood Walk of Fame) vào năm 2010, giọng ca tenor người Ý đã bán hơn 80 triệu album trên toàn thế giới. Tính đến nay anh đã ghi âm trong phòng thu 14 album đan xen nhạc pop với cổ điển. Bên cạnh đó, anh cũng đã thu thanh 9 vở kịch opera.


Về điểm này, các nhà phê bình trung thành với truyền thống nhạc kịch opera cho rằng Andrea Bocelli chẵng những non nớt tay nghề, mà còn chưa vững kinh nghiệm sàn diễn bằng các giọng ca tenor bậc đàn anh như Pavarotti, Dominguez và Carreras. Điều này cũng dễ hiểu vì những nghệ sĩ hát opera ngoài việc ca hát, còn phải biết diễn kịch.

Chính cái kinh nghiệm đứng trên sân khấu giúp cho cách thể hiện của họ trở nên tinh tế, sắc sảo hơn. Trong trường hợp của Andrea Bocelli, do bị khiếm thị, cho nên anh chủ yếu ghi âm các vở kịch opera trong studio, chứ ít khi nào mà được diễn trực tiếp toàn bộ tác phẩm trên sân khấu. Dù muốn hay không thì Andrea Bocelli khó mà rung cảm tùy hứng, theo phản hồi trực tiếp từ phía khán giả.

Gần đây, danh ca tenor người Tây Ban Nha Placido Domingo có trình làng một tập nhạc bao gồm là các bản tình ca vang bóng một thời. Placido Domingo hát nhạc nhẹ nhưng với kỹ thuật luyện thanh của nhạc kịch opera. Trong khi Andrea Bocelli, khi hát nhạc bán cổ điển, thường chọn lối thể hiện thuần chất nhạc nhẹ. Có lẽ cũng vì thế mà đối với đa số người nghe, các bản nhạc của anh dễ lọt tai hơn.


Còn trong thể loại La Tinh, ngoài việc đòi hỏi nơi người diễn một cách hát tròn vành rõ chữ, ít có nuốt chữ nén câu như trong tiếng Pháp, các bản nhạc La Tinh còn rất quan trọng trong lối hòa âm phối khí. Chẳng hạn như phiên bản Besame Mucho của Cesaria Evora phá cách trong lối phân đoạn ngắt câu, hòa âm tối thiểu, phối khí mộc mạc, trong khi phiên bản của Andrea Bocelli thì lại dào dạt du dương, quyền quyện lớp lớp.

Trên tập nhạc Passione (Đam Mê), danh ca tenor người Ý chọn lối thể hiện các bản nhạc tình La Tinh đúng với phong cách của người Nam Mỹ : Rumba trữ tình ở chỗ tha thiết lã lơi, bossa nova lãng mạn trong cách nhấn nhịp mềm mại, đảo phách khoan thai. Nguyên dàn kèn đồng hợp với bộ gõ, vĩ cầm réo rắc nhung nhớ, ghi ta lưu luyến thẫn thờ.

Nói rằng tập nhạc này hay hơn các album trước có lẽ cũng không đúng, vì điều đó còn tùy theo cảm nhận của người nghe, nhưng tập nhạc này hợp với gu nghe nhạc của người Việt. Nghe album này, ta có cảm tưởng lạc vào cõi ngầm, nơi đam mê thổn thức tiếng thầm, nơi con tim mệt nhoài say đắm.

Quizas, Quizas, Quizas (Audio)
http://www.youtube.com/w...edded&v=xYz5CiEy5bY

Andrea Bocelli Besame Mucho Latin Grammy 2006
http://www.youtube.com/w...edded&v=8rUP77S0ujA

Andrea Bocelli: Love In Portofino
http://www.youtube.com/w...bedded&v=ADsl5yakB7s
viethoaiphuong
#266 Posted : Friday, March 22, 2013 9:14:59 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ SÁU 22 THÁNG BA 2013

“Bên kia cầu vồng / Over the Rainbow”
Giai điệu tràn đầy lạc quan vượt thời gian



Somewhere Over The Rainbow - Judy Garland 1939
DR

Trọng Nghĩa
“Ở nơi nào đó bên kia cầu vồng / Vời vợi trên cao / Nơi vùng đất ta từng nghe nói đến / Một lần, một lần trong tiếng hát ru // Nơi đó… Trời thật trong xanh / Và mọi giấc mơ ngươi dám ôm ấp / Đều tất nhiên trở thành hiện thực”. Một ngày tháng 10 năm 1938, khi nữ ca sĩ – diễn viên điện ảnh Mỹ Judy Garland - mới 17 tuổi - bắt đầu thu âm giai điệu Over the Rainbow tràn đầy hy vọng về một ngày mai tươi sáng, cô có ngờ đâu rằng cô là người đầu tiên thể hiện một ca khúc sẽ sống mãi với thời gian.


Over the Rainbow (đôi khi còn gọi Somewhere Over the Rainbow) – tạm dịch là « Bên kia cầu vồng » là ca khúc do Harold Arlen viết nhạc và E.Y. Harburg soạn lời, Thoạt đầu, đây chỉ là một bài hát ngắn được cô gái trẻ Dorothy Gale (Judy Garland), nhân vật chính trong bộ phim “Phù thủy xứ Oz / The Wizard of Oz” (1939), cất lên ở vài phút đầu để nói lên ước mơ của mình.

Thế nhưng giai điệu quyến rũ và lời ca bình dị của tác phẩm đã lập tức đi ngay vào lòng người, và cho đến nay vẫn giữ một vị trí xứng đáng trong chương trình biểu diễn của giới ca sĩ, từ những người chưa tăm tiếng cho đến các ngôi sao ca nhạc đã thành danh.

Một ca khúc giản dị đầy lạc quan

Lời bài hát mộc mạc nhưng tràn đầy lạc quan, thể hiện ước ao của một thiếu nữ muốn để lại « các đám mây (trong cuộc sống hiện tại) xa phía sau », để đi đến một thế giới tươi sáng phía « bên kia cầu vồng”, nơi mà « bầu trời thì thật xanh », các phiền muộn thì đều « tan biến như kẹo chanh » trong miệng, và những « giấc mơ bạo dạn nhất thì đều thành hiện thực. Niềm tin của cô gái rất mãnh liệt vì « nếu những chú chim xanh hạnh phúc bé nhỏ có thể bay qua cầu vồng, tại sao cô lại không thể ».


Somewhere over the rainbow /

Way up high /

In the land that I heard of /

Once, once in a lullaby



Somewhere over the rainbow /

Skies are blue /

And the dreams that you dare you dream /

Really do come true

Someday I'll wish upon a star /

And wake up where the clouds /

Are far behind me /

Where troubles melt like lemon drops /

Away above the chimney tops that's where you'll find me



If happy little bluebirds fly /

Above the rainbow /

Why, oh why, can't I ?



Bộ phim thần thoại hay nhất trong mọi thời đại

Bước vinh thăng của Over the Rainbow khởi đầu ngay từ năm 1939, khi bộ phim “Phù thủy xứ Oz / The Wizard of Oz” ra mắt khán giả.

Câu chuyện thần thoại về cô gái mồ côi Dorothy Gale, không bằng lòng với cuộc sống buồn chán trong trang trại ở vùng nông thôn Kansas nước Mỹ, bất ngờ thực hiện được giấc mơ đi trên cầu vồng đến một thế giới khác – vương quốc thần tiên mang tên Oz - đã lập tức chinh phục lòng người và được đề cử tranh giải Oscar năm 1939 trong tổng cộng sáu hạng mục.

Và kỳ tích đã đến : Bài hát Over the Rainbow qua tiếng hát Judy Garland, đã được trao giải Oscar về ca khúc trong phim xuất sắc nhất, còn nhạc nền của bộ phim Phù thủy xứ Oz thì đoạt giải về nhạc phim hay nhất.

Từ đó về sau, do tính chất lạc quan của thông điệp trong phim, hòa quyện với sắc thái thần thoại phù hợp với thiếu niên, bộ phim Phù thủy xứ Oz luôn luôn được chiếu lại hàng năm vào dịp các lễ Tạ ơn, Giáng sinh hay Phục sinh, trong lúc ca khúc Over the Rainbow càng lúc càng thấm sâu vào tâm thức mọi người, không riêng gì ở Mỹ mà còn ở mọi nơi trên thế giới.

Nếu The Wizard of Oz thường xuyên nằm trong top 10 những bộ phim hay nhất mọi thời đại của nhiều bảng xếp hạng danh tiếng trên toàn thế giới, thì bài hát Over The Rainbow cũng thường được xem là ca khúc hay nhất từ trước đến nay.

Một ví dụ cụ thể : Trong danh sách 10 phim xuất sắc nhất thuộc 10 thể loại chủ yếu do Viện phim Mỹ AFI công bố năm 2008, tác phẩm Phù thủy xứ Oz của đạo diễn Victor Fleming, được đứng thứ 10 trong danh mục chung của phim hay nhất thuộc mọi thể loại, và đã đứng đầu loại hình phim Thần thoại, trên cả tập 1 phim The Lord of the Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn) : The Fellowship of the Ring (Hội bạn chiếc nhẫn) của Peter Jackson, làm năm 2001, hay It's a Wonderful Life (Cuộc sống tươi đẹp) của Frank Capra, ra mắt năm 1946.

Bài hát hay nhất thế kỷ 20

Over the Rainbow cũng vậy : Vào năm 2001, năm đầu tiên của thế kỷ 21, bài hát này đã được bầu chọn là ca khúc hay nhất của thế kỷ 20 trong bảng xếp hạng Song of the Century (Bài hát của thế kỷ) do Hiệp hội ngành Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ RIAA (Recording Industry Association of America) và Quỹ Hỗ trợ Nghệ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (National Endowment for the Arts) thực hiện.

Sau đó ít lâu, qua năm 2004, Viện phim Mỹ American Film Institute AFI cũng đặt Over the Rainbow đứng đầu danh sách 100 ca khúc trong phim hay nhất của nền điện ảnh Mỹ, nhân “sinh nhật” thứ 100 của nghệ thuật điện ảnh.

Một ca khúc nổi tiếng và có giai điệu lôi cuốn như Over The Rainbow lẽ dĩ nhiên đã trở thành bài tủ của nhiều ca sĩ.

Hầu như tất cả các ca sĩ tên tuổi đều đã từng ghi dấu ấn của mình trên ca khúc này, từ Frank Sinatra, Celine Dion, Mariah Carey, Beyonce, cho đến Placido Domingo, Josh Groban, hay nhóm Celtic Women, nhóm tứ ca Il Divo…


Bệ phóng cho các ca sĩ đời sau

Từ lúc ra đời đến nay, Bên kia cầu vồng cũng đã góp phần giúp nhiều người trở thành nổi tiếng. Một trường hợp rõ ràng nhất là ca sĩ kiêm nhạc sĩ người gốc đảo Hawaii : Israel Kaanoi Kamakawiwoole.

Sinh năm 1959, chết năm 1997, người thường được gọi là Iz Kamakawiwo đã được biết đến với album Facing Future ra mắt năm 1993. Nhưng bài hát giúp anh nổi tiếng thế giới lại là một liên khúc trong album đó : “Somewhere Over The Rainbow/What A Wonderful World”.

Khi được tung ra ở châu Âu, CD single của liên khúc này đã đứng đầu bảng xếp hạng đĩa bán chạy nhất tại Pháp trong năm 2011, và đứng đầu danh sách Ultratop 40 của Bỉ trong năm tuần liên tiếp. Đó là không kể đến các thứ hạng danh dự ở Đức, Áo, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ…

Dòng nhạc Jazz cũng không quên Over the Rainbow. Có hai ca sĩ một già một trẻ đã từng được xem là thể hiện bài hát này rất đạt.

Phiên bản do ca sĩ da đen thiên tài nhạc jazz Ray Charles trình bày lần đầu tiên năm 1963 từng được xem là mẫu mực của Over the Rainbow hát theo phong cách Jazz.

Theo chân Ray Charles còn có biết bao ca nhạc sĩ khác, nhưng gây được nhiều ấn tượng gần đây là nữ danh ca Canada rất trẻ Nicole "Nikki" Yanofsky, sinh năm 1994.

Nổi tiếng qua bài hát “I Believe” tại lễ khai mạc Thế vận hội Mùa Đông 2010 ở Vancouver, cô đã có dịp xuất thần thể hiện giai điệu tràn đầy lạc quan Over the Rainbow vào mùa hè năm 2011. Tại Festival Jazz ở Montreux Thụy Sĩ, cùng với nhạc sĩ nổi danh Quincy Jones, Nikki đã tái hiện ca khúc Over the Rainbow một cách tài tình, chẳng thua gì phiên bản của Ray Charles.

Một trùng hợp rất ngẫu nhiên : Khi Judy Garland lần đầu tiên cất lên ca khúc này, cô chỉ mới 17 tuổi. Gần ba phần tư thế kỷ sau, Nikki cũng được khen ngợi nhờ bài hát đó ở độ tuổi 17.

Giới ca nhạc sĩ Pháp dĩ nhiên cũng bị ca khúc Over the Rainbow thu hút. Nam danh ca Eddy Mitchell chẳng hạn đã cùng với nữ ca sĩ Mỹ Melody Gardot song ca một phiên bản “rất jazz” của tác phẩm này dưới tựa đề Derrière L'arc-En-Ciel-Over the Rainbow.

Bài ca với Eddy Mitchell hát bằng tiếng Pháp và Melody Gardot bằng tiếng Anh, đã được lồng vào album Grand Ecran do Eddy Mitchell phát hành vào năm 2009.

Trở lại với cách thể hiện có thể gọi là truyền thống hơn của ca khúc Over the Rainbow, không thể không nhắc đến nữ danh ca Pháp Nolween Leroy. Cô đã xuất thần lột tả được tinh thần của bài hát vào tháng Tư năm 2011 nhân chương trình truyền hình khởi động đợt quyên góp thường niên tại Pháp để gây quỹ chống bệnh Sida Sidaction.

Có thể nói là tài nghệ của Nolwenn, kèm theo thông điệp lạc quan của bài hát đã mang lại một nguồn hy vọng to lớn cho những người đang trông chờ vào một phép mầu để khỏi bệnh.

Judy Garland - Over The Rainbow
http://www.youtube.com/watch?v=1HRa4X07jdE


viethoaiphuong
#267 Posted : Monday, April 8, 2013 1:12:58 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Lễ trao Giải thưởng Nhạc đồng quê ở Las Vegas



Eric Church trình diễn tại buổi lễ trao giải thưởng nhạc đồng quê

VOA - 07.04.2013
Các ngôi sao nhạc đồng quê đang có mặt ở Las Vegas để dự buổi trao Giải thưởng Nhạc Đồng quê.

Nhiều tên tuổi hàng đầu của làng nhạc đồng quê sẽ trình diễn hoặc xuất hiện tại buổi lễ trao giải hàng năm lần thứ 48.

Tuy nhiên giây phút được nhiều người chờ đợi sẽ là phần trình diễn chung của ca sĩ Garth Brooks và George Straight. Brook và Strait, 2 ca sĩ nhạc có số album bán ra hàng đầu cho dù thuộc thể loại nào, chưa bao giờ trình diễn chung với nhau.

Trong danh sách đề cử năm nay Eric Church và Hunter Hayes dẫn đầu. Chuch được đề cử 7 giải và Hayes 6 giải. Album Chief của Chuch được đề cử 2 năm liên tiếp. Các album khác sẽ tranh giải lần này là album Red của ca sĩ Taylor Swift, album Blown Away của ca sĩ Carrie Underwood, album Tailgates & Tanlines của Luke Brayan và album Tornado của ban nhạc Little Big Town.

Hai ca sĩ Blake Shelton và Miranda Lambert cũng sẽ có mặt tại lễ trao giải, bảo vệ danh hiệu nam ca sĩ và nữ ca sĩ trong năm.
viethoaiphuong
#268 Posted : Sunday, April 14, 2013 10:47:41 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Chủ nhật 14 Tháng Tư 2013
"Bước nhảy ngạo nghễ" : Clip mới gây xôn xao của ca sĩ Psy


Ca sĩ Psy (phải) với điệu « Gentleman »,
10 triệu người xem trang Youtube, chỉ 24 giờ sau khi được đưa lên mạng.
REUTERS/Lee Jae-Won

Minh Anh
Ca sĩ Psy của Hàn Quốc lại một lần nữa gây xôn xao cộng đồng cư dân mạng. Hôm qua, thứ bảy 13/4/2013, Psy đã cho tung lên mạng clip video mới mang tựa đề “Gentleman”, được thể hiện trong buổi trình diễn ca nhạc. Chương trình này cũng được phát lên mạng miễn phí.
Frederic Ojardias, thông tín viên đài RFI cho biết cụ thể:

“Thành công của bài hát đầu tiên đã không làm thay đổi cách sáng tác nhạc của Psy: tuy là chàng ca sĩ Hàn Quốc này có pha lẫn ít từ tiếng Anh trong bài hát mới của mình, nhưng nó cũng không làm mất đi cách diễn đạt của anh và anh vẫn tiếp tục trò trêu tức thiên hạ.

Clip “Gentleman” cho thấy cảnh anh ta đang nhún nhảy lúc lắc cái hông trên đường phố và tại các cửa hàng ăn uống của Seoul, cũng với gu nhạc khôi hài đã làm nên tên tuổi của anh. Lần này, trước 50.000 khán giả trên sân vận động Seoul và 130 000 người hâm mộ trên Youtube, Psy lại đem đến cho người xem một điệu nhảy mới được mệnh danh là “bước nhảy ngạo nghễ”.

Trên trang Youtube của Psy, các lời bình phẩm nối đuôi nhau đủ kiểu và bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, cho thấy là chàng nghệ sĩ Hàn Quốc này đã trở thành một hiện tượng văn hóa của thế giới đến mức nào. Như cũng không quên đến mối căng thẳng hiện nay với người anh em phía Bắc, trước buổi biểu diễn, Psy đã hứa rằng sẽ cố gắng để gây đủ ồn ào đến tận biên giới phía bắc. Anh nhắc lại rằng công việc của anh là làm cho mọi người cười, kể cả người Bắc Triều Tiên."
viethoaiphuong
#269 Posted : Tuesday, April 16, 2013 7:33:00 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


Clip Gentleman của ca sĩ Psy, đã có hơn 82 triệu lượt người xem vào thứ Ba


Psy với điệu nhảy "Gentleman"

HTMT cập nhật tin tức Pháp - Reuters – 16.4.2013
TOKYO (Reuters) - clip mới ra mắt của ca sĩ Psy Hàn Quốc "Gentleman", vào thứ Ba đã có hơn 82 triệu lượt người xem trên YouTube, tiếp nối sự thành công của ca khúc "Gangnam Style" trình làng vào mùa thu năm ngoái.

"Gangnam Style", đã đạt kỷ lục về số lần truy cập trên YouTube với hơn 1,5 tỉ lượt người xem, khiến chỉ trong thời gian rất ngắn ca sĩ Psy trở thành ngôi sao hoàn vũ.

Video "Gentleman" đã được hơn 20 triệu lượt người xem trong vòng 24 giờ sau khi ra mắt vào tối thứ Bảy, và đã dễ dàng vượt qua con số 8 triệu lượt người xem YouTube "Boyfriend" của ca sĩ Justin Bieber người Canada, trước đây được coi là kỷ lục về số người xem trong 24 giờ đầu tiên.

Elaine Lies, Faye Eric viết cho độc giả Pháp


PS.
hiện giờ số lượt người xem U-tube đã là : 94,720,162

viethoaiphuong
#270 Posted : Monday, April 22, 2013 10:09:43 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Thứ hai 22 Tháng Tư 2013
Bài hát chính thức cho lễ đăng quang Quốc vương Hà Lan bị thu hồi


Nữ hoàng Beatrix thoái vị, nhường ngôi lại cho Thái tử Willem-Alexander
(REUTERS)

Thụy My
Tác giả bài hát chính thức được chọn trình bày trong lễ đăng quang tân vương Hà Lan là Willem-Alexander vào ngày 30/04/2013 tới đã rút lui, do bài hát này sau khi được phổ biến đã gây ra một làn sóng chỉ trích và chế giễu dữ dội.

Tối thứ Bảy 20/04/2012, nhà soạn nhạc mang hai giòng máu Hà Lan và Anh đã viết trên trang Facebook của mình : « Các đồng bào thân mến, sau khi lại phải chặn một lời thóa mạ mới trên tài khoản Twitter của tôi, tôi không thể nào chịu đựng được nữa. Rất xin lỗi đối với những ai cho rằng bài hát này là thích hợp (…) nhưng nay thì tôi xin rút lại bài Koningslied (Bài hát của Quốc vương) ».

Nhạc sĩ chúc « thành công rực rỡ » cho những ai trình bày một trong số những bài hát không chính thức, được viết ra trong dịp tân vương lên ngôi thay cho Nữ hoàng Beatrix đã thoái vị.

Hàng chục ngàn người Hà Lan đã bày tỏ sự bất bình, nhất là trên các mạng xã hội, từ hôm thứ Sáu 19/4 khi nhạc phẩm trên được phổ biến – một sự pha trộn giữa nhạc bình dân, hợp xướng và nhạc rap. Một bản kiến nghị trên mạng bác bỏ bài hát được cho là « ngu xuẩn » này đã thu thập được trên 38.000 chữ ký.

Bài hát dài hơn 5 phút, được 51 nghệ sĩ Hà Lan trình bày, trong đó có một số ca sĩ ngôi sao. Theo dự định ban đầu, các nghệ sĩ sẽ tập hợp lại vào ngày 30/4 để trình diễn tại Rotterdam, và người dân cả nước được mời theo dõi.

Ủy ban quốc gia phụ trách tổ chức buổi lễ đăng quang của vua Willem-Alexander tuyên bố thất vọng trước sự rút lui của nhà soạn nhạc, nhưng cũng nhấn mạnh là rất thông cảm với ông. Thông cáo được hãng tin ANP trích dẫn cho biết : « Ý định mừng Quốc vương lên ngôi vào ngày 30/4 bằng một bài hát vẫn tồn tại. Ủy ban sẽ cùng với đài truyền hình quốc gia Hà Lan tìm ra một giải pháp ».

Ủy ban đã họp lại hôm Chủ nhật 21/4, một tuần truớc thời điểm đăng quang. Đây là sự kiện mà người dân Hà Lan không có dịp chứng kiến kể từ khi Nữ hoàng Beatrix lên ngôi vào năm 1980.

Lời của bài hát trên đây đã gây phẫn nộ và châm biếm từ công chúng. Chẳng hạn : « Ta xây dựng một con đê với đôi bàn tay trần, ta ngăn lại nước », hay « Qua mưa gió, ta vẫn ở gần ngươi, ta bảo vệ ngươi chống lại tất cả những gì xảy đến. Ta canh giấc cho ngươi, bảo vệ ngươi trước giông bão, giữ an ninh cho ngươi đến bao giờ ta còn hơi thở ».

Một người dân bực tức nói : « Bài ca tạo cảm tưởng Willem-Alexander là một loại Thượng đế, chúng tôi là những thần dân mà ông trao tặng cuộc sống ! ». Nhận xét này tiêu biểu cho những người Hà Lan luôn gắn bó với một xã hội bình đẳng.

Giáo sư xã hội học Johan Heibron cho biết, trong số những người đả kích bài hát của John Ewbank kịch liệt nhất, có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức nhất của xã hội Hà Lan. Ông nói với AFP : « Họ nghĩ rằng bản nhạc ấy ở dưới các tiêu chuẩn có thể chấp nhận được ».
viethoaiphuong
#271 Posted : Friday, April 26, 2013 7:13:03 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ SÁU 26 THÁNG TƯ 2013
Blanca Li, 20 năm sự nghiệp biên đạo múa


Nhà biên đạo múa Blanca Li (DR)

Tuấn Thảo
Cách đây đúng 20 năm, nhà biên đạo múa Blanca Li thành lập một đoàn múa ballet hiện đại tại Paris. Từ đó cho tới nay, cô đã sáng tác 12 vở múa và đã dựng 10 vở kịch opera, dưới dạng sáng tác riêng hay hợp tác chung với các nhà đạo diễn danh tiếng. Trong tháng này, tác phẩm mới của cô đề tựa Elektro Kif được trình làng tại nhà hát La Cigale ở Paris.

Trước khi chọn nước Pháp làm quê hương thứ hai, Blanca Li - người Tây Ban Nha sinh năm 1964 - từng được đào tạo trong vòng 5 năm tại New York và tốt nghiệp trường múa Martha Graham. Vở múa đầu tiên của Blanca Li ra đời vào năm 1993 và được biểu diễn trong khuôn khổ liên hoan sân khấu kịch nghệ Avignon. Trong nhiều năm liền, cô không ngừng hợp tác với các trường dạy múa cũng như các nhà hát lớn để chuyển thể phóng tác các vở kịch trứ danh như Don Giovanni cho nhà hát Metropolitan Opera thành phố New York, vở Guillaume Tell cho nhà hát Opéra Bastille, vở Shéhérazade cho nhà hát Opéra Garnier .

Bên cạnh đó, còn có những sáng tác mới trong khuôn khổ của các liên hoan nghệ thuật múa Montpellier, liên hoan thành phố Lyon tổ chức hai năm một lần (biennale), hay festival kịch tại nhà hát lớn thành phố Nancy. Nổi tiếng trong làng biên đạo múa quốc tế từ năm 1999 nhờ vở múa Macadam, cô Blanca Li chuyên kết hợp nhiều ngôn ngữ biểu hiện khác nhau trên cùng một sân khấu. Ý tưởng này đã manh nha từ những năm tháng đầu đời, qua việc kết hợp vũ điệu flamenco với nhạc rap từ thời cô còn học múa tại New York.

Trong vở múa Un Tango pour Monsieur Lautrec (Bài tango cho danh họa Lautrec), cô dùng vũ điệu La tinh để minh họa cho cảm hứng sáng tác của danh họa người Pháp. Trong vở Indes Galantes, Blanca Li dung hòa các động tác múa hiện đại với nghệ thuật âm nhạc baroque.

Có người từng so sánh cách tiếp cận ngôn ngữ múa của Blanca Li như một chiếc quạt nan : một khi xếp lại, tác phẩm trong tổng thể có lối dẫn dắt trung thành với tuyến truyện, đến khi xòe ra, nó lại thể hiện cho một góc nhìn mở rộng 180 độ, đa dạng trong lối biểu hiện, phong phú trong cách dùng chi tiết và thường dung hòa những bộ môn nghệ thuật mà thoạt nhìn khó thể kết hợp lại với nhau.

Nhưng điều gì đã thúc đẩy Blanca Li chọn nghề múa thay vì các bộ môn nghệ thuật khác ? Theo lời kể của Blanca Li, nhân một cuộc phỏng vấn trên đài RFI, ban tiếng Pháp, thì cô chọn nghề này không phải là vì cô mê một diễn viên múa, mà chủ yếu vì cô đã được dịp xem một bức tranh đồ sộ. Họa phẩm mà Blanca Li có rất nhiều ấn tượng từ thời còn nhỏ là bức tranh bộ ba đề tựa Le Jardin des Délices, tạm dịch là Vườn địa đàng của danh họa Hà Lan Jérôme Bosch.

Trong tiếng Anh, bộ tranh này được gọi là The Garden of Earthly Delights. Còn danh họa Jérôme Bosch tên thật là Hieronymus van Aken, sinh vào khoảng những năm 1450, mất vào năm 1516, là một họa sĩ thuộc phong trào hậu gothic, tiền Phục Hưng. Sinh thời, ông nổi tiếng là người chuyên vẽ về các chủ đề tôn giáo nhưng không tuân thủ phong cách truyền thống mà lại biểu hiện đề tài một cách bí ẩn, kỳ dị, đến nỗi sau này nhà phân tâm học nổi Carl Jung gọi ông là bậc thầy của bút pháp ma quái. Nhà biên đạo múa Blanca Li cho biết cảm nhận của cô về bức tranh này.

Lần đầu tiên tôi được dịp xem bức tranh Le Jardin des Délices của danh họa Jérôme Bosch là tại Viện Bảo tàng Quốc gia El Prado, tại thủ đô Madrid. Lúc đó tôi còn nhỏ và bức tranh đã để lại cho tôi một ấn tượng rất sâu đậm, bởi vì trong mắt của trẻ thơ, bức tranh này giống như một quyển sách mở, một câu chuyện cổ tích mà đứa bé nào cũng thích được nghe kể lại. Bức tranh này là tác phẩm bộ ba (triptyque), phía bên trái vẽ chốn Thiên Đường, bức tranh trung tâm là cõi Trần Gian và tấm bên phải vẽ cõi Địa Ngục. Tác phẩm này có nhiều màu sắc và nhân vật, nó làm cho tôi thích thú ngạc nhiên, nhưng trong nơi chốn thần tiên vẫn có một chút gì sợ hãi.

Tôi đã được dịp xem lại bức tranh này nhiều lần và cứ mỗi lần tôi lại khám phá nhiều chi tiết mới. Tôi có cảm tưởng là bức tranh này thay đổi với thời gian hay nói cho đúng hơn là càng lớn lên và càng có kinh nghiệm sống, thì cảm nhận của tôi với tác phẩm này lại càng thay đổi. Ấn tượng của bức tranh này mạnh đến nỗi, khi tôi bắt đầu vào nghề múa, tôi tự nhủ là một ngày nào đó tôi sẽ biên kịch một vở múa ballet gợi hứng từ bức tranh. Mãi đến năm 2009, tôi mới hoàn tất điều mà mình ấp ủ từ lâu. Vở múa xung quanh chủ đề Le Jardin des Délices đã được diễn lần đầu tiên trong khuôn khổ Liên hoan nghệ thuật múa đương đại của thành phố Montpellier, miền nam nước Pháp và tác phẩm vẫn được trình diễn trên sâu khấu cho tới giờ này.

Tính đa dạng trong cách biên đạo múa của Blanca Li có lẽ đã bắt nguồn từ thuở ấu thơ. Thời còn nhỏ, cô sinh ra tại vùng Andalucia, nơi mà các bộ môn nghệ thuật từ bao đời đã thấm nhuần ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Các động tác múa do không bị rào cản bởi ngôn từ, cho nên được xem là một bộ môn nghệ thuật không biên giới. Điều đó giải thích vì sao Blanca Li đã sinh sống và làm việc tại nhiều nơi New York, Sevilla, Berlin, Paris. Blanca Li nhắc lại những kỷ niệm với những nơi chốn cô từng quen biết.

Những kỷ niệm đầu tiên dĩ nhiên là với thành phố Granada , ở vùng Andalucia. Đó là nơi mà tôi đã sinh ra và sống với gia đình tôi thời thơ ấu. Năm tôi lên tám, bố tôi thay đổi việc làm nên cả gia đình dọn về thủ đô Madrid sinh sống trong vòng 9 năm. Thời niên thiếu tôi đã luyện tập bộ môn Thể dục Dụng cụ và từng tham gia đội vận động viên quốc gia Tây Ban Nha. Năm 17 tuổi, tôi rời gia đình sang New York tầm sư học đạo. Tôi học múa tại trường Martha Graham và thường xuyên lui tới các khoá đào tạo của các trường dạy múa như Alvin Ailey, Paul Sanasardo và Clark Center . Có thể nói là vào lúc đó tôi rất say mê học hỏi, mỗi ngày học múa trong 8 tiếng đồng hồ liên tục, vì tôi quan niệm rằng tôi có rất nhiều may mắn, để đeo đuổi nghề mà tôi yêu thích.

Tôi đã học hỏi được rất nhiều điều trong khoản thời gian 5 năm sống ở New York. Tôi khám phá nhạc jazz, nhạc hip hop và tình yêu đầu đời. Do vậy mà tôi có rất nhiều kỷ niệm đẹp với New York . Sau khi lập gia đình, chồng tôi nhận công tác mới nên buộc phải trở về châu Âu. Chúng tôi chọn nước Pháp làm nơi để lập nghiệp từ năm 1992, quyết định này phần lớn là do cơ hội nghề nghiệp, vả lại vào thời đó, không dễ gì có được một visa làm việc tại Hoa Kỳ. Rất nhiều người thường hỏi tôi là vì sao tôi chọn nghệ danh là Blanca Li, họ Li phải chăng là một cái tên gọi tiếng Hoa. Thật ra tôi tên là Blanca Guttierez, còn Li là họ của chồng tôi, anh ấy là người gốc Hàn Quốc. Tôi chọn Blanca Li làm nghệ danh vì tên gọi này cũng khá dễ nhớ.

Kể từ giữa những năm 1990 trở đi, Blanca Li trở thành một trong những cánh chim đầu đàn trong việc kết hợp hip hop với các bộ môn nghệ thuật khác. Vào thời cô sang thành phố New York để học múa, Blanca Li đã sống tại khu phố Spanish Harlem, nơi mà đa số cư dân là người thuộc cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha, nơi mà các luồng ảnh hưởng văn hóa được dung hòa với nhau, từ flamenco cho đến rap, từ hip hop cho đến salsa.

Thời gian tôi sống ở New York, tôi đã khám phá phong trào hip hop và cảm thấy gần gũi với các động tác nhảy múa gắn liền với dòng nhạc này. Khi tôi đến Pháp vào đầu những năm 1990, tôi nhận thấy là phong trào hip hop đã không ngừng biến chuyển, từ một ngôn ngữ biểu hiện xuất phát từ đường phố dần dần trở thành một hình thức nghệ thuật. Vào năm 1999, tôi sáng tác vở múa Macadam, kết hợp hip hop với các kiểu múa hiện đại khác. Giờ đây, hip hop đã trở thành một bộ môn hẳn hoi với nhiều trường phái và cách diễn đạt khác nhau. Một số trường lớp cũng đã bắt đầu giảng dạy bộ môn này như một ngôn ngữ múa hiện đại.

Các nhà hát lớn cũng như các đoàn múa ballet như Lyon hay Montpellier mở cửa tiếp đón hình thức nghệ thuật này, hay đưa vào trong répertoire của các tác phẩm biểu diễn. Điều mà tôi rất thích trong hip hop là bộ môn này không ngừng biến chuyển thay đổi, các diễn viên múa hip hop thường thử nghiệm những động tác mới. Hiện giờ, tôi làm việc với một nhóm diễn viên múa hip hop. Thể loại mà họ chuyên biểu diễn là những kiểu múa gắn liền với dòng nhạc điện tử electro dance. Nhóm này gồm tám diễn viên, chúng tôi làm việc với nhau để cho ra đời một vở múa mới, tràn đầy năng lực và sinh khí.

Từ hai mươi năm qua, đoàn múa của Blanca Li đã tổ chức nhiều xưởng sáng tác. Để kỷ niệm 20 năm sự nghiệp, cô sẽ tham gia Ngày hội của nghệ thuật múa (La fête de la Fanse) vào mùa thu 2013 tại viện bảo tàng Grand Palais. Cách thức vận hành của đoàn múa tựa như một lò đào tạo các diễn viên, nhưng đồng thời giống như một phòng thí nghiệm tìm tòi các động tác mới. Vở múa Elektro Kif đang được trình diễn tại nhà hát La Cigale ở Paris, gồm 8 diễn viên múa nhưng tất cả đều là nghiệp dư, gặp ở ngoài đường phố, chứ không tuyển lựa qua các buổi diễn tập thử. Blanca Li cho biết :

Điều làm cho tôi thích thú khi làm việc chung với các diễn viên múa trẻ tuổi là tuổi trẻ có một niềm đam mê rất lớn. Một sự khao khát học hỏi vượt ngoài sức tưởng tượng của bản thân. Niềm say mê đó thúc đẩy họ không ngừng luyện tập trau dồi cho đến khi nào động tác múa, cách biểu diễn trở nên thuần thục nhuần nhuyễn. Họ làm cho tôi nhớ lại cái thời mà tôi còn trẻ, khi chân ướt chân ráo đến thành phố New York và bắt đầu học múa.

Niềm say mê đó lớn đến nỗi tôi có cảm tưởng như lúc nào mình cũng bị ám ảnh, buổi sáng thức dậy hay buổi tối đi ngủ đều nghĩ tới nghệ thuật múa. Nhìn các diễn viên múa trẻ tuổi mà tôi chợt bắt gặp mình, bởi vì cái niềm say mê đó thời trước là của tôi và giờ đây là của họ. Theo tôi nghĩ thì tuổi trẻ vào thời nào cũng vậy, đam mê chính là cái động lực thôi thúc chúng tôi, khiến cho bản thân mình có cảm tưởng là với hai bàn tay, ta có thể chuyển dời cả một ngọn núi.
viethoaiphuong
#272 Posted : Saturday, May 4, 2013 12:16:18 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ BẢY 04 THÁNG NĂM 2013
Michael Bublé, mười năm đỉnh cao sự nghiệp



Tuấn Thảo
Cách đây mười năm, ca sĩ kiêm tác giả Paul Anka từng nhận xét rằng, trong số các giọng ca trẻ crooner thời đại, Michael Bublé là gương mặt sáng giá nhất. Nhận xét của ông vào một thập niên trước tựa như một lời tiên đoán : vào năm 2013, tức 10 năm sau, Michael Bublé là giọng ca ăn khách nhất của dòng nhạc pop jazz.

Tác giả Paul Anka là người viết lời tiếng Anh cho nhạc phẩm My Way và đã soạn nhiều ca khúc kinh điển cho làng nhạc Anh Mỹ. Ông nói như thế không phải chỉ vì có thiện cảm với người đồng hương : Cả hai đều là người Canada, Paul Anka sinh trưởng tại Ottawa, bang Ontario, còn Michael Bublé có nguyên quán ở bang British Columbia. Sở dĩ Paul Anka nhận xét như vậy vì ông thật sự nghĩ rằng Michael Bublé là một trong những người thừa kế xứng đáng của Giọng ca vàng Frank Sinatra.

http://www.youtube.com/w...edded&v=QVkL6VMVJto

Vào năm 2003, Michael Bublé đã trình làng album đầu tiên do tập đoàn Warner Bros chính thức phát hành. Gọi là album đầu tiên chứ không phải là đầu tay vì trước năm 2003, anh đã tự sản xuất và tự phát hành hai tập nhạc (mang tựa đề Babalu và Dream). Tính đến nay, anh đã có 8 album ghi âm ở phòng thu, trong đó có 6 tập nhạc do một hãng đĩa lớn phát hành. Album gần đây nhất vừa được trình làng hồi tháng Tư năm 2013.

Với tựa đề To Be Loved (Để được yêu), album mới nhất của Michael Bublé đánh dấu một bước ngoặt khá quan trọng. Đây là lần đầu tiên, anh thay đổi êkíp làm việc và không còn hợp tác với nhà sản xuất David Foster. Được mệnh danh là bàn tay phù thủy, nhà sản xuất David Foster đã góp phần làm nên tên tuổi của nhiều ca sĩ trong đó có Celine Dion, Andrea Bocelli Josh Groban, ban nhạc Il Divo, các album của Michael Bublé và gần đây hơn nữa là hai tập nhạc của Seal. Hiện giờ, ông là giám đốc của hãng đĩa Verve.


Trên album mới, Michael Bublé đã chọn làm việc với nhà sản xuất Bob Rock, người chuyên hoà âm cho các nhóm nhạc metal rock như Iron Maiden, Aerosmith và The Offspring. Tập nhạc To Be Loved ra đời từ sự hợp tác này, chẳng những khoác áo mới cho các tình khúc vang bóng một thời, mà còn thay đổi phong cách thể hiện của Michael Bublé, cứng cựa và gân cốt thay vì lả lơi vuốt chữ, nhún nhảy và bay bổng, lối ngắt câu nhã chữ cũng thay đổi theo từng đoạn nhấn nhịp. Tiêu biểu nhất là nhạc phẩm To Love Somebody, nguyên tác của nhóm The Bee Gees.

Michael Bublé phá cách nhưng vẫn giữ được cái cốt. Đây không phải là lần đầu tiên anh ghi âm lại (cover) một ca khúc của nhóm Bee Gees, trước đó anh đã từng hát nhạc phẩm How Deep Is Your Love với nữ ca sĩ Kelly Rowlands (một trong ba thành viên trước đây của Destiny’s Child). Nhưng giữa hai phiên bản cover này có một sự khác biệt lớn. How Deep Is Your Love thì được phối khí mềm mại khoan thai theo kiểu bossa nova, còn To Love Somebody thì chuộng lối hòa âm chắc nhịp, làm cho người nghe liên tưởng đến cách biểu hiện của những nghệ sĩ da màu cực thịnh vào thời Tamla Motown.


Album của Michael Bublé xen kẽ 10 bản cover và 4 sáng tác mới. Trong số các bài ghi âm lại có những ca khúc ăn khách trước đây của Dean Martin, Elvis Presley, Frank Sinatra … Sau khi đóng vai June Carter trong bộ phim kể lại cuộc đời của nhạc sĩ Johnny Cash, nữ diễn viên điện ảnh Reese Witherspoon đã được Michal Bublé mời hát chung nhạc phẩm Something Stupid. Bài này từng được Frank Sinatra ghi âm với con gái Nancy Sinatra, và Robbie Williams cũng song ca nhạc phẩm với Nicole Kidman.

Được ghi âm với một dàn nhạc lớn (big band), rồi hòa âm phối khí lại theo nhiều nhịp điệu khác nhau, album pha trộn xen kẻ nhiều thể loại âm nhạc, có cả nhạc soul lẫn rock, pop và jazz. Việc mở rộng âm vực tựa như một bức chụp quang phổ cho thấy khả năng diễn đạt của Michael Bublé, chất giọng của anh có nhiều âm sắc tinh tế và biến chuyển theo từng thể loại âm nhạc. Trước kia, anh đã có sẵn chất mềm bóng thủy, giờ đây anh truyền vào nước nhiệt độ của lửa.


Tập nhạc To Be Loved thành công trong việc mở rộng repertoire của nam ca sĩ người Canada, thay đổi một chút cái hình ảnh con nhà lành, Michael Bublé có vẻ bụi đời hơn trước. So với những album của thời kỳ hợp tác với nhà sản xuất David Foster, thì album này không trơn tru, gẫy gọn. Lối hòa âm không quá đỗi trau chuốt, kỹ lưỡng đến nỗi mà âm thanh tuy đẹp mà trở nên vô cảm.

Album To Be Loved cho thấy một góc độ khác lạ của giọng ca Michael Bublé nhưng chưa dứt khoát triệt để, hầu đẩy giọng ca của Michael Bublé lên một tầm mức cao hơn nữa. Sự va chạm giữa một bên là pop jazz và một bên là metal rock, chỉ mới làm lóe lên một chút ánh sáng, chứ chưa vụt bay tia chớp nẩy lửa.

Michael Bublé - "To Love Somebody"
http://www.youtube.com/w...bedded&v=8NaYf8F8V1A
viethoaiphuong
#273 Posted : Saturday, May 11, 2013 7:44:40 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ BẢY 11 THÁNG NĂM 2013
Josh Groban tôi luyện hóa vàng chất giọng trời ban


Josh Groban trình làng album thứ sáu "All That Echoes" (DR)

Tuấn Thảo
Trong số các tên tuổi của dòng nhạc pop cổ điển, Josh Groban là giọng ca có cách luyện thanh nhuần nhuyễn nhất. Từ khi vào nghề ca hát cho tới nay, anh đã bán hơn 25 triệu album. Tập nhạc thứ sáu mang tựa đề "All That Echoes", phát hành đầu năm 2013, thiên về pop nhiều hơn là cổ điển. Lối phối khí giao hưởng chuộng bộ đàn dây, lót thảm trải mềm cho Josh Groban ngân câu nhã chữ.

Tên thật là Joshua Winslow Groban, anh sinh năm 1981 tại Los Angeles, California trong một gia đình gốc Do Thái di cư sang Mỹ từ đời trước. Thân phụ của anh là một doanh nhân có hai dòng máu Nga và Ba Lan, còn thân mẫu là một giáo viên người gốc Na Uy. Cậu bé Joshua lớn lên trong một gia đình tuy không phải là nghệ sĩ nhưng lúc nào cũng khuyến khích con cái trao dồi năng khiếu nghệ thuật.

Từ thời niên thiếu, Joshua vẫn nuôi mộng đeo đuổi con đường sân khấu, nhưng là sân khấu kịch nghệ nhiều hơn là sân khấu ca nhạc. Thời gian học cấp phổ thông, cậu bé đã bắt đầu theo học các lớp chuyên ngành, buổi sáng học chữ, buổi chiều học kịch.

Đến năm 15 tuổi, Joshua tham gia trong hai năm liền trại hè sáng tác nghệ thuật bang Michigan (Interlochen Center for the Arts), nơi giảng dạy nhiều bộ môn từ kịch nghệ đến điện ảnh, từ âm nhạc đến hội hoạ, từ nghệ thuật tạo hình đến múa ballet hiện đại. Các lớp học mùa hè được tổ chức theo từng nhóm và xưởng sáng tác (workshop). Nếu như không có sự lôi kéo của những bạn bè cùng trang lứa, thì có lẽ Joshua sẽ chẳng bao giờ ghi tên vào các lớp luyện thanh. Thay vì đơn thuần học cách diễn kịch nói, anh sẽ học thêm nhạc kịch.

Chính trong những khóa luyện thanh này, Joshua mới khám phá mình có một chất giọng thiên phú, có nhiều sắc màu rung cảm, và linh hoạt uyển chuyển trong độ ngân giọng. Theo lời nhạc sư Seth Riggs, người dạy cách luyện thanh cho Josh Groban, thì chất giọng của anh có âm vực tương đương với những giọng ca baryton cao nhất (baritone trong tiếng Anh), và nhờ vào cách lấy hơi, anh có thể đạt đến những nốt sở trường của một giọng ca tenor.

Hai thầy trò luyện tập cách hát và diễn nhạc kịch, trong đó có bài tủ là All I Ask of You, nhạc phẩm chủ đề của vở ca nhạc kịch The Phantom of the Opera (Bóng ma trong nhà hát). Có thể nói nhạc sư Seth Riggs là người đã thay đổi cuộc đời của Josh Groban, khi ông đưa cuộn băng ghi âm ca khúc này cho nhà sản xuất người Canada David Foster.

Nhờ vào sự dìu dắt của hai tên tuổi này mà tài năng của Josh Groban sau khi luyện tập trong vòng ba năm trời sẽ có cơ hội tỏa ánh sáng ngời. Vào năm 17 tuổi, Josh Groban được mời đi hát trong buổi lễ nhậm chức của thống đốc bang California thời bấy giờ là ông Gray Davis. Nhà sản xuất David Foster đã xiêu lòng trước cách hát của Josh Groban, nhưng vẫn chưa vội lăng xê giọng ca trẻ tuổi này.

Một năm sau đó, Josh Groban vừa đúng 18 tuổi lại được mời đi hát trong buổi diễn tập trước lễ trao giải thưởng âm nhạc Hoa Kỳ Grammy (năm 1999). Trong buổi diễn tập này với Celine Dion, Josh hát phần song ca để thay thế cho danh ca tenor người ÝAndrea Bocelli, nổi danh từ ba năm trước đó. Ban đầu tưởng chừng làm không nổi, nhưng rốt cuộc khi anh cất giọng hát trên sân khấu, thì mọi người đều phải ngạc nhiên thán phục.

Trời ban cho anh giọng ca baryton, nhưng nhờ vào sự dày công luyện tập thì Josh mới mở rộng âm vực, đạt đến tầm vóc của một Andrea Bocelli. Đấy cũng là thời gian anh tốt nghiệp trung học và chuẩn bị vào đại học, theo học khoa kịch nghệ tại trường Carnegie Mellon, tiểu bang Pennsylvania. Sau ba tháng học đại học, Josh bỏ ngành kịch nói và chuyển hẳn sang sân khấu ca nhạc khi anh nhận được hợp đồng ghi âm đầu tiên năm anh tròn 20 tuổi.

Năm 2001 là thời điểm phát hành album đầu tay của Josh Groban và thay vì chọn nhạc kịch, thể loại sở trường của anh lúc bấy giờ, Josh lại chọn dòng nhạc pop cổ điển : các giai điệu đậm chất giao hưởng thì được hòa âm khá mộc, trong khi các bản nhạc pop và thậm chí folk, thì lại chuộng cách phối khí thính phòng.

Album này xen kẽ sáng tác mới với các bản ghi âm lại (cover) trong đó có bài Starry Starry Night, mà tác giả Don McLean đã viết vào năm 1971, sau khi đọc một quyển tiểu sử về danh họa Van Gogh, vì thế mà ca khúc này còn có thêm một tựa đề khác là Vincent. Trong số rất nhiều ca sĩ ghi âm lại bài này, ít có ai diễn đạt biểu cảm bằng Josh Groban.

Hai năm sau ngày phát hành tập nhạc đầu tay, Josh Groban trình làng abum thứ hai đề tựa Closer. Với hơn 6 triệu bản được bán chạy, tập nhạc này giúp cho tên tuổi của Josh Groban đạt đến một tầm vóc quốc tế, phần lớn là nhờ vào sự thành công của nhạc phẩm You Raise Me Up nói về tình mẫu tử.

Ban đầu, ca khúc này là một bản nhạc hoà tấu không lời với tựa đề là Silent Story (Câu chuyện thầm lặng) của nhóm Secret Garden, phóng tác từ một điệu dân ca Ailen. Nhà văn Brendan Graham sau đó đã đặt ca từ cho bài hát này, nhưng khi phát hành vào năm 2002 với giọng ca của Brian Kennedy, thì ca khúc lại không ăn khách như mong đợi.

Mãi đến khi Josh Groban ghi âm lại bài hát, chuyển đổi đôi chút lối hoà âm phối khí (crescendo), thu âm với một dàn đồng ca Phúc Âm (gospel) thì bản nhạc này lại phá kỷ lục số bán. Chỉ riêng trong năm 2004, đã có trên dưới 100 phiên bản ghi âm khác nhau, kể cả phiên bản của hai nhóm Westlife và Il Divo (Por Ti Sere). Bản nhạc này từng được bình chọn làm ca khúc hay nhất trong năm trong thể loại Phúc Âm hiện đại và thánh ca nhà thờ.

Từ đó trở đi, Josh Groban trở thành một trong những tên tuổi nổi bật của dòng nhạc pop cổ điển. Những phiên bản cover do anh hát hát trực tiếp trên sân khấu từ bản nhạc Hallelujah của Leonard Cohen, Caruso của Lucio Dalla cho tới Bridge Over Troubled Water của nhóm Simon & Garfunkel đều rất khá, đôi khi nổi trội hơn so với bản gốc.

Tuy nhiên, cho tới giờ này, ngay với album thứ sáu All That Echoes, Josh Groban cho dù tham gia ngày càng nhiều vào công việc soạn nhạc, nhưng vẫn chưa tìm ra được một ca khúc để đời kinh điển do chính anh sáng tác và thể hiện, để thật sự khẳng định điểm khác biệt của riêng mình, bởi vì đa số các ca sĩ xuất thana từ dong nhạc này đều hát cover.

Điểm son của Josh Groban, ngoài kỹ thuật luyện thanh, còn nằm trong những rung động, xúc cảm mà anh thổi vào trong bài hát, thắm đượm từng ca từ. Trong cách rung giọng (vibrato) của anh, có cả ngâm lẫn ngân. Một sự linh hoạt uyển chuyển giúp cho cách hát khỏe khoắn đầy đặn của anh không kiểu cách làm dáng. Đối với một người mà ban đầu chọn ngành kịch hơn là nghề hát, Josh Groban đã biết dày công tôi luyện, biến đổi thành vàng chất giọng trời ban.

Starry Starry Night -Vincent Van Gogh by Josh Groban
http://www.youtube.com/watch?v=AsJzFwGVF5c
viethoaiphuong
#274 Posted : Sunday, May 19, 2013 2:42:59 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Cây đàn ghitar của Beatles bán được hơn 400 000 đô la


cây đàn ghitar được làm riêng cho John Lennon (1966)
photo 18 - 5 - 2013 /Julien 's Gallery

HTMT cập nhật tin tức Reuters - 19.5.2013 / Yahoo FR
Một cây đàn được làm đặc biệt cho John Lennon vào năm 1966 và cũng được George Harrison sử dụng, đã được mua với giá 408.000 đô la, tại một cuộc bán đấu giá vào hôm thứ 7 qua nhà đấu giá Julien ở New York.

John Lennon đã sử dụng cây đàn ghitar này khi thu video ca khúc "Hello, Goodbye" và George Harrison đã dùng cây đàn trong lúc tập dợt bài "I Am The Walrus" vào thời điểm thực hiện album "Magical Mystery Tour" (1967), theo như nhà đấu giá Julien giới thiệu tại phiên bán đấu giá.

Cây đàn ghitar nầy đã được nhà bán đầu giá Christie bán một vài năm trước đây với gián khoảng gần 100 000 đô la.

Người mua sau cùng không được biết danh tánh.

Alex Dobuzinskis, Jean-Stéphane Brosse viết cho độc giả Pháp


The Beatles: Hello Goodbye
http://www.youtube.com/watch?v=99jVPJUeqr4
viethoaiphuong
#275 Posted : Sunday, May 19, 2013 11:46:06 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Chủ nhật 19 Tháng Năm 2013
Đan Mạch vui mừng trước chiến thắng ở Eurovision


Nữ ca sĩ trẻ tuổi Đan Mạch Emmelie de Forest (giữa)
vui mừng với chiến thắng đạt được trong cuộc thi âm nhạc Eurovision.
Ảnh: REUTERS/Jessica Gow

Thụy My
Cả nước Đan Mạch hôm nay 19/05/2013 hân hoan trước chiến thắng của nữ ca sĩ trẻ đại diện nước này tại cuộc thi Eurovision lần thứ 58. Như vậy là hai năm liên tiếp một nước Bắc Âu tiếp tục đăng quang tại cuộc thi ca khúc truyền hình châu Âu.

Tại Malmö (Thụy Điển), Emmalie de Forest đã giành được chức quán quân, tiếp bước ca sĩ Thụy Điển Loreen, người giành chiến thắng năm ngoái tại Bakou. Đây là lần thứ tư trong vòng tám năm qua, một nước Bắc Âu giành được ngôi vị hàng đầu trong cuộc thi Eurovision, chứng tỏ sự nghiêm túc trong chuẩn bị của các nước này.

Được chọn lựa cẩn trọng sau vòng bán kết thu hút cả nước, các ứng viên người Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển đã chuẩn bị hết sức chu đáo cho việc đối đầu với các đối thủ, nhằm quyến rũ khán giả trên toàn châu Âu trong đêm ứng thí. Năm nay có năm quốc gia lọt vào vòng này.

Với bản balát « Only Teardrops » đầy mê hoặc, phong cách thể hiện giản dị trên đôi chân trần, được hai tay trống và một tiếng sáo phụ họa, nữ ca sĩ 20 tuổi đã chinh phục được nhiều triệu khán giả truyền hình theo dõi trực tiếp cuộc thi. Còn bài hát pop-điện tử của nữ ca sĩ Margaret Berger, Na Uy được xếp thứ tư. Riêng nước Pháp chỉ đứng thứ 23/26.

Đây là lần thứ tư Đan Mạch giành chiến thắng tại Eurovision, cuộc thi ca khúc truyền hình châu Âu thu hút 125 triệu khán giả trên toàn thế giới.

Tại thủ đô Copenhague của Đan Mạch, nhiều ngàn người đã tập họp tại trung tâm thành phố để theo dõi cuộc thi qua màn ảnh truyền hình khổng lồ. Những tiếng reo hò vui mừng, sâm-banh và bia tuôn như suối sau khi chiến thắng được công bố. Không chỉ báo chí, mà các chính khách như Helle Thorning Schmidt – người đứng đầu chính phủ, Marianne Jelved, Bộ trưởng Văn hóa đều lên tiếng chúc mừng và bày tỏ sự hãnh diện trước kết quả.

Bên cạnh đó, nhiều cư dân mạng đã làm giảm sự hào hứng qua những bình luận trên các mạng xã hội về chi phí của sự kiện này, thường là khá lớn. Chính phủ Đan Mạch không tiết lộ số tiền đầu tư cho Eurovision năm nay.

Năm 2013, Thụy Điển đã thực hiện chương trình hấp dẫn trên với ngân sách 125 triệu đồng cua-ron (14,5 triệu euro), mà theo chính phủ nước này là ít hơn 50 lần so với chương trình Eurovision ở Azerbaijan năm ngoái.

viethoaiphuong
#276 Posted : Saturday, May 25, 2013 4:36:01 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Thứ sáu 24 Tháng Năm 2013
Danh ca Pháp Georges Moustaki từ trần


Danh ca Pháp Georges Moustaki 1934-2013
(RFI /Musique)

Tuấn Thảo
Hôm nay, 23/05/2013, danh ca người Pháp Georges Moustaki qua đời vì chứng viêm phổi tại bệnh viện thành phố Nice, hưởng thọ 79 tuổi. Sự nghiệp của ông trải dài trên hơn nửa thế kỷ và lúc sinh tiền, Georges Moustaki đã cống hiến cho làng nhạc Pháp nhiều bản tình ca tuyệt đẹp.

Tên thật là Giuseppe Mustacchi (tiếng Hy Lạp là Iosif Mustacchi), ông sinh ngày 03/05/1934 tại Alexandria, Ai Cập trong một gia đình người Hy Lạp gốc Do Thái. Lớn lên trong một gia đình có nhiều dòng máu, từ thuở thiếu thời, ông đã thấm nhuần ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau (Hy Lạp, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý và Pháp).

Đến Paris lập nghiệp năm ông mới 17 tuổi (1951), ông ban đầu làm việc như một nhà báo. Tiền lương không đủ sống, ông đi làm thêm trong một quán bar piano, và nhờ vậy có sàn diễn để trao dồi kinh nghiệm ca hát và sáng tác. Tên tuổi của ông thật sự cất cánh vào năm 1958, khi ông gặp thần tượng Edith Piaf, và viết cho bà một trong những nhạc phẩm nổi tiếng : Milord.


Từ những năm đầu thập niên 1960 trở đi, Georges Moustaki bắt đầu ghi âm với chính giọng ca của mình, và bên cạnh đó, ông tiếp tục soạn nhạc cho nhiều ca sĩ trứ danh thời bấy giờ như Yves Montand, Serge Reggiani và Barbara. Chính trong giai đoạn này mà ông đã chấp bút sáng tác nhiều bài hát kinh điển như La Dame Brune (Phu nhân dáng huyền), Ma solitude (Nỗi cô đơn), Ma Liberté (Tự do của tôi) và Le Métèque (tạm dịch Lãng tử da màu)

Bài hát này, đậm chất điệu nhạc dân ca Hy Lạp, đã đi vào lòng người và để lại trong tiềm thức công chúng Pháp hình ảnh của một người nghệ sĩ đa tình mà phong trần, với cuộc sống lang thang, nay đây mai đó, ôm đàn mơ mộng đi tìm chất thơ bình dị, diễn đạt qua lời lẽ, ca từ mộc mạc những khoảnh khắc trầm lắng nhất.

Trong vòng 50 năm, Georges Moustaki đã ghi âm trên dưới 20 album, sáng tác hàng trăm ca khúc, nhưng ít khi nào tham gia vào cái cảnh bon chen của làng sân khấu, giải trí. Ông vẫn trung thành với lối sáng tác rất mộc, gần gũi với giới yêu thi ca và nhát là giữ được cốt cách của một nghệ sĩ chân thật, xa lánh chốn xa hoa, bất cần sự lộng lẫy hào nhoáng của danh vọng, siêu sao. Người đã hát "Nỗi cô đơn", rốt cuộc khi từ giã cõi đời, vẫn tìm được sự đồng cảm vang vọng trong biết bao con tim người hâm mộ.

http://www.youtube.com/w...bedded&v=fY8F-DTHnZs
viethoaiphuong
#277 Posted : Wednesday, June 5, 2013 10:53:43 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - Thứ tư 05 Tháng Sáu 2013
Pháp sắp trao Bắc đẩu Bội tinh cho Bob Dylan


Bob Dylan, ảnh chụp ngày 04/05/2011 tại Wiltern Theatre - Los Angeles (Reuters)

Thụy My
Bob Dylan, ca sĩ Mỹ nổi tiếng với những bài hát chống chiến tranh Việt Nam và cổ vũ cho nhân quyền, sẽ được trao tặng Bắc đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Pháp. Người đứng đầu hội đồng xét duyệt đã loan báo như trên hôm Chủ nhật 02/06/2013, tuy đề nghị tặng thưởng của Bộ trưởng Văn hóa có bị một số chỉ trích.

Trên trang web báo Le Monde, tướng Jean-Louis Georgelin, chủ tịch hội đồng xét duyệt Bắc đẩu Bội tinh cho biết Bộ trưởng Văn hóa Aurélie Filippetti rất có thể sẽ trao tặng huân chương cao quý này cho ca sĩ, nhạc sĩ đồng thời là nhà thơ người Mỹ. Ông nói rằng hội đồng đã thuận tình với ý kiến của Tổng thống François Hollande, chủ tịch tối cao của hội đồng xét duyệt về quyết định này.

Hồi tháng Năm, chủ tịch đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia, bà Marine Le Pen đã tuyên bố là cảm thấy bị sốc nếu Bob Dylan được tặng thưởng Bắc đẩu Bội tinh, khi huân chương cao nhất của Pháp « được trao bừa bãi cho bất kỳ ai ». Và tuần báo châm biếm Le Canard Enchaîné số đề ngày 8/5 khẳng định là chính tướng Georgelin không ủng hộ việc này, vì Bob Dylan từng chống chiến tranh Việt Nam và hút cần sa.

Tướng Jean-Louis Georgelin hôm Chủ nhật đã phủ nhận thông tin trên, giải thích rằng ông chỉ bác bỏ việc trao tặng huân chương không thông qua thảo luận trong hội đồng theo thủ tục thông thường. Nay thì hội đồng đã bàn bạc, và nhấn mạnh rằng Bob Dylan « là một nghệ sĩ xuất chúng, được nhìn nhận tại đất nước ông và trên thế giới như một ca sĩ vĩ đại và một nhà thơ lớn ».

Nếu rất hiếm khi một nghệ sĩ ngoại quốc được tặng Bắc đẩu Bội tinh, thì Paul McCartney, một nhạc sĩ rock người Anh hồi tháng 9/2012 cũng đã được Tổng thống Pháp François Hollande gắn huân chương cao quý này.

Còn Bob Dylan hồi tháng 5/2012 cũng đã được Tổng thống Mỹ Barack Obama trao tặng "Huy chương Tự do của Tổng thống", huy chương dân sự cao nhất của Hoa Kỳ. Ông Obama đã ca ngợi ca sĩ nổi tiếng này là « người vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc Mỹ ».
viethoaiphuong
#278 Posted : Friday, June 7, 2013 4:00:33 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
RFI - THỨ SÁU 07 THÁNG SÁU 2013
Lễ Đăng Quang Mùa Xuân tròn 100 tuổi


Le Sacre du Printemps - Lễ đăng quang mùa xuân,
phiên bản của ông Jean Claude Gallotta tại nhà hát Champs Élysées (@Ulli Weis)

Tuấn Thảo
Trong khuôn khổ năm Việt-Pháp, vở múa Le Sacre du Printemps (Lễ Đăng Quang Mùa Xuân) sẽ được đem sang Việt Nam biểu diễn vào cuối tháng Sáu năm 2013. Do nhạc sĩ người Nga Igor Stravinsky sáng tác, đây là một trong những tác phẩm kinh điển của thế kỷ XX. Năm nay, vở múa cũng tròn 100 tuổi, vì tác phẩm đã được diễn lần đầu tiên tại nhà hát Champs Élysées, Paris vào ngày 29/05/1913, tức cách đây một thế kỷ.

Trong chương trình chính thức, vở múa Le Sacre du Printemps được ghi trong tiếng Việt là Nghi Lễ Mùa Xuân, gần giống với tiếng Nga Весна священная và cách dịch tiếng Anh là The Rite of Spring. Đây là một trong những tên gọi thông dụng nhất. Nhưng vào năm 1913, báo chí Anh Mỹ thời bấy giờ đã dịch tựa đề tác phẩm này là The Coronation of Spring, gần sát với ý nghĩa của ngày đăng quang trong nguyên tác Le Sacre du Printemps.

Vở múa này tính đến nay đã có hàng chục phiên bản. Người đầu tiên dựng tác phẩm này trên sân khấu là nhà biên đạo múa Nijinski vào năm 1913. Sau ông, hàng loạt tên tuổi khác của làng múa quốc tế đã thử nghiệm với tác phẩm. Trong các phiên bản đáng ghi nhớ nhất có vở múa của Maurice Béjart (1959), Pina Bausch (1975), Paul Taylor (1980), Martha Graham (1984), Jorge Lefebre (1988), Marie Chouinard (1993), Régis Obadia (2003), Heddy Maalem (2004), Xavier Le Roy (2007), và gần đây hơn có vở múa của Jean-Claude Gallotta (2011).

Năm nay 63 tuổi, ông Jean Claude Gallotta từng tốt nghiệp trường Mỹ thuật thành phố Grenoble. Sau khi ra trường, ông chọn nghề múa ban đầu là diễn viên rồi sau đó chuyển qua ngành biên đạo vì ông đam mê các điệu múa ba lê và thiết hài (tap dance). Thời thanh niên, ông sang New York tầm sư học đạo, thầy của ông là nhà biên đạo múa Merce Cunnigham, được xem như là cánh chim đầu đàn của nghệ thuật múa đương đại.

Ông Jean Claude Gallotta hiện là giám đốc Trung tâm Quốc gia Nghệ thuật Biên đạo múa ở thành phố Grenoble. Đoàn múa của trung tâm này sẽ đến Việt Nam biểu diễn : ngày 27 tháng 6 tại Hà Nội rồi sau đó là 29 tháng 6 tại Sài Gòn. Phiên bản Lễ Đăng Quang Mùa Xuân của nhà biên đạo múa Jean Claude Gallotta được diễn lần đầu tiên tại Paris vào tháng Tư năm 2012, và sau đó đã đi vòng quanh nước Pháp, rồi được đưa sang nước ngoài.

Được phóng tác từ vở múa Le Sacre du Printemps, phiên bản của Jean Claude Gallotta độc đáo ở chỗ ông tìm được một ngôn ngữ múa riêng biệt, khác hẳn với các phiên bản của những người đi trước. Các diễn viên múa thường có những động tác gần sát với mặt đất, họ tựa như những gốc cây cần có mùa xuân để làm bật dậy nhựa tươi sức sống.

Ẩn dụ này được nhân lên gấp đôi khi mà hai hình tượng của mùa xuân và của tác giả Stravinsky được nhập lại thành một : trên sân khấu, các diễn viên múa theo rung động như dây đàn diễn đạt cảm xúc. Mỗi người tựa như là một nhạc khí, phối hợp lại với nhau thành một bản giao hưởng dồn dập lôi cuốn. Ông Gallotta còn mở ra một cuộc đối thoại giữa thời xưa và thời nay, qua việc dựng phần mở đầu để dần dần đưa người xem vào thế giới âm nhạc của Stravinsky mà không hề có gián đoạn.

Điều mà nhà biên đạo múa muốn gửi gấm đến người xem có lẽ là tính chất hiện đại nếu không nói là tiên phong trong tác phẩm Lễ Đăng Quang Mùa Xuân. Tiên phong đến nỗi cách đây một thế kỷ, khi được diễn lần đầu tiên tại Paris, vở múa đã vướng vào búa rìu của dư luận, gây ra nhiều tai tiếng, tranh cãi, và chỉ với thời gian mới được công nhận là một tác phẩm để đời. Về phần nhà biện đạo múa Jean Claude Gallotta, ông cho biết những kỷ niệm của riêng mình với vở múa Le Sacre du Printemps.

Tôi đã khám phá lại tác phẩm của Stravinsky qua tài nghệ chơi đàn của nghệ sĩ Frank Zappa. Tôi dùng chữ khám phá lại bởi vì lần đầu tiên tôi được nghe tác phẩm Le Sacre du Printemps (Lễ Đăng Quang Mùa Xuân) của Igor Stravinsky là vào thời niên thiếu. Lúc đó, tôi học trường nội trú ở thành phố Grenoble, và trong lớp dạy nhạc, thầy của tôi thường cho các học sinh nghe tác phẩm này.

Mỗi lần tôi được nghe Stravinsky, tôi lại ở trong trạng thái mê mẫn mơ mộng, bởi vì dòng nhạc của ông gợi lên trong tâm trí của tôi thế giới của phim ảnh. Đối với tôi, âm nhạc Stravinsky có một nét gì đó rất tượng hình và có tác dụng như một nền nhạc phim. Dường như không phải chỉ có một mình tôi mới cảm nhận được điều đó, bởi vì nhiều nhạc sĩ đã gợi hứng từ Stravinsky để sáng tác nhạc phim. Tôi nghĩ tới lối soạn nhạc của Leonard Berstein cho bộ phim West Side Story hay lối soạn nhạc của Bernard Herrmann cho bộ phim Vertigo của đạo diễn Alfred Hitchcock. (LTS : Bộ phim này trong tiếng Pháp mang tựa đề Sueurs Froides Mồ hôi lạnh, được chuyển thể từ tiểu thuyết của hai nhà văn Pháp Pierre Boileau và Thomas Narcejac).

Đến khi tôi lớn lên, thì tôi mới khám phá tác phẩm của Stravinsky qua cách chơi đàn của Frank Zappa. Sinh thời, nghệ sĩ người Mỹ Frank Zappa rất ngưỡng mộ hai nhà soạn nhạc Igor Stravinsky (Nga) và Edgar Varèse (Pháp), đến nỗi ông phối lại các sáng tác của các bậc thầy để rồi diễn lại trên sân khấu. Cách tiếp cận của Frank Zappa giúp cho tôi hiểu được một điều : dòng nhạc Stravinsky tuy gọi là ‘‘cổ điển’’ nhưng thật ra lại tràn đầy chất hiện đại.

Một trong những phiên bản ghi âm đầu tiên của Le Sacre du Printemps là của nhạc trưởng Pierre Monteux vào năm 1913. Sau ông có nhạc sĩ Piere Boulez và cả hai nhạc sĩ này đã ghi âm lại nhiều lần với các dàn nhạc giao hưởng khác nhau. Phần ghi âm trên băng đĩa có đến hàng trăm phiên bản, và ngay cả nhạc sĩ Igor Stravinsky cũng đã hai lần thu lại tác phẩm của mình. Nhà biên đạo múa Jean Claude Gallotta cho biết vì sao ông đã chọn phiên bản thứ nhì của tác giả người Nga thu thanh vào năm 1960 :

Tôi đã chọn phiên bản Lễ Đăng Quang Mùa Xuân do chính tác giả Stravinsky ghi âm lại vào năm 1960 với dàn nhạc giao hưởng Columbia, bởi vì đây là phiên bản ngắn nhất, ngắn từ ba đến bốn phút so với phần ghi âm của các nghệ sĩ khác. Các nhà biên đạo múa ít khi nào chọn phiên bản này để dựng các vở múa ba lê của họ, nhưng bản thân tôi thì lại rất thích phiên bản do Stravinsky ghi âm vào năm 1960.

Tác phẩm này cô đọng, gãy gọn hơn, tiết tấu nhịp điệu vì thế mà dũng mãnh dồn dập, tràn ngập sinh khí và nhựa sống, hợp với các động tác và ngôn ngữ múa mà tôi muốn biểu hiện. Do tác phẩm này khá ngắn, chưa đầy 40 phút, cho nên vở múa Lễ Đăng Quang Mùa Xuân thường được dựng trên sân khấu cùng với một tác phẩm khác. Tôi thì lại muốn vinh danh tác giả Stravinsky với phần mở đầu gồm hai màn.

Màn thứ nhất gọi là Tumultes (Hỗn Loạn) là một hoạt cảnh hầu như diễn ra trong im lặng, âm thanh duy nhất là tiếng động của gió thổi, và 13 diễn viên múa trên sân khấu múa những động tác cơ bản nhất, như thể họ đang diễn tập, và những động tác này sẽ được triển khai, phát huy trọn vẹn sau đó trong vở múa chính, trên nền nhạc của Stravinsky.

Màn thứ nhì có tên gọi là Pour Igor (Cho Igor) là một màn múa solo, qua đó người diễn nhảy múa một mình, trong khi nhiều hình ảnh được chiếu lên phong nền sân khấu ; Trong đoạn này, tôi thử mở ra một cuộc đối thoại với tác giả, nói lên những cảm xúc mà tác phẩm Lễ Đăng Quang Mùa Xuân đã gieo vào hồn tôi, từ cái thuở tôi còn là một thiếu niên học ở trường nội trú.

Khi dựng tác phẩm Lễ Đăng Quang Mùa Xuân trên sân khấu, mỗi nhà biên đạo múa thường có một cách đọc khác nhau. Trong trường hợp của Jean Claude Gallotta, tác phẩm này gắn liền với những kỷ niệm thời niên thiếu, những rung động đầu đời của chàng trai mới lớn. Có lẽ cũng vì vậy mà trên sân khấu, nhà biên đạo múa đã dựng lại hoạt cảnh của một lớp học, với những chiếc ghế nho nhỏ mà người ta thường thấy ở nhà trường. Nhưng điều gì trong tác phẩm của Stravinsky đã gây ấn tượng cho nhà biên đạo múa mạnh đến như vậy :

Đầu tiên hết có lẽ là nhịp điệu. Một nhịp điệu mạnh mẽ, nhanh nhẹn, dồn dập, thôi thúc. Theo tôi đó là yếu tố quan trọng nhất, làm nền tảng cho các điệu múa. Nhịp điệu của tác phẩm làm nảy sinh trong tâm trí của tôi những động tác, và ý tưởng này cứ quay quẩn trong đầu, thúc đẩy tôi sáng chế ra một điệu múa.

Tác phẩm Lễ Đăng Quang Mùa Xuân có một sức cuốn hút rất mạnh, đến nỗi, nó buộc tôi phải thay đổi, thích ứng cách làm việc. Thường thì tôi sáng tác đầu tiên hết các động tác múa, rồi sau đó mới nghĩ tới khâu soạn nhạc để làm giàu cho ngôn ngữ biểu hiện. Cách làm việc này tương tự như lối soạn nhạc phim, các tác giả chuyên sáng tác nhạc phim thường xem trước những hình ảnh chiếu trên màn ảnh lớn, rồi từ đó họ mới soạn nhạc, làm sao cho thật vừa khớp với ngôn ngữ hình ảnh.

Để dựng vở múa Lễ Đăng Quang Mùa Xuân, tôi phải làm điều ngược lại, tức là dùng động tác múa để thể hiện những ý tứ sẵn có trong nền nhạc. Lần này, tôi chọn một cách diễn đạt trừu tượng, thay vì tuân thủ lối kể chuyện đơn thuần. Trong nguyên tác, vở múa "Lễ Đăng Quang Mùa Xuân" kết thúc bằng cuộc hiến sinh một thiếu nữ, người ta làm lễ tế thần, lấy mạng sống của một cô gái trinh nguyên để làm sống lại mùa xuân.

Tất cả đều xoay quanh nhân vật chính này. Tác phẩm của tôi có một cách đọc khác hẳn, không phải chỉ có một nhân vật chính mà cả 13 diễn viên múa, nam cũng như nữ, luân phiên nhau để vào vai chính. Tôi muốn đưa ra một góc nhìn phóng khoáng, tự do hơn.

Nhà biên đạo múa Jean Claude Gallotta vào nghề từ năm 1976. Từ đó tới nay, tức là trong hơn 30 năm sự nghiệp, ông đã dựng trên dưới 60 vở múa ba lê khác nhau. Trong đời, ông đã ba lần đoạt giải sáng tác và biên đạo trong các kỳ thi quốc tế vào năm 1976, 1980 và 1985.

Trong đó, có giải thưởng quan trọng của giới chuyên ngành SACD bao gồm các tác giả của nghệ thuật sân khấu, bao gồm cả kịch nghệ, điện ảnh và múa đương đại. Đối với ông Gallotta, việc dựng vở múa Lễ Đăng Quang Mùa Xuân có nhiều ý nghĩa tình cảm nhiều hơn là việc ghi thêm một thành tích trên bảng vàng :

Lễ Đăng Quang Mùa Xuân của Stravinsky đối với các nhà biên đạo múa cũng y như là khúc thánh nhạc Requiem của Mozart đối với các nhạc sĩ. Ý tôi muốn nói là bất cứ nhạc sĩ nào cũng muốn ghi âm bản Requiem. Các nhà biên đạo múa cũng vậy, họ muốn thử sức dàn dựng ít nhất một lần trong đời vở múa Lễ Đăng Quang Mùa Xuân.

Điều đó không có nghĩa là đây là một chặng đường bắt buộc một nhà biên đạo múa phải đi qua, trong sự nghiệp của mình. Bởi vì có khá nhiều nhà biên đạo múa trứ danh, tài ba, thành công trên đường đời sự nghiệp mà không cần phải dựng vở múa này. Trong trường hợp của tôi, thì cũng như những người đi trước, Lễ Đăng Quang Mùa Xuân là một tác phẩm quan trọng luôn luôn nằm ở trong tâm trí, đến một lúc nào đó thì ý tưởng của tác phẩm sẽ định hình trong trí tưởng tượng, rồi tuôn trào ra như một nguồn cảm hứng. Tác phẩm có được hoàn tất hay không có lẽ phần lớn là do hoàn cảnh đời sống.

Trong trường hợp của Le Sacre du Printemps, thì ý tưởng này đã manh nha trong đầu tôi từ rất lâu, nhưng mãi đến năm 2009, khi tôi hợp tác với nhạc sĩ Alain Bashung, trước khi anh mất, để dựng một vở múa về tác giả Serge Gainsbourg (vở múa mang tựa đề L’homme à la tête de chou), thì lúc đó tôi mới tìm ra được một cách tiếp cận hoàn toàn mới với tác phẩm Lễ Đăng Quang Mùa Xuân của Stravinsky.
viethoaiphuong
#279 Posted : Tuesday, June 11, 2013 1:50:37 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Nhạc kịch Kinky Boots chiếm 6 Giải Tony



Ðạo diễn và diễn viên vở nhạc kịch 'Kinky Boots' tại lễ trao giải ở New York, ngày 9/6/2013.


VOA - 10.06.2013
Vở nhạc kịch Kinky Boots của sân khấu Broadway chiếm được 6 Giải Tony, kể cả Giải cao quý nhất cho vở nhạc kịch hay nhất trên sân khấu nước Mỹ.

Ngôi sao pop thời thập niên 1980, Cyndi Lauper, đoạt giải âm nhạc hay nhất cho vở nhạc kịch đầu tiên của bà trên sân khấu Broadway.

Vở nhạc kịch được dựa trên một phim của Anh về một hãng đóng giày đang gặp khó khăn, đã xoay sang sản xuất những đôi ủng cho những người chuyển giới, đã nhận được 13 đề cử cho Giải Tony trong lễ trao giải hôm Chủ Nhật tại Hội trường Aâm Nhạc Radio City ở thành phố New York.

Vanya and Sonia và Masha and Spike, do các diễn viên Sigourney Weaver và David Hyde Pierce đóng, đoạt giải Tony dành cho vở kịch hay nhất.

Tracy Letts đoạt Giải Tony dành cho diễn viên xuất sắc nhất vì vai trò đóng trong vở Who's Afraid of Virginia Woolf, và Cicely Tyson chiếm giải dành cho nữ diễn viên xuất sắc nhất trong một vở kịch nhờ vai đóng trong vở The Trip to Bountiful được biên soạn lại.
Khánh Linh
#280 Posted : Monday, June 17, 2013 4:04:51 PM(UTC)
Khánh Linh

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,775
Points: 1,317

Thanks: 139 times
Was thanked: 110 time(s) in 98 post(s)
Hiện tượng hiếm thấy của làng nhạc quốc tế: ca nhạc sĩ trẻ người Anh Adele chỉ với hai tập nhạc mà đã đoạt đến 8 giải Grammy. Trong khi nữ hoàng nhạc pop Madonna phải mất gần 30 năm sự nghiệp mới lập được thành tích tương tự. Được giới chuyên nghiệp bình chọn là nghệ sĩ xuất sắc nhất năm 2012, giọng ca của Adele còn ăn khách hơn cả Lady Gaga và Rihanna....

Nguồn: http://www.vnu.edu.vn/bt...a-lang-nhac-quoc-te.htm

Mời nghe một tình khúc của Adele được cho là “once in a lifetime song”: Someone Like You.” ThumpUp

Music & Lyrics: Adele & Dan Wilson
Pianist: Dan Wilson


1 user thanked Khánh Linh for this useful post.
viethoaiphuong on 6/18/2013(UTC)
Users browsing this topic
Guest (2)
24 Pages«<1213141516>»
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.