Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Thái Kim Lan
Phượng Các
#1 Posted : Friday, November 26, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
MỘT NGÀY VUI TRÊN NGỌN... SẦU... ĐÔNG !

Thái Kim Lan



" Có hai hay ba điều tầm thường trong một ngày
tưởng sẽ qua mau, nhưng bỗng dừng lại mãi mãi...
giữa vui và buồn "



Suốt cả ba tháng mùa mưa, mái ngói của căn nhà kiểu Huế xưa _ chỉ đỏ được một thoáng chốc phù du khi mới lợp _ đã rêu phong mấy lớp ngả sang màu nâu _ trong màn nước miên man đổ xuống từ bầu trời trắng đục thoáng hiện đàng xa như một nét thở dài u uẩn còn nén lại, lẩn quẩn chập chùng, tưởng như đã tan biến vào chốn hư không, nhưng lại vướng vất còn đó như một tiếng thưa " dạ có " sẽ sàng của người con gái Huế gia phong.

Trời càng mưa mái nhà càng " trần thân " ở đó chịu mưa, ngửa mặt hứng mưa, thầm lặng nghe mưa, quấn quýt với mưa... Cơn mưa như một dấu hiệu thời gian vô thường đến thí nghiệm sự bền bỉ của đời người mà mái nhà đang che chở... Ngoài tiếng mưa hình như chỉ còn lại sự yên tĩnh bơ vơ của căn nhà khép kín, mờ nhạt hiện hữu trong khu phố cổ nằm bên cạnh con sông nhánh Hương giang, tất cả đều thu mình lại nhỏ nhoi, như đang chờ một tia nắng ấm nào đó sẽ quay về từ năm tháng nồng nàn của những người yêu nhau mấy mươi đời thuở trước còn ủ lại nơi những góc buồng tranh tối tranh sáng...

Không hiểu sao khi nhớ đến " một ngày vui...", những ngày tháng ba trong mái nhà xưa lại hiện về trong ký ức.

Giêng hai còn rét mướt làm bất động cả cuộc sống trong căn nhà xưa cũ, vốn đã thấp lại càng thấp hơn, con người, đồ vật ở trong nhà xê dịch, chạm nhau như những chiếc bóng... Chỉ khi tháng ba về, cơn mưa đã ngớt, căn nhà mới ngẩng mặt lên một chút, ngóng những tia mặt trời hừng đông, ấy là lúc mái nhà được quyện bằng một vùng sương lam ẩm ướt pha lẫn với màu hồng nhạt ấm áp từ hơi ấm của căn nhà toả ra.

Cùng với khói sương nồng nàn... những ngày lập xuân đến thân thiết như tiếng gà canh năm vừa cất lên. Ai có ở Huế, nằm trong một căn nhà xưa ba gian, chân tay còn ấm áp trong chăn, canh năm nghe tiếng gà, đều chập chờn giữa mộng và thực nỗi niềm " sông có dài núi có xa chi mấy tiếng gà canh năm gọi gần với nhau đường lên Long Thọ đường về Đông Ba " (1).

Chưa kịp nghiêng đầu vào gối để nghe rõ hơn nhịp tim xao động theo với tiếng gà thì bàn tay ấm êm mềm mại của người chị đã nắm đôi chân nhỏ nhắn của đứa em gái, cùng một lúc với giọng nói trầm trầm nhỏ nhẹ " Dậy học bài ! ". Trong ánh sáng mù mờ của góc phòng Đông hiện ra trước đôi mắt mở hé của người em là nét môi thoáng nhẹ nụ cười với hàm răng đều sáng như ngọc, sóng mũi dọc dừa thanh thoát, đôi mắt bồ câu lấp lánh và mái tóc đen đang cúi xuống thật gần...thân ái.

Có một chút vui mơ hồ như cánh bướm mỏng đập nhẹ nơi tim. Khi đất trời còn mang mang chưa định hình rõ nét sau cơn mê ngủ, khi ngày chưa đến đêm chưa đi, khói sương còn là mộng ảo, tất cả tri giác con người còn ở nơi chốn vô danh, được thấy vẻ yêu kiều sơ thuỷ của một người rất thân ! Có phải hạnh phúc thật rất gần rất thường ? Mà vẫn như một nỗi ngạc nhiên !

Đêm đêm hai chị em chung nhau một giường, ôm nhau trong cơn mưa rầu rĩ của Huế, ru nhau khi gió đông phần phật rít qua liếp cửa lá sách, tóc xanh quấn quýt một thời với nhau trên cùng gối mộng, quen thuộc ngọt ngào hơi áo hơi chăn, biết hết nhau qua từng tiếng mớ ngủ, thuộc hết xương sườn xương sống của nhau những khi nghịch ngợm ôm nhau chọc cười. Vậy mà mỗi lần sau giấc ngủ dài, mắt nhắm mắt mở thấy gương mặt của chị cúi xuống trên mình, vẫn cái cảm giác hân hoan khó tả như mới gặp lần đầu, lâng lâng rờn rợn như niềm rung động của một người hoạ sĩ vừa bắt gặp đối tượng hiện thân của ý niệm " chân thiện mỹ " riêng biệt của mình hay của kẻ si tình gặp người trong mộng.

Ấm và êm buổi sáng tháng ba trời hết cơn buốt giá !

Nét nhân gian bỗng hé môi cười !

Dáng ngọc sáng ngời, buổi khai thiên hoa trời bừng nở !


Đã nghe tiếng nước sôi trong cù lao nơi gian nhà giữa khi hai đứa ngồi vào bàn học ôn bài buổi sáng.

Mụ Thay lục đục soạn ấm chén lách cách để châm trà, than hồng trong lò hắt lên dãy cột gỗ kiền kiền viền khung gian nhà giữa những đốm sáng lung linh, tiếng húng hắng của Bà vừa ngồi dậy đang được mẹ giúp bới tóc mặc áo, để ra sập dùng trà buổi sáng. Tiếng chuyên trà nước nhất nhẹ như một cung đàn tình tang, tiếng nói khẽ như hát mời bà dùng trà và tiếp theo là sự yên lặng của ba bóng người chập chờn trên vách đang uống trà buổi sáng.

Sự yên lặng như một nghi lễ hàng ngày khi nước trà thứ nhất được chuyên ra, chỉ trải dài bằng ba lần chạm môi nhấp trà từ cái chung nhỏ bằng hột mít, nhưng lại chìm xuống thật sâu làm cho hai chị em đang chăm chú học hay đang nói chuyện thì thào với nhau, bỗng dừng lại, ngưng thần lắng nghe và như cùng một lúc cảm thấy phút chốc rời khỏi thế giới thực tại, lạc bước vào một không gian sâu lắng thâm u huyền thoại, ở đó, _ nếu có chi được gọi là náo động, _ hương trà cùng hương hoa mộc quyện lẫn vào nhau đang bay lững lờ trong không gian.

Buổi sáng ở Huế thường bắt đầu bằng một thứ nghi lễ không lời như thế, dần dà hằn lên như nét chạm gỗ khắc đậm nét phong thái Huế xưa : nhẹ nhàng, mơ hồ, tĩnh lặng, trước khi tiếng chuyện trò, tiếng ghế bàn chuyển động cho một buổi ăn sáng trước giờ đi học bắt đầu.

Khi nước trà thứ hai được chuyên ra và được đem mời tất cả mọi người trong nhà vừa thức dậy, trông ra trời đã sáng lần. Ánh sáng mờ nhạt lãng đãng vờn trên mấy kiệu lớn cất nước mưa ở sân trong, mấy chú chim sâu bắt đầu lóc thóc trên nóc nhà, lao chao sà cánh nhỏ trên bồn nước, rỉa lông quệt mỏ. Từ bàn học nhìn qua cửa lá sách đã thấy o Liễu mở những tấm ván cửa trước nhà và cánh cửa chính bằng gỗ nặng nề, sửa soạn khay chén đi mua cháo gạo đỏ cho bọn học trò ăn điểm tâm trước khi đi học.

Mấy chị em thường ăn cháo gạo đỏ buổi sáng. Bà và mẹ bảo ăn cháo gạo đỏ hiền và bổ, ăn bún buổi sáng chua bụng, ăn xôi bắp nặng bụng, ăn cơm chiên nhiều mỡ sôi bụng, ăn xôi khô xót bụng !!! Mà cháo gạo đỏ hiền và ngon thật ! Nhất là cháo của Mụ Thân ngồi ở trước cửa nhà ông Út thợ may, cách nhà mình mấy căn phía cầu Đông Ba !

Gạo đỏ được nấu thật nhừ, sữa gạo đặc quánh óng ánh màu hồng, hột gạo nở ra mộc mạc như bông cỏ lấm tấm trắng đẹp bình dị trong tô bát tràng hay trong chén đất đơn sơ. Muỗng cháo vừa đưa vào miệng đã nghe ngọt béo chất sữa trên đầu lưỡi, hột gạo mềm không cần phải nhai khó nhọc đã tan trong miệng, nghe ấm cả dạ dày và khoan khoái cả người. Cháo gạo đỏ thường được ăn với cá bống cát hay cá cấn hay tôm sông kho rim với ớt. Cá rim mặn sền sệt nước mắm ngon và đường bánh đen, con cá hay con tôm rút chất đường và chất nước mắm thấm cong ăn rất mặn mà thấm tháp. Cháo béo ngậy mùi hương lúa gạo đồng quê ăn với con cá kho vừa mặn vừa ngọt, thịt cá bống thơm vị đặc biệt , lâu lâu gặp miếng ớt cay xé lưỡi kích động như một nốt nhạc bất ngờ trong sự nhịp nhàng hài hoà của bài ca dao mẹ " cơm với cá như mạ với con ", vừa kích thích vị giác vừa làm khoái cảm đẹp lòng cảm quan của nguời sành điệu.

Mồ hôi đã lấm tấm trên trán của chị khi cháo ăn gần xong, đôi môi của chị mềm cắn chỉ như khi mẹ ăn trầu, nốt ruồi duyên đen " ham ăn " hiện rõ xinh xắn và tinh nghịch trên môi bên phải thách đố sự trêu chọc của lũ em. Chị ăn ngon lành nhất trong mấy anh em vì... " mụt ruồi trên mép là ăn thép cả làng ! " (2) và mặt chị hồng lên tự nhiên trông đẹp như một đoá hải đường trong vườn Linh Mụ.

Tản Đà đã nói về cái thú ăn ngon và người cùng ăn. Không biết trong đời ông đã từng ngồi ăn với ai ? Nhưng tôi thì biết chắc chắn rằng, những buổi sáng mai ngồi ăn cháo gạo đỏ " hiền và bổ " với CHỊ trước khi đi học đã là những giây phút " ngon lành " nguyên thuỷ nhất trong quãng đời thanh xuân của mình. Những năm tháng về sau, ở nơi Tây phương sung túc xa xỉ, đã nếm đủ cao lương mỹ vị, bơ sữa, nhiều khi ngao ngán trước những cỗ bàn béo bổ ngầy ngụa của tiệc tùng, vị giác của mình chợt thèm về những rung cảm đơn sơ đạm bạc của hột gạo de đỏ hồng màu máu thịt của đất ruộng xứ Huế và con cá bống cát nhỏ bé của cả bầu trời nàng Tấm, không ngấy lên tận cổ, không béo đến lợm người, chén cháo gạo đỏ mùi vị thiệt thà không pha chế rườm rà thường hiện về trong ký ức với đôi má hồng, giọt mồ hôi lành lặn của chị, biến thành một nỗi nhớ quay quắt của người từ quan lên đường trở về chốn cũ...

Giờ " soi gương " mặc áo thường là giờ riêng biệt của hai chị em sau buổi ăn sáng. Bộ áo quần vải quyến dài trắng sợi cô-tông hiền hậu thiên nhiên thường được xếp ủi tử tế vắt trên thành giường từ lúc nào khi người em rửa mặt vừa xong. Vẫn là những vụng về hầu như bẩm sinh của một người em có chị gái, mặc áo không xong mặc quần không lọt, không biết thắt giây lưng thế nào cho đừng dễ lỏng sút hay không chặt quá để bị vết lằn đỏ ngang lưng...

Chưa kịp vớ lấy chiếc áo như thường lệ, hôm ấy bỗng nhiên chị nói " Nì mặc vô cái áo cánh ni trước rồi mặc áo dài sau. Túi (3) qua chị mới thức may cho đó ". May vá thêu thùa nấu ăn là đam mê của chị, thức để học bài thì chị hay ngủ gục, nhưng thức để may áo hay thêu khăn quàng cổ thì chị có thể ngồi thâu đêm...Té ra cả đêm chị thức may áo cho mình ! " Tại răng ? Trời nóng mà !" " Nóng lạnh chi cũng phải mặc, áo lót đó tề ! Lớn rồi ! Không mặc áo lót là dị lắm ! Người ta thấy chừ..."

Tự nhiên nghe đỏ phừng mặt như khi bị chạm chỗ yếu của mình. Thuở ấy con gái nhỏ đến tuổi 13, 14 vẫn chưa biết mặc " đồ lót ", các thứ ấy là " của cấm " _ không biết do mô lại có cái quan niệm kỳ quái xưa như " hũ nút " ấy ? _ chỉ có người lớn mới đụng đến cái thứ " kỳ hình dị tướng " đó, cho nên nếu chạm tay tới nó thì coi như... đời hết ... thơ ngây ! Như một phản xạ tự nhiên đứa em đưa tay lên ôm ngực, chu hai môi nói khống tướng " Em không dị ! Chị dị ! " " Ừ thì chị dị, mi không dị ! Mà cũng phải mặc không thôi ốt dột. Mạ biểu đó tề ! " Chị tròng cái áo cánh lụa ngà lên đầu, kéo tọt xuống, gài nút trên bờ vai, xong lấy áo dài mặc cho đứa em hết đường phản kháng rồi đẩy ra trước chiếc gương lớn để chải đầu.

Sáng nào hai đứa cũng chải tóc trước cái gương lớn cũ kỹ. Nhìn vào gương không thích nhìn mình mà chỉ thích nhìn chị chải tóc. Chị lớn hơn tôi mấy tuổi nên ra dáng " thiếu nữ " lắm ! Tóc chị sây, đen, xoả kín bờ vai tròn trịa, không gầy còm như đứa em, trong gương trông chị óng ả, mỹ miều như tố nữ trong tranh. Chị lấy lược rẽ giữa mái tóc phân ra làm hai, chải một bên mái tóc dày ra phiá sau và kẹp bằng cái kẹp to bản mạ bạc trắng, cái kẹp phồng lên vì ôm cả mớ tóc con gái đang độ lớn. Kẹp xong chị quay qua, háy tôi một cái vì thấy mình đang đứng loay hoay với cái kẹp tóc vụng về không tém được mái tóc ra đàng sau. Miệng ngậm kẹp tay chải tóc cho em, chị lập bập " Mau lên, trễ rồi đó ".

Được người khác chải tóc hình như là một nỗi sung sướng xác thịt thầm kín thú vị của con người từ khi tổ tiên loài người còn là những chú khỉ ngây ngô ! Đứa em chúi đầu vào người chị để cho chị chải tóc, thủ thỉ " tóc chị răng mà dài mà mướt, da chị răng mà mịn ghê ! ". Chị cười, răng đều đặn lấp lánh trong gương, nét chi của chị cũng sáng rỡ như trăng rằm, đầy vẻ kiều mị phơi phới của người con gái tuổi dậy thì... đến nỗi có thể làm bồi hồi trái tim non nớt của người em. Mãi về sau tôi mới nghiệm ra rằng mình đã có diễm phúc làm kẻ ngưỡng mộ vẻ đẹp khôi nguyên của chị trong ánh sáng đầu tiên một ngày tháng ba ! Có phải trong cổ thi nhà thơ nào đó đã nói như một lời tán thán : "Buổi sáng gặp mỹ nhân, chiều chết cũng cam lòng ! ", nếu nhớ không sai, hình như vô thức của tôi cũng đã mơ hồ nghĩ như thế khi nhìn chị trong gương...

Bảy giờ rưỡi hai chị em dắt xe đạp ra khỏi nhà. Mụ Thầy đã bắc ghế cho Bà ra ngồi ở ngưỡng cửa, ngắm người đi qua lại. Ngày hai buổi bà ra ngồi trước cửa, không còn đi đứng bình thường nhưng vẫn muốn tham dự và " sống thêm " cái rộn ràng của mọi người trong phố Hàng Đường, chia một chút vội vàng của chú Nhân đẩy xe lam chở gạo ra chợ, nặng lòng với o Thu gánh hai thúng rau muống trĩu cả đòn gánh từ duới Thế Lại lên, hối hả với chị Hoa bán bánh nậm bánh lọc tíu tít người mua, rồi người đi chợ, kẻ đi làm, học trò đi học... Sau cánh cửa gỗ im lìm, cả một bức tranh nhộn nhịp như khung cửi bày ra trước mắt. Bà thuộc tên từng người, nghề nghiệp, bà con gia đình cũng như giá cả các phẩm vật và nhất là vẫn còn tinh anh sắc sảo kiểm soát lũ cháu có tươm tất áo quần nón mũ khi đi ra khỏi cửa nhà đến trường...

Sau tiếng " thưa bà thưa mạ con đi học ", hai chị em dẫn hai chiếc xe đạp đứng song hàng với nhau bên vệ đường, không hẹn mà như cùng một nhịp, ngồi lên yên, quay người lại nhét tà áo sau vào giây thun chằn cặp vở để áo khỏi lọt xuống bánh xe, treo chiếc nón lá trước ghi đông, chân phải sẵn sàng đặt trên một pê đan, chân trái còn rà đất, người hơi nghiêng sang trái làm rõ đường eo của tấm lưng nữ sinh óng ả trong chiếc áo dài vải quyến trắng tinh, tay trái cầm ghi đông, tay phải cùng một lúc hất mái tóc loà xoà ra phía sau, ngước mặt ra trước, chân phải ấn nhẹ pê đan, bánh xe từ từ lăn tới đàng trước... Hình như người cả phố sáng nào cũng ngưng vài giây họat động để thưởng thức động tác nhịp nhàng như múa của mấy cô học trò đi học trường Đồng Khánh trên dãy phố Hàng Đường. Từ dưới Cây Sanh Thế Lại lên đến cầu Đông Ba cầu Gia Hội, nhà nào hầu như cũng có con gái đi học. Ở dưới cây Sanh, Mỹ Liên Thu Trâm, ở cách mấy nhà phía sau chúng tôi mấy chị Kim Cúc Kim Sa Kim Chi nhà bác Xuân, Bảo Trân Bảo Lộc nhà cụ Thượng Từ, ở đàng cầu Đông Ba, Phương Lan Xuân Mai nhà bác Phán bán mứt hột sen, Ngọc Bích nhà bác Trợ, Kim Trâm nhà hàng đồng cũng cùng đường đi tới trường Đồng Khánh...

Những tà áo trắng trong sương mai mờ nhạt bên cạnh những ngổn ngang hàng quán hình như đã là những đóm sao mai toả tin vui, mang đến một vài ý vừa nhẹ nhõm an lành vừa nên thơ thanh thoát, để người trong xóm có thể vui lòng bắt đầu một ngày thường nhiều cam khổ...

Chúng tôi đạp xe bên nhau nhẹ nhàng, áo trắng tung trong gió, gió ban mai phả vào mặt mát lạnh. Buổi sáng tháng ba non xanh như lộc cây bàng vừa chớm nụ, hơi ấm từ phía Thuận An dồn đến, hơi nước từ núi rừng Kim Phụng tràn sang, quyện tròn với nhau thành những vùng mây khói mờ ảo trên đường dọc theo sông. Qua khỏi cầu Đông Ba, bỗng thấy mình chơi vơi trong một vùng sương mù dậy hương thơm ngào ngạt đến ngây cả người. Chặng đường từ cầu Đông Ba lên đến cầu Gia Hội thời ấy không biết ai đã trồng một dãy cây sầu đông hai bên vệ đường. Tháng ba hoa nở, những cành cây chi chít hoa giao nhau trên không kết thành vòm che kín cả bầu trời. Hoa sầu đông màu trắng như sữa, giữa hoa lấm tấm những điểm nhỏ màu tím nhạt như những điểm sương tụ lại. Trong buổi sáng đầy sương mù, hoa với sương hòa lẫn với nhau không còn phân biệt màu sắc, trên đường đi mọi vật mờ ảo như một giấc mộng. Cả bọn con gái đạp xe đi như những chiếc bóng mơ hồ bồng bềnh, tà áo trắng ẩn hiện vô hình trong gió, không ai nói năng chi một lời, lặng lờ đi theo " tiếng " của hương thơm ngây ngất tẩm lên da thịt và tóc, cảm giác đê mê như đang trôi giạt trong những lớp sóng sương gió thổi ngược vào người. Thật là lạ lùng cảm giác buổi sáng đi trong sương mù và hương thơm những ngày tháng ba thời ấy ! Con người mình như được nhấc bổng lên khỏi yên xe để bay trong gió, bằng đôi cánh của hương thơm, bay nhẹ nhàng bên cạnh một bóng trắng khác cùng đi về một hướng. Có một thứ cảm xúc làm nổi " da gà ", một thứ khoái cảm nghe hương thơm và gió sớm chạm vào mặt, má, mắt, môi, thấm vào da thịt, một thứ khoái cảm nhẹ nhàng gây ấn tượng mình cũng đang hoà lẫn với hoa và sương...

" Trời mù sương như ri, trưa ni răng mạ cũng cho ăn cá nục chuối kho nước cho mà coai ! "(4) Tiếng của chị bên cạnh đưa tôi trở lại con đường xe đang đạp lên dốc cầu Gia Hội. Tôi nhìn sang chị, định chọc ghẹo cái nốt ruồi trên mép ham ăn, ngay cả trong suơng mù mơ mộng tôi đang chân hỏng đất mà chị vẫn lành mạnh nghĩ về con cá nục ! Nhưng tôi nhớ mình đã sửng sốt bàng hoàng. Trong sương mù gương mặt chị ướt nhoè lấm tấm giọt sương, tóc mai vướng trên má não nùng, trên đôi mi của cặp mắt bồ câu đen láy ngày thường sáng như băng những giọt sương long lanh đọng lại như nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy gương mặt chị như từ một cõi xa mô đó hiện về, liêu trai, không thực và mệnh yểu. Cảm giác chỉ như một cơn rùng mình thoáng qua, rồi biến mất...

Hai mươi năm sau ở nơi phương trời Tây nghe tin chị mệnh vong, vội vã trở về mái nhà cũ. Tôi đã đứng rất lâu ở hiên nhà cạnh sân trong, nơi chúng tôi thường ngồi xổm cùng nhau đáng răng rửa mặt, nhìn đám mây buổi sáng bay qua mái nhà, khoảng trống mở ra vũ trụ bên ngoài của những căn nhà xưa khép kín, đưa tín hiệu cho những mơ mộng thanh xuân... Thấy lại bầu trời buổi sáng, nghe mưa gió ngoài hiên... Tấm gương cũ còn treo trong phòng thiếu nữ. Đêm trở về đầu tiên nằm ngủ trong chiếc giường thời trẻ hai chị em đã nằm, nước mắt trào ướt gối. Thấy hiện sinh của mình trở nên khập khiễng khi nhớ về mảnh đời quá khứ vắng bóng người đã chia chung cả quãng đời thơ ấu. Giữa đêm trong lúc mơ màng, nghe tiếng chị gọi tên mình vang dội cả căn nhà " Em... ơi ", chữ " ơi " ngân vang thăm thẳm từ cửa chính, _ hình như chị đang đứng ngoài đường gọi vào nhà, _ vang qua nhà trước, rồi qua nhà vỏ cua rồi qua sân, len lỏi vào nhà chính và vọng đến tận nhà sau nơi tôi đang nằm _ nhà xưa ở phố Hàng Đường dài và sâu hun hút, thuở nhỏ chạy từ nhà trước ra nhà sau là cả một hành trình ghê gớm _ Tôi cố vùng dậy chạy ra sân để trả lời chị mà không sao nhấc thân lên được, tôi vùng vẫy dồn hết sức lực trong cổ họng để bật ra một tiếng " ơi " trả lời cho chị biết là tôi đang ở trong nhà, nhưng không thể nào phát ra một âm thanh nào, tôi nghe mình gào lên trong cổ họng tiếng " ơi " để tiếp hơi cho chị, hòng đưa một chút sinh khí của mình để chị có thể đi vào nhà, như khi cả lũ con gái trường Đồng Khánh trong giờ nghỉ ra chơi " U mọi " (5) chị đã hít hơi dài để " ù " qua phe bên kia cứu tôi đang bị ở tù mà không được tắt nghỉn nửa chừng. Tôi nghe mình ú ớ mỗi lúc càng dữ dội để kịp ra tín hiệu cho chị biết là tôi vẫn còn đó, cố mãi mà không thốt ra khỏi miệng một âm nào, tôi dẫy dụa, đập tay chân, cuối cùng bật lên được một tiếng thét và giựt mình tỉnh dậy...

Tiếng gà canh năm cũng vừa cất lên đâu đó mơ hồ vọng về... Có nối lại được gần nhau hai bờ âm dương cách trở, để ngày vui còn đọng lại trên ngọn sầu đông nở rộ một ngày xuân sau ?

Nhân ngày giỗ chị, tháng mười âm lịch 2002

Thái Kim Lan


(1) Lấy ý từ ca dao Huế : " Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Linh Mụ cang gà Thọ Cương"

(2) Nốt ruồi, tiếng Huế nói : " mụt ruồi"

(3) Tiếng Huế : Túi = Tối

(4) " Trời mù sương như thế này, thế nào trưa nay mẹ cũng sẽ cho ăn cá nục chuối kho nước cho mà xem ! "

(5) " U mọi " : một trò chơi phổ biến tại các truờng của Huế : người chơi được chia làm hai phe, đứng về hai phía, ở giữa gạch một lằn dài phân biệt hai vùng lãnh địa. Người phe bên này phải dùng hơi " ù " đề vượt lằn biên giới qua bên kia, nếu đứt hơi ở bên lãnh địa của địch hoặc bị bên địch bắt lại đứt hơi, không thoát được là bị địch bắt bỏ tù. Nếu không tắt hơi mà " đụng " hay " sờ " hoặc " kéo " được người của phe bên kia, chạy về lại lãnh địa của mình, thì kẻ bị " đụng " sẽ là tù nhân. Có thể cứu người của phe mình bị " ở tù " bằng cách " ù " qua bên lãnh địa phe địch, xông pha qua mấy tầng người chặn lại, chạy đến đụng vào người phe mình đang ở tù rồi vượt qua nhóm người của phe kia về lãnh địa của mình mà không đứt hơi, mới cứu được. Những người qua cứu tù thường cao lớn, mạnh mẽ, có hơi dài và chạy nhanh. Phe nào bỏ tù phe kia nhiều hơn sẽ thắng cuộc.
Phượng Các
#2 Posted : Friday, December 10, 2004 8:19:49 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
HUỆ TÍM
IRIS
Hermann Hesse

Thái Kim Lan dịch Việt

Trong mùa xuân của thời thơ dại, Anselm thường thơ thẩn chạy khắp khu vườn xanh lá cây. Cậu bé yêu đặc biệt một loài hoa trong các hoa của mẹ : Hoa Huệ Kiếm(1). Cậu thường áp má mình vào những chiếc lá dài màu xanh của hoa, tẩn mẫn ấn những ngón tay vào đầu ngọn lá nhọn, hoặc vừa ngửi, vừa hít nụ hoa lớn đẹp huyền diệu kia và nhìn lâu, rất lâu, vào tận trong đóa hoa. Ở đó vươn lên từ cái nền hoa màu xanh tím nhạt những ngón tay màu vàng xếp thành hàng dài, giữa những búp măng vàng ấy hun hút một ngõ sáng đi sâu vào đài hoa, và sâu hơn nữa vào tận trong cái bí nhiệm xa xôi màu xanh da trời của nụ hoa ấy. Cậu bé yêu say mê nụ hoa, thường trố mắt nhìn rất lâu vào trong hoa để thấy những thành phần màu vàng thanh tao ấy khi thì giống như một hàng rào bằng vàng ở vườn thượng uyển, khi thì giống như một lối đi thông thường có hai hàng cây mơ mộng đẹp đẽ viền quanh những hàng cây huyền ảo không bị gió lay động và ở giữa chúng, có con đường đầy bí ẩn sáng sủa và được viền đắp bằng những đường gân mờ nhạt mềm mại và linh động chạy dài vào trong nội tâm của hoa. Vòm hoa tỏa rộng một cách dị kỳ, lùi vào bên trong, con đường giữa hai vòm cây bằng vàng mất hút vô tận trong yết hầu không tưởng tượng ra được của hoa, trên con đường ấy những vòm tím nhạt uốn mình xuống một cách đế vương và chiếu những bóng đen mỏng manh kỳ ảo trên một sự mầu nhiệm yên lặng và đợi chờ. Anselm biết đây là miệng hoa, biết là tim và ý nghĩ của hoa cư ngụ sau những điểm vàng lộng lẫy trong chốn yết hầu xanh thẩm ấy, biết là hơi thở và những giấc mơ của hoa thoát ra và đi vào trên con đường vân xinh xắn, sáng sủa và trong suốt ấy.
Bên cạnh đóa hoa lớn còn có những búp hoa nhỏ hơn còn chưa hé nở, đứng trên những cuống hoa mọng nước chắc cứng trong một cái đài nhỏ có da màu xanh nâu, từ đó búp hoa non nớt chỗi lên yên lặng và kín đáo nhưng đầy sức lực, được bọc kín trong màu xanh sáng và màu tím nhạt, ở đằng đầu đã ló ra màu tím thẩm trẻ măng được cuốn tròn chắc nịch và dịu dàng với một chút mũi nhọn xinh xắn của hoa. Ngay cả trên những lá búp non quấn chặt này cũng đủ có những đường gân và trăm ngàn đường nét để nhìn để ngắm rồi.
Mỗi buổi sáng khi cậu bé trở lại vườn từ căn nhà, từ giấc ngủ, từ cơn mơ, từ những thế giới xa lạ ở trong cơn mơ ngủ, khu vườn vẫn đứng đó không mất, luôn luôn mới y nguyên và chờ đợi cậu. Rồi ở nơi mà hôm qua cái mũi búp hoa cứng nhọn màu xanh lơ cuốn tròn trong vỏ xanh còn đứng bất động, nơi đó bây giờ đã lững lờ một cánh non mỏng và xanh như khí trời, như một cái lưỡi và một nét môi, đang sờ soạn tìm kiếm hình dáng và nét cong mà cánh hoa đã mơ ước từ lâu, và ở nơi tận cùng nhất, nơi mà nụ hoa còn đang âm thầm tranh đấu để thoát ra khỏi bức màn lá xanh quấn quanh mình, nơi đây người ta đã thấy lờ mờ những cánh mỏng thanh tao màu vàng, con đường đầy gân sáng rỡ và vực thẳm linh hồn xa xăm đầy hương thơm của nụ hoa rồi. Có lẽ vào trưa, có lẽ xế chiều, hoa hé nở, căng tấm màn lụa xanh trên khu rừng mơ mộng bằng vàng và những giấc mơ đầu tiên, những ý nghĩ và lời ca xuất hiện thầm lặng từ hố thẳm đầy ảo thuật kia để bắt đầu hít thở khí trời.
Rồi có một ngày, và ngày hôm ấy đầy cả hoa hình chuông màu xanh đứng chụm nhau trong cỏ. Rồi lại có một ngày, và ngày hôm ấy bỗng nhiên âm vang tiếng lạ và hương thơm mới trong khu vườn, trên đám lá đỏ đượm thắm mặt trời phất phơ những đóa trà mi mềm mại và đỏ thắm. Rồi lại có một ngày, và ngày hôm ấy không còn đóa hoa huệ nào ở trong vườn nữa. Chúng đã ra đi. Không còn con đường nhỏ viền vàng nào nữa dẫn dắt một cách dịu dàng vào những bí mật thơm ngát. Những ngọn lá cứng ngắt đứng trơ xa lạ và lạnh lùng. Nhưng may sao, dâu đỏ ở các bụi cây bắt đầu chín mọng và từng đàn từng đàn bươm bướm mới dập dìu đùa cợt trên những hoa ngôi sao. Những con bướm nâu đỏ có lưng óng ánh xà cừ, những con bướm nắc nẻ nhộn nhịp ồn ào đập những cánh trong như thủy tinh.
Anselm nói chuyện với bướm, với những viên sỏi trong vườn, đánh bạn với bọ rầy và chim sáo. Những con chim kể cho cậu nghe chuyện loài chim, các cây dương xỉ chỉ cho cậu một cách kín đáo hạt giống nâu đã được góp lại ở dưới mái những ngọn lá khổng lồ, những mảnh chai xanh thủy tinh hứng lấy cho cậu tia sáng mặt trời và trở thành lâu đài, vườn cây và các kho tàng chói lọi. Khi hoa Huệ tàn rồi thì hoa Kapuziner(2) lại nở, khi đóa trà mi héo hắt thì những chùm dâu sặc sỡ đã nhuộm màu nâu. Tất cả đều đổi thay, tất cả luôn luôn ở đó, và luôn luôn lìa xa, biến mất rồi khoảnh khắc lại trở về. Ngay cả những ngày hãi hùng bất thường, khi những ngọn gió lạnh lùng rít ầm ỉ trong ngọn cây thông và đám lá úa đùa xào xạc một cách tái tê và tàn lụi khắp nơi trong vườn, những ngày ấy vẫn còn mang đến cho cậu một bài ca, một nhịp sống, một câu chuyện cho đến khi tất cả đều sụp xuống, tuyết rơi trước cửa sổ và khu rừng dừa mọc lên nơi cửa kính, khi các Thiên thần bay cùng với tiếng chuông bạc suốt cả buổi chiều và hành lang cùng nền nhà thơm ngát mùi trái cây phơi khô. Không bao giờ tình bạn hữu và niềm tin cẩn lại phụt tắt ở trong thế giới tốt lành này, và khi có lần như một ngẫu nhiên những chùm hoa tuyết lại xuất hiện sáng rỡ bên cạnh đám lá trường xuân đằng (Efeu) đen sì, khi những chú chim đầu tiên bay vút lên khoảng cao xanh mới mẻ, thì tuồng như mọi vật vẫn luôn luôn còn đó, đứng đó tự bao giờ. Cho đến một hôm, một búp non màu tím nhạt lấp ló từ những chồi ngọc của hoa Huệ tím nhìn ra, không chờ không đợi mà vẫn luôn luôn đúng hẹn và đúng như đã ước mơ.
Tất cả đều đẹp đẽ và Anselm mừng đón tất cả đầy thân thiết, tin cẩn, nhưng giây phút lớn lao nhất của phép mầu nhiệm và ân huệ mỗi năm đối với cậu bé vẫn là đóa Huệ Kiếm đầu tiên. Chính ở trong đài hoa ấy có một lần nào đó, trong giấc mơ trẻ thơ xa xưa nhất, lần đầu tiên trong đời cậu đã đọc được trong quyển sách của phép nhiệm mầu - hương thơm và màu xanh rung rinh muôn vẻ của hoa đối với cậu đã là lời mời gọi và chìa khóa của Sáng Tạo. Và như thế hoa Huệ tím cùng với cậu đã đi qua những năm dài trong trắng ngây thơ, cứ mỗi mùa hè mới, hoa không những tân nguyên mà còn như tăng vẻ bí mật và dễ cảm hơn. Những hoa khác cũng có miệng, cũng gửi hương và ý tưởng cho gió chuyền đi, cũng quyến rũ ong và bọ rầy vào trong phòng the nhỏ bé ngọt ngào của chúng. Nhưng đối với cậu bé, đóa Huệ tím vẫn đáng yêu hơn và quan trọng hơn tất cả các thứ hoa khác nhiều. Với cậu, hoa là biểu tượng, là tấm gương cho tất cả những gì đáng được suy ngẫm, cho những gì tuyệt vời tuyệt tác. Khi cậu cúi nhìn vào đài hoa, theo dõi say sưa bằng ý tưởng con đường nhỏ trong sáng mơ mộng kia và gặp gỡ lòng hoa còn u minh giữa những khóm cây màu vàng kỳ ảo, tâm hồn cậu đã nhìn chỏi vào chốn “nhập môn”, nơi mà mọi sự xuất hiện đều trở thành bí nhiệm và mọi sự “thấy” đều trở nên linh cảm. Lắm đêm cậu bé đã mơ nhiều lần về cái đài hoa đó, mơ thấy đài hoa mở rộng vô cùng ở trước mình như đôi cánh cửa của thiên đường, mơ thấy mình cưỡi ngựa hay ngồi trên thiên nga bay vào trong đó và cả thế giới cũng theo cậu ta nhẹ nhàng lướt, bay, trượt như bị thu hút bằng ảo thuật vào trong yết hầu mỹ miều của hoa, vào sâu và chuồi xuống dưới, ở đó mọi sự chờ đợi đều được đền đáp và mọi linh cảm đều trở thành chân lý.
Mỗi sự xuất hiện ở trên địa cầu là một biểu tượng và mỗi biểu tượng là một cánh cửa mở ngõ cho linh hồn sẵn sàng đi vào nội tâm của thế giới, nơi mà tha nhân cùng với tôi vĩnh viễn là một. Mỗi người trong đời mình đều đã gặp gỡ đâu đây trên đường đi cánh cửa mở ngõ đó, mỗi người đã có một lúc nào đấy bắt chợt được ý nghĩ rằng tất cả những điều mắt thấy tai nghe đều là biểu tượng, sau biểu tượng này hiển hiện cõi tâm linh và đời sống vĩnh cữu. Nhưng ít người đã đi qua cánh cửa mở đó và chịu đánh đổi vẻ đẹp bên ngoài để lấy cái thực chất nội tâm còn lờ mờ trong tâm khảm.
Đối với cậu bé Anselm thì đóa hoa tím xanh lơ kia xuất hiện như một câu hỏi câm nín và thao thức mà tâm hồn cậu mơ hồ sục sạo trong nguồn suối trực giác một câu giải đáp thích ứng. Nhưng rồi nét muôn màu muôn vẻ đáng yêu kia của vạn vật lại lôi kéo cậu đi nơi khác, vào những cuộc tỉ tê hay đùa giỡn với cỏ và đá sỏi, với cỏ dại bụi cây, với côn trùng và với tất cả tình bằng hữu của thế giới bé nhỏ của cậu, lắm khi cậu đắm mình ngắm nghía, quan sát chính bản thân mình, giao trọn tâm tư vào những điều khác lạ của thân thể, nhắm mắt nghe những cảm xúc kỳ lạ, những kích thích và tưởng tượng trong cổ và mồm mỗi khi nuốt, hoặc khi hát hay thở, cảm thông được ngay cả con đường và lối vào, nơi mà linh hồn thông thương với linh hồn. Cậu quan sát một cách ngạc nhiên những hình màu đầy ý nghĩa thường xuất hiện trong bóng tối đỏ bầm khi cậu nhắm nghiền đôi mắt lại, những dấu vết và các vòng bán nguyệt màu xanh lơ hoặc đỏ thẳm có những đường nét sáng trong chen vào giữa… Đôi khi Anselm lại cảm nhận với nỗi xúc động vừa vui vừa kinh hãi sự liên hệ muôn vẻ giữa thị giác và thính quan, giữa khứu giác và vị giác và cảm nghe trong một khoảnh khắc đẹp ngắn ngủi thanh âm, lời và các vần chữ thân thuộc với nhau và đồng loại với màu đỏ và màu xanh, với cứng và mềm, hoặc cậu ta kinh ngạc khi ngửi một ngọn rau hay một rễ cây xanh được bóc ra, hương và vị sao mà gần gũi nhau lạ thường đến thế, lắm lúc chúng lại tan hòa vào nhau và trở thành duy nhất một cách diệu kỳ.
Tất cả mọi trẻ thơ đều cảm thấy như vậy dù cho cường độ nhạy cảm khác biệt nhau. Ở rất nhiều trẻ thơ, những lắng nghe, những khám phá đó thường biến mất đi như chẳng bao giờ hiện hữu, trước khi đứa trẻ có thể đọc được những vần chữ đầu tiên. Nơi những đứa trẻ thơ khác, vẻ bí nhiệm của tuổi thơ vẫn còn luẩn quẩn rất gần và chúng vẫn còn mang theo dư âm của nó cho đến lúc tóc nhuốm màu sương và trong những ngày muộn màng mệt mỏi của cuộc đời. Tất cả mọi trẻ thơ, bao lâu chúng còn ở trong sự bí mật của cuộc sống, đều bận tâm với một điều quan trọng duy nhất : Với chính mình và với mọi tương quan đầy bí ẩn giữa con người mình và thế giới bao quanh. Kẻ đi tìm và nhà hiền triết thường quay về những mối bận tâm này sau những năm chín mùi suy tư, còn phần đông thì quên lãng và rời bỏ rất sớm thế giới nội tâm của điều trọng đại thực sự kia vĩnh viễn để suốt đời lang thang trong những sai lầm hỗn tạp đầy những lo âu, ước muốn và mục đích, trong đó không có cái gì hiện hữu trong nội tâm sâu kín của họ, trong đó không có cái gì có thể dẫn dắt họ tìm đến cõi lòng sâu xa nhất và trở lại quê nhà được.
Như thế những mùa hè và mùa thu trẻ dại của Anselm cứ đến dịu dàng và đi nhẹ nhàng, cứ thế luân lưu hoa tuyết chuông, hoa tím, hoa đinh tử(3), hoa huệ, hoa hồng, hoa xanh thẩm nở rồi tàn, rồi lại nở, vẫn đẹp đẽ và phong phú như tự bao giờ. Anselm sống với hoa, chim và hoa tâm sự với cậu, cây và suối lắng nghe cậu, và cậu thường đem những vần chữ tập viết đầu tiên, những âu lo bằng hữu đầu tiên giải tỏ với khu vườn, với mẹ, với những viên đá sặc sỡ ở vườn hoa.
Rồi có một lần mùa xuân đến, nhưng mùa xuân lại không rộn rã và đượm mùi như tất cả mùa xuân trước đây, chim sáo cũng hót véo von nhưng lời ca không phải là bài hát cũ, hoa Huệ tím cũng nở nhưng không còn những giấc mơ, những hình dáng thần thoại, thơ thẩn ra vào trên con đường viền vàng của đài hoa nữa. Những trái dâu đỏ vẫn tươi cười núp sau đám lá xanh và bươm bướm vẫn bay rộn ràng lấp lánh trên những tán hoa cao nhưng tất cả không còn như trước nữa và cậu bé bận tâm với những chuyện khác, ngay với mẹ cậu ta cũng đã nhiều lần gây gổ rồi. Chính cậu cũng không hiểu duyên cớ tại sao có điều gì làm cậu đau đớn trong lòng, tại sao có một điều gì đấy luôn luôn quấy rầy cậu. Chỉ biết là thế giới đã đổi thay, tình bằng hữu từ trước đến nay đã rơi rụng và để lại cậu trơ trọi một mình.
Và như thế một năm trôi qua, rồi một năm nữa, Anselm không còn là một chú bé con, những viên sỏi sặc sỡ ở bồn hoa trở nên buồn nản, những đóa hoa đã như thành câm và những con bọ rầy bị cậu lấy kim xâu bỏ vào hộp : Linh hồn cậu đang bước vào con đường vòng dài và chông gai. Những cố tri đã bị chà đạp và héo hắt đi rồi.
Chàng trẻ tuổi vội vã lăn xả vào cuộc đời, cuộc đời như mới bắt đầu từ đây. Đã qua rồi và chìm trong lãng quên là cái thế giới biểu tượng ngày xưa, những ước mơ mới mẽ và những con đường mới lạ đã quyến rũ cậu đi xa. Có chăng là một chút măng trẻ còn thoang thoảng như một hương thơm trong tia nhìn xanh và phất phơ trong mớ tóc mềm mại của chàng, nhưng chàng không thích điều đó nhất là khi được nhắc nhở đến. Chàng cắt tóc ngắn đi và sửa tia nhìn cho có vẻ bạo tợn và sành sỏi hơn lên. Chàng gây vũ bão trong những năm đầy chờ đợi và lo âu. Khi là một người học trò và bạn tốt, khi thì trơ trọi và rụt rè, khi thì vùi đầu trong vở đến khuya, khi thì điên cuồng ồn ào trong những quán rượu. Chàng phải rời quê nhà và chỉ gặp lại quê cũ trong những lần hiếm hoi về thăm nhà ngắn ngủi, về nhà với mẹ, chàng bây giờ là một chàng trai đã đổi thay, trưởng thành, ăn diện thanh lịch. Chàng thường mang theo bạn bè, mang theo sách vở, luôn luôn những thứ khác lạ và khi chàng đi qua khu vườn cũ, khu vườn thu lại bé nhỏ và bặt tiếng trước tia nhìn lơ đãng của chàng. Không bao giờ nữa chàng nhìn thấy những câu chuyện ở những đường gân sặc sỡ của các viên sỏi và lá cây. Không bao giờ nữa chàng nhìn ra thượng đế và vĩnh cửu cư ngụ nơi vẻ bí mật của đóa hoa Huệ tím.
Anselm đã là học trò và sinh viên, chàng trở về quê với mũ đỏ rồi mũ xanh, với một vành râu mép lơ thơ và rồi với một bộ râu. Chàng mang sách ngoại ngữ về và có lần đem theo một con chó; trong cặp da treo ở ngực chàng khi thì đầy ắp những bài thơ mới viết, khi thì những tờ giấy chép những danh ngôn xưa, khi thì những tranh họa và thư từ của những cô gái đẹp. Chàng trở về quê sau một thời gian sống ở ngoại quốc và lênh đênh trên một tàu lớn ở biển cả. Chàng trở về và trở thành một học giả trẻ, mang mũ đen và bao tay màu sẫm, những người láng giềng cũ ngã mũ khi gặp chàng và gọi chàng “Ông Giáo Sư” dù chàng chưa phải là giáo sư. Chàng trở về và mặc áo tang, đi lặng lẽ và nghiêm trang sau chiếc xe tang nơi mẹ chàng yên ngủ trong chiếc quan tài kết hoa. Và từ đó chàng trở về càng hiếm hơn.
Bấy giờ Anselm sống ở đô thị, dạy sinh viên và được xem là một học giả nổi tiếng. Chàng sống cũng giống mọi người trên thế gian, cũng đi, cũng dạo chơi, cũng ngồi, cũng đứng trong y phục trang nhã nghiêm nghị hay thân mật với đôi mắt nhanh nhẹn và đôi khi hơi mệt mỏi : Chàng đã là một nhân vật và một nhà nghiên cứu, đúng như chàng mong muốn. Lúc bấy giờ tình trạng của chàng tương tự như những năm cuối của thời trẻ thơ. Chàng bỗng thấy những năm trôi nhanh sau lưng mình và chàng vẫn đứng trơ trọi kỳ cục và không thỏa mãn ở thế gian, cái thế gian mà chàng luôn luôn mải mê theo đuổi. Chàng nhận thấy làm giáo sư cũng không phải là hạnh phúc thực sự, được dân chúng, sinh viên chào đón kính trọng cũng không phải là một hứng thú sung mãn. Tất cả điều đó đều tàn úa và biến thành cát bụi, hạnh phúc thì thấy xa vời ở trong tương lai và con đường đi đến đó xem ra nóng nực, bụi bậm và tầm thường.
Trong khoảng thời gian này Anselm thường hay đến chơi nhà một người bạn có cô em gái thu hút chàng. Bây chờ chàng không chạy theo dễ dàng một khuôn mặt đẹp nữa, điều đó cũng đã đổi khác, chàng cảm thấy rằng hạnh phúc phải đến với chàng một cách đặc biệt hơn và không thể nằm sau mỗi cánh cửa được. Chàng rất thích cô em gái bạn và đôi khi chàng tưởng yêu nàng thật tình. Nhưng nàng là một cô gái đặc biệt, mỗi bước đi, mỗi lời nói của nàng đều được tô điểm một vẻ riêng và không phải luôn luôn dễ dàng để đến với nàng cũng như để bắt đúng nhịp với nàng. Anselm thường cãi vã với chính mình về cô bạn gái, mỗi chiều lúc chàng đi đi lại lại một mình trong căn nhà cô đơn và nghiền ngẫm nghe tiếng bước chân của mình vang trong phòng, lòng ngổn ngang những ý nghĩ - nàng lớn tuổi hơn chàng để làm vợ như chàng muốn. Nàng rất kỳ cục và chắc chắn sẽ rất khó khăn nếu cùng một lúc sống với nàng đồng thời muốn theo đuổi tham vọng của mình bởi vì nàng không bao giờ muốn nghe nói đến chữ tham vọng. Nàng không khỏe mạnh lắm và không thể chịu đựng khách khứa tiệc tùng. Nàng thích nhất là sống với hoa, âm nhạc, với một quyển sách bên mình trong sự yên tĩnh cô đơn, trong sự chờ đợi xem ai có đến với nàng không và để mặc thế giới trôi xuôi. Đôi khi nàng rất mỏng manh và dễ cảm đến nỗi những gì xa lạ đều làm cho nàng đau đớn và dễ khóc. Rồi sau đó nàng lại rực rỡ một cách trầm tĩnh và thanh thoát trong một thứ hạnh phúc riêng lẻ và những ai thấy điều đó đều cảm thấy rằng thật là khó để trao tặng cho người đàn bà đẹp hiếm có này một điều gì cũng như để được có một ý nghĩa nào đó đối với nàng. Anselm thường tin rằng nàng yêu chàng, đôi khi chàng thấy là tuồng như nàng chẳng yêu ai mà chỉ dịu dàng và thân mật với tất cả và không theo dõi một thứ gì trên thế gian ngoài sự được yên tĩnh. Còn chàng, thì lại muốn đòi hỏi ở đời sống một thứ khác hơn nữa và nếu như chàng lấy vợ thì đời sống và tiếng rộn rã, sự hiếu khách phải có ở trong nhà mới được.
Một lần chàng nói với nàng : Iris, Iris thân yêu, nếu thế giới được an bài khác đi, nếu không có gì khác ngoài thế giới đẹp đẽ và dịu dàng với hoa, tư tưởng và âm nhạc của em, thì tôi không ao ước gì hơn là được sống suốt đời bên em, nghe em kể chuyện và sống cùng với em trong tư tưởng. Riêng tên của em thôi cũng đủ làm tôi dễ chịu, Iris là một tên tuyệt diệu, tôi không biết là tên đó nhắc nhở cho tôi một điều gì.”
Iris đáp : “Anh biết hoa huệ màu tím và màu vàng mang tên Iris chứ ?”.
“Vâng”, chàng kêu lên trong cảm giác lo sợ, “tôi biết chứ và điều đó cũng đã đẹp rồi. Nhưng mỗi khi tôi nói tên em thì tuồng như tên em muốn nhắc cho tôi một điều, tôi không biết là điều gì, hình như nó gắn liền với kỷ niệm sâu xa và trọng đại đối với tôi, nhưng tôi không biết và không tìm ra được điều đó là gì.”
Iris mỉm cười với chàng trai, trong lúc chàng ta đứng trơ ra đó và lấy tay chùi trán.
“MỗI lần em đều cảm thấy như thế”, nàng nói bằng giọng nhẹ như chim, “khi em ngửi một bông hoa. Mỗi lần tim em đều cho rằng gắn liền với hương thơm kia đã luôn luôn có một kỷ vật để nhớ đến, một cái gì đẹp và quý báu tuyệt trần, kỷ vật đó trước đây là của em và bị đánh mất đi. Với âm nhạc và đôi khi với thơ văn cũng thế, ở đó đột nhiên lóe sáng một vật gì trong chớp mắt, ví như khi người ta thấy lại được quê hương đã mất bỗng nhiên hiện ra trong thung lũng dưới chân mình và rồi giây phút đó biến mất đi và bị quên lãng. Anselm thân mến ! Em tin rằng chúng ta hiện hữu ở trên quả đất này có ý nghĩa cho sự hồi tưởng, tìm kiếm và lắng nghe những hình dáng màu sắc âm thanh đã mất, và quê hương thật sự của chúng ta chính là ở đàng sau đó.”
“Em nói hay quá !” Anselm nói mơn và cảm thấy trong lồng ngực nhói lên một rung động gần như đau đớn, tuồng như có một cây kim chỉ nam dấu kín bật chỉ một cách nhất định vào mục tiêu xa xăm nào đó của chàng. Mục tiêu này hoàn toàn khác với mục tiêu mà chàng nhắm cho đời chàng và điều đó làm chàng đau đớn. Chàng tự hỏi mình có nên phung phí cả cuộc đời trong những giấc mộng với những chuyện thần thoại đẹp đẽ kia không ?
Bẵng đi một dạo, bỗng có một hôm ông Anselm trở về từ một cuộc viễn du cô đơn, thấy gian phòng trống trải chào đón mình một cách lạnh lẽo và ngột ngạt, chàng liền đi đến thăm bạn và nghĩ sẽ cầu hôn nàng Iris xinh đẹp làm vợ.
Chàng nói với nàng : “Iris ơi ! Tôi không muốn tiếp tục sống như thế này nữa. Em luôn là người bạn tốt với tôi, tôi phải nói với em tất cả. Tôi phải có vợ nếu không thì cuộc sống sẽ trống rỗng và vô nghĩa. Và tôi có thể ao ước một người vợ nào khác hơn là em, đóa hoa yêu quý ? Em có bằng lòng không hở Iris ? Em sẽ có các thứ hoa nhiều như có thể tìm được trên thế gian, em sẽ có một khu vườn đẹp nhất thế gian. Em có muốn đến với tôi không ?”.
Iris nhìn rất lâu và yên lặng vào mắt chàng, nàng không mỉm cười và không đỏ mặt, rồi trả lời bằng một giọng chắc chắn :
“Anselm à, em không ngạc nhiên về câu hỏi của anh, em yêu anh dù không bao giờ nghĩ em sẽ trở thành vợ anh. Nhưng mà xem đây, người bạn của em, em sẽ có những đòi hỏi to lớn cho kẻ nào muốn lấy em làm vợ. Em sẽ có những đòi hỏi lớn hơn những người đàn bà khác. Anh đã muốn hiến dâng cho em nhiều hoa và có ý tốt với em. Nhưng em có thể sống không có hoa và không có âm nhạc, em có thể làm điều đó và nhịn nhiều thứ khác nếu cần phải thế. Chỉ có một điều em không thể và không muốn thiếu đi : Đấy là em không thể sống một ngày mà thứ âm nhạc trong con tim của em không phải là điều chính yếu. Nếu em sống với một người chồng thì người đó phải là kẻ có âm nhạc nội tâm hòa hợp tốt đẹp và thanh thoát với tiết tấu âm thanh của em, và hơn thế nữa âm nhạc của người ấy phải là ước muốn duy nhất của đời chàng. Anh có thể làm được như vậy không hỡi bạn của em ? Có lẽ rồi anh sẽ không được nổi tiếng và có danh vọng nữa, nhà của anh sẽ yên tĩnh và các nếp nhăn ở trên trán anh mà em đã thấy từ bao năm qua phải được rửa trôi đi. Ồ Anselm ơi ! Không được đâu. Hãy xem, con người anh vẫn như thế, vẫn là người cứ phải học cho đến khi những nếp nhăn ở trán cày sâu thêm, vẫn là người luôn tạo ra những lo âu mới, còn em, và những gì là tâm tư và hiện hữu của em, những cái ấy anh có yêu có thích đấy và thấy nó hay hay đấy, nhưng đối với anh và nhiều người khác thì chúng cũng chỉ là một trò chơi thanh nhã. Anh nghe em đây “Tất cả những gì với anh bây giờ là trò chơi thì với em chính là cuộc sống và bây giờ phải là cuộc sống đối với anh, còn tất cả những gì anh đã đem cực nhọc và lo âu để làm nên thì đối với em cái ấy là trò chơi, và theo em chẳng đáng giá gì để sống cho chúng cả. Em sẽ không thay đổi nữa đâu, Anselm à, bởi vì em sống theo một quy luật nằm trong tim em. Nhưng anh có thể đổi khác không ? Và anh sẽ phải đổi khác đi, nếu muốn lấy em làm vợ.”
Bị đánh trúng tâm lý, Anselm lẳng lặng trước ý muốn của nàng, ý muốn mà chàng đã cho là yếu ớt và đùa bỡn. Chàng ngậm câm và bóp nát một bông hoa lấy ở bàn trong bàn tay run rẩy của chàng. Bây giờ Iris dịu dàng lấy bông hoa ở bàn tay chàng ra, cử chỉ này như một lời trách móc nặng đâm thẳng vào tim chàng - nàng bỗng mỉm cười một cách rạng rỡ và đáng yêu, khi bất ngờ tìm ra trong bóng tốI một lời giải đáp :
Nàng nói nhỏ nhẹ và hơi đỏ mặt lên : “Em có một ý kiến. Có lẽ anh sẽ thấy nó kỳ cục và cho đó là một tánh chướng, nhưng ý kiến này không phải là một tánh chướng đâu. Anh muốn nghe chăng ? Và anh có muốn chấp thuận nó để nó quyết định cho chúng ta chăng ?”
Anselm nhìn chăm chú cô bạn gái mà chẳng hiểu gì cả, lo âu hiện lên ở nét mặt xanh xao. Nụ cười mỉm của nàng buộc chàng tín cẩn nàng và nói vâng.
“Em muốn đưa cho anh một công việc”, nàng vừa nói và bỗng trở nên nghiêm trang.
“Nầy, em hãy nói đi, đó là quyền của em”. Anselm trả lời phục tùng.
Nàng nói : “Đây là điều nghiêm trọng của em và là lời nói cuối cùng của em. Anh có muốn đón nhận nó như nó đến từ linh hồn của em và không mặc cả so đo, dù cho anh không hiểu ngay điều đó không ?”. Anselm hứa. Bây giờ nàng vừa nói vừa đứng dậy và đưa tay cho chàng.
“Nhiều lần anh đã nói với em là mỗi khi anh nói tên em anh đều cảm thấy nhớ đến một điều gì đã bị lãng quên nhưng đối với anh đã là rất trọng đại và thần thánh. Đó là một dấu hiệu, Anselm à, và điều đó đã thúc đẩy anh trong mọi năm đến với em, em cũng tin là anh đã đánh mất và quên đi một điều gì quan trọng và thần thánh trong linh hồn mình, điều đó cần phải được đánh thức lại, trước khi anh có thể tìm ra hạnh phúc và đạt tới định mệnh của anh : Hãy đi và hãy nhìn cho đến khi tìm lại được trong ký ức anh điều đó, điều mà anh nhớ đến mỗi khi anh gọi tên em. Ngày nào anh tìm ra được thì ngày ấy em sẽ là vợ anh, sẽ đi với anh đến nơi nào anh muốn và sẽ không có ước muốn nào nữa ngoài ước muốn của anh”.
Chàng Anselm bối rối bàng hoàng muốn ngắt lời nàng và trách rằng lời yêu cầu đó là một tính chướng, nhưng tia nhìn trong sáng của nàng nhắc nhở lời chàng đã hứa nên chàng phải ngậm yên. Với cặp mắt mỏi mệt và chịu thua chàng nắm tay nàng đưa lên môi hôn và từ giã.
Trong đời chàng đã nhận nhiều bổn phận, và đã giải quyết chúng, nhưng không bổn phận nào kỳ lạ, quan trọng mà lại nản chí như bổn phận này. Ngày ngày chàng đi lang thang và ngẫm nghĩ về nó đến mệt nhoài, có lúc chàng tuyệt vọng và giận dữ cho công việc này là một tính khùng của đàn bà và đã toan vứt đi không nghĩ đến nữa. Nhưng rồi trong thâm tâm của chàng có điều gì ví như một chút đau bí ẩn và mỏng manh, một nhắc nhở không lời rất dịu dàng phản đối lại ý nghĩ đó. Giọng nói nhỏ nhẹ này, giọng nói đi từ thâm tâm của chính chàng, đã đồng tình với Iris và cũng đòi hỏi như nàng vậy.
Duy công việc đó quả thật là khó khăn cho người đàn ông trí thức này. Chàng phải nhớ lại điều mà từ lâu chàng đã quên khuấy đi, chàng phải gỡ cho ra một sợi dây vàng duy nhất khỏi tấm lưới nhện của những năm dài đã chìm mất vào lãng quên, chàng phải vớt bắt bằng hai tay và phải đem lại cho người yêu một thức gì mà thứ đó không chi khác hơn là một tiếng chim kêu đã thoảng đi, một thoáng bay của cảm hứng hay u sầu khi nghe một bản nhạc, một thứ gì còn mỏng manh hơn, phôi pha hơn và vô hình hơn tư tưởng, hư vô hơn một giấc mộng ban đêm, và lãng đãng vô định còn hơn sương mù buổi sáng.
Lắm lúc, khi chàng đã toan vất đi tất cả vì chán nản và cáu kỉnh, thôi không tìm kiếm nữa, thì tuồng như vô tình có cái gì thổi nhẹ vào tâm hồn chàng như một hơi thở từ những khu vườn xa xôi, chàng thì thầm với mình tên Iris, mười lần và nhiều hơn, nhỏ nhẹ và đùa cợt như khi người ta thử âm thanh trên một phím đàn căng dây, “Iris”, chàng thì thào, “Iris” và với một cơn đau nhẹ chàng cảm thấy trong thâm tâm có điều gì đang chuyển động, y như trong một căn nhà cũ bị bỏ hoang cánh cửa vô cớ bỗng mở ra và tấm song kêu kẽo kẹt. Chàng kiểm soát lại những hoài niệm mà chàng tưởng đã mang trong mình một cách thứ lớp. Chính trong lúc kiểm điểm này chàng đi đến những khám phá kỳ lạ và kinh ngạc. Kho tàng kỷ niệm quả là vô cùng bé nhỏ nhiều hơn là chàng tưởng : Ngoảnh lại thì thấy những năm tròn mất đi và đứng trơ trống rỗng như những trang giấy không có chữ viết. Chàng bắt gặp mình phải cố gắng lắm mới tưởng tượng lại rõ rệt hình ảnh của mẹ, chàng đã hoàn toàn quên không biết cô gái hồi chàng còn thư sinh theo đuổi tán tỉnh say mê một năm tròn tên là gì. Chàng sực nhớ đến con chó ngày xưa chàng mua trong một phút bốc đồng hồi còn là sinh viên, chú ta đã sống với chàng một quãng thời gian lâu. Vậy mà phải mất mấy ngày chàng mới nhớ lại tên con chó.
Lòng đầy đau thương, chàng trai tội nghiệp nghiệm ra với bao nỗi buồn nản và lo âu chồng chất rằng quãng đời sau lưng mình đã điêu tàn và trống rỗng biết bao, quãng đời đó không phụ thuộc vào chàng nữa mà xa lạ và không liên hệ gì đến chàng, tỉ như điều mà xưa kia ta đã thuộc nằm lòng nhưng bây giờ phải mệt nhọc ráp lại từng mảnh vụn vô vị. Chàng bắt đầu viết, chàng muốn quay trở về từng năm, từng năm một viết lại những mảnh sống quan trọng của đời mình, để được nắm lại chúng trong tay. Nhưng ở đâu là những mảnh đời quan trọng nhất ? Lúc chàng trở thành giáo sư chăng ? Lúc chàng có lần là ông tiến sĩ, là cậu học sinh, là chàng sinh viên chăng, hay có lần trong quãng thời gian bặt tăm lúc có cô gái này cô gái nọ đã làm chàng vừa lòng một thời gian chăng ? Hãi hùng, chàng ngước nhìn lên : Đó là đời sống chăng ? Và đời sống chỉ có thế thôi sau ? Chàng đập tay vào trán và cười dữ dội.
Trong lúc đó thời gian vẫn trôi qua, chưa bao giờ thời gian lại qua mau và tàn nhẫn đến thế. Một năm đã chấm dứt và chàng thấy mình vẫn đứng đúng y một chỗ như trong giờ phút giã từ Iris. Tuy nhiên mỗi người ngoài chàng ra đều thấy và biết là chàng đã thay đổi rất nhiều. Chàng trở nên vừa già hơn vừa trẻ hơn. Đối với bạn bè chàng hầu như thành xa lạ, người ta thấy chàng lơ đãng, hay cáu và kỳ cục, lâu dần chàng được mệnh danh là một quái nhân, thật đáng tiếc cho chàng, nhưng cũng do chàng cứ ở vậy làm trai tân quá lâu mà ra thế đấy. Đã có lần chàng quên cả bổn phận của mình và học trò chàng đợi chàng vô ích cả buổi. Lại có khi chàng lếch thếch trên đường phố, lần theo những ngôi nhà và quét bụi của vệ thành bằng cái quần rách rưới lê thê. Nhiều người cho là chàng đã bắt đầu uống rượu. Lần khác có lúc chàng bỗng ngưng lại chốc lát giữa bài giảng trước học trò, ngẩn người lục lạo trong trí nhớ một điều gì, rồi mỉm cười một cách trẻ thơ và nhiệt thành - điều mà người ta không bao giờ thấy chàng hành động như thế, rồi tiếp tục giảng bằng một giọng ấm áp và cảm động đi thẳng vào tim của học trò.
Chàng không biết rằng từ lâu một ý nghĩ mới đã đến với chàng trong chuyến thám hiểm vô vọng theo sau những hương thơm và dấu vết đã bị thổi mất của những năm tháng xa xưa. Lắm khi chàng nhận thấy rằng đằng sau những điều chàng gọi là kỷ niệm còn nằm những kỷ niệm khác nữa, ví như trên bức tường đầy tranh vẽ đôi khi còn có những bức tranh xưa hơn, bị vẽ chồng lên, nằm ngái ngủ đằng sau những bức vẽ cũ. Có khi chàng muốn soát ký tức để nhớ về một điều gì, ví dụ tên một thành phố, ở đó kẻ du khách là chàng đã dừng lại đôi ngày, hay là nhớ ngày sinh nhật của một người bạn, hay nhớ một điều gì đó và trong khi chàng đào bới và lục lọi một mảng nhỏ của dĩ vãng như một đống tro tàn, chàng bỗng sực nhớ một điều hoàn toàn khác hẳn. Một thoáng hơi thở bao trùm lấy chàng, như một làn gió tháng tư, hay một ngày mù sương tháng chín, chàng ngửi thấy một hương thơm, nếm một mùi vị và cảm thấy những cảm giác dịu dàng âm u ở đâu đây, trên da, trong mắt, trong tim và dần dần điều đó trở nên rõ rệt với chàng : Phải là vào một ngày nào đó xưa kia, trời xanh và ấm hay mát và xám, hay một ngày nào đó, và tinh hoa của ngày ấy đã được giữ lại trong tim chàng và vẫn còn treo lơ lửng như một kỷ niệm lờ mờ trong tâm tư. Chàng không thể tìm lại được cái ngày xuân thì hay đông giá ấy trong quá khứ có thật của chàng, cái ngày mà chàng đã ngửi và đã cảm nhận một cách thật rõ rệt, chúng đã không có tên và không có số, có lẽ trong thời sinh viên, có lẽ lúc chàng đang còn nằm trong nôi, nhưng thoáng hương xưa đã thoảng về và chàng cảm thấy trong lòng có điều gì sống động mà chính chàng không biết rõ cũng như không thể gọi tên hay xác định được. Lắm khi chàng có cảm tưởng rằng khả dĩ xuyên qua cuộc đời hiện tại này những hoài niệm ấy có thể lui về chạm mặt với những quá khứ của cuộc hiện hữu trước đây, mặc dù chàng mỉm cười nghi ngờ về điều đó.
Có lắm điều Anselm đã tìm thấy được trong các cuộc lang thang vô định qua những ngõ thẳm của ký ức, lắm điều chàng đã tìm thấy làm cho chàng cảm động và xao xuyến, cũng có nhiều điều làm chàng kinh hãi và lo sợ, nhưng có một điều chàng đã không tìm ra được, đấy là cái tên Iris có ý nghĩa gì đối với chàng.
Thuở ấy trong cơn dày vò vì không thể tìm ra được điều đó, chàng trở về thăm lại quê cũ, thấy lại những khu rừng và các con đường, những cầu gỗ và hàng rào, chàng đứng trong khu vườn của thời thơ dại và cảm nghe lòng bồi hồi, quá khứ bao trùm chàng như giấc mộng. Buồn bã và yên lặng chàng rời chốn cũ trở về thành phố. Chàng cáo bệnh và đuổi khách không tiếp một ai.
Nhưng có một người tìm đến. Đó là người bạn mà chàng đã không gặp nữa từ ngày chàng xin cưới Iris. Người ấy đến và thấy Anselm ngồi lếch thếch trong thảo am tẻ ngắt của chàng.
“Dậy đi !” Người bạn nói, “Iris muốn gặp anh đấy !” Anselm nhổm bật dậy :
“Iris hả ! Chuyện gì xảy ra cho nàng vậy ? Đấy tôi biết mà, biết mà!”
Người bạn dục : “Ừ, đi với tôi ! Iris sắp chết rồi, nàng bị bệnh từ lâu rồi”.
Hai người đi đến Iris, nàng nằm trong giường tĩnh dưỡng, nhẹ và gầy như một đứa trẻ, và mỉm cười rạng rỡ qua đôi mắt mở lớn. Nàng đưa bàn tay trẻ thơ trắng và mảnh cho Anselm nắm, bàn tay nằm trong tay chàng như một bông hoa, vẻ mặt nàng như đã biến sắc và nói :
“Anselm ơi ! Anh có giận em không ? Em đã đưa cho anh một sứ mệnh rất khó khăn, và em biết là anh vẫn trung thành với nó. Hãy tiếp tục tìm kiếm và hãy đi con đường đó cho đến khi anh đến đích. Anh đã nghĩ vì em mà đi con đường đó, nhưng anh đi cho chính anh đấy, anh có biết điều đó không ?
“Anh linh cảm điều đó”, Anselm nói, “và bây giờ thì anh biết rồi. Đó là một con đường dài, Iris à và anh đã toan trở gót từ lâu, nhưng anh không còn con đường lùi nữa. Anh không biết rồi sẽ ra sao”.
Nàng nhìn thẳng vào đôi mắt buồn rầu của Anselm, mỉm cười trong sáng và an ủi, Anselm cúi xuống trên bàn tay mỏng manh và khóc rất lâu đến nỗi bàn tay nàng ướt đẫm nước mắt của chàng.
“Anh sẽ phải ra sao”, nàng nói bằng một giọng mơ hồ như một tia sáng kỷ niệm, “anh có phải ra sao, điều đó anh phải tự hỏi mình. Trong đời anh, anh đã tìm kiếm nhiều rồi. Anh đã tìm kiếm danh vọng, hạnh phúc và tri thức và anh đã kiếm em, Iris bé nhỏ của anh. Tất cả điều đó chỉ là những hình ảnh đẹp và chúng lìa bỏ anh như em phải lìa bỏ anh bây giờ. Chính em cũng đã ở trong tâm trạng này. Luôn luôn em đã tìm kiếm và luôn luôn chúng là những hình ảnh đẹp đáng yêu và luôn luôn chúng lại rơi rụng và héo tàn. Bây giờ em không biết một hình ảnh nào nữa, em không tìm kiếm gì nữa, em đang trở về quê nhà và chỉ cần bước một bước nữa thôi là em ở trong Quê...
Phượng Các
#3 Posted : Saturday, December 11, 2004 3:04:04 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Trịnh Công Sơn, Nơi Vùng Ưu Tư Thành Tiếng Du Ca

Thái Kim Lan


Như một sợi chỉ luồn theo cây kim, tin Công Sơn mất đến với chúng tôi trong buổi tưởng niệm ngày giỗ thứ 40 năm của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị tại nhà văn học nghệ thuật ở đường Lê Lợi Huế. Tối ấy anh em nghệ sĩ đến nghe bình thơ khá đông, chúng tôi, chị Hỷ Khương, Bửu Ý, Gia Phàm, Như Ngân, Xuân, Xuân Quế, tôi và một số anh chị em nghệ sĩ khác đứng xúm vào nhau, nghe sợi chỉ theo cây kim níu mình xích lại gần hơn một tí với người bạn bên mình trong nỗi nhói đau một chút nơi tim.

Bỗng nhiên ít lời, một chút cay nơi mắt, một chút rã rời nơi vai, chúng tôi đứng như thế quây quần chôn chân, hình như có ai nói như một lời vĩnh biệt nủa buồn nửa vui: "Thôi rứa là từ nay hắn bỏ mình đi rong chơi chỗ khác... hắn bỏ đi thiệt rồi!"

Cái tên lãng tử nhu mì này! Tiếng hát lênh đênh, "chén rượu say uống hoài", rong chơi cả một kiếp người, bây giờ dứt áo ra đi ‘lìa bầy, chim bỏ đường bay‘, thỏng tay viễn du nơi chốn nghìn trùng...

Sơn ra đi! Cái vòng quây quần - như chúng tôi đang đứng với nhau chiều hôm ấy, nhiều đứa tóc đã rối bời sương muối - cái vòng bạn bè hay cái vòng tử sinh của thế hệ thập niên 40-60 chúng tôi, như chúng tôi đã thường đứng hay ngồi như thế mỗi khi gặp nhau ở lứa tuổi 20, như sút đi chốt mộng, chùng giây, tuột phím... cái vòng lỏng lẽo, rã rời!

Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nớirộng ra,như những làn sóng, khởi đầu từ một điểm xoáy nơi nào đó ở Huế, có thể nơi khúc sông Bến Ngự, hay nơi hồ Tịnh Tâm, hay ở bến Bao Vinh, hay ở đồi Vạn Niên, ở đó Sơn ném một viên sỏi là tiếng hát của mình vào đấy và làn sóng lan ra, từ thế hệ chúng tôi cho đến thế hệ trẻ ngày hôm nay, từ Huế đến Sài-Gòn, Hà Nội, Cà Mâu hay Lạng Sơn, vượt qua mấy lần đại dương và cái vòng quây quần quả đất bao la, hôm qua, ngày nay và có lẽ mai sau...

Sơn là Tiếng Hát Trịnh Công Sơn của Mọi Người.

Nhưng chiều hôm ấy tôi vẫn thấy - hay bởi mình muốn thấy như vậy - Sơn như vừa mới đứngdậy rangoài châm điếu thuốc, rồi sẽ trở lại ngồi giũa chúng tôi, trong vòng bạn bè, có thể chỉ là ba, hay bốn, hay mười, hay hai mươi đứa, ở Huế, tại nhà một người bạn nào đó, Chỉ, Ý, Tường, Tôn, Hùng, MLan, KLan, Điền, Hạnh, Thọ, Kỳ, Lý... ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương, là vùng tâm tư của những người bạn đang tuổi thanh xuân, ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh, lắng nghe những nỗi sôi, những phiền muộn quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình... trong vùng tôi xin gọi là vùng ưu tư của Huế những năm 60.

Vòng Bạn Bè

Chính trong những năm tháng ấy lần đầu tiên tôi gặp bộ ba - chữ của HPNTường - Tường - Cường - Sơn. Nguyên do thật là rất Huế, có thể tìm thấy rải rác đâu đó trong các bài hát của Sơn.

Một buổi chiều nắng vàng chiếu nghiêng trên nón lá, đường phố chính vắng người, không gian yên tĩnh có thể nghe thấy cả tiếng thời gian, chỉ có rộn rã tiếng guốc của mấy cô nữ sinh viên - đã có thể là BDiễm, TMai, Han, KLan hay MH, NB, DL, KL - đi dạo phố mua sách vở, tà áo lụa lướt bay trong nắng, bụi mờ đàng xa, và có một chàng trai xa lạ nào, có lẽ từ xứ Quảng ra, "chiều một mình qua phố", đang đứng ngơ ngác nhìn đường phố, bỗng tà áo lụa như có sức hút nam châm, chàng trai thấy mình thơ thẩn bước theo.

Chiều hôm sau nghe báo có anh Tường đến thăm mượn sách, lúc ấy anh Tường tuy đã đi dạy văn nhưng học thêm môn cử nhân triết cùng khóa với tôi, anh đến với hai người bạn nữa, cái người hôm qua đi theo tà áo lụa và người kia là Sơn, "đi theo cho vui" như Sơn bảo. Chiều hôm sau nữa thì tôi cũng biết thêm là trong nhóm bạn của mình, có đứa là bạn của Sơn.

Huế nhỏ bé là như thế ấy, người này là bạn của bạn cuả bạn của bạn... và bạn bè thành ra những vòng tròn quây quần với nhau. Chỉ cần một tiếng "Ới!" của thằng bạn ở trước ngõ là đứa trong nhà đã vội vàng với cái mũ bê-rê dắt xe đạp ra mà đi rong suốt ngày làm cho cả nhà chới với chờ cơm... HPNTường hôm ấy thao thao, vì lấy cớ đi mượn sách nên phải nói về sách. Chúng tôi trao đổi với nhau một vài đoạn về chủ nghĩa hiện sinh trong cuốn Hữu Thể và Hư Vô của J. P. Sartre, một chút về ý niệm thời gian của Heidegger, mà chúng tôi đang đọc ở trường.

Sơn ngồi nghe chúng tôi bàn cải, phân tích, hình như Sơn không bao giờ thay đổi dáng ngồi của mình, khi nào cũng như thế, tham dự nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái như khi ở giữa đám bạn thân, lắng nghe, chú ý mà không chút chi cố gắng, ít tranh cãi, dễ thân thiện tự nhiên, một chút phù phiếm và mỏi mệt nơi dáng người, và ánh mắt xa xôi với những chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình cũng như với mục đích khoa danh mà mỗi người sinh viên Huế thời ấy thường đặt ra cho mình.

Gió Phương Tây

Chủ nghĩa Hiện Sinh với Heidegger, Sartre, A. Camus, phong trào điện ảnh với Jean-Luc Godard, thể điệu chanson với Juliette Greco, Francoise Hardy ở phương Tây đã đến với lớp trẻ chúng tôi trong những năm của thập niên 60 như một làn gió chướng thổi qua cái thành phố Huế, nhỏ bé, đóng khung, còn rất cổ kính trong cách nghĩ, cách làm ấy.

Những danh từ như hiện sinh buồn chán, xao xuyến, hư vô, thời gian, hữu hạn và vô hạn, buồn nôn, thân phận con người, sự vô nghĩa của cuộc đời, nỗi hoài công phi lý của Sisyphus(1), ý niệm về siêu hình, bản thể học đã như những tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng tôi thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của tri thức. Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có chi là mới so với triết lý Phật giáo cả - thế nhưng lúc ấy chúng có một sức thu hút quyến rũ kỳ lạ trong cái khung cảnh đều đều êm đềm của xứ Huế, thành trì của thủ cựu và khuôn sáo, là những hàng rào ước lệ mà lớp trẻ thường hay muốn vuợt qua.

Chúng tôi thường gặp nhau để kể cho nhau nghe về một quyển sách đã đọc, soạn bài, tranh luận. Và có lần với cây đàn ghi-ta, Sơn bắt đầu hát cho chúng tôi nghe.

Ưu Tư và Du Ca

Khi nghe Sơn hát tôi giật mình. Vì Sơn hát... môn siêu hình học về cuộc đời, về tình yêu đó! cái môn mà những con sâu gạo triết - như Đinh Cường vừa nhắc lại, là chúng tôi đang còn điên đầu vật lộn với nó, nhưng ngược lại, chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, Sơn đã hát triết học như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể câu chuyện cổ tích Tấm Cám.

Như một con ve vừa mới thoát xác lần thứ mấy mươi nghìn năm từ lòng đất của Huế, đã đi về thường xuyên trong tâm thức Huế, đã rung động và cảm ứng với trời đất Huế, với một âm điệu giản đơn thoát từ gam trầm của giọng Huế, Sơn đã trả lời trong cảm ứng vô thức những tiếng gõ cửa từ phương xa và giải thể chúng tôi ra khỏi ngõ bí của tư duy.

Trong cái không khí sôi nổi của tuổi trẻ đô thị ham mê siêu hình, Sơn đã bắt đầu hát thay vì cãi nhau, thay vì lý luận dông dài với đám bạn bè, với cả thiên hạ, Sơn hát cho vui với anh em như Sơn thường nói, Sơn hát như một sự tham dự vào những đàm luận của bạn bè thuở đó và về sau của cả thiên hạ, mà đúng thật, Sơn hát với những ưu tư thâm kín nhất của tuổi hai mươi chúng tôi, với những tư duy của thế hệ trẻ chúng tôi và với một cách đặt vấn đề - biệt ngữ của phong trào học triết học siêu hình thời ấy, khác với những người nhạc sĩ đi trước.

Sơn hát như cách thế cổi dép đội lên đầu đi ra khỏi giảng đường của Thiền sư Triệu Châu(2) không phải là để bỏ đi, từ chối, mà là một cách thế mở ngỏ cho sự sống như Triệu Châu.

Hãy xem: Sơn hát đề tài có cái gì là khởi đầu, có gì là cái cuối cùng - ngõ bí của triết học đấy, nhưng với chất keo của một điệu ca bông đùa diễu cợt, và một chút ranh mãnh hiền triết của một thiền sư thỏng tay vào chợ, Sơn hát "không có chi đâu này, là có cái chết đầu tiên, không có chi đâu này, là có cái chết cuối cùng... ", hát như con bê điên cứ đánh lưỡi tùy theo cảm hứng của nó lúc chạy theo chế diễu mọi người ở trên một đường phố nhỏ của Huế. Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau.

Sơn hát đề tài bản thể và hư vô và nhắc chúng tôi tìm về dòng sông Hương nhìn nước chảy, để thấy hay nghe "tay hư vô thắp nến, chiều chơi vơi lên cao, rồi dòng sông cũng qua mau, đưa người gợi mối sầu... " trong một giai điệu tiếng nước chảy ngược về nội tâm, để thấy sông không chảy mà tâm mình đang chảy. Ai định nghĩa được hư vô? Khổng tử cũng đã đến dòng sông để thể nghiệm với tiếng thở dài: Nước trôi mãi như thế ư ? Phạm Duy hát "im nghe nước chảy về đâu" trong một cảm giác buồn bã trôi xuôi. Với ý niệm hư vô, Sơn đặt lại vấn đề và giải mã sự biến đổi, sự trôi chảy của giòng sông với cảm tính triết học của mình trong âm giai sâu lắng, giữa tỉnh và mê, giữa buồn bã và giác ngộ.

Sơn hát đề tài nỗi hoài công của Sisyphus bằng tiếng vang của vết lăng trầm... phiến đá... ưu phiền... của một cuộc đời phiêu lãng quên tuổi xanh... quê nhà xa vời vợi... cô liêu vây quanh, của mùa thu bay đi với vòng tay buồn ôm nuối tiếc và đưa ta về với khung cảnh Huế - không phải Huế thơ mộng mà là một Huế như chốn lưu đày đồng thời là quê nhà trong nỗi nhớ, bằng một tiếng than dài như xâu chuỗi âm hưởng quấn quýt luân hồi.

Cũng phải nói thêm rằng thuở ấy, việc đi hát đối với các vị cha mẹ người Huế là một chuyện đáng nghi ngờ, nền nếp gia phong được rào lại kín cổng cao tường, không ai muốn cho con mình đi hát... hỏng đàn đúm rong chơi với những kẻ lãng tử giang hồ. Những bài hát mới do đó đối với chúngtôi thườngnhư những trái cấm.

(...)

Tình Huế

Ở Huế có lẽ có một mối tình thủy chung duy nhất không bao giờ tàn phai, đó là tình yêu cảnh Huế của người Huế, như núi Kim Phụng mãi mãi đứng đó mà yêu hoài sông Hương bạc tình chảy xuôi, sông núi đã un đúc mối tình keo sơn của ngưới Huế với cảnh vật quanh mình ngay từ khi nằm trong nôi nghe mẹ hát "ru con cho tới làng Hồ..." "thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long...", hay "ru em cho thoét cho muồi, để mẹ đi chợ... mua vôi chợ Quán chợ Cầu, mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh".

Huế có lẽ là thành phố duy nhất trên quả địa cầu có cả núi và sông nằm ngay trong lòng, để cho người Huế dù cho đi xa mấy mươi năm, mấy mươi nghìn vạn dặm vẫn cứ mỏi mòn mong ngày trở lại dòng sông, trở về với núi.

Và tình nhớ Huế hầu như trở thành một cơn "mê chiều" của cảnh thức Huế lan khắp năm châu bốn bể từ Cali cho đến Sydney cho đến Paris cho đến Muenchen, Saigon, Hanoi, và ở nơi đâu khác nữa trên địa cầu có mặt người Huế, hiện tượng Nhớ Huế như một khủng hoảng căn niên của Huế hôm nay, và trong giờ phút đứng ngay trong lòng đất Huế chính tôi cũng thấy như mình đang đứng trong một bức tranh vẽ một người đang nhớ Huế...

Vườn cây, hoa lá, nắng mưa, mây gió, cảnh chùa đã ôm ru thời thơ ấu và tuổi niên thiếu của mỗi con người Huế, đã uốn nắn trong tâm thức sức nhạy cảm của người Huế trước thiên nhiên, đã trở thành những âm vang gợi cảm trong suốt cả đời người mỗi khi nghe mưa rơi, nghe lá đổ, nhìn nắng lên hàng cau, nghe hoa bưởi bắt đầu lên hương trong khu vườn buổi sáng...

Huế bốn mùa đã đưa chúng tôi quanh quẩn đi những con đường Thành Nội, Đông Ba, Ngự Viên, Lê Lợi, Bến Ngự, Nam Giao, An Cựu, Vĩ Dạ, Kim Long, Linh Mụ, Tịnh Tâm, Đại Nội... Những cuộc đi dạo thơ thẩn trên những con đường nhỏ, thường là đi bộ hay đi xe đạp chậm rãi - cuộc sống ở Huế dạo ấy không có cách chi khác hơn là chậm rãi, từ từ, thong thả, hình như song song với đi học, đi dạo là một thứ giải trí không thể thiếu trong thời khóa biểu của mỗi một người Huế ở thị thành.

Đi dạo, đi bộ, đi lang thang vì thế đối với chúng tôi đã là những cuộc hành thiền ngẫu nhiên, ở đó mỗi viên sỏi trên đường đi, một dòng nước nhỏ sau cơn mưa, mỗi chiếc lá rơi tan tác trên đường, mây chiều lãng đãng trên sông, nắng le lói trên vỉa hè, sự yên tỉnh của vườn cây, một đóa hoa vừa mới nở, một tiếng chim kêu, đã là những tín hiệu về cõi đời, về ý nghĩa của thân phận làm người, về sự phù du của thời gian và về ý nghĩa của sự đợi chờ, về tình yêu... Và mỗi cuộc đi, bên cạnh những sôi nỗi ồn ào của tuổi trẻ, thường có những bước lắng nghe, chìm đắm trong cảnh vật, đã có những chiêm nghiệm trước núi và sông, "con chim nó đậu cành tre, mưa nắng ở trọ bên trong mắt người".

Ca khúc của Sơn, nhất là ca khúc tình yêu, thường đã mang nặng cảnh thức Huế như một nguồn sống cho ý thơ và âm điệu.

Cho nên khi nghe nhạc của Sơn, người nghe nhất là người Huế thường có cảm giác mình đang đi trên một con đường nào đó ở quê hương, hay đang ở trên đường đi trong cơn mưa "thì thầm dưới chân ngà", trong "mùa hạ khói mây" hay "mùa đông vời vợi", để đến thăm người yêu, chỉ đến một thoáng rồi đi, chỉ để nhìn mặt hay không nhìn mặt người yêu rồi quay trở về trên đường sỏi đá bên khúc sông Bến Ngự, để vùi trong cơn sốt thương yêu "gọi thân hao gầy, gọi hồn ngất ngây".

"Diễm xưa" là mối tình đầu của Diễm Xưa - sau Ướt Mi một thời mê say giang hồ, Diễm Xưa đã trở thành ca khúc tình đầu của Sơn và "Diễm" đã trở nên một huyền thoại "Xưa" như chuyện Từ Thức gặp tiên, như một câu chuyện tình cổ lụy cho đời và cho cả chính Sơn.

Tình yêu đã đến với Sơn như một huyền thoại bất ngờ, như một cơn mưa đến từ cõi hoang sơ rơi trên tháp cổ, nên thật bàng hoàng. Có lần Sơn bảo, con gái Huế yêu thật lạ lùng, trong cơn đau vẫn trốn mẹ, tung mền mặc áo mưa băng qua cầu chạy như bay đến để chỉ đặt một trái cây hoặc một bông hoa trước cửa, không cần gặp người yêu, rồi ra về. Để cho người con trai sửng sờ, ngạc nhiên và lặng người trong nỗi nhớ nhung "buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, trên bước chân em âm thầm lá đổ, chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa"... nỗi nhớ vết chim gi, bay qua vùng đất rộng, ước sao bờ sông Bến Ngự nối liền. "Chiều này còn mưa sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau... hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau". Diễm ơi, Sơn ơi, những mối tình ở Huế!

Tôi nghĩ rằng không ai cả ngoài "Diễm xưa" vẫn luôn luôn là bóng dáng người tình trong những tình khúc TCS. Trong Như Cánh Vạc Bay, Quỳnh Hương, Tình Nhớ, Hạ Trắng, Mưa Hồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Tình Sầu v.v... vẫn thấp thoáng những nét đan thanh, chấm phá của Diễm: mảnh khảnh đến gió thổi bay, vai gầy guộc như đôi cánh cò (chúng tôi thường chế diễu nhau như thế), tay gầy lêu khêu, nét xanh xao, mái tóc rối quăn ôm gương mặt trái xoan nhỏ nhắn, bóng dáng chợt đến chợt đi chợt ẩn chợt hiện như trong Liêu Trai, dáng điệu thì yếu đuối như lúc nào cũng có thể ngất đi, nhưng trong lòng thì đầy cả đam mê bão táp.

Cái hình ảnh mảnh mai ẻo lả, lãng đãng như gần như xa, như có thực mà như không có thực ấy, khác hẳn với các khuôn mặt tình và khuôn mặt đẹp theo ước lệ trong những ca khúc tình yêu thường nghe, vẻ đẹp hao gầy mong manh trở nên nguồn cảm hứng không ngừng trong ca khúc tình yêu của TCS, xúc cảm từ một cuộc tình đam mê, trong trắng, mối tình học trò ngây thơ đầy hương sắc và ánh sáng mà Sơn chưa kịp nhận được thì đã thoáng bay.

Nếu tình yêu cảnh Huế keo sơn bao nhiêu thì tình yêu của người con gái Huế lại càng phù du như đám mây trời, như cơn mưa mùa hạ bấy nhiêu. Hình như là một thông lệ cho những người yêu nhau ở Huế: yêu ai thì rất mực yêu ai, nhưng khi tính cuộc trăm năm với người nào thì cha mẹ hay tiếng nói của mẹ cha đã nằm sẵn trong tiềm thức của mỗi người quyết định, và thường khi quyết định một cách thực tế là không lựa chọn người mình yêu, dù "nỗi lòng anh đầy" nhưng "lời ca anh nhỏ" bé đơn sơ quá cho nên ước mơ "ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu" đã phôi pha để chỉ còn "Này em em hãy phụ người, này em xin cứ phụ tôi" "em cứ phụ đời" bởi vì trời đã sinh ra con gái Huế là để "yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Ai bảo Sơn không khổ vì yêu, thứ tình "mật ngọt trên môi" trở thành "mật đắng trong đời"? Cho cả cuộc đời, suốt cả bốn mùa mưa nắng "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói, đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi". Có khổ tận trong tình yêu, có đạt đạo trong nỗi khổ mới thể nghiệm được nghĩa vô thường của "yêu là chết" và có thể đồng cảm với niềm vui và nỗi khổ của những ngưòi đang yêu. Trong tất cả ca khúc tình yêu của Sơn luôn luôn có tấm tình riêng chia với tấm tình chung, như đã "yêu em" thì "yêu thêm tình phụ", như "trên lá khô" chảy ra "dòng suối" tình yêu không tuyệt vọng...

Và đền bù lại cho những mối tình mây nổi,đã có tình bạn hữuthật chí thiết, đưa vai hứng đỡ những cơn tuyệt vọng chết người "đừng tuyệt vọng, ai ơi đừng tuyệt vọng!" "Bạn bè ở Huế thương nhau lắm, một đứa vợ la chín đứa kinh", có một nhà thơ nhận xét như vậy sau này. Cô đơn vì người tình hờn dỗi lắm khi không cô liêu bằng khi "bạn bè rời xa chăn chiếu". Và khi bạn yêu người nào thì hình như mình cũng yêu người ấy, khi bạn thất tình thì mình cũng đau khổ không kém gì nỗi đau của bạn. Trong những lúc Sơn lụy vì tình, đã nhiều lần thay bạn đi thuyết khách, giải thích, hóa ra ai yêu nhau ai giận nhau thì bạn bè đều mau mau đứng ra chịu trận như chính mình là người trong cuộc. Và chính Sơn cũng đã tâm sự với tôi như thể tôi cũng là người trong cuộc của hai người. Sơn ơi, người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai bỏ đi ai ở lại với tình, ai buồn hơn ai?

Trong rất nhiều tình huống của những năm sáu mươi ở Huế, Sơn thường đứng ngoài cuộc, trong lúc chúng tôi dấn thân trong vòng khổ nạn của Huế 1963, nhưng mãi đến hôm nay mới biết được - dù hãy còn mơ hồ - người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm hơn ai, và tình bạn hữu đã khắn khít như thế nào giữa người đứng trong và người đứng ngoài hàng rào dây kẽm gai.

Mái Chùa

Đối với người Huế, và đối với chúng tôi, yêu cảnh Huế hầu như cũng đồng nghĩa với yêu cảnh chùa ở Huế. Hình như trong tất cả những lần đi ngoạn cảnh hay đi lang thang ở Huế, vô tình hay hữu ý nơi đến cuối cùng thường là bước vào cổng chùa, đứng nghỉ nắng hay chờ tạnh mưa dưới mái tam quan hay vào xin một chén nước chè tươi đỡ khát hoặc một chén trà ướp sen cho ấm lòng, tiện thể vào chiêm ngưỡng tượng Phật, thắp hương cho vị tổ sáng lập chùa, thăm thầy trụ trì, nghe một câu chuyện thiền trong một không khí ít lời, thong thả, mát dịu.

Thế rồi bóng nắng mời gọi, hoa trái trong vườn mời gọi, cỏ cây trong sân mời gọi là chân bước theo chân, là mắt đưa theo mắt, là tai chìu theo tai, ngẩn ngơ trong vườn sắn, vườn chè, rừng cây cổ thụ, nơi hồ sen, nơi tiếng ve kêu, nơi chùm khế sây trái, dừng lại nơi lá xanh reo, nơi suối róc rách, nơi hoa sen nở, nơi hoa mộc thơm hương - dù chỉ một vài giây vô niệm, không chủ ý - nhưng cũng đủ để thể nghiệm sự tĩnh lặng thường còn trong vạn vật, ở đó thong dong đi về không còn ngăn cách là thấy và nghe, cảm và nghĩ, xúc giác và khứu giác trong một toàn thể bao hàm tất cả những mâu thuẫn của sự trôi đi và dừng lại..

Buổi dừng chân có thể chỉ đủ để bóng nắng nghiên trên triền đồi hay cơn mưa vừa tạnh hạt, nhưng cũng có thể để ngả lưng đợi giờ tắt cơn nắng gắt hay cơn mưa dai dẳng chưa dứt, để thấy hơn một lần hư không là nắng và vô thường là mưa.

Hay nhiều khi có thể lưu lại chùa vào một đêm trăng sáng, nghe tiếng hòa điệu rộn ràng của trăm thức hương lồng bóng nguyệt hay cảm được tiếng kinh Phổ Môn cầu an tẩm ướt ánh trăng thấm đượm thân thể như giọt nưóc cành dương, rồi bỗng chiêm nghiệm được trong khoảnh khắc tiếng yêu đương và tiếng yêu người cũng chỉ là một, "yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ".

Có lẽ trong tất cả những người thanh niên trẻ của thế hệ chúng tôi, Sơn là người đã bắt gặp được sự đốn ngộ bất ngờ ấy sớm hơn ai cả, không phải nghĩa "sớm" của "trước sau" mà là đã "từ bao giờ" không ai hay - trong vòng tay của người mẹ mộ đạo Phật ru đứa con đầu lòng, của gia đình thành tâm thương Phật anh em có nhau khắn khít, của cả mấy đời người Huế thương chùa, của cả mảnh đất thần kinh thâm u miệt mài hai chữ tu tâm - nên đến bây giờ, chĩ cần một chút "run rẩy" của lá là đã chuyển động "Phật tâm viên tròn thể tánh" trong ý nghĩa đơn giản nhất: chứng ngộ, thấy được chữ "thương ai" (ta và người= từ bi) viết đậm nét trên chiếc lá "hư không".

Mỗi ca khúc của Sơn vì thế - như ít có nơi những kẻ đi trước và những người đồng thời với Sơn trên lãnhvực âm nhạc có thể nghe và cảm nhận như những công án thiền về cuộc đời, mà mỗi câu hỏi siêu hình về nó đều bị trả đũa bằng một hay hai điều tầm thường, vớ vẩn trong chính cuộc đời; ở đó chữ nghĩa mất hết tính cách ước lệ, qui luật văn phạm, sự vô nghĩa nằm sát bên có nghĩa. Có ai không bất ngờ khi nghe câu hỏi đạo đức "Sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm chi em có biết không?" được Sơn phổ thành bài ca với câu trả lời: "Để cho nước cuốn đi", cũng chẳng khác chi công án thiền: "Ý nghĩa thật sự của Bồ Đề Đạt Ma đi về phương Đông là gì?" Trả lời: "Cây trắc bá trong sân!" Trong bài ca, vô nghĩa đứng cạnh có nghĩa mà vẫn không nghịch lý, người nghe không thấy chõi tai mà ngược lại cảm thấy cảm xúc lăn tròn theo tiếng hát, và trong chuỗi âm thanh theo đuổi nhau, mọi nghịch lý, phi lý làm cho con người nghẹt thở của một Sisyphus hì hục lăn tản đá cuộc đời đều được giải tỏa bằng một hơi thở dài trút hết ưu phiền của tiếng hát lênh đênh.

Mỗi tiếng mỗi chữ trong các ca khúc trở thành những đơn thể của tâm thức trong tính cách hiện sinh duy nhất, tràn đầy sinh động của chúng đã được Sơn sử dụng một cách sáng tạo như những phương tiện "tiếng vỗ của một bàn tay"(3) nhằm đánh thức âm hưởng nội tâm của mỗi người nghe, từ đó người nghe có thể đưa thêm vào bàn tay của mình để gây âm thanh cho chính cảm xúc của mình. Và tiếng ca, từ những cọng lá khô không lời, những viên sỏi vô tri im tiếng, bỗng xôn xao "cây lá vào mùa", bỗng lao xao sóng vỗ bờ xa...

Những ý niệm, những ngôn từ trong đạo Phật - hư vô, hư không, cõi tạm, vô thường, cõi đi về, tiền kiếp, từ bi... thường được xem như những món "cơm chay" khắc khổ, đã được Sơn hóa giải rất tài tình trong lời ca theo nguyên tắc suốt cả 49 năm Phật không thuyết một lời nào, bỏ hết tất cả những chất khô cứng đóng khung của ngôn ngữ dù đó là lời kinh, chúng được lắng nghe và linh cảm trong bản chất âm giai nội tâm đối đãi nguyên sơ nhất của chúng. "Tôi đã lắng nghe im lặng dòng sông... tôi đã lắng nghe im lặng ngọn đồi... tôi đang lắng nghe im lặng của tôi... tôi đã lắng nghe im lặng thở dài". Bài hát sâu lắng như một buổi toạ Thiền quán sát hơi thở.

Hư vô, cõi tạm do đấy được xử dụng như tiếng thô "đục" của mõ và "thanh" bổng của chuông, hai phương tiện của nghe kinh ngộ đạo đơn sơ nhất, căn cứ vào tầng rung cảm âm thanh bẩm sinh của mỗi con người, nói nôm na là tiếng lòng của mỗi người mà âm vang của tiếng mõ và tiếng chuông có thể làm nở "đoá hoa vô thường", có thể chở ta ra đi viễn xứ và mang chúng ta trở lại quê nhà.

Có thể nói tính cách tân kỳ của ca khúc TCS nằm ở chỗ trong khi Sơn chuyển ý niệm sắc không vào âm nhạc, Sơn đã làm mềm chúng bằng cách dựa vào giai từng cơ bản đối đãi giữa giải thoát và cõi trần cát bụi, trong tương quan chuyền qua đối lại giữa đục - thanh, trầm - bổng của mõ và chuông, từ đó tùy tâm mà chuyển đổi và ứng dụng tất cả những phương tiện khác của âm nhạc - tứ đại cảnh, ru em, hò hay điệu blue buồn hoặc điệu soul của phong trào tân nhạc Âu châu chẳng hạn, để sáng tạo nên thể cách riêng tư của mình. Trong tất cả dòng chảy của âm nhạc TCS, sự tĩnh lặng thoát ra từ âm thanh "chuông mõ" luôn luôn làm nền tảng cho sự cảm nhận nét nhạc của mỗi bài ca, dù cho bài ấy có dồn dập đến đâu.

Chính nhờ nguyên tắc đối đãi, mà lời và nhạc của Sơn luôn luôn biến chuyển không ngừng, trong nắng hư vô đã thấy tóc em dài, đường xa áo bay, và lời ru của mẹ lời ru cho em thường dẫn ta đi vào cõi đời thường như một cõi đời mộng, để cho mộng thực luân lưu trong nội tâm quyện tròn thành một lời êm diụ như tiếng kinh dỗ dành giấc ngủ.

Có thể so sánh sức mạnh sáng tạo trong thơ nhạc của TCS với một công án của Hakuin, thiền sư và họa sĩ ngộ đạo nhất của Nhật Bản:

Tay không mà có cầm cán mai;
Đi bộ mà ngồi lưng trâu;
Người đi qua trên cầu,
Cầu trôi, nước chẳng trôi!

Cái cầu cố định hóa mềm dưới chân, nỗi ưu tư hóa mềm trong tiếng du ca. Trong cái nhìn của người nghệ sĩ, năm căn hay lục căn được cởi bỏ mọi giới hạn, để chỉ còn tự do sáng tạo, ở đó nghe là nhìn "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói", ngửi là nghe, vị giác cũng là nghe, "tôi đã lắng nghe im lặng mặt người", mà Hakuin (Thiền sư Bạch Ẩn) gọi là phạm trù "kikan" của mỗi công án, phạm trù của cơ cấu mềm dẻo và tự do. Trong cái nghe sáng tạo, tiếng rơi thô kệch của hòn đá rớt xuống cành mai bỗng hóa thành tiếng chim ca thánh thót hát khúc qua đời! Đứng dưới mái chùa, TCS đã trả lời Sisyphus bằng một công án như thế!

Một Niềm Vui,
Một Giọt Nước Mắt

Trong tất cả các bài hát của Sơn, có một bài duy nhất mà tôi ít thích nghe cũng như ít thích hát, đó là bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui sáng tác sau 1975. Không phải vì âm điệu buồn tẻ hay lời ca không hay, nhưng vì mỗi khi nghe hát bài này tôi lại nhớ đến Sơn của lần gặp lại năm 1977, khi tôi trở về Huế thăm nhà sau 12 năm du học.

Trở về Huế sau mười mấy năm xa cách, tôi đã gặp lại một Huế thật là - người Huế thường chỉ tình trạng này bằng bốn chữ tả chân... "xanh xương mét máu", một Huế đang giật mình, một Huế đang run sợ kinh hãi cho ngày mai, bên cạnh một Huế rất nghèo, rất khổ. Đi trên đường phố ít ai ngẩng đầu lên, có trao đổi một nụ cười với ai thì nỗi gượng gạo nơi người ấy đã ngăn vành môi bên kia không cho cười hết miệng.

Khác hẳn với một Huế ngày trước mà mỗi nụ cười là ánh sáng thân hữu hiếu khách, mà mỗi cái nhìn có phản chiếu sự trong trẻo của nước sông Hương trên khúc sông Linh Mụ mời gọi tha nhân đi sâu vào một câu chuyện mới làm quen, Huế 1977 mà tôi gặp lại là một Huế lơ đãng, sầu hận và nghi ngờ, một Huế bị phá sản hết mọi thiết tha.

Hãi kinh và ngơ ngác đọng trong mắt, trên nét mặt của mỗi người những vũng sâu thâm quầng. Lần trở về Huế năm ấy cho tôi một nỗi bơ vơ còn hơn những nỗi bơ vơ ở xứ người, vì đâu đâu hình như ai chẳng tin ai, ai cũng nghi ngờ lẫn ai, ai cũng oán hờn với ai, ai cũng sợ ai.

Chỉ có một niềm vui duy nhất: gặp lại gia đình và gặp lại bạn cũ. Trong khoảng thời gian mấy mươi ngày ở Huế, Sơn là người bạn đến thăm tôi nhiều lần nhất. Khác với ngày trước thường đi bộ ba,bộ bốn,lần này Sơn đến một mình. Vẫn dáng người gầy, mũ caskette nâu như năm nào, gọng kính trên mũi thanh, ánh mắt thân thiện như chưa bao giờ có một khoảng trống vắng trong tình bạn. Chúng tôi kể cho nhau nghe những điều đã làm đã học trong mười mấy năm không gặp.

Tuy xa nhau rất lâu, nhưng hình như lúc nào Sơn cũng có mặt không những chỉ cho riêng tôi mà cho thế hệ chúng tôi, ở những nơi xa xôi nhất như cái thành phố Âu châu mà tôi đang ở. Nhạc tình, nhạc về chiến tranh và hòa bình của Sơn trong những năm trước 1977 đã nở rộ và âm vang đến cộng đồng người Việt khắp năm châu. Ở nơi quê người chúng tôi đã hát nhạc của Sơn như nỗi ưu tư của mình về số phận của đất nước và con người Việt Nam, về nỗi khổ chiến tranh, về khát vọng hoà bình.

Khác với những ca khúc khích động xuống đường thời ấy như "dậy mà đi', "cỏ cú", ca khúc về cuộc chiến của Sơn thường gây ý thức, đặt vấn đề hay trình bày vấn đề, hoàn cảnh, số phận để mỗi một người chúng ta lấy quyết định mà hành động. Và khi đã lấy quyết định rồi thì tự mình gánh lấy trách nhiệm của mình, chứ không thể đổ tội cho bài ca. Bởi thế tôi nghĩ rằng những trách cứ về Sơn, buộc tội Sơn có hơi vội vàng do sự ngộ nhận bản chất thật sự của những ca khúc TCS mà có lẽ trong một dịp khác phải được phân tích và đánh giá lại một cách trung thực.

Trở lại 1977. Cả một công trình sáng tác nhạc mười mấy năm đang bị đe dọa phải chối bỏ, kiểm soát, tự phê bình, Sơn đã tâm sự với tôi nỗi khó khăn cho một người nghệ sĩ trong hoàn cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa đang được thực hành trong tính cách tuyệt đối, khai trừ mọi ý kiến khác biệt. Đã kể cho tôi nghe những buổi "đi thực tế", những lần phải viết bài tự phê bình về tác phẩm của mình, và Sơn bảo, họ không đồng ý với mình nhưng họ bảo mình viết rất hay. (Không biết những tài liệu ấy ngày nay có còn không?) Tôi đã ngạc nhiên trước những nhận xét sắc bén của Sơn, mà hồi trước vì nghe HPNTường thao thao, tôi cứ đinh ninh là Sơn đơn giản.

Sơn đã chạm mặt với hai vấn đề: ý thức con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa và lý thuyết Mác-xít. Vấn nạn thứ nhất làm cho một người nghệ sĩ chân chính phải kinh hoảng là sự không thành thực với chính mình - thành thật với chính mình là điều kiện tiên quyết cho sự đạt đạo trong sáng tác nghệ thuật. Trong hai năm trường Sơn đã chạm mặt với một hiện tượng mà Sơn gọi là nhị trùng bản ngã - danh từ lần đầu nghe ở Sơn, bên ngoài nói một đằng mà bên trong nghĩ khác, mà cả hai, bên trong và bên ngoài đều được chủ nhân của chúng tưởng là đúng một cách giáo điều như nhau, chứ không phải một mặt đúng thì mặt kia phải sai, không, giáo điều là sự tin tưởng cả hai thứ sai đều đúng !

Vấn nạn thứ hai là sự tò mò siêu hình cố hữu, Sơn hỏi tôi ở Âu châu đã có triết gia nào dùng lý luận để bác bỏ lý thuyết Mác-xít một cách toàn diện, tương tự như Marx đã phê bình Hegel. Câu hỏi thắc mắc triết học này đã biểu lộ nỗi lo âu trí thức của một người nghệ sĩ thức tỉnh. Không băn khoăn lo âu sao được khi ở đâu cũng bị vây quanh bởi những bích chương giáo điều quá vĩ đại và hằng ngày phải điểmtâm bằng những buổi phát thanh ca ngợi chủ nghĩa như kinh nhật tụng và những buổi học tập lý thuyết Mác-Lê loại trừ mọi phê phán? Lo âu cho sức sáng tạo của mình bị tắt nghẽn khi phải đánh đổi sự yên tâm trí thức về chân lý bằng quyết đoán giáo điều nông cạn và hời hợt.

Một lần khác trong một cuộc đi xem triển lãm tranh tại Huế, Sơn chỉ cho tôi một bức tranh hiện thực được giải nhất, vẽ cảnh công nhân cùng với mọi tầng lớp nhân dân đang lao động, người nào cũng vai u thịt bắp mặt mày hồng hào, em bé thì bụ bẫm. Nỗi khổ của nghệ sĩ miền Nam nằm ở nơi "người người hồng hào, em bé bụ bẫm" ấy! Vì nếu vẽ hiện thực thực sự thì chỉ tìm thấy thực tế "đói dơ xương" đầy rẫy. Phải sống trong một ảo tưởng lạc quan nào đó mới có thể vẽ hay hát hiện thực "mơ mộng ngây thơ" trong hoàn cảnh Việt Nam thời ấy. Cho nên không vẽ được, không sáng tác được.Cho nên khổ!

Không có bài hát nào của Sơn trong quá khứ được ban giam khảo văn học nghệ thuật thời ấy cho lọt sổ. Nhạc Sơn bị cấm phổ biến.

Sáng tác theo chiều hướng qui định đã như một cực hình, mà không sáng tác - lẽ sống của người nghệ sĩ, thì như cây giữa mùa xuân rụng lá. Trong một hoàn cảnh như thế Sơn đã chọn lựa sáng tác và bắt đầu lượm từng chiếc lá xanh vừa rụng xuống chắp lại lên cành với bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui.

Trong đêm họp mặt bạn bè cũ nhân cuộc trở về Huế của tôi (hôm ấy có mặt bộ ba của thời trước - Sơn, HPNTường, Đinh Cường và những bạn cũ, cùng một vài khách mới, Sơn đã hát cho chúng tôi nghe ngoài những bài hát cũ, bài hát vừa mới sáng tác nói trên. Về âm điệu và lời ca, thoạt nghe, thì cảm thấy bài hát thật là bỡ ngỡ nếu được nhìn trong toàn thể ca khúc TCS.

Đến 1977 ca khúc TCS đã lớn mạnh và đạt đến trình độ tinh luyện, xuất thần về âm giai cũng như về ý nhạc, cho nên khi nghe Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui tôi có cảm tưởng đau đớn là Sơn đang tập đi lại những bước nhạc ấu trĩ trong sự nghiệp ca nhạc của mình, như "kìa đàn vịt ngoi dưới ao hồ" hát hồi lớp Năm, đang phải quên tình sầu, tình nhớ, mưa hồng, cõi tạm để hiện thực trong những niềm vui không có thực, đang phải tập đi những bước đoạn trường để qua cái cầu Xã Hội Chủ Nghĩa.

Và không những chỉ Sơn,tấtcả những nghệ sĩ miền Nam đều đã phải trải qua cay đắng ấy, trong khi họ gần nửa đời người sáng tác, họ phải bắt đầu lại từ đầu với một cảm giác đang bị cặp mắt của ban kiểm duyệt văn hoá quan sát ở sau lưng.

Ai nói Sơn ca ngợi niềm vui (trong lúc mọi người đang buồn đang đói) trong bài hát này? Người ấy đã nghe quá vội, chỉ nghe chữ "vui" mà không nghe chữ "chọn" đi trước. Ai vui thì nói tôi vui như bài "vui ca lên nào anh em ơi" còn một người đang ngồi "chọn" niềm vui thì người ấy chưa vui, bởi vì trong lúc chọn, "cái vui" còn là một đối tượng bên ngoài chứ chưa phải là niềm vui bên trong, cái vui nghẹn ngào, mới chỉ là một nửa, mới chỉ là "vui gượng kẻo mà" đó thôi. Âm hưởng của chữ "vui" sau chữ "chọn" nghe như có vết lăn của giọt nước mắt không nức nở của nàng Kiều!

Trong hoàn cảnh bấy giờ có người bảo không thể tìm ra một niềm vui nào cả và trách Sơn tại sao có thể xa thực tế, đi nói chuyện vui trong lúc cả nước khổ, ngược lại đài phát thanh Huế ngày nào cũng kể ra hàng vạn tin vui, và người ta trách Sơn sao chỉ chọn một niềm vui, và chọn một con đường để đi, trong lúc vui đã có và đường đã sẵn?

Trả lời chất vấn thứ hai, Sơn hát "tôi chọn một niềm vui" ấy là thái độ tích cực đó chứ, tích cực nhưng không giáo điều vì sự chọn lựa là của tôi và như thế tôi trung thành với tôi, trả lời chất vấn thứ nhất, Sơn cho thấy sự bất bình thường của việc đi chọn một niềm vui như đi lựa một chiếc áo chưa...
Phượng Các
#4 Posted : Sunday, January 2, 2005 4:32:58 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
MỘT CHUYẾN SANG NƯỚC TÀU



Chị Kim Lan đi xe bus ở thành phố Xiamen

Thái Kim Lan

(Tự sự của một người mẹ đi thăm con.
Xin đọc danh hiệu : Người mẹ viết tắt : TL.
Người con : TTL hay Lan Nhi)


TL đang ở ... bên Tàu !

Cảm tưởng mình như một ngọn lá bốc lên từ một cơn gió lốc, phiêu diêu mù khơi, vô tình đáp xuống một vùng đất lạ, hỏi ra mới biết, đây là... nước Trung Hoa !

Đã đi hay... bay… như thế, không một chủ ý rõ ràng, mơ hồ như kẻ mộng du, thoáng chút nung nấu trong lòng, nên choàng dậy mà đi, lần theo một nỗi nhớ con, xách giỏ lên đường...đi... qua...Tàu...

Y như người mẹ lên chợ Đông Ba, qua cầu Gia Hội, hay đi lên chợ Quán đi về chợ Cầu trong giờ ru em cho thét cho muồi chơi vơi mộng mị tháng năm.

Lần theo nỗi nhớ mà đi, đi như đi trong một chuyện cổ tích Liêu trai nào đó...Chuyện kể rằng, có người mẹ nhớ con đi xa, nhớ chịu không nỗi, quay quắt bỏ nhà mà đi, thất thểu lạc vào một cái chợ, cuối chợ có gốc cây đa, một thầy phù thủy đang ngồi rao bán thuốc chữa bệnh nhớ. Dại dột tin thầy bỏ thuốc vào miệng nuốt. Bỗng ngã lăn ra bất tỉnh, trong lúc quay lơ chợt thấy mình đột nhiên vụt bay lên không như một cánh diều lộng, bay qua mấy từng mây trắng, qua những vùng ánh sáng lân tinh, thoạt tiên gió phả vào người nghe lạnh buốt rồi cơn nóng hâm hấp dồn tới, tiếng người lao xao, mở mắt ra thấy toàn kẻ lạ mặt, người qua lại nờm nợp như sóng vỗ, nhìn vào lòng bàn tay còn toa thuốc của thầy phù thủy ghi hai chữ đỏ ối : Quảng Châu !

À ra mình đã đến... nước Tàu hồi nào không hay !
Thiệt tình ai mà biết trước mọi việc rẽ ràng.
Từ nước Đức đi về VN, cũng đã rấp ranh ý định sang Tàu thăm con đôi ngày, Tàu ở cạnh VN, như bên hàng xóm ! Thấy chẳng khác chi ý định đi chợ Đồng Xuân. Đến Saigon nhờ người hỏi vé đi Tàu, tưởng cũng như đi hỏi vé xem hát, thế thôi !

Từ Saigon ra Huế, từ Huế ra Hà nội để... đi... Tàu, cũng nghĩ như mình đi chợ, nào bánh trung thu nào thanh trà nào chả nào nem, tay mang tay xách, ra đến phi trường cũng chưa biết mình thiệt đang đi sang Tàu.

Mãi đến khi đứng ở phi trường làm thủ tục, mới giật mình vỡ lẽ hoá ra mình sắp làm một cuộc xuất ngoại lần thứ hai trong chuyến hành du này với tất cả những thủ tục rắc rối nhiêu khê của nó : đi xét về xét, vô xét ra xét, qua xét về xét. Bao nhiêu là thứ giấy lệ phí vô lệ phí ra, hải quan xuất hải quan nhập. Thế mà mình lỉnh kỉnh mấy chiếc va li, hai túi xách ! Ra Việt nam, vô Tàu, rồi về lại VN để lại trở về Đức, cuộc hành trình xem ra đằng đẳng như thế, có khi cho cả một đời người, vậy mà mình thì hai chân hỏng đất, đi như một cọng lá bay...

Chừ thì đang đứng ở Quảng Châu với mớ hành lý phải bốc ra, phải chờ đổi máy bay, phải check-in trở lại để đến Hạ Môn.

Quảng Châu nắng hực phả vào mặt, chói lói đến hoa cả mắt. Vừa mới chui ra khỏi phòng đến sang phòng đi, bỗng thấy mình rơi vào một mê hồn trận toàn... "Tàu" Ngũ quan rối bời trước màu sắc sặc sỡ nhộn nhịp, màu đỏ màu xanh rộn ràng như trong...khu Chợ Lớn thuở nào, nhưng lại rất "Tàu". Tàu chính cống, với những tấm quảng cáo vĩ đại như những bức tranh trừu tượng, không cần hiểu, phải đoán mà đoán không ra, mình mù chữ thật rồi ! Tai như ù đi với những âm thanh xếnh xáng xềng xang, chẳng ai nói một tiếng chi khác, ngoài tiếng Tàu, bỗng nhiên ngơ ngác như một tên Mán ở rừng vừa xuống phố. Trong một thoáng chợt thấy thương con vô hạn và xót lòng tự nhủ "tại sao mình dám cả gan đem con đi bỏ xứ Tàu ? “Tưởng tượng ngày đầu tiên con đang ở giữa rừng người mù mịt như một lá tre bồng bềnh trên đại dương mà thấy tội nghiệp làm sao ! Đến đây non nước lạ lùng...nghe con chim kêu cũng sợ, nghe con cá vẫy vùng cũng kinh ! Huống chi đứa con chưa bao giờ bước chân ra khỏi cửa nhà ba mẹ ! Bây giờ đứng giữa đường phố Quảng Châu mới biết mình đang viễn du nơi đất khách chứ không phải đi chợ Đông Ba. Cả một thế giới rất "Tàu" đang di chuyễn truớc mặt như dòng thác, và mình thì ngơ ngác giữa đường ! chợt nghe nhột nhạt cảm giác thích thú "làm một kẻ lạ mặt trên một xứ không quen”, máu hải hồ bừng dậy, cái thú tự do làm kẻ rồ dại mà chẳng cha nào biết chú nào là ai ở nơi đất khách kích thích tính nghịch ngợm vốn sẵn trong người. Đứng giữa ngã ba đường ta nhìn lại ta và thấy cái ta đang lãng đãng xa gần nơi chốn không quen, nơi xứ Tàu xa lơ xa lắc, chứ không phải gần bên nhà hàng xóm, bước một bước là tới mô ! Thấy mình như một kẻ lãng du thứ thiệt ! Đứng bơ vơ nơi thành phố biên cương chợt nhớ vềmột bến đò xa xôi nào đó, nơi chân trời cũ của Hồ Dzếnh (1), có người khách lỡ bước gọi đò với giọng lơ lớ, trong gác trọ trằn trọc, cất tiếng oang oang như chốn không người, ngâm thơ với một loạt âm thanh kỳ quái "uỵt loọc ố dề sướng mán thín...". Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, ...Trương Kế ) (2) và tiếng cười của cô lái đò người Việt trong đêm khuya như chuột rúc !

Từ đó bắt chước cô lái đò, vừa đi vừa khúc kha khúc khích giữa những ngữ âm “uỵt loọc...” ngộ nghĩnh và buồn cười đang liên tục khuấy động màn nhĩ như thế !

A thế ra mình đang ở nước Tàu...hồi nào mà không hay !

Lên máy bay đi Xiamen vẫn với một tâm trạng nửa mơ nửa thực, nửa khôi hài nửa nghiêm trang ! Xuống máy bay cũng còn ngỡ mình đang ở trong cơn mộng đi Tàu, đến nỗi tưởng lầm anh chàng quần xanh áo trắng đột mũ casquette đứng thẳng đập chân dơ tay chào mỗi hành khách xuống máy bay là một hình nộm quảng cáo, suýt nữa dừng lại máng áo vào đấy để bới đầu tóc vừa xổ ra...Lại khúc khích Hồ Dzếnh, cười vì cái ngố của mình ! Cười vì vẻ lịch sự đầy kịch tính rất Tàu của nơi vừa đặt chân lên : Xiamen, Hạ Môn đang ở dưới bước chân rất gấp mong được nhìn mặt con !

Khi ôm con gái trong vòng tay, mới biết thực sự mình đang ở trong nước Tàu.
Đơn giản chuyến đi qua Tàu ! Lầm lũi sang Tàu vì một nỗi nhớ con !
Đã mấy mươi năm cứ nghĩ rằng cuộc đi qua Tàu phải là một chuyến đi trang trọng như một chuyến hành hương văn học. Suốt những năm đèn sách từ thuở thiếu thời lòng ngưỡng mộ những nhà thơ vĩ đại, những thiền sư độc nhất vô nhị, những thánh triết của bầu trời Á đông đã nuôi dưỡng giấc mộng sang Tàu bằng những bước đi trong kinh Lễ. Đã đinh ninh rằng trước khi viễn du sang nơi thánh địa ấy là phải ăn chay nằm đất, cầu nguyện tĩnh tâm ba tháng, tắm rữa gội đầu, tẩm hương thơm, làm lễ lên đường như Tam tạng thỉnh kinh...và còn bao nhiêu thứ lễ nghi khác nữa...và cuộc tương phùng sẽ là một cú...sét đánh...

Ai có ngờ mình lót tót xách giỏ sang Tàu...như đi chợ...chỉ vì một lòng nhớ con...thoắt đi chợt đến !

Hạ Môn là một thành phố thuộc tô giới, nằm ở ven biển Thái bình đối mặt với Taiwan, ở gần Phúc Kiến, cách Quảng Châu hơn một giờ bay, vẻ quang trang và tân tiến của một thành phố lớn với hơn một triệu dân. Hạ Môn không chật hẹp trong kiến trúc hạ tầng, lại không tù túng như những thành phố đông dân lục địa. Hạ Môn gần biển nên hào phóng với gió và mây trên bầu trời. Phố xá tấp nập nhộn nhịp người đi. Khu Đại học nằm bên bờ biển nên rất thoáng, rộng rãi với những con đường rợp bóng cây xanh. Người thiết kế khu Campus đã cố gắng phối hợp Đông và Tây một cách hài hòa không đến nỗi tệ lắm ! Đứng xa có thể thấy những mái cong cổ kính của những khu cư xá cao tầng, như những dinh thự thời trước, đến gần thấy quần áo phơi phấp phới mới rõ là cư xá sinh viên. Campus nằm trong một khuôn viên rộng lớn có rất nhiều bãi cỏ quanh hồ nước để sinh viên có thể ra đấy thư giãn hay tự tình trong giờ nghỉ, có vườn cây và những tiểu kiều bắc ngang qua suối nhân tạo như những vườn Tàu cổ.

Khi hai mẹ con nắm tay nhau đi dạo, bước lên chiếc tiểu kiều “bê tông cốt sắt” TL bảo con, trong truyện Hồng Lâu Mộng hay trong chuyện tình Liêu Trai đây là chiếc cầu (thuở xưa bằng gỗ) định mệnh. Chuyện xưa hay kể một ngày xuân êm ả có nàng tiểu thư khuê các đi dạo với mấy ả thị nữ theo hầu, xiêm áo phất phơ chứ không phải váy ngắn áo cộc như chừ mô, mấy nường rón rén từng bước liú ríu – (chứ không nện gót giày lọc cọc và đi bước sãi như thời nay mô nghe) - lên cầu nhìn nước chảy hay ngắm bóng hằng nga, bỗng đâu có một văn nhân đang tìm vần thơ "...bước lần dặm băng"), thế là khi về nàng tiểu thư mang bệnh tương tư, biếng ăn biếng ngủ đến xanh xao hao mòn, lắm lúc hồn lià khỏi xác...còn kẻ văn nhân thì thành thi nhân lỗi lạc với "nhân diện bất tri hà xứ khứ ..." 4)

Nước Tàu xưa đã có những mối tình giây lát mà thành thiên thu, đời nay tình đến tình đi nhanh hơn sóng vỗ con ơi ... Hai mẹ con cả cười ôm vai nhau đi trên con đường có hai hàng dừa thẳng tắp, trước mặt hàng hai hàng ba những cô gái Tàu đi dạo phố... Bỗng bắt gặp ngay chính mình đang tìm nơi những hình dáng đi đàng trước chiếc lưng ong óng ả xiêm y lả lướt như đã thấy trong tranh tố nữ một thời. Trong bộ âu phục tân thời, những cô gái Tàu rất thời trang, váy dài váy ngắn, áo vai trần hở bụng. Dáng người đẹp nhưng khắc khổ với xương vai ngang, bàn tọa dềnh dàng, chân cao khểnh...hơi khuỳnh... Vơ vẩn lại nhớ đến những Dương Qúi Phi Bao Tự Tây Thi, mơ màng đồng vọng áo xiêm một thời ...

Đến Tàu mới biết cơm Tàu thật dở cũng chẳng thua chi cơm hến ở Cali - Mỹ, cái khổ nhất là trong tiệm ăn không biết kêu món chi cho trúng, đi ăn là một cuộc phiêu lưu còn hơn đi...sang tận nước Tàu, vì sẽ không bao giờ...gặp lại được cái món mình đã đặt mà ...không kêu tên lên được ! Ngồi trước những dĩa thức ăn lầy lợm nước xốt sệt sệt mà nhớ Cửu Chỉ Hồng Thất Công (5) vắt vẻo trên nóc nhà ngự thiện thưởng thức các món cơm "cấm chỉ" hay nhớ con gà quay trong đất sét của Hoàng Dung khi xé ra thơm lựng dâng lên Thần Cái. Một hai ngày sau thì bụng dạ kêu réo trên đường đi tìm tiệm ăn và thấy nhớ thiết tha một tô mì hoành thánh ở Saigon – Chợ Lớn, nước dùng thơm phức, cọng mì óng ả, thịt chả ngọt ngon ! Ôi văn hoá ẩm thực của nước Trung Hoa ngày nay tại xứ Hạ Môn này thật là thê thảm!

Đến nước Tàu vào dịp Trung Thu. Một tình cờ ! Trung Thu và nước Tàu ! Âm vang của những trường ca muà thu luân chuyển tưởng như không dứt ở trên mảnh đất thi thánh này !

Nhưng Hạ Môn hầu như vẫn thản nhiên không rộn rịp tưng bừng đón trăng Trung Thu như mình chờ đợi...

Chiều Trung Thu hai mẹ con đi viếng chùa Nan Pu Tuo (6), nằm bên cạnh Campus. Âu cũng là một chút duyên lành cho Lan Nhi. Khi mới đến, Lan Nhi – vốn từ nhỏ đã được mẹ đem đi thăm chùa những nơi đâu hai mẹ con đi đến - đã kể về ngôi chùa bên cạnh Campus như một an ủi quen thuộc trong những ngày đầu tiên ở Hạ Môn. Chuà Nan Pu Tuo – mấy mươi năm trước vốn là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc - nằm trên một ngọn núi cao cách mặt biển không xa, kiến trúc khá đồ sộ với hồ sen rộng mênh mông ở mặt tiền. Phong cảnh triền núi u nhã, xanh tươi. Hai mẹ con leo hơn 700 bậc cấp trong lúc hoàng hôn xuống. Giữa lưng chừng núi, cảnh vật chơi vơi lơ lửng trên mặt biển. Hạ Môn nằm dưới chân núi với những nhà cao tầng tân tiến. Bầu trời thoáng gió nhạt nhoà một màu thạch nhủ. Không gian rộng trải ra mênh mông trước mặt, đứng ở triền núi như một lan can treo giữa không gian, tưởng như mình có thể vụt bay hoà tan vào vũ trụ vô cùng. Mặt trời đã tắt lịm từ bao giờ, bóng đêm và bóng mây chen lẫn nhau làm cho bầu trời bãng lãng một màu lam u mặc. Trong ánh chiều mờ nhạt như một thoáng mộng, bỗng thấy lấp lánh một vì sao như một đóa hoa mai tinh khiết treo lơ lửng trên mặt biển xa. Một vì sao có lẽ trung thành tuyệt đối với bầu trời, với trăng, với loài người, ngôi sao đem ngày vào đêm và đem đêm trở lại với ngày. Sao Hôm xuất hiện như một tin báo trăng đang lên ở đâu đó.

Lan Nhi định không leo lên tới đỉnh vì đã thấm mệt và trời bắt đầu tối, nhưng TL. bảo leo núi phải leo lên tới đỉnh chứ không bỏ ngang giữa chừng thối lui. Thế là tiếp tục leo lên những bậc đá cheo leo đến đỉnh.

Đến nơi cả hai mẹ con cùng kêu lên một lượt: Trăng Trung Thu tròn và sáng huyền hoặc vừa xuất hiện sau mỏm đá cao nhất của núi, ngọn tùng phất phơ trước gió đón trăng.

Trong giây lát TL. có cảm tưởng mình gặp lại cả thế giới Trung Hoa cổ xưa mà suốt ngày vô thức của mình đang luẩn quẩn đi tìm hoài nơi những đường phố xôn xao.

Sự xuất hiện của trăng trong núi – như Vương Duy đã lột tả trong câu thơ "Nguyệt xuất kinh sơn điểu" (7)- có thể đưa TÂM trong một tia chớp rung động chan hòa một thứ hạnh phúc giác ngộ giải thoát !

Tuy chưa đọc Vương Duy nhưng chắc chắn Lan Nhi sẽ cảm Vương Duy trong ánh sáng của giòng suối trăng đang chảy vô tận trong tâm thức của Bé, khi cả hai mẹ con loay hoay muốn chụp hình vầng trăng Trung Thu mà máy không chịu làm việc, cuối cùng cả hai đứng nhìn trăng như một lời nguyện nhớ hoài vầng trăng trung thu trước khi xuống núi.

Đường đi xuống núi trở nên gian nan hiểm trở vì cây cối um tùm che lấp ánh trăng. Mỗi bậc đá trong bóng tối bỗng trở nên những cạm bẫy bất ngờ, có thể trượt chân ngã lăn xuống vực thẳm. TL dành đi trước, vì biết Lan Nhi từ bé cho đến bây giờ đi đứng vụng về hay vấp ngã chứ không lanh lẹn như mẹ.Vừa lần mò từng bục đá một vừa báo cho đứa con hãy coi chừng để bước tới (cho nên đã đếm được hơn 700 bậc đá), lòng cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc lăn tròn theo từng bước đi với con như thế. Có lẽ lần đầu tiên sau ba ngày ở Tàu cứ chạy theo niú áo con như một đứa trẻ khi thì đòi uống khi thì đòi ăn, khi hỏi đường khi mua sắm như một kẻ ngất ngơ - lắm lúc đứa con bực mình gây bảo "sao mạ mau đói quá vậy" và người mẹ sài cung trả lời "thuở trước còn bé con theo mạ đòi ăn đủ thứ thì răng" - lần đầu tiên lấy lại được phong độ của người mẹ, của kẻ dẫn đường cho đứa con của mình, sao thấy trong lòng ấm áp và hân hoan đến thế ! Dù cho con đường xuống núi cheo leo tăm tối, nhưng hình như ánh trăng hạnh ngộ trong giâyphút trước vẫn tỏa sáng trong tâm. Mỗi bậc cấp bỗng trở nên một chứng thực cho sự tin yêu tròn lành giữa hai bóng người trong màn đêm càng lúc càng phủ kín lối đi. Bao nhiêu sợ hãi chỉ còn hai mẹ con một mình trong núi biến mất. Nghe đàng sau mình đứa con đang bước theo mà mình vững dạbước tới trong một nhịp phúc họa đồng chia.

Sau mấy giờ khá vất vả mới đến sân chùa, hai mẹ con không ai bảo nhau đến trước tượng Phật thắp hương cùng niệm danh hiệu Bổn Sư và cúi đầu quán tưởng một hồi lâu.

Khi quay ra đã thấy ánh trăng đầy ắp trước sân chùa từ hồi nào đang đợi đưa chân người xuống núi. Rời chùa bỗng lóa mắt trước một vùng đại dương ánh sáng từ biển xa... Trăng mọc lên từ biển hồi nào mà đang giạt dào ướt đẫm trên sóng nước ? Âm ba lao xao rào rạt tưởng như có những mảnh bạc chạm vào nhau kêu lanh tanh vang đến tận núi cao rồi vọng về đem theo ánh sáng của trăng treo đầu núi trùng phùng với vùng thủy ngân mênh mông của "hải thượng sinh minh nguyệt" 8)

Chân tay và đầu gối mệt rã rời, cả hai mẹ con bấy giờ đều có cảm giác không đi mà đang lảo đảo bồng bềnh trong ánh trăng từ miền núi cao đến bờ biển rộng...trôi giạt...phiêu lưu tấp vào phòng trọ !

Có phải cả nước Tàu nghìn năm còn lại không mất e chỉ có mảnh trăng rằm Trung Thu vằng vặc hôm nay ?

Muenchen, 29. 10. 02
Viết cho Mai Lan
Thái Kim Lan

(1) Tác phẩm "Chân trời cũ" của nhà thơ – văn Hồ Dzếnh kể chuyện gặp gỡ giữa thân phụ của ông làngười Tàu và mẹ là người Việt.

(2) Câu đầu trong bài thơ nổi tiếng "Phong Kiều dạ bạc" của thi nhân thời Đường Trương Kế (vào khoảng trước sau năm 756), Tản Đà dịch : "Trăng tà tiếng quạ kêu sương"

(3) Nguyễn Du, Truyện Kiều, "Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng"

(4) Câu thứ ba của bài thơ nổi tiếng "Đề tích kiến sở xứ" của Thôi Hộ, thi nhân đời Đường (khoảng trước sau năm 804) "Không biết mặt người giờ ở nơi nao"

(5) Nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp "Anh Hùng Xạ Điêu" của Kim Dung

(6) Chuà Nam Phổ Đà

(7) Câu thơ thứ ba trong bài "Điểu minh giản" cuả thi thánh đời Đường "Vương Duy" 699 – 759) : "Trăng xuất hiện làm giật mình chim núi"

(8) Câu thơ thứ nhất trong bài thơ "Vọng nguyệt hoài viễn" - Trông trăng nhớ người phương xa) của thi nhân thời Sơ Đường Trương Cửu Linh (673 – 740) tả "trăng tròn sáng mọc trên biển cả"

Phượng Các
#5 Posted : Tuesday, February 15, 2005 10:21:02 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Dưới Cội Mai Vàng

[img] http://www.giaodiem.com/vanhoc/klan-hpnt2.JPG[/img]

Thái Kim Lan

Sáng hôm nay có hẹn với anh Tường đi uống cà phê. Đi ra ngoài trời là một ý kiến dưỡng sinh rất hay của Dũng để một nguời nằm lâu trên giừờng bệnh như anh Tường có dịp thở khí trời, nhìn thiên hạ và cỏ cây. Mới gặp anh cách đây một tuần vậy mà vừa thấy mặt anh đã nói “chơ Lan đi mô mà “thẳng cò” rứa ?” với giọng nghịu nghịu nửa trẻ nửa già, nghe đến thương !

Hôm nay anh T. lại muốn hẹn nhau đến quán “Dưới cội mai vàng” trong vùng Đại Nội.

Lại đến “Dưới cội mai vàng”, như một cuộc hẹn hò muôn thuở ! Chỉ khác với năm xưa, người đến nơi hò hẹn lần này biết mình đã lỡ nhiều cuộc hẹn trong đời, chừ đây ngọc nát vàng phai, người cũ mất còn phôi pha, hình hài hương sắc bỗng trở nên vô nghĩa, chỉ có sự hẹn hò vu vơ vẫn là vĩnh viễn, như mây mùa xuân óng ả trên cành mai. Ngồi đây mà tưởng tượng, vài giờ phút sau người bỏ ra về , rồi ta lại đến, người lại đi, cứ thế lặp lại hoài mãi cuộc đến rồi đi , rốt cùng chỉ còn cây mai đứng đó, cây mai bỗng thấy mình là hoá thân của sự đợi chờ muôn kiếp...

Nghĩ như thế mà chẳng thấy có chi là bi thảm, mà lại thấy mình nhẹ nhõm như khí trời buổi ban mai đang thong thả ươm tơ trên hai hàng phượng phất phơ lá non trên những con đường nhỏ trong Đại Nội.

Buổi gặp thoạt tiên chỉ có ba người, chốc lát có mấy người bạn nghệ sĩ của anh T. tình cờ đến Cội mai vàng, như mọi khi ai cũng sà xuống hỏi thăm. Chuyện trò lại xoay quanh những “biến cố văn hoá Hỡi ơi kêu trời không thấu” của Huế như thư viện đại học bị đập nát bỏ đi để xây cái khác, câu lạc bộ thể thao xây lại thành nơi tiếp thị festival, cây xanh cổ thụ trên nhiều đường bị đốn không thương tiếc...Sao có lắm tin buồn cho Huế như thế !

Sau đó anh T. ngỏ ý muốn đi dạo đến hồ Tịnh Tâm mà từ lâu vì bạo bệnh anh chưa trở lại. Cả mấy người đi chậm theo xe xích lô chở anh T., vừa đi vừa ngắm cảnh. Huế của mình đẹp thật, dù cho có ai đang tâm vùi dập làm Huế tan tác đời hoa, nhưng hồ Tịnh Tâm trong cảnh hoang dã với nhiều luống rau muống bồng bềnh vẫn đưa hồn mình lang thang đi theo tiếng vọng của “lòng ta là những thành quách cũ” mờ nét rêu phong...

Hình như mọi việc trên đời xét cho cùng đều là phù phiếm, phù du, nhưng ở nơi những phù phiếm này người ta lại bắt gặp một điều gì không thuộc vào thời gian, dù cho thời gian có xuôi ngược về mô. Trong buổi uống trà hôm nay có một khoảnh khắc bất chợt ấy vụt hiện ra như một đoá hoa mai còn sót lại lấp lánh trên cành trong buổi tàn xuân. Như một bất ngờ trong mọi chữ ngờ, có một người đã đến “cùng ngồi với nhau” dưới “Cội mai vàng”. Là ai ? hãy đoán đi ! Trịnh Công Sơn !

Suốt buổi ngồi dưới cội mai, có một lúc nào đó mấy người bỏ đi đâu có việc riêng, chỉ còn anh T. và Lan ngồi lại, bỗng tiếng hát của ai ấm áp vờn quanh “tôi là ai mà yêu quá đời này.. .Tôi là ai mà còn trần gian thế.. .”. Mấy bữa nay quán chỉ cho nghe giọng ca Thái Thanh nên mới nghe đã giật mình, Sơn đó phải không ? Có người cải không phải, anh T. nói, đúng là giọng Sơn. Phải rồi đúng là giọng của Sơn, quen thuộc quá âm thanh vùa trầm vừa trong ấy của chén nước trà Huế vàng óng bị một lớp khói thuốc phủ mờ ! Là Sơn ở đâu đó, vừa xa vừa gần, đang lững thửng như mọi khi đến với bạn bè, nhẹ như một chiếc bóng ngoài sân. Chưa lúc nào lại thấy Sơn đang ngồi thân thiết với mình trong một buổi gặp gỡ bạn bè êm ái như thế, thân thiết đến tận nơi từng chân tóc.

Bỗng nghe vừa lạnh vừa ấm nơi gáy như có ai cười khúc khích sau lưng ! Cái bàn vuông, những chiếc ghế, tách cà phê, chén trà, miếng chanh, viên đường phèn trên dĩa, ánh nắng lấm tấm trên vai áo của T., lung linh tẩm đượm tình bằng hữu xa xưa..

Sơn đã đến ngồi ở đâu đó bên tôi bên anh, giọng ca chân tình, nhẹ nhõm khói mây, không một chút uốn éo nghệ thuật của những ca sĩ trứ danh, Sơn hát như Trang Tử gõ bàn mà ca.. .Chúng tôi ngồi đó lắng nghe, như thể giữa quá khứ và hiện tại, giữa tóc xanh và bạc đầu đã không bao giờ có một chữ “và” ở giữa ! Trong một giây bỗng thấy mình như chấp cánh bay trong một thứ hạnh phúc tự tại, có chi để mà đau xót nữa, cuộc đời, tình yêu, cái chết ! Hạnh phúc đơn sơ và bình yên như ngụm trà dưới cội mai đến một lần với cảm nhận, phải về nơi đây, trong một góc yên tĩnh, ngồi bên cạnh những người bạn, trong ánh sáng mông lung của trời tháng ba non của thành phố “một thời dễ yêu một thời dễ chết” này mới thấy giọng ca lời hát của gã nghệ sĩ gầy còm hay đến chừng mô!

Huế, cuối tháng ba 2002, nhân một năm ngày mất TCS

Thái Kim Lan

Phượng Các
#6 Posted : Wednesday, March 9, 2005 9:51:16 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Ðàn ông Huế, chàng trai xa lạ ấy…

Qua cái nhìn Con Yêu Bánh Nậm


Thái Kim Lan




Nếu ai thấy mình đồng hóa với "chân dung“ này thì đó chỉ là sự tình cờ trong muôn một, hay nói nôm na, kẻ ấy được xem như trúng lô độc đắc…



Nếu ai muốn tìm trong bài viết này một định nghĩa xác quyết về đàn ông Huế như hai với hai là bốn thì không nên đọc vì sẽ uổng công…



Và nếu ai muốn tìm một thứ biện minh nào để thỏa mãn tự ái thì lại càng không nên đọc và nên cho bài này vào thùng rác!




Ðầu tóc có lần được bác thợ cúp dạo nào dó đi qua ghé lại bên vườn, dùng tông đơ hớt lên đến tầm tai, để lộ chân tóc xanh và cái gáy còn thanh sạch trẻ trung trên cần cổ chưa sạm nắng.



Mái tóc đàng trước hình tam giác chạy dài từ đỉnh đầu bỗng chảy xuống đột ngột, phất phơ rủ trên vầng trán, những sợi tóc mật thẳng tưng không uốn lượn cứ lòa xoà, đôi khi vướng mắt, tạo thói quen hất đầu ra phía sau khá ngổ ngáo hay kiểu đưa bàn tay lên vuốt tóc vừa kênh nghênh vừa ngượng nghịu vụng về.



Ðôi con mắt thường to, hình như chứa được cả bầu trời tháng ba xanh trong hay tháng mười vần vũ mây của xứ Huế, trung thành soi lại, chưa xao xuyến một lần bất chợt!

Mũi to hay nhỏ, thẳng đều hay vồng lên múi tỏi hay quả cà chua, điều ấy không đáng bận lòng chi mấy…



Chỉ nên nhớ không quên là vành môi khá đầy không mỏng, khi nghiêm thì bướng bỉnh mà lúc cười nửa miệng thì…như “bóng núi chạy dài nơi chân trời xa ngái“[1], mơ hồ nồng nàn cơn nắng mồng năm tháng năm…



Thế rồi…như thế ấy…còn lại cuối cùng là khuôn mặt vẽ nét chữ điền chưa rõ… cứ dần dà với năm với tháng rõ thêm góc cạnh nơi quai hàm xương xẩu, tạo một nét ương ngạnh bất ngờ chỏi với vầng trán thanh bình hiền hậu phía trên.



Sự tương phản làm linh động mặt người…



Con trai Huế đó!



Mẹ cười, ngồi trước thềm nhà tranh hay nhà ngói, vừa cuốn xong lá trầu têm với vôi tàu hay vừa uống ngụm nước chè xanh mới hái trong vườn, nhìn ra sân: trong vùng ánh sáng ban mai rộng lượng phấp phới gió lùa qua hàng chè tàu, bóng người con trai cùng với bóng lá, như thể „cây quỳnh cành dao“[2]!



“Chơ răng!“ Con trai của mạ chơ phải chơi! Cục vàng, hòn ngọc của trời ban cho đó! Ui chao là cưng là chiều là thương là quí. Con gái có mười cũng bằng không mà con trai chỉ một là tất cả! Có bất công yêu thương nào của mẹ cha hơn bất công rộng hơn biển mà con trai Huế uống cạn vào trong lòng ngay từ thuở sơ sinh! Cả lũ chị em gái nép vào góc nhà để nhìn…vừa ghen… nhưng cũng đồng một lòng với mẹ…vừa thương.



Mà thương thật đến xuýt xoa khi thấy chú trai : đĩnh ngộ khôi ngô một thời xuân trẻ, với nước da láng mướt năm năm đã từng được mưa phùn của Huế thoa dịu những cơn sóng dậy thì, họa hoằng đôi khi sần sùi sủi lên những hột mụn trứng cá bồng bột rồi thôi. Hãy nhìn đi! như mẹ mỗi ngày đã trìu mến nhìn theo,- chú trai ấy đội cái mũ cối trắng hay mũ cát két vải , áo sơ mi vải quyến, quần sọt kaki, đi đôi guốc hay đôi dép quai cắp sách ra ngõ đến trường…



“Xuân đi học coi người hớn hở“ với nắm xôi mẹ treo cho lủng lẳng bên hông và trong túi cái ná, con căn, quả cầu để chơi lúc trống ra trường hay dọc đường cũng có khi! Còn nhớ không quên… dù mẹ nghèo đi mấy cũng ráng chắc bóp, nhịn ăn, dè xẻng từng đồng từng trự để con trai mẹ đến trường…bởi vì “con trai đi đến trường“ đối với bà mẹ Huế đã là một điều thiêng liêng, một bổn phận tổ tiên, cho nên mẹ có thể hi sinh hết cả cuộc đời để cho con trai đi học đi thi, mong sao có lần…con “đậu trạng“, không trạng nguyên thì cũng ông nghè ông cống hay…cũng thành những ông trạng lừng danh ở Huế mà tác giả “Chuyện ngày xưa, nhớ nhớ quên quên“ sẽ kể ra trong trang sắp tới.



Nếu có lần ai đó đã nhận xét đàn bà Huế có những triệu chứng của “femme-enfant“ (đàn bà trẻ con) như “dì Út Nguyệt“[3] một thời điển hình ở Huế và có lẽ vẫn còn mãi đến bây giờ trong những lá thư duyên dáng của dì mới đây về “con trai Huế“, thì cũng có thể nói đàn ông Huế - “cục thương“ của “mạ“ –hầu như đều là những “enfants terribles“[4]. Hay nói nôm na, mỗi người đàn ông Huế - trong từ trường cưng chìu của cha mẹ - đều đã được nuôi dưỡng trong vô thức như một thứ “ông trời con“, “một loại ông cụ non“ với tất cả… ngây thơ …vô tội[5] của sự non trẻ theo nghĩa “làm tàng“, làm vua muốn chi được nấy trên cái “nền phú hậu“, trong mạch “nết đất, tính trời“[6] của gia phong Huế!



Hay có thể nói theo lối Huế: người con trai Huế đã ít nhiều mang giấc mơ “nam kha“ của mẹ vào trong tâm khảm của mình. Chính giấc mộng nam kha ấy đã tạo ít nhiều dáng dấp “mandarin“ (ông quan) của con trai Huế - vừa là vẻ công tử văn nhân[7] nhưng cũng vừa là nỗi đoạn trường gian truân của con trai Huế “làm trai cho đáng thân trai…đi mô cũng nhớ mẹ “ngài“ chờ cơm“!?Eight Ball

Dù muốn hay không, cái vòng càn khôn “mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn“ cho đến “mẹ nhìn con đi phút giây bàng hoàng“ ấy là những lẩn quẩn bên lòng mà chàng trai Huế mang theo suốt đời, và rất nhiều khi “không nỡ“ mà cũng không thể nhảy qua để đi xa hơn bước nữa chung sống với ai như chàng Trịnh Công Sơn thuở nọ, dù có “terrible“ với bao nỗi tình nhớ tình xa tình quên tình sầu tình phụ tình yêu, trước sau suốt đời vẫn một lòng là “enfant“, trọn vẹn người “con trai“ của mẹ Huế mà thôi.



Nói con trai Huế khép kín trong vòng tay của gia đình, của mẹ - điều thường làm cho trai Huế bị đàn ông khác xứ chê trách là thủ cựu, bảo thủ, quan lại, ích kỷ, chủ quan, thiển cận… - chỉ là mới nói một nửa về con trai Huế, và nói oan cho đàn ông Huế, nửa kia của khái niệm ấy còn đọng lại trong chữ “terrible“, thường được mấy o Huế trẻ măng (chứ không phải bà mẹ, bà nội, bà cố phát biểu mô) phát âm thưỡn ra, kéo dài với giọng Huế rất chi là dễ thương: “dễ sợ“[9].



Vâng, đàn ông Huế “terrible“, “dễ sợ“! Nhưng trước hết xin đừng hiểu chữ “dễ sợ“ này đồng nghĩa với ba trợn kiểu Sở Khanh, Mã Giám Sinh về bên cực này hay anh hùng (tướng cướp) quen thói vẫy vùng kiểu Từ Hải về cực bên kia. Cũng xin nhắc tính mập mờ trong cách dùng chữ của mấy cô gái Huế, lắm khi họ nói “dễ sợ“ mà thiệt ra là “dễ thương“ cũng chưa biết chừng. Xin hãy tạm gát ba khả năng nói trên sang một bên, mà chỉ nhấn mạnh tính tương phản nguyên thủy của „dễ sợ“ và „dễ thương“ theo chiều hướng lý luận “nước đôi“ như thế này: Nếu đàn bà Huế “dễ thương“ (mà thương không dễ) thì con trai Huế thiệt là “dễ sợ“ (mà không đáng sợ chút nào!), để nắm được sự trung thực “tạm thời“ của chữ nghĩa người Huế dùng…tuy không chắc chắn cho lắm.



Như thế con trai Huế thiệt là “dễ sợ“! Cứ cho là như thế cái đã, đúng sai đã có thiên hạ bình luận về sau.



Tuy nhiên, điều mà chữ “dễ sợ“ ở đây muốn nói đến vượt hẳn lên trên ba khả năng trên: Ý nghĩa “dễ sợ“ (terrible) của trai Huế hình như có một thoáng siêu hình, đụng chạm đến vũ trụ quan của con người Huế bên cạnh cái nhân sinh quan”ông trời con“ nhìn từ lăng kính gia đình– xin nhớ “ông trời con“ khác với “thiên tử“ (con trời) mà người Huế thường kiêng cấm – Ông trời con thì có thể có trong mỗi gia đình Huế, còn „con trời“ thì chỉ có một trong hoàng thành Ðại Nội!



Bước ra khỏi sự vây quanh của ông bà, cha mẹ, anh chị em, bà con, mà con trai Huế thường là trung tâm, thế giới quan của người đàn ông Huế bỗng tỏa rộng đến chiều không gian thứ tư thâm sâu bí hiểm huyền hoặc của đất thần kinh mà khu vườn Huế bao quanh căn nhà của mẹ đã hơn một lần gợi cảm tâm thức con người muốn vượt giới hạn hiện sinh của mình như một thao thức không nguôi. Có thể nói mảnh vườn Huế - không cứ là mảnh vườn của riêng ai, mà có thể là vườn nhà, vườn chùa, vườn bạn, ngay cả vườn của người yêu hay những khu vườn xa lạ không tên trên đất Huế - với những hoa trái quanh năm, sương mù buổi sáng, trăng treo đầu ngõ, nắng chiều còn đọng trên tàu cau, hương oanh trảo về khuya, hải đường say nắng, dạ lan trong đêm, hoa khế đơn sơ hay hoa ngâu dại khờ, đều là những tín hiệu khai tâm cảm nghiệm thế giới quan cho người con trai Huế: trước khi tiếng nói con trai Huể “bể giọng“ với âm trầm ngô nghê “đực rựa“ hay “vịt đực“ thành lời tỏ tình với núi sông, hình như đã có một thứ ngôn ngữ không lời giữa tầng rung cảm thiên nhiên và xúc động ngũ quan thân xác mở ra một hướng tâm linh thâm sâu hơn chính giác quan trần trụi. Có ai đã từng nghe tiếng huýt gió của chàng trai Huế vào một buổi sáng đứng rất lâu, sửng sờ nhìn ra khu vườn đang huyền hoặc định hình trong nắng gió mông lung? Có lẽ người ấy sẽ giật mình chợt nghiệm ra trong tiếng nhạc ngộ nghĩnh này chuyên chở một chút thần giao cách cảm giữa con người và thế giới bao quanh. Hình như hành động huýt sáo hay huýt gió của những người con trai hay đàn ông Huế (đàn bà không làm thế bao giờ) mà người lớn tuổi – như bà nội tôi - hay cấm kỵ, cho là một cách gọi hồn ma bóng quế hay không tao nhã văn nhân, bật ra một cách diễn tả sự thôi thúc trong lòng, một thứ cảm hoài trong “run sợ“ trước thiên nhiên quá thần tú đến nỗi hóa linh của xứ Huế.



Sự run sợ này là một thứ dao động với đất trời, một cơn động đất lăn tăn hay dữ dội thuộc loại “terrible“ theo nghĩa đen của chữ, âm vang trong tâm cảm của con người. Cho nên nói con trai Huế “dễ sợ“ trong nghĩa “dễ cảm nghiệm“ với ngoại cảnh, từ đó nhen nhúm trong tâm thái độ chiêm bái của một thực thể thiết tha chìm đắm trong vũ trụ, như Xuân Diệu có lần thốt lên “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ



Mà vạn vật là muôn đá nam châm“…



“Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng,

Ði trong sân mà nhớ chuyện trên trời

Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi

Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ (Xuân Diệu, Gửi hương cho gió) –



Trong lúc người đàn ông khác xứ lại do thế mà thường cho là con trai Huế ”thâm“, “hiểm“ hay “trời biển“ trong nghĩa tiêu cực. Nhưng thật ra thái độ chiêm bái này có thể xem như một thứ hành thâm quán tưởng khởi nguồn từ một tâm hồn giàu đạo vị nội tâm, cho nên con trai Huế “dễ sợ“ trước ngoại cảnh, trước cảnh và người, trước những vẻ đẹp của tha nhân, hay nói rõ, trước mỹ nhân, con trai Huế thường ngậm câm như hến mà mỹ nhân thượng Tứ Huế, d ì Út Nguyệt của chúng ta đã tả một cách rất là trung thực:.



“Con trai Huế thường hay im lặng đi lẽo đẽo theo sau cô gái Huế, một ngày nọ tìm đến nhà thăm, thật là dễ thương[10], nhưng thăm thì ngồi vậy nhìn trời nhìn đất nói bâng quơ vài chuyện rồi người đẹp đem nước ra uống, uống xong thì đi về, cứ như vậy nhiều lần, có buổi mẹ người đẹp, sau khi thấy khách của con ra về bèn hỏi “ông bạn đến làm chi mà không nghe nói chuyện chi hết, ông đến uống nước hay sao“ người con gái thấy buồn cười và cũng trả lời đại “chắc trời nắng dễ khát nước đó Mạ“[11].



Người đẹp có lẽ không ngờ rằng trên đường trở về, người con trai…

người viết bài này nhấn mạnh giả thuyết có thể - vừa đi vừa huýt gió –

bởi vì không biết ngỏ lời với ai hơn và nói điều gì cho rõ - lòng tràn trề hạnh phúc đã được uống chén nước từ tay người đẹp trao mời. “, rõ ràng:



“Tôi là kẻ qua sa mạc…



Tạm lánh hè gay: thế cũng vừa““ (Xuân Diệu, Gửi hương cho gió): đúng như người đẹp nói “trời nắng dễ khát“.



“Thế cũng vừa!“ mà là tất cả đấy, bởi vì “cô là nguồn suối mát“ vô cùng, là tất cả vũ trụ trong mắt anh. Tình yêu của người con trai Huế có lẽ nói mấy cũng không vừa…bởi vì xét cho cùng…“có nói chi mô!“. Anh chờ em nơi cuối phố, theo em trên đường đi học, đưa em (dù cách nhau một khoảng đường) đi chợ, đi dạo trên những con đường xứ Huế mộng mơ. Anh đứng nhìn em mãi miết sững sờ, đến nỗi em đi qua rồi mà phải trở nón ngoái lui. Từ trước đến giờ mọi giải thích về “cái nhìn lui“ của con gái Huế hình như đều trật lất. Nào Trần Quang Long, nào Mường Mán, nào Thu Bồn, tất cả đều rập theo một khuôn sáo, cho rằng o gái Huế giả vờ e thẹn, làm dáng dù „tình trong như đã“. Những người này hình như chưa hiểu thấu cường độ “tình si“ của con trai Huế, nỗi đam mê như một thứ từ trường, chính cái nhìn như sức hút nam châm không chịu “nhả“ mới làm cho người con gái phải nhìn lui. Cái quay đầu của cô gái Huế không phải tự ý quay mà do ma lực của cái nhìn mê say dõi theo không lời nhưng ồn ào tiếng gọi chới với trong khắp không gian. Bởi vì đàn ông Huế ngoài mặt thì tĩnh bơ mà trong lòng thì bão táp mưa sa, “yêu em yêu luôn tình phụ“[12]mới hết lòng anh…d ù cho những mối tình Huế lắm khi là những khối tình Trương Chi…

Biết bao lần “bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao“?, bao nhiêu con đường bao nhiêu tình yêu dang dở ở nơi xứ Huế lạ lùng ấy đến nỗi mộng mị siêu hình trở thành phép lạ tình yêu theo kiểu Huế rặt Trần Kiêm Ðoàn:



“Tình yêu không có phép lạ là tình chăn gối, tình yêu có phép lạ là TÌNH YÊU CỦA TÌNH YÊU! Phép lạ trong tình yêu Huế không phải là cái ÐƯỢC mà là CÁI CHƯA ÐƯỢC VẪN CỨ TÌM HOÀI. Và cái dễ thương của đàn ông Huế là “Yêu ba năm chưa ngỏ một lời…“Ðó chính là vùng trời thơ mộng nhất của một THIÊN ÐƯƠNG TÂM HỒN không bao giờ đổi sắc!“


À ra thế! Anh đi theo bóng giai nhân, nhưng mẹ đã ngắm nghía, đã nhắm, đã lo cho “ông trời con“ của mẹ một người chăn gối, để anh thành President của cái hội “Huế rặt“ gọi tắt là HSV[13] nỗi tiếng khắp địa cầu! Nhưng trong anh vẫn còn giữ mãi “thiên đường tâm hồn“ vĩnh cữu.

Và hai mươi năm sau giai nhân tá hỏa thốt lên : „Ðồ ngu, thương người ta mà không nói“[14]

Tình Huế đó, biết bao lần dang dở, như một thứ vong thân định mệnh của đàn ông Huế.



Vong thân của “đàn ông Huế dễ sợ“ có thể nói không cùng, nhưng biện chứng của nó đi từ cái “dễ sợ“ đến điều “dễ thương“ mà chính đàn ông Huế tự nhận cho mình như Trần Kiêm Ðoàn và như Quế Chi thú nhận: đàn ông Huế thường chất một lô TRẠNG lên người và Trạng nào cũng dễ thương cả,- Trạng vừa là giấc mơ của mẹ nhưng cũng là hình thức thoái hóa hay tiến hóa của “enfant terrible“ hay „ông trời con“: Trạng Liều, trạng Lém, trạng Nằm vạ, trạng Mê gái, trạng Noái trạng, trạng Lì, trạng Bướng vv và vv. Quế Chi cũng vén màn bí mật “dễ thương“ như sau:



“Con trai Huế có vô số cái bần tiện dễ thương là ham hố ưng ai cũng yêu mình dù cho mình không ra chi, là hay ghen bóng ghen gió như đàn bà, là ích kỷ khi mô cũng ưng chiếm đoạt đối tượng cả tinh thần lẫn thể xác, còn bản thân mình thì tự cho đặc miễn ngoại lệ.“



“Ðặc miễn ngoại lệ“ là một thứ “enfant terrible“, một thứ “ông trời con“ dễ thương bức dễ sợ!

Theo Quế Chi :’Cái ni cũng là một yếu tính khác của con trai Huê' : Miệng Hùm gan Sứa, nói Liều mà lại sợ dị, sợ trẻn .“



“Sợ dị sợ trẻn“ phải chăng là những hình thức “dễ sợ“ đang biến thành “dễ thương“ trong đầu những ôn Huế:



“Có thêm cái dễ thương là ...như tui ( nhưng rất hiếm), là hơn sáu mươi mà tình yêu khi mô cũng tươi roái như thuở mười sáu nếu gặp được đối tượng xứng đáng như hằng mơ ước. Dễ thương hơn nữa là liều mạng ...(tra ?) hơn cả bọn thanh niên nhưng điều đó lại chứng tỏ là . I ' m really loving you with white hair and wrinkles , but youth fuels in my heart and my mind ! Do you understand what I mean ?“



Hoá ra giả thuyết ban đầu của bài viết không sai: “enfant terrible“, con trai Huế “dễ sợ“ thiệt tình: từ khúc huýt gió tuổi dậy thì cho đến khi về già bỗng huyên thuyên tiếng Anh tiếng Mỹ xi lô xi la đến điều “nguyệt nọ hoa kia“ còn dễ thương và trẻ hơn cả bọn trẻ. Ngày trước thì ngồi im không nói tiếng nào giờ đây thì thao thao bất tuyệt, thật đúng y chang đàn ông của xứ Huế!



Nhưng có lẽ để kết luận bài này, còn có một điều vượt lên trên tất cả mọi đối đãi thuần lý hay nghịch lý về người đàn ông Huế, kẻ luôn luôn hầu như xa lạ không giống ai ấy. Ðó là một thứ tình khác hơn thứ “tình yêu của tình yêu“[15] ấm ớ không ra lời nói trên.



Nếu người đàn bà Huế thương “nhớ…ngõ sau“ quê mẹ như một mảnh hiện sinh cụ thể của đời mình, thì người đàn ông Huế có một vũ trụ quan thương nhớ bao la hơn. Cái cảm nhớ của trai Huế là cả bầu trời Huế đó!



Cả vũ trụ mở ra với Trường Sơn Kim Phụng thâm u, “Hương giang …sử nhân sầu“, sóng Thuận An, mây Túy Vân, chiều Tam Giang, sớm Ngự Bình, trưa Ðại lược, tối Kim Long, gió Bãng Lãng, nắng Nguyệt Biều, trăng Vạn Niên, chuông Linh Mụ, cầu “Trường Tiền tội quá đi không kịp“, sân “Ðại Nội vẳng tiếng loa xưa“, “bến đò Thừa Phủ một lần quẩy nhịp“, “chiều chiều bên bến Văn Lâu“, tiếng trống bãi trường Thượng Tứ, canh gà Thọ Xương thánh thót, tất cả những cảnh tượng nơi cõi đi về ấy nằm trong trong vô thức của chàng trai Huế từ thuở nảo thuở nao.

Hình như trong ánh mắt của người con trai Huế, tâm cảnh Huế đã chìm sâu trong đó, đã làm nên một góc tâm hồn “trai Huế“, làm nên cái mà Trần Kiêm Ðoàn gọi là “đạo tâm“[16] . Dù đi cho đến chân trời góc biển nào, chỉ cần thoảng nghe tên gọi một chiếc cầu, một bến nước, một mảnh vườn, một góc chùa, một con đường thuở đi học cũng đủ gợi âm thanh bản tình ca xứ Huế bất ngờ và lê thê. Tuồng như tâm hồn ấy mặc nhiên đồng hóa với “tứ đại cảnh“, “lưu thủy hành vân“, “cái tình chi, chim nhạn bay đi“ với nước non ngàn dặm Huế, cho nên mỗi nhắc nhở là một niềm nhớ không nguôi. Thiệt tình mà nói, chưa thấy đàn ông con trai xứ nào – dù cho chàng trong Quảng có lớ ngớ, chàng Hà nội có chơi trội hay chàng Sài thành có thiệt thà mấy đi nữa - thiệt chưa có ai có thứ bệnh ”Nhớ Huế“ như người Huế và đặc biệt ”chàng Huế“ thì phải nói rất chi là “mít ướt“ với ”Huế mình“.



Chưa có ai tha phương có thể nhắc về quê cũ của mình như người Huế - nhất là khi mấy ”ôn Huế“ nói về Huế - khi nhắc về con cá Thuận an, con tôm Cầu Hai, rau muống Thế lại, trái thơm trái mít làng Hồ, cá bống thệ kho khô cong uốn cái lưng, quýt Hương cần thanh cam, họ say sưa, thiết tha và „sô vanh“[17] đến nỗi những chàng trai xứ khác ”chịu không nỗi“ phải nhường „giải nhất“ cho Huế dù Huế ”tộng bộng hai đầu“, dù gạo de An cựu ít ỏi nhỏ nhoi so với gạo thơm đồng bằng Cửu Long hàng vạn hộc…dù con cá nục Nha Trang nhiều vô số kể nhưng sao bằng được con cá nục chuối thon thon thơm ngọt dịu dàng của Thuận an!? Và bánh khoái Lạc thiện, kem Lạc thành“ nhớ nhớ quên quên“[18], và cơm hến bún bò chè hột sen của „Chuyện khảo về Huế“ một thời, còn ai có thể minh chứng rõ hơn tấm lòng sắc son với Huế bằng những tay bút nam nhi Huế chay này?



Có thể nói đàn ông Huế có một mối tình gắn bó kỳ lạ với quê hương của mình. Thử tính lại mà xem. Khắp năm châu bốn bể người xa xứ cũng nhiều hàng triệu, nhưng trên trời dưới đất, trong không gian ảo, thời gian thực, từ trong nước ra ngoài nước, báo giấy báo điện tử năng nổ nhất và nhiều nhất vẫn là những tờ, những trang “Nhớ Huế“ tung rãi khắp năm châu. Nào Nhớ Huế của bs Tùng, rồi QHDK của bs Phạm Cơ, rồi Nhớ Huế của Châu Ngọc Bính tài hoa kiêu kỳ rồi Nhớ Huế của Lê Khắc Trực son trẻ như trai Huế lên mười, rồi Nhớ Huế của Trần Hữu Lục bản lĩnh thẳng tắp như cột cờ Phú Văn lâu ở Sài gòn, rồi Học trò Huế ở Mỹ, Hội người yêu Huế ở Paris, lại có người ”nhớ mạ“ mà làm nên cả cuốn tự điển tiếng Huế không giống ai như trường hợp điển hình „con trai của mạ“ một trăm phần trăm BMÐức và còn bao nhiêu chất Huế thành thơ khác nữa…



Cung đàn ”Nhớ Huế“ như được căng giây trên khắp mọi nẻo, chỉ cần một giọt nước mưa rơi trên cầu Bến Ngự, một chút nắng trên tàu chuối trong vườn Vĩ dạ, một câu hò vẳng xa mô đó trong một bài thơ hay một tiếng rao hàng não nuột trên một trang giấy, là y như ”Huế của tôi“ ”Huế của anh“, ”Huế của chị“ ”Huế của em“ rộn ràng lên tiếng đồng ca.



Trong tâm tình nhớ Huế, người con trai Huế, gã đàn ông xa lạ ấy, bỗng có một phút lãng đãng gần gủi như là người thân quen vừa bước ra từ trong bóng lá, trên vai lấp lánh ánh nắng ấm áp bên dậu thưa có nụ cười đen nhánh[19] của mẹ sau tay áo đơn sơ…

Muenchen, Đông Chí 2004



bài viết dành cho anh Thái Bá và em Thái Hạnh.

Tưởng niệm anh Thái Ð.Huân, Thái Ð. Hưng

Thái Kim Lan






[1] Thái Kim Lan, Nắng Phú Xuân, „Khi đến cũng như khi đi thấy nụ cười con trai Huế giống như bóng núi chạy qua qua nơi sân phú bài, dáng núi rất thân rất gần gủi, đã từng như ôm vai tôi ngay khi chân vừa đặt lên tâng cấp thứ nhất xuống tàu, bên ni triền núi là mây mờ, bên kia triền núi nắng đang lên, như nụ cười nửa miệng…

[2] Nguyễn Du, Truyện Kiều, Kim Trọng trong mắt Thúy Kiều:: “Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao…“

[3] Chị Vỏ thị Nguyệt, nguyên giáo sư Ðồng Khánh, người đẹp Thượng Tứ trong “Chuyện đời xưa, nhớ nhớ quên quên“ của Quế Chi Hồ Ðăng Ðịnh.

[4] “Enfants terribles“ với ý nghĩa nhẹ nhà ng, ở đây là những đứa con dễ sợ nhưng chưa đến nỗi thiên lụy

thiên tài như A. Gide hay Paul Verlaine!!!

[5] Mary Phan Mộng Hoàn sẽ lập tức bổ túc thêm chữ „số“giũa chữ „vô“ và chữ „tội“, như trong các cuộc đàm thoại về sự ngây thơ của con người Huế.

[6] Nguyễn Du tả về thân thế của Kim Trọng: Nền phú hậu, bậc tài danh,

Văn chương nết đất, thông minh tính trời

[7] Nếu đọc đến đoạn này, có lẽ Trần Kiêm Ðoàn sẽ viết thêm chữ “g“ thành “văng“ nhân, như tác giả đã thường gán cho những chữ “văn“

Eight Ball Tác giả mạn phép sửa lại câu ca dao: “Làm trai cho đáng thân trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên“

[9] nghĩa chữ “terrible“ từ đoạn này về sau đưọc diễn dịch phóng khoáng theo kiểu “hủy cấu trúc“, hủy văn phạm của Derrida như khi ông viết “difference“ thành “differAnce“. Chứ không phải theo nguyên nghĩa tiếng Pháp.

[10] Hay “dễ sợ“ theo nghĩa của bài viết này.

[11] Trích điện thư của dì Nguyệt về “ con trai Huế dễ thưong“

[12] Trịnh Công Sơn

[13] Hội Sợ Vợ

[14] Thư của dì Út Nguyệt: Thế rồi vài năm sau người con trai Huế
đi lấy vợ, có lẽ đến giờ phút đó mới thấy mình can đảm
cho nên có một hôm gặp lại người đẹp năm xưa thi rất
vui mừng. Bây giờ chàng trai Huế mới ra tay phán một
câu " Hồi đó anh yêu "người đẹp" (không nói tên for
privacy Act)etc... Người đẹp giận(angry) quá trả lời:
"Ðồ ngu, thương người ta mà không nói!!" Thật là đáng
giận cả đôi bên làm một mối tình cảm tan vỡ chỉ vì cái
chất Huế quá nặng trong con người Huế. Im lặng là vàng
bạc nhưng có những trường hợp im lặng là vô duyên và
ngốc! Con trai Hue có muôn mặt, và cái dễ thương nhất
là dí dỏm!

[15] Trần Kiêm Ðoàn, đã dẫn

[16] TKÐ : Con trai Huế cuối đời 90% về với Ðạo, về với Mạ và về với gia đình, i meo 13/12/04

[17] Óc địa phương

[18] Tác phẩm “Chuyện ngày xưa, nhớ nhớ quên quên“ của Quế Chi Hồ Ðăng Ðịnh, sắp xuất bản tại Mỹ

[19] Thơ Lưu Trọng Lư:

Mỗi lần nắng mới hắt bên song

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không



Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời

Lúc người còn sống tôi lên mười.

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội

Áo đỏ người đưa trước dậu phơi…



Hình ảnh me tôi chửa xóa nhòa

Hãy còn mường tượng lúc vào ra

Nét cười đen nhánh sau tay áo

Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.

Trích Chuyển Luân, ĐDTB lên mạng ngày 12/2/05 (141)

Phượng Các
#7 Posted : Wednesday, April 13, 2005 9:19:15 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thái Kim Lan & một VN giữa lòng nước Đức

[img]http://english.vietnamnet.vn/dataimages/200601/original/images878495_ImageView.jpg [/img]

Giảng dạy triết học là một công việc vốn đã khó đối với các giảng viên bản địa. Vậy mà có một phụ nữ VN gần 30 năm qua đứng trên bục giảng về triết học tại ĐHTH Ludwig-Maximilian, thành phố Munich, nước Đức.

Nhân dịp nữ tiến sĩ Thái Kim Lan vừa trở về nước chủ trì cuộc hội thảo “So sánh luân lý về cách sống trong tư duy Immanuel Kant và trong các nguyên tắc của đạo Phật Việt Nam” do Viện Goethe Hà Nội tổ chức, TT&VH có cuộc trò chuyện với người phụ nữ gốc Huế này:

* Mỗi khi ôn lại thời trẻ, có những sự biến nào khiến bà nhớ nhiều nhất?

- TS Thái Kim Lan: Có lẽ đó là quyết định theo học ngành triết tại Đại học Huế (cười). Tôi học phổ thông giỏi đều tất cả các môn nên có nghĩ rằng mình theo ngành gì chắc cũng được. Triết học khi đó, đầu thập niên 60 thế kỷ trước, chẳng có mấy ai theo nên tôi chọn. Năm 1965, trong thời gian tôi theo học sinh ngữ và tham khảo sách về triết tại Trung tâm văn hóa thuộc Viện Goethe Sài Gòn đặt tại Huế, tôi được ông giám đốc của viện này chọn cấp học bổng sang Đức học tiếp về tiếng Đức...

Sau hai năm rưỡi học sinh ngữ, tôi xin được một học bổng để học triết tại ĐHTH Ludwig- Maximilian. Tôi tốt nghiệp loại ưu và được giữ lại trường làm trợ giảng rồi thành giảng viên chính thức.

* Giảng triết học hẳn là một công việc khó đối với chính người Đức bản địa, còn với bà chắc là khó hơn gấp nhiều lần?

- Có lẽ khó khăn nhất là làm thế nào giải quyết được mối mâu thuẫn giữa một tư duy đã trưởng thành với một khả năng sử dụng ngôn ngữ của một đứa trẻ. Tôi sang đó để học tiếng Đức nên chẳng khác gì một đứa trẻ đang học tiếng. Trong khi đó, tư duy chung và tư duy về triết học của mình đã lớn rồi nhưng mình chưa thể nào diễn đạt nó trôi chảy thành lời.

* Bà đã giải quyết mâu thuẫn này bằng cách nào?

- Chỉ có một cách là phải chăm chỉ, đọc nhiều, hơn nữa phải cởi mở thực sự trong giao tiếp với người Đức để học hỏi từ họ. Tôi cho là mình nên thích nghi với lối sống và lối suy nghĩ của họ thì mới học hỏi được họ. Người Đức có lối suy nghĩ khách quan, phổ quát nên họ sống duy lý. Người Đức cũng như người châu Âu do được giáo dục đầy đủ và toàn diện hơn nên họ sống khách quan và khiêm tốn. Riêng tôi vẫn cho rằng học được họ cách sống này là việc tốt.

[img]http://www2.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=65288[/img]
Cổng và một góc nhà bà Thái Kim Lan tại Munich - một Việt Nam giữa nước Đức

* Nghĩa là đã có những thay đổi trong con người bà - một người Huế truyền thống?

- Có thay đổi. Nhưng đó chỉ là những thay đổi của tư duy, của một cách sống bề ngoài để dễ dàng hòa đồng hơn với xung quanh. Còn trong tim tôi, tôi vẫn là người VN thuần túy. “Bằng chứng” là tôi đã lấy một người chồng VN cũng đi du học bên Đức, và cùng chồng dạy dỗ con gái trở thành một cô gái có nhiều nét truyền thống Huế, từ giọng nói, sự hiểu biết, đến tình thương dành cho Huế và VN. Mai Lan năm nay 24 tuổi, sinh ra và lớn lên ở Đức, nhưng nói giọng Huế hệt như tôi và biết nhiều về Huế lắm.

* Một người VN xa xôi đứng trên bục giảng triết học và Phật học cho sinh viên đại học Đức, bà có thấy mình cũng hãnh diện phần nào không?

- Tôi nhớ mãi trong buổi dạy đầu tiên, trong niên khóa 1978- 1979, tôi đã chảy nước mắt khi nói với sinh viên thế này: “Từ trước đến giờ, tôi đã nhận của người Đức rất nhiều: học bổng, sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần. Và hôm nay, lần đầu tiên tôi cảm thấy tôi có thể cho lại các bạn một thứ gì đó mà tôi nghĩ là bổ ích với các bạn”.

Lớp học của tôi hôm đó đông chật, sinh viên phải đứng để ghi chép vì không còn chỗ. Cuối buổi học, có một người nán lại, cứ đứng nhìn tôi mãi rồi mới nói: khi đọc tên của tôi và bộ môn tôi dạy, người đó cứ nghĩ đây hẳn là một ông già phương Đông, râu dài, tóc bạc phơ đến thuyết giảng về Phật học (!). Chúng tôi cùng cười vang.

Đến giờ, tôi vẫn được sinh viên gọi là người duy nhất mang đến nụ cười trong trường đại học này. Giảng viên Đức nghiêm nghị lắm, hầu như không bao giờ cười trong giờ giảng. Tôi ngược lại, rất hay cười vì mình vẫn là người Việt mà.

* Bây giờ, người xa xứ đang “đổ” về cội. Điều này bà biết rõ nên có phải suy nghĩ gì nhiều không?

- Nhiều người cùng thế hệ chúng tôi, ngay từ khi mới đi du học, đã ao ước đến ngày được trở về để thực hiện lý tưởng giúp đỡ quê hương. Năm 1991, khi VN mới mở cửa kinh tế, tôi là một trong những người Việt đầu tiên đứng ra thành lập hội giao lưu Đức -Việt. Tôi đã làm thuyết khách để khuyến khích người Đức sang VN đầu tư. Tôi cũng rất hay về nước, tham gia giảng dạy và tổ chức các hội thảo khoa học...

Việc trở về vẫn luôn là giấc mơ của cả gia đình chúng tôi nhưng có lẽ phải kèm theo một số điều kiện nào đó.

Bạn biết không, mỗi khi bước chân ra đường, nhìn thấy thanh niên đông chật trong các quán cà phê ở khắp ba miền, ngay cả Huế nữa, tôi rất buồn. Hình như họ không có đủ tri thức để kiểm soát hành vi sống của mình, họ biến mình thành người nhàn rỗi. Đây là một vấn đề lớn của xã hội mà nguyên do là chúng ta chưa tạo ra được một nền tảng xã hội thích ứng cho việc giáo dục con người một cách toàn diện.

* Xin cảm ơn bà!

VIỆT MAI thực hiện (Báo Thể Thao và Văn hóa)
Thứ Ba, 29/03/2005, 18:49 (GMT+7)


[img]http://www2.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=65285[/img]
PC
#8 Posted : Wednesday, September 6, 2006 4:50:01 PM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mỹ Hà:

1. Khi mới sang Ðức tôi đã đến thành phố Munich, vì viện Goethe có trụ sở chính tại thành phố này. Ðây cũng là thành phố tôi trở về sau một năm học tiếng Ðức tại các thành phố khác trên nước Ðức để tiếp tục học xong bằng cử nhân về giáo sư dạy tiếng Ðức. Sau đó tôi xin được học bổng tại Ðại học Munich để có thể tiếp tục học môn Triết học tây phương, nhất là triết học Ðức (Kant, Hegel, Fichte, Schiller, Heidegger…) mà từ lâu tôi đã ngưỡng mộ và ao ước được nghiên cứu tận gốc. Tôi được giáo sư W. Roed hướng dẫn luân án tiến sĩ về triết học của I. Kant. Hồi ấy Heidegger còn sống và các buổi giảng của ông rất đông. Ban đầu tôi bị ấn tượng bởi triết học hiện sinh của ông, nhưng về sau ấn tượng này được điều chỉnh bởi những bộ môn triết học khác như triết học siêu nghiệm của Kant và triết học phân tích, triết học ngôn ngữ. Tôi thọ ơn cố giáo sư W. Stegmüller, người đã nâng đỡ tôi trong việc thực tập giảng dạy tại Ðại học LMU trong viện nghiên cứu triết học phân tích của ông. Có thể nói tôi đã đi nghe hầu hết các giáo sư của những trường phái khác nhau thời ấy, trước khi quyết định chọn một lý thuyết triết học để làm luận án.
2. Buổi ban đầu ở nước người, sự khập khiểng trong tương quan giữa ngôn ngữ mới nhập môn và tư duy đã trưởng thành là một hiện tượng tự nhiên. Phải trãi qua một thời gian nhất định, sự khập khiểng ấy mới được san bằng qua kinh nghiệm học và đọc. Trong môn triết, ít nhất cũng phải hơn năm năm sau, ngôn ngữ mới bắt kịp được tư duy. Dù thế một chút „trẻ con“ trong ngôn ngữ vẫn còn tồn đọng. Và hình như điều ấy làm cho người ta có ấn tượng „trẻ“ mãi đối nghịch với thời gian tuổi tác của ngôn ngữ bản địa. Có lẽ vì thế mà tôi cần nhiều năm hơn những người khác.
3. Buổi giảng đầu tiên của tôi đã có sự bất ngờ với số non một trăm sinh viên đến tham dự, trong lúc phòng giảng chỉ có 70 mươi ghế. Thật là một điều đáng ngạc nhiên ngoài sự tưởng tượng. Dĩ nhiên buổi ban đầu đứng trên bục giảng trước hàng trăm con mắt đổ dồn về phía mình đã gây những nôn nao hồi hộp cũng như e ngại khó quên. Nhưng sinh viên Ðức rất kỹ luật và lịch sự, có tinh thần học hỏi rất cao. Chính sự nghiêm túc tìm hiểu của họ đã gây tin tưởng không ít cho chính người hướng dẫn họ. Phải nhấn mạnh những giờ hướng dẫn thảo luận với sinh viên là những giờ hạnh phúc nhất của tôi. Có thể tôi là người phụ nữ VN đầu tiên „mang chuông đi đánh“ ở xứ Ðức, nhưng không biết điều ấy có chính xác không, tôi chưa xem lại. Trong khoảng thời gian ở Ðức tôi có được may mắn nhận nhiều sự giúp đỡ của người Ðức và không có cảm giác bị kỳ thị, ngược lại thì có, người Ðức rất muốn tìm hiểu những nền văn hóa khác biệt, do đấy họ qúi trọng mỗi tin tức đến từ nguồn trực tiếp là người mà họ gặp gỡ. Chính tra vấn của họ về VN đã làm cho tôi ý thức rõ hơn về nền văn hóa của đất nước. Chính ở Ðức tôi đã trãi qua phong trào giải phóng phụ nữ sôi nỗi nhất trong các thập niên 60, 70, ỡ đó vấn đề giới tính được thảo luận sôi nỗi, và đàn ông Ðức là một trong những kẻ bị thuyết phục nhất.
4. Giữa hai luồng nước Việt Ðức, tôi đã học bơi trong ấy với một kỹ thuật„chọn lựa“ được huân tập do kinh nghiệm - mặc dù đôi lúc cũng bị chìm lĩm trong vũng nước xoáy – tìm cho mình một thế chuyển động „vượt“ trong phản tĩnh về hiện trạng „Việt“
trong „Ðức“ và „Ðức“ trong „Việt“, từ đó cơ hội so sánh luôn luôn chực sẵn. Chính ở nước ngoài người đi xa mới có cơ hội thấy được bản lai Việt nam của mình với cường độ cao nhất, điều ấy chẳng có chi mới lạ. Khi trở về VN sau nhiều năm, khả năng nhìn VN với con mắt của một người ngoại cuộc gọi là người “Ðức“ lại còn rõ hơn, có thể nói khách quan hơn và nhạy bén hơn người trong cuộc, cũng không có chi đáng ngạc nhiên.
5. Có thể nói Việt nam so với nước Ðức là một xã hội „trẻ“ với tất cả sức lực dồi dào „đang lớn“ của thế hệ thanh thiếu niên, trong lúc xã hội Ðức đang ở trong hiện trạng lão hóa vì thiếu người trẻ tiếp nối, đây là một trong những khủng hoảng „thiếu người kế thừa“ khá nguy kịch tại Âu châu. Ðiều đó càng làm nỗi bật ấn tượng gặp lại một VN tràn đầy sức sống với tầng lớp thanh niên đầy sức lực và nhiệt năng ham sống. Mỗi lần trở về VN, tôi không tránh được câu hỏi băn khoăn tự đặt ra cho mình, khi thấy trên đường phố ào ạt người trẻ lượn xe Honda và các quán nhậu đầy nghẹt thanh niên, làm thế nào để sức sống này chỗi mạnh một cách có ý nghĩa cho chính tầng lớp ấy, để họ có thể bổ ích cho chính mình và cho xã hội ? Nếu không có một viễn tượng tương lai lạc quan và bảo đảm, sức mạnh của giòng sông sẽ trở nên cuồng lũ cuốn phăng hết mầu mở bồi đắp xã hội. Tôi có cảm tưởng thế hệ trẻ tại VN đang chờ đợi và cần có một nội dung đào tạo không sáo mòn trong tư duy của một nền giáo dục thức tỉnh, đi sát với nhu cầu xã hội con người đồng thời tạo được cảm hứng đạo đức tâm linh. Cảm tưởng này trước hết đến như một thúc bách đòi phải suy nghĩ thêm, cần đào sâu hơn về một đường hướng giáo dục mà tôi mong sẽ có dịp đề cập đến rốt ráo hơn là trả lời trong khuôn khổ này. Nếu nói nhanh thì tôi sẽ nói, tôi ước ao thế hệ trẻ VN được hướng dẫn trong tinh thần độc lập, không giáo điều, nhồi sọ, sáng tạo và tự chủ, như tôi đã từng làm việc với sinh viên Ðức, nhất là trong tinh thần công minh, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau, trong tương thân tương ái, kính trọng lẫn nhau và có kỹ luật tự nguyện. Về kiến thức, ngày hôm nay với kỹ thuật truyền thông hiện đại, thế hệ trẻ có khả năng huân tập và trau dồi thêm, nhưng phải có định hướng và được thảo luận. Nói chung tôi ước ao thế hệ trẻ VN được hưởng một đời sống hài hòa về vật chất và phong phú nội tâm, không hời hợt chạy theo trào lưu hào nhoáng tây phương để tránh những thất vọng chua cay.
6. Phong trào trí thức tiến bộ khoảng thập niên 60 – 70 tranh đấu cho hòa bình tại VN
là một hệ luận đến từ cuộc chiến: thế hệ trẻ thời ấy ao ước xây dựng một VN
hoà bình cho con người VN được sống trong hoà bình và nhân ái. Tôi đã ủng hộ
cho hòa bình tại VN trong nghĩa gấp đôi: hoà bình đất nước và hoà bình nội tâm.
Hình như điều ấy vẫn còn là một lý tưởng…dù lãng mạng.
7. Ý niệm „tiến bộ“ trong thời khai sáng không chỉ nằm trong viễn tượng tiến bộ kỹ thuật mà còn nằm trong ý hướng thực hiện tự do và tự chủ của con người bằng sự sử dụng trí tuệ của chính con người, vượt lên trên giới hạn của mọi điều kiện tự nhiên, để nói theo I. Kant. Trong thời khai sáng cả hai khía cạnh không thể thiếu trong định nghĩa của khai sáng. Trong khuôn khổ thời bấy giờ, nhà khoa học cần được tự do tư duy để phát hiện những tri thức đúng đắn gần với chân lý cần thiết cho sự tiến bộ của con người. Ðồng thời khái niệm tiến bộ sẽ không còn đứng vững nếu trong đó con người không được xem là cứu cánh cuối cùng, là mục đích mà tiến bộ kỹ thuật nhằm phục vụ, do đó nhân quyền và tự do đi song đôi với tiến bộ, chúng vừa là điều kiện đồng thời vừa là cứu cánh của ý niệm tiến bộ, mà tôi sẽ triển khai trong bài viết phần hai sắp tới.
8. I. Kant, Die restriktive Funktion der Sinnlichkeit in der Kritik der reinen Vernunft, luận án triết học Ðại học Munich, Buddismus und Frieden trong tuyển tập „các tôn giáo lớn“ Ðại học Nurnberg thực hiện, tuyển tập văn học Ðức Việt về H. Hesse và B. Brecht, các tiểu luận về Thiền học Việt nam…
Ðịa chỉ sinh viên Ðức: Markus Altmann
Bauerstr. 28
80796 Muenchen
m.altmann@mnet-online.de

Thái Kim Lan
Muenchen, 03. 04. 2005

Bổ túc câu hỏi:
9. Hàng rào chung quanh vườn bằng tre. Từ khi đi du học, dù ở phòng trọ chỉ đủ kê
một cái giường và một bàn viết hay ở nhà riêng rộng rãi như bây giờ, luôn luôn
tôi dành một chỗ trang trọng tôn kính tượng Phật và ảnh của ông bà
và phụ thân đã quá cố.
Ðiều tôi nhớ mãi là tượng Phật đầu tiên tôi có được, nhỏ bằng nắm tay, là của một
người bạn Ðức đem đến tặng khi biết tôi là một Phật tử, tượng Phật ấy theo tôi từ đó
đến bây giờ, tôi trao lại cho con mang theo khi con đi du học ở Trung quốc.
Bàn thờ tổ tiên hiện nay nằm chính giữa phòng khách, và mọi người đều có thể
chiêm ngưỡng và bà con trong gia đình đến tưởng niệm.
Từ năm 1989/90 tôi đã về VN cùng tổ chức các buổi hội thảo về vấn đề môi sinh
(với Học viện Phật giáo tại Tp HCM) và trung tâm Giao lưu Việt Ðức tại Hà nội do
giáo sư Vũ Kim Bảng và Bà Ts Lê thị Nga điều hành về triết học, đạo đức học và
lịch sử, cũng như hỗ trợ tổ chức các lớp Ðức ngữ khi chưa có viện Goethe.

Bài Tiến bộ phần hai đáng lẽ được đăng đúng thời hạn trong Thời Ðại Mới số 4,
nhưng vì có sự cố bất ngờ về phía tác giả trong chuyến đi vừa qua nên bị chậm trễ,
nên sẽ được đăng tải nay mai. Hi vọng ban biên tập Thời Ðại Mới thông cảm.




Pearl
#9 Posted : Tuesday, June 12, 2007 8:47:12 AM(UTC)
Pearl

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 37
Points: 0





Câu Chuyện Hội An

Thái Kim Lan

http://www.phunuviet.org...acpham.asp?articleid=270
Pearl
#10 Posted : Saturday, June 16, 2007 9:51:07 AM(UTC)
Pearl

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 37
Points: 0

Về Một Người Phụ Nữ Tên Thái Kim Lan

Nguyễn Văn Lục

http://www.phunuviet.org...cpham.asp?articleid=298

PC
#11 Posted : Sunday, July 1, 2007 9:31:20 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
Thư khố có nhận thêm một số tác phẩm của tác giả Thái Kim Lan. Cám ơn giáo sư Thái Kim Lan. Rose Xin mời quý độc giả vào xem trong thư khố trong mục Nữ Văn Thi Sĩ VN.


Users browsing this topic
Guest (3)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.