Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Thức
Phượng Các
#1 Posted : Thursday, January 12, 2006 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
1. NGƯỜI NGÀY XƯA

(phóng tác một mẫu truyện Liêu trai do Hòa thượng Trí Thủ kể)

Sinh là một anh học trò nghèo kiết xác tha phương cầu học. Anh ở trọ trong một ngôi chùa, ngày đêm dùi mài kinh sử để ứng thí. Quan huyện sở tại cũng là người xứ khác bổ nhiệm đến, thường lui tới chùa vì quan rất mộ đạo. Quan có một cô con gái tuổi độ trăng tròn, nhan sắc mỹ miều diễm lệ. Một hôm nhân ngày lễ Vu lan, cô gái theo cha đến chùa. Vừa trông thấy người ngọc, Sinh ôm lòng thầm yêu trộm nhớ. Nhưng chàng đã có vợ con ở quê nhà, lại thuộc gia đình nghèo khó, mà nàng thì đang độ xuân xanh, lá ngọc cành vàng. Chuyện lương duyên thật khó nỗi ước mơ. Mối tình bị chướng duyên ngăn trở càng thêm nồng nàn thắm thiết, mặc dù chưa một lời trao đổi, tình yêu chỉ đơn phương. Chàng đành nuốt nước bọt ngâm câu "tình tuyệt vọng":

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu.

Nàng thoáng hiện tới chùa một lần rồi không bao giờ trở lại. Con "người gieo thảm" đó để lại trong lòng Sinh một mối tương tư cay đắng, vì không thể nào "trăm năm tính cuộc vuông tròn". Hình ảnh nàng đang ám ảnh Sinh một cách mãnh liệt, thì bỗng một hôm, chàng nghe tin nàng đã chết. Ôi! Rõ thật là: "Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thu."

Mới thấy nàng có một lần, nhưng Sinh lăn khóc thảm thiết khi hay tin nàng lìa trần. May thay, tục lệ lúc bấy giờ ưa chôn người chết ở nguyên quán, nên quan huyện ướp xác quàn thây nàng tại ngôi chùa Sinh trú ngụ, chờ ba năm sau sẽ đưa về cố quận. Từ đó Sinh được đêm ngày gần gũi người đẹp... trong quan tài. Mối tình si vẫn nồng đượm, có lẽ còn mặn mà hơn xưa, bởi lẽ giờ đây không còn gì ngăn cách. Cái chết xóa tan mọi bất bình đẳng giữa con người, phá đổ mọi ranh giới tài sản, địa vị, giai cấp... Mỗi bữa ăn, Sinh đặt một mâm cơm trên nắp quan tài cúng cho vong linh hưởng xong, chàng mới chịu hạ xuống ăn. Chàng kể lể với người trong quan tài như sau:

"Ối nàng ơi! Âm dương đôi ngã, nàng có thấu cho lòng tôi không? Khi nàng còn sống, nàng là lá ngọc cành vàng, tôi chỉ là một kẻ thư sinh bần hàn ăn nhờ ở đậu, có khi nào "đài gương soi đến dấu bèo"! Nhưng tôi yêu nàng tha thiết, "tình riêng luống ra ngẩn vào ngơ". Hình bóng nàng đậm nét trong tim tôi. Bây giờ, nàng nằm đó, tôi đứng đây, cách nhau có một tấm ván quan tài, chỉ trong gang tấc vậy mà thành ra biết mấy trùng quan san! Ôi! Sao con tạo khéo trêu người dường bấy! Khi tôi được hân hạnh gần gũi nàng, thì nàng đã hóa ra người thiên cổ, thành cái xác không hồn! Ước sao nàng hãy sống lại, tôi xin đổi bất cứ gì để đôi ta được tái ngộ trên dương trần! Xin nàng chứng giám cho lòng tôi."

Bữa ăn nào cũng vậy, việc cúng cơm và đọc văn tế than khóc người đẹp trở thành một tục lệ bất biến trong đời chàng thư sinh. "Hữu cầu tất ứng", lời cầu nguyện của chàng chẳng bao lâu cảm ứng được vong hồn người chết. Một đêm nàng hiện về thỏ thẻ:

"Cảm tấm tình si của chàng, em đã xin với Diêm vương cho em được tái sinh vào ngôi nhà số 555, đường Nguyễn Văn Trỗi, thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm sau đúng vào ngày rằm tháng bảy, chàng hãy đến tìm em ở đó, chúng ta sẽ gặp gỡ để vầy mối lương duyên. Nhưng chàng ôi, Diêm vương có ra một điều kiện. Muốn tái sinh, em phải nhờ người thân chí thành tụng một Tạng Kinh Kim Cương thì mới được như ý. Vậy, nếu chàng có lòng, xin chàng hãy tụng kinh cho em."

Sinh tỉnh dậy mừng rỡ, ghi rõ ngày tháng nàng đã hẹn lên vách, ghi luôn cả địa chỉ mới của cô gái. Từ đó chàng xếp bút nghiên, chuyên chú tụng Kim cương đến sáu ngàn lần như nàng dặn, phải hết mất ba năm. Năm đó chàng đã bốn mươi lăm tuổi. Còn những mười hai năm nữa mới gặp lại người đẹp ngày xưa! Sinh vẫn ôm lòng chờ đợi, hình ảnh yêu kiều của nàng mỗi ngày một đậm nét trong trí tưởng.

Về phần cô gái, quả nhiên thần thức cô đã thác sinh vào một gia đình thường dân ở địa chỉ trên, để đáp lại tấm tình si của anh học trò. Cô mang hình đáng một cô gái nhu mì dễ yêu, nhưng không có gì gọi là cá lặn chim sa cho lắm. Mối tình đeo đẳng từ lúc còn nằm trong quan tài, khiến tiềm thức cô vẫn một mực đợi chờ anh chàng thư sinh mặt trắng. Với tình yêu mới nở, cô tưởng tượng hình dung của anh chàng ít ra cũng bằng chàng Kim:

"Phong tư tài mạo tuyệt vời.
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa."

Ngày tháng thoi đưa, sắp đến ngày hẹn. Chàng thư sinh bây giờ tuổi đã xấp xỉ lục tuần, râu tóc hoa râm, sắc mặt phong trần vì nỗi đời mưa nắng. Nhưng mối tình thì vẫn tươi trẻ như thuở ban đầu, vì nó vô hình vô tướng nên không có già bệnh như cái thể xác của anh. Tình yêu đã không đổi, nên hình ảnh nàng trong tim anh không chút đổi thay, đó là nét đẹp đắm nguyệt say hoa của một lần sơ ngộ. Anh yêu, là yêu cái hình bóng của nàng thì đúng hơn. Vì nếu nàng còn sống thì chắc chắn bây giờ nàng cũng không còn như hình bóng anh tôn thờ.

Cái ngày hẹn hò đã đến. Anh chàng thắng bộ y phục mới tinh, chải lại mái tóc nửa đen nửa bạc không biết bao nhiêu lần, cố che dấu càng nhiều tóc bạc càng hay. Anh cũng không quên bôi dầu láng mượt như thời trang dạo đó. Nhưng làm gì thì làm, không thể hóa trang cái già thành trẻ. Không thể nào xóa hết những vết hằn năm tháng khắc sâu trên vừng trán nhăn nheo.

"Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này."

Huống chi là con người, dù nó có nỗ lực bao nhiêu để xóa bỏ vết tích thời gian trên thân thể. Nhưng tâm hồn của chàng, mối tình si của chàng vẫn không chịu già theo tuổi tác, mà nó vẫn là mối tình đầu của tuổi đôi mươi, của cái lần sơ ngộ. Cho nên anh chàng hăng hái, hăm hở thuê xe tắc xi đến địa chỉ nàng hẹn để gặp lại tình xưa. Phần nàng cũng vậy, con tim rộn rã với tình yêu, với mộng đẹp và với hình ảnh chàng thư sinh khả ái. Chắc hẳn mặt chàng phải đẹp như mối tình của chàng! Chắc hẳn chàng phải tươi trẻ như hoa xuân phong nhụy! Ôi, cảm động làm sao sẽ là cái phút giây gặp gỡ! "Ngàn năm hồ dễ đã ai quên".

...Mỗi người sống trong tâm tưởng hình ảnh tuyệt vời của người kia, và của mối tình, tưởng tượng đến cái lúc gặp gỡ mà suýt chết ngất người vì sung sướng. Chiếc xe tắc xi đã dừng lại trước một ngôi nhà chúng cư dơ dáy. Nàng con gái đã ra đứng tựa cửa trông chờ. Mà nào thấy đâu bóng hình "hoàng tử của lòng em"? Chỉ là một cụ già trông càng già hơn do bởi nỗ lực làm cho có vẻ trẻ. Cô gái buột miệng hỏi:

- Ông kiếm ai?

- Xin lỗi, cho tôi hỏi thăm nhà tiểu thư...

- Ông là ai?

- Tôi là thư sinh ở trọ chùa Bà Ðầm. Xin cô cứ thưa lại với tiểu thư như vậy.

Cô gái òa khóc, nói trong tức tưởi:

- Không phải, không phải! Trời ôi! Chàng đã phụ tình, đã lừa dối ta! Chàng đã si mê người khác, nên đưa ông già này đến thay! Chàng lừa dối ta! Thật chàng khinh ta quá mức!

Nàng ôm mặt bỏ chạy một mạch vào nhà trong. Cụ thư sinh lủi thủi lê bước trên đường về. Chàng như bừng tỉnh cơn trường mộng: hình ảnh cô tiểu thư đã chết thật rồi, nhờ chàng vừa tai nghe mắt thấy. Vâng, nhờ thấy người con gái sống, mà chàng chết được trong tim hình ảnh người con gái chết. Bấy lâu hồn ma vẫn sống mãnh liệt trong lòng chàng dưới hình ảnh một cô nương hoa nhường nguyệt thẹn. Nhưng bây giờ, sau mười lăm năm chờ đợi, chàng chỉ bắt gặp một cô gái nhan sắc tầm thường như trăm ngàn cô gái khác, nào có gì đâu?

Chàng trở về, giở lại Kinh Kim Cương ra tụng, đến câu kết:

Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn bào ảnh
Như sương và như chớp
Hãy quán sát như vậy.

Chàng tỉnh ngộ, thầm nhủ:

"Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp. Nhan sắc nàng, cái nhan sắc mà mười lăm năm nay ta từng say đắm, đã không thực, huống chi là hình ảnh, hoài niệm về nhan sắc ấy. Cái thực đã không thực, huống hồ là mộng tưởng trong tâm."

Thích Nữ Trí Hải
(Đường vào nội tâm)

Diệu Thi
#2 Posted : Saturday, January 14, 2006 10:05:45 PM(UTC)
Diệu Thi

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 113
Points: 0



quote:
Chàng trở về, giở lại Kinh Kim Cương ra tụng, đến câu kết:

Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn ảo ảnh
Như sương và như chớp
Hãy quán sát như vậy.

BlushBlushfloatingfloating

Phượng Các
#3 Posted : Wednesday, January 18, 2006 11:06:39 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
2. TRÁI TIM CỦA MẸ

Ngày xưa, có một cậu bé ở với mẹ trong một túp lều ven rừng. Ngày ngày cậu đi vào rừng hái củi bán để nuôi mẹ. Mẹ cậu ở nhà nấu cơm, vá áo, chăm sóc những luống rau. Hai mẹ con sống nghèo nàn hẩm hút, nhưng không kém vẻ đầm ấm, bởi vì tình thương của mẹ vốn đã là điều kiện cần và đủ cho một con người.

Nhưng cậu bé lớn dần và bắt đầu đi xa hơn trong những buổi kiếm củi. Hồn cậu cũng bay xa hơn trong những mộng ước, mong chờ. Cho đến một chiều nọ, trên đường hái củi cậu bắt gặp một bóng hồng thiếu nữ bên suối biếc. Kể từ hôm ấy, bát cơm nguội trên tay mẹ âu yếm đưa cho cậu ăn đỡ đói lòng mỗi khi trở về, không còn hương vị nữa. Cậu bắt đầu tiếc nhớ bâng khuâng, người trở nên thờ thẫn, mất hồn. Bà mẹ lo lắng hỏi han, cậu gắt gỏng với mẹ. Tình yêu hay đúng hơn, sự mê gái, đã làm cậu lú lẫn mê muội rồi. Mẹ càng chăm sóc ân cần, cậu càng khó chịu, muốn bỏ nhà ra đi... theo bóng hồng bên suối biếc.

Ối, phải chăng nàng là tiên nữ giáng trần? Cậu cảm như chưa bao giờ thấy một người con gái đẹp đến thế. Mỗi đáng vẻ, động tác của nàng đều làm cho cậu mê mẩn tâm thần:

Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh.

Huống chi nàng lại đứng bên bờ suối phản chiếu ánh trời chiều long lanh với muôn màu sắc: màu xanh của mây, màu vàng, đỏ, tím của hoa rừng, màu lục biếc của cây lá ...Giữa thiên nhiên kỳ tuyệt ấy, nàng nổi bật như một đóa hoa vương giả khoe tươi.
"Thầm yêu trộm nhớ bấy lâu đã chồn"... Thanh niên đánh bạo đến gần người đẹp. Thiếu nữ vừa trông thấy cậu đã khóc òa:

- Chàng ôi! Thiếp không còn sống được bao lâu nữa nếu ....

Giọng oanh vàng nấc nghẹn. Thanh niên hỏi dồn:

- Tại sao, tại sao, nàng hỡi! Tôi sẽ làm bất cứ gì để đem lại sự sống cho nàng, dù có phải mất mạng.

Thiếu nữ mở lớn đôi mắt bồ câu xinh:

- Thật không, ồ xin chàng hãy cứu thiếp! Thiếp đau bệnh nan y, thầy thuốc bảo chỉ có nuốt vào mình trái tim nóng hổi của một người mới tắt thở, họa may hết bệnh. Nếu chàng cứu thiếp, thiếp xin hứa sẽ trọn đời sửa túi nâng khăn.

- Xin nàng hãy đứng chờ.

Thanh niên chạy như bay một mạch về túp lều. Bà mẹ tựa cửa trông con, trong chỗ tranh sáng tranh tối, cậu va cái cốc vào đầu mẹ. Tiện thể, cậu rút ngay con dao ở vách lều, thọc vào ngực bà, moi ra trái tim còn nóng hổi. Cậu bưng trái tim mẹ hối hả chạy ngược trở lại bờ suối.

Mặt trời đã lặn khuất sau đồi. Bóng lá cây đen dầy che rợp lối đi. Ba bốn lần cậu suýt vấp ngã vì vội vàng hấp tập. Bỗng nghe một tiếng nói hiền từ đâu đây vọng lại:

- Con ơi, chạy chậm bước lại kẻo té, con ạ!

Cậu giật mình đứng lại ngơ ngác nhìn quanh. Nhưng cậu chợt hiểu. Thì ra tiếng nói kia vang lên từ trong hai lòng tay cậu, từ TRÁI TIM CỦA MẸ!

Thích Nữ Trí Hải
(Đường vào nội tâm)

Sương Lam
#4 Posted : Wednesday, January 18, 2006 11:28:09 AM(UTC)
Sương Lam

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,472
Points: 333
Location: Thành Phố Hoa Hồng Portland, OR

Thanks: 6 times
Was thanked: 9 time(s) in 8 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các

2. TRÁI TIM CỦA MẸ



Thanh niên chạy như bay một mạch về túp lều. Bà mẹ tựa cửa trông con, trong chỗ tranh sáng tranh tối, cậu va cái cốc vào đầu mẹ. Tiện thể, cậu rút ngay con dao ở vách lều, thọc vào ngực bà, moi ra trái tim còn nóng hổi. Cậu bưng trái tim mẹ hối hả chạy ngược trở lại bờ suối.

Mặt trời đã lặn khuất sau đồi. Bóng lá cây đen dầy che rợp lối đi. Ba bốn lần cậu suýt vấp ngã vì vội vàng hấp tập. Bỗng nghe một tiếng nói hiền từ đâu đây vọng lại:

- Con ơi, chạy chậm bước lại kẻo té, con ạ!

Cậu giật mình đứng lại ngơ ngác nhìn quanh. Nhưng cậu chợt hiểu. Thì ra tiếng nói kia vang lên từ trong hai lòng tay cậu, từ TRÁI TIM CỦA MẸ!







Trời đất ơi, cậu con trai này đáng bị đọa vào vô gián địa ngục quá !Shocked và từ bi thay cho Người Mẹ !Blush
SLRose
Phượng Các
#5 Posted : Thursday, January 19, 2006 2:29:39 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
14. KHÔNG RƯỢU MÀ SAY

(Thuật theo chuyện kể của Hòa thượng Trí Nghiêm)

Vào một buồi chiều tịnh mịch ở Kỳ viên tinh xá, sau khi giảng pháp cho chư tăng và cư sĩ khắp nơi tụ về, Ðức Thế tôn vào Hương thất an nghỉ. Vừa đặt lưng xuống, Ngài bỗng nghe tiếng đập cửa thình thịch và tiếng khè khè của một gã say rượu thừa lúc cổng mở, đã lẻn vào tinh xá. Hắn vừa đập cửa vừa gọi:

- Ông Phật đi, ông Phật! Cho tui làm Phật với! Tui cũng muốn ... làm Phật! Khà khà! Bộ chỉ mình ông làm Phật được mà thôi à? Há?

Ðức Thế tôn ngồi dậy ra mở chốt. Thấy gã say dơ dáy, y phục tả tơi, Ngài động lòng trắc ẩn gọi thị giả A Nan:

- Này, A Nan, ông tắm rửa, cạo tóc và cho nó một cái y sạch. Rồi tìm chỗ cho nó nằm nghỉ.

A Nan vâng lệnh. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, cạo tóc đắp y, gã say được đưa đến một gốc cây im mát trong tinh xá. Gã đánh một giấc ngon lành cho đến sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, hắn bỡ ngỡ nhìn quanh thấy toàn thầy tu mặc áo vàng đi bách bộ, dòm lại mình cũng đang đắp y, sờ đầu nghe trụi lũi, hắn kinh hoàng không biết mình là ai, vội vàng bỏ chạy một mạch ra phía cổng. Các tỳ kheo đuổi theo bắt lại. Nhưng một số khác biết chuyện, ngăn bạn:

- Này, chư hiền, để cho hắn chạy. Hắn chỉ là một gã say, hôm qua Thế tôn bảo tôn giả A Nan tắm rửa cạo tóc đắp y vào cho hắn đấy.

- Thật Thế sao? Tại sao đức Thế tôn làm chuyện lạ nhỉ? Biết hắn say mà vẫn độ cho hắn xuất gia?

- Hãy để hắn đi cho khuất, rồi chúng ta sẽ đến thỉnh giáo đức Thế tôn về việc này.

Thế là họ kéo nhau đến Hương thất đức Phật, bạch hỏi:

- Bạch đức Thế tôn, chúng con không hiểu vì nguyên nhân gì Ngài lại độ cho một gã say như thế? Xin Ðấng Thiện Thế giải rõ cho chúng con.

- Này các tỳ kheo, các ông dường như trách ta vì đã độ cho một gã say. Nhưng ta hỏi các ông, trong lúc hắn say, tại sao không cầu chuyện gì khác, mà lại cầu làm Phật? Như thế là hắn đã gieo một cái nhân tốt đẹp, ta phải giúp duyên cho hắn, vì ta không hẹp gì mà không cho hắn làm Phật. Vả lại, có bao nhiêu người "tỉnh" biết cầu làm Phật như hắn? Vậy thì ai tỉnh, ai say? Huống chi, hắn có nhậu rượu vào mà say, thì bất quá chỉ say vài tiếng đồng hồ rồi tỉnh lại. Cho nên, bệnh say của hắn, ta không cho là trầm trọng. Trái lại, biết bao kẻ trên thế gian này, dù không uống rượu mà vẫn say, không phải say vài tiếng đồng hồ như hắn, mà say muôn kiếp ngàn đời chưa tỉnh. Cái bệnh say đó, say trong vô minh ái dục, Ta mới gọi là một chứng bệnh trầm kha!

Thích Nữ Trí Hải
Đường vào nội tâm

Phượng Các
#6 Posted : Friday, January 20, 2006 3:52:35 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
36. TRƯ HÒA THƯỢNG

Ngày xưa, ở một ngôi chùa nọ, vị thiền sư trụ trì nuôi một con heo lâu năm. Tuổi heo xấp xỉ tuổi đạo của nhà sư, và cả đại chúng kể từ vị tri sự tăng trở xuống đều phải nhường heo về khía cạnh thâm niên nọ. Do đó vị trụ trì đặt cho heo một biệt danh là Trư Hòa Thượng.

Trư hòa thượng chỉ có việc ăn, nằm và bài tiết (để lấy phân bón cho vườn chùa) nên rất mập mạp đến không ngồi dậy nổi. Tuy nhiên mỗi khi tiếng hồng chung chùa vang lên vào chiều tối hoặc canh khuya, Trư hòa thượng đều cố ngóc đầu dậy một cách mệt mỏi. Nhân đấy mà thiền sư rất yêu mến Trư hòa thượng, thường chỉ cho chúng xem, bảo:

- Các con thấy đó, loài súc sinh cũng có Phật tánh, chớ khinh thường.

Một hôm thiền sư có việc phải đi xa vài hôm. Ngài cho họp chúng dặn:

- Trong khi tôi đi vắng, lỡ Trư hòa thượng có viên tịch, thì các ông hãy cắt thịt, chia cho láng giềng mỗi nhà một miếng. Hãy nhớ làm theo lời dặn của tôi.

Ðại chúng lấy làm quái dị về lời dặn của vị thầy, nhưng không dám hỏi, cứ vâng dạ lịnh tôn ý. Có lẽ họ nghĩ rằng thầy quá lo xa, Trư hòa thượng không bệnh hoạn gì, chưa chắc đến nỗi chết. Nhưng ngờ đâu thầy vừa đi vắng một hôm thì Trư hòa thượng ngã lăn ra chết. Ðại chúng bây giờ thật khó xử, nếu làm theo lời thầy dặn thì sợ đời dị nghị, nhất là trong khi vắng thầy. Lỡ người ta nghi chúng tăng nhân thầy không có nhà đã làm thịt con heo, rồi vì ăn không hết mà đem biếu thì sao? Thầy tri sự sau khi hội ý toàn thể đại chúng, quyết định đem mai táng Trư Hòa thượng sau vườn chùa, rồi thầy về sẽ sám hối sau.

Khi thiền sư trở về, hỏi ra mới biết chúng không làm theo lời dặn. Ngài dạy:

- Thế là các ông làm lỡ việc của ta rồi.

Khi đại chúng thưa hỏi, ngài kể:

- Trư hòa thượng chỉ còn một kiếp cuối cùng là giải thoát. Trong kiếp cuối ấy, Trư hòa thượng phải chết vì nạn "loạn đao phân thây". Nhờ có túc duyên mà Trư hòa thượng được thoát nghiệp ấy trong lúc sống. Nhưng định nghiệp không thể không trả. Do đó mà ta muốn giúp Trư hòa thượng trả xong định nghiệp bằng cách phân thây ông ta sau khi chết. Ðược vậy khỏi thọ sanh kiếp khác. Nhưng bây giờ vì các ông không làm theo lời ta, Trư hòa thượng sẽ phải luân hồi trở lại để trả cho xong định nghiệp.

Ðại chúng nghe lời thầy dạy đều lấy làm hối hận. Ðại sư an ủi:

- Không hề gì, rồi đây các ông lại còn duyên gặp lại Trư hòa thượng.

Thời gian trôi qua nhanh chóng. Thấm thoát đã hơn 20 năm kể từ ngày Trư hòa thượng viên tịch. Một hôm, vị trụ trì mới, đệ tử trưởng kế vị thiền sư sau khi ngài viên tịch, tiếp đón vị quan huyện trẻ vừa tới nhậm chức tại địa phận chùa nhà. Quan đi quanh chùa thăm viếng tỏ ý lưu luyến như một cố nhân. Quan có cảm tình đặc biệt với tất cả đại chúng, và từ đấy mỗi lúc rãnh rỗi việc quan, ông lại tới chùa đàm đạo với chư tăng. Mối đạo tình đằm thắm ấy kéo dài một thời gian cho tới một ngày quan huyện bị triệu về kinh đô...

Tin đồn quan huyện bị triệu về kinh đô vì một vụ án phản nghịch, và ngay sau đó bị đem ra chợ phân thây, được loan đi rất nhanh đến chùa. Chư tăng bàng hoàng sửng sốt, thương cho số phận quan huyện nhân từ, người bạn chí thiết của cả đại chúng. Tại sao một con người tốt như quan huyện lại phải chịu một cái chết thê thảm như vậy? Chư tăng ngậm ngùi tự hỏi. Nhất là vị trụ trì người kỳ cựu nhất ở chùa, người ngày xưa đã từng săn sóc Trư hòa thượng từ lúc tập sự xuất gia đến khi Trư chết, và bây giờ là người bạn thân của quan huyện, vị trụ trì buồn bã mất mấy ngày.

Vào một thời tọa thiền, ngài bỗng thấy bóng quan huyện mỉm cười hòa nhã, và một âm thanh nhẹ như hơi gió thoảng bên tai ngài:

- Tôi là Trư hòa thượng ngày xưa, xin đến vĩnh biệt thầy và tạ ơn tri ngộ.

Vị trụ trì bàng hoàng dụi mắt, nhớ lại tất cả chuyện xưa nay.

Thích Nữ Trí Hải
Tonka
#7 Posted : Friday, January 20, 2006 5:12:41 AM(UTC)
Tonka

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,643
Points: 1,524

Thanks: 95 times
Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
Câu chuyện "Trư Hòa Thượng":
1. Có phải vì nghiệp của ông là sẽ làm quan trước khi bị phanh thây? Vị trụ trì chưa đủ, kêu bằng cái gì cho đúng nhỉ - lực gia trì
  • , nên không thể hóa giải được cái nghiệp báo này cho Trư hòa thượng? Đâu dễ gì xen vào nghiệp quả của một chúng sinh Clown

    2. Trước khi đi xa, vị trụ trì hổng giải thích rõ ràng tại sao phải làm xẻ thịt con heo và chúng tăng cũng chẳng thắc mắc gì cả về lời dặn nên sự việc mới ra nông nỗi. Âu cũng là nghiệp của con heo, nó phải được hưởng phước báo làm quan rồi mới chết Eight Ball

    Bàn nhảm Tongue
  • Phượng Các
    #8 Posted : Friday, January 20, 2006 8:01:44 AM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

    Mình nghĩ ông trư làm quan do cái phước báu tu hành chớ không phải là cái nghiệp làm quan. Người tu nếu vướng kẹt cái gì mà có trở lại trần gian thì cũng sanh trong giai cấp giàu sang quyền quý, là do cái công phu tu hành của họ ở kiếp trước, chớ không phải là phải làm quan.
    Tonka
    #9 Posted : Saturday, January 21, 2006 12:21:45 PM(UTC)
    Tonka

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,643
    Points: 1,524

    Thanks: 95 times
    Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
    quote:
    Gởi bởi Phượng Các
    , chớ không phải là phải làm quan.



    Ý em muốn nói là phải trở lại một kiếp nữa để hoặc trả nợ hoặc hưởng phước. Nghe nói những người làm phước nhiều quá, họ sẽ phải lên cõi thiên để hưởng cho hết phước chớ cõi trần thì không biết bao giờ mới khóa sổ Tongue
    Phượng Các
    #10 Posted : Saturday, January 21, 2006 1:07:48 PM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
    quote:
    Gởi bởi tonka
    Ý em muốn nói là phải trở lại một kiếp nữa để hoặc trả nợ hoặc hưởng phước. Nghe nói những người làm phước nhiều quá, họ sẽ phải lên cõi thiên để hưởng cho hết phước chớ cõi trần thì không biết bao giờ mới khóa sổ Tongue


    Nếu hưởng hổng hết kiếp này thì kiếp sau hưởng tiếp chớ sanh lên cõi thiên hay cõi người là đều có nhân duyên cả.
    Phượng Các
    #11 Posted : Sunday, January 22, 2006 10:40:09 AM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
    37. THAM Y HÓA RẮN

    Thuở Phật còn tại thế, ở vườn Cấp cô độc, có một vị tân tỳ kheo (tỳ kheo mới thụ giới) được cúng một bộ y katê tuyệt đẹp. Thầy mân mê bộ y không rời, tối dùng làm gối ngủ. Ðêm ấy rủi thay thầy bị trúng gió nặng, cấm khẩu, các vị đồng phạm hạnh tìm đủ cách cứu chữa, nào cạo gió, nào thoa bóp dầu nóng, nào hô hấp nhân tạo... song đều vô hiệu. Thầy trút hơi thở cuối cùng. Vì tâm thức cuối cùng của thầy là ham thích bộ y mới, nên khi thoát xác, thần thức thầy thác sanh vào loài rắn đeo cứng vào bộ y katê. Con rắn khôn ngoan chui tuốt vào cái giải "Bần bà" (1) để mọi người khỏi thấy.

    Sau khi vị tỳ kheo qua đời, y lệ nhà chùa chúng tăng chia đều cái tài sản nhỏ bé của thầy, trong đó có bộ y. Với Phật nhãn đức Thế tôn rõ vị tỳ kheo đã hóa làm con rắn đang ôm giữ chiếc y, nên ngài bảo đại chúng:

    - Các ông có "quân tăng" (2) tài sản của tân tỳ kheo ấy, thì hãy chừa bộ y lại, để tuần sau hãy chia.

    Các tỳ kheo không hiểu vì sao Thế tôn bảo chừa bộ y, nhưng không dám trái mệnh bèn đem bộ y ấy xếp để một nơi. Vừa khi bộ y bị dời chỗ, con rắn đã cuống cuồng la lối om sòm:

    - Trời đất quỷ thần đi! Người ta cướp giựt của tôi bộ y nè! Ai cứu cho với! Bộ y này là của tôi, không phải của các người! Các người toan mang nó đi đâu, bớ làng nước đi, quân cướp giật!

    Con rắn la khan cả cổ mà nào có ai hay! Có chăng chỉ đức Từ phụ thần thông quảng đại thấy nghe được nỗi khổ đau của nó. Trong tuyệt vọng con rắn chạy quanh cái giải bần bà để cầu cứu cảnh sát đến bắt bọn cướp đã cướp cái y của nó. Chạy rã giò chẳng có ma nào đến cứu, người ta vẫn ngang nhiên nhấc bổng bộ y mang theo khổ chủ không biết đi đâu. Ðức Phật thương xót gọi thị giả Anan đang ôm bộ y để cất vào tủ:

    - Con hãy đem bộ y vào trong tịnh thất của ta.

    Tôn giả Anan vâng lệnh. Ðức Thế tôn đến bên bộ y, thuyết pháp cho con rắn nhớ tiền kiếp của mình:

    - Này rắn, con vốn là một vị tỳ kheo vừa thụ giới. Cái y này là của thí chủ cúng cho con. Con đã quên quán sát rằng "không có gì là ta, không có gì là của ta, thân này không phải là tự ngã của ta". Vì một phút bất giác cận tử nghiệp (nghiệp xẩy ra lúc lâm chung) đã khiến cho con phải sa đọa vào loài súc sinh. Con hãy tịnh tâm nhớ lại tiền kiếp, Ta đức Như Lai, đang ở trước mặt con.

    Do mãnh lực từ tâm nơi Phật, con rắn thoạt nhớ lại kiếp vừa qua của mình, lòng trở nên nhẹ nhàng thanh thản. Rắn nằm im bảy ngày không ăn uống, rồi trút hơi cuối cùng. Thần thức rắn thác sinh lên cõi trời tứ thiền, chỗ thác sinh những vị tỳ kheo siêng tu thiền định.

    Khi rắn thoát xác, đức Phật mới bảo tôn giả Anan đem bộ y cắt ra chia đều cho mỗi người một mảnh làm khăn mu soa. Các vị tỳ kheo hỏi lý do vì sao Ngài đợi đến bảy ngày mới phân chia bộ y, đức Thế tôn kể lại câu chuyện và dạy :

    - Nếu các ông chia ngay lúc đó, con rắn sẽ nổi sân và bị đọa vào loài ngạ quỷ. Nay nhờ nghe pháp, nhờ thần lực của Như Lai, lại nhờ bản thân đã từng tu hành thanh tịnh, mà vị tỳ kheo hóa rắn ấy đã được sinh lên cõi trời.

    Các vị tỳ kheo nghe xong, ai nấy toát mồ hôi hột, ngán ngẩm cho cái "cận tử nghiệp" ác ôn kia. Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai!


    LỜI BÀN:

    Cận tử nghiệp là cái nghiệp đến sát nút lúc gần chết mới xuất hiện. Làm sao để tránh được một cận tử nghiệp xấu xa, hiểm nghèo? Cách hay nhất là huân tập hồng danh của Phật A Di Ðà. Ði đứng nằm ngồi luôn luôn nhớ Phật, được vậy thì khi cái chết đến thình lình (kiểu bất đắc kỳ tử ) ta vẫn được an nhiên tự tại, dù dưới mắt người đời có vẻ là một tai họa, là "vô phước". Nếu suốt đời niệm Phật mà lâm chung không có người tiếp dẫn, không được chết trên giường, đó cũng là dư báo do ác nghiệp quá khứ. Cốt nhất là tâm niệm của ta hiện tại luôn luôn tưởng nhớ hồng danh đức Phật cho đến khi lâm chung thì quyết không đọa lạc vào ác đạo.


    Chú thích:

    (1) Tương truyền, khi nhiều người cúng vải để may y cho Phật, cái y sắp xong thì có một bà nghèo tới cúng một mảnh vải. Ðức Thế tôn thương xót nhận của hiến cúng muộn màng ấy để gieo phước cho bà, và bảo thị giả Anan may vào hai góc y để làm dây buộc y. Do đó sợi dây buộc y ngày nay có tên là "bần bà" để nhớ đến bà già nghèo khó đã cúng dường mảnh vải cho Phật.
    (2) Chia đều cho tăng chúng.

    Thích Nữ Trí Hải
    Đường vào nội tâm
    Phượng Các
    #12 Posted : Friday, March 31, 2006 7:35:21 PM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
    Cây Ðèn Ðã Tắt


    Xưa, có một chú bé bị mù cả hai mắt. Mỗi khi đi đâu chú đều phải cầm gậy dò đường. Ngày và đêm chú đều sống trong bóng tối như nhau.

    Một hôm chú bé đến thăm bạn. Lúc ra về trời đã tối. Người bạn đốt một chiếc đèn lồng trao cho chú, chú bé cười nói:

    - Tối hay sáng đối với tôi đều như nhau, anh trao đèn cho tôi làm gì?

    - Ðành rằng anh không cần đèn nhưng người khác phải nhờ cây đèn này mới không đâm bổ vào anh chứ.

    Chú bé mù cầm cây đèn ra về, đi được một quãng chú bị người khác đụng phải, chú bé tức giận quát:

    - Bộ đui sao mà không thấy cây đèn của người ta?

    Người kia cười to:

    - Ðèn của anh tắt rồi anh đui ơi!


    Ngụ ngôn trên tôi đọc khá nhiều lần, nhưng ý nghĩa thì chưa nghe ai giải thích. Hôm nay tình cờ đọc lời bàn của sư cô Như Thủy, thấy hay nên xin bưng vào chia sẻ cùng các bạn đạo.

    Em thân mến!

    Giá trị của cây đèn là do ánh sáng, thiếu ánh sáng thì cây đèn chỉ là một vật vô dụng mà thôi. Một pháp môn hay nhất là chỗ nó giúp hành giả thấu rõ thực tướng của mình và muôn pháp, tiêu sạch phiền não, đem lại an lạc cho mình và người chung quanh.

    Nếu chúng ta cứ cho rằng mình đã dự vào hàng ngũ xuất gia, thuộc vào hàng tông môn chính phái, thầy tổ là bậc chân tu lỗi lạc, bạn bè mình là hạng anh tài xuất chúng... chúng ta đã được học những pháp môn tối thượng thừa, cao siêu hi hữu... và chúng ta cho thế là đủ, sanh tật khen mình chê người, phiền não mỗi ngày một tăng trưởng thì... coi chừng chúng ta sẽ giống cậu bé mù trên đây, cầm một cây đèn lồng thật tốt, thật đẹp... nhưng... tắt queo cho mà coi!

    Sư cô Như Thủy
    Tonka
    #13 Posted : Saturday, April 1, 2006 2:02:09 AM(UTC)
    Tonka

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 9,643
    Points: 1,524

    Thanks: 95 times
    Was thanked: 201 time(s) in 189 post(s)
    Lời bàn của sư cô Như Thủy thật hay Approve
    Phượng Các
    #14 Posted : Tuesday, May 16, 2006 2:30:18 AM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
    Ngàn Trang Đại Thừa
    Thơ: Lý Thừa Nghiệp


    Nghiễm nhiên ngồi giữa Niết bàn
    Một thân tứ đại, một càn khôn xanh
    Tư lương, một gánh chơn thành
    Bốn phương còn lại một cành quế hương
    Đáy lòng, biển vỗ yêu thương
    Duy tâm Tịnh độ, mười phương Di-Đà.
    *
    Nghiễm nhiên ngồi giữa ta bà
    Thiên thu một ánh trăng ngà còn soi
    Đêm tàn ngàn hạt sương rơi
    Thời Kinh ai tụng bên trời thênh thang
    Nghiêng vai phiền não tuôn tràn
    Cúi hôn đất thấy ngàn trang Đại thừa.

    Bước Lên

    Bước lên, thử đứng đầu sào
    Bốn phương nhàn nhạt một màu khói mây
    Gió lùa thiên cổ quanh đây
    Cuộc sinh tử đó, cơn say dịu dàng
    Hồ tâm bỗng nở sen vàng
    Chúng sinh như biển, niệm tràn Phật danh.



    Phượng Các
    #15 Posted : Sunday, September 3, 2006 7:26:49 PM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
    Một người thân mất đi là một đau khổ ghê gớm, nhưng thọ mạng ở cõi trần này (một trong 5 điều phúc hạnh - phú quý thọ khương ninh theo tiêu chuẩn người đời xưa nay) chỉ là cái nhìn hạn hẹp của một hệ thống quy chiếu chưa có tuệ nhãn.
    bạn hãy mở ra cái link này và chọn bài Cấp Cô Độc (bài thứ 5) nghe thử, có khi một người có mạng sống trên cõi trần này ngắn ngủi vì họ có một cõi khác tuyệt diệu hơn để trải. Và do mối nhân duyên ít ỏi giữa ta và họ mà thời gian bên nhau ở đây chỉ có ngần ấy.

    http://www.thuvienhoasen.../index-phapthoai-10.htm

    Bình an nghe bạn,




    Phượng Các
    #16 Posted : Tuesday, September 5, 2006 8:09:12 AM(UTC)
    Phượng Các

    Rank: Advanced Member

    Groups: Administrators
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 18,432
    Points: 19,233
    Woman
    Location: Golden State, USA

    Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)


    Khi hơi thở hắt ra không trở lại
    Là buông tay đi vào cõi vô cùng
    Bao rắc rối gởi cho người ở lại
    Ta đi về không cả nắm tay không

    Ni Sư Như Thủy
    PC
    #17 Posted : Sunday, September 23, 2007 3:57:37 PM(UTC)
    PC

    Rank: Advanced Member

    Groups: Moderator, Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 5,668
    Points: 25
    Woman

    Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
    NGOÀI TIẾNG THU CA

    Nhắm mắt lại tưởng đêm về quá khứ
    Em nghe gì ngoài tiếng Thu ca
    Gió trở lạnh mây bay về tứ xứ
    Khoảng trời Không rỗng lặng la đà

    Trong Không ấy chứa một điều Có thật
    Là chẳng có gì ngoài khoảng trống bao la
    Như em đã nhận ra thời thái cổ
    Có gì đâu ngoài sáng tối đi qua

    Em cứ tưởng mùa Thu đang hát
    Tiếng lá rơi trong điệu gió mơ hồ
    Tiếng cánh vỗ thời gian xào xạc
    Sau cuối trời bay mãi đến hư vô

    Cuối cùng tận là điểm đầu muôn thuở
    Nói là đi mà thật đứng lặng yên
    Hội ngộ, chia ly cũng đi về chốn cũ
    Lá lìa cành trở lại cõi đầu tiên

    Em nếm trải qua dòng đời mệt mỏi
    Đau khổ ê chề ngồi hát vu vơ
    Em yêu dấu có bao giờ tự hỏi
    Sống hôm nay hay đợi đến bao giờ.

    Trần Kiêm Đoàn
    Rancho Cordova 9 - 2007

    *******


    BEYOND THE AUTUMN SONG.

    Close your eyes, imagine of the past nights
    What do you hear beside the Autumn songs
    When the cold wind lures the clouds to all directions
    Into Emptiness of space through all dimensions

    The Emptiness contains a True Being
    The Nothingness of the unlimited space
    As you have known since beginning of time
    What else is there but the passing of dark and light

    You keep thinking the Fall is singing
    The sound of falling leaves floats in the breeze
    As the flapping wing of Time disturbs
    Beyond the end of horizon to Eternity

    In the end, also the begining for all
    We said good bye, the fact, never have gone
    Reunion, separation, we return to the same old space
    As scattered falling leaves go back to their birth place

    You have tasted the sorrow of life
    Tired, suffered, aimlessly you sing alone
    Dearest one, have you ever asked
    Live today or wait for the unknown ....

    Hương Sa Mạc.
    Boston, Autumn 2007






    Liêu thái thái
    #18 Posted : Monday, December 24, 2007 4:55:05 AM(UTC)
    Liêu thái thái

    Rank: Advanced Member

    Groups: Moderator, Editors
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 2,677
    Points: 786
    Woman
    Location: thôn bọ ngựa

    Thanks: 8 times
    Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)

    Phương pháp dập tắt sự Sân hận

    Mọi người đều tìm kiếm an lạc và hài hòa bởi vì đây là điều chúng ta thiếu trong cuộc sống. Đôi khi chúng ta cảm thấy bứt rứt, bực bội, không yên. Và khi bị những nỗi khổ này hành hạ, chúng ta không giữ riêng cho mình mà thường trút đổ sang người khác. Sự buồn phiền nhiễm vào không khí xung quanh những người đang bị đau khổ. Những ai tiếp xúc với những người này đều bị ảnh hưởng lây. Chắc chắn đây không phải là cách sống khôn khéo.

    Chúng ta nên sống an lạc với chính mình và an lạc với người khác. Tóm lại, con người là những sinh vật sống hợp quần, tạo thành xã hội và phải giao tiếp với nhau. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống an lạc được? Làm sao có thể duy trì được hài hòa nội tâm, duy trì được sự an lạc, hài hòa xung quanh chúng ta để người khác cũng được sống an lạc và hài hòa?

    Để thoát khỏi khổ đau, chúng ta phải biết nguyên nhân căn bản, nguồn gốc của khổ đau. Nếu chúng ta tìm hiểu vấn đề này, nó trở nên rõ ràng rằng, mỗi khi trong tâm có những phiền não, bất tịnh, chúng ta trở nên không vui. Phiền não trong tâm, một sự xấu, bất tịnh tinh thần không thể tồn tại chung với an lạc, hài hòa được.

    Chúng ta khởi sự tạo ra phiền não bằng cách nào? Một lần nữa nếu tìm hiểu chúng ta sẽ thấy rõ. Chúng ta trở nên không vui khi thấy ai hành xử theo lối chúng ta không thích, hoặc ta thấy những gì xẩy ra mà ta không muốn. Những điều trái ý xẩy ra và chúng ta tạo căng thẳng trong tâm. Những cái chúng ta muốn mà không được vì vài trở ngại nào đó và ta trở nên căng thẳng, tạo thành những gút mắc. Và trong suốt cuộc đời, những điều chúng ta muốn có thể hoặc không thể đạt được, những lối phản ứng bằng cách tạo ra gút mắc làm cho toàn bộ tinh thần và thể xác căng thẳng, đầy phiền não khiến cho cuộc đời trở nên đau khổ.

    Bây giờ, một cách để giải quyết vấn đề này là dàn xếp để trong cuộc đời không có điều gì trái ý xẩy ra, để mọi điều đều xẩy ra theo ý mình. Một là chúng ta phải có quyền phép nào đó hoặc ai cho chúng ta quyền phép này, để những điều trái ý không xẩy ra và mọi cái chúng ta muốn đều đạt được. Nhưng điều này không bao giờ có thể được. Không một ai trên cõi đời này đạt được mọi mong ước, mọi việc đều xẩy ra theo ý mình mà không có gì trái ý xẩy ra. Sự việc tiếp tục xẩy ra trái với sự mong muốn và ước nguyện. Do đó, câu hỏi được đặt ra là: Làm sao chúng ta ngừng phản ứng mù quáng khi gặp những điều không hài lòng? Làm thế nào để chúng ta ngừng tạo ra căng thẳng và giữ được an lạc và hài hòa?

    Tại Ấn độ cũng như tại các nuớc khác, những thánh nhân trong quá khứ đã nghiên cứu vấn đề này — vấn đề đau khổ của con người — để tìm ra giải pháp. Nếu điều gì trái ý xẩy ra và chúng ta phản ứng bằng sự tức giận, bằng sợ hãi, hoặc bằng những bất tịnh khác, thì ta lập tức chuyển sự chú tâm vào cái gì khác. Ví dụ như: đứng dậy lấy một ly nước uống, sự tức giận của ta sẽ dịu bớt. Hoặc ta bắt đầu đếm một, hai, ba, bốn. Hoặc bắt đầu lập lại một câu hoặc lời chú hoặc tên của một vị thần linh mà ta tôn sùng, tâm ta sẽ chuyển hướng và ta sẽ bớt được phần nào phiền não, sẽ nguôi bớt giận.

    Giải pháp này hữu ích và luôn luôn công hiệu. Giải quyết bằng cách này, tâm ta sẽ bớt bứt rứt. Tuy nhiên giải pháp này chỉ công hiệu ở phần nhận thức. Trên thực tế, bằng cách chuyển sự chú tâm, ta đẩy phiền não sâu vào trong vô thức, và ta vẫn gia tăng gấp bội những phiền não đó. Ngoài mặt có vẻ có an lạc, hài hòa, nhưng trong đáy lòng vẫn còn một núi lửa bị đồn ép đang ngủ yên và sẽ bùng nổ dữ dội không biết lúc nào.

    Có những vị khác nghiên cứu sự thật về nội tâm đã tìm hiểu sâu rộng hơn, và bằng cách trực nghiệm sự thật về tâm và thân ngay trong chính họ, nhận ra rằng, chuyển sự chú tâm chỉ là sự tránh né vấn đề. Tránh né không giải quyết được gì cả. Quý vị phải nhìn thẳng vào vào vấn đề. Khi nào phiền não nổi lên trong tâm, cứ quan sát nó, đối diện với nó. Ngay sau khi quý vị khởi sự quan sát, phiền não sẽ giảm cuờng độ và từ từ biến mất.

    Giải pháp này rất tốt vì tránh được những cực đoan: không dồn nén cũng không buông thả. Vùi sâu sự phiền não trong vô thức sẽ không loại trừ đuợc nó, và để nó tung hoành bằng những việc làm hoặc lời nói bất thiện chỉ tạo thêm rắc rối. Nhưng nếu quý vị chỉ quan sát thì phiền não sẽ mất đi, và quý vị sẽ loại trừ được nó.

    Điều này nghe rất hay, nhưng trên thực tế có thực hiện được không? Đối phó với cái xấu của chính mình không phải là dễ. Khi sân hận nổi lên, lập tức chúng ta bị chế ngự khiến chúng ta không thể nhận ra được. Rồi mù quáng vì sân hận, chúng ta có những hành động và lời nói làm hại chính ta và người khác. Sau đó, khi đã nguôi giận, chúng ta khóc lóc, hối hận, cầu xin được tha thứ của người này, người nọ, hoặc các vị thần linh: "Ôi tôi đã tạo nên lỗi lầm, xin tha thứ cho tôi." Nhưng rồi lần tới, chúng ta lại rơi vào tình trạng tương tự và cũng hành xử y như thế. Hối lỗi kiểu này không mang lại ích lợi gì cả.

    Sự khó khăn là chúng ta không biết khi nào phiền não bắt đầu. Nó khởi sự trong vô thức và khi đã lên đến tầng nhận thức nó đã có đủ sức mạnh chế ngự chúng ta khiến chúng ta không thể quan sát nó được.

    Giả thử tôi mướn một thư ký riêng để khi nào sân hận nổi lên, người thư ký nói với tôi: "Coi kìa, sân hận đã bắt đầu". Bởi vì tôi không biết khi nào sân hận xẩy ra, tôi phải mướn đủ thư ký cho ba ca. Nếu tôi có khả năng làm thư thế, và khi sân hận nổi lên lập tức người thư ký báo cho tôi: "Coi kìa sân hận đã bắt đầu". Việc đầu tiên tôi làm là mắng người thư ký: "Đồ ngốc, bộ tưởng tôi trả tiền để dậy bảo tôi hả?" Tôi đã bị sự sân hận chi phối nên sự khuyên bảo không giúp ích gì được.

    Giả thử tôi vẫn còn đủ trí khôn và không la mắng người thư ký. Trái lại, tôi còn nói: "Cám ơn nhiều. Bây giờ tôi phải ngồi xuống để quan sát sự sân hận của tôi". Ngay sau khi tôi nhắm mắt để quan sát, căn nguyên gây ra sân hận hiện ra trong đầu: Người hoặc sự việc gây ra sự sân hận này. Nhưng lúc đó tôi không quan sát sự sân hận mà chỉ quan sát căn nguyên gây ra sân hận. Điều này chỉ làm cho sân hận gia tăng và không giải quyết được gì cả. Thật khó khăn khi quan sát phiền não hoặc cảm xúc trừu tượng và tách riêng được những căn nguyên bên ngoài gây ra chúng.

    Tuy nhiên, một người đã giác ngộ đã tìm ra một giải pháp thiết thực. Vị đó khám phá ra rằng khi nào có phiền não trong tâm, về sinh lý có hai việc xẩy ra cùng một lúc: một là hơi thở mất nhịp điệu bình thường. Chúng ta bắt đầu thở mạnh hơn khi phiền não đến trong tâm. Ở mực độ tinh vi hơn, các phản ứng sinh hóa bắt đầu tạo ra những cảm giác. Mọi phiền não đều tạo ra cảm giác này hay cảm giác khác trong cơ thể.

    Điều này đưa đến một giải pháp thiết thực. Một người bình thường không thể quan sát được những phiền não trừu tượng trong tâm như sợ hãi, sân hận, si mê. Nhưng với sự hướng dẫn và tập luyện đúng cách thì rất dễ quan sát sự hô hấp và cảm giác, hai cái liên quan trực tiếp với những phiền não trong tâm.

    Sự hô hấp và cảm giác sẽ giúp ta hai cách. Thứ nhất, nó giống như người thư ký riêng. Ngay khi phiền não nổi lên trong tâm, hơi thở sẽ mất bình thường. Nó sẽ báo động: "Coi kìa, có cái gì không ổn". Vì chúng ta không thể la mắng hơi thở, chúng ta phải chấp nhận sự cảnh cáo của nó. Tương tự, cảm giác sẽ cho chúng ta biết có gì không ổn. Khi được cảnh giác, chúng ta có thể bắt đầu quan sát sự hô hấp, bắt đầu quan sát cảm giác, và rất nhanh chóng chúng ta thấy sự phiền não mất đi.

    Hiện tượng này giống như hai mặt của đồng tiền kên. Một là ý nghĩ, cảm xúc hiện ra trong tâm, mặt kia là hơi thở và cảm giác trên thân. Bất cứ ý tưởng, xúc động nào, bất cứ phiền não nào trong tâm đều thể hiện bằng hơi thở và cảm giác ngay lúc đó. Do đó, bằng cách quan sát sự hô hấp hoặc cảm giác, chúng ta thực sự quan sát phiền não trong tâm. Thay vì tránh né vấn đề, chúng ta phải trực diện với thực tế hiện hữu. Kết quả ta thấy rằng, phiền não mất đi sức mạnh, chúng không còn trấn áp được ta như trong quá khứ. Nếu ta kiên trì, chúng sẽ hoàn toàn biến mất và ta bắt đầu sống an lạc, một cuộc sống ngày càng ít những điều xấu.

    Bằng cách này, phương pháp tự quan sát cho chúng ta thấy thực tế ở hai trạng thái: bên trong và bên ngoài. Trước đây, chúng ta chi nhìn bên ngoài mà quên đi sự thật bên trong. Chúng ta luôn luôn tìm kiếm ngoài ta về nguyên nhân của những bất hạnh. Chúng ta luôn luôn đổ lỗi và cố thay đổi sự thật bên ngoài. Vô minh về sự thật bên trong, chúng ta không bao giờ hiểu rằng nguồn gốc của sự đau khổ nằm trong ta, nằm ngay trong những phản ứng mù quáng đối với những cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu.

    Bây giờ, với sự tập luyện, chúng ta có thể thấy được mặt kia của đồng bạc. Chúng ta có thể có ý thức về hơi thở của mình cũng như những gì xẩy ra trong người. Dù là hơi thở hay cảm giác, chúng ta biết cách chỉ quan sát mà không mất bình tâm. Chúng ta ngừng phản ứng, ngừng gia tăng sự đau khổ của mình. Trái lại, chúng để cho phiền não thể hiện rồi mất đi.

    Càng thực tập phương pháp này, những phiền não càng ngày càng mất đi nhanh chóng hơn. Dần dần tâm ta hết những bất tịnh và trở nên trong sạch. Một tâm thanh tịnh lúc nào cũng tràn đầy tình thương không vị kỷ đối với mọi người, đầy lòng từ bi về những đau khổ, những thất bại của người khác, đầy mừng vui vì sự thành công, an lạc của người, đầy bình tâm trong mọi hoàn cảnh.

    Khi đạt được trình độ này, mọi thói quen trong đời ta đều thay đổi. Không thể nào có thể có những lời nói hoặc hành động phá rối sự an lạc và hạnh phúc của người khác. Trái lại, một tâm quân bình không những chỉ trở nên an lạc mà bầu không khí chung quanh cũng nhuốm đầy an lạc và hài hòa. Điều này sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến người khác, giúp ích cho họ luôn.

    Bằng cách giữ được bình tâm với mọi cảm xúc trong người, ta tìm được cách tách rời những gì ta gặp bên ngoài ta luôn. Tuy nhiên sự thoát ly không phải là cách tránh né hoặc thờ ơ với những khó khăn của cuộc đời. Những người thực tập thiền Vipassana thường trở nên nhạy cảm đối với những khổ đau của người khác và làm hết khả năng mình để xoa dịu những khổ đau này, không phải vì bắt buộc, mà với đầy từ, bi và bình tâm Họ biết cách có được sự vô tư thánh thiện, học được cách tham gia hết lòng, tham dự nhiệt thành trong việc giúp đỡ người khác, cùng một lúc duy trì được sự bình tâm. Bằng cách này, họ giữ được an lạc và hạnh phúc, đồng thời tạo nên an lạc và hạnh phúc cho người khác.

    Đây là những gì Đức Phật giảng dậy: Một Nghệ Thuật Sống. Ngài không dậy cho họ những giáo điều, những hình thức nghi lễ rỗng tuếch. Ngài chỉ dậy cho họ quan sát thiên nhiên hiện hữu bằng cách quan sát thực trạng nội tâm. Vì vô minh nên chúng ta cứ hành xử theo lối có hại cho mình và cho người. Nhưng khi đã có trí tuệ - trí tuệ của sự quan sát sự thật đúng như thật — thói quen phản ứng này mất đi. Khi chúng ta ngừng phản ứng mù quáng, chúng ta có khả năng hành xử một cách vô tư với sự bình tâm, một cái tâm thấy và hiểu được chân lý. Lối hành xử như vậy chỉ có thể tích cực, đầy sáng tạo có lợi cho mình và cho người.

    Như vậy điều cần thiết là "Biết Mình", lời khuyên của mọi thánh nhân. Chúng ta phải hiểu chính mình không phải chỉ bằng sách vở, bằng lý thuyết, không phải chỉ bằng cảm xúc, hoặc lòng tin, chỉ chấp nhận một cách mù quáng những gì chúng ta nghe và học được. Sự hiểu biết như vậy không đủ. Tốt hơn hết, chúng ta phải hiểu đươc thực thể của hiện tượng tâm và thân này. Chỉ riêng điều này sẽ giúp chúng ta giải thoát khỏi đau khổ.

    Sự trực nghiệm nội tâm của chính mình, phương pháp tự quan sát này được gọi là thiền Vipassana. Theo ngôn ngữ Ấn dộ vào thời của Đức Phật, passana có nghĩa là thấy một cách bình thường với con mắt mở rộng. Nhưng vipassana là quan sát sự thật đúng như thật chứ không phải tưởng như thật. Sự thật hiển nhiên phải được xuyên thủng cho tới khi ta đạt được sự thật tối hậu của toàn thể cấu trúc tâm lý - vật lý. Khi đã chứng nghiệm được sự thật này, chúng ta sẽ biết cách ngừng phản ứng mù quáng, ngừng tạo ra phiền não mới và những phiền não cũ sẽ từ từ mất đi một cách tự nhiên. Chúng ta sẽ hết khổ và hưởng đưọc hạnh phúc thật sự.

    Trong một khóa thiền, sự tu tập gổm có ba phần. Đầu tiên ta phải tránh những hành động bằng lời nói hoặc việc làm quấy rối sự an lạc và hài hòa của người khác. Ta không thể tu tập để giải thoát khỏi những bất tịnh trong khi có những hành động và lời nói làm gia tăng những bất tịnh này. Do đó, giới luật là điều tối cần trong bước đầu của sự tu tập. Ta thực hành không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không xài độc tố. Bằng cách tránh khỏi những hành động này, ta làm cho tâm đủ tĩnh lặng để tiến xa hơn.

    Phần kế tiếp là tu tập làm chủ được cái tâm vọng động bằng cách chú tâm vào một đối tượng: đó là hơi thở. Ta cố gắng giữ được sự chú tâm vào sự hô hấp càng lâu càng tốt. Đây không phải là sự tập luyện về hơi thở, ta không điều khiển hơi thở. Trái lại ta quan sát sự hô hấp bình thường, lúc ra, lúc vào. Bằng cách này, ta làm cho tâm được yên tĩnh, để nó không bị những phiền não chi phối. Cùng một lúc ta định được tâm, làm cho tâm đủ bén nhậy và sâu sắc để đưa đến tuệ giác.

    Hai phần đầu này, sống có đạo đức và làm chủ được tâm rất cần thiết nhưng chúng chỉ đưa đến sự dồn nén những phiền não nếu chúng ta không tập phần thứ ba, đó là thanh lọc tâm hết những phiền não bằng cách phát triển huệ nhãn vào chính bản thân mình. Đây là Vipassana: Chứng nghiệm sự thật về bản thân bằng cách quan sát trong ta một cách vô tư, có phương pháp những hiện tượng thay đổi không ngừng của thân và tâm thể hiện qua cảm giác. Đây là tổng hợp những lời dậy của Đức Phật: tự thanh lọc tâm bằng tự quan sát.

    Mọi người ai cũng có thể tu tập được. Mọi người đều phải đương đầu với khổ đau. Đây là bệnh chung của con người và cần phải có thuốc chữa chung, không riêng cho người nào. Khi ta đau khổ vì sân hận, nó không phải sân hận của Phật giáo, hoặc sân hận của Ấn độ giáo, hoặc sân hận của Thiên chúa giáo. Sân hận là sân hận. Khi ta bị giao động vì giận giữ, sự giao động này không phải riêng của người theo Thiên chúa giáo, hoặc Do thái giáo hoặc Hồi giáo. Bệnh này là bệnh chung của nhân loại. Thuốc chữa phải chữa được cho mọi người.

    Vipassana là loại thưốc này. Không ai phản đối lối sống tôn trọng an lạc và hài hòa của người khác. Không ai phản đối việc làm chủ được tâm mình. Không ai phản đối sự phát triển tuệ giác vào chính bản thân mình để có thể giải thoát tâm mình khỏi những phiền não. Vipassana là đường lối chung cho mọi người.

    Quan sát thực thể bằng cách quan sát sự thật nội tâm — đây là biết mình trực tiếp và bằng trực nghiệm. Càng thực tập ta càng thoát được đau khổ vì tâm phiền não. Từ một sự thật sơ đẳng, ngoại vi, giả thực, ta xuyên thấu tới sự thật tối hậu về tâm và thân. Khi vượt qua được giai đoạn này, ta chứng nghiệm được sự thật bên kia tâm và thân, vượt thời gian và không gian, vượt môi trường tương đối: chân lý về sự giải thoát hoàn toàn khỏi phiền não, bất tịnh và khổ đau. Bất cứ danh từ nào ta gán cho sự thật tối hậu này đều không thành vấn đề; đó là mục tiêu cuối cùng của con người.

    Chúc Quý vị chứng nghiệm được sự thật tối hậu này. Chúc mọi người được giải thoát khỏi khổ đau. Chúc mọi người hưởng được an lạc thật sự, hài hòa thật sự, hạnh phúc thật sự.

    NGUYỆN CHO MỌI CHÚNG SINH ĐƯỢC HẠNH PHÚC

    Bài trên đây dựa trên buổi nói chuyện trước công chúng của Thiền sư S.N. Goenka tại Berne, Thụy sĩ vào năm 1980.

    S. N.Goenka là một thiền sư về thiền Vipassana theo truyền thống của Sayagyi U Ba Khin tại Miến điện.
    Mặc dầu là người Ấn độ, Thiền sư Goenka sinh trưởng và lớn lên tại Miến điện. Trong khi sống tại Miến điện, Thiền sư may mắn được gặp U Ba Khin và được truyền thụ phương pháp thiền Vipassana. Sau mười bốn năm tu tập với sư phụ, Thiền sư Goenka trở về sinh sống tại Ấn độ và bắt đầu giảng dậy Vipassana vào năm 1969. Tại một quốc gia bị chia rẽ bởi nhiều giai cấp và tôn giáo, những khóa thiền do Thiền sư Goenka giảng dậy đã lôi cuốn được nhiều người thuộc mọi thành phần trong xã hội. Thêm vào đó, hàng ngàn người từ nhiều quốc gia trên thế giới đã tới tham dự những khóa thiền Vipassana.

    Thiền sư Goenka đã truyền dậy cho hàng ngàn người trong hơn 400 khóa thiền-mười ngày tại Ấn độ và tại những quốc gia khác, cả ở Đông phương lẫn Tây phương. Năm 1982, Thiền sư bắt đầu bổ nhiệm những Thiền sư Phụ tá để giúp Ngài đáp ứng nhu cầu thêm khóa thiền ngày một gia tăng. Hơn 70 trung tâm thiền đã dược thành lập dưới sự hướng dẫn của Thiền sư tại Ấn độ, Nepal, Tích lan, Miến điện, Thái lan, Cam bốt, Đài loan, Mông cổ, Nhật bản, Úc đại lợi, Tân tây lan, Tây ban nha, Pháp, Ý, Bỉ, Đức, Thũy sĩ, Anh, Mỹ, và nhiều khóa thiền được giảng dậy thường xuyên tại nhiều quốc gia trên thế giới.

    Phương pháp do Thiền sư Goenka giảng dậy tượng trưng cho một truyền thống có từ thời của Đức Phật. Đức Phật không bao giờ giảng dậy một tôn giáo riêng biệt; Ngài giảng dậy Dhamma (Pháp) - đường lối giải thoát – là đường lối chung cho mọi người. Với cùng truyền thống, phương pháp của Thiền sư Goenka hoàn toàn không tông phái. Vì lý do này, sự giảng dậy của Thiền sư thích hợp với mọi người thuộc mọi thành phần, mọi tôn giáo hoặc không thuộc tôn giáo nào, ở mọi trên thế giới.
    PC
    #19 Posted : Sunday, March 9, 2008 5:25:02 AM(UTC)
    PC

    Rank: Advanced Member

    Groups: Moderator, Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 5,668
    Points: 25
    Woman

    Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
    Anh Võ Đình Cường
    Thử Hòa Điệu Sống trong Ánh Đạo Vàng.

    Tối thứ Sáu, tại thành phố Sacramento, Hoa Kỳ, anh Hoàng Xuân Thiệu gọi điện cho hay là anh Võ Đình Cường vừa qua đời lúc 6 giờ chiều, ngày 6-3-2008 tại Sài Gòn. Hưởng thọ 91 tuổi.

    Võ Đình Cường là người Anh Cả, huynh trưởng mang cấp Dũng, trưởng ban Hướng dẫn Trung ương đầu tiên của Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Anh là một nhà văn, một nhà từ thiện, một huynh trưởng kỳ cựu của phong trào tuổi trẻ, và trên hết là một Phật tử sống đạo giữa đời thường.

    Năm 1959, lần đầu tiên tôi biết được anh khi mới bước chân vào trường trung học Hàm Nghi. Thuở đó, học trò cả trường và riêng tôi có một cô giáo mà chúng tôi thương kính nhất. Đó là cô Trần Thị Hoắc Hương. Nhận xét về một đứa học trò rắn mắt nhất lớp như tôi, cô là một giáo sư quốc văn và cũng là giáo sư hướng dẫn, đã phê trong học bạ của tôi, rằng: “Thông minh nhưng hơi hiếu động…” Chữ “hơi hiếu động” của cô đã đánh động tâm thức của tôi suốt một đời đã đành, nhưng “miếng đòn” chinh phục được sự hiếu động đó có tác dụng mạnh mẽ nhất trên tâm hồn măng non của tôi thuở ấy là khi cô đưa cuốn sách Thử Hòa Điệu Sống của Võ Đình Cường cho tôi đọc. Tác giả quả là một nhà tâm lý học tuổi thơ. Nội dung tươi mát, nhẹ nhàng và văn phong trong sáng mượt mà như thơ của Thử Hòa Điệu Sống đã hướng thiện cho tôi ngày ấy và có một tác dụng tích cực trong vô thức lẫn ý thức lâu dài về sau.

    Mấy năm sau đó, khi sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử, tôi mới được đọc tác phẩm Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Anh viết về cuộc đời đức Phật bằng tất cả cảm xúc đam mê và lòng tôn xưng trân trọng nhất tỏa chiết nồng nàn từ ngòi bút của anh. Viết về cuộc đời đức Phật có vẻ như quá dễ vì tất cả chỉ là một sự trình bày theo trình tự thời gian về một tập đại thành của sự kiện đã thành văn, thành sử. Nhưng thật ra lại muôn vàn khó khăn vì không dễ gì vực dậy được sông núi đã có lịch sử mấy nghìn năm an định bến bờ. Người đọc có thể thích suối nguồn tư tưởng và cảm xúc triết lý trong “Câu Chuyện của Dòng Sông” của Herman Hesse hay hương vị giải thoát, tính hồn nhiên rỗng lặng trong Đường Xưa Mây Trắng của Nhất Hạnh khi viết về đức Phật. Nhưng phải tìm đến Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường mới thấy được cảm xúc nồng nàn trực tiếp của tuổi trẻ đầy nhiệt thành khi hướng về đức Phật và phương trời cao rộng của đạo Phật.

    Với tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh, nhất là Gia Đình Phật Tử, những tác phẩm văn chương của Võ Đình Cường vừa có tác dụng tâm lý về sự uốn nắn những mầm non. Những mầm măng bị hoàn cảnh nghiệt ngã làm cong queo biết nhìn vế một lý tưởng để mọc thẳng mà vươn lên. Những tác phẩm được tuổi trẻ trong thế hệ Chiến Tranh Việt Nam ưa chuộng nhất như Thử Hòa Đìệu Sống, Những Cặp Kính Màu, Mùa Gặt Ác, Anh Em Ta Về… của Võ Đình Cường vừa mang tính giáo dục, vừa giàu sức thuyết phục, vừa đậm nét văn chương đã hướng những lối nhìn cay nghiệt, câu chấp và khinh bạc trước cuộc đời thành ánh mắt hòa điệu, yêu thương và thoáng đạt.


    Anh Võ Đình Cường đã ở vị thế con chim đầu đàn của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong những năm gian nan, thăng trầm biến động nhất trong lịch sử cận đại của dân tộc và đạo pháp. Thời những năm sáu mươi, khi còn là liên đoàn trưởng Gia Đình Phật Tử Liễu Hạ, tôi chỉ được gặp… xa xa anh Võ Đình Cường một đôi lần trong những đại hội huynh trưởng lớn. Mùa Phật Đản năm 1976, lần đầu tiên tôi đuợc gặp trực tiếp anh Võ Đình Cường bên cạnh có nhạc sỹ Nguyễn Hữu Ba và một số thân hữu Phật tử tại Sài Gòn. Anh Võ Đình Cường xuất hiện trước mắt tôi không uy nghi đường bệ như một huynh trưởng cấp Dũng, trưởng ban hướng dẫn GĐPT trung ương xuất hiện trong đại hội. Được nắm bàn tay mềm và chuyện trò thân mật với anh, tôi mới cảm nhận được sự chơn chất, hiền hậu và điềm đạm ít thấy ở những nhà văn, nghệ sĩ, nhân vật lãnh đạo đã thành danh và nổi tiếng như anh. Với tương quan đời thường, anh đơn giản, nồng nàn và tế nhị với khách như người trong gia đình. Trong câu chuyện thân tình ngày đó, tôi còn nhớ mãi một lời tâm sự của anh: “Trước mỗi hoàn cảnh đổi thay, không có một con đường nào dễ dãi nhất mở sẵn ra để theo. Sự chọn lựa nào cũng có nổi xót xa riêng của nó. Nhưng đạo Phật mình quan niệm sự đời thay đổi theo từng sát na, nên còn lại là vấn đề cần phải xếp đặt ưu tiên. Cái gì ưu tiên một thì làm trước, cái gì ưu tiên hai thì làm sau…” Tôi rất tâm đắc về ý kiến của anh. Thuở đó tại quê nhà và càng ngày về sau nầy tại xứ người, cái “prioritization” – xếp ưu tiên – vẫn thường là một sự chọn lựa hành động hay tu học giúp hành giả bớt bối rối và tiết kiệm thời gian trước những ngã ba đường không bao giờ có điểm dừng đóng kín. Trong đời sống tâm linh, phải chăng đó cũng là một cách “Thử Hoà Điệu Sống trong Ánh Đạo Vàng?” Thế nhưng, thực tế cuộc đời có khi không trôi chảy êm đềm theo trình tự ước mơ. Có khi “ưu tiên một” chưa đến hồi hoàn mãn thì con người lại phải theo dòng chảy nghiệp duyên nối kiếp ra đi…

    Hai năm trước, trong một cuộc hội luận với các thành viên của Viện Nghiên Cứu Phật Học Quốc Tế và tổ chức Thân Hữu Cư Sĩ “liên lục địa” Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Việt Nam, tôi từ Sacramento, California được nói chuyện lần cuối với anh Võ Đình Cường từ tòa soạn tạp chí Văn Hóa Phật Giáo tại Sài Gòn. Anh cho biết đôi điều liên quan đến cá nhân anh rằng, vì tuổi tác cao và sức khỏe hạn chế, anh không còn đọc và viết thường xuyên như trước nữa. Nhưng anh vẫn tỏ ra rất quan tâm đến những chuyển biến của Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước. Từ đó đến nay, tôi không còn cơ hội gặp lại anh Võ Đình Cường. Thế nhưng, có một câu nói có vẻ như đầy tính “kế thừa” của anh trong cuộc nói chuyện sau cùng mà tôi còn nhớ: “Anh chỉ mong các em trong Gia Đình Phật Tử đừng phân biệt không gian, thời gian và những khó khăn, trở ngại nhất thời. Các em cần phải lấy ngắn đánh dài chứ đừng lấy dài đánh ngắn. Lịch sử hai ngàn năm trăm năm của đạo Phật chính là cái ‘dài’ quý báu mà chúng ta đang có trong tay đó các em.” Tuy tôi chưa kịp hỏi anh cái “ngắn” ấy là gì. Nhưng tôi có sự cảm nhận đầy thâm tín rằng, đó là ý hướng và phản ứng cảm tính nhất thời. Và, ngắn nhất vẫn là tấm thân giả tạm làm cán dù che cho những cuộc đời giới hạn và mong manh. Thấy được phương tiện ngắn, dài để mà hóa giải những xung đột nhất thời trong mỗi cuộc đời quá vô thường và ngắn ngủi nầy. Hay nói như Tagore: “Mỗi khắc thương yêu là đang sống. Mỗi thoáng hận thù là đang chết đi!”

    Anh Võ Đình Cường ra đi như một biểu tượng khép lại của thế hệ đàn anh đang đi qua và thế hệ đàn em đang tiếp nối. Tâm sự người ra đi thường cảm thấy như “chưa làm được gì” sau một đời đầy xuôi ngược. Đức Phật vẫn bảo là “chưa nói một lời” sau 49 năm giáo pháp. Thế hệ đàn em kế thừa và trân trọng những điều thế hệ đàn anh đã nói và “chưa nói gì”.

    Gia Đình Phật Tử Việt Nam thương kính tưởng niệm và đồng nguyện cầu “Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật” cho hương linh người Anh Cả Gia Đình Lam Nguyên Hùng Võ Đình Cường sớm vãng sanh miền Cực Lạc.

    Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
    Cựu liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (63-68)
    Sacramento, 7-3-2008
    PC
    #20 Posted : Saturday, November 15, 2008 11:52:56 PM(UTC)
    PC

    Rank: Advanced Member

    Groups: Moderator, Registered
    Joined: 6/24/2012(UTC)
    Posts: 5,668
    Points: 25
    Woman

    Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
    SINH VÀ TỬ

    1. Thực hành tốt đẹp là tự hỏi mình: “ Tại sao ta sinh ra? ”. Sáng, trưa, chiều, tối, ngày hãy tự hỏi mình câu hỏi đó.

    2. Sinh và tử của ta chỉ là một. Bạn không thể có cái nầy mà chẳng có cái kia. Người ta buồn rầu than khóc khi có ai chết, và vui cười hớn hở khi thấy một đứa trẻ sinh ra đời. Thật si mê và khôi hài làm sao! Nếu muốn khóc, hãy khóc lúc có ai sinh ra. Hãy khóc cái nguyên nhân, khóc cái gốc, vì không sinh ra thì sẽ không chết.

    3. Bộ ở trong bụng người ta sướng lắm sao! Thật chẳng thoải mái chút nào! Thử nghĩ xem! Chỉ cần sống trong căn chòi nhỏ một ngày thôi, đủ khó chịu đến đâu rồi! Đóng hết các cửa phòng lại là bạn đã nếm mùi đau khổ! Chao ôi! Vậy mà ở trong bụng người ta đến chín tháng! Bạn còn muốn sinh ra lần nữa à? Hẳn bạn biết rõ là nằm trong bụng chẳng thoải mái chút nào, thế mà bạn vẫn còn muốn thun đầu rụt cổ trong chốn tối tăm ấy nữa sao? Đừng tròng đầu vào dây thòng lọng nữa!

    4. Tại sao ta sinh ra, ta sinh ra để không còn phải sinh ra nữa.

    5. Khi không hiểu được sự chết thì cuộc sống nầy có nhiều lẫn lộn.

    6. Đức Phật dạy Ngài Ananda quán sát sự vô thường, quán tưởng cái chết trong từng hơi thở. Chúng ta phải hiểu sự chết. Chúng ta chết để được sống. Câu nầy có nghĩa gì? Chết là chấm dứt mọi hoài nghi, mọi vấn đề và sống ngay trong hiện tại. Không phải ngày mai chúng ta mới chết, chúng ta phải chết ngay bây giờ. Bạn có thể làm được điều này không? Nếu làm được, thì chẳng còn vấn đề gì nữa và bình yên tĩnh lặng sẽ đến với bạn.

    7. Cái chết gần gũi với ta ngay trong hơi thở.

    8. Nếu biết huấn luyện và thực hành đúng đắn thì bạn sẽ không sợ hãi mỗi khi bị bệnh và không còn đau buồn trước cái chết của người thân. Khi phải vào bệnh viện chữa trị thì hãy tự xác quyết rằng: Lành bệnh thì tốt mà không lành bệnh cũng tốt thôi. Nếu bác sĩ cho biết tôi bị ung thư và sẽ chết trong vài tháng thì tôi sẽ nhắn nhủ bác sĩ rằng: “ Hãy cảnh giác, cái chết cũng đang đến tìm ông đó! Vấn đề là ai đi trước và ai đi sau mà thôi! ”. Bác sĩ không thể chữa trị và ngăn ngừa cái chết. Chỉ có Đức Phật mới làm được việc này. Vậy còn chần chờ gì nữa mà không dùng thuốc của Đức Phật?

    9. Nếu bạn sợ bệnh, nếu bạn sợ chết thì hãy quán sát xem chúng từ đâu đến. Chúng đến từ sự sinh. Thế nên, đừng buồn khi có người chết. Cái khổ của họ trong đời này đã hết rồi. Chết là một chuyện tự nhiên thôi. Nếu bạn muốn buồn thì hãy buồn khi có người sinh ra đời: “ Tội nghiệp thay! Họ lại đến nữa rồi. Họ sắp phải đau khổ và chết nữa ”.

    10. Người hiểu biết phải ý thức rõ ràng rằng mọi pháp trên thế gian không có bản thể trường cửu. Bởi vậy, Người hiểu biết không vui hay buồn vì họ không bị cuốn trôi theo các pháp thế gian luôn luôn biến đổi này. Trở nên vui là sinh. Trở nên buồn là tử. Chết rồi lại được sinh ra, và sinh ra lại chết nữa. Sống và chết trong từng phút giây là sự luân lưu bất tận của vòng sinh tử.

    Users browsing this topic
    Guest (2)
    2 Pages12>
    Forum Jump  
    You cannot post new topics in this forum.
    You cannot reply to topics in this forum.
    You cannot delete your posts in this forum.
    You cannot edit your posts in this forum.
    You cannot create polls in this forum.
    You cannot vote in polls in this forum.