Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Florence Nightingale
Half Moon
#1 Posted : Thursday, November 11, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Half Moon

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4
Points: 0

Tác giả Half Moon
Gởi: Tue Jul 06, 2004 7:23 pm Tiêu đề: Florence Nightingale - Người sáng lập ngành điều dưỡng

Chuyện về người phụ nữ sáng lập ngành điều dưỡng



Là con gái một gia đình giàu có ở Anh, Florence Nightingale (1820-1910) luôn được cha mẹ kỳ vọng là sẽ trở thành một người có vai vế. Tuy nhiên, cô lại có những dự tính riêng. Từ tuổi 16, Florence nhận ra mình đã được Chúa ban cho một sức mạnh nội tâm huyền bí để chăm sóc người khác.

Florence có tư chất thông minh, thích đọc sách về triết học, tôn giáo, chính trị và cảm thấy rất thú vị khi chăm sóc cho những nông dân bị đau ốm và cả súc vật nuôi trong gia đình. Niềm đam mê của nàng là bí mật tìm đọc các sách dạy cách chăm sóc người bệnh mà nàng thu thập được, rồi đi thăm các bệnh viện tại London và những vùng lân cận.

Khi Florence thông báo là không muốn trở thành người có địa vị trong xã hội, gia đình đã hết sức tức giận. Cha mẹ nàng không hề muốn con mình làm những việc "dơ bẩn" nên đã tìm đủ cách ngăn cản để thay đổi suy nghĩ của con. Chị nàng thì giả vờ ngất, mẹ nàng mắng con là làm điều trái luân lý... Đầu thế kỷ thứ 19, việc phụ nữ làm nghề chăm sóc cho bệnh nhân hay theo học ngành y là một điều sỉ nhục đối với những cô gái "con nhà". Không trường y nào chịu nhận phái nữ vì cho rằng họ không thể học được, cũng không thể thích nghi với những cách làm việc trong môi trường máu me.

Tuy nhiên, tiểu thư Nightingale vẫn trung thành với lý tưởng đã đặt ra và tiếp tục đấu tranh với gia đình. Cuối cùng, nàng đạt được một thỏa hiệp với cha, rằng nếu được đến bệnh viện Kaiserwerth ở Đức để học tập, nàng sẽ tuyệt đối không tiết lộ cho ai biết về kế hoạch của mình. Florence đã trở thành một sinh viên xuất sắc và khi đã tốt nghiệp, nàng theo học thêm ở Paris (Pháp) vào năm 1853. Sau đó, nàng trở lại London và điều hành một bệnh viện.

Florence không muốn lập gia đình để toàn tâm theo đuổi các hoạt động xã hội. Năm 30 tuổi, bà đã trở thành người điều hành và tổ chức chăm sóc sức khỏe cho những người nghèo khổ tại thủ đô nước Anh, sắp xếp hợp lý và đưa ra các tiêu chuẩn cho công tác điều dưỡng. Trong vòng 2 năm, bà đã trở thành một trong những nhà lãnh đạo đầy quyền uy tại các bệnh viện ở xứ sở sương mù.

Sau đó, theo yêu cầu của chính phủ Anh, Florence đồng ý đến Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến Crimée (1854-1856) với cương vị chỉ huy đội điều dưỡng và tổ chức chăm sóc thương bệnh binh tại mặt trận. Trong thời gian này, Florence đã tổ chức bệnh viện dã chiến tại mặt trận. Đây là những hoạt động đầu tiên trong việc xây dựng các bệnh viện tân tiến có sự quản lý điều trị của đội ngũ điều dưỡng.

Trong suốt cuộc chiến Crimée, bà đảm nhiệm công tác điều dưỡng, săn sóc cho các thương bệnh binh và chỉ huy 38 nữ điều dưỡng lên đường ra mặt trận. Lúc này, bệnh viện tiền phương được đặt trong một doanh trại khổng lồ và bẩn thỉu. Florence đưa ra yêu cầu phải dọn dẹp sạch sẽ để đảm bảo công tác vệ sinh, chống nhiễm trùng, đồng thời tìm cách xoay xở để được cung cấp các phương tiện y tế cần thiết. Chính bà là người quan tâm rất nhiều đến công tác vệ sinh vô trùng để giảm tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn từ 42% xuống còn 2%.

Florence từng viết: "Tôi đứng bên mộ những chiến sĩ đã hy sinh vì bệnh tật. Và trong khi còn sống, tôi sẽ đấu tranh chống lại những nguyên nhân dẫn đến cái chết của họ". Trong suốt 34 năm, bà đã làm việc không mệt mỏi để bảo vệ sức khỏe cho các chiến binh Anh, đồng thời ra sức cải thiện điều kiện vệ sinh ở nước này và Ấn Độ (thuộc địa Anh thời đó). Trong thời gian này, bà đã tổ chức lại hệ thống điều dưỡng một cách hiện đại.

Trong đêm tối, Forence thường cầm đèn đi chăm sóc cho từng thương bệnh binh từ mặt trận chuyển về. Vì thế, các thương binh đã âu yếm đặt cho bà danh hiệu "Nữ công tước với cây đèn". Nightingale đã cứu được hàng nghìn mạng sống của thương bệnh binh và cũng được mọi người gọi là "Thiên thần trong bệnh viện".

Nhưng chính cuộc chiến Crimée đã gieo cho Florence Nightingale căn bệnh sốt, gọi là sốt Crimée (chính là bệnh brucellosis truyền từ gia súc). Trong những năm 1858-1888, sức khỏe bà ngày càng suy yếu rồi đến lúc không còn đi lại được. Tuy vậy, Nightingale không cô đơn vì hàng triệu người trên thế giới vẫn luôn nhớ đến bà. Trong suốt cuộc nội chiến tại Mỹ, chính phủ nước này đã luôn tham khảo và xin ý kiến của bà về việc tổ chức các bệnh viện dã chiến để chăm sóc thương bệnh binh tại chiến trường.

Khi không còn khả năng làm việc, Florence được nhân dân và các chiến sĩ Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khỏe. Nhưng bà đã dùng tất cả số tiền này thành lập trường điều dưỡng Nightingale với chương trình đào tạo một năm. Từ đấy, Florence được coi là người sáng lập ra ngành điều dưỡng thế giới và ngày sinh 12/5 của bà trở thành ngày truyền thống của ngành điều dưỡng.

Florence Nightingale ra đi vào giấc ngủ trưa ngày 13/8/1910. Trong dịch SARS năm 2003 tại Trung Quốc, các chương trình văn hóa nhằm ca tụng tinh thần hy sinh của đội ngũ y tế được đặt tên là "Chương trình Nightingale". Điều đó cho thấy ảnh hưởng và vai trò quan trọng của bà đối với công tác điều dưỡng.

DS. Trương Tất Thọ, Sức Khoẻ & Đời Sống
_________________
"...Đất tìm trăng, trăng đi tìm trái đất
Nửa tháng tròn thao thức đợi chờ nhau..." - (TQ)
Phượng Các
#2 Posted : Tuesday, March 20, 2007 8:22:56 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Florence Nightingale (1820-1910) người mở đường cho sự thành lập Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế

Cam chịu! Tôi chưa bao giờ hiểu tiếng đó hết! F.N.

Nguyễn Hiến Lê


Coi bức họa do Verney vẽ hồi bà ba chục tuổi, ta chỉ thấy bà có một vẻ đẹp thanh nhã, phảng phất như một thiếu phụ phương Đông: người nhỏ nhắn, cân đối, yểu điệu, mặt trái xoan, lông mày dài và cong, miệng nhỏ, cặp mắt hơi lớn, thông minh, nghiêm trang và thùy mị. Phải nhìn bức tượng bán thân do John Steel nặn năm 1859 -chín năm sau ta mới nhận ra những nét cương quyết trên vừng trán cao, rộng, hơi gồ và trên làn môi mỏng và mím lại của con người suốt đời không hề hiểu tiếng "cam chịu" ấy.

Đức kiên nhẫn và nghị lực của bà thật là phi thường, đàn ông cũng ít người sánh kịp. Một mình bà mà chống với bản thân và gia đình trong mười bốn năm rồi chiến đấu với các chính khách Anh, quân đội Anh ba mươi lăm năm nữa -trước sau gồm nửa thế kỷ- để thực hiện lý tưởng của mình: làm cho nhà cầm quyền Anh phải coi người lính không phải là hạng thú vật mà là hạng người lương thiện.

Bà sinh trong một gia đình nền nếp, sang trọng. Cha là William Edward Nightingale, dòng dõi điền chủ, được hưởng một gia tải lớn, sống một cách nhàn nhã, vui chơi suốt năm, chẳng phải lo lắng gì cả; tính tình lịch thiệp, nhã nhặn. Mẹ là Fanny dòng dõi phú thương, rất đẹp, hào phóng nhưng cũng như chồng, chỉ ham vui. Hai ông bà cưới nhau xong, qua châu Âu du lịch ba năm, được một năm thì sinh một người con gái, đặt cho một tên Hy Lạp là Parthenope; hai năm sau nữa (15-05-1820) mong có một đứa con trai thì lại sinh thêm một gái nữa, đặt tên là Florence, tên một tỉnh vui vẻ nhất ở Ý.

Tính tình hai chị em rất khác nhau: Cô Parthe (tức là Parthenope) thì đểnh đoảng, không có ý tứ, giống mẹ: cô Flo (tức Florence) thì rất ngăn nắp, có thứ tự và phương pháp. Gia đình sống vui vẻ trong sự xa hoa: cha thì đi săn, đọc sách, mẹ thì tiếp khách, nghe nhạc. Thỉnh thoảng lại dắt nhau. Cô Flo thích nhất nước Ý, lại quý mến dân Ý đã chiến đấu để đòi lại độc lập. Ông bà cho cô học tiếng Pháp, tiếng Hy Lập, môn triết lý nhưng cô chỉ thích môn toán Và sống trong cảnh nuông chiều, nhàn nhã, phong lưu đó, cô vẫn thấy buồn, hồi mười chín tuổi, cho đời mình là vô vị, thiết tha tìm một mục đích. Trong năm năm cô suy nghĩ, dò đường đi, dần dần thấy rằng com đường hợp với cô nhất là hy sinh, để săn sóc bệnh nhân. Ngỏ ý với cha mẹ thì cha mẹ ngăn cản, và suốt trong chín năm sau, luôn luôn có sự xung đột giữa cô và gia đình.

Năm 1842 là năm dân Anh bị nạn đói kinh khủng, kẻ nghèo chết như rạ. Trước cảnh khổ đó, cô than thở: "Óc tôi suy nghĩ hoài về nỗi khổ của loài người (...) Và lời các thi sĩ ca tụng những cái rực rỡ của thế giới này, tôi thấy là sai sự thực. Tất cả những người mà tôi gặp đều bị cảnh lo lắng, hoặx nghèo khổ hoặc bệnh tật xâu xé."

Từ đó cô nhất định vô các dưỡng đường hy sinh cho bệnh nhân như các bà phước bên Thiên chúa giáo. Nhưng cô vẫn chưa biết lực lời ra sao để xin phép cha mẹ, nên vẫn kéo dài cuộc đời ngồi rồi, chán nản. Có bạn hỏi sao cô không làm văn để tiêu khiển, vì cô có chút khiếu về văn chương, cô đáp: "Không hoạt động được thì bất đắc dĩ mới phải viết".

Mãi hai năm sau, cô mới dám ngỏ lời với ông bà, xin học ba tháng nghề điẻu dưỡng ở bệnh xá Salisbury gần nhà (lúc đó gia đình ở cả Embley. Thân mẫu cô kinh hoảng, cho là cô điên; cô Parthe nổi cơn lên bảo là làm nhục gia đình; còn thân phụ cô thì ghê tởm, chán ngán, bỏ nhà đi Luân Đôn chơi. Ai cũng nghĩ: đương sống trên nhung lụa được cả nhà chìu chuộng, muốn gì có nấy, tài đó, sắc đó, ở trong gia đình đó thì thế nào chẳng kiếm được một đứng phu quân xứng đáng, dòng dõi thế phiệt, mà lại sinh chứng, muốn làm nghề nữ điều dưỡng, một nghề đê tiện chỉ hơn bọn gái điếm và bọn ăn mày có một bực!

Quả thực nghề nữ điều dưỡng thời đó là một nghề ghê tởm, Trừ một số bà phước Pháp, hy sinh cho đạo, cho tín đồ, còn các nữ điều dưỡng ở các dường đường đều bị khinh bỉ, sống rất nhục nhã. Không một nhà danh giá nào chịu cho con theo nghề đó.

Đọc tiểu sử Philippe Semmelweis ta thấy tình cảnh dưỡng đường ở thế kỷ trước tại Áo, Hung ra sao. Không có một chút vệ sinh nào cả. Sinh viên y khoa vừa mổ xẻ thây ma ở phòng mổ xẻ xong, tay còn đầy máu mủ, có khi chỉ nhúng qua vào một thùng nước, khoăng khoắng mấy cái, có khi vội vả không kịp nhúng nữa, chùi đại vào áo choàng rồi chạy qua phòng bên, coi mạch cho bệnh nhân, đỡ đẻ cho sản phụ, thành thử truyền vi trùng của thây qua người mạnh. Thực là ghê tởm! Vì vậy mà có nhiều sản phụ hoảng hốt khóc lóc, quỳ lạy van xin y sĩ cho họ đẻ ở đầu đường, ở bờ rạch còn hơn. Hễ vô nằm thì mười phần có chín phần mắc chứng sốt sản hậu (fièvre puerpéral) rồi chết. Bệnh đó đặc biệt phát ra ở dưỡng đường đến nôi dân chúng gọi nó là "bệnh sốt dưỡng đường". Nó rất hay lây, nhưng hồi đó Pasteur chưa tìm ra thuyết vi trùng nên người ta không biết nguyên nhân ở đâu, mà các y sĩ thì chưa có một ý niệm gì về vệ sinh cả.

Ở Anh, tình cảnh cũng như ở Ấn, Hung, Đức, nếu không nói tệ hơn. Có phòng chứa cả năm sáu chục bệnh nhân; nệm có khi cả tháng không thay, đầy vết dơ, cứ người trước ra thì người sau vào thế, thành thử bốn, năm con bệnh dùng chung một cái nệm; nếu có một người bị bệnh truyền nhiễm thì những người tới sau đều bị lây, thành thử có giường làm cho bệnh nhân kinh khủng, ai vô nằm cũng chết. Sàn, tường đều đầy máu mủ, mùi hôi thói xông ra ngoài làm cho những người đi qua phải buồn mửa.

Các nữ điều dưỡng được ở một phòng riêng, nhưng họ ngủ ở đó, ăn ở đó và nấu ăn cũng ở đó. Có người phải coi tới bốn phòng mà lương không đủ sông. Đa số say rượu đến nỗi tại Dưỡng đường Luân Đôn, lớn nhất ở Anh, chỉ có hai nữ điều dưỡng là đáng tin cậy, không cho bệnh nhân uống nhầm thuốc. Một số làm điếm, khoe với người khác rằng "Thân tôi dơ dáy, đê tiệnnhư vầy đây mà đạ cò lần tôi được bận lụa và sa tanh thứ thiệt của Pháp đấy"'

Tóm lại không có người đứng đắn nào chịu giao thiệp với bọn đó, chả trách gia đình của Florence cho cô là làm nhục gia phong cương quyêt ngăn cản cô là phải. Cô không dám cãi nhưng vẫn giữ ý định, từ chối mấy nơi danh giá lại cầu hôn, đi du lịch Ai Cập để tiêu sầu.

Nhưng vào khoảng 1850, một số người sáng suốt ở Anh đã bắt đầu lưu tâm tới các dưỡng đường, tỏ lòng thương các bệnh nhân nằm trong đó và tìm cách giúp đỡ họ. Tháng sáu 1851, cô Florence qua Đức chơi, vào thăm viện Kaiserworth do một mục sư lập. Viện gồm có một bệnh xá, một trường học, một nhà nuôi trẻ mồ côi. Cô xin phép cha mẹ ở đó ba tháng học cách săn sóc bệnh nhân, rồi vế nước.

Đầu năm 1833 cô qua Pháp thăm các dưỡng đường ở Paris, rồi lần này, không xin phép nà, tự ý vô nhà tu Maison de la Providence học thêm nghề săn sóc bệnh nhân và khi về nước, cô không ở chung với gia đình nữa, vô giúp việc cho một bệnh xá do hội Thiện lập ở Harley street. Vậy là đến năm ba mươi ba tuổi, cô mới được làm theo sở nguyện.

Năm sau, có chiến tranh giữa Nga một bên Anh, Pháp, Thổ một bên, trong lịch sử gọi là chiến tranh Crimée, Nga hoàng Nicolas I muốn chiếm Constantinople hồi đó nằm ở trong tay Thổ - để tìm đường ra Địa Trung Hải, nên đem quân lại bán đảo Crimée, lấy cớ rằng để bênh vực các tín đồ Thiên chúa giáo bị người Thổ ngược đãi. Anh và Pháp đều không muốn cho Nga chiếm Comstantinople, vì nếu chiếm được hì hạm đội Nga sẽ tung hoành trên Địa Trung Hải, con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy mà thuộc địa của Pháp ở Syrie cũng không được yên ổn. Cả hai đều giúp Thổ chống Nga, thà để Constantinople cho Thổ vì Thổ yếu, không làm hại được mình, chứ không chịu để cho Nga.

Người Anh chắc chắn thế nào cũng thắng -ba nước đánh một mà!- nên quân sĩ hùng dũng, tự tin ra trận, lập căn cứ tại Scutari để công phá căn cứ của Nga ở Sébastopol; nhưng họ khinh địchquá, lại không tổ chức gì cả: 3 vạn lính Anh tới Varma mà không có xe để chở. Nực cười nhất là họ ra chiến trường mà như cắm trại; khách du lịch các nước bu lại coi, sống chung với quân lính như coi một cuộc đấu quyền. Bọn du lịch đó, người Anh gọi là T.G, (Travelling gentlemen).

Không ngờ quân Nga chống cự kịch liệt, rồi bệnh dịch tả phát trong quân đội Anh. Lớp đầu, một ngàn bệnh nhân đưa về Scutari rồi tiếp tới một ngàn bệnh nhân nữa; bệnh xá của quân đội không còn đủ chỗ chứa, thiếu đủ thứ, từ y sĩ, điều dưỡng đến lao công, thức ăn, thức uống. Một chỗ bình thường chứa 150 người thì bây giờ phải chứa 1500 người; không có giường cho họ nằm, bếp cũng không có để nấu nướng, mà dơ dáy thì không thể tả nổi. Ở Anh người ta chỉ nghe các tướng báo cáo về lòng dũng cảm của quân lính, không ngờ tình trạng lại bi thảm như vậy. Một phóng viên của tờ Times phẫn uất viết bào tường thuật cảnh hỗn độn, thiếu thốn, vô tổ chức đó, so sánh với bệnh xá quân đội Pháp, sạch sẽ hơn, lại có những bà Phước rất giỏi, rất tận tâm săn sóc thương binh, và đặt câu hỏi: "Tại sao người Anh không có bà phước như Pháp?".

Những bài báo đó làm dư luận chấn động và chính quyền Anh cậy ông Redeliffe mời cô Florence tiếp tay. Thực hợp với ý cô vì ngay từ đầu chiến tranh cô đã có ý và đã có dự bị qua Constantinople giúp thương binh ồi. Cô xúc tiến công việc, tuyển 14 nữ điều dưỡng chuyên nghiệp và 24 người nũa trong số hội viên của các cơ quan tôn giáo, rồi ngày 21 tháng 10 đó, cô lên đường với họ, mang theo 1000 anh kim với một bức thư nhà cầm quyền giới thiệu cô với bác sĩ Menzies , giám đốc dưỡng đường quân đội ở Scutari. Cô giữ chức giám đốc cơ quan nữ điều dưỡng của các duỡng đường Anh tại Thổ, tuy phải theo mệnh lệnh bác sĩ Menzies nhưng được toàn quyền chỉ huy những nữ điều dưỡng ở dưới quyền mình. Bà Tanny và cô Parthe lúc này chẳng những không buồn là cô làm nhục gia đình nữa mà còn khoe với mọi người rằng "cô có một nhiệm vụ lớn lao và cao cả". Trò đời là như vậy!

Đã từ lâu rồi, cái tinh thần tự tôn, tự hạ hay trong Thánh Kinh, tinh thần rửa chân cho những người thuộc hạng đê tiện, đã tiêu tan không còn lưu một dấu vết gì trong bọn quý phái ở Âu nữa. Các bà các cô trông các hội Thiện do các tôn giáo lập ratự cho mình chỉ có bổn phận săn sóc linh hồn, nhĩa là tụng kinh cho các bệnh nhân trong bệnh xá thôi, còn cái thân thể của họ, cái vật dơ dáy đó, họ không thèm ngó tới. Không những vậy, các bà các cô cũng không chịu ngồi chung, ăn chung với hạng nữ điểu dưỡng chuyên nghiệp. Cô Florence phải kiên nhẫn giảng giải, thuyết phục rất lâu, các bà các cô đó mới chịu rời cuốn Thánh kinh mà tiếp tay với cô, và mới chịu hạ mình tiếp xúc các bạn chuyên nghiệp.

Tjáng sau tàu ghé Scutari. Thật là một cảnh kinh khủng, đến thi sĩ Dante cũng không sao tưởng tượng nổi trong phần đầu , phần tả địa ngục, của tâp thơ bất hủ La Divine Comédie của ông. Ở bệnh xá của trại lính có tới 2400 bệnh nhân, nếu họ có đủ giường nằm mà giường kê liền nhau thì thành một dãy dài năm cây số. Già nửa là say tí bỉ: vì không co` người nào không uống rượu. Họ chết vì đói lạnh, vì bệnh dịch tả, chết vì truyền nhiễm. Hai ngàn ba trăm bốn mươi chín người vô nằm thì hai ngàn ba trăm mười lăm người chết, chỉ còn ba mươi bốn người sống sót, trở ra mặt trận được. Lính chết mà ngựa cũng chết. Cả hai đều chết mà không kịp chôn. Có` giường thì mười người thay phiên nhau vô nằm thì chết cả mười. Có người vô nằm nửa tháng mà vẫn chưa được bác sĩ coi mạch vì thiếu bác sĩ. Có người vô nằm hai mươi bốn giờ mà không được ăn cũng không được uống nước. Mà nước thì đục ngàu và hôi. Họ không có đủ giường để nằm, không có quần áo để thay mà cũng không có cả nỉa muỗng, dao để dùng nữa. Hai, ba ngưòi ăn uống, rửa mặt trong một cái thùng nhỏ. Thực ghê tởm ! Họ không còn là người nữa, không bằng con thú nữa. Ai chịu trách nhiệm về tình trạng đó? Thưa, không có ai cả. Viên bác sĩ giám đốc bệnh xá bảo: "Tôi chỉ lo việc coi mạch, ra toa thôi vấn đề ăn mặc do sĩ quan cung cấp lương thực" Viên này lại bảo: " Tôi chỉ có bổn phận cung cấp những món ăn thường dùng thôi, còn những món ăn đặc biệt cho những bệnh nhân ăn riêng thì ra ngoài nhiệm vụ của tôi. Lính không có muỗng, nỉa, dao, dĩa là tại họ. Quân lệnh bắt họ đi đâu cũng phải mang theo những thứ đó, nếu họ đánh mất hay bỏ quên thì mặc họ!". Họ không đánh mất, cũng không bỏ quên, họ đã được lệnh của sĩ quan của họ ở quận Calamita bảo để lại những thứ đó, cho người sau dùng, về Scutari sẽ có đủ. Và bây giờ về Scutari họ phải ăn bốc.

Trước tình cảnh đó, các nữ điều dưỡng chán nản: họ có ba mươi tám người làm sao săn sóc non hai ngàn rưởi bệnh nhân được? Cô Florence, trái lại, hăng hái muốn bắt tay vào việc ngay; việc càng nhiều thì lại càng phải làm gấp. Cô xin bác sĩ Menzies phát cho bệnh nhân nệm và quần áo sạch để thay, cho họ mỗi ngày một món xúp và có đủ trà để uống. Bác sĩ đáp: "Những xa xỉ phẩm đó, không nên cho bọn lính hưởng". Sự thực là không có đủ để phân phát cho lính. Mà các sĩ quan cao cấp thì có dư săm-banh để uống và để tiếp đãi các T.G.

Ngay từ khi cô mới tới, bác sĩ Menzies đã có ác cảm với cô rồi. "Bọn phụ nữ này tới đây làm gì cho vướng chân mình? Cái ngữ đó mà giúp đỡ được cái gì? Chỉ tổ phải hầu hạ họ!". Ông ta nghĩ vậy mà không dám nói ra "chưa biết chừng họ do cơ quan mật vụ gởi tới để canh chừng mình đây! Nhất là cô Florence đó nghe nói quen nhiều giới "bự" ở Luân Đôn. Thái độ của ông là mặc kệ không giao việc cho bọn cô, thí cho bốn căn phòng tại bệnh xá - tính ra mười người một phòng.

Cô Florence không phản đối vì theo lệnh trên, cô phải thuộc quyền bác sĩ.

Nhưng ít bữa sau, tình thế thay đổi. Mùa Đông tới, mà mùa Đông năm đó lạnh vô cùng. Bện nhân dồn tới mỗi ngày mỗi đông: họ bị bệnh lị, bị chứng hoại huyết và họ đói. Bác sĩ Menzies xoay sở không xong, đành phải nhờ bọn cô giúp sức.

Cô bắt tay vào việc với một nghị lực và một sức chịu đựng phi thường. Công việc đầu tiên là lau quét, dọn dẹp cái phòng cái giường cho tạm sạch, thu xếp cho có một chỗ khuất để bác sĩ làm công việc giải phẫu. Trước kia không có một bàn riêng để giải phẫu nữa, bệnh nhân cứ nằm tại giường của mình người ta cột tay khóa chân họ lại rồi mổ, ngay trước mắt những bệnh nhân ở xung quanh, làm cho họ phải nhắm mắt, bịt tai lại. Nhờ số tiền mang theo, cô tuyển thêm nữ điều dưỡng ở tại miềm, chỉ bảo họ, rồi lại thuyết phục vợ họ đừng ở không nữa mà tiếp tay với cô.

Vừa mới sắp đặt có trật tự được một chút thì một cơn giông dữ dội nổi lên, quét sạch hết lều trại, người, ngựa cũng bị thổi đi. Quần áo tơi bời, bệnh nhân nằm trên bàn, hôi thối. Có kẻ thấy một nữ điều dưỡng tới giúp đỡ mình, vội xua tay hét: "Đi chỗ khác, đừng lại gần tôi, tôi dơ dáy lắm!"

Số bệnh nhân cũng tăng lên 500 nữa. Sau cơn dông, phải xây cất, dọn dẹp lại. Vừa mới yên thì ở mặt trận lại gởi thêm thương binh về, và tháng giêng năm 1855, bệnh nhân lên tới số kỷ lục, kinh khủng là 12.000 người, mà trước sau chỉ có 85 người -kể cả cô Florence- để săn sóc họ!

Cô làm việc suốt ngày, mỗi đêm chỉ nghỉ được bốn năm giờ, quyên tiền trong quân đội, trongbọn T.G. tức khách du lịch; viết thư về Anh, gõ mọi cửa để xin gởi gấp qua quần áo, mền, nệm, thức ăn, dĩa, muỗng... Cô viết không biết bao nhiêu thư và phúc trình, rồi tiếp khách, thăm bịnh nhân; ngày nào cũng đi thăm hết các phòng một lượt, người nào sắp chết thì cô ngồi lại chuyện trò một lúc, rồi cắt đặt nữ điều dưỡng phải ở luôn bên cạnh cho đến khi họ tắt thở. Cô không muốn rằng đồng bào cô xa nhà, xa quê, lại đã hy sinh choi tổ quốc mà chết trong cảnh cô đơn, không có một ai ở bên cạnh để vuốt mắt.

Chỉ trong có vài tháng lính thương cô như mẹ -sau này, cô bảo với bạn: "Tôi không lập gia đình, nhưng đã có 15.000 người con rồi". -Có kẻ chỉ ngóng giờ cô đi qua để được nhìn nụ cười và nét hiền từ của cô và bảo: "Chỉ bóng cô lướt qua giường tôi, tôi cũng sung sướng tưởng như được cô vuốt ve rồi vậy..." Từ trước tới nay, có lẽ chưa một phụ nữ Anh nào được dân chúng quý mến tới bực đó.

Chính nữ hoàng Victoria cũng phải cảm động, khâm phục, đòi đọc tất cả những bản báo của cô, viết thư khen cô và hỏi cô muốnn gì, bà sẽ giúp.

Khi công việc săn cóc bệnh nhân đã tổ chức đàng hoàng rồi -đàng hoàng đến nỗi lính Anh đồn với nhau: "Nằm ở bệnh xá Scutari sướng như lên Thiên Đường"- Cô tiến một bước nữa, cải thiện đời sống tinh thần và sửa đổi tánh nết của lính.

Thời đó người ta có quan niệm rằng hạng lính là hạng hạ tiện, gần như thú vật, phải kích thích thú tính của họ thì họ mới hăng hái chiến đấu. Phải cho họ uống thật nhiều rượu để họ khỏi sợ chết, mà hóa ra hung tợn, khát máu. Lại phải cho họ trụy lạc, cướp bóc, hiếp dâm thì họ mới khỏi cái sầu để họ vui vẻ ra trận. Cô Florence cho quan niệm đó là sai. Tiếp xúc với thương binh, cô thấy rằng lòng kính Chúa và tình gia đình của họ có khi rất cảm động, rằng họ là những người lương thiện như cô và không có lý gì lại coi họ như loài thú được.

Cô đề nghị với các sĩ quan cấm rượu và cho lính được phép gởi tiền về nhà. Lúc đó uy tín của cô đã lớn: lính nghe cô răm rắp mà ở Anh, từ nữ hoàng đến dân chúng ai cũng ngưởng mộ cô, nên bọn sĩ quan ngu xuẩn tuy mới đầu phản đối, rồi sau cũng phải nghe cô. Kết quả là mỗi tháng, lính ở Scutari gởi về cho gia đình được một ngàn Anh kim, và trong sáu tháng, tất cả lính trong quân đội Anh ở Crimée gởi về nhà được 71.000 Anh kim. Cô lại bận thêm biết bao nhiêu công việc: làm ngân phiếu, giữ sổ sách vì lính chỉ muốn giao tiền cho cô thôi. Mà cô không có được phòng giấy riêng, chỉ có mỗi một cái bàn kê ở cạnh giường, và bất kỳ binh sĩ, khách khứa, ai vào hỏi cô việc gì, lúc nào cũng vào được. Trong hoàn cảnh đó mà cô làm việc nhiều gấp mười các sĩ quan quả thực là năng lực của cô siêu quần. Cô lập một thư viện cho quân đội -tác phẩm binh sĩ thích đọc nhất là bản dịch Les mystères de Pavos của Eugene Sue- mở lớp dạy học cho quân đội và lập sân banh cho họ tiêu khiển, tổ chức lại quản lý bệnh xá, huấn luyện các sĩ quan về cách đối xử nhân đạo với quânm lính. Rút cục, ở Scutari cô chỉ huy hết thảy và các bác sĩ, tướng tá đều gần như vô dụng. Tất nhiên có một số người ghen ghét, gièm pha, nhưng từ xưa đến nay, kẻ nào được lòng dân thì còn sợ ai nữa?

Tới tháng sáu năm 1856, hòa ước ký với Nga ở Paris. Hai bên đều thiệt hại nặng. Constantinople vẫn về Thổ. Cô Florence về xứ.

Ở Anh, lúc đó cô đã thành như một vị thánh sống. Dân chúng, nhất là những kẻ nghèo khổ, gia đình sĩ tốt coi cô như Vị Jeanne d'Arc của Anh. Đi tới đâu, người ta cũng nghe những bài hát ca tụng cô. Bài lưu truyền nhất là bài:

God bless Miss Nightingale

May she be free from strife

These are the prayers

Of the poor soldier's wife



(Xin Trời phù hộ cho cô Nightingale

Khỏi gặp những sự xung đột

Đó là lời cầu nguyện

Của vợ người lính nghèo)

Ta mừng cho cô là sắp được đền công xứng đáng. Sau một năm rưỡi cực khổ ở Scutari cô sẽ được nhận sự tiếp đón niềm nở, lòng biết ơn chân thành của đồng bào. Cô sẽ đứng trên bao lơn, nhìn xuống đám quần chúng xô đẩy nhau dể chiêm ngưỡng dung nhan cô, và say sưa nghe những bài hát ca tụng cô từ hàng muôn miệng thốt ra! Chính dân chúng Anh muốn như vậy lắm, nguời ta điều tra xem cô sẽ bước chân lên tổ quốc ở nơi nào để lập khải hoàn môn tại đó mà tiếp rước cô y như tiếp rước Nữ hoàng.

Nhưng cô không muốn vậy! Cô bùi ngùi từ biệt bán đảo Crimée, than thở rằng: "Tội nghiệp các con ! Tôi là người mẹ tệ quá, để các con nằm tại nghĩa địa mà về xứ một mình ! Bảy mươi ba phần trăm ra trận chết vì bệnh ! Các con đã bị giết chết mà tôi thì đứng ở trên bàn thờ của các con !". Cho nên cô nhất định cải danh, vị hành về nước. Và một đêm nọ, cô lủi thùi trên con đường về nhà. Chị ở ngồi chơi gần cửa, nhận được ra cô, ôm choàng lấy, khóc.

Cô đóng cửa không tiếp khách lạ, không tiếp các nhà báo lại phỏng vấn, từ chối hết thảy mọi sự tỏ lòng biết ơn của dân chúng: và những người đuợc hưởng thay cô mọi danh dự là song thân cô và chị cô, những người trước kia coi cô như quân hủi, bêu rếu gia đình !

Dân chúng chỉ mới thấy hình cô, muốn gặp mặt cô mà không được, đòi tiếp xúc với bà Fanny và cô Parthe, viết thư cho hai người đó để hỏi thăm về cô. Có lần một số người gặp ở ngoài đường một thiếu phụ giống cô, bu lại xin rờ vạt áo. Người ta lấy tên Florence để đặt cho con, có kẻ đặt tên tàu là Florence Nightingale, người ngoại quốc lại Embley xin vô thăm. Cô nhất thiết nhũn nhặn từ chối, dửng dưng với những cái mà cô cho là phù phiếm đó. Vì cô tự cho là nhiệm vụ chưa xong, còn những việc khác muốn làm một cuộc cải cách lớn lao kia.

Cô nghĩ sự tận tâm của cô và các nữ điều dương ở Crimée sẽ không ích lợi gì nếu sau đó ngưòi ta lại trở về với chính sách cũ, và như vậy, nếu có một chiến tranh nữa thì "lính sẽ ra trận và chết ở trong trại". Cần phải sửa đổi lại luật pháp, thay đổi tinh thần của nhà cầm quyền. Mà nếu không làm ngay lúc này, trong khi quốc dân còn nhớ vụ Crimée thì không bao giờ làm được cả. Cho nên mặc dầu mọi người khuyên cô hãy nghỉ ngơi để dưỡng sức, cô cũng không nghe, thu thập tất cả tài liệu: giấy tờ, hình ảnh, con số để lập một chương trình hành động. Cô biết rằng công việc sẽ khó: lẽ thứ nhất cô là đàn bà; lẽ thứ nhì danh cô quá lớn, nhiều người ghen ghét cô, sẽ phá công việc của cô; nhưng nhất định phải làm để cứu dân.

Vừa may gặp Nữ hoàng Victoria mời cô lại Balmoral để kể cho bà nghe riêng với chồng bà tất cả những kinh nghiệm của cô ở Crimée. Cô mang theo tài liệu đã thu thập được, trình với Nữ hoàng lập một Ủy ban để nghiên cứu những điều kiện vệ sinh và cách tổ chức, quản lý các trại lính và dưỡng đường trong quân đội.

Nữ hoàng đồng ý nhưng vì theo hiến pháp Anh, những việc quan trọng như vậy, Nữ hoàng không có quyền quyết định, phải hỏi ý kiến các vị thượng thư. Ít bữa sau, Nữ hoàng đáp lễ cô và cho hay vấn đề đã đưa cho nội các xem xét.

Từ đây bắt đầu một cuộc chiến đấu non ba chục năm và trong cuộc chiến đấu đó cô và một số bạn thân phải đương đầu với cả một triều đình, cả một mớ thủ tục đã có cả mấy trăm năm.

Các cụ thượng thời nào và nước nào cũng vậy, đa số sợ trách nhiệm, sợ công việc. Nhờ Trời, chiến tranh đã qua, ngồi không mà hưởng ngôi cao bổng hậu trong cảnh an lạc, thái bình chẳng sướng ư, bầy việc ra làm gì? Nhưng kết quả của cô Florence rực rỡ quá, danh của cô lớn quá, lòng ngưỡng mộ của dân chúng sâu quá, họ không dám bác bỏ đề nghị của cô, nhất là khi đề nghị đó hợp lý được Nữ hoàng đồng ý, mà Nữ hoàng Victoria tì ai cũng biết là một người cương quyết.

Vậy họ bắt buộc phải họp một ủy ban gồm có những đại thần bên văn và bên võ để xem xét. Ủy ban thảo luận xong, kết luận rằng chỉ cần cải thiện chế độ cũ, không cần cải tổ lại, sẽ tốn công, tốn thì giờ lắm.

Cô gởi cho Ủy ban một cuốn nhan đề là: Những lời ghi chép về những vấn đề liên quan tới sức khoẻ, sự hiệu năng và Cách quản lý dưỡng đường trong quân đội Anh (Notes on matters affecting the Health, efficiency and Hospital administration of the British Army). Cuốn đó soạn rất công phu, cô thu thập tấc cả các sự kiện, kiểm soát, xếp đặt lại, so sánh dưỡng đường Anh với dưỡng đường Pháp, viết hàng trăm các bức thư hỏi ý kiến các bác sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư rồi thảo một kế hoạch cải tổ.

Sáng kiến đáng khen nhất của cô là , lần đầu tiên , một phụ nữ không có bằng cấp, không có sức học chuyên môn mà có tinh thần rất khoa học, biết dùng môn thống kế trước cả mọi người. Cô chỉ ra rằng tại giáo khu Pancras, số người chết (1) chỉ là 2,2%o , mà tại trại lính, cũng nơi đó, số đó đã lên tới 10,4%o tại trại lính Kensington, con số còn cao hơn nữa: 17,5%o. Mà lính thì bao giờ cũng mạnh khoẻ hơn dân thường, sự dinh dưỡng bề gì cũng không đến nỗi thiếu thốn như số đông dân nghèo. Thế thì tại sao họ lại chết gấp 5, gấ 8 dân thường? Rồi cô kết luận rằng mỗi năm, chỉ vì sự dống chung đụng nhau và thiếu vệ sinh nên có hàng ngàn lính chết oan, ngay trong thời bình. "Họ nhập ngũ để chết trong trại" Câu đó cô lặp đi lặp lại với một giọng chua xót. Trong tập Tử vong suất trong quân đội Anh (Mortality in the British Army).

Cuốn Những lời ghi chép... cô bỏ tiền ra in 2000 bản, rồi gởi cho Ủy ban, cho các nhà cầm quyền, và phát cho dân chúng. Ủy ban đọc nhưng chỉ bàn cãi lấy kệ, rút cục chẳng đua ra một quyết định nào quan trọng cả. Họ sợ nếu theo kế hoạch của cô thì tốn công, tốn tiền, thay đổi ngay cả cách tổ chức của nhiều cơ quan, hủy bó cả những tổ chức thân căn cố đế.

Rút cục một năm sau, công việc vẫn chưa tiến hành được bao nhiêu, thì có một cuộc loạn ở Ấn Độ, triều đính Anh phải gửi thêm quân qua bên đó. Lần này cô cũng đòi theo quân lính để săn sóc họ, nhưng bạn thân cản, bảo là cô cứ ở Luân Đôn mà chỉ huy có lợi hơn. Co bằng lòng vì một người bạn thân , rất trung thành với lý tưởng của cô là Sydney Herbert được cử làm chủ tịch Ủy ban vệ sinh trong quân đội Ấn Độ.

Lúc này, cô tưởng công việc sẽ tiến hành kha khá vì viên Thượng thơ bộ binh, cũng là bạn thân, đã ký nghị định lập trường dạy môn vệ sinh và đào tạo cán bộ. Giải phẫu trong quân đội. Nhưng chỉ có danh mà vô thực. Trường mở đã ba năm mà chưa làm được gì vì ngân sách thiếu thốn. Cô nghĩ phải cải tổ ngay cái Bộ binh đó mới được, chứ vô phương làm việc với một bộ máy như vậy. Nhưng làm sao cải tổ nó được? Gladstone, thượng thư bô Tàoi chánh, chủ trương chính sách tiết kiệm, chống chiến tranhm ngăn cản mọi việc của cô.

Đau nặng -suốt ngày nằm trên giường, mà cô vẫn viết rất nhiều thư gởi đi khắp nơi, rất nhiều báo cáo , lại soạn thêm một tập nữa nhan đề là Những lời ghi chép về Dưỡng đường, tả tình trạng trong các dưỡng đường dân sự. cô chứng tỏ bằng những con số rằng số tử vong trong các dưỡng đường cao gấp năm, gấp mười ở ngoài, rằng đau mà ở nhà tự chữa thì còn hy vọng khỏi, chứ vô dưỡng đường thì mười phần, chắ`c chết tới chín, rằng ở dưỡng đường có một thứ bệnh lạ, ở ngoài không có, tức là "bệnh nhà thương". Vậy là chưa tổ chức xong bệnh xá quân sự, cô đã tính đến việc cải tổ lại dưỡng đưởng dân sự nữa.

Ít lâu cô soạn thêm một tập nữa: Những lời ghi chép về cách khán hộ (Notes on nusing), in 15.000 bản, bán rất rẻ, chỉ trong một tháng là hết.

Cô làm việc ghê gớm, không kể gì đến sức khoẻ của mình , gần như tàn nhẫn đến bản thân và cả với người thân, vì cô bắt họ cũng phải làm việc như cô, không cho họ nghỉ, đến nỗi Sydne Herbert chịu không nổi, mất năm 1860 vì lao lực. Là vì chính cô cũng không nghỉ, nhất định chết thì chết, cứ làm việc, càng thấy sức suy, tưởng như sống không được bao lâu nữa, cô lại càng hấp tấp làm cho xong nhiệm vụ cứu người của cô.

Chúng ta thử tưởng tượng ngoài những công việc kể trên, cô còn phải đáp những bức thư khắ`p nơi gởi về hỏi ý kiến về cách cất dưỡng đường, kể cả cách làm thống kế nữa... Con người không có một mảnh bằng cấp nào đó đã thành một nhà chuyên môn nổi danh khắp châu Âu. Các nhà cầm quyến Đức, Hòa Lan, Bồ Đào Nha đều nhờ cô chỉ bảo trong công việc cải thiện đời sống của binh sĩ. Thậm chí đến một việc nhỏ mọn là việc có nên dời một dưỡng đường lại nơi khác để làm đường xe lửa không, mà chính quyền Anh cũng không quyết định nổi, phải hỏi ý kiến của cô; tới khi định số tiền bồi thường cho dưỡng đường, cũng lại nhờ cô giải quyết giùm.

Sidney Herbert mất rồi, cô tiếc mất một người cộng sự đắc lực. Cô viết bài ca tụng công lao với quân đội. Kẻ lên thay Herbert phá hoại công việc xây dựng của ông. Cô lại phải chiến đấu mạnh hơn nữa để giành lại từng tấc đất một, buộc chính quyền cất một dưỡng đường lớn cho quân đội. ở Woolwich, đả đảo thủ tục giấy tờ, chính sách quan liêu. Cô như người leo dốc, leo được ít thước lại thụt xuống, thụt xuống lại cố bám lấy mà leo lên. Suốt gần ba chục năm, hễ đảng Bảo thủ (Tory) lên cầm quyền thì cô thụt lùi nhưng không mất hẳn đất đứng, rồi đảng cấp tiến (Whig) lên thay thì cô lại tiến. Độc giả chắc đã dư biết, ở Anh, từ xưa tới nay hai đảng đó cứ thay nhau cầm quyền, không khi nào được lâu cả.

Cô chẳng những làm việc cho quốc dân mà còn giúp cho ngoại quốc. Trong cuộc Nam Bắc phân tranh (1861-1865), chính quyền phương Bắc nhờ cô chỉ cách tổ chức bệnh xá trong quân đội. Cô tận tân giúp, mặc dù đau nặng.

Đồng thời cô dùng quỹ Nightingale để đào tạo các cô đỡ. Nhân dịp đó, cô lại nghiên cứu tử vong suất của thiếu nhi. "Thế này thì quá lắm! Săn soc thương binh thì còn được đi, lại xâm nhập cả vào khu vực hộ sinh nữa à?". Các y sĩ bất bình, không chịu cho cô coi sổ sách các nhà hộ sinh. Họ sợ là phải. Cô sẽ tìm thấy những sơ sót của họ, sự thiếu lương tâm, thiếu tổ chức của họ. Nhưng rồi cô cũng coi được, và chứng minh bằng con số, bằng thống kê rằng sản phụ và thiếu nhi bị chết oan rất nhiều, chỉ vì cái cảnh phải chen chúc nhau trong phòng, chung chạ nhau giường và nệm. Ta nên nhớ hồi đó người ta chưa tìm ra vi trùng, và khắp châu Âu, số sản phụ chếttrong các dưỡng đường vì bệnh "sốt sản hậu" lên tới 80%, có khi hơn nữa.

Năm 1864, một người chủ ngân hàng ở Thụy Sĩ tên là Jean Henri Dunant thành lập hội Hồng Thập Tự. Các nước gia nhập đều ký Hiệp ước Genève cam đoan coi sĩ tót bên địch một khi đã bị thương thì không phải là kẻ thù nữa mà như người của một nước trung lập. Anh gia nhập hội đó. Và bốn năm sau, chiến tranh Pháp, Phổ bùng lên, cô Florence, vừa chẵn ngũ tuần, đòi qua chiến trường để giúp thương binh. Cô nói:"Viết, viết, viết hoài mà làm gì? Phải cho tôi ra mặt trận". Mới đầu cô có cảm tình với Đức, vì cô vốn phục nhạc sĩ, thi sĩ và triết gia Đức, mà chê Napoléon III là độc tài. Nhưng sau đó cô mới thấy rằng dân Đức đã bị một nhóm Phổ điều khiển mà nhà cầm quyền Phổ là một bọn tàn ác, khát máu. Mặc dầu vậy, cô quyên được 50.000 Anh kim, giúp cả hai bên, và sau chiến tranh, cả hai nước đều mang ơn cô. Lần đó là lần dầu tiên hiệp ước Genève được đem thi hành và cô đã có công đầu viớ Hội Hồng Thập Tự.

Năm 1872, Jean Henri Dunant qua Anh lại thăm cô, và tuyên bố rằng:

- Mặc dầu tôi lập ra Hội Hồng Thập Tự, nhưng cái công đó phải trả lại cô Florence Nightingale . Chính công việc nhân đạo của cô ở bán đảo Crimée đã thúc đẩy tôi lại Ý xem cảnh thương tâm của quân lính trong trận Solferino (1) năm 1859, rồi về Thụy Sĩ tôi mới nảy ra ý lập Hội đó.

Lúc này Florence Nightingale đã về già. Đã mấy lần đảng Bảo thủ lên rồi lại xuống, đảng Cấp tiến xuống rồi lại lên. Bà vẫn ốm đau thường, nhưng vẫn hoạt động, công việc vẫn tiến hành, tuy chậm mà vững. Ngoài việc nước, bà còn lo việc nhà vì song thân tuổi quá cao, không trông nom nổi nữa.




Từ năm 1883, bà lại có ảnh hưởng tới chính giới. Uy tín lớn lắm: ác nữ hoàng, vua chúa, tổng thống, châu Âu được lấy làm vinh dự là bạn thân của bà, hễ lại thăm, đều phải đợi ở phòng khách, có lần Nữ Hoàng Hòa Lan phải về không vì bà đau không tiếp được.

Bà được cái vui là nhìn thấy công việccủa mình có kết quả: hai chục dưỡng đường kiểu mới lập thêm ở trong nước; khắp các tinh có những lớp đào tạo nữ điều dưỡng và cô đỡ. Một số nữ điều dưỡng được gởi đi khắp nơi: Ấn Độ, Đức, Mỹ, Nga, Thụy Điển.. . làm cố vấn.

Năm 1837, chính phủ tổ chức một cuộc triển lãm sự nghiệp của bà, xin những tài liệu riêng và hình của bà, để bày. Bà từ chối, cho là "làm trò". Nhưng rồi người ta cũng kiếm được một bức tượng của bà để cho dân chúng chiêm ngưỡng.

Năm 1909, vua Edouard VII tặng bà một bội tinh cao quý nhất. Thơ, bài hát, hoa, lời chúc tụng của đủ hạng người khắp nơi gởi về: từ ông thị trưởng tỉnh Florence- tỉnh được cái vinh dự mang tên bà- đến chủ tịch Hội Hồng Thập Tự Nhật Bổn, Nữ hoàng Alexandra, Hoàng đế Đức... Tại Mỹ lập ra một hội từ thiện đặt tên là Florence Nightingale. Khắp thế giới nhận bà là "người mở đường cho sự thành lập Hội Hồng Thập Tự quốc tế".

Bà an nhàn hưởng sự ngưỡng mộ của nhân loại. Năm 1901 mắt bà không còn thấy đường nên không hoạt động gì nữa, chỉ thích nghe đọc báo và đọc tiểu sử danh nhân.

Ngày 13/08/1910 bà mất. Trong di chúc, bà tỏ ý muốn hiến xác cho khoa y học. Chính phủ Anh không dám nhận, nhưng trọng tinh thần khiêm tốn bình dị của bà, không làm lễ quốc táng, không chôn bà ở điện Wesminster cùng với các danh nhân của dân tộc, và trên nấm mộ ở nghĩa địa, gia đình bà chỉ khắc chữ:

F - N

Sanh năm 1820 - mất năm 1910

Bà đã để lại cho chúng ta bài học này:

Làm được một việc thiện không phải là dễ. Muốn cải cách một chế độ, phải kiên nhẫn chiến đấu, có khi tới nửa thế kỷ mới thành công

Nguyễn Hiến Lê

nguồn: vietscience.net

Phượng Các
#3 Posted : Monday, April 2, 2007 9:07:19 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Bảo tàng viện Florence Nightingale ở London

Ảnh: PC
Phượng Các
#4 Posted : Friday, December 26, 2014 6:06:42 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)



Đến lúc gần ra cửa chợt nhìn thấy trên tường có một tượng có cái tên quen quen, hoá ra đó là tượng bà Florence Nightingale. Giờ mới biết người phụ nữ tiên phong trong nghề điều dưỡng này từng được sanh ra nơi đây, cha mẹ bà người Anh, và lấy tên thành phố này để đặt tên cho bà. Khi bà được một tuổi, cha mẹ bà trở lại Anh quốc.

(Ký lai rai)
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.