Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

PEARL S. BUCK (1892 - 1973 )
Hạt Cát
#1 Posted : Thursday, November 11, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Hạt Cát

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Moderator
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 80
Points: 18

Was thanked: 1 time(s) in 1 post(s)



Gởi: Sun May 16, 2004 12:46 pm

PEARL S. BUCK (1892 - 1973 ) NỮ VĂN HÀO CỦA HAI THẾ GIỚI

Phạm Văn Tuấn

Pearl S. Buck là nhà văn sinh trưởng trong hai thế giới, một thế giới là nước Hoa Kỳ của cha mẹ, hai giáo sĩ đi truyền đạo, và thế giới kia là nước Trung Hoa bao la, còn bao phủ nhiều bí ẩn. Bà Buck đã từng viết rằng “Thật khó cho tôi khi nói rõ phần lớn tôi thuộc về thế giới nào, tôi trung thành với châu Á cũng như với miền đất của tôi”.

Sau khi định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ, bà Pearl S. Buck đã không quên đời sống thứ hai gồm cả văn hóa, triết học và tôn giáo của nước Trung Hoa. Bà đã suy nghĩ, quan sát sự việc từ hai mặt nhờ quá khứ và kinh nghiệm, cố gắng nối các nhịp cầu hiểu biết và tình cảm giữa hai thế giới Đông và Tây bằng các tác phẩm văn chương và các hoạt động nhân đạo.

1/ Cuộc sống tại nước Trung Hoa.

Pearl Sydenstricker chào đời ngày 26 tháng 6 năm 1892 tại Hillsboro, thuộc tiểu bang West Virginia và khi mới vài tháng tuổi, đã được cha mẹ là hai giáo sĩ, ông Absalom và bà Caroline Stulting Sydenstricker, mang qua Trung Hoa. Cô bé Pearl này đã học nói tiếng Hoa trước khi biết nói tiếng Anh, đã chơi đùa với trẻ em Trung Hoa, được bà giữ trẻ kể cho nghe các câu chuyện về đạo Lão và đạo Phật. Vào cuối thế kỷ 19 này, Trung Hoa còn là một quốc gia có nền văn hóa và lịch sử hoàn toàn xa lạ với các người phương Tây. Cha và mẹ của cô bé Pearl Sydenstricker không chịu sinh sống trong khu vực dành riêng cho người phương Tây mà ưa thích hòa mình với người dân địa phương. Ông Absalom đã thực hiện các chuyến đi nguy hiểm tới các vùng xa xôi rồi kể lại cho cô con gái các câu chuyện, các kinh nghiệm khó quên. Bà mẹ Caroline trái lại, nhắc nhở con về cuộc sống của vùng West Virginia, thuật lại cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ với sự liên hệ của nhiều người trong gia đình vào cuộc chiến tranh này. Chính nhờ bà mẹ mà cô Pearl đã đọc các cuốn truyện kể về Tom Sawyer, Huckleberry Finn và các tác phẩm của Shakespeare, Scott, Thackeray, George Eliott và đặc biệt nhất là Dickens.



Ngay từ thuở nhỏ, cô Pearl Sydenstricker đã tò mò, tìm hiểu dân địa phương, thích lắng nghe các câu chuyện và mong muốn viết lại những điều mắt thấy, tai nghe tại một miền đất mà nhiều người phương Tây chưa hề biết tới. Cô đã học lịch sử Trung Hoa với một ông thầy địa phương, hiểu rõ triết lý Khổng Giáo và đã từng làm việc tại trung tâm cải huấn các thiếu nữ bị chủ nhân hành hạ tàn nhẫn. Cô Pearl cũng theo học tại trường học của bà Jewell tại thành phố Thượng Hải và nhờ những công tác xã hội của bà này mà cô hiểu rõ những điều xấu xa và các bất công trong xã hội Trung Hoa, thông cảm với người dân địa phương khi họ bị bàn tay đế quốc bóc lột.

Trong nhiều năm, cô Pearl Sydenstricker thường sinh hoạt giống như các trẻ em khác nhưng tới năm 1900, gia đình cô phải chạy khỏi thành phố Thượng Hải vì Loạn Quyền Phỉ (the Boxer Rebellion) và chính vào thời gian này, cô Pearl mới thấy rõ rằng mình chỉ là một du khách, lạc lõng vào một thế giới xa lạ. Năm 17 tuổi (1909), Pearl Sydenstricker trở về Hoa Kỳ, theo học Đại Học Randolph Macon Woman's College, thuộc thị xã Lynchburg, trong tiểu bang Virginia. Tại nơi học đường này cô Pearl bắt đầu nhận ra rằng lối sống và các kinh nghiệm của cô tại nước Trung Hoa làm cô khác biệt với các thiếu nữ Hoa Kỳ và cô đã cố gắng bắc các nhịp cầu giữa hai thế giới. Cô bắt đầu viết truyện và tham gia vào ban kịch của lớp học.

Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1914, cô Pearl Sydenstricker xin làm phụ giáo Khoa Triết Học và Tâm Lý Học của trường đại học nhưng thời gian này không kéo dài được lâu vì bà mẹ bị đau ốm nặng. Cô Pearl trở lại Trung Hoa, học viết chữ Hoa, thay mẹ giữ vai trò cố vấn (counselor) giúp các phụ nữ Trung Hoa giải quyết nhiều vấn đề khó khăn.

Vào ngày 13-5-1917, cô Pearl Sydenstricker kết hôn với ông John Lossing Buck, một chuyên gia canh nông người Mỹ, nguồn gốc thuộc tiểu bang New York nhưng qua Trung Hoa giảng dạy phương pháp nông nghiệp theo kế hoạch của nhà thờ Presbyterian. Gia đình Bucks này sinh sống trong tỉnh An Huy (Anhwei) thuộc miền bắc nước Trung Hoa. Do công việc giúp đỡ các nông dân của ông Buck, bà Pearl Buck đã quen thuộc với lối sống đơn giản của các nông dân địa phương, hiểu rõ các khó khăn của họ khi phải tranh đấu với nạn đói, nạn hạn hán, nạn lụt lội, thông cảm với họ về cuộc sống và cõi chết. Các hiểu biết và tình yêu đối với người nông dân Trung Hoa sau này được bà Pearl Buck thể hiện qua tác phẩm “Đất Lành” (The Good Earth) và các công trình văn học cũng như các công tác nhân đạo khác.

Năm 1921, gia đình Bucks di chuyển về thành phố Nam Kinh thuộc phía nam của nước Trung Hoa. Ông John Buck nhận chức vụ Giáo Sư Nông Nghiệp tại Đại Học Nam Kinh còn bà Pearl Buck dạy Văn Chương Anh. Vào tháng 10 năm đó, bà mẹ Caroline Sydenstricker qua đời. Việc đau buồn này đã khiến cho bà Pearl Buck viết ra một cuốn tiểu sử ngắn, tưởng nhớ bà mẹ, được xuất bản sau này vào năm 1936 với tên tác phẩm là “Người Tha Hương” (The Exile).

Cuộc sống của người địa phương tại thành phố Nam Kinh này khác hẳn với lối sống đơn giản của miền bắc. Tại nơi đây, các lý tưởng Tây Phương, các tư tưởng Bôn-Sê-Vích đang được phổ biến, đe dọa các cấu trúc xã hội và chính trị cổ điển. Giới thanh niên Trung Hoa vào thời gian này đang sôi động trước các tư tưởng cấp tiến mới, họ mong đợi các cuộc canh tân, khiến cho cuộc sống thường ngày bị đe dọa vì các xung khắc và nổi loạn. Trong các năm này, bà Pearl Buck đã viết ra từ tháng 1-1923 nhiều bài bình luận nói về các thay đổi tại nước Trung Hoa, một số bài được đăng trên các tạp chí “Nguyệt San Atlantic” (The Atlantic Monthly), “Diễn Đàn” (Forum) và “Tạp Chí Quốc Gia” (the Nation). Các đề tài của các bài viết này gồm có : sự phổ biến việc hút thuốc lá, tương quan giữa hai giới tính tại nước Trung Hoa, giới trẻ phản kháng việc xếp đặt hôn nhân của cha mẹ. Cũng trong thời gian này, ngoài việc tìm đọc các sách văn chương cổ điển Trung Hoa, bà Pearl Buck còn tìm hiểu các tác phẩm của Zola, Proust, Thoreau, Hemingway và đặc biệt là Dreiser. Bà Buck đã xác nhận rằng trước tuổi 20, bà đam mê đọc truyện của Charles Dickens còn sau 20 tuổi là các tác phẩm của Theodore Dreiser, sau đó tới các tiểu thuyết của các tác giả Sinclair Lewis và Ellen Glasgow bởi vì các nhà văn này có khả năng đặc biệt khi phân tích các nhân vật trong truyện.

Năm 1925, ông bà Buck mang đứa con gái đầu lòng về Hoa Kỳ để trị bệnh nhưng các phương pháp y khoa đã không chữa khỏi đứa bé bị chậm hiểu (mentally retarded). Nhờ thời gian sống tại Hoa Kỳ này, cả hai ông bà Buck cùng theo Đại Học Cornell, bà Pearl theo chương trình Cao Học (Master of Arts degree) về Văn Chương Anh. Bà Pearl Buck đã nhận được Giải Thưởng Lịch Sử Laura Messenger (the Laura Messenger Prize) nhờ bài bình luận “Trung Hoa và Phương Tây” (China and the West), một bài viết bắc cầu giữa hai thế giới Đông và Tây. Năm 1926, ông bà Buck trở lại Nam Kinh để dạy học tại hai đại học địa phương.

2/ Văn Nghiệp của bà Pearl S. Buck.

Từ năm 1921, đảng Cộng Sản Trung Hoa được thành lập trong một buổi họp bí mật tại thành phố Thượng Hải. Đảng Cộng Sản này đã bành trướng trong các năm 1925-26, tổ chức nhiều cuộc đình công chống đế quốc tại nhiều tỉnh và được sự ủng hộ của các giới công nhân thành thị, công nhân đường sắt và thủy thủ. Sau khi Lãnh Tụ Tôn Dật Tiên qua đời vào năm 1925, Tướng Tưởng Giới Thạch đã khởi sự một chiến dịch tiêu diệt các người Cộng Sản và vào tháng 3-1927, quân đội Quốc Dân Đảng tiến vào thành phố Nam Kinh. Ông bà Buck cùng người cha và cô con gái phải bỏ tất cả gia sản, chạy về thành phố Thượng Hải. Trong số các công trình văn học của bà Pearl Buck có một cuốn tiểu thuyết đã viết xong, bị quân đội Quốc Dân Đảng phá hủy khi hôi của nhưng rất may, còn lại trong số đồ vật rối loạn cuốn tiểu sử của bà mẹ và một cuốn tiểu thuyết viết dang dở mà sau này, bà Pearl Buck cho xuất bản vào năm 1930, đó là cuốn “Gió Đông : Gió Tây” (East Wind : West Wind).

Năm 1931, bà Pearl Buck cho ấn hành cuốn tiểu thuyết “Đất Lành” (The Good Earth) và năm sau, cuốn truyện này đã giật được Giải Thưởng Pulitzer, khiến cho tác giả nổi danh trên Thế Giới. Trong khoảng 4 năm từ 1931, nhiều tác phẩm khác của bà Pearl Buck cũng xuất hiện trên văn đàn trong đó có các cuốn tiểu thuyết “Các Người Con Trai” (Sons, 1932), “Người Vợ Cả” (The First Wife, 1933), “Mọi Người là Anh Em” (All Men are Brothers, 1933), “Người Mẹ” (The Mother, 1934) và “Một Gia Đình Chia Rẽ” (A House Divided, 1935). Bộ truyện ba cuốn gồm hai cuốn “Các Người Con Trai” và “Một Gia Đình Chia Rẽ” cộng với cuốn tiểu thuyết “Đất Lành” đã đoạt Huy Chương William Dean Howells của Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật và Mỹ Tự Hoa Kỳ (the American Academy of Arts and Letters) vì là công trình sáng tác (fiction) hay nhất trong các năm 1930-35.

Cũng vào năm 1935, bà Pearl Buck ly dị với ông John Lossing Buck rồi vào ngày 11 tháng 6 năm đó, bà kết hôn với ông Richard J. Walsh, giám đốc công ty quảng cáo John Day. Kể từ lúc này, bà vẫn tiếp tục sáng tác dưới bút hiệu Pearl Buck.

Năm 1938, nhà văn nữ Pearl Buck đoạt Giải Thưởng Nobel về Văn Chương do tác phẩm “Đất Lành” và do hai cuốn tiểu sử, cuốn thứ nhất có tên là “Người Tha Hương” (The Exile), đây là hình ảnh của bà mẹ trong cuộc đời truyền giáo tại Trung Hoa, cuốn thứ hai là “Thiên Thần Tranh Đấu” (Fighting Angel) mô tả tiểu sử của người cha, bắt nguồn từ bản văn phác thảo “Tưởng Nhớ ông Absalom Sydenstricker, 1852-1931” (In Memoriam : Absalom Sydenstricker, 1852-1931). Sau này vào năm 1944, hai cuốn tiểu sử này được xuất bản chung với nhau thành tập truyện “Tinh Thần và Thể Xác” (The Spirit and the Flesh).

Sau khi đoạt Giải Thưởng Nobel về Văn Chương, Nữ Văn Hào Pearl Buck vẫn tiếp tục viết với các tác phẩm không-giả-tưởng (non-fiction works) gồm các cuốn “Nói với Người Dân” (Tell the People, 1945) đề cập tới nền giáo dục quần chúng (mass education), “Đứa con không bao giờ lớn nổi” (The Child Who Never Grew, 1950) liên quan tới người con gái bị chậm hiểu của tác giả, cuốn tự thuật “Nhiều Thế Giới của Tôi” (My Several Worlds, 1954). Ngoài ra còn có các cuốn tiểu thuyết như “Các người con của Long Vương” (Dragon Seed, 1942), “Lời Hứa” (the Promise, 1943), “Cá hóa Long “ (the Dragon Fish, 1944), “Nhà Riêng của Phụ Nữ” (Pavilion of Women, 1946), “Hoa Mẫu Đơn” (Peony, 1948), “Vương Phi “ (Imperial Woman, 1956), “Lá Thư từ Bắc Kinh” (Letter from Peking, 1957), “Ba Người Con Gái của Bà Lương” (The Three Daughters of Madame Liang, 1969).


1940


Vào năm 1941, Nữ Văn Hào Pearl Buck lập ra một tổ chức không vụ lợi là “Hội Đông-Tây” (The East and West Association) với chủ đích mang lại sự hiểu biết giữa các dân tộc trên Thế Giới. Nhà văn nữ này cũng viết ba cuốn tiểu thuyết xuất bản dưới bút hiệu John Sedges, đó là các cuốn “Người Dân Thành Thị” (The Townsman), “Các Tiếng Nói Trong Nhà” (Voices in the House) và “Tình Yêu Lâu Dài” (The Long Love, 1958).

Các tác phẩm kịch của bà Pearl Buck gồm các cuốn “Bay vào Trung Hoa” (Flight into China, 1939), “Người Vợ Cả” (The First Wife, 1945), “Biến Cố Sa Mạc” (A Desert Incident, 1959), Bà Pearl Buck cũng viết truyện phim, đó là cuốn “Quỷ Sa Tăng không bao giờ ngủ” (Satan Never Sleeps, 1962).

Do chứng kiến nhiều biến cố chính trị xẩy ra tại Trung Hoa như Nạn Quyền Phỉ hay cuộc nổi dậy năm 1927, do hiểu rõ các bất công xã hội, các kỳ thị chủng tộc tại nhiều nơi trên thế giới, Nữ Văn Hào Pearl Buck đã từng lên tiếng tranh đấu cho các người di dân tại thành phố New York, ủng hộ nền Độc Lập của nước Ấn Độ bởi vì bà là một sáng lập viên của Tổ Chức Tưởng Niệm Mahatma Gandhi (The Mahatma Gandhi Memorial Foundation). Bà Pearl Buck cũng tham gia vào công cuộc giúp đỡ các trẻ em bị chậm hiểu tại thành phố Vineland, tiểu bang New Jersey. Ngoài ra, bà cũng là thành viên của Hiệp Hội Tự Do Dân Sự Hoa Kỳ (The American Civil Liberties Union) và thường lên tiếng bênh vực nền tự do trí tuệ, chống lại sự kiểm duyệt.

Năm 1949, bà Pearl Buck cùng ông chồng Richard Walsh lập nên Cơ Quan “Căn Nhà Tình Nghĩa” (Welcome Home), một tổ chức nhận nuôi các con lai Á-Mỹ , đặc biệt là các con rơi của quân nhân Hoa Kỳ phục vụ tại ngoại quốc. Vào năm 1963, bà Pearl Buck đã lập nên “Tổ Chức Pearl S. Buck” (The Pearl S. Buck Foundation) rồi bốn năm sau, đã tặng cho tổ chức này hơn $7,000,000 mỹ kim.

Nữ Văn Hào Pearl S. Buck đã viết ra hơn 65 tác phẩm, hàng trăm truyện ngắn và các bài bình luận. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 3 năm 1973 tại Danby, tiểu bang Vermont..

3/ Tác Phẩm Đất Lành và Giải Thưởng Nobel.

Cuốn tiểu thuyết “Đất Lành” (The Good Earth) mô tả đười sống của một nông dân tên là Vương Long (Wang Lung) khởi đầu từ cảnh nghèo khó bước lên địa vị của một chủ đất giàu sang. Anh nông dân này được người vợ giúp đỡ và gia đình này đã tận tụy hy sinh vì bổn phận, vì sự sống còn và vì mảnh đất. Tác giả Pearl Buck đã mô tả cuộc hôn nhân, tình cha mẹ, các tình cảm phức tạp trong gia đình và sự yêu quý mảnh đất và cuộc sống.

Để hiểu rõ tác phẩm “Đất Lành”, cần biết thêm sơ lược về lịch sử của nước Trung Hoa vào cuối thế kỷ 19. Trung Hoa là một trong các quốc gia rộng lớn nhất trên Thế Giới và vì vậy, dân tộc này không thuần nhất về ngôn ngữ. Mặc dù dùng một thứ chữ viết, người Trung Hoa có hàng trăm thổ ngữ (dialects) và người dân thuộc miền Nam Trung Hoa không thể hiểu được tiếng nói của người dân Miền Bắc. Trong cuốn truyện “Đất Lành”, nhân vật Vương Long đã ghi nhận rằng “An Huy (Anhwei) không phải là Giang Tô (Kiangsu). Tại An Huy nơi mà Vương Long chào đời, giọng nói thì chậm và trầm trong cuống họng nhưng tại thành phố Giang Tô, người dân nói bằng các âm tiết phát ra từ môi và đầu lưỡi".

Xã hội Trung Hoa cũng phức tạp như nền chính trị và khi Nhà Thanh bị lật đổ, các tỉnh thành của nước Trung Hoa nằm trong tay nhiều quân phiệt, nhiều nhóm đạo tặc chẳng hạn như Tướng Ngô Bội Phu (Wu Pei-fu) đã kiểm soát 5 tỉnh Miền Bắc và Miền Trung với hàng trăm triệu dân dưới quyền. Tại Mãn Châu, Trương Tác Lâm (Chang Tso-ling) cai quản vùng đất rộng bằng diện tích của hai nước Pháp và Tây Ban Nha cộng lại.

Sau khi Lãnh Tụ Tôn Dật Tiên qua đời, Tướng Tưởng Giới Thạch đặt bản doanh tại Nam Kinh, đã phát động chiến dịch chống lại các sứ quân, đánh phá các người Cộng Sản do Mao Trạch Đông chỉ huy và chống cự quân đội Nhật Bản. Nước Trung Hoa bị tàn phá vì nội chiến, và các rối loạn trải dài từ Quảng Đông tới Bắc Kinh. Trong hoàn cảnh chính trị bất ổn này, các người nông dân như Vương Long là những kẻ làm mướn, bị bóc lột do các địa chủ có hàng ngàn mẫu đất, họ còn bị bọn cướp quấy phá, bị lường gạt bởi các con buôn lúa gạo do bởi họ không biết đọc, không biết viết, họ bị thiếu ăn, bị khinh bỉ vì ngu dốt và hèn kém.

Khi viết ra tác phẩm “Đất Lành”, Nữ Văn Hào Pearl Buck không chỉ nói về người nông dân Trung Hoa mà còn ám chỉ các nông dân sinh sống tại bất cứ nơi nào trên trái đất bởi vì tài sản và sự an toàn của họ tùy thuộc vào mảnh đất mà họ cày cấy. Qua tác phẩm, độc giả nhận ra sự hiểu biết tường tận của tác giả về nước Trung Hoa và người Trung Hoa, tác giả biết cả tư tưởng và nội tâm của người nông dân, đây là giai cấp mà các người Cộng Sản đã khai thác và dùng làm hạt nhân trong công cuộc cách mạng.

Ngày nay, nhiều độc giả cho rằng Nữ Văn Hào Pearl Buck đoạt Giải Thưởng Nobel vì tác phẩm “Đất Lành”. Điều này không hẳn đúng. Khi Ủy Ban Nobel cứu xét việc tặng giải, họ có 9 tác phẩm của bà Pearl Buck : “Đất Lành”, “Gió Đông : Gió Tây”, bộ ba cuốn “Căn Nhà Đất” (The House of Earth), “Người Mẹ” (The Mother), cuốn khảo cứu về bà mẹ “Người Tha Hương” (The Exile), cuốn chân dung của người cha “Thiên Thần Tranh Đấu” (Fighting Angel) và cuối cùng là cuốn “Trái Tim Kiêu Hãnh” (This Proud Heart, 1938). Lời ghi nhận của Ủy Ban Nobel kèm theo Giải Thưởng đã viết rằng việc tặng giải “Do cách mô tả phong phú và mang tính anh hùng ca đời sống của nông dân Trung Hoa và các tác phẩm tiểu sử”. Selma Lagerloef, Nữ Văn Hào người Thụy Điển và cũng là phụ nữ đầu tiên đoạt Giải Thưởng Nobel về Văn Chương đồng thời là một nhân viên trong Ủy Ban Xét Giải, đã tiết lộ rằng bà ta bỏ phiếu cho Nữ Văn Hào Pearl Buck vì cuốn tiểu sử xuất sắc của người cha. Ông Anders Osterling, Thư Ký Vĩnh Viễn của Hàn Lâm Viện Thụy Điển và Chủ Tịch của Ủy Ban Nobel về Văn Chương, cũng xác nhận rằng các tiểu thuyết của bà Pearl Buck mô tả đời sống của nông dân Trung Hoa mang tính chính thức (authenticity), giàu chi tiết và đặc sắc về cách nhìn vào bên trong để mô tả một miền đất mà các độc giả Tây Phương biết tới rất ít. Trong một buổi đại tiệc khoản đãi nhà văn nữ Pearl Buck, Văn Hào Sinclair Lewis, người Mỹ đầu tiên đoạt Giải Thưởng Nobel về Văn Chương, đã khen ngợi tác giả vì công trình mang lại “một hình ảnh mới về các con người của Phương Đông”.

Các tác phẩm của Nữ Văn Hào Pearl S. Buck còn có các đặc điểm trong sáng trong thể văn, mang lại ý nghĩa và cảm xúc bên ngoài các từ vựng, cốt truyện dễ hiểu với cách nhìn mang tính toàn cầu, cách dàn dựng (setting) không bị giới hạn về thời gian (timelessness) với các nhân vật chính trong truyện luôn ám ảnh người đọc hơn là cốt truyện và nhờ đó đã hướng dẫn cốt truyện phát triển. Tác giả đã không phân tích các cách hành sử (behavior) của các nhân vật mà quan tâm tới các hành động và hiệu quả của cách mô tả nhân vật.

Một yếu tố khác khiến cho các tác phẩm của bà Pearl Buck đoạt Giải Thưởng Nobel là sự phổ biến rộng rãi trong các năm từ 1932 tới 1940, giống như các truyện của Văn Hào Mark Twain, với 10 cuốn tiểu thuyết được dịch sang các ngôn ngữ quan trọng của Thế Giới.

Trước Nữ Văn Hào Pearl S. Buck, chỉ có hai nhà văn Hoa Kỳ đoạt Giải Thưởng Văn Chương Nobel, đó là các ông Sinclair Lewis (1885-1951) và Eugene O'Neill (1888-1953); còn về nhà văn nữ, có bà Selma Lagerloef (1858-1940), người Thụy Điển và bà Sigrid Undset (1882- 1949), người Na Uy.

Phạm Văn Tuấn.

Phượng Các
#2 Posted : Sunday, March 6, 2005 2:51:28 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
PC Gởi: Sat Jul 03, 2004 10:26 am

Tác phẩm của Pearl Buck

Lòng Cha Mẹ


Trận lụt thật là ghê gớm. Nước ngập cả một vùng. Trên mặt nước bao la ấy chỉ còn một mô đất dài và hẹp khô ráo. Nơi đây người tị nạn kéo nhau đến bám víu vào để sống. Mỗi gia đình chiếm một chặng đất. Tất cả đồ đạc chỉ còn một chiếc ghế gỗ, một chiếc bàn thô kệch, một hòm đựng quần áo và một cái chảo úp trên cái lò đất lạnh lẽo ám khói. Những cái chảo ấy đã bị "lạnh lẽo" từ lâu bởi vì người ta không tìm đâu ra một thanh củi khô để nấu nướng. Nước đã cuốn đi tất cả. Những đống đồ đạc trên là tất cả sự nghiệp còn lại của những gia đình nghèo sống trong vùng. Một số lớn đã bị chôn vùi trong lòng nước bạc, cả những đống lúa sắp chín. Người ta đã đổ mồ hôi xuống mùa lúa ấy nhưng thế là hết, không lấy lại được chút gì.

Đây là một nhóm người vây quanh những vật dụng mà họ đã cứu được khỏi lụt: một người đàn ông, một người đàn bà và một bầy con.

Hình như có sự xích mích âm thầm giữa hai vợ chồng ấy cho nên tất cả đều im lặng khó chịu. Cái gì đã xảy ra ?

Người chồng, một tá điền trẻ, tức bực nhìn vợ gã, đôi mắt buồn rầu. Lấy nhau rất sớm, vợ chồng gã đã có được năm đứa con, đứa đầu gần tám tuổi. Nước da đã sạm đen và trông gã khỏe mạnh, lanh lợi, nhưng hôm nay trông gã tiều tụy hốc hác vô cùng.

Gã cũng như những nông dân khác mà cuộc đời chỉ có độc một cái vinh dự là có được những đám ruộng cày sâu, những đồng lúa vàng và những hoa lợi tốt. Gã tự hào với những kết quả thâu lượm bằng mồ hôi nước mắt ấy và gã sung sướng tỏ ra cần cù, đảm đang như vậy.

Trong cảnh khổ sở cay đắng vì thiên tai địa nạn bây giờ, mặt gã cũng còn giữ đôi nét nghị lực nhưng đôi mắt thật thà của gã đã tràn đầy niềm thất vọng.

Vợ gã thỉnh thoảng liếc trộm chồng rồi quay nhìn chỗ khác. Trước kia chị là một thôn nữ đẹp có đôi má tròn mịn. Chân chị đi đất và thân hình cân đối của chị đã gầy đi rất nhiều. Đôi mắt bây giờ đã quầng thâm và mái tóc dài đen của chị đã biến thành màu hung hung, rối tung bởi vì đã lâu ngày không chải. Chị le lưỡi liếm đôi môi khô lạnh. Mấy đứa con quấn quít xung quanh chị làm chị bận rộn luôn luôn. Hai đứa nhỏ nhất không bao giờ rời mẹ. Một đứa nằm gọn trong lòng chị, bám lấy đôi vú như bám vào hai miếng thịt khô, trống rỗng. Dù sao, nguồn sinh lực khô cạn ấy cũng an ủi nó đôi phần vì ta thấy nó bớt rên khóc trong một lúc. Chị còn ẵm trên tay một đứa bé gái độ hai tuổi, ốm yếu. Con bé nằm im, nín lặng, Ba đứa lớn hoạt động hơn, nhưng nếu có đứa nào lảng xa hay bén mảng đến gần bờ nước chị đã kêu chu chéo lên. Chị lo ngại và chỉ muốn chúng đứng gần trong vòng tay của chị.

Đêm đến, nỗi lo ngại của chị càng tăng lên. Chị cố thức ngủ để giữ mấy đứa con cạnh mình - Gió rít lên và chung quanh một bể nước bao la mờ mờ rùng rợn. Mỏi mệt quá thiếp đi,khi tỉnh dậy, chị hoảng hốt đưa tay sờ mấy đứa con: "Đây, cả năm đứa đây rồi" "Con Tý đâu ? à ! Đây rồi".

Người chồng cựa mình. Chị hỏi:

- Làm gì đấy "mình" ? Có chuyện gì thế ?

Thỉnh thoảng, người chồng thốt lên lời than oán, nguyền rủa bâng quơ. Chị biết vì sao chồng chị cằn nhằn như vậy. Chị lặng im. Trong đêm tối, thỉnh thoảng chị vùng dậy, đến bên mấy đứa con.

Sáng ngày, chị cố gắng tỏ ra hoạt động vui vẻ làm như chị sắp sửa làm nhiều món ăn. Chị múc nước đổ vào một cái bầu, trong đấy có một ít hột gạo. Chị cố nói bằng giọng vui tươi:

- ồ ! Còn nhiều bột lắm. Thật thế. Thì ra mình không nghĩ đến, chúng ta có thể ăn được nhiều ngày nữa.

Chị chia phần, có ý để phần nhiều cho chồng ăn. Hai đứa lớn càu nhàu. Chị cố dàn xếp cho chúng im lặng. Chị liếc trộm chồng trong khi người chồng nhìn tất cả bằng đôi mắt buồn rầu và không thốt ra lời. Chị để dành cho mình một chén nhỏ và giả bộ hì hục nuốt. Chị không dám ăn hết phần của chị, viện cớ là không đói lắm hay đau bụng, khi chồng chị nhìn đi chỗ khác, chị vội vàng đút cho hai đứa bé.

Nhưng chồng chị đã biết. Gã nổi cáu khi thấy chị làm như vậy, gã hét lên:

- Tôi không muốn "mình" nhịn đói để chết dù "mình" cứu sống được một đứa con !

Gã tỏ ra bằng lòng khi thấy chị đưa chén lên miệng. Chị nuốt phần còn lại trong chén từ từ làm như chị đã ăn nhiều lắm.

Tất cả cử chỉ của vợ đã làm cho gã biết là không còn gì để ăn được nữa và gã đau đớn nhìn bầy con kêu gào đòi ăn thêm... Chúng không im lặng theo lời mẹ chúng mắng nữa và bắt đầu khóc lên ầm ĩ. Tội nghiệp, xưa kia chúng to béo, có gì thiếu cho chúng nó đâu. Chúng nó không hiểu vì sao nước lại ngập cả vùng này và nghĩ rằng cha chúng phải tìm cách cứu vãn tình trạng nguy khốn ấy chứ.

Gã đến bờ nước ngồi lặng im, hai tay bịt lấy tai trong khi bầy con khóc náo loạn. Gã nhìn ra vũng nước lụt mênh mông, mặt gã tái đi trông rất thiểu não. Hình như có cái gì đau xót lắm đang cấu xé gã.

Chị vợ hoảng sợ khẽ van bầy con:

- Nín đi ! Nín đi ! Đừng làm bố giận ! Nín đi !

Mấy đứa nhìn mặt chị sợ sệt nín thinh vì chúng đoán chừng có chuyện gì xảy ra.

Sự xích mích âm thầm nhưng đau đớn giữa hai vợ chồng vẫn tiếp diễn. Ngày lại ngày qua, bột gạo trong thùng đã vơi dần nhưng nước lụt và mưa gió vẫn còn ngự trị không giảm chút nào. Rồi mỗi đêm qua, người mẹ vẫn thấp thỏm đếm từng đứa con.

Nhưng chị không thể vĩnh viễn thức ngủ được nữa. Một đêm kia chị mệt lả vì đói và thiếp đi khi nào không biết. Hai cánh tay chị rã rời ôm mấy đứa con nhưng chị mê man chẳng biết gì cả khi chồng chị lay nhẹ hai đứa con gái nhỏ trở dậy.

Hai đứa ngoan ngoãn theo gã trong bóng tối, đến một quãng xa. Lát sau gã trở về một mình, ngã quỵ xuống nằm dài. Thỉnh thoảng, vài tiếng thở dài của gã nức lên não ruột.

Tờ mờ sáng, chị vợ vùng dậy hoảng hốt vì chị vừa biết mình đã ngủ quá mê. Chị run run sờ mấy đứa con.

- Hai đứa kia đâu rồi ?

Chị la lên và nhìn xuống phía dưới. Chị chạy đến bên chồng vồ lấy gã và hét:

- Hai đứa nhỏ đâu rồi ?

Gã ngồi chồm hổm trên đất, hai gối ôm lấy đầu nín lặng. Chị quay cuồng mất cả bình tĩnh và khóc òa lên như điên. Chị nắm lấy vai chồng lay mạnh, chu chéo:

- Tôi là mẹ chúng ! Trời ơi ! Tôi là mẹ chúng !

Tiếng kêu của chị đánh thức tất cả mọi người chung quanh trên miếng đất tang tóc ấy. Nhưng không có một tiếng đáp lại. Người ta bàn tán với nhau và hình như đã hiểu chuyện xảy ra.

Chị vợ gào lên thảm thiết, giọng đứt quãng:

- Một người mẹ, không bao giờ... làm một việc như thế... chỉ có những người cha... không biết thương con... mà chỉ tiếc một số gạo để nuôi chúng...

Người chồng đang ủ rũ bỗng ngẩng đầu lên nhìn vợ trong ánh sáng mờ mờ và nói qua kẽ răng:

- "Mình" tưởng rằng tôi không thương con à !

Gã quay mặt và sau một phút im lặng, gã nói tiếp:

- "Chúng sẽ không đói nữa"...

Rồi thốt nhiên, nước mắt gã trào ra.

Vợ gã nhìn gã nghẹn ngào.

Pearl Buck

Phượng Các
#3 Posted : Saturday, November 12, 2011 2:17:15 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.