Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

BÚT KÝ THỦY LAN VY
Sonk
#1 Posted : Friday, August 5, 2016 6:15:27 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
CÁ KÈO
-*-


Thập niên 50 quê tôi thật sự sống trong cảnh thanh bình, gạo trắng nước trong, mức chênh lệnh giữa giàu nghèo của người dân không đáng kể, Gò Công họp chợ trong không khí an lành, chuyện móc túi, dựt dọc hình như không có. Đàn bà con gái trong tỉnh đi chợ đều mặc áo dài truyền thống tốt đẹp nầy bị phá bỏ khi Cộng sản may mắn chiếm được miền Nam.
Thuở tôi vừa mới vào trường tiểu học, xóm cầu Huyện, nơi tôi sống và lớn lên thật hiền lành,với khoảng gần 10 ngôi nhà trải dài cặp lộ bên kia là con kênh, mỗi nhà có rào rấp rạch ròi…Chiều chiều thường có những chiếc xe ngựa có trống có phèn la hai bên hong xe treo bảng quảng cáo tuồng hát rong ruổi chậm chậm khắp các nẻo đường để phát chương trình quảng cáo tuồng hát trong đêm…Rạp Bình An Gò Công luôn luôn có gánh hát từ Sài Gòn xuống trình diễn… Cứ mỗi lần nghe tiếng trống xe rao hát là tôi được phép chạy ra ngõ chờ xe tới xin cho được tấm chương trình… Chị tôi cùng với mấy người bạn chung xóm chuyền nhau xem tờ chương trình, dĩ nhiên không quên bàn tán về các cô đào cậu kép trong gánh… Để rồi cười với nhau vui vẽ…Nhiều lần tôi nhận được tấm chương trình bằng chữ tàu, các chị tôi cười chộ tôi
-Tại em giống chệt đó…
-Tối nay mình mua vé hạng cá kèo đi coi hát …
Trong trí tôi nhận biết hạng cá kèo là thứ hạng từ bằng tới thấp hơn hạng chót
Ba tôi trong một bửa ăn có nói về chuyện nầy
-Tháng lúa gần chín miệt làng Tăng Hòa cá kèo đặc ruộng, đứng trên bờ nhìn xuống mặt nước thấy chi chit đầu cá kèo, hạng cá kèo là vậy đó…người xem không có ghế ngồi đứng sau hàng ghế hạng chót cũng đơm đặc đầu người…
Gia đình tôi thuộc hạng giữa của trung lưu và nghèo, cho nên việc chi tiêu tiền bạc phải hết sức dè sẻn, bửa cơm thường có hai món, món canh và món mặn, cũng có khi thay canh bằng món xào, Con cá kèo rất thường được mẹ hay chị tôi làm món ăn trong ngày.
Cứ mỗi lần ngồi vào mâm cơm, ba tôi nhìn thấy dỉa cá kèo, người thường nói
-Cá kèo nầy là do đất sanh., Mùa khô ruộng đất nẻ đồng, vậy mà mưa xuống vài đám, ruộng nổi nước là có cá kèo.
Nghe ba nói, tôi ghi nhớ mà không thắc mắc…Cho tới khi tôi xin được vào trường đại học khổ sai của Cộng sản tôi mới thấy điều nầy là sai



Trại tù Hà Tây, thường vào cuối thu, các ruộng rau muống bắt đầu cổi,Không phải tát nước vào ruộng mà chờ ruộng khô đào hốc( lổ khoảng 5 tấc khối vuông) để trồng su hào, hay bắp cải…Tôi thuộc đội rau nên thường năm vẫn làm việc nầy, hốc đào sâu xuống khoảng 5 tấc, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy lớp đất khô có thấm nước, nước chỉ hơi ươn ướt, và sau lớp đất mỏng ướt nầy thế nào cũng có một con cá chạch, nó nằm yên trong đất chờ mưa, nước tới là lội đi. Tôi nhìn con cá chạch rồi nhớ tới lời ba tôi nhận xét về con cá kèo. Tôi thầm nghĩ chắc là cá kèo cũng ”tỵ thổ’ giống như cá chạch.
Mười lăm năm lưu lạc đất người, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến những món ăn làm từ cá kèo , với bàn tay khéo léo của mẹ tôi, nhớ lại tôi còn thấy thèm… nhiều lần tôi mua cá kèo đông lạnh trong vài chợ Việt nam… Nhưng dù tôi cũng kho nấu chiên xào giống hệt mẹ tôi nhưng, thịt cá cứng ngắc, ăn chẳng ngọt ngào…Những thức ăn làm từ cá kèo của mẹ bây giờ tôi chỉ còn được ăn trong mơ… để rồi tỉnh giấc…lau vội giòng nước mắt lén chảy ướt má.
Trời Gò Công tháng gió chướng, ngọn gió độc xứ Gò( Gió nào độc bằng gió Gò Công), gà vịt cũng thường bị toi vào tháng nầy… Có gió chướng là có hoa so đũa, có trái đậu rồng, hai loại nầy chỉ xuất hiện vào những ngày tháng cuối thu và bắt đầu trổ hoa ra trái khi gió chướng về…
Tan buổi học về, trời hanh nắng, chén cơm rang buổi sáng lót lòng đã đi chơi đâu mất, bụng đói cồn cào… bước vô nhà, bỗng khịt mũi, mùi canh chua từ nhà bếp phưởng phất đâu đây…Nhìn mâm cơm mẹ dọn sẵn, tôi đã thấy cồn cào
Tô canh chua bông so đũa, lẫn với đậu rồng xắt liễn, nấu với cá kèo, nêm rau tần dày lá với ớt sừng trâu chín đỏ cắt khoanh mỏng xéo, dĩa nước mắm trong dầm ớt chim ỉa, chén cơm bốc khói, mâm cơm chỉ một món nhưng ăn hoài, ăn no cành hông mà vẫn còn muốn ăn nữa…
Tôi ăn luôn 5 chén cơm loại chén có hình rồng, mẹ nêm đường, muối, mẹ dầm me, mùi chua cay, ngọt , mặn thật hòa họp, cá kèo mập tròn, bụng cá béo ngậy với vị đăng đắng của mật cá, ngon khó tả, cho tới bây giờ xứ người nhớ lại, tôi nuốt miệng không mà cũng thấy ngon…Xong bữa cơm bụng căng tròn lưng đẫm mồ hôi, quá đã….
Thuở còn nhỏ, tôi là con út nên thường quẩn quanh bên mẹ, mỗi lần mẹ đi chợ về có mua cá kèo là tôi có phận sự canh mấy con gà cho mẹ làm cá, sơ ý một chút là gà cắp cá chạy te te, rượt theo bắt lại đủ mệt. Cá kèo mẹ để trong rồ, lựa thế đất bằng ngoài sân mẹ ướp cá với tro bếp rồi cầm từng con chà trên mặt đất cho sạch vảy và nhớt cá, sau đó mới để cá vào rổ, nhận rổ vào chậu nước chà cá nhiều lần…cá kèo đen đúa bây giờ trở nên trắng trẻo,Mẹ dùng dao nhỏ, sau khi liếc sơ vào một cái khu tộ, mẹ bắt đầu cắt bỏ đầu cá, bầy gà sau khi cá làm xong thì bầu diều cũng căng cứng vì đầu cá, lọai cá kèo nầy sống khá lâu trên cạn. Cũng có người gọi là cá bóng kèo
Cũng cá kèo mẹ dùng gấp tre cặp gấp nướng, cá gặp lửa than hồng liu riu chín tới từ từ, cho tới khi da nứt vàng nghín mẹ để cá vào dĩa, nước mắm chanh đường tỏi ớt, củ cải trắng mẹ xắt lát mỏng rồi xắt lại thành sợi, ngâm cải vào tô giấm có pha chút đường muối và chút nước lã, rau quế mẹ xắt nhuyển, cá kèo nướng được mẹ đặt nằm khít trên dĩa, mẹ chan ngập nước mắm ớt, trải trên mặt một lớp củ cải ngâm dấm, trên lớp củ cải là lớp rau quế, bên xứ lạ nầy có tiền biết đi đâu để mua dĩa cá nướng nầy đây?.thêm một món bông bí xào với thịt ba chỉ. Cơm ăn với cá kèo nướng,bông bí xào thêm xị rượu đế Bình Ân, khà một tiếng…quên hết chuyện đời.
Chị Hai tôi thường kho mắm với cá kèo. Mắm cá sặt chị mua của bà thầy Thanh, kho rục lọc bỏ xương, cá kèo, chị để nguyên con, nêm đường cho mắm dịu, canh sôi hớt bọt, cá vừa chín tới, trái đâu bắp chị cắt mỗi trái làm 3 khúc, cà dái dê chị cắt miếng bằng ngón tay cái…thả hết vào nồi mắm, chờ lửa sôi lại chị nêm thêm hành, ớt…Nhà bếp trống vách vậy mà mùi mắm vẫn bốc thơm lừng, gây cồn cào bao tử… cho những ai có tật háo đói
Buổi chiều trời mưa rả rít, cảnh trời mưa mùa lúa chín, mưa không lớn, nhưng dai dẳng dễ làm lòng người se lại, dễ gợi nhớ những kỷ niệm êm đềm đã trôi qua…, những cô gái mới về nhà chồng dễ nhớ tới người tình cũ …gian nhà bếp trống vách, bộ ván cũ nhỏ, vừa dùng để nồi cơm trả cá, đi chợ về bày biện trên ván,vừa dùng làm bàn ăn, ba, anh, và tôi ngồi ghế đầu quanh góc ván, mẹ chị ngồi trên ván, mâm nhôm, với một tô nước mắm kho, một dĩa bàn đựng cá kèo, một dĩa dưa leo, khế chua, chuối chát, một tô tai bèo đựng rau thơm, gồm tía tô, rau quế, vấp cá, húng cây, một dĩa đậu bắp hấp cơm …mấy trái ớt chỉ thiên vừa hườm chín…trời nhá nhem tối, ngọn đèn dầu khêu ngọn cao, cơm gạo Sóc Nâu nóng bốc khói…Anh kể chuyện trường, chị kể chuyện lớp, mẹ kể chuyện ngoài chợ…. Mâm cơm gia đình ấm cúng bên ngọn đèn dầu với đầy đủ thành viên trong nhà… hòa lẫn với tiếng ểnh ương, cóc nhái chèn hen ngoài sân vườn… cảnh nầy,hy vọng kiếp sau tôi mới tìm thấy lại được… ngoài trời mưa vẫn còn rả rít, nồi cờm cạn dần, mẹ lại tủ thức ăn mang ra một dĩa vú sữa mẹ đã cắt sẵn ăn tráng miệng..mẹ ơi! bàn tay của mẹ, bàn tay mềm dịu chăm sóc đàn con bây giờ con biết tìm đâu??
Có nhiều hôm cá kèo mẹ không nướng mà chiên tươi, mẹ dầm nước mắm me đường tỏi ớt thật cay, cá kèo chiên tươi ăn kèm với đậu rồng xắt xéo xào với tôm bạc lột vỏ ( dân Gò Công phân biệt tôm càng, tôm trứng, tôm đất, tôm bạc, tôm chấu, tôm tích…rồi tới tép rong, tép mòng …sau cùng là con ruốt, ruốt là loại tép ở biển, nhiều nơi tôi nghe người dân gọi con tôm đất tôm bạc…là con tép đất, tép bạc, vậy chớ khi con tép đất nầy phơi khô sao không gọi bằng con tép khô.)
Gò công thuở tôi còn nhỏ, cá kèo rất rẻ, tôi nhớ có năm, bà con ( gia đình chị Phụng, gia đình chị hai E) từ Bến Chùa mang cho nhà tôi mỗi lần hàng mấy trăm con cá kèo, thuở đó cá kèo được tính bằng đôi( mỗi đôi 2 con)
Từ khi giặc cờ đỏ cưỡng chiếm miền Nam… cá kèo trở nên khan hiếm, có lẽ cá kèo cũng khiếp sợ lá cờ sao mà kéo nhau bỏ xứ ra đi tìm miền đất bình an để sống
Ngày còn khoát áo nhà binh, mỗi lần về phép, sau khi ghé thăm nhà, tôi thường xuống Cầu Bến Lội. Trong đồn lính gác bên cầu tôi có 2 người bạn thân đi lính nghĩa quân ở đây, về đây mới thấy cảnh thanh bình dù giặc giả tứ phương nhưng Gò Công vẫn không còn một bóng giặc thù, đó là điểm son của tỉnh quê nhà tôi.Tôi mặc đồ trận dù cho đi sáng đêm từ xã nầy qua xã khác, tôi cũng không bao giờ phải sợ Việt Cộng.
Về đây nhậu tôi nhớ hoài món khô cá kèo nướng dầm nước mắm me. Cá kèo làm khô, nướng lên thịt ngọt lại thơm, nước mắm me dầm ớt, mùi chua ngọt của nước mắm, hòa với vị ngọt thơm của khô cá…thì cạn ly đầy ta lại rót đầy ly cạn..Lúc đương thời, đi công tác dưới Sóc Trăng, tôi thường mua khô cá kèo đem về đơn vị nhâu… Khô cá kèo có khuyết điểm là không để lâu được vì thịt khô trở nên gắt dầu, bởi bụng cá có nhiều mỡ. Lúc trong tù Cộng Sản, nhận quà gia đình, có một gói nhỏ mấy con khô cá kèo, tôi tự dưng ứa nước mắt, hình ảnh mẹ tôi, bạn bè tôi… cảnh cũ quê nhà như hiện rõ trước mắt tôi.Những con khô cá kèo nầy, trước khi cho vào bọc,chắc là mẹ tôi trải khô trên mặt hồ nước bên hông nhà phơi nắng, hình ảnh mẹ già đang trăn trở con khô như hiện ra trước mắt tôi…
Những ngày đi huấn luyện trong chiến dịch Kiện toàn an ninh lãnh thổ quân đoàn 4 vào giữa năm 74, công tác tại Sóc Trăng tôi có dịp ăn món bún nước lèo nấu bằng cá kèo, món nầy quê Gò Công tôi không có… lạ miệng ăn thấy ngon
Con cá kèo kho nêm hẹ rắc tiêu là món thường ăn của dân miền lục tỉnh,cá kèo kho khô, cá cong mình lại quyện hẹ tiêu, kèm chút rau thơm khế chua dưa leo…mới nghe nói đã bắt thèm, nhưng cá kèo kho chỉ, dân Việt lưu vong khó biết làm.Thời Gò Công thanh bình, thời tôi còn thơ trẻ, chạy chơi quanh nhà, khi bắn kè, lúc đá cầu, nồi cơm chiều gần cạn mẹ luôn luôn chắt cho tôi một chén nước cơm. Gạo thời đó cho nước cơm thật béo, chén nước cơm để nguội trên mặt đóng một lớp ván.. chạy chơi nhớ tới cử, tôi vô bếp bưng chén nước cơm uống ngon lành.
Con cá kèo kho như bình thường, khi thấy nước rút gần cạn, cho vào nửa chén nước cơm chắt, chờ sôi lại vài dạo cho nước hơi kẹo, nêm hẹ( cá kèo kho chỉ nêm hẹ mà không nêm hành), dùng đủa dẽ cá, cá gắp khỏi dĩa sẽ có một sợi chỉ nước cá vương theo, nên gọi là cá kèo kho…chỉ.
Thịt cá kèo ăn bị phong, tuy nhiên “Ông Trời” sinh ra thứ độc, ông cũng sinh ra thứ để trừ, mật con cá kèo là thứ giải phong.
Thời cá kèo đơm đầu đặc ruộng, có dịp về Tăng Hòa, hay Bình Luông Đông, bạn bè gặp nhau chén chú chén anh, với mấy món nhậu miền quê, Gà giò xào lá ớt, lòng gà chưn hột vịt… tiệc gần tàn, vợ bạn mình múc đầy một tô lớn…cháo cá kèo.Thường món cháo là phải dùng gạo, riêng cháo cá kèo chỉ có nước và thịt cá kèo nhưng vẫn gọi là cháo. Có ăn qua chén cháo cá kèo mới thấy thấm” món ngon vật lạ miền Nam”, cá kèo còn nhày soi sói, nồi nước đang sôi thả nguyên rổ cá sống vào, khơi già lửa, cho tới khi nào cá rục, dùng đũa bếp( đũa cái) quậy vài lấn cho cá rã thịt, dùng rổ thưa lọc bỏ xương, chụm lửa riu riu, canh hớt sạch bọt, nêm nước mắm, hành xắt nhuyển, tiêu đâm vừa bể… Uống rượu đế, mình mầy nóng hổi, húp một muổng cháo cá kèo vị ngọt lâng lâng từ miệng trôi xuống tận bao tử.. tỉnh rượu ngay… vị cay của tiêu, thơm mùi hành, nêm nếm vừa ăn… ngon ngọt làm sao tả hết được, không lẽ ngối đó múc cháo ăn hoài… đâu phải người miền Nam nào cũng được ăn món nầy ( Món nầy cũng nấu giống như món cháo cá Khoai ờ biền Vàm Láng)
Cờ đỏ còn bay tôi còn xa xứ, nghe cô em đồng hương về Việt Nam kể lại , thực đơn bây giờ có món lẩu cá kèo, và món nầy được dân Hà Nội rất ưa chuộng, chưa được thưởng thức nên không viết rõ được, đất Bắc, trong sách vở gọi là xứ “ Ngàn Năm Văn Vật”nhưng hơn 6 năm sống tại xứ nầy tôi tôi chẳng thấy Văn vật ra làm sao mà chỉ thấy khổ ơi là khổ, không chỉ tù khổ mà dân cũng khổ như tù, cá kèo làm gì có để ăn, dù ở miền Nam cá kèo là cá của dân nghèo, theo đoàn quân chiến thắng vào Nam, miền Nam đầy món ngon vật lạ giặc Bắc đói khát lâu ngày ăn gì mà chẳng thấy ngon, chứ đâu phải riêng cá kèo
Có những cái rất tầm thường nhưng khi không tìm thấy mình mới thấy tiếc, thấy nhớ… Khoảng thập niên 50, 60 cá kèo là loại cá dành cho dân dã miệt ruộng vườn, nhưng với bàn tay khéo léo của người nội trợ, cá kèo được chế biến thành nhiều món ăn rất ngon miệng lại rẻ tiền…làm món nhậu cũng rất bắt mồi.
Đất người khác phong thổ quê mình, có nhiều con cá, cọng rau, tìm đỏ con mắt không thấy, tiệc tùng sang trọng ai đi đãi khách món cá kèo kho chỉ, món canh chua… chỉ có trong mâm cơm gia đình, dọn trên bộ ván sơ sài bên ngọn đèn dầu lữa mới thấy hết cảnh ấm cúng của mâm cơm chiều cả gia đình xum họp chuyện trò vui vẻ..với đầy đủ hương vị ngon ngọt của cọng rau con cá quê nhà.
Chiều ở đây, đi làm về thui thủi một mình, vợ làm khác ca, con im ỉm trong phòng, cá thịt đông lạnh nhạt phèo, cố ăn mà sống, tôi vẫn thường nấu canh rau…. Ăn cho trơn cổ dễ nuốt chén cơm xứ người, có thèm canh chua cá kèo cũng chỉ để nuốt nước miếng, chứ biết làm sao hơn
Cũng tại bàn tay của mẹ chăm sóc miếng ăn thức uống cho con từ ngày còn thơ trẻ, những món ăn nhà nghèo nhưng đầy đủ chất ngọt ngào của con cá cọng rau vùng quê, hương tay của mẹ ủ ấm đời con…cho nên bây giờ sống đời xa xứ con mới thấy thèm hương vị quê nhà. Đời sống vật chất ở đây đủ đầy… nhưng mẹ ơi!, buổi chiều nào trời mưa, đi làm về, con đứng tựa cửa kiếng nhìn ra sân… mắt của con mờ dần… con nhìn thấy ngoài sân hàng cây so đủa, trổ trắng bông đang nghiêng mình theo gió trong cơn mưa chiều… Cá kèo ơi ta nhớ…nhớ canh chua cá kèo!


Thủy Lan Vy
Viết tại Kỳ Đà Động, cuối hè 07

Sonk
#2 Posted : Sunday, August 28, 2016 12:40:50 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
CHO GỬI CÁI ĐẦU
*

- Thân gửi các quan hai thất trận trình diện đi tù tại Gò Công



Tôi học việt văn năm đệ lục với Thầy Nguyễn văn Ba, cũng là người anh thứ ba của tôi, vào đầu niên học trong môn kim văn, anh thường trích giảng hai bài văn viết về ngày khai trường, một bài dịch từ bản nguyên tác chữ Pháp của nhà văn Anatole France và một bài của nhà văn Thanh Tịnh, học sinh tụi nầy phải học thuộc lòng hai bài văn nầy, cũng nhờ học thuộc lòng nên trong trí vẫn còn ghi nhớ, cũng nhờ vậy mà mỗi khi trời trở sang thu, trên trời có những đám mây bàng bạc, là lòng tôi lại nhớ tới buổi khai trường ...
..."Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường...
...Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi đi trên con đường làng dài và hẹp.Con đường nầy tôi đã quen đi lại lắm lần.Nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ.Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự đổi thay lớn: Hôm nay tôi đi học..."
Tôi lại liên tưởng đến cậu học trò nhỏ của Anatole France trên đường đi đến trường, đi ngang qua vườn Lục Xâm Bảo...có những chiếc lá vàng rơi trên những pho tượng màu trắng...
Có sống ở Gò Công vào những năm thập niên 50 - 60 mới thấy sự quan trọng của ngày khai trường đối với dân cư ngụ trong tỉnh lỵ, những khuôn mặt của phụ huynh đăm chiêu nhưng đầy tin tưởng vào triển vọng của con em mình trong ngày đầu niên học, những chiếc áo quần còn thơm mùi vải mới, Những chiếc cặp da mới tinh khôi thắm đậm ân tình của phụ huynh chăm sóc con cái...



Tôi đã từng trải qua trên 15 lần tham dự ngày khai trường từ những năm đầu đời học sinh, ba tôi chỡ tôi trên chiếc xe đạp sườn ngang đến trường Bà Phước ( thời tôi đi học chưa có trường mẫu giáo, học sinh chưa tới tuổi đến trường công thường đều đóng tiền học trường Bà Phước )...và sau nầy thường đi đến trường với chị ở bậc tiểu học..rồi một mình ở bậc trung học, bước chân đến trường mà trong lòng có biết bao niềm mơ ước cho niên học mới...Cho đến năm 28 tuổi, tôi lại có dịp được chị tôi dẫn đến trường .
Theo lệnh của Ủy ban quân quản tỉnh Gò Công, tất cả quân nhân cấp Trung Úy phải trình diện đi học tập cải tạo từ 7 giờ sáng ngày 25 tháng 6 năm 1975 tại trường Trung Học Công Lập Gò Công
Trước ngày tôi đi trình diện, ngày 24 tháng 6, người anh thứ ba của tôi, Đại Úy biệt phái giáo chức( Khóa 16 Thủ Đức) đi trình diện “ học tập cải tạo”, Anh có qua nhà chào từ biệt cha mẹ và có bắt tay tôi từ giã trước khi đi, không khí trong nhà thật yên lặng vắng vẻ sau khi anh tôi rời khỏi nhà với hành trang là một túi bồng bột đựng dụng cụ cá nhân, ba tôi vốn ít nói, mắt người chỉ thoáng buồn, mẹ tôi thì nét u sầu thấy rõ hơn, riêng tôi, trong lòng đang có nhiều cảm giác lẫn lộn, nhiều nỗi lo lắng bồn chồn...
Buổi sáng thức dậy sớm, lòng tôi càng thấy bồn chồn lo lắng, sau khi điểm tâm xong, tôi soát lại lần cuối mớ vật dụng mang theo, mấy vĩ thuốc cảm, sốt rét, kem và bàn chải đánh răng, khăn mặt, hai bộ quần áo, thuốc hút, diêm quẹt, giấy bút...Tôi đến thắp nhang bàn thờ ông bà, từ giã ba mẹ, người chị thứ sáu, chị kế tôi, dẫn tôi đến trường...Trong đầu tôi hiện rõ cảnh khai trường trong bài văn của Thanh Tịnh, cũng con đường quen thuộc, tôi nhớ từng lá cây ngọn cỏ, từng ổ gà, từng cây dại mọc trên bờ đê...quen thuộc đến cả những màu sơn cửa của từng ngôi nhà, hôm nay, theo từng bước đi của tôi, cảnh vật quen thuộc bên đường như lạnh lùng như xa vắng, trời cuối mùa hạ mà sao trông có vẻ âm u, trời lất phất mưa, những hạt mưa rơi nhẹ như sương, những cánh cửa sổ bên đường vẫn mở mà sao lòng tôi cảm thấy như uất nghẹn im lời, nó không còn vẻ sinh động như những lần tôi từ Sài Gòn, từ Sóc Trăng, từ Huế, từ Pleiku...về phép, ngọn gió lúc tôi về phép như mơn man, đùa reo mát mẻ quá, cũng những cánh cửa mở khép hờ mà sao tôi thấy đầy nét vồn vã ân cần ...khác hẳn như buổi sáng hôm nay.Tay tôi xách túi bồng bột, chị tôi đi bên cạnh dẫn bộ theo chiếc xe đạp mi ni màu đỏ, hai chị em bước đi từng bước chậm, không một lời trao đổi; tôi vẫn biết, dù chậm bước cở nào, khi chân còn bước thì đích phải tới, rẽ sang cầu Tây Ban Nha, quán cà phê Xuân nằm bên đầu cầu, tôi thấy trong quán lưa thưa một vài người khách, một vài khuôn mặt quen thuộc, thầy Phan Thanh Sắc nguyên là Trung úy, huấn luyện viên vũ khí trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, đương nhiệm hiệu trưởng trường Trung Học Đệ Nhị cấp quận Hòa Tân, đang ngồi quấy đều ly cà phê đen, thấy chị em tôi thầy tươi cười vui vẻ:
-Ê ! Vô làm ly cà phê rồi đi, còn sớm mà tụi, tính đi sớm về sớm hả???
Đoạn đường chưa tới 100 thước từ nhà tới trường, chị em tôi còn gặp một vài người quen khác, khẻ cuối đầu chào nhau mà trong ánh mắt hầu như trao nhau hàng ngàn câu thăm hỏi.
Rồi cũng tới trường, cổng trường đối diện với cổng vào nhà xe của dinh tỉnh trưởng, hai hàng cây dái ngựa trước trường lá vẫn xanh, hạt mưa nhẹ buổi sáng làm màu xanh của lá có tươi hơn nhưng lá ướt nước ủ rủ trông buồn quá, rải rác bên đường, từng nhóm năm ba người tụm nhau nói chuyện, cũng vẫn những khuôn mặt quen thuộc của cựu học sinh trường Gò Công, mà sao tiếng cười đùa vui vẻ của những lần gặp nhau trong những ngày họp mặt, tất niên của hội cựu học sinh trường đã không còn tìm thấy sự nhộn nhịp, vui vẻ như ngày xưa nữa, trong nhiều ánh mắt thấy rõ nét e dè, nghi ngại, như sợ sệt, như lo lắng...hầu hết những người hiện diện hôm nay đều là bạn chung trường, chung xóm, chung đơn vị ngày xưa.Tôi dừng lại trước cổng trường, có chú bộ đội con ( có lẽ cách mạng 30) mặc thường phục tay cầm súng AK đứng gác, trước khi chia tay, chị tôi bùi ngùi khuyên tôi nên giữ gìn sức khỏe sớm trở về với gia đình, tôi chào chị rồi lầm lũi bước qua cổng trường...( Phải hơn 8 năm sau tôi mới thấy lại cổng trường nầy )
Một thời kỷ niệm cũ chợt sống dậy trong tôi, cũng tại ngôi trường nầy, tôi đã có 7 năm miệt mài đèn sách, cũng tại cổng trường nầy, mỗi khi bước vào, học trò chúng tôi, áo quần phải tươm tất, đủ đầy phù hiệu, hình ảnh những thầy cô giám thị như hiện ra trước mắt tôi, thầy Võ văn Đài, thầy Châu văn Giao, Cô Sáu Hồ...với quyển sổ con và cây bút trong tay, nghiêm khắc đứng rải rác từ cổng vào trường để ghi tên những học sinh lè phè vô kỷ luật...thiếu phù hiệu, áo quần xốc xếch, và không ...hạ mã khi qua cổng .
Hôm nay, tôi cũng bước ngang qua cổng nầy, nhưng không còn nhìn thấy những khuôn mặt khả kính của những vị thầy cô năm xưa, mà thay vào đó, một khuôn mặt non chọet, có lẽ phải vài năm nữa mới tròn tuổi hai mươi, áo quần luộm thuộm, tay cầm khẩu AK,cơn gió buổi sáng, hay hạt mưa trái mùa làm tôi thấy lạnh, có lẽ hai lý do trên đều đúng, cái lạnh thấm mau vào người tôi có lẽ là do màu đen của sắt thép tỏa hơi tử khí từ khẩu AK rất vô tình; trong suốt mấy năm chinh chiến, cây AK là hình ảnh đối kháng với khẩu M16 xinh xắn của quân đội Cộng Hòa...
Cũng màu tường vôi vàng, cửa sổ màu xanh, phòng giám thị, giám học, hiệu trưởng, hai dãy phòng nằm cạnh cổng, dãy lớp học im lìm năm xưa còn đó, những cây lim lúc tôi mới vào trường chỉ cao hơn thước, những cây lim nầy cũng là nguyên do để bọn học sinh chúng tôi bị thầy giám thị rầy la vì chạy giỡn tiện tay bẻ đọt ngắt lá, nay thân cây lim một người ôm không giáp, ngọn cao khỏi nóc lầu trường, tàn phủ che mát cả sân...
Tôi thấy trong sân trường đã khá đông người,dưới gốc cây lim sát phòng giám thị, một nhóm giáo sư của trường đang chuyện gẩu, tôi thấy thầy Huỳnh Thạch Sơn là giáo sư văn chương và là đương nhiệm hiệu trưởng trường, vẻ mặt trầm ngâm đang lắng nghe chuyện, khoảng 8 giờ sáng, một tên cán bộ Cộng Sản ra lệnh tập họp các quan hai lại ,tất cả anh em xếp thành hàng tư trên sân xi măn trước dãy trường lầu hướng tây trường, tôi nhẩm đếm khoảng trên 200 Trung úy,trong đó có 3 nữ sĩ quan là Nguyễn thị Hương Hoa ( Phòng điện cơ kế toán bộ Tổng Tham Mưu, cũng là cựu học sinh trường) Nguyễn Thị Anh ( Phòng xã Hội Tiểu Khu Gò Công) Nê A Sang ( Không rõ đơn vị )...Tôi còn nhớ chị Võ Thị Cảnh là giáo sư Trung Học Gò Công với gương mặt đầy lo lắng bước vội vô cổng trường, chị trình diện thế cho người em trai là Hải Quân Trung Úy Võ Văn Tý, Tý đi Mỹ Tho thăm ghệ trên đường đi bị bắt ở Chợ Gạo.Thế mới biết, chính sách hà khắc dân chúng sợ hơn hùm beo rắn độc, mọi lệnh giặc cờ đỏ ban ra đều được tuân hành răm rắp, bởi trong thời điểm giao mùa, ai ai cũng sợ bản án tử hình làm gương ...!
Tôi nhìn tổng quát thành phần sĩ quan tại hàng hôm nay, đa số là cựu học sinh trung học Gò Công đã phục vụ quân đội trên 4 vùng chiến thuật, một số sĩ quan thuộc các tỉnh khác phục vụ tại tiểu khu Gò Công.Có anh ăn mặc như đi dự tiệc, áo quần thẳng nếp, dày da đánh bóng, xe honda dựng bên lề; tôi thầm nghĩ, các anh nầy tưởng dễ ăn với Việt Cộng, trình diện rồi được cấp giấy ra về như chính sách ...khoan dùi nhân đạo mà chúng thường rêu rao khi mới cưỡng chiếm miền Nam.
Sau khi được nghe "giảng" về chính sách khoan dùi của đảng đối với sĩ quan ngụy quân và ngụy quyền; tất cả tan hàng tự do đi lại trong vòng rào trường dưới sự canh gác của vệ binh võ trang ở bốn góc trường.
Tuy bầu không khí có vẻ nằng nặng, sự im lặng rồi cũng bị phá tan bởi tiếng chào mừng của bè bạn lâu ngày mới gặp lại, những nụ cười gượng gạo cố vui trong chốc lát, vui làm sao được khi trong lòng ngập đầy lo lắng, số phận của mình rồi sẽ ra sao, bao nỗi nhớ thương, tình chiến hữu năm nào nay tản lạc muôn phương, rồi cha mẹ, rồi vợ con ...!!
Khuôn viên trường khá rộng rãi mà gần 10 năm tôi mới có dịp gần gủi lâu dài, tôi lặng lẽ đi chầm chậm tìm những phòng học cũ, trường chỉ còn lại hai dãy ngang từng trệt là dấu vết của thời tôi đi học, ba dãy lầu nới cất sau khoảng thời gian tôi rời trường, tôi lặng lẽ đi vào từng phòng học, cố tìm lại chút vết tích của thời còn mài đủng quần trên ghế...Với một thời gian tương đối khá dài, mười năm rồi còn gì ...Cũng vẫn những nét vẽ nguệch ngoạc, những dòng chữ li ti, những hình vẽ, nhưng không phải của thời tôi đi học mà là của các lớp đàn em sau nầy...Mắt tôi như mờ lại, hình ảnh thầy cô cũ hiện ra sao rõ nét quá, Cô Giang Thị Hạnh, cô Trần Thành Mỹ,Cô Lê Kim Xuyến, thầy Đoàn Huy Oánh, Thầy Ngô Đình Thu,Thầy Nguyễn Tiến Đức, thầy Đinh Đức Vượng …, rồi những tà áo dài trắng tha thướt của các bạn đồng song ...Hứa thị Vĩnh Thu, Nguyễn Thị Kim Kiều, Phan thị Lệ Sương, Lê Kim Hoa, Đồng Thị Ái, Nguyễn thị Bạch Mai...lòng tôi như se thắt lại...!
Tôi thử điểm danh một số anh em cựu học sinh, khóa 1 có Tô Vĩnh Thái( Giáo chức biệt phái= GCBP), Anh Tôn( Pháo Binh Dù GCBP) Anh Chánh ( GCBP)…Khóa 2 Có Lê Văn Bình (CTCT tiểu khu GC, GCBP), Hồ Văn Sơn ( Khóa 3/69 Quân Nhu) Anh Ánh ( Biệt Phái Tòa hành Chánh)…, Khóa 3 có Nguyễn Văn Xã( Cựu khóa sinh Rừng Núi Sình Lầy Mã Lai, GCBP), Võ Huỳnh Long( GCBP), Lê Ngọc Phước(GCBP),AnhTrang(GCBP),AnhChấn(GCBP)…, Khóa 4 có Phạm Bá Niên ( Phân chi khu trưởng)…, Khóa 5 có Đặng văn Vui( Trưởng G Vũng Tàu), Lê Văn Nay( Đại Đội Trưởng ĐPQ), Trần Công Thu( Công Binh)…, Khóa 6 có Lê Bích Lâu( An Ninh Quân Đội), Nguyễn Ngọc Bá( Trưởng ban 1 TĐ Pháo Binh )Nguyễn Thành Nghiêm ( Trưởng ban Chính Huấn SĐ 18), Trần Ngọc Sáng( Phòng 2 Quân Đoàn 4 )…Khóa 7 có Lê văn Liệt ( Trưởng cuộc Cảnh Sát Long An) Nguyễn văn Tỷ ( Thiết Giáp )…, Khóa 8 có Phạm Đăng Trắc ( Pháo Binh Quân đoàn 2) ….Và còn mấy khóa tiếp nữa, tôi không nhớ hết…
Tôi bước lên dãy lầu ngang, nhìn thẳng ra cột cờ, trên hành lang, tôi đi lần đến cuối dãy, nhìn qua khoảng trống giữa hai hàng rào kẽm gai, bên kia rào là khám đường Gò Công, ôi định mệnh sao cai nghiệt quá, trường học nằm cạnh kề khám đường, thì học sinh xong học đường lại chui vào khám. Trước mắt tôi, một khoảng trống nhỏ đủ nhìn thấy người, tôi thấy một vài khuôn mặt quen thuộc từ bên khám đường tò mò nhìn sang trường, kìa là thằng Nguyễn Kim Giai, thiếu úy An Ninh Quân Đội, tôi vẫy tay chào nó, nó dùng tay chụm miệng hỏi lớn:
-Thằng Chí đâu rồi?( Đại úy Nguyễn Duy Chí Đại Đội Trưởng trinh sát trung đoàn 11, bạn chung lớp, cùng khóa 8 với Giai).Tôi vội đáp lại trong sự vui mừng gặp lại bạn cũ, dù trong hoàn cảnh có hơi quá khắc nghiệt:- Nó chuyển đi hôm qua rồi, không biết đi đâu..tôi chụm tay làm loa trả lời Giai.
Bên cạnh Giai là anh Năm Địa, hạ sĩ quan cảnh sát đặc biệt, Cò Hên, tiểu đội trưởng quân cảnh tư pháp và nhiều người khác tôi không nhớ hết tên, tất cả đều vẫy tay chào tôi.
Tôi đi ngược trở lại hành lang thì gặp một nhóm khá đông đang vây quanh một bàn cờ tướng, hai đấu thủ là anh Trung Úy Sinh Đại đội trưởng ĐPQ và anh Võ Huỳnh Long, trung úy biệt phái giáo chức, cả hai đều là cựu học sinh khóa 3 trung học Gò Công, tôi khen thầm, Anh Sinh nầy mang theo bàn cờ quá hay, vừa tạm giết thời giờ vừa quên đi sự thế; khuôn viên trường khá rộng, có nhiều nhóm nhỏ tụ năm, tụ ba, dù không đến gần nhưng tôi cũng hiểu rõ phần nào nội dung câu chuyện...đại khái là những lời than thân trách phận, những lời ưu tư lo lắng cho tương lai...bởi vì ngày mai chỉ là một dấu hỏi lớn...trong đầu mọi người!
Tôi và một vài bạn thân thời trung học cũng tụm lại với nhau, kể cho nhau nghe về những ngày sau cùng của cuộc chiến, những oan khuất nhục nhằn phải chịu đựng trong buổi tàn cờ, Thằng Quang Đèo( Phân chi khu trưởng xã Vĩnh Bình)Thằng Ba Lém ( Trung Đội Trưởng Pháo Binh) hai thằng bạn mà khá lâu không gặp mặt...mặt thằng nào thằng nấy trông buồn so, nhất là thằng đèo vợ vừa mới sinh đứa con đầu lòng...
Không cơm, không nước, đứng tán gẩu, hút thuốc đắng cả miệng, cũng có người không trò chuyện với ai mà đứng tựa bao lơn, mắt buồn xa xôi ...nhìn trời hiu quạnh...đã gần 12 giờ mà mặt trời vẫn chưa xuất hiện, trên trời có nhiều đám mây đen vần vũ, thỉnh thoảng một vài cơn gió nhẹ thổi qua tạo nên cảm giác lành lạnh...cảnh trời âm u như báo hiệu sẽ có một cơn mưa lớn...
Tôi thử quan sát toàn thể các anh chị hiện diện hôm nay tại trường, Đa số là cựu học sinh trường Trung Học Công Lập Gò Công, từ khóa 1 đến khóa 10, các vị sĩ quan biệt phái giáo chức có phần tươi tỉnh hơn, có lẽ họ tự nghĩ nghề giáo thời nào cũng là nghề cao quý, không có tội với nhân dân, một số sĩ quan biệt phái về hành chánh, một số sĩ quan người tỉnh khác làm việc tại tiểu khu.... đặc biệt có Anh Huỳnh Văn Hoa, cựu học sinh khóa 3 Trường Gò Công, cựu sinh viên sĩ quan khóa 23 Đà Lạt., lúc nào tay cũng cầm 1 cái radio nhỏ kề bên tai nghe,con đường trước trường hôm nay vắng lặng một cách lạ, thỉnh thoảng mới thấy có chiếc xe đạp chạy nhanh qua, người đi bộ cúi đầu rảo bước, lén gửi một cái liếc vội vàng vào sân trường...
Trước khung cảnh âm u của trời đất, trước những khuôn mặt thất thần lơ láo, tôi thấy trong tôi có một nỗi buồn khó tả, tôi linh cảm có một điều gì không ổn cho cuốc sống của tôi ngày mai...Ở trong hoàn cảnh mà tự mình không chủ động được, tôi thầm lẩm nhẩm 2 câu kiều
"Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần tới đâu ....."
Tới hơn 2 giờ trưa, có hai ba tên VC, mặc thường phục, vai mang xắc cốt đến trường ra lệnh tập họp anh em lại, một khối tù hàng binh đứng xếp hàng ngay ngắn, một tên cán bộ ra lệnh:
-Các anh chị chuẩn bị di chuyển sang trường trung học bán công.
Không khí trở lại ồn ào sau lệnh của tên cán bộ, những lời bàn tán, những ánh mắt nhìn nhau ... chẳng có một đáp số nào chính xác cả, tay tôi vẫn xách cái túi bồng bột, gia tài hiện hữu, lẫn trong đám đông, ai sao mình vậy, mặc cho dòng đời đưa đẩy, theo sự chỉ dẫn của tên cán bộ, anh em chúng tôi lần lượt bước ra khỏi cổng trường, cũng có bộ đội cầm súng AK dẫn đường và mấy tên đoạn hậu, thì ra xuống ngựa rồi mà ra đường vẫn còn có lính cầm súng theo bảo vệ ?!Trường công lập cách trường bán công khoảng non 100 mét, ngang qua cổng sân vận động tỉnh, tôi nhớ tới hai xe nước đá của Anh Chơi và Anh Nhạn, hai anh vẫn thường xuyên đậu xe trước cổng sân vận động nầy suốt thời gian tôi còn học, từ đệ thất tới đệ nhất, tôi nhớ tới thầy năm Răng( thầy đã qua đời tại Bình Ân, Gò Công), giáo sư thể dục, tôi học thể dục với thầy từ khi tôi còn học lớp nhì A với thầy Nguyễn Văn Huệ( Thầy Huệ đã qua đời tại Pháp)thầy Răng cũng là thầy dạy thể dục tôi năm đệ nhất,thầy hơi thấp người( so với tôi) nhưng dáng người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thường tới giờ thầy dạy, thầy hướng dẫn lớp ra sân vận động, thầy đi đầu, tay cặp trái banh, Con trai của thầy, Trò Ngọc Quang vào học đệ tam chung với tôi ...Qua sân vận động, chúng tôi đi ngang qua tòa án, hình ảnh người đẹp năm xưa chợt hiện đến với tôi, chị Phan thị Lệ Sương là con gái Ông Thẩm Phán,chị học cùng đợt với tôi( tam B2 rồi nhị B2),năm thi tú tài phần hai, tôi ngồi chung phòng với chị,Lệ Sương có nét đẹp ngoan hiền, thoáng nhìn rất dễ có cảm tình, khi rời trường lên học trên Sài Gòn,thỉnh thoảng vào thương xá Crystal Palace, tôi có nhìn thấy chị, chị đứng bán mỹ phẩm trong một cửa hàng đối diện với tiệm bán băng nhạc Tú Quỳnh; đồng dãy với tòa án là khuôn viên giáo đường tỉnh, đối diện với tòa án là mặt sau khám đường Gò Công, một bên khám là một con đường trải đá tiếp giáp với trường trung học, một bên là một con hẻm nhỏ nối liền ra bờ sông, có khoảng 10 nóc gia ngụ trên con hẻm nầy,tôi nhớ tới bầu Thọai ( Nguyễn bá Thoại),bạn học từ trung học, đá banh rất hay, đứng vị trí trung ứng, là cầu thủ xuất sắc của hội tuyển trường, sau nầy là hội tuyển tỉnh, trong quân đội, Thoại là trung ứng của đội tuyển quân đoàn 4, sực nhớ tới Thoại, tôi đảo mắt tìm Thoại,nó đồng cấp với mình mà sao không thấy trong đoàn tù nầy( Thọai nhập ngũ trể , khóa 5/69 Thủ Đức)( Một năm sau,Ở trại tù Mỹ Phước Tây, tôi đang trên đường ra hiện trường đào kinh, đang di chuyển trên tỉnh lộ thì thấy Thoại trong nhóm tù thuộc trại Vườn Đào, hai cái len đào đất trên tay hai đứa đồng loạt dơ cao lên, một lối chào cho dễ nhận, thoáng vui trên nét mặt khi bất ngờ gặp lại bạn học cũ, dù trong hoàn cảnh có phần khắc nghiệt ...!
Đầu con hẻm nầy là nhà của thiếu tá Nguyễn duy Sự( khóa 16 ĐL, quận trưởng Hòa Tân)anh của Tuyết Nga bạn học cùng lớp với tôi, mẹ Anh Sự có nghề làm bánh vá nổi tiếng chợ Gò Công, cũng là truyền nhân của bánh giá Vĩnh Lợi,cạnh bên, nhà ông Đốc học Võ Văn Giáp, một vị hiệu trưởng rất có uy tín ở tỉnh nhà, Thằng Tý, con trai út của Ông bị bắt ở Chợ Gạo nên không có trong đoàn quân chiến bại nầy, kế bên là nhà Thầy Giáo Trần Văn Hai, Thầy dạy ở trường làng Tân Niên Trung, sau đổi về dạy tại tỉnh, rảnh rỗi thầy dạy thêm Pháp văn, lớp tại gia của thầy học sinh khá đông, chị Trần thị Gương, con gái của Thầy cũng là bạn chung lớp với tôi, tôi đi lần lần qua nhà Thầy Trung, cựu học sinh khóa 1, là giám thị trường, anh của Thằng Đạt vẫn ngồi cạnh tôi năm đệ tam, Đạt Trung úy không quân( khóa 2/69TĐ), nhà chú hai Vũ Đình Lân, quân nhân giải ngũ, chú xin vào trường làm lao công, sau nhiều năm lên làm giám thị trường, có thằng con trưởng nam là Vũ Đình Chương cũng là bạn chung lớp( dãy nhà nầy là phố mới cất trên cuộc đất của thầy giáo Lý)...Tất cả những nhà quen, cửa đều mở nhưng không thấy bóng dáng người nào cả,có lẽ những đôi mắt thương cảm của người trong nhà vẫn đang nhìn ra đường trong một vị thế kín đáo...
Tới lô cốt nằm bên trái ngã tư, đối diện với nhà Thầy Giáo Lý, đoàn tàn binh quẹo trái hướng về phía giáo đường, đối diện nhà thờ là một xóm nhà .... xóm nhà nầy với tôi có rất nhiều kỷ niệm, ngay đầu góc đường là nhà của trò Ngô Hoàn Toàn, trò nầy vừa là bạn học vừa là họ hàng chung Ông Cố với tôi, Toàn( khóa 4/68 Đồng Đế) tử trận năm 1970 tại vùng 4 trong màu áo Địa Phương Quân, ngôi nhà ngói cổ xưa, nhà của trò Đặng văn Đỉnh và em gái là Đặng Kim Định, đều là bạn học cùng cấp với tôi, Đỉnh tử trận năm 71, Cạnh nhà Đỉnh là nhà của chú mười Trọng, có lúc người con rể chú Mười là anh Quý râu mở quán nhậu tại đây rất đông khách, con chú Mười có Châu, cô bé nữ sinh duyên dáng của khóa 7 Trường Gò Công và Chị Liễu, vợ anh Quý, cũng là bạn học với tôi, thời tôi vào lính mỗi lần về phép tôi thường cùng với Nguyễn văn Nha, Anh Ba Thương , Anh Tư Ảnh là cán bộ Xây dựng nông thôn, Dương Quốc Bình ( Khóa 26 TĐ giải ngũ)… nhậu suốt ngày, nhiều hôm tới hơn nửa khuya tại quán nầy; hai tiệm billard, một của Yến, Linh, một của Thiếu Tá Ngọc, tôi đã cùng bạn bè cầm cơ chắc cũng phải non ngàn giờ ở đây...một thời tuổi trẻ, một thời chiến chinh, một thời sống vội vàng ăn chơi bạt mạng...từng kỷ niệm hiện đến, chân tôi bước ngang qua xóm nhà nầy mà lòng tôi không khỏi không ngậm ngùi...,trong đầu tôi hiện ra một câu hát, trong lúc lòng buồn se lại, tôi cảm khái hát nho nhỏ..."Giữa hàng tù binh, có anh đi hàng đầu..."
Tốp đi đầu đã bắt đầu rẽ vào trường trung học bán công, ngôi trường nầy dù rất quen thuộc, nhưng tôi chỉ vào trường chỉ duy nhất một lần, năm tôi làm báo cho trường Gò Công, Thầy Lê Quang Hậu hướng dẫn nhóm báo chí đến trường bán Công bán báo, tờ Định Hướng vào mùa xuân năm 1966.Khi người cuối cùng bước qua cổng trường ...thì chú bộ đội võ trang AK cũng vừa khép cổng, anh em được lệnh tự do đi lại trong vòng rào trường và ngủ qua đêm tại đây.
Trường Bán Công, khuôn viên nhỏ hẹp, chỉ có 2 dãy lớp khoảng 10 phòng, trường xây trên một miếng ruộng, nền trường thấp so với mặt đường, để xây trường phải đào một cái ao khá rộng để lấy đất đấp nền trường, tôi cùng Quang đèo và Ba lém chọn phòng học đầu tiên làm nơi tạm ngụ
-Ở phòng đầu có gì chạy cho dễ, tầm quan sát rộng hơn;tôi khẻ nói với thằng Đèo, trong phòng học bàn ghế còn nguyên, cần phải xê dịch bàn ghế mới đủ chỗ trải tấm nylon nằm ngủ. Tôi nhìn hai thằng Quang và Ba , hành trang cả hai chỉ là cái...đít không
-Ê, bộ tụi bây được mời đi du ngọan, có chủ lo cơm nước, chỗ ngủ nên xách đít không đi ???Tôi mỉa hai thằng.
Chưa kịp yên vị thì trời đã đổ cơn mưa lớn, mưa như trút nước, cơn mưa kéo dài cả giờ, ao nước tràn bờ, sân trường ngập nước lênh láng, tất cả anh em đều ở trong phòng tránh mưa, dọn dẹp tìm chỗ để tối nằm, tôi nhìn qua dãy ngang hình như chỉ có 3 phòng sát rào sân vận động, tôi nhìn thấy 3 chiến hữu nữ chọn phòng cuối cùng của dãy nầy, mưa bắt đầu nhẹ dần, rồi tạnh hẳn, bây giờ cũng khoảng hơn 5 giờ chiều...tôi nhìn ra cổng trường thấy có nhiều thân nhân xách giỏ xin bộ đội gác cổng nhờ gửi giỏ thức ăn cho thân nhân.
Sau khi chánh thức có lệnh cho tiếp tế, thân nhân lần lượt đến khá đông, dĩ nhiên trong số đông nầy phải có mẹ của tôi, người mẹ đã gắn bó suốt cả cuộc đời tôi, suốt thời gian đi học, tôi sống cạnh mẹ, tôi vào Thủ Đức, mẹ thăm đủ 12 tuần huấn nhục, những lần tôi về phép, chưa kịp thay quần áo tắm rửa là mâm cơm mẹ đã dọn sẵn, tôi ngồi ăn thì mẹ ngồi kề bên, chén cơm vừa hết là mẹ dành lấy xúc đầy, mẹ muốn nhìn thấy tôi ăn thật nhiều, mẹ muốn tôi cạnh kề bên mẹ như ngày xưa còn bé, nhưng mẹ không giữ tôi ở nhà được lâu, mẹ tôi biết vậy nên thường ép tôi ăn, và mẹ tôi vẫn biết trước sau gì bạn tôi cũng đến nhà rủ tôi đi nhậu.
Vừa nhìn thấy dáng mẹ từ hướng cầu Tây Ban Nha đi tới, tôi đi vội ra cổng đứng chờ bên hàng rào kẽm gai... Mẹ tôi trong dáng đi vội vã, người khẻ cười khi nhìn thấy tôi, lần đầu tiên trong đời tôi gặp mẹ trong hoàn cảnh khắc nghiệt nầy, ngăn cách giữa hai mẹ con là hàng rèo kẽm gai...!, tôi thấy lòng tôi nghèn nghẹn xa xót, mắt mẹ buồn rười rượi nhìn tôi hỏi đủ điều dù tôi chỉ mới rời nhà từ sáng hôm nay, giọng nói của mẹ nhỏ lại vừa đủ cho tôi nghe, giọng nói vẫn ấp ủ đầy tính săn sóc thân thương ...Mẹ vừa trao giỏ cho tôi vừa nói:
-Mẹ không dám mang thức ăn nhiều cho con, mẹ sợ người ta "dòm ngó"mẹ đem cho con nửa con cá chẻm chiên tươi, có hủ chao đựng nước mắm tỏi ớt, có trái xoài sống con bầm ra ăn kèm với cá, có chai và ly uống nước, nước mẹ nấu chín rồi, uống nước xong nhớ cất ly vào bao ny lon cho sạch sẽ...
Tôi nghĩ thầm ... Mẹ ơi!Con của mẹ đã ăn cơm lính 7 năm trời, đã từng vào sinh ra tử, hăm mươi lăm tuổi bước chân thằng út của mẹ đã đi qua khắp 4 vùng chiến thuật, Tăng phái cho nhiều sư đoàn, nhiều tiểu khu, từng có mặt ở Huế trong mùa hè đỏ lửa, từng trở về từ Kon tum trên con lộ máu 7B, những ngày cuối cuộc chiến, con của mẹ tăng phái cho sư đoàn 22, hậu cứ đang đóng tại trại Lam Sơn Phước Tuy, con băng biển Vũng Tàu về với mẹ ngày 28 tháng tư, thay vì những người lính khác đi thẳng ra tàu Mỹ, Con về với mẹ, con về với vùng 4 chiến thuật, con về với tướng Nguyễn Khoa Nam, con tin tưởng rằng dù trong bất cứ tình huống xấu nào vị tướng tài ba nầy cũng sẽ không bao giờ đầu hàng Cộng Sản, Nhưng con của mẹ không nghĩ đến việc Tướng chết theo thành..., con vẫn còn ra biển kịp thời nhưng mẹ ơi khi đã về tới nhà, có ba, có mẹ có anh chị.. lòng con mềm lại ... bước nào con nỡ ra đi...
Trước mặt mẹ, tôi chỉ là thằng con trai út, vẫn còn được hưởng những sự săn sóc trìu mến ân cần của mẹ, mẹ cũng nhắc có mua cho tôi một gói thuốc hút, rồi cũng không quên dặn dò đừng hút nhiều mà có hại cho sức khỏe. Tôi rất dễ xúc động nên chỉ nói với mẹ bằng những lời ngắn gọn
-Mẹ yên tâm, con lớn rồi mà mẹ
Bầu trời, mây đen vần vũ, mưa rắc hột nhẹ, mẹ tôi trìu mến vịn lấy tay tôi, người từ giã ra về, tôi nhìn theo bước chân mẹ, tôi thấy bước đi của mẹ nặng và chậm trên đường...
Tôi ngồi trên bàn học mang cơm ra ăn, dù từ sáng tới giờ không có ăn trưa mà tôi vẫn không thấy đói lắm, cá chiên tươi, nước mắm ớt ăn với xoài
sống là món ruột của tôi, vậy mà buổi cơm hôm nay tôi nuốt sao trậm trầy...Trời vẫn tiếp tục mưa, tôi đứng trên thềm hứng nước rửa chén đủa, lòng buồn rười rượi, cho vô bao tất cả vật dụng ,tôi ngồi trên một bàn học hút thuốc nhìn trời mưa, con đường nhựa trước trường đã vắng người qua lại; hơn 8 giờ tối mưa mới bắt đầu ngớt hột, tôi dọn bải để chuẩn bị ngủ, tôi trải tấm nylon trước hành lang phòng học đầu, tôi căng chiếc mùng nhà binh lên, thằng Đèo xin ngủ chung vì nó không có mang theo dụng cụ cá nhân, thằng ba Lém nằm cạnh sát mùng.Tuy gió đêm lồng lộng mà muổi vẫn bay như trấu, vo ve từng bầy, ... Không khí trong các phòng đã bắt đầu yên ắng, tôi nằm bên thằng Đèo mà tâm trí trôi về Sài Gòn, nơi cầu chữ Y, gần lò heo Chánh Hưng, có con bé mắt màu nâu, gốc người Tiều Sóc Trăng, bạn học chung lớp suốt 3 năm liền ở Văn Khoa, cũng là bạn hồng nhan tri kỷ mà cả đôi bên gia đình đều rõ biết..., Tôi nhớ tới cảnh hãi hùng trên gần hai mươi ngày băng rừng về Nam theo tỉnh lộ 7B từ KonTum, tôi nhớ tới chiếc tàu khách tôi quá giang từ Bến Đình Vũng Tàu về Vàm Láng,tàu chỡ quá tải lại gặp sóng lớn súyt chìm mấy lần...
-Ê, cho tao gửi cái đầu vô mùng.Muổi cắn quá...!
Tiếng thằng ba Lém, nó cũng không chờ tôi trả lời mà tự động vạch mùng đút đầu vô, thôi thì huynh đệ chi binh, chia ngọt xẽ bùi là lúc nầy đây.
Tôi đâu có ngờ đêm đầu trong tù tôi đã ngủ chung với con rắn độc, thằng Quang đèo là bạn chung lớp khóa 5 trường Gò Công lại là thằng bạn thân từ nhỏ, thời đệ nhất cấp nó trọ học nhà ông Huyện Đạt, cách nhà ông Thân Bính là tới nhà tôi,nó cùng ngồi chung bàn nhất với tôi, thằng Chung, Thằng Ẩn, Thằng Xuân, thời đệ nhị cấp tôi với nó làm thơ chung nhóm thơ 20 Gò Công ...Thời đi lính, tôi và nó học chung khóa 13 Đại Đội phó, tại trường Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị... vào đây gặp lại nó tôi rất mừng, nhưng mà trong cảnh khó mới thấy rõ lòng người, khi chuyển lên trại tù Huyện Tây, Quang đèo làm toán trưởng coi 3 tổ, cùng với Đại úy Hỉ , cũng toán trưởng, phản lại chiến hữu năm xưa, hợp tác với cán bộ trại hạch tội, phê bình báo cáo ngầm anh em trong trai, Quang và Hỉ là cặp Hắc Phong Song Sát Của Trại tù ' Trại cải tạo Sĩ Quan Ngụy Quân và Ngụy Quyền Gò Công "Chiến hữu từng ở trại nầy chắc có lẽ không bao giờ quên hai tên nầy.
Tiếng ngái to dần của thằng Lém làm tôi khó chịu, mùng nhà binh ngủ hai thằng đã chật chội, nếu là người khác phái tuy có chật mà dễ chịu lắm, nằm gần thằng đực rựa khó chịu vô cùng, bây giờ thêm một cái đầu, lại cái đầu biết ngái mới chết., nằm đã không xoay trở được, nó lại ngái như Trương Phi, giọng ngái lại không được đều đặn, thường xài tông cao, ai có mất ngủ bên người ngủ ngái mới hiểu tình cảnh của tôi. Tôi rủa thầm:
-Đụng nhằm máy cưa thứ tốt rồi, thằng chủ trại cưa mua trúng cây ở Bình Giã, Bình Long, Đắc Tô...Thân cây đầy đạn, lưởi cưa chạm phải tạo âm thanh khó chịu quá, tôi không chịu thấu, thỉnh thoảng lay thằng Lém, nó hử hả vài tiếng rồi lại tiếp tục cưa…
Mắt tôi ráo quảnh, Thằng Đèo nhỏ con, ngủ nằm khoanh như con mèo,không ảnh hưởng lắm, chỉ có cái đầu, cái đầu thằng pháo binh nầy được gắn pin tốt quá, âm thanh rờn rợn, ken két như cưa chạm sắt, một vài anh em thức giấc đi tiểu đêm, ngang qua mùng tôi trầm trồ:
-Cha nào ngủ ngáy quá đã
Quả đúng vậy, thằng ngáy dữ thiệt, đôi mắt màu nâu của những ngày Sài Gòn tha thiết, những buổi nhậu quên đời tại câu lạc bộ Gió Ngàn Khơi bên dòng sông Thị Nghè trong doanh trại Nguyễn Bỉnh Khiêm, hình ảnh những xác chết đầy bi thãm, của người chiến sĩ Cộng Hòa trên con lộ máu 7B, hình ảnh thân thương của mẹ mới chiều nay....tất cả đều tan loãng trước tiếng ngáy quá dữ của thằng Lém...Tôi lay nó dậy khoảng 5 lần trong đêm thì trời cũng bắt đầu rựng sáng...
Thức trắng một đêm, tai bị tra tấn trước âm thanh khuyếch đại của máy cưa thằng Ba Lém, tôi uể oải ngồi dậy tốc mùng, tay rút điếu thuốc châm lửa hút một hơi dài....
Trời còn mờ tối, buổi sáng hơi lành lạnh, sau một cơn mưa lớn, mặt nước ao cao tận bờ phẳng lặng, con lộ trước trường còn vắng hoe, chú bộ đội ngồi co ro ôm súng AK trước cổng trường.Sau cơn mưa, trời lại sáng, còn tôi và các chiến hữu không biết ngày mai sẽ ra sao ...!


THỦY LAN VY
Viết tại Kỳ Đà Động 1994)

Sonk
#3 Posted : Tuesday, October 18, 2016 6:03:53 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
CANH CHUA
*

Thương nhớ Gò Công, quê tôi với hai mùa mưa nắng

Tôi sinh ra và lớn lên trong một miền đất phèn chua nước mặn, có một bờ biển kéo dài từ cửa sông Soi Rạp chạy tới cửa sông đầu tiên của Sông Cửu Long đó là Cửa Tiểu, mùa nắng thì đất nức nẻ, mùa mưa có lầy lội nhưng tương đối dễ chịu hơn, ruộng đồng có nhiều tôm cá, rau cỏ mọc xanh non, người dân miền Tây, hay nói riêng người dân Gò Công trong việc cơm nước hàng ngày thường thích ăn hai món, thứ nhất là mắm kho, thứ nhì là canh chua.Mắm kho thường trên măm chỉ độc nhất một món mắm và dĩa rau, khi thì rau luộc, khi thì rau tươi tùy mùa và tùy hoàn cảnh sống, canh chua thường phải kèm theo một món mặn khác nữa có thể là tôm rang hoặc là cá kho. Tôi là người Gò Công dĩ nhiện cũng không qua được thói quen sở thích đó. Canh chua, một món canh, được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, từ rau cho tới thit, tôm, cá, nấm…
Tôi chỉ kể đến những tô canh chua mà tôi đã được ăn, do mẹ, do chị tôi nấu, do chính tay tôi nấu, do ăn từ tiệm cơm, nhà hàng, những tô canh chua lén nấu trong tù và những tô canh chua trong một vài nhà hàng tại thành phố Houston.


Canh chua thì phải có chất liệu làm ra chua, chất chua thường được lấy từ me, me thì có nhiều loại tùy theo tuổi của trái me, khoảng tháng năm sau những trận mưa đầu mùa, cây me bắt đầu rụng lá, người Sài Gòn một thời ở lứa tuổi đôi mươi, lứa tuổi còn cắp sách đến trường không thể nào quên được những chiếc lá me rơi rụng bay bay trên vành nón lá, bay bám trên vai áo ai mà vải lụa còn nguyên màu trắng, màu trinh nữ, của những con đường Gia Long, Đồn Đất,… nhìn những tà áo thướt tha của những người đẹp từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp, chậm bước năm ba cô, trời thì phơn phớt mưa bụi bay, gió nhè nhẹ thổi… Từng chiếc lá, từng chiếc lá, rơi bay bám trên nón, trên tóc… Nhìn cảnh nầy dù cho lòng ai đang chai đá cũng dễ dàng rung cảm viết ra …thơ, hơi dong dài một chút. Khi cành me trụi lá, cây me sẽ được thay bằng một màu áo mới, lá me non mọc ra từ từ, lá me non là chất liệu nấu canh chua thật ngon. Mỗi năm cây me chỉ thay lá một lần thì làm sao có đủ lá me nấu canh chua quanh năm, ngoài việc thay lá hàng năm, me vẫn tăng trưởng bằng cách ra thêm đọt, hái đọt hơi lâu hơn hái lá non đúng mùa thay lá, ngoài ra người ta còn dùng lửa ( đốt bằng đuốc) đốt sơ một vài nhánh thấp, sau đó lá me bị đốt rụng đi, và một lớp lá me non sẽ mọc ra thay thế.. thế là lại có lá me nấu canh chua. Me ra hoa và kết trái, me mới ra trái gọi là me mắt mèo, me gần chín bong vỏ ra là me dốt,mấy cô thường ít dám ăn me dốt trước chỗ đông người vì sợ bị chọc là ăn me dốt…lại, me chín được hái lột vỏ chít bỏ hột, trộn ít muối vắt lại thành từng vắt bán ngoài chợ, mẹ tôi thường mua me chín về lột vỏ chít hột trộn chút muối phơi vài nắng rồi nhận vào khạp để dành ăn quanh năm Mỗi một loại cá, loại tôm, loại thịt nấu với một lọai me hay lá thích hợp sẽ ngon hơn khi nấu với thứ chua khác.
Ngoài me và lá me, ở Gò Công còn một loại cây thuộc thân thảo đó là cây Giấm, cây nầy có dáng dấp bằng cây đậu bắp( bắp tây) lọai 3 tháng lá có hình khuyết sâu, mặt lá hơi nhám, một nồi canh chua khoảng 3 tô nước thì hái chừng mươi lá là đủ chua nồi canh. Gò Công không có cây Vang mọc nhưng ngoài chợ thỉnh thoảng cũng có bán lá vang, loại nầy có vị chua thanh thường dùng để nấu canh chua gà, kẹt lắm người ta mới nấu canh chua bằng giấm hay chanh.Ngoài ra còn có canh chua khóm, canh cải chua, canh măng chua, canh môn chua, canh khế chua, canh bần chua, canh khế chua….
Những năm còn cắp sách đến trường, buổi trưa tan học, trên đường về mưa rơi lất phất,bụng đói meo, tới nhà cất cặp, mũi hít hít đánh mùi canh chua từ nhà bếp… măm cơm với tô canh chua lá me, mẹ nấu với cá chốt, con cá chốt tôi không nhớ rõ tháng nào, mà con nào cũng đều có cặp trứng vàng ló ra ngoài bụng cá, nồi canh có lá me, giá, cà chua, mẹ nêm ớt xắt khoanh, rau ngò om xắt nhuyển, mùi lá me chua, mùi thơm rau om… thấy ruột cào xót xa…, măm nhôm với tô tai bèo canh, một dĩa nhỏ đưng nước mắm, ớt chim ỉa hườm đỏ dầm bể bể… cơm nóng, năm học đệ tam, tôi dzớt liền 5 chén kiểu, loại chén có hình ông rồng mà miệng vẫn còn muốn ăn nữa, trứng con cá chốt nó bùi, thịt cá chốt gắp nguyên con, suốt bỏ xương sống, chút lá me, chút cà giá.. chấm nhẹ lên dĩa nước mắm, ôi…chua cay béo …răng bén nhai thấy ngọt ngào làm sao.. Bên Mỹ nầy bao nhiêu tiền mới đổi lấy được tô canh chua lá me nấu với cá chốt? tiểu thư xứ Mỹ nầy trăm cô chưa tìm được một cô biết làm cá chốt… Ngoài cá chốt cũng với các lọai rau tẩn liệm như trên, mẹ tôi còn nấu với đầu cá Gún, với ruột con nghêu trắng, với con Còng, với con Rạm, với con cá bống kèo, riêng với cá kèo khi nấu, cá kèo không cắt ra làm hai mà phải để nguyên con, vì bụng con cá kèo với mật đăng đắng, với ruột gan béo ngậy, các đôi đũa chỉ thường chỉa vào khúc đầu mà ít chịu chỉa khúc đuôi, nên sau nầy nấu canh chua cá kèo mẹ để nguyên con cho khỏi cảnh lựa chọn; để rồi mẹ phải ăn toàn là đuôi cá.
Những ngày tết, ngày mồng một nhà thường cúng ông bà bằng cơm chay, ngoài các món thường lệ, mẹ không quên nấu nồi canh chua chay, cũng giá, cà, bắp tây, bạc hà, thay vì nấu với thịt cá, mẹ nấu với nấm búp chẻ hai, với tàu hủ chiên xắt vừa miếng gắp, nấu với me chín, phải biết dằn chút đường, muối nồi canh mới thơm chua dịu, mới ngọt ngào, rau nêm vẫn là ngò om hay là ngò gai, cũng có khi là rau tần dày lá. Buổi cơm tết, tô canh chua nầy ăn với mì căng xé sợi xào với nước tương, xả ớt.Với tàu hủ ky và củ bo rô, chị làm bó sổ,hấp bó sổ chín xong, chị cắt thành khoanh cho vô nồi kho tiêu, cũng có bì cuốn chay, nem chay, cô thứ tư làm nem bằng vỏ bưởi… Đi chúc tết về, bụng lép, gặp măm cơm nầy …mẹ ngồi bên nồi cơm xúc muốn mỏi tay…, canh chua chay ngoài rau rác như trên, những ngày rằm mùng một mẹ còn nấu canh chua nấm rơm tàu hủ chiên với khóm, thêm chút giá cà chua, rau nêm bằng lá quế xắt nhỏ, cũng không quên chút ớt cắt khoanh ăn kèm với món mặn là ruột hột khổ qua bầm nhuyển xào xả ớt, thêm một dĩa nhỏ chao hiệu Ông Phật ở trần, một dĩa rau sống…thì chay cũng ngon miệng như mặn.
Canh khóm mẹ với chị Hai thường nấu với cá biển, khóm Bến Lức nấu canh với đầu cá thu hay là cá Chim Điệp,cá Cu Đen, đặc biệt khóm nấu tôm đất cắt đầu nêm lá quế là hết chê, ăn kèm món canh khóm nấu tôm đất là một dĩa tôm đất cắt đầu rang muối ớt đường, trời chiều bảng lảng măm cơm dọn trên bộ ván nhà bếp trống vách, nhìn mây trời lờ lững trôi, từng đàn chim bay thành hình chữ V về tổ, thỉnh thoảng chim lạc đàn buông vài tiếng kêu văng vẳng từng không, với nồi cơm nóng nấu bằng gạo nanh chồn,cơm cạn để lên mặt nồi cơm vài cọng lá dứa, tô canh khóm, tôm rang, dĩa muối ớt đỏ cay xé, trên thành măm để vài trái ới chỉ thiên hườm chín… Thôi thì …nuốt như cò!
Tháng mười một tháng chạp ta, gió chướng thổi về, mới đầu mùa gió chướng yếu trong mình dễ sinh bệnh, phong dao có câu “ Gió nào độc bằng gió Gò Công” thì Gò Công có cây so đũa bắt đầu trổ trắng bông, Sau nầy có thêm một loại hoa so đũa màu tím. Lúc tôi ở tù về trông thấy hoa so đũa tím, tôi thích lắn, nhìn hoài, vì với tôi màu tím có nhiều kỷ niệm.Cây so đũa tơ cao khoảng mét rưởi hái còn dễ chứ cây vài tuổi phải dùng sào thọc, ngước mặt lên trời, cổ mỏi mê, người dân thường dùng chữ đi thọc bông hơn là đi hái bông, phải lặt bông bỏ cuống, bỏ nhụy( Nhụy có phấn vàng ăn hơi nhẩn nhẩn), đậu rồng xắt liễn,, với hai thứ nầy cũng đã đủ nấu nối canh chua với me dốt dầm bỏ hột, nêm ngò gai nấu với tôm đất dùng kéo cắt đầu, chưn, đuôi cho sạch sẽ, đặc biệt dân Gò Công ăn canh nầy chấm với muối ớt chứ không chấm nước mắm, khi bắt đầu nấu ăn thì cối muối ớt được đâm trước, ớt sừng trâu đâm đủ bể chứ không cần nhuyển, trộn với muối đem để lên mặt hồ nước phơi nắng ngoài sân, tới bữa ăn muối khô trắng điểm ớt cay hồng rất ngon. Bông so đũa nấu với cá kèo cũng rất ngon.Canh chua để cúng giổ mẹ thường nấu với cá lóc, cá lóc cở trên kilo, lạng da lòi thịt trắng bóc, cũng cà giá bắp tây hay đậu rồng, bạc hà, tùy mùa , nồi canh chỉ cần bốn vị rau là quá đủ, tô canh chín vớt đầu cá lóc bây giờ đã chín nở nang, để gần bít dĩa bàn trắng, cái đùm ruột lòi ra với lá gan ngà vàng, lớp mỏng mở trắng, túi mật nhỏ xanh đen..gắp đùm ruột bỏ vào chén, kèm vài lá quế, húng cây, lua vô miệng, rau thơm, gan ruột béo ngậy, mật đăng đắng.. cắn một khúc ớt chỉ thiên, nhai ngập răng, chiêu một ly nhỏ rượu nếp Bình Ân … khà một tiếng, mệt nhọc của buổi làm tan biến ngay. Ngồi chung măm nhiều người nếu thấy tuổi tác mình còn kém nhiều người trong bàn, hay cấp bậc mình còn thấp hơn nhiều người thì đừng bao giờ chòi đũa vô gắp đùm ruột cá lóc…. Đó là biết cách trọng người trên dù đó chỉ là luật bất thành văn. Khi người lớn tuổi nhất bàn gắp ruột bỏ vào chén ai thì người đó cám ơn rồi hưởng tự nhiên...Thời tôi chưa vào lính còn ăn cơm nhà, tôi chưa biết ăn cá tra vì ba tôi tính rất kỷ lưởng khác hẳn tôi tính ăn tạp, ba tôi có mặc cảm cá tra ăn cức, nên dù cá tra nuôi cám ba cũng không ăn nên mẹ tôi đi chợ không bao giờ mua loại cá nầy.Cá tra nấu canh chua nhậu rất là hao rượu.
Mỗi lần mẹ nấu canh chua, thấy tôi chạy chơi gần đâu đó, mẹ thường bảo tôi ra vườn chuối xem quài chuối nào già bẻ vài trái chuối ở nải chuối chót, mẹ gọt chuối bỏ vỏ xanh, cắt từng khoanh, nồi canh chín, chuối thấm chua ngọt mặn, cắn vào miệng, lưỡi sẽ báo cho cảm giác chuối dẽo, bùi nhai nuốt xong miếng chuối là chòi đũa tìm gắp miếng chuối khác ngay…
Nhiều khi đổi rau nấu, mẹ ra vườn chuối lựa một cây chuối con bụ bẫm, mẹ lột bỏ một vài bẹ già bên ngoài xắt chuối cây thật mỏng ngâm liền vô nước pha với chút giấm cho chuối khỏi đen, rau chuối nấu với lá me, tôm đất, nêm rau tần dày lá, ăn xong tối ngủ thấy mát mẻ trong mình. Bên nầy tôi cũng có trồng mấy cây chuối, hôm nào rảnh, ra sân sau cắt cây chuối con nấu canh chua, tôi xắt chuối mà nhớ mẹ vô cùng, thấy mắt cay cay…Nhớ con tôm đất nằm trong rổ còn kêu ro re… Tàn đời cũng không quên được cảnh quê nhà thời thơ ấu ..
Cá lóc lạng da, cắt khúc mẹ chiên sơ với tỏi phi vàng, nồi canh cải chua đang sôi mẹ thả cá vào, nhìn cá vừa chín tới mẹ thả thêm cà chua nêm hành lá, dằn khá đường cho nước chua dịu, canh nầy ăn cũng quên thôi, bởi cá lóc thịt vốn ngọt sẵn, nay chiên sơ áo mở da rám cưng cứng, thịt nở thấm chua, lưởi vừa chạm vào chưa kịp nhai là đã muốn nuốt để gắp miếng khác…Ngoài cá lóc, Gò Công còn có con cá ngác, cá ngác có ba ngạnh, đâm trúng thịt dễ bị làm độc sưng vù, cá nầy sinh sống vùng nước lợ. Cá ngác mẹ tôi mua về tới nhà thường còn sống khá lâu, mẹ đập đầu, vuột tro . Thịt cá ngác dai hơn cá lóc, canh chua cá ngác cũng là món đặc biệt của Gò Công.Nhà có khách…nhậu, múc tô canh chua với đầu con cá ngác, dĩa nước mắm trong dầm ớt, chủ khách sương sương cũng phải nửa lít mới hết tô mồi..
Môn chua và măng chua, mẹ tôi thỉnh thoảng mới nấu, ba tôi không thích hai loại chua nầy lắm.Măng chua nấu với cua nghé ( Cua …vị thành niên), loại cua sông cua biển lứa, không lớn lắm, tách bỏ mu, lấy gạch, bỏ yếm chặt cua ra làm đôi rồi làm tư, canh chua măng nấu với cua lạ miệng ăn cũng hao cơm lắm.
Canh chua ngoài việc ăn cơm rất hao gạo, canh chua còn là món nhậu rất bắt mồi, tất cả các loại đầu cá nấu chua đều được dân nhậu chiếu cố, nhậu với canh chua không dùng cơm trắng mà ăn kèm với bún, với rau thơm như húng cây, mò om, ngò gai, quế, giá…gắp một đũa bún, chan nước chua có rau như đậu bắp, cà giá, dẽ một miếng cá, gắp thêm vài cọng rau sống, lua vào miệng, vừa nóng, vừa nước, trơn trơn như bún, ngot thịt cá, thơm rau, chỉ có rượu đế hay rượu Tây nguyên chất mới trị nỗi món nầy.
Đầu mùa mưa lúc mà lá me non trổ thì ngoài chợ cũng bán đầy ếch nhái, ếch nhái sống thì buột eo ếch lại từng chùm, nhái làm sẵn lột da trắng phíếu, canh chua lá me nấu với ếch hoặc nhái ăn kèm với nhái xào bột cà ry, hay ếch xào xã ớt…nhắc lại mà đã tiết tâm linh huống hồ gì được trông thấy măm cơm trước mặt…
Đại khái vài loại canh chua mà mẹ và chi tôi thường hay nấu trong các bữa ăn thường ngày, tôi học được hết các món nầy và dễ dàng thực hiện , khi khoát áo nhà binh, rời khỏi vòng kiểm soát của gia đình, tôi quên vội vàng đời sống mẫu mực ở nhà, bắt đầu lưu linh lưu địa, bởi sinh ra trong thời chinh chiến, đời lính, tuổi thọ quá mỏng manh, dù tôi chỉ là lính bán tác chiến. Thời chiến, dân còn bị chết một cách oan uổng thì nói gì đến lính… Đơn vị tôi thuộc đơn vị tổng trừ bị nên rày đây mai đó trên khắp bốn vùng chiến thuật, ăn quán ngủ đình, ngủ chợ, từ những món ăn bình thường tôi được nếm thử nhiều món lạ địa phương, tôi về Chợ Gạo được ăn canh chua chuột ăn kèm với món chuột muối xã ớt chiên dòn, mới gắp đũa đầu còn bở ngở, nuốt khỏi họng thấy ngon quá, thịt chuột có thua chi thịt gà, nhất là chuột chiên sả ớt,con chuột được làm lông, mổ bụng lấy bỏ những gì phải bỏ, hái lá chanh bao quanh chuột đem nướng sơ rồi mới chặt miếng ướp gia vị đem chiên.Chuột chín vàng tươm mở, thơm ngon béo làm sao, gắp miếng chuột đưa vào răng cắn dòn khứu, thịt chuột dai, thơm xả, cay ớt, mặn mà của muối, nước miếng tuôn ra trơn cổ nuốt như cò. Hôm nào có chút đỉnh “Anh hai”của chị đi chấm thi chia cho tiền phơi đờ rút, hay của mẹ nhét cho khi về phép…Tôi làm một màn xi nê Lê Lợi với cô bé mắt nâu, xuất 9 giờ tới 12 giờ, tan hát, miệng còn thơm mùi môi của nhau, hai đứa tà tà ghé vào Hương Lan, áo trận giày sô với một hoa mai trên ve áo, vào đây thì lương phạn của lính thấy ngại ngần. Em cũng biết điều, kêu một tô canh chua gà nấu lá vang, một tô cá rô kho tộ, Vị chua của lá vang khác hẳn mọi vị chua khác, thịt con gà giò, gặp nước chua săn cứng, cá rô trong tộ bóng mở hành, thơm tiêu đang sôi sùng sục, chưa ăn tôi đã vội kêu thêm một dĩa cơm trắng… làm như đói thời Cộng Sản, với một chai 33, với tôi thà không uống chứ uống một chai nhột cổ lắm, vậy mà cũng nhín nhín uống tới tàn bữa cơm..bởi cái bóp quá lép . Sài Gòn thời thập niên 70 tràn ngập quán ăn nhậu, ở đâu có trại lính là ở đó có quán nhậu, tựu chung món canh chua trong quán nhậu có chút biến đổi hình thức, trước đây người ta gọi là ăn Cù lao sau nầy quen gọi là lẩu, chữ cù lao thì dễ hiểu vì than lửa được đặt ở giữa, còn lẩu thì ai chuyên môn tìm hiểu giùm, tôi thì không rõ nghĩa,Nước chua được đặt trong lẩu, một dĩa đủ các lọai rau nấu như bạc hà, giá, bắp tây, cà chua, ớt, ngò gai, rau om. Kèm một dĩa bún và dĩa rau sống, thường là con lươn chiên sơ với mở phi tỏi gọi là lẩu lươn, nếu thay lươn bằng cá bông lau thì là lẩu cá bông lau… quán nhậu nào cũng đại khái như vậy. Đơn vị tôi đóng cuối đường Phan Đình Phùng trải dài trên bờ sông Thị Nghè nên anh em chúng tôi thường nhậu gần khu đài phát thanh, quán chị Ba Mập nằm ngay ngả tư Tự Đức và Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay ra Phan Thanh Giản về hướng xa lộ thì thường xuyên vào quán Lường Nghi, có khá tiền thì vào Thanh Thanh để nhậu còn nghe nhạc sống, lẩu lươn đường Sương Nguyệt Anh buổi tối cũng rất đông khách, lẩu chua ở quán Biên Thùy, ở Thanh Hải( Ngả tư Quốc Tế) thường các món nhậu ngon dở là ở vài đũa đầu, dô vài chai rồi thì quán nào như quán nấy, lậm men thì cũng khó phân biệt ngon với dở .Lúc ra Pleiku, thành phố chỉ độc nhất có quán cơm Mỹ Tho, lương quan hai tôi với thằng em, Trung Sĩ Mỹ, mỗi tháng chỉ dám ghé vào đây một lần ăn cơm với canh chua cá lóc và cá lóc kho tộ. Thời cuối năm 1974 quốc lộ 19 bị cắt, cá lóc tươi từ Sài Gòn ra Pleiku phải đi bằng máy bay, hai thầy trò kêu một chai bia trâu….Ôi tiền lính, tiền xương máu sao mà ít thế…
Lúc vào trại tù Mỹ Phước Tây, đi đào kinh, bắt đườc con cá con tôm con ếch con cóc…thường chiều về xuống tắm dưới kênh Dương văn Dương, vừa tắm mát vừa vớt lục bình bẻ cọng non thế làm bạc hà, me có sẳn nhà thăm nuôi cho. Nấu lon gô canh chua với rắn bông sún, rau nêm không có cắt đở lá cà nêm cũng thơm, vậy mà ngoài phần cơm trại phát nấu thêm lon sữa bò gạo, vét láng sạch nồi mà miệng vẫn còn muốn ăn nữa… Những gia đình còn khá, gửi quà thăm con em bằng khô cá tra… Nhiều bạn đồng cảnh nấu nồi canh chua với đầu con khô cá lan phồng… Mùi thơm bay điếc mũi, đầu khô chín, nở nang trông như đầu cá tươi, tôi không dám nhìn nồi canh chua nầy lâu vì quá thèm..Ngày tháng lưu đày ra đất Bắc mới biết ăn canh chua cơm mẻ; ba tháng mới được nhận gói quà 5 kilô thì chỉ có bổ xương, Xương không tẩm bổ sao lại lồi ra từ xương mặt, xương sườn, xương đít, người tù Cộng sản nào mà không bổ xương.Cơm mẻ cũng là loại chua quý vì thực tế cơm không có ăn lấy đâu ra mà làm mẻ. Rau muống lén hái nhét cứng trong lon gô, độn thêm trong bụng trong lưng. Về xổ ra cũng nấu được một soon khoảng 4 tô, vậy mà chỉ rau muống với cơm mẻ, chút nước muối… kèm chén bắp… ăn xong nồi canh còn liếm mép thèm thuồng Lúc ở Hà Tây tôi ở đội rau nên tương đối có rau ăn đầy đủ,Hột giống bắp tây đem từ trong Nam ra, Cộng Sản Bắc Kỳ không biết ăn đậu bắp, chúng chê …dzớt dzớt”, mùa giáp tết có bắp cải, có rau cần nước… Cần và bắp cải nấu canh chua với tôm khô, đậu bắp nấu lẫn rau muống ăn để mà sống tạm qua ngày … Món canh có tôm khô là món“ cao cấp” trong tù. Lúc qua Nam Hà, tháng 3 trời nóng đổ lửa mà trại Nam Hà lại trồng nhiều bí rợ( Ngoài đó gọi là bí ngô), trời nóng mà ăn bí luộc hoài ngán chết, tôi đi đốn củi trên rừng bứt lá vang về nấu với bí. Lá vang bí rợ và nước muối chỉ thế thôi mà lại dễ nuốt hơn bí luộc không.
Còn một thứ canh chua, miệt biển Vũng Tàu gọi là canh sún, thời Anh tôi còn làm huấn luyện viên ở trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp,thỉnh thoảng cuối tuần anh dẫn tôi ra Vũng Tàu tắm biển, trưa vào tiệm ăn cơm… món mà tôi còn nhớ là canh sún, Cũng chất liệu của canh chua nhưng có nêm tương hột, sả ớt chiên vàng …Buổi trưa sau khi tắm biển, người mệt, bụng đói vào quán ăn cái gì cũng thấy ngon..
Ngoài ra người miền Nam còn nấu canh chua với rau nhúc, một lọai rau trồng trong ao nước ngọt, nước phải trong sạch rau mới sống, đây cũng là loại rau khá đắc tiền bán ngoài chợ.Món canh nầy cũng hiếm người được ăn.
Những ngày tới miền đất tự do, tôi tạm dung trên một thành phố lớn thứ tư của xứ Mỹ, nơi có người Việt đông đứng thứ hai ở hải ngoại nên chợ Việt có bán đầy đủ các thứ giống như ở Việt Nam . Chút đất quanh nhà tôi trồng bạc hà, đậu bắp. rau quế, ngò om… cá thịt chợ bán ê hề.. thành phố nầy nóng muốn …khét luôn nên canh chua cũng lại là món ăn khoái khầu, tôi vẫn thường nấu chua với gà, cá bông lau, tôm, hay canh chua chay nấm tàu hủ chiên… măng chua vô keo sẵn, cải chua tôi tự làm lấy ăn lai rai quanh năm… Nhìn măm cơm rõ ràng của dân mít mà sao tai nghe tiếng máy lạnh chạy sè sè, nhìn màn ảnh truyền hình thấy mũi lỏ tóc vàng….Chóc chóc hai con trong nhà có việc cần gọi…Tía; nghe con gọi bằng tía… Thấy nhớ ba nhớ mẹ, nhớ măm cơm nghèo buổi chiều trên bộ ván với ngọn đèn dầu thỉnh thoảng chao gió,… Ăn cơm mà không có con chó, con gà quẩn quanh bên chân, không nghe tiếng chim chiều về tổ,cảnh quê nhà có thiếu thốn chút đỉnh mà có cha, có mẹ, có anh chị bên cạnh đầy tình thân ái, bên nầy ngồi ăn rất nhiều khi chỉ một mình, con bưng dĩa gì đó vào phòng, cửa đóng im ỉm, vợ làm ca hai chưa về… tiếng nhạc từ máy cát sét ẻo lả giọng ca quen thuộc với những ca khúc cũng rất quen thuộc thời còn khoát áo lính… Ơi Hoàng Oanh, Thanh Lan,cùng học chung trường, cùng lứa tuổi với tôi, Elvis Phương, Duy Khánh cùng đơn vị với tôi, ôi Thái Thanh, Thanh Thúy.. tuổi của chị tôi… Giọng ca xưa còn đó, lời nhạc cũng như xưa… Chỉ có cảnh đời là thay đổi…
Ôi! Tạo hóa gây chi cuộc hý trường… Tô canh chua cũng bạc hà cà giá, đầu con cá bông lau chín nở nang to bít dĩa, thịt thà trắng phao, ly rượu chát đỏ sóng sánh trong ly… mà sao lòng tôi chùng xuống, miệng thấy như đăng đắng… Ba ơi! Mẹ ơi! Bây giờ ba mẹ ở đâu.? Gò Công ơi! Bao giờ ta trở lại…để được nhìn thấy cây so đũa trổ trắng bông đong đưa trước gió


THỦY LAN VY

Viết tại Kỳ Đà Động quý đông 06

Phượng Các
#4 Posted : Wednesday, October 19, 2016 8:02:02 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Anh tả canh chua thấy ngon quá . Ở miền Tây ngươi ta còn dùng mẻ nấu canh chua nữa đó anh TLT ạ .
1 user thanked Phượng Các for this useful post.
Sonk on 10/19/2016(UTC)
Sonk
#5 Posted : Thursday, November 3, 2016 6:28:26 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
một lần đi
*


- Gửi các bạn trình diện nhập ngũ ngày 17/12/1968 tại QVTT- Sài Gòn


Tôi soát lại vật dụng một lần cuối dù chỉ có vài món, quần cụt, áo thun, kem đánh răng, bàn chải, tập giấy trắng, cây bút bi .... đựng trong một túi bồng bột nhỏ, tôi mặc chiếc quần jean đen cũ, áo chemise tay dài sọc xanh nhạt, chân mang đôi dép ... Tôi ngước mắt nhìn lại gian nhà của chị tôi ... nhìn lên đồng hồ đã 1 giờ trưa, giờ nầy chị tôi và các cháu còn đang ngủ trưa .....Tôi mở cửa bước vội ra rồi cẩn thận khép lại đi ra cổng, Tôi đã báo cho nhà biết giờ tôi ra đi và tôi không muốn ai đưa tiễn, tôi vẫn thường rất sợ cảnh tiễn đưa dù là đưa tiễn một người nào khác, không phải thân thích ruột rà, con hẻm nhỏ dẫn ra ngả tư Bình Hòa, con hẻm rất quen thuộc, với một vài bụi tre, vài căn nhà mới xây, và một gờ xi măn trải dài, dấu vết của đường rầy xe lửa năm xưa, tôi băng qua đường Lê Quang Định, trước tiệm hớt tóc Công Đặng đứng trên lề chờ xe, một chiếc taxi chạy trờ tới tôi vẫy tay, chiếc xe ngừng lại bên lề đường, tôi mở cửa xe băng sau lách mình chui vào ngồi và nói với Bác tài xế chỡ tôi đến Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn, người tài xế nhìn tôi có lẽ người đoán biết là tôi đến đó để làm gì, Trong một đất nước đang thời chiến tranh, lứa tuổi 20 của chúng tôi làm sao ngồi yên trên giảng đường được, và nhất là sau tết Mậu Thân, một sự bội ước trắng trợn của Cộng quân đã tạo nên một không khí tang thương cho suốt các tỉnh miền Nam, và đây cũng là dịp chứng tỏ cho mọi người biết sự chiến đấu can trường của quân đội Việt Nam Cộng Hòa; đang trong thế bị động mà vẫn đẩy lui được dã tâm xâm lấn miền Nam của quân Cộng Sản Bắc Việt .
Xe từ từ lăn bánh, theo đường Nguyễn Văn Học tiến về trường vẽ, quẹo trái qua Chi Lăng rồi quẹo mặt ngang qua Lăng Ông Bà Chiểu theo đường Lê văn Duyệt. Xe chạy vừa qua khỏi trường nữ trung học Lê Văn Duyệt, tôi bảo bác tài ngừng xe lại trước một nhà thuốc tây để tôi vào mua một vài thứ thuốc cần thiết ...Tôi bước vào tiệm hỏi mua một họp thuốc Saridon;một vĩ cétamic ... Có lẽ nhìn thấy gương mặt thư sinh của tôi trong bộ đồ bụi đời, với một vài cử chỉ không bình thường lắm, chị bán thuốc có lẽ là dược sĩ hỏi tôi :
- Cậu đi đâu mà có vẻ vội vàng quá vậy ?
Tôi đáp giọng nhỏ vừa đủ nghe :
-Dạ, em đi trình diện nhập ngũ, tôi nhận tiền thối và không quên cám ơn chị dược sĩ trước khi bước ra cửa, qua Cầu Bông theo đường Đinh Tiên Hoàng, ngang rạp Casino rẽ phải vào đường Hiền Vương ....Tôi nhìn lại Sài gòn, buổi trưa vắng vẻ, con đường Hiền Vương với hàng cây cao su che bóng mát bên đường vẫn rất quen thuộc với tôi, lòng tôi rất sợ phải mất đi những gì quen thuộc, giờ nầy Mẹ tôi ở Gò Công có lẽ cũng biết tôi trên đường đi trình diện vì tôi có nói lịch trình cho nhà biết khi tôi từ giã Gò Công, Tôi không thấy có gì vui mà tự nhiên thấy buồn buồn, hình như tôi cảm nhận được sự tự do của tôi chỉ còn rất ngắn ngủi, Tôi vẫn thường tự an ủi ai sao mình vậy, nhưng vẫn cảm thấy buồn buồn, lớn lên trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh. Tôi không được trang bị một kiến thức gì về cuộc chiến tranh Nam Bắc, không được chỉ dẫn cho thấy sự dã man tàn ác của chế độ Cộng Sản, Tôi chỉ hơi ghê sợ Cộng Sản qua hình ảnh khủng bố giết chóc những viên chức xã ấp trong thời đệ nhất Cộng Hòa tại quê Gò Công tôi, những vụ pháo kích bừa bãi vào đô thành Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ đông dân cư đã gây thảm tử cho không biết là bao nhiêu thường dân vô tội, những hình ảnh đau thương do Cộng Sản gây nên trong tết Mậu Thân; tôi không có ý định tình nguyện và cũng không có ý định trốn tránh đi lính. Trước tết Mậu Thân, thanh niên có bằng tú tài phần I đến 22 tuổi mới phải động viên mà tôi bắt đầu vào niên học đệ nhất mới có 17 tuổi nên tôi không bao giờ nghĩ tới việc phải đi lính ...Trong lớp tôi một vài thằng bạn ngay sau khi đậu tú tài I đã tình nguyện đi Thủ đức ( khóa 21 ) như thằng Phò, cũng năm đó mà đậu kỳ nhì, vào niên học đệ nhất được vài tuần lại bỏ lớp tình nguyện nhập ngũ khóa 22 như thằng Nô thằng Cọp... , qua kỳ thi tú tài hai một số thi vào Võ Bị như thằng Ba trụi, Trần Công Thu, Phạm văn Tý, Điêu văn Danh... ( khóa 23 ).... Tôi vẫn tà tà đi học, ở Sài Gòn thỉnh thoảng bạn bè về phép dẫn đi ăn nhậu kể cho nghe chuyên chiến trường ...Thường để tránh lính thầy chú thường nộp đơn thi vào Sư Phạm, trong nghề gõ đầu trẻ nầy nầy khi ra trường đi dạy tại những quận lỵ hẻo lánh dễ được hoản dịch và nếu có đi lính thì chỉ một thời gian thụ huấn tại quân trường là sẽ được biệt phái, khỏi phải ra chiến trường, tôi cũng có nộp đơn thi sư phạm, nhưng chỉ mới vào phòng thi, ngồi chưa nóng đít, tự tôi cảm thấy mắc cở khi nghĩ đến có ngày sẽ đứng trên bục giảng vì ngày còn học đệ nhị cấp trường Trung Học Gò Công tôi cũng thuộc loại học sinh cá biệt, phá có hạng trong lớp, nên trước đôi mắt ngạc nhiên của thầy giám thị tôi khẻ cuối đầu chào bước vội ra cửa ... ngày18 tháng 12 năm 1968 ngày hết hạn trình diên lứa tuổi của tôi vào lúc 12 giờ trưa, thì hôm nay tôi rời nhà lúc 1 giờ ngày 17 tháng 12 ...
Xe đã tới ngả sáu, quẹo trái rẽ qua đường Lê văn Duyệt, xe ngừng bên lề đường đối diện với cổng Quân Vụ Thị Trấn, tôi trả tiền xe và nói lời cám ơn Bác tài .Trời tháng mười hai, nắng trưa chói chang, tay xách túi bồng bột mắt ngó qua cổng quân vụ thị trấn ... Người lính gác cổng vẫn ơ hờ ôm súng mắt nhìn ông đi qua bà đi lại, bên trong rào kẽm, tôi chưa rõ cái gì bên trong, tôi bước tới bà bán thuốc lá ngồi cạnh bên cột đèn mua 5 gói Bastos xanh và một họp diêm ...Bà bán thuốc như quen thấy cảnh nầy
- Cậu đi trình diện nhập ngũ ?
Tôi dạ nhỏ một tiếng, tay vụng về xé gói thuốc, gắn một điếu thuốc lên môi, tôi che tay quẹt diêm mồi lửa, mắt nhìn chừng xe, tay xách bồng bột bước vội qua đường. Sau khi trả lời người lính gác cổng tôi được chỉ dẫn vào ngồi trên một dãy băng trong phòng chờ đợi.Tôi rất ngạc nhiên khi nghe giọng ca thánh thót của Hoàng Oanh trong nhạc phẩm Một Người Đi của Trang Châu( ? ) phát ra từ trên cặp loa gắn trên tường ... “Tôi tiễn anh lên đường, trời hôm nay mưa nhiều lắm, mưa thấm ướt vai gầy mưa giá buốt con tim ..., thì ra đây là chương trình phụ diễn tân nhạc trong chương trình xổ số kiến thiết quốc gia hàng tuần, tôi nhớ ra hôm nay ngày thứ ba , 17 tháng 12 , lòng hơi ngạc nhiên sao mà lại có sự trùng hợp kỳ lạ giữa lời bản nhạc và sự ra đi của tôi ? Thôi thì mình đi không ai tiễn đưa, Hoàng Oanh hát đưa tiễn mình còn muốn gì hơn nữa .. !!... Tôi còn nhớ vé số trúng 500 đồng hôm đó mang số 032 ..
Tôi được một người lính mời vào bàn để khai lý lịch, tôi viết nhanh gọn trên một xấp giấy lý lịch in sẵn và chuyển tới bàn lăn tay ..Nhân viên phụ trách là Hạ sĩ Mứt, Trần Văn Mứt, thằng nầy nhà ở Gò Tre, học chung lớp ba với tôi ở trường Nhà Đèn Gò Công , ....Thấy mặt tôi nó nhớ ra liền dù lâu lắm rồi tôi nó mới gặp lại nhau. .. Nó cười vui vẻ :
- Mặt mầy sao buồn hiu vậy Bảy, đi lính cho biết với người ta, trai thời lọan mà.. nó vừa nói chuyện vừa gọn gàng cầm mấy ngón tay của tôi lăn trên họp mực và ấn chỉ vào trong khung in sẵn, thao tác quen thuộc tôi nghĩ cái thằng nầy chắc là đã lăn tay tất cả những người trình diện tại quân trấn Sài Gòn . Hồi nhỏ đi học nó vẫn đi ngang nhà tôi để đến trường, nó đi chiếc xe đạp màu đen sườn 700, cặp đệm để vắt ngang” cây đòn gánh xe ...” tên của nó nghe rất ngọt ngào nên tôi không thể nào quên nó được. Chừng tôi lên trung học không còn gặp lại nó cho tới bây giờ gặp lại thấy trên vai nó mang cấp hạ sĩ vậy là nó đi lính cũng đã trên 3 năm ( Sau nầy vào lính tôi có đôi lần nhậu với nó, nhà nó trong hẻm gần Cống Bà Xếp chung đường với QVTT, ngồi nhậu cạnh nó tôi thường phàn nàn ...Uống rượu mà ngồi gần mày, nghe cái mùi ...Mứt nó ngọt mau say lắm ) Xong thủ tục tôi ra băng ngồi hút thuốc chờ đợi xe chuyển lên trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ... Đang ngồi buồn tôi thấy một tốp thanh niên trạc tuổi tôi kéo vào miệng phì phà thuốc lá mặt vui vẻ ... tất cả nói giọng Bắc ...Có lẽ họ lăn tay xong rồi rủ nhau ra quán ngồi uống cà phê,bọn họ nhìn tôi ... một người lên tiếng :
- Sao ngối buồn vậy bạn, đi lính phải vui vẻ lên chứ .
Tôi chỉ cười mà không trả lời ( đám nầy sau chung đại đội với tôi từ Quang Trung qua Thủ Đức với số quân 68/ 1444... là học sinh trường Nguyễn Trãi cùng rủ nhau trình diện chung cho vui )
Đã gần 4 giờ chiều chung quanh tôi có khoảng gần 50 người ... Chúng tôi được lệnh chuẩn bị lên xe, Tôi nghe thấy mấy người bạn Nguyễn Trãi bảo nhau lượm đá, tất cả đám nầy lượm đá vội vàng bỏ vào túi quần ... Tôi thắc mắc không biết mấy tay nầy lượm đá để làm gì ... nhưng cũng không buồn hỏi . Khi xe bắt dầu lăn bánh tôi mới biết mục đích lượm đá của mấy tay nầy, cứ đến ngả tư là dùng đá ném vào đầu các anh cảnh sát đứng gác đường ( phá hết biết ) .( mấy tên nầy sau khi ra trường là Vũ Ngọc Doanh lực lượng đặc biệt, Kiều Kim Huy quân báo, Ngô văn Diệm, quân nhu, Lộc Hô thiết giáp, Kháng quân Cụ, Ngọc Địa phương quân, Hồ huy Hải Quân huấn, Nguyễn huy Mạnh quân báo, Nguyễn văn Liên CTCT... ) .
Buổi chiều thứ ba đường Lê văn Duyệt đông nghẹt xe, hai chiếc GMC từ từ lăn bánh tiến dần về hướng Tân Sơn Nhứt, đây cũng là lần đầu tiên tôi được đi xe quân đội , gần hai chục mạng ngồi đứng trên xe, Tôi ngồi sát góc trên băng mắt nhìn hai bên đường phố ... Trên đường người ta vẫn ngược xuôi qua lại, chẳng ai buồn để ý đến 2 chiếc xe GMC chỡ đầy thanh niên ở lứa tuổi 20, Những người bạn mới Nguyễn Trãi vẫn đùa cười ầm vang mỗi khi chọi đá trúng mục tiêu, nắng buổi chiều, quyện mờ trong khói xe ... làm cho mắt tôi cay cay ? !
Sau khi rời trường Gò Công ( 1966 ) Tôi lên Sài Gòn ở nhà người Cô thứ Tư nằm cạnh nhà thờ họ Bình Hòa, phía sau nhà cô là nhà của người chị thứ tư, chung nhà còn có người chị thứ sáu ...nên dù xa cha mẹ cũng không thấy nhớ nhà lắm, bởi là con trai út vẫn quen ở bên cạnh Mẹ, bây giờ lần đầu tiên xa nhà bước chân vào một môi trường mới, thì làm sao lòng tôi không bỡ ngỡ, đời lính nghe nói nhiều gian truân vất vả lắm liệu tôi có đủ sức chịu đựng hay không ... khi mà ở nhà một cái áo lót dơ tôi chưa hề biết giắt. Tôi thấy nuối tiếc thời gian đã qua, thời tự do bay nhảy, rồi hình ảnh những người bạn học cũ đi lính về phép ghé thăm tôi, trông tụi nó oai hùng quá ngoài dáng dấp mạnh dạn còn nhuốm chút phong sương, tôi lại tự an ủi ...Tụi nó đi lính được thì mình cũng chịu được ... người ta sao mình vậy hơi đâu mà lo, bỗng nhớ tới lời Thầy Huỳnh văn Thạnh dạy triết năm học đệ nhất ...”Đất nước mình chinh chiến liên miên, nghiệp văn không thành thì chuyển qua nghiệp võ, con đường nào cũng là con đường tiến thân …
Xe đổi hướng chạy về Quang Trung, khúc đường nầy bớt xe, hai bên đường cảnh trí cũng khác, nhà cửa cách khoảng có cây trái xung quanh ....Những chiếc xe đò Sài Gòn Tây Ninh hối hả vụt chạy ngang qua ... Trời bắt đầu dịu nắng dần, những người bạn Nguyễn Trãi cũng bớt cười giỡn ...Một chút gượng gạo sau nụ cười, tôi biết thằng nào trong bụng cũng lo lắng mà ngoài mặt cố tạo cho mình một vẻ thản nhiên .
Xe từ từ quẹo vào cổng Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập ngũ ...Tự dưng tôi cảm thấy hình như không khí trở nên khác lạ, như có một cái gì thay đổi giữa bên ngoài rào kẽm và nơi xe chúng tôi đang đậu ... Mặt đứa nào trên xe cũng trở nên nghiêm trọng, mắt dáo dát nhìn quanh ... Tự cảm thấy từ giờ phút nầy mình đã trở thành con người khác, mà sự khác biệt đó tự mình không cảm nhận được .
Chúng tôi được một anh Trung Sĩ hướng dẫn xếp thành hàng tư, cao trước thấp sau và dẫn đi về hướng doanh trại .
Đi được vài bước tôi ngoái cổ nhìn lại hướng cổng .... Con đường thật vắng, không một người thân, không một bóng hồng đưa tiễn. văng vẳng bên tai giọng ca ngọt ngào của Hoàng Oanh…Tôi tiễn anh lên đường… Sài Gòn ơi ! Gò Công ơi! Ta tạm biệt

THỦY LAN VY
( Viết tại Kỳ Đà Động – Houston Hè 02 )
Sonk
#6 Posted : Thursday, November 24, 2016 7:42:27 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
ĐÊM TRONG TÙ
*



Thượng sỹ Từ, cán bộ trực trại, dùng thanh sắt dài cài qua khoen cửa, bóp ổ khóa đánh cắt, quay bước đi vội ra sân, tay cầm xâu chìa khóa có lẽ cũng nặng gần cả kí lô, bước đi hướng về buồng bên cạnh để điểm danh tiếp, công việc mà bọn Công An trực trại vẫn thường làm hàng sáng hàng chiều, người trưởng buồng cũng vẫn thường báo cáo một câu rất quen thuộc :
-Báo cáo cán bộ, buồng 3 tổng số 86, tại hàng 80, 5 bệnh nằm tại chỗ, 1 nằm bệnh xá....
Tên cán bộ rão bước nhanh, đếm nhanh, rồi rẽ vào buồng đếm số người bệnh...
Đó là sinh hoạt bình thường, trừ những khi có chỉ thị gì đặc biệt thì hắn đứng lại nói vài lời, thường thì cũng không ngoài những lời nhắc nhở thường xuyên, về nội quy kỷ luật của trại, như cấm nấu nướng trong buồng, giữ trật tự yên lặng, cấm ca hát nhạc vàng ....
Sau một ngày lao động mệt mỏi, anh em chung buồng mới được tự do sinh hoạt với nhau, cũng sòng xì phé ( đã có máu cờ bạc thì ở đâu cũng đánh bài được ) vài bàn cờ tướng, tụ năm tụ ba nghe kể chuyện bên lon gô trà nóng, một vài rạp chiếu phim, người kể chuyện được gọi là máy chiếu, người kể hay thì được gọi là máy của bộ (Bộ Nội Vụ, thỉnh thoảng trong trại có những buổi chiếu phim cho tù xem, đoàn chiếu phim đến từ bộ nội vụ, từ tỉnh, có khi từ huyện ) tùy khả năng kể mà xuống thấp dần đến cấp miền, tỉnh, xã ... Trong buồng 3, kể chuyện cở như Phạm Thái, Võ văn Ca, Nguyễn Phát Lộc ...là thuộc về máy bộ, vì tình tiết được người kể nhớ rất chi li, người nghe thường ủng hộ cho bàn trà người kể từ bánh kẹo, đường tán đến thuốc lào ...

Trời tháng mười, Hà Tây đã bắt đầu vào thu, tuy trời vẫn còn nắng gay gắt, nhưng bầu trời thì thấp hơn, có nhiều đám mây luân chuyển trên bầu trời hơn, không khí cũng bớt oi nồng hơn những tháng hè gay gắt của trời tháng sáu tháng bảy.
Trại tù Hà Tây có ba đội rau xanh, cung cấp rau màu cho bửa ăn của tù, kể cả trên khung ( cơ quan ). Một đội rau trẻ, nằm dãy bên phải sân, do Lê Phú Cường( khoá 1 Thẩm sát viên) làm đội trưởng, cấp bậc trung bình của anh em trong đội từ trung úy đến đại úy, hiện trường canh tác ở ngoài cổng trại, đây là đội rau chánh của trại, tù viên phải lao động vất vả hơn các đội rau khác. Đội rau sồn sồn do anh Hải ( Trưởng E vùng 2 ) làm đội trưởng, cấp bậc tù viên hổn tạp, đa số là nhân viên phủ đặc ủy trung ương tình báo, và một số sĩ quan cao cấp của ngành Cảnh Sát, như các trưởng D , E , F, một số sĩ quan cấp tá, và một vài sĩ quan cấp úy trẻ, mới bổ sung từ đội chăn nuôi vừa giải thể. Một đội rau...già của Phạm Thái ( Quốc vụ Khanh) làm đội trưởng, tù viên đa phần là đảng phái quốc gia, trưởng ty hành chánh lẫn với một vài sỹ quan cấp tá và úy. Đội rau sồn và đội rau già ở chung buồng bên dãy trái sân trại, tương đối sống hàng ngày có nề nếp hơn các đội tù trẻ...
Cứ mỗi năm vào những ngày cuối thu, trời bắt đầu có nhiều áng mây thấp, thỉnh thoảng có những cơn gió mát người là các đội rau của trại bắt đầu chuẩn bị vỡ đất, trồng rau màu mùa đông như su hào, cải bắp, tần ô, riêng đội ba còn có thêm mục dọn ao trồng rau cần nước ...
Rau ăn chính của trại, bao giờ cũng là rau muống, cứ vào thu là rau muống bắt đầu cỗi, đất phải cuốc trở lên để trồng cho kịp vụ, nên việc tìm rau ăn độn của tù, trở nên khó khăn, chỉ còn một vài loại rau hoang như dền, diệu, chóc ...tay nào lanh, dạn thì lén bứt rau muống giống, tuy cọng nhỏ mà ăn rất ngọt .Công việc trở đất trồng su hào, không phải là chuyện đơn giản, mà phải tốn rất nhiều công sức và mồ hôi, ngoài hiện trường, mỗi tù viên là chủ một lô đất, phải chịu trách nhiệm về cỏ rả, tưới tắm, phân bón..., thành phần già yếu thì làm những việc linh tinh khác, như tăng phái cho chủ vườn khi có nhu cầu, phụ nhổ cỏ tát nước, xới đất .... Đất mùa nắng, cứng như đá, được cuốc lên từng tảng to, lật ngược mặt, dùng vồ đập nhuyển ra trang bằng mặt, dùng cuốc chim hay dầm xới đào hốc có thể tích do cán bộ quản giáo ấn định, khoảng cách phải đều nhau, phần sau cùng, là gánh phân từ các ụ ủ phân xanh, gồm cỏ lá hoà trộn với phân người, kít người được các anh tù tự giác bên hình sự, gánh ra từ các buồng xí tù, đổ vào ao nhỏ giữa hiện trường, lúc mới ra đội rau, chưa quen mùi, tôi phải khạc nhổ đến khô cổ, rồi sau đó, đâu cũng vào đấy, ngày nào không được ngửi kít là ngày đó không ăn được ( vì bệnh mới được ở nhà, sau khi được tù y tế trại xác nhận )
Bởi công việc nhiêu khê, tôi thì ốm tong, lại cao như cây tre miểu, lưng lại dài quá tầm cở; nên rất ngán ngẩm trong việc lao động hàng ngày... lúc mới chuyển đến trại Hà Tây, tôi được biên chế vào đội gạch, quản giáo là Thượng Úy Đào Thường, vốn gốc người Bình Định, dù sao cũng gốc người miền Nam, nên ông cũng có vẻ cởi mở chút đỉnh, tôi ngồi xếp gạch vô lò, ông thường vuốt lưng nói giỡn với tôi :
- Lưng anh Mỏng dài hết biết, lười lắm đấy !
Mà quả thật
vậy, ông bà mình vẫn thường nói : Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm, thì tôi chỉ thể hiện đúng lời cổ nhân thôi, chứ nào có lười gì đâu...( biết vậy nhưng mà trong lòng tôi vẫn nhớ đến 2 câu ...Dài lưng đã có võng đào- Tốn vải đã có cẩm bào vua ban ...)
Vốn tật lười, với lại sức yếu, nên khi vào phòng xong là tôi nằm dài ra, khoẻ thì nói chuyện rỉ rả với hai anh nằm bên cạnh, một anh khoá 10 võ bị, làm trưởng một phòng ở toà tổng trấn Sài Gòn, một anh khoá 16 Thủ Đức, nhân viên phủ đặc ủy trung ương tình báo, thuộc tình báo quốc ngoại, đang công tác tại Pháp, được chiếu chỉ triệu về ....để đi tù . Không nói chuyện thì tôi đọc sách, sách của thư viện trại cho mượn, nhiều anh chê sách CS không thèm đọc, riêng tôi thì quyển nào tôi cũng đọc, vừa giết thời giờ vừa để tìm hiểu CS, phải đọc sách CS viết thì mới biết CS nghĩ gì, và xem họ nói dóc tới cở nào ...
Đêm nay cuối tuần, trong phòng ồn ào hẳn lên, vì ngày chủ nhật được nghỉ phè cánh nhạn, tôi nằm yên một mình nhìn đỉnh mùng giăng sẳn vén lên; năm nầy đã là năm thứ sáu rồi, tôi mơ màng thả hồn về Gò Công, nơi mẹ và anh chị tôi đang sinh sống, tôi lơ mơ hình dung ra cảnh sống của gia đình tôi, Mẹ tôi thì lớn tuổi, chị thứ hai tôi lại yếu đuối, chỉ có một người chị kế tôi là còn đang dạy học, có nghĩa còn làm ra tiền .Ba tôi, tạng người mạnh khỏe, nhưng chỉ một cơn bệnh tầm thường mà vì không có thuốc men, nên phải ra đi từ năm 79. Gia đình tôi ở Gò Công, sẽ phải sống ra sao bằng đồng lương khiêm nhượng của một người đi dạy học, trong chế độ bao cấp của Cộng Sản, lại phải gửi quà thăm nuôi tôi nữa, tôi bí rị không hiểu nhà tôi sống ra sao trong mấy năm nay, nhín nhút nghèo khó tới cỡ nào...
Ngày xe lăn bánh từ giã Gò Công, tôi vẫn còn nhớ rất rõ, như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua, trước cổng trường trung học Bán Công Gò Công, năm chiếc xe đò liên tỉnh đậu xếp hàng dọc, trời Gò Công sáng ngày 26-6 có hơi lành lạnh, do ảnh hưởng trận mưa gần như suốt đêm hôm trước....Toàn thể cấp Trung Úy của Tỉnh Gò Công, chia nhau từng phòng học để nghỉ qua đêm, kể cả 3 nữ Trung Úy .
Chúng tôi được lệnh mang hành trang cá nhân lên xe, tôi lên chiếc xe thứ nhì, ngồi băng nhì sát bìa cửa trái, xe đậu cạnh nhà Thiếu Tá Ngọc, tôi còn nhớ, cảm giác của tôi lúc đó thật mơ hồ, người anh thứ ba, cấp Đại Úy đã lên đường ngày hôm trước, gia đình tôi rồi đây sẽ ra sao khi hai người con trai đều phải rời khỏi nhà, để bị đưa đến một nơi nào đó ...thật mịt mờ. Bạn bè trong xe chắc đều có những mối lo riêng; tôi chợt thấy mẹ tôi hớt hãi từ hướng cầu Tây Ban Nha đi vội vàng hướng tới đoàn xe, tay người xách một giỏ khá nặng, tôi vẫy tay ra hiệu khi mẹ đến gần, trông mẹ tội lắm, mẹ nói với tôi bằng một giọng thất thần :
- Xe chỡ đi đâu vậy con ?
Làm sao tôi biết được tôi sẽ đi về đâu, để trả lời cho mẹ tôi,bây giờ là xe chuyển tù, chứ đâu phải xe chỡ đi hành quân của ngày xưa, tôi an ủi gì được cho mẹ tôi trong cảnh nầy đây ...!
- Không biết nữa mẹ à, người ta sao mình vậy, mẹ đừng quá lo lắng, con sẽ cố gắng liên lạc cho mẹ biết tin con.
Mẹ vội vã trao cho tôi giỏ xách, trong lúc xe cũng từ từ chuyển bánh, đôi mắt của mẹ tôi ửng đỏ, hình ảnh đôi mắt nầy, đã ám ảnh tôi trong suốt những năm dài trong lao tù CS, tôi hiểu Mẹ tôi đau lòng lắm, đứa con trai út mà mẹ thương mẹ quý,nay bị bắt đưa đi trước mặt mẹ, con mẹ rồi đây sẽ bị đưa đi đâu, rồi sẽ phải ra sao, tại sao làm Mẹ, mà Mẹ lại không có quyền gì với con của mình vậy, đứa con mà Mẹ đã đẻ ra và nuôi nấng nên người, bây giờ bị người ta bắt chỡ đi, đoạn lìa tình mẫu tử ...
Xe chạy chầm chậm, tôi không dám ngoái nhìn lại Mẹ tôi ...xe ngang qua giáo đường, qua trường Trung Học Gò Công, qua dinh Tỉnh Trưởng, quẹo trái ngang Ty ANQĐ, Quân Cảnh Tư Pháp, quẹo phải ngang qua trường Kỷ Thuật, qua Ty Thông Tin, ngang qua mặt chợ, các cửa hàng rất quen thuộc từ ngày tôi còn tấm bé, đây là Cẩm Nguyên, Vưu Sưu Ký, Kim Lang, Vạn Lai An, Vạn Sanh, nhà thuốc tây Trương Thị Thỉ, Công Thành, Hiệp Lợi...bên hông cửa bên phải xe, có nhiều ổ bánh mì được những người bán thảy vào, món quà đơn sơ mà đầy thâm tình của người Gò Công, dành cho những người không bảo vệ được Gò Công ...
Thế rồi ngoài dự trù của tất cả mọi người, xe rẽ vào quận Hoà Đồng, dừng lại trước trại gia binh bên nầy cầu sắt, trước cổng trại có thượng bảng " Trại cải tạo sĩ quan nguỵ quân và nguỵ quyền tỉnh Gò Công "
Cái mừng tiên khởi là dù sao, trại cũng gần nhà, còn nằm trong phạm vi tỉnh ...Xuống xe xếp hàng đôi bước vào cổng trại, tôi thấy các đàn anh đứng đầy trong sân, đang chỉ chỏ chúng tôi cười nói, thì ra đó là các sĩ quan cấp Tá, cấp Đại Úy, đã trình diện trước tôi mấy ngày, dĩ nhiên cũng có mặt người anh thứ ba của tôi .
Khoảng 20 ngưòi chia nhau một căn trại gia binh cũ, mỗi người cũng được hơn 5 tấc ngang, sau khi trải chiều trên nền đất, tạm ổn định chỗ nằm, tôi xem qua giỏ xách của mẹ, một chai đựng đầy nước uống bằng nhựa, một ly nhựa màu xanh, ba nắm cơm vắt, mấy gói muối đậu, cá khô ...
Tôi thần người ra, sao lại là 3 vắt cơm, từ bé tôi chưa thấy nhà tôi nắm cơm bao giờ, tôi chỉ thường thấy 3 vắt cơm để trước quan tài người quá cố, thêm mấy quả trứng và tôm cua luộc ( tam sên ).Tôi bẻ cơm ăn thử, cơm tán nhuyển quyện dính nhau, mỗi trái cơm bằng quả cam to, cũng phải gần nửa kí lô, lạ miệng ăn thấy ngon lắm ...
-Ê, Mỏng, dậy lên uống trà nói dóc nghe chơi mậy.
Đang trong giòng hồi ức, tôi bị thằng Giai kéo giò dựng dậy .
-Mầy nằm hoài rũ người chết, lên uống trà nói dóc cho vui, nằm đó mà nhớ ghệ hoài ...
Thằng Giai, Thiếu Úy ANQĐ, học sau tôi mấy lớp, cùng với tôi từ đội chăn nuôi, bổ sung về đội rau mấy tháng nay, nó nằm từng trên ngay chỗ tôi nằm. Tôi uể oải ngồi dậy trèo lên thang gác, thì thấy có mặt của Bích Lâu ( ANQĐ, Hoà Tân) Cò Củ ( Ty CS Mỹ Tho )Thành Đỏ ( ANQĐ Long An )Kiệt Cá Ngáo ( Chuẩn úy tù binh Phước Long )...
Tất cả quây quần trên hai chiếu của Giai và Lâu, một bếp dầu 8 tiêm đang đun một lon gô nước, mấy lon nhôm thịt họp, dùng làm ly uống nước, có thuốc lào hiệu ba số 8, Tiên Lãng, có kẹo đậu phọng, đường tán ...
Lâu và Giai cùng quê và cùng trường Gò Công với tôi, tôi học khoá 5, Lâu khoá 6, Giai khoá 8, Cò Củ là trưởng cuộc quê ở Long An, Thành Đỏ cũng là tù trước 75 bị bắt ở Cai Lậy ...tất cả cùng sinh hoạt chung từ đội chăn nuôi( trong tù thường chia ra từng nhóm ăn cơm chung với nhau, dĩ nhiên vẫn có người ăn cá thể )
- Ê Mỏng, hôm nay mầy kể chuyện Sơn Vương nghe chơi Mỏng...
Thằng Lâu vừa kéo xong điếu thuốc lào vừa lên tiếng
-Kể thì kể, mầy dân Giồng Nâu ( Hoà Nghị, An Hoà) mà biểu tao kể chuyện Sơn Vương, mầy ở Hòa Nghị, quê hương của Sơn Vương, mầy phải rành hơn tao chứ .
Tôi vừa cầm lon nước trà, xin thêm chút nước trắng, vì trà đậm quá, vừa trả lời Bích Lâu .
Thằng Mỏng nó ở ngành CTCT, nó nói dóc có tiếng, thằng Giai vừa nhai kẹo vừa cười nói...
-Thằng Giai mầy phá máy hoài, để nó nói dóc nghe chơi ...
Tiếng thằng Lâu góp ý, tôi biết thằng Lâu nó rất nhớ nhà, nó là con một, được cưng chiều từ nhỏ, với lại thêm một vợ mấy con ...ghệ,bởi vậy nó rất sợ nằm một mình, nên nó thích uống trà, nghe nói dóc để giết thì giờ .
Tôi thư thả đốp một miếng kẹo, nhai nghe dòn khứu, chiêu một ngụm trà, thong thả cầm " ba dô ca ", ngắt một bi thuốc lào Tiên Lãng, đóm cật tre bắt lửa sáng rực, tôi kéo một hơi thuốc dài, ém khói, chiêu một ngụm nước trà ...
Ngày còn bé, tôi vẫn thường nghe Ba tôi kể chuyện về Sơn Vương, tôi cũng có dịp đọc truyện" Côn Sơn khói lửa " lúc còn học tiểu học, đến trại Hà Tây được hơn 5 năm thì chú Chín Khương, nguyên phó đảo Côn Sơn, từ Hỏa Lò chuyển về Hà Tây, Chú nằm cách tôi một chiếu, nên tôi có dịp hỏi nhiều chuyện về Côn Sơn, Chú Chín là thư ký tại đảo Côn Sơn từ thời Tây, Ông đã từng chứng kiến cảnh xử bắn Võ Thị Sáu ...Từng đêm từng đêm, tôi khai thác dần cái vốn sống Côn Đảo nằm cạnh bên , từ chuyện tù của nhóm chính trị Ca - ra - ven, đến những tay một thời lừng lẫy của đệ nhất Cộng Hòa như Anh Tư Dư, trưởng ty CS Huế, Thiếu Tá Đặng Sĩ,, Thái Đen ...cho đến Sơn Vương, Điền Khắc Kim ...., chuyện kho tàng Nguyễn Ánh, chuyện thú lạ tựa như khỉ, thường ăn ếch nhái, chuyện nhân sâm ...một trong những loài sâm quý nhất thế giới có mặt ở Côn Sơn ...
Trong buồng có mấy anh thấy tôi rù rì với Chú Chín, cũng thường dừng lại góp ý
-Thằng Mỏng nó nói dóc lắm, nó hỏi chú Chín để ghi nhận làm vốn đi nói dóc đó, đừng kể cho nó nghe .
Trong buồng tôi, đa số đều là những người lớn tuổi, đều là những người từng giữ những chức vụ quan trong của chế độ Cộng Hòa, nên đối với cấp úy trẻ như tụi tôi, cũng được các chú bác dành cho một cảm tình đặc biệt, các chú các bác đã nhìn chúng tôi như những kẻ thiệt thòi của chế độ .
- Ê , nhớ tới đâu kể tới đó nghe, kể nghe cho đã rồi lại bảo tao nói dóc ...
Sơn Vương tên thật là Trương văn Thoại, sinh quán tại làng Hòa Nghị, tỉnh Gò Công, Chúa Nguyễn thua liên tục quân Tây Sơn, phải trôi dạt ẩn náo tại Côn Sơn, quân Nguyễn Lữ vẫn không tha, bao vây truy kích rất gắt, biết không thể nào chống lại quân Tây Sơn, nên Nguyễn Vương quyết định chôn dấu kho tàng tại núi Ma Thiên Lãnh, đang đêm lén dùng thuyền nhỏ, nhân trời đang mưa bão cùng vài bộ hạ thân tính ra khơi tìm đất sống .
Người chỉ huy của quân Tây Sơn có lẽ là tướng Phạm Bá Điềm, trong một đêm mưa giông tối trời đã để hở vòng vây nên Nguyễn Vương vượt thoát, thuyền ra khơi nhắm hướng đất liền tiến thẳng, khi không còn thấy dấu vết quân Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Vương chưa kịp mừng, thì một cơn lốc ập tới, thuyền bè tan tác, Nguyễn Vương tưởng phen nầy bị chết vì nước ...biển, thời may có hai con cá Ông cặp hai bên ghe đưa riết vào bờ ...
Điểm lại tùy tùng còn lại, đếm chưa giáp mấy đầu ngón tay, Nguyễn Vương được dân địa phương cho biết, đây là Vàm Láng, thuộc Huyện Tân Hòa. Lần vào đất liền, Nguyễn Vương liên lạc được với Võ Tánh, lúc bấy giờ đang trú đóng tại Hòa Nghị .
Trong đám thân tính của Nguyễn Vương có Ông tổ của Sơn Vương, Ông nầy giữ được một phụ bản của kho tàng được chôn dấu tại Côn Sơn.
Khi Nguyễn Lữ kéo quân vào Gò Công truy kích, Nguyễn Vương phải chạy lên Mỹ Tho, Võ Tánh ở lại Hòa Nghị tiếp tục mộ lính đánh Tây Sơn, Ông tổ của Sơn Vương cũng ở lại với một mục đích riêng. Bản đồ nầy truyền qua tay Ông Nội tới cha của Sơn Vương, nhưng không có ai lên đường tìm kho báu .
Thời thuộc Pháp khoảng cuối thập niên 20, người anh ruột của Sơn Vương lên đường tìm kho tàng, cầm theo bức hoạ đồ, nhưng rồi người đi như sương như gió, ngày ra đi thì thấy mà tin tức về thì không .
Trương văn Thoại là một thanh niên có nhiều tham vọng, lại nhiều bản lãnh, học võ chân truyền từ ông nội và cha, học gồng từ các sư chống Pháp ở Bà Rịa, Vũng Tàu, lại biết thuật thôi miên, tính điềm đạm, cương nghị, có theo học chương trình trung học Pháp, nhưng không rõ ông đổ đạc bằng cấp gì, Ông có khiếu viết truyện, làm thơ ...
Với khả năng đó, ông quyết định nối gót người anh, dù không còn bản họa đồ, nhưng trong ký ức ông vẫn còn nhớ, vì ông có dịp xem qua nhiều lần .
Lên Sài Gòn, Ông sống bằng nghề viết sách và bán sách, thật ra đây là nghề tay trái, nghề chánh là ...cướp. Chuyên cướp nhà giàu, trọc phú ...
- Mầy kể chi tiết một vụ cướp nghe chơi, chứ mầy nói khơi khơi hoài vậy Mỏng ...Lại tiếng của thằng Giai ...
- Dễ thôi, tụi mầy có nghe tên Nguyễn Bình của Việt Minh không?, để tao kể vụ cướp điển hình của Sơn Vương cho nghe.
Nguyễn Phương Thảo ( sau nầy là Tướng Nguyễn Bình ) từ Bắc vào Nam có kết bạn với Sơn Vương, cả hai tính tình cùng tầng số, nên rất hạp nhau, thuê một căn gác trên tiệm may Nam Chấn Hưng làm nơi tá túc, ở đường lòi phèo ( Lefebre) cạnh ngả tư Chaigneau. Một buổi sáng, Sơn Vương mời Phương Thảo đi xem anh đánh cướp ...
Sơn Vương với tính hào phóng, thu nạp được nhiều em út thuộc đủ mọi giới, xuất quân lần nầy, Sơn Vương được Năm Đường là tài xế của một Ông chủ hảng xuất nhập cảng, thừa lúc chủ về Pháp thăm nhà, Năm Đường lấy xe chủ chỡ Sơn Vương đi, chiếc xe hiệu Clément Bayard bóng loáng đời mới .
Từ Bắc vào Nam, lần đầu tiên, Phương Thảo được ngồi trong một xe hơi sang trọng bóng loáng, có tài xế riêng cẩn thận, vốn là người có tâm hồn của bốn phương, nên Thảo chỉ nhìn mà không hỏi chi cả.
Sơn Vương mời cả ba đi ăn sáng tại một tửu lầu sang trọng, của người Tàu làm chủ, trên đại lộ De la Somme.Tại đây Phương Thảo được Sơn Vương mời ăn hủ tiếu đặc biệt, xiếu mại gan heo, há cẩu Sóc Trăng ...uống cà phê sữa đá, hút thuốc con mèo đen họp thiếc tròn, ăn hút no đủ rồi, cả ba lên xe nhắm hướng Tân Sơn Nhất trực chỉ .
- Anh Năm có nhớ thay bảng số xe chưa vậy anh?
Sơn Vương vừa phả khói thuốc vừa hỏi anh Năm Đường tài xế .
- Khỏi lo mà Anh Hai .
Tới một cầu sắt nhỏ, bề ngang chỉ vừa hai xe tránh nhau, Năm Đường đậu xe giữa đường, xuống xe, mở nắp thùng xe ra làm như xe đang hỏng máy, Sơn Vương cũng xuống xe, xem đồng hồ
- Còn 15 phút nửa, đủ thì giờ hút một điếu thuốc .
Nguyễn Phương Thảo rất ngạc nhiên và nôn nóng, Anh muốn chứng kiến một pha cướp do một tướng cướp khét tiếng Sài Gòn dàn dựng, Thảo hỏi:
-Vụ nầy chắc ăn không Anh Hai, trông anh bình tỉnh quá vậy, sao không thấy anh mang súng mang dao theo ?
Sơn Vương nghe hỏi liền cười ha hả, tay móc cây súng giả lận trong người ra đưa cho Thảo xem :
-Súng đây nè, súng giả mà đánh súng thiệt mới đã chứ !
Thực ra Sơn Vương đã điều nghiên rất kỷ, những sáng ngồi bán sách trên lề đường Sài Gòn Ông đã theo dõi rất kỷ các con mồi của Ông,Ông biết tên giám đốc đồn điền cao su Minot, sáng thứ bảy nào cũng tới nhà băng rút tiền để đem lên sở phát lương cho công nhân, ông biết hắn đi xe gì , theo lộ trình nào ...
Sơn Vương hút tàn điếu thuốc thì từ xa một chiếc xe PEUGOET đang chạy tớ,i tung bụi đỏ mịt mờ phía sau . Thấy đường bị nghẻn ở đầu cầu, thằng Tây rà thắng quát to : Nép vô lề cho người ta qua cầu !
Năm Đường vờ lăng xăng sửa xe còn Sơn Vương thì thong thả trả lời thằng Tây :
-Xe pane, chúng tôi đang sửa, nếu ông muốn qua cầu thì xuống xe phụ đẩy với chúng tôi .
Thằng Tây sừng sộ :
- Tao mà đi đẩy xe cho tụi bây à?! Hắn nóng nảy mở cửa xe bước xuống, vẻ mắt hằm hằm đầy bực tức
Sơn Vương lanh bước chận ngay trước mặt thằng Tây :
- Mầy là thằng nào mà phách lối quá vậy mậy.Thằng Tây đang bất ngờ trước thái độ ngang tàng của Sơn Vương , thì Sơn Vương đã sử dụng bộ pháp " lăng ba vi bộ " tiến sát người thằng Tây, tay rút súng giả chỉa vào ngực hét to : -Dơ tay lên !!
Rất bất ngờ và theo phản ứng tự nhiên, thằng Tây dơ hai tay lên trời, một lần nữa, Sơn Vương sử dụng " Cầm nả thủ " chụp cây súng sáu của thằng Tây bỏ trong túi quần, đồng thời sử dụng " di ảnh kỳ hình " phóng lại cửa xe chụp luôn va li bạc thảy cho Thảo giữ .
Năm Đường chỉ chờ cho Sơn Vương và Phương Thảo lọt vào trong xe là nhấn ga ...vọt.
Sơn Vương ném khẩu súng giả qua cửa sổ xe và nói lớn :
- Cho mượn đở tháng lương nghe Ông Gaillard, giữ cây súng cây làm kỷ niệm .
Sau gần cả phút mới tỉnh hồn, Thằng Tây lên xe đuổi theo nhưng phía trước chỉ là một đám bụi mờ ...
- Thằng Mỏng chắc lúc đó đứng đâu đó nên thấy được mấy thế võ của Sơn Vương, mà sao mấy thế võ nầy tao nghe tên sao giống thế võ trong truyện của Kim Dung và Lệnh Xé Xác của Lã Phi Khanh quá vậy .
Thằng Giai vừa nhấp trà vừa cười vừa nói
- Kệ nó mà, sao mầy cứ phá máy hoài vậy Giai ...Thằng Lâu lầu bầu ...
- Rồi sao nữa Mỏng, vụ nầy trót lọt không mậy ?
-Ờ, xe chỡ Sơn Vương chạy theo hướng Bà Quẹo, tới chợ thì Sơn Vương và Phương Thảo xuống xe, bao một cổ xe thổ mộ về Sài Gòn, Năm Đường lái xe về nhà chủ, thay lại bảng số, chùi rửa xe cẩn thận. Sơn Vương trích một số tiền lớn cho Phương Thảo, mở một tiệm giặt ủi ở Da kao làm phương tiện sinh sống ...
Tụi mầy phải biết, thời đó xe hơi ở Sài Gòn quá ít, sở mật thám cho điều tra từng chiếc xe một, hiệu nầy chưa tới 10 chiếc ở Viêt Nam, Năm Đường thấy khó thoát, nên tự ra đầu thú, một tháng sau, Sơn Vương bị còng giải về sở mật thám.
Bắt được Sơn Vương, cò Ba Zin điện cho tên Gaillard đến bót Ca ti na ngay :
- Ông treo giải thưởng 5000 đồng cho ai bắt được tên cướp, bây giờ tôi giao tên cướp cho Ông, muốn đánh đập làm gì thì làm cho đã nư đi, nói xong Ba Zin bỏ ra ngoài để Gaillard ở lại toàn quyền với kẻ cướp . Thằng Tây chụp cây roi kẹt bò, trừng mắt nghiến răng nhìn Sơn Vương
- Mầy cướp của tao 50.000 đồng, tao tính rẻ, 50 roi thôi, mầy sẳn sàng chưa .
Sơn Vương bình thản: - Xin mời Ông !
Ngọn roi kẹt bò chạm vào người Sơn Vương nghe đánh trót, chiếc áo sơ mi bằng lụa rách ngọt một đường, năm ngọn roi liên tiếp ghi năm vết đỏ thẫm nổi vòng trên lưng Sơn Vương. Sơn Vương vẫn đứng vững vàng, mặt không đổi sắc. Thằng Tây thở hổn hển, vừa tức vừa sợ, trên đời có lẽ nó mới gặp một người như Sơn Vương. Hắn quăng roi:
-Tao cho mầy thiếu số còn lại .
Sơn Vương cười nói :
-Tôi quen sòng phẳng, ông cứ đánh tiếp.
Thằng Tây khoát tay :
- Mầy ngon hơn bọn tao rồi, tao bỏ số còn lại không đánh mầy nữa đâu .
Càng lạ hơn, Gaillard bỏ ra ngoài tìm Bazin nói :
-Xong rồi tôi đề nghị Ông thả tên ăn cướp đó đi ,
Bazin rất đổi ngạc nhiên :
-Sao lạ vậy ? thả à ?!
Thằng Tây rút thuốc ra châm lửa ;
- Dân đảo Corse chúng tôi có câu : Anh hùng phải phục anh hùng, Ông muốn xử nó ra sao thì xử, còn tôi coi như huề, tôi cám ơn Ông .
Sau buổi đầu quá đổi ngạc nhiên, Bazin cho sưu tra lại lý lịch của Gaillard thì được biết, Gaillard cùng với một người em là hai tên cướp khét tiếng, có nhiều tiền án, đã từng nhiều lần vượt ngục khỏi nhà tù khét tiếng của Pháp ở Nam Mỹ : La Cayenne, vụ cướp gần nhất là đánh cướp một xe chỡ tiền của nhà băng Mỹ, vượt thoát với số tiền nầy, René Gaillard mua cổ phần của hảng Terres Rouges và trở thành giám đốc đồn điền cao su Minot.
Ra toà, Sơn Vương lảnh án 15 năm, lưu đày Côn Đảo .
- Xin quý vị giữ im lặng, chương trình văn nghệ cuối tuần của đội rau già sẽ bắt đầu ...Và để mở đầu chương trình, chúng tôi xin giới thiệu một giọng ca chưa lên mà sắp xuống, đó là anh Khưu Vĩnh Biệt, ủa ủa xin lỗi, Khưu Vĩnh Thám ( Đại đội trưởng biệt lập Sóc Trăng), sẽ mở đầu chương trình bằng ca khúc " Tình Thư của Lính ", và cũng xin giới thiệu ban nhạc đêm nay ; Phong cầm, anh Vũ Thành An , Guitar , Anh Khiêm, Violon Anh Định, muỗng Anh Niệm...Xin quý vị cho một tràng pháo tay thật lớn...
Giọng của Bình thầy chùa, MC đêm nay, đang giới thiệu chương trình văn nghệ cuối tuần .
Tôi kéo một bi thuốc lào ..
- Thôi tuần sau kể tiếp, xuống nằm nghe nhạc mấy cha, kể cho nghe mà thằng Giai cứ chọc quê tao hoài
Thằng Giai cười hề hề :
- Thằng Mỏng nầy câu giờ hết biết, nó tính uống vài chục bình trà móc câu mới kể hết chuyện Sơn Vương .
Đêm cuối tuần trong tù vẫn thường xuyên lặp lại, cũng trà lá, kể chuyện, nhạc sống ...chỉ trừ những đêm cuối tuần, sau khi có đợt thả, đêm thường rất dài, hầu như mọi người đều vô mùng sớm; trong buồng thỉnh thoảng còn nghe âm thanh tiếng hút thuốc lào, bên cạnh tiếng hút thuốc lào, nếu tai ai còn tỏ sẽ nghe rất rõ nhiều tiếng thở dài ...não nuột.Tháng ngày của một người tù không bản án, là những tháng ngày bi đát nhất trong cuộc sống trần gian...!


THỦY LAN VY
( Viết Tại Kỳ Đà Động - july 1999 )
Sonk
#7 Posted : Thursday, November 24, 2016 7:46:07 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
Tôi rất thích có tấm ảnh kèm theo bài.. Nhưng tôi lại bận rộn quá , mà tôi lấy hình rất lâu , thì giờ tôi không có.. Tôi muốn nhờ người trong ban biên tập làm giúp giùm tôi được không? tôi cám ơn trước( Như trong trang Hướng Dương ...) Phược Các làm giúp tôi nha
Phượng Các
#8 Posted : Wednesday, November 30, 2016 3:18:33 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
PC cũng dở cái vụ lấy hình trên net lắm anh Thuỷ Lan Vi ạ Blushing . Thôi thì có bao nhiêu thì mình vui bấy nhiêu vậy ...
Sonk
#9 Posted : Sunday, December 18, 2016 6:23:26 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)


ỬNG SẮC MÂY HỒNG
-****-

Trân trọng giới thiệu đến quý Anh Chị Em, tập thơ thứ 10 của Thy Lan Thảo đã trình làng vào đầu tháng 12 năm 2016
Ửng Sắc Mây Hồng là tuyển tập Thơ và Bút Ký của người lính Việt Nam Cộng Hòa, từng l ãnh án lưu đày khổ sai biệt xứ hơn 8 năm dài trên nhiều trại tù từ Nam ra Bắc... Đã may mắn đến được bến bờ tự do trong diện HO 14 , đến phi trường Bush vào lúc 23 giờ 30 ngày 4 tháng 11 năm 1992.
Tuyển tập gồm nhiều bài viết từ ngày đặt chân tới miền đất tự do cho tới bây giờ
Được sự khích lệ cuỉa người bạn tri kỷ, tri âm, tập thơ hình thành . Nữ sĩ Sương Đêm trình bày bìa trước, bìa sau, bìa trong và phụ bản
Bác Sĩ Phạm Hồng Sương viết lời giới thiệu và bài Cảm Nhận
Anh Nguyễn văn Đông, phu quân của nhà văn Nguyên Nhung trình bày, lay out
Anh Đỗ Dũng chủ nhà in MR Print nhuận sắc phần bìa trong ngoài và lay out phần trong
Mọi sự liên lạc xin gởi về thuylanvy@yahoo.com hay suongdem@gmx.net

Sonk
#10 Posted : Saturday, March 18, 2017 5:51:15 AM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
ĐÂU DỄ PHAI MỜ
*

Đang phi hành tỏi, chờ vàng, thả cá vào chiên sơ, rồi cho mật ong, nước mắm vào kho...Thì có tiếng phone reo...
Nhà thơ Võ Ý từ Cali gọi sang...Anh bảo tôi là nhân chứng sống, trong cuộc di tản đầy máu và nước mắt, về trên tỉnh lộ 7B, anh cho biết là đại hội Phố Núi sắp khai mạc tại Cali, Anh cần có một bài viết về cuộc di tản nầy, và anh bảo tôi phải viết, bài viết không dài quá 2 trang, và phải hoàn tất nội trong ngày nay.Viết xong, email sang cho anh, để anh sắp xếp đọc trong ngày hội,Nói xong anh cúp phone...
Kêu trời không thấu,Cuộc di tản 2 tháng trời mà bảo tôi viết 2 trang...Trong khi tôi đã có 2 bài viết về cuộc di tản nầy, 2 bài với tổng cộng hơn 12 trang.Bây giờ tôi phải rút từ 12 trang xuống còn 2 trang.Vì tôi chưa nhận giấy giải ngũ, nên cấp trên ra lệnh là tôi phải thi hành,có gì khiếu nại sau. Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra, anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá...Nhưng dù gì thì lúc lưu đày ra Bắc,tôi và ảnh cùng chung đội rau, tại trại tù Hà Tây, mấy năm trời vui buồn có nhau,...Vậy là tắt lửa, vô khỏ computer liền may ra mới kịp.
*

Xe chầm chậm ngang qua cổng Quân Đoàn, mới hơn 6 giờ sáng, trời lành lạnh sương mờ...Hình ảnh người lính gác cổng trong tư thế tác chiến, không bao giờ phai mờ trong trí tôi, mỗi khi có dịp hồi ức lại, ngày giờ năm tháng mà tôi củng đồng đội chung đơn vị, phải rời bỏ quân đoàn, ra đi mà lộ trình không biết phải đi về đâu? Không nhận bất cứ mệnh lệnh nào củă một cấp trưởng, ra đi chỉ là việc tự phát, thấy đơn vị bạn bỏ đi .. cũng đi theo, chỉ vậy thôi .
Là một đơn vị trừ bị cho vùng hai chiến thuật, các toán Chiến tranh chính trị hành quân, thường xuyên tăng phái cho đơn vị bạn. Đơn vị 201CTCT của tôi vừa từ Kon Tum về hậu cứ quân đoàn, khoảng 10 ngày trước khi di tản, đang công tác tăng phái cho Biệt Động Quân tại B15, khi Biệt Động Quân rút đi, đơn vị tôi tự động rút về Pleiku, trong thành phố KonTum lúc bấy giờ, loa phóng thanh ra rả... Lệnh Đại Tá Tỉnh Trưởng, cấm quân nhân ra khỏi tỉnh với bất cứ lý do gì... Là đơn vị tăng phài, nên đoàn xe của Đại Đội 201 qua cầu Dakpla dễ dàng...
Về quân đoàn, doanh trại tiểu đoàn đóng cạnh truyền tìn, có một đêm, giặc pháo ngay vào quân đoàn... Tin tức xấu lan truyền cùng khắp, kể từ khi Ban Mê Thuộc tạm coi như thất thủ...Buổi sáng trước ngày di tản, Trung úy Quế, ban 3 Tiểu Đoàn, dừng xe gắn máy trước sân tiểu đoàn, anh cho biết là hầu hết các đơn vị trong quân đoàn đã di tản, chỉ còn thiết giáp, truyền tin và mình ...
Anh em xôn xao bàn tán, tiểu đoàn như rắn mất đầu, vị tiểu đoàn trưởng bay đi đâu mất... Trước khi đi, người còn dặn lại tiểu đoàn phó trông coi tiểu đoàn, ông bận đi họp ở quân đoàn... Tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng ...Tôi thì cũng từ Sài Gòn ra được gần 5 tháng ... Cũng đều từ Tiểu Đoàn 50 CTCT thuyên chuyển về đây.
Đêm đó, tất cả quân nhân trong đơn vị không ai ra lệnh, tự động quay quần bên nhau, ngủ ngoài sân... Hình như ai cũng sợ đơn vị ra đi bất thình lình, mình bị bỏ lại..
Sáng sớm, tiểu đoàn phó cho lệnh phá kho, anh em được thêm khá nhiều lương khô, cũng như đạn dược..
Tôi thấy thương cho người lính gác cổng quân đoàn vô cùng... Thượng phiên không biết có người thay không? Điếm trưởng không biết có còn không? Quân phong, quân kỷ, trong những ngày sau cùng, giết rất nhiều quân nhân không dám tự ý rời đơn vị...
Mấy chiếc M48, còn thật mới đậu rải rác gần cổng .. Nòng súng buồn bã chỉa xuống đồi ... Xe qua khỏi cổng, trên ghế trưởng xa, tôi còn ngoái đầu nhìn lại cổng quân đoàn, hình như tôi linh cảm .. đây là hình ảnh cổng quân đoàn mà tôi được nhìn lần cuối..!
Con đường Hoàng Diệu, và nhiều con đường khác trong thành phố, dù còn sương mờ, dù còn quá sớm để bắt đầu một ngày mới ... Vậy mà đường nào cũng rộn rịp, xe cộ đủ loại, xe nhà binh nhiều nhất.. Gương mặt mọi người đều mang nét " giới nghiêm", hình như trong đầu mọi người đều mang nhiều thắc mắc mà chẳng ai giải đáp giùm cho...
Đoàn xe của Tiểu Đoàn 20 , sau khoảng nửa giờ ngừng trên đường Hoàng Diệu, để nghe ngóng tình hình..Vị tiểu đoàn phó ra lệnh lên đường theo sau đoàn xe quân cảnh vừa chạy ngang.. Xe chầm chậm theo về hướng Hàm Rồng.. Tôi nhìn rạp Diệp Kính một lần cuối..Cũng như tôi đã nhìn trường trung học Pleime, khi xe từ quân đoàn ra tỉnh..Pleiku không phải là quê hương... Nhưng là đất của quốc gia, bỏ đi thì lòng nào lại không luyến tiếc...!
Tôi nhìn phía trước, tôi nhìn phiá sau ... xe đâu mà nhiều quá, xe lô bồi, xe nhà, xe đò, các loại xe quân đội... rồng rắn chầm chậm bò đi. Gần tới Hàm Rồng, xe trước rẽ phải, băng lề chạy cày trên đất cỏ... một khoảng khá xa mới thấy lờ mờ dạng một con lộ... mà có lẽ từ lâu không người qua lại.
Lính trên xe nhiều người biết... Con đường nầy dẫn đến Phú Bổn... Đoàn xe vẫn êm ả chạy, chưa thấy gì là nguy hiễm, chưa nghe tiếng súng ..
Xe qua Thung Lủng Hồng... Rải rác một vài chiếc GMC bị lật.. vài xác quân nhân nằm sãi tay bên ba lô súng đạn.. có lẽ tại nạn ...Rồi đoàn xe rồng rắn cũng tới được Phú Bổn...Lính gốc miền Nam có vẽ vui vì được về Nam, dù trên mặt vẫn đầy nét lo âu ... Lính người địa phương, mặt mũi đâm chiêu vì chuyền đi bất ngờ... xa người thân xa vợ xa con...
Đêm Phú Bổn tương đối an toàn, Trung Tá Lò văn Bảo củng vài cận vệ.. đi bộ qua từng xe di tản, an ủi đoàn quân.. ..
Rồi lần lượt tới Phú Túc, tới Củng Sơn, tới bờ sông Ba...
Có những khúc xuyên rừng, công bình ủi dường, đốt lửa cháy rực, Biệt động quân, súng cầm tay dàn an ninh hai bên đường rừng, nhiều em lính quá trẻ, tuổi chưa tới 20.. Họ lặng lẽ cầm súng trong thế sẵn sàng chiến đấu... Không biết họ có nghĩ gì về đoàn quân đang xuối Nam, và thân phận của người lính an ninh đoạn hậu rồi sẽ ra sao?? Một sự bỏ rơi tàn nhẫn quá...!!
Tôi thấy xa xót trong lòng khi nhớ tới những người lính trẻ nầy... Hình ảnh hào hùng đó khó phai mờ trong tôi .
Từ bờ bên kia Sông Ba theo đập Đồng Cam về Hiếu Xương mới là đoạn đường đầy máu.... Biết bao nhiêu xác quân nhân chết trong tư thế dơ tay đầu hàng, bọn quỷ người, từ phiá sau bắn tới đoàn lính thất thế đã đầu hàng... trong đám thi thể nầy có Đại Úy Klang thuộc tiểu đoàn 20CTCT. Đập Đồng Cam ngâp tràn xác chết, xác dân lẫn lính, khi trời kêu ai người đó phải dạ.. Chứ làm sao cải được. Đoàn xe chạy sát bên nhau, người đi bộ khít bên nhau .. Phiá trên núi, nơi mà ngày trước quân đội Đồng Minh Đại Hàn đã xây nhiều công sự phòng thủ, giữ an ninh con đường 7B nầy, bây giờ bỏ hoang, cộng quân chiếm đóng, từ trên đó, cứ tà tà bắn xuống đoàn người ... bia di động!!
Khi sắp tới quận Hiếu Xương, tin Thiếu Tá Hải tử thương, người của sở 2 liên lạc ( Nha Kỷ Thuật) vị sĩ quan trẻ tuôi, kinh nghiệm trận mạt đầy người, đang trực tiếp chỉ huy thuộc cấp mở đường máu, xe của ông bị 1 trái B40... Tin nầy đã gây bàng hoàng xúc động, cho hầu hết quân dân trên đường di tản
Buổi chiều , trời đã nhạt nắng, tiếng súng đã dịu đi nhiều ... Lá cờ vàng thân thương, được một anh lính địa phương của quận Hiếu Xương phầt bay chào đón đoàn quân di tản .
Dân quận Hiếu Xương đứng đầy hai bên đường, hôm đó là ngày rằm, chén cơm, cái bánh, trái chuối, điếu thuốc, được người dân ần cần trao tận tay người lính...
Tôi nhận một chén cơm, với đôi đũa, có tàu hủ kho tương ... từ tay một cố gái trong tuổi đôi mươi, ăn vội thật ngon, nghe cay cay khoé mắt, lần đầu tiên trong đời lính, tôi cảm nhận được tình quân dân thắm thiết, tình dân đối với lính Cộng Hòa.
Lịch sử dù đã sang trang .. Nhưng sự thật bao giờ cũng phải trả lại sự trung thực cho lịch sử, ai trách nhiệm về việc ra lệnh cuộc rút quân nầy... Sinh mạng người lính, nói đúng ra , là sinh mang của thuộc cấp ... sao ai đó nỡ lòng nào, bỏ con mình trong biển lửa... bao nhiêu oan hồn trên tử lộ 7B... Vẫn còn oán hờn vất vưởng... Bao giờ cờ xưa dựng lại .. Có ai nhớ lập đàn tràng cầu cho sinh linh siêu thoát ?!
Những cái chết, lẽ ra phải hào hùng, trả đền ơn sông núi ..Thì họ hình như bị bức tử, chết mà không biết mình chết cho ai, cho mục đích gì?
Cầu mong vong linh quân dân cán chính tan thây, nát thịt trên con đường lộ máu, vì sự tính toán sai lầm của cấp lảnh đạo, sớm siêu thoát.. Thượng Đế, Chúa, Phật ở xa người quá... không biết có thấu hiểu nỗi lòng của người lính Việt Nam Cộng Hòa, cuộc chiến tàn đã bao năm rồi mà vết thương đau vẫn còn như mới ngày hôm qua.

Thy Lan Thảo .
( Viết tại Kỳ Đà Động ... ngày 9/9/2012 )

Sonk
#11 Posted : Sunday, July 30, 2017 10:38:23 AM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
Sonk
#12 Posted : Sunday, July 30, 2017 10:42:56 AM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)



ẢO THỰC CHUYỆN ĐỜI
-ss-


Những ngày còn học tiểu học, tôi vẫn thường say mê đọc sách. Những cuốn sách thường xuyên có trên tay tôi. Cho tới bây giờ hơn 50 năm, tôi vẫn còn nhớ rất rõ, không những chỉ nhớ tên quyển sách, tôi còn nhớ cả những tấm tranh minh họa in trong đó.
Một quyển sách giáo khoa mà cho tới bây giờ, tôi vẫn còn cho là quyển sách giáo khoa rất tuyệt vời, là quyển sách để dạy bậc tiểu học sơ cấp rất tốt. Vì nội dung trong đó, thể hiện được mọi tình cảm của con người, tình gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình bạn bè, ruột thịt tình thâm...
Thời tôi học tiểu học, tôi không được diễm phúc học những điều hay, lẽ phải trong quyển sách nầy. Tôi chỉ nhìn thấy nó hiện diện trong tủ sách gia đình, và tự tôi tìm đọc nó, để rồi say mê, đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Quyển sách có lẽ của chị Hai, hay của anh Ba tôi học. Trông hình dáng đã có nhiều hoen ố, giấy mỏng nhìn có vẻ dễ rách, nên khi đọc phải ngồi vào bàn cẩn thận... Đó là quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư
Quyển sách thứ hai mà thời tôi học lớp ba, Ba tôi có mua cho tôi học, đó là quyển Việt Ngữ Độc Bản. Những giờ rỗi rảnh trong ngày, tôi nghiền ngẫm say mê đọc những bài văn, bài thơ, mà lúc bé tôi rất khâm phục tác giả, đã viết nên những áng văn nầy… Cũng như những họa sĩ đã vẽ nên những bức tranh minh họa... Tôi thuộc lòng bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ và bài “Anh Hùng Vô Danh” mà tôi không hiểu tại sao lúc bấy giờ lại ghi tên tác giả là VÔ DANH. Cho đến khi sang Mỹ, tôi mới được biết tác giả "Vô Danh" ấy là Đằng Phương, bút hiệu của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy

Rời bỏ quê hương đã hơn hai thập niên, nhưng hình ảnh quê nhà, vẫn không phai mờ trong tâm trí của tôi. Cảnh của Sài Gòn, cảnh của Pleiku, KonTum, Cần Thơ, Sóc Trăng, Mỹ Tho,Long Khánh, Biên Hòa, Huế... Cảnh của Trung tâm huấn luyện Quang Trung, liên đoàn A, cảnh của Trường Bộ Binh Thủ Đức, của trại tù Huyện Tây Gò Công, Trại tù Mỹ Phước Tây, Cai Lậy, trại Hà Tây, trại Nam Hà... có dịp hồi ức, là hiện lên thật rõ ràng như thực tại tôi đang sống ở đó...
Gò Công nơi chôn nhau cắt rốn và Sài Gòn là nơi tôi đi học và đi lính ... đã để lại trong ký ức tôi, biết bao nhiêu là kỷ niệm. Nhất là Sài Gòn. Với 11 quận nội thành và 6 quận ngoại thành ... tôi đều có ăn ở, sống ở đó với thời gian ít nhất, cũng phải 2 tháng trên mỗi quận.. Nên đường đi nước bước, quán ăn, dân tình v.v. tương đối tôi biết rất nhiều...
Nhưng khi xem qua hình ảnh, qua video từ Việt Nam gởi qua, tôi thấy lòng mình như hụt hẫng! Thấy mất mát.. Thấy tiếc nuối ... Bởi những hình ảnh thân thương trong ký ức, trong kỷ niệm của tôi đã không còn nữa ....
Đời bao giờ cũng vẫn là, cảnh vật đổi
sao dời... Nơi quê nhà, ngôi chợ, hồ bơi, trường tiểu học, nơi tôi mài đủng quần suốt 6 năm, bây giờ đâu còn nữa?! Cảnh cũ không còn, thì làm sao, tôi tìm lại được kỷ niệm của ngày xưa..? Nhất là đọc các bài báo, của các tác giả từ trong nước gởi sang, như Sài Gòn Cô Nương, Đoàn Dự, Văn Quang... viết về Sài Gòn, viết về Việt Nam ... Tự dưng lòng tôi thấy buồn man mác...
Giặc Bắc vào Nam phá tan hết đạo đức, văn hoá... Chẳng những bán nước, buôn dân, mà còn làm mất đi cái nét đẹp, của Hòn Ngọc Viễn Đông ngày nào… Ngay cả cái tên Sài Gòn thân thương cũng bị đổi, thay vào đấy tên của một gã lưu manh, điếm đàng… Những chữ như xin lỗi, cám ơn, hầu như biến mất trên miệng người Sài Gòn, mà thay vào đó bằng thứ chữ bẩn thiểu. hạ lưu, mà dân dã quen gọi là tiếng Đức, tiếng Đan Mạch...
Ở đây, cuối tuần có chút rỗi rảnh, tôi thường hay cầm phone gọi thăm bạn bè đồng hương, để có dịp nhắc lại chuyện quê nhà, cảnh cũ người xưa, mà đã có rất nhiều nhân vật cùng thời, nay đã hoá ra người thiên cổ... Anh Lộc, nhà ở xóm Kho Muối, mà ngày xưa còn bé, tụi nhỏ chúng tôi thường gọi là anh Mi Sên, lớn hơn tôi khoảng 8 tuổi. Trong nghiệp lính, Mi Sên là đại đội phó đại đội Quân Cảnh Tư Pháp Mỹ Tho. Mỗi lần tôi nối phone được với anh, thì cuộc điện đàm kéo dài ít nhất cũng một giờ. Tôi tuy biết nhiều về Gò Công, nhưng chỉ biết nhân vật trong thời của tôi. Còn lớp lớn hơn ở thế hệ của anh, tôi chỉ biết chút chút, nên tôi theo ảnh muốn .. hụt hơi! Thôi thì Ông Đốc nầy, bà Phán kia... Người đẹp một thời Gò Công như chị Nguyệt (Nguyệt Cò Mi Linh, còn một hỗn danh nữa là Nguyệt Urago, từng một thời được trường Trung Vương tuyển làm Bà Trưng ngồi trên lưng voi) .. Từ nhân vật tới địa lý, rồi bàn qua sách vở…
Chỉ cần đọc kỷ những bài viết trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư hay Việt Ngữ Độc Bản, người đọc sẽ tìm thấy những bài học về đạo đức, về giao tế, về tình người. Thí dụ như chỉ cần đọc bài "Ba Anh Em Nhà Họ Điền", thì đâu ai cần phải bảo ai “anh em ruột thịt phải thương yêu nhau”... Đọc bài "Vườn Cây Biết Đi", thì biết về “cách ăn ở vệ sinh”…v.v và v.v… Trong bài “Tình Chị Em” trong bài có tranh minh họa mà tôi nhớ hoài.. Người họa sĩ vẽ hình rất linh động, vẽ một ông lão râu dài, ngồi chụm lửa củi, sắc thuốc cho chị, bị gió thổi cháy râu. Con cháu đâu không chụm mà bắt lão già làm.. Thế mới thấy tình em thương chị. Đọc bài "Không Đâu Đẹp Bằng Quê Hương", vào năm tôi học nhiệm ý ở VK, cô Châu có cho dịch bài nầy ra tiếng Anh, nên tôi nhớ rất kỷ.. Hình ảnh một người trung niên đang đi trên con đường làng. Người nầy đã từng đi khắp đó đây... Nhưng khi trở về thăm quê cũ người đã nhận xét: “Không đâu đẹp bằng quê hương” ... Bây giờ sống ly hương, tôi rất thấm thía câu nầy, nhất là khi nhìn lại cảnh xưa … Chớ bây giờ có về lại .. Chỉ nhìn thấy lá cờ máu là đã thấy khó chịu trong người! Ví như bây giờ, nhìn ngôi trường mới cất đó, dù có khang trang, có tráng lệ ... Nhưng kỷ niệm của tôi làm sao tìm thấy ở đó được...?! Ôi, tạo hoá gây chi cuộc hý trường?!?!
Những năm tôi học trung học, anh Ba tôi mua về quyển sách “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam. Tác giả gốc miền Nam nầy, tôi rất thích. Bài "Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư" của ông, lúc xưa tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần.. Lòng cứ tấm tắc ngợi khen, tác giả đã trình bày cho người đọc thấy được giá trị của quyển sách giáo khoa nầy. Nhưng sau ngày sập tiệm, tôi biết ông thân Cộng. Lòng tôi quý trọng ông giảm mất rất nhiều.
Những tháng ngày trong lao tù nghiệt ngã của giặc Cộng... Những năm đầu đói meo râu… Đêm nằm thoi thóp đói… Chốc chốc uống một ngụm nước để tìm cảm giác no... Nằm xuội lơ như thây ma.. Chẳng buồn chuyện vãn.. Giặc Cộng cũng biết, nếu để tình trạng nầy kéo dài... chẳng bao lâu tù sẽ chết hết vì đói...
Nhờ vậy, nên cũng là dịp, để chúng tỏ ra chế độ luôn khoan hồng nhân đạo, bằng cách chúng cho gởi quà thăm nuôi từ 1 quý (3 tháng ) 3 kilô lên 10 kí lô và cho thân nhân trực tiếp đến trại thăm nuôi. Kể từ đó Đại Úy Quang và nữ Trung Úy Phấn của trại tù Hà Tây, là những tên quản giáo coi việc thăm nuôi nầy, như chuột sa hủ nếp ... Thôi thì biết bao nhiêu quà cáp, tiền bạc đút lót của thân nhân, để đựơc gặp chồng, gặp con lâu hơn… Ở đâu cũng vậy, đa kim ngân là phá luật lệ, nhất là chủ trương của người Cộng Sản! "Không tơ hào cây kim sợi chỉ" … Mấy cái thứ lẩm cẩm đó mà lấy làm gì cho mang tiếng, họ chỉ lấy vàng, lấy tiền thôi...!
Phú quý sinh lễ nghĩa, Cộng Sản nhốt tù, người nhà nuôi tù.. Ăn no đủ, những thây ma hôm nào nay phục hồi công lực. Đêm đến, trong phòng ồn ào hơn, vui hơn.. Thôi thì sòng bài, phòng trà, kể chuyện Kim Dung, cờ tướng, xem bói bài, tử vi, châm cứu ... tụm nhau từng nhóm từng nhóm. Khói thuốc lào mịt mờ phòng. Mấy năm sau cùng tôi về đội rau, do anh Trung Tá, trưởng E vùng 2 làm đội trưởng. Với hầu hết sĩ quan có máu mặt lúc đương thời như Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, trưởng D, trưởng F, sĩ quan cấp Tá... tôi là thằng tù có cấp bậc bèo nhất đội, cũng như tuổi tác nhỏ nhất, nhờ vậy, tôi được các chú, các anh thương mến.. Nhớ trong những buổi họp đội, khi tôi phát biều: “Thưa các anh em ..." là bị rầy liền: "Ở đây ai em mày vậy mậy?" Nhớ lại tôi cười hoài.. Ở tù cũng có nhiều cái vui...
Tình cảm giữa con người đối với con người, không có tình nào thắm thiết bằng tình bạn tù, còn được gọi là tình đồng cảnh... Anh em tuy cùng huyết thống, bạn học tuy cùng thầy cùng bạn, bạn lính tuy cùng sống chết bên nhau ... Nhưng thời gian gần gủi nhau, làm sao bằng cảnh chung tù… Lúc nào cũng cạnh kề nhau, củng ăn, cùng ngủ, cùng lao động, khổ cực, vui buồn đều có mặt bên nhau… Vợ chồng yêu nhau tha thiết, mà thời gian ở bên nhau cũng không thể so bằng bạn tù... Thậm chí thằng bạn tù nằm kề bên, trở mình là mình có thể biết, nó sẽ làm cái gì tiếp theo... Những ngày có thư nhà, đêm đó hầu như mọi người buông mùng sớm.. Vô mùng không phải để ngủ, mà vô mùng để tìm sự yên lặng.. Để đọc đi đọc lại nhiều lần thư của vợ, của con, của Cha, của Mẹ của anh em bè bạn trong ánh sáng rất nhá nhem. Rồi từ những ý trong thư, mà suy, mà diễn ra cảnh sống ở nhà... Có khi đang nằm yên, chợt nhỏm dậy, khều thằng bạn, góp ý một câu gì đó… Hay bỏ nhỏ một tin tức gì đó, chẳng hạn 2 tháng 9 sắp tới có đợt thả, Mỹ sắp trao đổi tù binh, mà trại chuyển tiếp đang thành lập ở Vũng Tàu ... v.v.

Những lá thư nhận được trong tù, thường được anh em rất trân quý, xếp cất cẩn thận, có dịp là lấy ra đọc lại, bởi nhìn chữ viết như thấy lại người thân... Tôi thường bị anh em so bì:
- Thằng Mỏng độc thân mà lần thư nào đến, nó cũng nhận được đôi ba lá thư ...
Bởi vì ngoài tình thương gia đình, tôi còn có nhiều bạn bè thân thiết, từ bạn học cho tới bạn lính, nên nhận thơ khá nhiều hơn các bạn tù khác. Nếu có thêm một vài tấm ảnh, kèm trong thư, càng quý hơn nữa... Nhiều bạn tù lớn tuổi nhìn ảnh con, nằm nhìn cả buổi không chớp mắt, mắt có chớp chăng, là để cho dòng lệ thương nhớ, âm thầm lăn trên đôi má hóp ...

Trung Tá Nguyễn Vĩnh Thiệp, nguyên chỉ huy trưởng trường Cây Mai,xuất thân khóa 10 võ bị, có một khoảng thời gian nằm cạnh tôi, lúc ở đội 3 rau xanh. Mấy líp rau của ông cạnh mấy líp của tôi, nên khi nghỉ xã hơi, ông thường chuyện vãn với tôi. Ông đọc không biết bao nhiêu lần thư của con gái ông. Tôi nhớ hình như con ông chưa tới 10 tuổi. Ông cho tôi xem thư mà gương mặt ông rất vui... Ông lấy vợ muộn, nên con còn quá nhỏ so với tuổi ông.
Trung Tá Cung, trưởng D4 Cảnh sát Quốc Gia, cho tôi xem thư của thằng cháu nội:
- Mỏng, coi nó viết nè! “Nội cứ an tâm nha nội đừng lo gì cho tụi con hết …
Ông nói thêm:
-Mẹ họ nó, vượt biên không thoát, không bị bắt là may, đang sống rày đây mai đó trốn tránh, vậy mà bảo nội an tâm đừng lo cho nó ...
Tôi còn nhớ hình ảnh bác Năm Cung .. Ông vấn điếu thuốc, bập lửa, mắt mơ màng nhìn xa xăm... Tôi nhìn thấy qua hình ảnh của ông, một con hổ nhớ rừng...!
Trong một tập thể đông đảo, dĩ nhiên không tránh khỏi có những con sâu, những con sâu mang dòng máu phản bội, quen cảnh đón gió trở cờ! Những con sâu nầy thuộc đủ mọi thành phần, từ lính trơn đến úy, tá, tướng… Từ dốt trất cho tới cử nhân, cao học, trẻ có, già có, văn sĩ, nhạc sĩ đều có cả ... Nhưng niềm vui chung cho tập thể người quốc gia vẫn là đại đa số anh em luôn kiên định lập trường, thường thì sống yên lặng trong tư thế “nín thở qua sông..”
Bây giờ nơi xứ lạ quê người, những con sâu đó, trở thành những con chó ghẻ, bị anh em đồng cảnh năm xưa khinh thường rẻ rúng…"Con đường anh đi đó, đúng hay sai anh...?" Có nhiều người dễ tính, bảo nên tha thứ, quên đi lỗi lầm nhẹ dạ, trong trại tù của họ. Không, với tôi là không! Phải nhớ và nhớ thật rõ, để lấy đó làm một bài học cho con cháu mai sau.. Lấy tên của những con sâu nầy mà chỉ cho con cháu biết, đó là những tên hèn.. Nghiêm khắc hơn một chút, những con sâu nầy là những tên phản quốc!
Hơn tám năm trong lao tù Cộng Sản, lưu đày từ Nam ra Bắc, với quá trình đen tối nhục nhằn đó, tôi đã đổi những năm tháng sống trong địa ngục, để lấy 4 vé phi cơ bay sang Mỹ cho cả gia đình 1 vợ 2 con của tôi. Sự trao đổi nầy có mắc rẻ gì không? Với tôi, tôi thấy cũng cân bằng! Vượt biên bằng đường biển hay đường bộ, cũng đều lâm vào cảnh nhất chín nhì bù... Sinh mạng con người như chỉ mành treo chuông... Thì với hơn 8 năm, lao động khổ sai, bệnh tật không có thuốc men, ăn uống thì quá thiếu thốn.. Bọn Cộng Sản muốn biến con người từ hàng người xuống hàng thú vật... Thì cái chết cũng sẽ đến, với người tù rất dễ dàng... Được ngồi trên phi cơ, bay tới một quốc gia có nền văn minh, vào bậc nhất nhì trên thế giới... cũng quân bằng thôi! Chẳng lệch cán cân về cho bên nào cả...
Trở lại việc sách vở, trại tù Hà Tây là trại tù trung ương, rất gần Hà Nội, nên trại thường được nhiều phái đoàn ngoại quốc đến thăm. Vì thế, hình thức xây dựng trại trông khang trang sạch sẽ. Mỗi buồng tù ở đều có sân, có hồ tắm, có nhà ăn. Sân trại có hội trường lớn chứa tới ngàn tù, có tủ sách trại ..
Mỗi chiều khi vô “chuồng”, anh em muốn đọc sách phải ghi tên, rồi đội trưởng đi lảnh sách về phân phát... Tôi thường khai bệnh, trốn làm ở nhà đọc sách. Có người thấy đọc sách VC đã dè bĩu: “Đọc làm gì sách của tụi Vẹm!?” Nhưng tôi thì nghĩ, phải đọc cho biết chứ! Những tác giả của các đầu sách khá quen thuộc với tôi như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận... Rồi những sách về chính trị, phải đọc những tác phẩm của Cáo Chủ để biết người ta muốn cái gì! Ngày còn “mài quần” trên ghế nhà trường, tôi rất thích thơ của Tế Hanh, của Huy Cận, của Xuân Diệu... Nói chung là của những tác giả tiền chiến. Nhưng bây giờ, thân trong tù tội, nước mất nhà tan... Đọc lại những tác phẩm của những tác giả, mình yêu thích năm xưa... Tôi thất vọng quá! Còn đâu nữa những đêm vàng bên bờ suối…!? Còn đâu nữa những câu thơ tình ướt át ngọt ngào, mà đã thay vào đó những câu vè, câu khẩu hiệu tuyên truyền rẻ tiền, nhất là quyển sách dị họm nhất "Vừa đi vừa kể chuyện" của tác giả Trần dân Tiên...?! Gồm nhiều bài rời... ca tụng Cáo chủ...Thôi thì đủ hình thức ca tụng.. Tên tác giả Trần Dân Tiên sau nầy tôi mới biết, Tiên là Cáo chủ!!! Thật tôi muốn nôn mữa...!!! Một kẻ kỳ quái! Tự mình viết bài khen mình!
Lúc ra tù, về sống ở Gò Công sau gần 3 năm quản chế, tôi lên Sài Gòn ở với người cô. Nhà cô tôi ở cạnh nhà thờ “Họ Bình Hoà”. Thằng em họ ở chung nhà làm nghề lái sách. Nó là lính giải ngũ (khóa 9/68 TĐ), dạy học ở trường Mù trên đường Trần Hoàng Quân. Thằng em kiêm luôn nghề lái sách... Nên tôi lại có dịp đọc sách. Đặc điểm của sách VC là trình bày hình thức quá xấu, giấy xấu, nhiều lỗi chính tả... Từ truyện ngắn, truyện dài, cho tới thơ phú, đều viết với mục đích tuyên truyền.. Khó tìm được quyển nào viết bằng thực ý cá nhân... Đọc rất dễ nhàm chán... Chỉ có một quyển truyện ngắn, quyển "Ngọc Lan", (rất tiếc tôi quên tên tác giả), tôi đọc mà cảm thấy rung động theo từng trang chữ. Tôi chuyền cho chị tôi xem và chị cũng đồng ý với tôi. Còn lại hầu hết, các tác giả hầu như gượng gạo, gò bó trong hướng viết, nên chẳng có quyển nào để lại cho người đọc, những cảm giác thích thú, cảm thông...Vậy mà khi cưỡng chiếm miền Nam, chúng đã nhẫn tâm đốt hết sách hay. Theo sử ký, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, đã ra lệnh hủy hết sách vở của Khổng Tử, của các nho sĩ, như Tứ Thư, Ngũ Kinh.. Thì đây là lần thứ hai trên thế giới, những sách vỡ có giá trị ở miền Nam VN đều bị đốt sạch khi Cộng Sản cưỡng chiếm... Rất tiếc nhiều quyển sách rất có giá trị, vượt thời gian nay trở thành tuyệt bản.

Để rồi nơi đất khách quê người... Việt Nam tụ lại với nhau, phát triển khu thương mại... Có nhà xuất bản tiếng Việt.. Có báo sách tiếng Việt… nhà in chữ Việt... Ngoài những tác giả tên tuồi sáng chói ngày xưa, lại có thêm rất nhiều cây bút mới... Trăm hoa trăm sắc… Họ là những người lính, họ là công chức ... Ngày xưa bận bịu hành quân, bận việc công sở, không có thì giờ viết lách, qua được xứ tự do... ngòi bút của những người lưu vong nầy, được dịp trào ra chữ... Các tác giả mới viết rất hăng say, viết dưới mọi thể tài .. từ chính trị, tình yêu, tình cảm thiêng liêng với quốc gia dân tộc.. Khá nhiều bài bút ký, hồi ký .. gây nhiều xúc động cho đọc giả...
Những ngòi bút cũ, mới nầy đã góp thành khu vườn hoa nghệ thuật. Với hàng ngàn thức hoa tươi cỏ lạ, chứ không như những nhà văn trong nước, phải vào trường dạy viết văn, học cách viết văn, để ra trường viết đúng theo khuôn sáo mẫu mực, mà đảng đã đặt để ra,....
Đất nước Việt Nam mình, suốt khoảng thời gian dài trong lịch sử... Hết bị ngoại xâm, lại bị nội chiến... Thời tan tác nhất là thời Minh thuộc. Tên Hoàng Phúc, tên thực dân thâm độc nhất, trong đoàn quân đô hộ nầy, thuộc hạng người “trên thông thiên văn, dưới rành địa lý”, chẳng những giết nhân tài, thu sách quý mà còn trấn yễm những thế đất vượng phát của ta. Chúng cho đốt sách và mang tất cả sách quý về Tàu. Sách thời xưa in ra mỗi lần đâu có bao nhiêu bản, nên những áng văn tuyệt phẩm, của các thi văn gia Việt Nam, đành phải chịu tuyệt bản, chỉ còn truyền lại chút ít, qua trí nhớ của vài người. Rồi thời Cộng Sản, quỷ đỏ từ Bắc vào Nam, thẳng tay diệt trừ tận gốc văn hoá miền Nam.. người cầm bút vào tù… Sách vở, băng nhạc bị đốt phá sạch.. Ai còn tàng trử, thì bị bỏ tù!
Bao nhiêu tử sĩ của hai miền Nam Bắc, trong số đó có biết bao nhiêu là nhân tài... Sau tết Mậu Thân, giặc Bắc ngày càng ồ ạt xâm lấn miền Nam. Chính quyền miền Nam, bắt buộc phải ban lệnh tổng động viên, mới có đủ quân binh để chống lại giặc cờ đỏ... Trong hàng ngũ sinh viên, có biết bao là nhân tài, đành phải xếp bút nghiên... giã từ sách vở. có nhiều người, chưa diện kiến với quân thù, đã phải uất ức tử thương... Những trái đạn của giặc năm nào đã rơi vào trường bộ binh Thủ Đức... Tôi còn nhớ, Anh Bạch, thủ khoa cán sự điện, chết liền tại chỗ...
Một đứa em đồng hương, tạm cư ở Sacramento, dù chưa già, vẫn thích hoài cổ... Đặt mua một cái tủ thờ, loại danh tiếng chính gốc tại làng Tân Niên Trung Gò Công, cùng với bộ lư mắt tre, chở qua Sacramento... Mất tất cả mấy ngàn mỹ kim... Thằng em thích thú lắm. Trong lần nói chuyện qua phone với tôi:
- Anh biết không, bây giờ em thích , em mua tủ thờ, tốn kém bao nhiêu em cũng chịu... Xong đời em... biết đâu con em, lớn lên ở đây, nó nhìn bàn thờ ông bà với lư hương, tủ cẩn.... Nó đâu thấy cái nét đẹp mà mình thấy.... Tủ đứng chật chỗ, nó mang nó bán garare sale lấy năm, mười đồng ..
Nói xong,thằng em thở dài …

Hơn hai mươi năm trên đất lưu lạc, tôi lưu giữ được khá nhiều sách. Rất nhiều quyển có chữ viết đề tặng của tác giả... Có chút thời giờ rảnh, tôi mang ra đọc... Nhớ lời thằng em nói về cái tủ thờ... Tôi chợt thấy tủ sách của tôi... Rồi cũng chung số phận, như cái tủ thờ của thằng em thôi...! Con tôi dĩ nhiên chỉ ọ ẹ đọc được vài chữ Việt... Thì sau đời tôi... Những cuốn sách mà tôi trân quý... Rồi sẽ làm bận công tụi nhỏ... Bỏ một ngày nghỉ mang vất vào thùng rác…!!!
Bước đường tôi đi trên cõi đời nầy, cũng sắp đến cuối đường... Mà con người thì phải có tình cảm vui buồn ... Thời còn trẻ, tôi bị mất cái gì lòng tôi buồn lắm. Vật mất càng quý, tôi càng buồn lâu... Rồi với thời gian sống đời lính, rày đây mai đó, rồi trời sập ... Lê lết thân qua các trại tù, từ Nam tới Bắc... Bạn bè mới ngồi nhậu chung buổi trưa, chiều đã nghe tin tử trận... Ngày trời sập, cả một tương lai mất hết, tôi cũng không có dịp để buồn .... Thì bây giờ, mạng sống của mình, cũng không còn giữ được bao lâu, tiếc làm gì những cuốn sách?! Dù với mình là quý nhưng là thứ vô dụng với con mình... Ngày vui, cũng như dịp may đến trong đời.... Qua phone gặp bạn tri âm, nhắc lại trường văn trận bút năm xưa ... Trao đổi say sưa ... Buông phone thấy hồn lâng lâng thoải mái …
Bây giờ nơi đất khách quê người, tôi có bị mất cái gì ... dĩ nhiên cũng có chút thoáng buồn, rồi tự an ủi ... Như chuyện 30 tháng tư ….

Viết tại Kỳ Đà Động
Mùa bóng tròn thế giới 2014

THỦY LAN VY
Sonk
#13 Posted : Sunday, July 30, 2017 10:45:32 AM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
Trang PNV hôm nay lên quá chậm lại không thay size và đổi màu được .. tại sao??
Phượng Các
#14 Posted : Tuesday, August 1, 2017 9:11:03 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,704
Points: 20,055
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Laptop của PC vẫn bình thường cho trang forum này, nhưng vài website khác thì lên chậm, nhiều khi dùng lâu quá máy mình download đủ thứ nên cần phải clean đó anh Sonk ạ . Không biết các bạn khác có ai bị vậy không ?
Sonk
#15 Posted : Wednesday, January 17, 2018 6:16:48 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)


ĐẬM ĐÀ HƯƠNG QUÊ
*

-Sao con không lấy nón lá của chị con đội cho mát. Trời nắng nóng quá mà con, chai nước mưa mẹ châm đầy liệu có đủ uống không con? Uống xong nhớ để ly chai vào bao ny lon cho sạch nha con…
Mẹ vẫn luôn ngọt ngào, vẫn đôi mắt trìu mến nhìn tôi, với mẹ tôi vẫn là thằng con trai út bé bỏng của thuở nào...
-Được rồi mẹ, đi lao động bây giờ bụng no là quá sướng rồi…Tám năm trong tù con đã quen rồi mẹ., vào nghỉ đi mẹ!
Tôi được giặc thả về đã gần tròn năm, những người tù được thả ra từ các trại tù miền Bắc thường về địa phương không bị quản chế, riệng đất Gò Công nầy, có lẽ tại vì trước năm 1975, là tỉnh đứng đầu trong việc bình định an ninh trên toàn quốc, nên khi giặc về, mọi oán thù đều đè nặng trên đầu trên cổ người của chế độ Sài Gòn.Nên tù Nam tù Bắc gì cũng quản chế hết... Ít nhất cũng phải hơn năm.
Trong thời gian quản chế, thỉnh thoảng trong tuần, trong tháng tôi vẫn thường bị công an khu vực gọi đi lao động, khi thì cạo cờ, những lá cờ vàng được sơn bằng sơn Mỹ trên những bức tường, trên những thân cây to, trên nóc công sở, theo năm tháng vẫn còn rõ nét vì sơn Mỹ quá tốt. khi thì đi đập phá miếu thờ Ông Quan Công, vì trong miếu có bàn thờ Ông Lãnh binh Tấn, những ngày gần tết đi quét dọn lau chùi các công sở, đi làm thủy lợi… Bất cứ công việc gì cần là có mặt đám tù cải tạo quản chế, lần nầy đi đấp sông, con kênh nằm cuối đường từ xóm Cầu Tàu ra, được quy hoạch phóng đường nên thị xã quy tụ một lực lượng hùng hậu, ngoài tù cải tạo quản chế, mỗi nhà góp một công trong việc đấp đường nầy, con kinh dù hẹp nhưng đang thông giòng nước, lượng công nhân dù đông, chia ra làm nhiều dây, móc đất sình từ phía gần bờ chuyền tay nhau rồng rắn mấy chục người một dây, cục đất ra tới tay người cuối chỉ còn bằng cái bánh bao…nên kết quả …
Đã hơn mười ngày, với lực lượng đông như vậy, con đường ngăn nước đã gần hình thành, chỉ còn khoảng 2 thước nữa là con đường liền mặt, và chiều nay là buổi chiều quyết định.
Nhìn con đường ngăn nước được đấp bằng sình, với hàng cọc bằng cây đước đóng lưa thưa, cột được dựng bằng tay, trông rất lỏng lẻo, mấy anh em cải tạo chúng tôi chỉ biết lắc đầu trước việc làm của các đỉnh cao trí tuệ thị xã.
Tôi đạp xe trở lại hiện trường sau 2 tiếng nghỉ xả hơi về nhà ăn cơm. Gửi xe đạp ở nhà chị Loan, người đẹp Cầu Tàu năm xưa, tôi lửng thửng bước đi về hướng bờ sông, gặp Anh Hậu, nguyên chi khu trưởng quận Hòa Bình, Anh Có, thiếu tá phòng 1 sư đoàn 7, chị Rết, trung úy quân đoàn 2 …đã có mặt dước gốc cây bần bên bờ sông, đây là những người cũ quen biết chung phường 2 với tôi, vẫn thường đi lao động chung với nhau…
Những ai có tiền hay có quen biết, thường thường không phải đi lao động loại bất thường nầy, mình nghèo quá đành phải dang nắng vọc sình thôi.
-Ê, chiều nay, buổi chiều cuối của công trình nầy, để coi, con bờ sình nầy sẽ bể nát… Còn khoảng 2 thước, áp suất nước càng mạnh mà đấp bằng sình thì….
Anh Hậu cười lớn mà không nói tiếp
-Ê chút xong về ghé nhà thằng Hiệp ăn bánh vá, nó mời tụi mình hôm qua.Anh Hậu vừa nói vừa nhìn mọi người, Anh Hiệp nguyên là sĩ quan thanh tra của tiểu khu Gò Công.
Trời nắng chang chang, bờ sình hắt hơi nóng lên thật khó chịu, dây chuyền sình của phường 2 phía bên nầy bờ sông, có tất cả hơn mười dây, mỗi dây khoảng trên 30 người, chuyền từng nắm sình hướng về 2 thước còn lại, tôi đứng cuối dây nên nhìn thật rõ, nước bắt đầu xoáy mạnh khi khoảng trống càng hẹp lại. Tiếng cổ động của ban chỉ đạo thị xã oang oang bên tai, qua mấy cái loa phóng thanh treo trên mấy cây bần, tiếng cười đùa của những người lao động tạo nên một không khí ồn ào, bởi làm chuyện không có tiền công, nên mọi người đều làm cho có, làm chiếu lệ, tạo dịp cười giỡn nhiều hơn là chuyền sình, tôi với anh Hậu, anh Có, chị Rết đứng cuối dây luôn râm rang chuyện trò, nhắc chuyện bạn bè năm xưa…
Ầm, một âm thanh khá lớn, hàng cây cọc và dãy đất sình trôi bung theo dòng nước… Tiếng cười, tiếng la, tiếng bước chân lội bì bõm trên sình, hai hình ảnh trái ngược, mặt ban chỉ huy giống như cái bánh bao chiều, mặt mày anh chị em lao động vui ra thấy rõ…
Tôi với Anh Hậu, Anh Có quẹo xe đạp vào hướng nhà đèn, nhà anh Hiệp cất nửa trên đất, nửa trên sông nên rất mát mẻ, bước vào nhà tôi thấy có Anh Hên, nguyên tiểu đội trưởng quân cảnh tư pháp tiểu khu Gò Công, sau màn chào hỏi, chúng tôi quay quần cùng ngồi trên chiếc bàn tròn, kê sát vách đóng bằng lưới B40, bên ngoài sông nước đang lớn, dòng nước lặng lờ với chút sóng nhẹ, lơ thơ vài cây thủy liễu( bần), lá cành đong đưa theo gió,,,mát mẻ làm sao.!
Ba anh Hiệp từng là đại tá thị trưởng một thị xã miền trung,Đại Tá Mãi nhờ đau cột sống được giặc tha về sớm từ trại Nam Hà, cũng đang ở chung với anh, Bác chỉ nằm trên giường, có khách tới thăm bác vui lắm, tôi vẫn thường trò chuyện với Bác… Thường Bác nhắc chuyện ngày xưa với nhiều tiếc nuối. Bác rất thích tôi vì dù chênh tuổi tác nhưng cùng chung trại tù Nam Hà, có nhiều chuyện nhắc nhớ thời trong lao nhục. Những kỷ niệm rất khó quên trong đời.
Anh Hiệp có người vợ đảm đang,Chị ba Phích, chị mua chui bán nhủi rất khá, nên cưu mang luôn cả gia đình, Anh Hiệp có số sống nhờ cung thê, nên thường ngày chẳng phải làm gì hết, cách vài ngày lại tổ chức tiệc tùng mời bạn bè ăn nhậu. Đi lao động anh đóng tiền, người cũ người mới gì anh đều chơi, anh thường nói
-Mình như cá trên thớt, sống trong tay sinh sát của tụi nó, không cho đám công an khu vực ăn nhậu, tụi nó làm khó dễ mất công phiền phức,.!
Gió từ sông thổi lòn qua song lưới, dòng kênh nước chảy lững lờ, thỉnh thoảng có chiếc thuyền tam bản chở củi, chiếc ghe câu của chú Tám bờ Kinh lênh đênh giữa dòng…
Bụng đói, gió mát thổi lòn song, nhìn tô bún trắng nõn, dĩa bánh vá vàng ươm, dĩa rau sống xanh tươi, màu vàng đậm của khế chua, màu trắng xanh của dưa leo bầm, tô nước mắm ớt với những múi chanh, ớt đỏ tỏi trắng lượn lờ, tôi chép miệng nuốt nước miếng, thời mạt vận quen ăn rau cỏ, thấy thịt cá ai không khỏi thèm…
-Mời anh em cầm đũa, hôm nay năm anh em mình ăn bánh vá quê hương..Tôi dô trước một ly, rồi bắt đầu xoay vòng nha...
Anh Hiệp nói xong uống cạn một ly rượu thuốc ngon lành.
-Bánh vá nầy bà xã đặt chiên, nên nhân bánh đặc biệt có cua lột, có óc heo…
Tôi gấp đũa bún, mấy cọng rau, giá, dưa khế, gắp 1 cái bánh vá, dùng tay xé ra làm nhiều miếng, chan mấy muổng nước mắm ớt…từ ngày ở tù về hơn năm, hôm nay lần đầu mới được ăn lại bánh vá quê hương, bột dòn xốp, tôm thịt gan heo ngọt ngào, óc heo béo ngậy, nhất là thịt cua lột, nó ngon béo làm sao! cay của ớt, chua của khế, thơm của rau…tôi làm tiếp chén thứ hai…chỗ thân tình đâu cần chi giữ kẻ.Ly rượu thuốc xây vòng từ từ tới, vừa ăn xong chén bún, dô một ly rượu thuốc nó ngon làm sao…
-Ê cái thằng Hai A đảng ủy gì đó, hai cái bàn chân nó nhỏ xíu mà sao hồi đó mình đi hành quân không bắt được nó, chân cẳng gì giống như bàn chân con nít, mà sao nó chạy giỏi quá?!
-Nhờ chạy giỏi bây giờ nó mới ngang tàng, phách lối..mẹ!
Tiếng anh Hậu gợi chuyện và Anh Cò Hên trả lời
Hai A người của đảng ủy thị xã Gò Công, chỉ huy công trình đấp kênh hôm nay, tên nầy có nhiều mặc cảm với người của chế độ cũ, luôn hạch sách và làm khó dễ khi có điều kiện, sau mấy năm làm việc bây giờ thân hình mập phì, áo quần bảnh bao, tuy có đôi bàn chân dị tật bẩm sinh, đôi săn đal nhỏ nhắn như của em bé lên năm, thế mà vẫn chịu được thân hình trên 60 kílô của Hai A
-Thôi bỏ qua chuyện đó đi, ở đây tai vách mạch dừng, mình nói chuyện khác cho vui đi. Tiếng của Anh Hiệp chủ nhà.
-Lần lao động nầy sao không thấy Anh Sự? Anh Có thắc mắc
Anh Sự cùng khóa 16 Võ Bị với Anh Hậu,Anh Sự nguyên là chi khu trưởng quận Hòa Tân, mẹ anh là chủ chảo bánh vá nổi tiếng Gò Công, là truyền nhân của lò bánh vá chợ Giồng ( quận Hòa Đồng), loại bánh chiên nổi tiếng có mặt đầu tiên tại tỉnh Gò Công, nghề nào cũng vậy, phải có một chút bí quyết mới có được cái ngon đặc biệt của nó, người ngoài có bắt chước cũng không thể so bì được, bánh vá của gia đình Anh Sự ngon là nhờ có bí quyết. riêng.
-Thằng Sự nó ít đi đâu lắm, có lẽ nó đóng tiền nên mới nằm nhà an toàn, chứ dễ gì công an khu vực tha cho nó. À nầy, mấy anh là dân Gò Công chánh gốc, tui chỉ là rể Gò Công nên không biết rành về nguồn gốc cái bánh vá nầy. Anh Hậu tiếp
- Mỏng rành chuyện Gò Công, nói nghe chơi cho vui .Sở dĩ anh Hậu nói như vậy là vì…
Tôi sinh quán, học hành và lớn lên tại Gò Công, tôi có thể biết được nhiều chuyện về Gò Công qua những câu chuyện giữa Ông Nội và Ba tôi, nhưng cũng có rất nhiều cái thuộc thế hệ trước mình không thể nào biết được, nếu không có người trong cuộc kể cho biết. Người Gò Công, người tỉnh khác đến chơi, ai ăn qua bánh vá bún cũng đều khen ngon, nhưng chẳng có mấy ai muốn tìm hiểu cái bánh vá nầy đến từ đâu, ai là người mang nó du nhập vào Gò Công, thường người ta chỉ nhìn cách chiên bánh, vật liệu chiên bánh, để có dịp thực hành, làm phong phú thêm thực đơn gia đình.Cũng có nhiều tác giả đã viết nhiều bài về đề tài bánh vá, nhưng nội dung thường chỉ tả cách làm bánh và cách ăn, cũng như vật liệu làm bánh mà chưa có tác giả nào đề cập tới nguồn gốc cái bánh vá Gò Công.
Tôi có nhiều duyên may, sống trong một gia đình giáo chức, có lối giáo dục người nhỏ bắt chước người lớn…lễ nghĩa ở đời tôi nhìn cách hành sử của Ông Nội của Ba tôi mà bắt chước làm theo. Nhìn anh chị học hành tôi bắt chước học theo, gia đình tôi không khe khắc trong việc theo dõi sự học hành của anh em tôi. Ba tôi và Ông nội thuở sinh tiền vẫn thường đàm đạo, nhắc lại chuyện xưa tích cũ, khen tặng gương trung hiếu, khích bác lũ nịnh gian…tôi lẩn quẩn trong nhà nên được nghe và nhờ có chút trí nhớ tốt nên tôi ảnh hưởng rất nhiều… Chuyện bánh vá tôi nhớ tới Anh Sự, người tự nhận mình lớn lên, nên người, bên chảo mỡ bánh vá, anh là người Gò Công, ra đời làm quận trưởng tại Gò Công, một điều anh vẫn thường hãnh diện.
Thuở trung học, tôi học chung với Tuyết Nga, em gái của anh.Ở Gò Công thường mỗi người ngoài tên cha mẹ đặt còn kèm theo một ngoại hiệu do bạn bè, chòm xóm gán ghép cho .Chẵng qua là vì tên thứ, tên trùng nhiều người nên phải kèm ngoại hiệu cho dễ phân biệt. Ngoại hiệu có thể từ hình dáng bên ngoài như Sang quắn,Nhựt què…, từ ngành nghề, như Chị Loan mắm lóc, vì chị có người mẹ bán mắm ngoài chợ, anh Minh bánh bàn, chị Kiều bánh ích…Vì gia đình như Chị Nguyệt Cò mi Linh vì chị là con Ông Cò Mi Linh,Dung Ba Nữa vì Dung là con gái thầy Ba Nữa, tên thứ thì Năm lửa, Hai néo, Sáu lèo…,…dĩ nhiên Tuyết Nga không qua ngoại lệ đó, cô nầy bị bạn bè gọi là Nga bánh vá, nghe goi là cô phản ứng ngay, cô chửi thôi…tắt bếp. Chính vì hay chửi, ghét ai gọi ngoại hiệu nên Nga cứ bị gọi hoài. Ngày tôi còn đi học,tên tôi có lót chữ kỳ, bạn bè trong lớp ít có trò nào gọi đúng tên tôi, ê Kỳ Đà cho tao mượn cây thước, ê kỳ nhông cho tao mượn cục gom…tôi vẫn tự nhiên như là tên thật của tôi, không bao giờ tỏ vẻ khó chịu, nên dần dần tôi trở lại với chính tên tôi trong khai sinh.
Với 2 chén bún bánh vá, qua 5 vòng xây tua…Rượu đế Bình Ân ngâm chuối hột chín phơi khô, rượu có nồng độ cao uống mau bốc, tiếng cười nói trong bàn râm rang,bé Phi con gái anh Hiệp lại mang thêm một dĩa khô hắc cấy nướng vàng đập mềm với một dĩa nước mắm me dầm ớt trông thật hấp dẫn…
-Ê mỏng! biết gì về bánh vá nói nghe chơi Mỏng, chú có ăn nhiều cũng không mập được đâu. Anh Cò Hên cười cười nhìn tôi
-Dạ thì cũng biết chút chút… Tôi có được duyên may nghe Anh Sự kể về chuyện bánh vá của gia đình anh.
-Ê, làm một ly cho ấm lòng đi rồi kể. Anh Có rót đầy một ly trao cho tôi.Đánh khà một tiếng tay xe điếu thuốc rê, mồi lửa,nhả một hơi khói dài tôi bắt đầu lấy giọng.
-Người Gò Công vẫn thường hãnh diện với món bánh vá, người ta chỉ biết đến chợ Gò Công, cánh chợ hướng đông vào gần cuối chợ,chảo chiên bánh vá đặt ngay trên mặt gạch nền chợ,Một cái bàn hình chữ nhựt chân thấp để vật liệu chiên bánh, khách hàng có thể mua bánh dễ dàng, muốn ngon hơn thì mua sẵn vật liệu như gan heo, thịt nạc, nấm rơm, có khi cua lột, tôm càng, óc heo…đến chỉ nhờ chiên thì bánh vá sẽ ngon hơn nhiều, thành ra cái bánh vá nào bột cũng như nhau, tùy giá tiền mà nhân bánh khác nhau, ngon dở là ở chỗ...tiền
Anh Sự khẳng định tên bánh là bánh vá chứ không phải là giá (Cây giá ươm từ đậu xanh), vì bánh được đổ bằng cái vá, cái vá nầy có lòng vá sâu hơn vá múc canh thường. Người ta giải thích vì bánh có nhân là giá nên gọi là bánh giá, Thế thì bánh xèo cũng có nhân là giá mà sao không gọi,. trong nhân bánh vá có nấm sao không gọi là bánh nấm, bánh tôm, bánh gan…??
-Bà Nguyễn Thị Luốc, người dân còn gọi là Bà Tư bánh vá là vợ của Ông Hương Nhạc Trần văn Tồi gốc người Ba Dừa Tỉnh Mỹ Tho, vì sinh kế chuyển về sống ở Chợ Gạo khoảng năm 1916 thời thế chiến thứ nhất đang ì xèo dữ dội, sinh sống bằng nghề chiên bánh vá, sau đó chuyển về chợ Giồng Ông Huê đâu khoảng thập niên ba mươi. Bà Tư bánh vá có 2 người con, một gái là Trần Thị Vinh, một trai là Nguyễn văn Tại, bà Tư chiên bán bánh vá tại chợ giồng Ông Huê, cô con gái theo phụ mẹ.Năm 17 tuồi, Trần Thị Vinh lên xe hoa với chồng là Nguyễn Duy Hải . Xe hoa không đưa cô dâu về nhà chồng quê ở Vĩnh Hựu mà giữ cô dâu tại nhà vì bắt rể
Nên tuy lập gia đình nhưng Bà Vinh vẫn theo phụ mẹ bán bánh vá…lần lượt Anh Thế rồi Anh Sự ra đời, những bước đi lẩm đẩm của hai anh nầy cũng lòng vòng quanh chảo mỡ bánh vá.Bánh vá Vĩnh Lợi tiếng đồn xa, thuở ấy có nhiều gánh hát nhỏ về xã, đêm quay cót quanh chợ bán vé diễn tuồng, mấy anh hề trong lúc diễu cương đều có nhắc tới chuyện bánh vá Vĩnh Lợi, ăn quá ngon quá đã. ..
Đây là khoảng thời gian nhiểu nhương của đất nước, Cộng Sản quốc tế lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam lập ra mặt trận Việt Minh ( Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh)Với tầm vong gậy gộc , những người yêu nước, phải đi đầu, chết thay cho bọn lảnh đạo núp trong chốn an toàn.Năm 1945 Việt Minh đánh đồn lính (vị trí sau nầy là dinh quận) trong đồn có mặt Ông Cai Tổng Ngữ, coi như chức sắc khá cao của tỉnh, lực lượng Việt Minh quá yếu chỉ cốt đánh gây tiếng vang, chúng đốt phá một góc làng,rồi bỏ chạy, nhà bà Tư bánh vá cháy rụi, cả nhà phải nương náu mấy nhà quen .Người con trai bà Tư cưới con gái Ông Tam Hưng ( Chủ xe đò Mỹ Tho Chợ Giồng.)
Lúc bấy giờ Chú Hải đang đi lính gạc ở Gò Công, đó là khoảng năm 1947, cùng thời bấy giờ có Cai Nhung rồi Đội Nhung đang làm ở Đơ dèm bua rô, đội Nhung sau nầy là Đại Úy Nhung người đi trong chiếc thiết giáp định mệnh từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu trong ngày 2-11 năm 1963, bà Vinh dẫn con theo chồng về Gò Công ở trong trại lính ( sau nầy trại lính được gọi là trại gia binh) trại lính gạc lúc bấy giờ nằm trên con đường trước mặt dinh tỉnh trưởng phía đối diện, đi từ bờ sông về hướng nhà thờ thì đụng miếu tiên sư trước, tới một miếng đất trống ( sau nầy xây trường Trung Học Gò Công ) trại lính đồi diện với tòa án, sau nầy trai lính trở thành trung tâm cải huấn, nơi nhốt tù binh Cộng Sản, và để kiếm tiền sinh sống, bà Vinh tiếp tục hành nghề của mẹ, chiên bánh vá bán tại chợ Gò Công. Như vậy bánh vá có mặt ở Gò Công vào khoảng năm Đinh Hợi 1947,tỉnh Gò Công bắt đầu có hai chảo mỡ bánh vá, một đầu tiên ở Chợ Giồng, và một ở chợ Gò Công. Bánh vá ngon nhờ nhiều yếu tố.Bột dậy, nhưn tươi, để có được đồng tiền lời, cả gia đình phải qua nhiều công đoạn khá vất vả, sau khi tan chợ về, sắp xếp vật liệu đâu ra đó…chiều xuống, cho gạo vô chậu ngâm nước tới 3 giờ sáng đem gạo xay thành bột, gạo ngâm khoảng 8 tiếng đồng hồ, gạo vừa nở, vừa chớm lên men, nên khi chiên, bột sẽ xốp và dòn.Đặc biệt bánh vá bà Vinh chỉ chiên bằng mỡ heo quay, mở nầy chú Hải mỗi sáng đi thu gom ở các lò heo quay, nếu thiếu mới dùng thêm mỡ heo tươi, ngoài bột gạo có pha thêm bột đậu nành, mà muốn biết tỷ lệ pha chế bao nhiêu thì mổi năm cứ đến ngày 30 tháng 2 tây mang 2 con cọp quay đến nhà Anh Sự cúng tổ sẽ được chỉ dẫn tận tình...( Đã bí quyết thì ai truyển cho mà học)
-Thằng Mỏng nầy dốc hết biết, tháng hai làm gì có 30 tây. Tiếng Cò Hên càm ràm…
-Ờ thì trong nghề nghiệp, ai cũng có bí quyết giữ riêng làm của gia bảo, tôi lựa ngày 30 là có ý cho biết bí quyết nầy khó được truyền lại
-Sau nầy cạnh bà Vinh có thêm bà Hai Chuối, bà là mẹ của Anh Tư nước đá, sau nầy Anh Tư lên Sài Gòn, trở thành tuyển thủ quốc gia trong môn đá banh với danh hiệu là mũi tên vàng ( Một thời hai anh Tư và Quới làm nổi tiếng dân Gò Công trong bộ môn đá banh). Bánh vá của bà Hai Chuối không ngon bằng của bà Vinh, vì bà Hai chiên bằng dầu, cũng như công thức copy không hoàn toàn giống như chánh bản...
Sau nầy trong Tăng Hòa( Chợ Cửa Khâu) Cũng có chảo dầu bánh vá, không biết của ai, nhiều người ăn cũng khen ngon.
Hai lít rượu mít ngâm chỉ còn lại một ly cuối cũng là vòng chót của tôi, Anh Hiệp chủ nhà con mắt gần như muốn nhắm, Anh Hậu mặt đỏ như Quan Công, Cò Hên thì ca ử ử bản Tỏ Tình Trong Đêm...
-Ba mua thêm rượu nữa không ba.Tiếng bé Phi ngọt ngào hỏi Anh Hiệp
Anh Hiệp đang lim dim bỗng giựt mình
-Con dẫn ba vô buống đi ngũ, ba hết chịu nổi rồi con ơi Tiếng Anh Hiệp nhừa nhựa kéo dài…
…..
Bây giờ trên đất tạm dung ngồi viết lại mấy dòng nầy, lòng tôi thương nhớ quá, Gò Công quê hương còn đó, anh chị tôi còn đó, mà cờ đỏ cũng còn đó, nên đành thương đành nhớ, buồn nhớ chuyện năm xưa, gọi phone nhắc nhở chuyện quê nhà với một vài người bạn đó là niềm vui cuối tuần của tôi .
Lúc tôi mới thả về, chị tôi có mua cho tôi một cái bánh vá của cô Lan, cô em gái của Tuyết Nga, kế thừa nghiệp mẹ, nhưng nơi chiên bánh không còn đặt ở vị trí cũ, chảo mỡ cũng teo nhỏ lại, chỉ bằng phân nửa chảo mỡ năm xưa, cái bánh cũng nhỏ đi nhiều, dĩ nhiên gan ruột chỉ là những miếng thịt mỏng như lưỡi lam, con tôm thì đang tuổi vị thành niên. Với một cái bánh vá , chị mua cho một ký bún, cái bánh vá nhỏ xíu, hòa trộn với một kí bún, lực lượng hai bên không cân xứng, kệ, tôi ra sau vườn hái ít lá quế, chén nước mắm ớt, lẽ ra phải có dưa leo bầm, cải xà lách với vài loại rau thơm cắt mỏng với ít giá sống, nhưng mà thôi, như vầy cũng quý rồi…Tôi ngồi ăn mà nhớ tới chảo mỡ năm xưa, nhớ đến Chị Lắm lúc đó chị học trước tôi 4 lớp, chị mặc áo trắng, da chị trắng, mặt chị đẹp, bên chảo mỡ bốc khói, trên vĩ, bánh vá vàng ươm, cô nữ sinh duyên dáng nầy đã có biết bao cây si đem trồng trước chảo mỡ…Nhưng mà có cây nào mà chịu nỗi với độ nóng trên 100 độ của mỡ đang sôi? Gò Công có những ngày trời mưa liên tiếp, lò chiên chụm bằng củi, củi ướt khói mịt mờ, nhìn hình ảnh chị Lắm mặt tươi như ngọc. hai con mắt đỏ ửng, nước mắt rưng rưng vì khói cay, ngồi trong làn khói mỏng, một hình ảnh đẹp dễ làm tôi liên tưởng đến truyện kiếm hiệp của Kim Dung, người đẹp Tiểu Long Nữ luyện kiếm tỏa nhiệt bốc lên thành khói trong đêm trăng mờ ảo, chắc cũng đẹp như vầy thôi.Tôi ăn hết tô bún rồi mà miệng vẫn còn thèm và có cảm giác như …chưa ăn, giá mà có được một ly cà phê tráng miệng…
Đã qua rồi cái thời sống trong tay giặc, đất tạm dung đầy đủ quá, nhưng kỷ niệm ai giúp giùm tôi mang theo. Con đường Gò Công, con đường Sài Gòn... tôi còn nhớ như in trong dạ. Về bánh vá Gò Công tôi còn nhớ 4 câu thơ
“ Buổi sáng chợ đông chão mỡ sôi
“Thơm lừng bánh vá khách quanh ngồi
“Mắm pha chanh ớt rau tươi rói
“ Ngon quá nhờ em miệng khéo cười
(Trích trong bài "Gò Công Thương Nhớ" thơ của TLT)
Bên Ca Li, hàng năm tới ngày giổ bà Vinh, Anh Sự cũng có mời thân tình đồng hương tới dự, món chánh vẫn là bánh vá bún rau thơm, Anh Sự cho biết dù chính người trong nhà chiên nhưng bánh vá vẫn không ngon bằng bánh năm xưa, vì bột gạo mua làm sẵn, bột xay từ gạo ngâm có chút lên men bột mới xốp dòn được. còn xay bột, cũng làm được nhưng cực quá vì xay bằng máy xay tiêu, máy xay trái cây.Ở đây làm sao tìm được con tôm đất ruộng còn nhảy soi sói, khi tôm chín thịt ngọt ngào khó tả, làm sao tìm được nấm rơm búp vừa mới rời gốc rạ, đừng nói chi đến con tôm càng xanh để trong rổ, chân tôm càng còn bún tanh tách, con cua lột lót cỏ non, nằm mềm mại, ngo ngoe nhẹ nhàng mấy cái que..…
Thôi thì nhìn thấy bánh vá như thấy Gò Công. Bên nầy Houston tôi làm gì được nhìn thấy cái BÁNH VÁ...chưa có tiệm ăn nhà hàng nào ở đây bán món ăn nầy.
Hai món tuyệt chiêu của Gò công đều không thấy bán ở Mỹ là mắm tôm chà và Bánh Vá

Viết tại Kỳ Đà Động. Quý Thu 2008
( Viết để tặng giai nhân tài tử từng ăn bánh vá Gò Công)

THỦY LAN VY
Sonk
#16 Posted : Wednesday, May 13, 2020 11:32:50 AM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
VIẾT CHO MẸ!

Mẹ ơi! Con nhớ mẹ lắm. Những ngày ở tù về con mới có nhiều thời gian ở gần bên mẹ.Nhất là những năm tháng mẹ bệnh... Con theo mẹ từ bệnh viện Gò Công lên bệnh viện Nguyễn văn Học... Nhà nghèo con chỉ biết lấy tình thương san sẻ nỗi đau đớn của mẹ..cũng như nhờ tấm lòng của bằng hữu tận tình giúp đở gia đình trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu. Con còn nhớ có rất nhiều đôi mắt của bác sĩ, y tá, bệnh nhân và thân nhân chung phòng nhìn con trai nuôi mẹ với cái nhìn đầy thiện cảm, nhất là khi biết con là người tù trở về còn nguyên mạng từ núi rừng đất Bắc xa xôi...
Mẹ ơi! Con rất nhớ những tháng ngày nuôi mẹ bệnh, căn bệnh của mẹ kéo dài mấy tháng trường... Tháng 8, trời Sài Gòn đêm nào cũng mưa, đêm khuya con chờ mẹ ngủ say, con mang quần áo dơ của mẹ xuống khu nhà vệ sinh để giặt giũ, đèn bệnh viện vàng vọt,có những con chuột cống to gần bằng mèo, mình đầy ghẻ, tự nhiên bò qua lại kiếm ăn, có khi chỉ có mình con, khu nầy ban đêm rất vắng, bên cạnh lại là khu nhà xác...Con thức đêm chăm lo cho mẹ mà lòng con rất vui, vì con còn diễm phúc hơn nhiều người là con còn mẹ, con còn mẹ để con được săn sóc mẹ .
Ngày con còn trong quân ngũ, thỉnh thoảng về phép thăm nhà, con cũng chỉ cạnh kề bên mẹ đôi chút, rồi lại ra đi vui chơi với bạn bè, thấy mặt con về là mẹ tíu tít lo cơm nước, mẹ muốn con ăn thật no, vì con về nhà cũng có nghĩa là con ...đi nhậu.Mẹ không cản con được, nhìn con ăn nhiều cơm mẹ vui lắm... Đêm khuya con chếnh choáng về nhà, chưa kịp kêu cửa là mẹ đã mở cho con vào...nhìn lên bộ ván gõ, mùng đã giăng sẵn với gối mền...
Ngày con còn trong trại tù Mỹ Phước Tây, lần nào mẹ xách giỏ thăm con là đêm đó con trăn trở gần tới sáng, thương mẹ già còn cực khổ vì con, để rồi hôm sau đi lao động thật mệt... Hình ảnh mẹ bên hàng rào kẽm gai, với đôi mắt hiền dịu như thương, như xót. tình thương của mẹ dành cho con phát ra từ ánh mắt, từ lời nói, từ bàn tay, mẹ vuốt tóc,mẹ xoa nắn bàn tay con... Mẹ đi rồi, con đứng nhìn theo cho tới khi mẹ khuất bóng bên kia chợ Mỹ Phước Tây, con vào phòng soạn quà thăm nuôi, từng con khô, từng gói muối, con đều thấy có bàn tay của mẹ, của chị...Con biết tính mẹ rất kỷ lưỡng, con khô cá kèo, chính tay mẹ lựa mua, về mẹ sắp lên dĩa để lên mặt hồ nước phơi.. mẹ ngồi canh ruồi, canh kiến...
Mẹ ơi.! Hình như ở đất người không có ngày nào con không nhớ tới mẹ... dù bây giờ mẹ đang thanh thản nơi cõi vĩnh hằng... Lúc mẹ còn trên dương thế, đều đặn, mỗi tuần con đều viết thư cho mẹ, một năm ít nhất có 50 lá thư con gửi thăm mẹ, trong thư con cũng chỉ kể những điều vui, điều sướng, cái khó, cái trở ngai con dấu biệt, con chỉ sợ mẹ buồn... Con đường con đi làm dài 29 miles, con lái mất trên dưới 45 phút, sáng 5 giờ xe nổ máy... Trời lạnh hay nóng con đều gọi mẹ, con rất thường thầm thì nói chuyện với mẹ, con kể cho mẹ nghe đủ điều, xe gần tới hãng, con gọi mẹ ơi! cầu xin mẹ phù hộ cho con, cho hai đứa nhỏ an lành, bởi vì con có mạnh khỏe, con mới đi làm, con có tiền con mới chia sớt cho hai chị bên nhà được.
Chuyện vui, chuyện buồn con đều thầm thì kể cho mẹ,con kể bằng tấm lòng thực của con, tốt xấu đều kể hết, không như những ngày còn ở bên mẹ, chỉ kể điều tốt, điều vui... con có điên không hở mẹ? vừa lái xe vừa lảm nhảm nói một mình...những buổi tan sở về.. hôm nào mệt con thường gọi mẹ
- Hôm nay con mệt quá mẹ ơi!Tiếng thầm thì của con, không biết gió có chuyền tới mẹ hay không??
Ngày mẹ còn sống, con canh kề bên mẹ, con chỉ kể cho mẹ nghe những chuyện vui con gặp phải trong lính, trong tù... mẹ ơi, mẹ đâu có biết là con trai út của mẹ dấu biệt những chuyện hiểm nguy trong đời lính; nhất là chuyện máu lửa trên đường con di tản trên tỉnh lộ 7B, rồi chuyện khổ sai, cực hình trong lao tù Cộng Sản... Mẹ ơi ! Con chỉ muốn mẹ vui, chuyện buồn con riêng giữ,...
Bây giờ nơi xứ lạ, chắc mẹ vui lắm khi biết con không còn hút thuốc, không còn uống rượu, không còn thích đến chốn đông người, chút thì giờ rảnh rỗi, con viết, con viết lại những chuyện buồn , vui, gian khổ mà con đã từng gặp phải...Trí con còn nhớ được là con còn vui...Trí con nghĩ sao, tay con viết vậy, câu văn miễn suông sẻ chứ không cần trau chuốt. Ngày con ra đi, lời mẹ dặn con vẫn còn nhớ, mà con đành phải trái ý mẹ. Mẹ dặn con hãy quên hết thù hận, chăm chỉ làm ăn nuôi con, đừng viết lách nữa mà chuốc oán gây thù...
Mẹ ơi! mẹ đừng buồn con, bây giờ mẹ mất rồi, con còn biết có ai mà kể chuyện buồn vui, con phải viết để giải tỏa ần ức tự lòng con, viết được ra giấy con mới thấy được lòng con thanh thản nhẹ nhàng, mẹ ơi con không nuôi mộng làm nhà văn, nhà thơ gì cả, con chỉ viết bằng tâm, bằng ý, bắng ký ức... tất cả vui buồn mà con của mẹ đã gặp phải trên bước đường đời con mẹ đã đi qua...
Cõi vĩnh hằng linh diệu... Mẹ đọc những bài con viết, mẹ hiểu con nhiều hơn.Mẹ đọc thấy những truân chuyên, gian khổ mà con của mẹ đã trải qua, mẹ cũng đừng buồn con, sao ngày trước dối mẹ Thằng con trai của mẹ, với 7 năm lính, hơn 8 năm tù... một khoảng thời gian khá dài đã hủy hết mùa xuân trai trẻ của nó.Bây giờ với con, hành trang chung bước đường của con là những tập thơ, những bài bút ký... dàn trải tất cả chuyện đời con.Tất cả đều có hình ảnh người mẹ thân yêu của con...
Mẹ có hiển linh, mẹ hiểu cho con, mẹ đừng trách con sao quên lời mẹ dặn.
Con trai út của mẹ

( Viết tại Kỳ Đà Động.10-4-2010 )
THỦY LAN VY
( Viết thay lời tựa trong tập bút ký NHỚ THƯƠNG IN VẾT )
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.