Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages12>
Thích Nữ Trí Hải (1938 - 2003)
Phượng Các
#1 Posted : Monday, March 28, 2005 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)

Thích Nữ Trí Hải
Phượng Các
#2 Posted : Tuesday, March 29, 2005 1:55:55 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
"CÂU CHUYỆN GIÒNG SÔNG“ VÀ NỮ DỊCH GIẢ PHÙNG KHÁNH

Thái Kim Lan


1. Do lai:

Từ năm 1998 trong chương trình trao đổi văn hóa Việt Ðức do quĩ „W. P. Schmitz-Stiftung“ bảo trợ qua sự cố vấn của chủ tịch Hội Tiến sĩ W. Böhme và với sự khuyến khích của Ðại sứ quán Ðức tại Hà nội, một số giáo sư Ðức (Düsseldorf / Muenchen) và tôi bắt đầu thực hiện dự án „tuyển tập văn học Ðức Việt“ bằng cách dịch và giới thiệu hỗ tương các tác phẩm văn học Ðức Việt . Công việc trước tiên là tuyển chọn và giới thiệu các tác phẩm văn học tiêu biểu của các tác giả Ðức nỗi tiếng đến với Việt nam. Một trong những tác giả được đề nghị là Hermann Hesse với tác phẩm „Siddhartha“. Trong những lý do đề nghị tuyển chọn có lý do đơn giản: H. Hesse là tác giả Ðức được đọc nhiều nhất ở Á châu, và H. Hesse rất quen thuộc với độc giả Việt nam, nhất là độc giả Việt nam tại miền Nam, bởi vì năm 1965 tác phẩm „Siddhartha“ đã được dịch giả Phùng Khánh (và em gái của cô là Phùng Thăng) Việt dịch từ bản tiếng Anh và nhà xuất bản Lá Bối đã xuất bản liên tiếp hai lần trong vòng một năm: 1965 và 1966 (và sau đó nhiều lần) với sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trí thức và độc giả trẻ thời ấy.

Tác phẩm dịch này thoạt tiên được giới thiệu với tựa đề: „CÂU CHUYỆN CỦA DÒNG SÔNG“. Theo lời của chủ nhà xuất bản, khi tái bản vào những lần sau tác phẩm này đã được đổi thành „CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG“, vì nó gãy gọn và đẹp hơn (theo ý của chủ nhà xuất bản Lá Bối chứ không phải của dịch giả, nhưng dịch giả đã không phản đối) và từ đó mang tên „CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG“. Người dịch chính là chị Công tôn nữ Phùng Khánh, theo lời của anh Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản Lá Bối.

2. Dự án in tác phẩm „Siddhartha“ của H. Hesse hay „Câu chuyện dòng sông“ của dịch giả Phùng Khánh.

Dự tính tái xuất bản tác phẩm dịch này trong tuyển tập Ðức Việt nằm trong ý hướng đem đến cho độc giả Việt nam một món ăn tinh thần tuy quen thuộc nhưng ngày nay vẫn còn rất hiện đại trong trào lưu Tây phương tìm đến tư tưởng Ðông phương mà „Siddhartha“ là hiện thân của tâm thức ấy. Hơn nữa có thể nói tác phẩm dịch này dưới ngọn bút tài hoa của hai nữ dịch giả khó có thể thay thế, dù không phải dịch từ nguyên bản tiếng Ðức.

Tôi được giao nhiệm vụ đọc lại bản dịch, so sánh đối chiếu với bản tiếng Ðức. Bản dịch này là một bản sao của ấn bản năm 1965 do anh Ðặng Ngọc Phú Hoà, người phụ trách in ấn tác phẩm dự tính tại Huế gửi cho tôi, với lời giới thiệu của nhà xuất bản Lá Bối).Tôi đã ngạc nhiên về sự khá chính xác của bản dịch so với bản gốc nguyên tác tiếng Ðức dù dịch từ bản tiếng Anh. Ðiều ngạc nhiên kế tiếp tuy nhỏ hơn nhưng cũng không kém phần…ngạc nhiên là bất ngờ có một vài đoạn trong bản gốc bị bỏ hẳn không được dịch.

Cuối năm 2001 dự án in „Siddhartha“ được hội bảo trợ đồng ý. Suốt năm 2002 tôi có dịp liên lạc nhiều lần với cố Ni sư Trí Hải - bởi vì nữ dịch giả Phùng Khánh đã trở thành Ni sư Trí Hải đáng kính - về dự án in lại tác phẩm dịch „Câu chuyện dòng sông“ của Ni Sư.

Lần đầu khi nghe tôi ngỏ ý xin in lại tác phẩm dịch của Ni Sư trong tuyển tập, Ni sư cười rất tươi như mỗi lần gặp và với giọng nói rõ ràng, thanh sắc, Ni sư bảo: „Ui chao, quyển sách nớ người ta in biết bao nhiêu lần, sau 75, họ in xung quanh mình mà chẳng có ai đến hỏi hay gửi cho mình một cuốn, hình như chỉ có anh chi ở Huế (có lẽ là Ðặng Ngọc Phú Hòa) có gửi chút tiền vô cúng thiền viện Tuệ Uyển“.

Khi nghe tôi dè dặt hỏi thêm lý do về những đoạn chưa được dịch, có phải thiếu ở bản dịch hay bị bỏ sót, cố Ni sư cười nhẹ nhưng nói giọng rắn rỏi: „Ô, không phải thiếu đâu, những đoạn ấy tôi thấy nó không hợp, nó không hay, làm mất vẻ đẹp của „câu chuyện dòng sông“ nên tôi bỏ không dịch đó chứ!“.

Nữ dịch giả Phùng Khánh là thế! Không phải chỉ dịch thụ động nô lệ, mà còn là nhà phê bình và…sáng tạo trong khi dịch…để tác phẩm được xuất hiện trong tiếng Việt với vẻ đẹp thanh cao toàn diện theo cái nhìn của dịcg giả.

Có lẽ dịch giả nào cũng có những hoài vọng tương tự, nhưng quả quyết và chắc chắn thì chỉ có dịch giả Phùng Khánh mới dám làm như thế. Tôi kính trọng quyết định của dịch giả, nhưng vì mang một trách nhiệm khác đối với tuyển tập, nên thưa Ni Sư cho phép tôi được bổ túc những đoạn mà Ni Sư thời ấy đã bỏ không chuyển sang Việt ngữ, lần này đối chiếu những đoạn ấy trong nguyên bản tiếng Ðức, hiệu đính lại một vài đoạn thiếu sót. Cố ni sư đã mau mắn nói ngay: „Chị Kim Lan cứ bổ túc đi. Bây giờ thì „Câu chuyện dòng sông“ là của thiên hạ rồi! Nhưng bổ túc từ bản tiếng Ðức thì tốt lắm, tôi tiếc không đọc được nguyên bản tiếng Ðức, chị đọc được chắc là hay hơn bản tiếng Anh nhiều, thế thì hạnh phúc lắm, nhưng tui cũng có học tiếng Ðức đó nghe, mà cũng hiểu sơ sơ!“

Tôi hiểu câu nói của Ni Sư „Câu chuyệng dòng sông là của thiên hạ“ trong ý từ bi rộng mở của một vị SƯ, còn người trần như tôi thì biết rằng, tác phẩm này đã ghi dấu ấn sâu đậm cho cả những thế hệ 60, 70 chúng tôi, và bỗng cảm thấy hoài cổ cái thời hoành tráng „trở về con đường nội tâm“ mà „Siddhartha“ đã đi qua. Và quên sao được chị em Phùng Khánh Phùng Thăng nỗi tiếng giỏi sinh ngữ và ngoại ngữ một thời ở Huế, ngay cả ngoại ngữ Ðức mà chúng tôi theo học thời ấy ở Chi nhánh viện Goethe tại Huế bên cạnh trung tâm văn hoá Pháp ở đường Lê Lợi?

Lần thứ ba gặp cố Ni Sư vào giữa năm 2002, tôi đến để trao cho Ni Sư món tiền nhuận bút dịch thuật tác phẩm Siddhartha, Ni Sư lại cười và bảo: „Ui chao, chị Kim Lan biết không, đây là số tiền dịch thuật lần đầu tiên cho quyển sách này, mà e cũng là lần đâu tiên trong việc dịch thuật trong đời của tui. Tiền ni để in kinh dạy học cho các em. Thì cũng tại chị biết tui chị mới đến gặp và xin phép, chơ thiên hạ biết mình ở mô mà tìm đến, phải không, thôi miễn là người đọc vui là được rồi.“ Cố Ni sư rộng lượng mà nói thế, chứ bổn phận của người tái bản vẫn phải xin phép dịch giả trước khi in.

Mùa thu năm 2002 tác phẩm „Câu chuyện dòng sông“ do Phùng Khánh (và Phùng Thăng) dịch được tái xuất bản trong tuyển tập văn học Ðức Việt, nhưng chưa đưọc hiệu đính vì lý do thời gian gấp rút phải thực hiện in sách (xem tài liệu đính kèm). Sách in song ngữ với lời giới thiệu tác giả Hermann Hesse và lời bạt về tác phẩm do giáo sư Winko và tôi đảm nhiệm. Sách in ra phần nhiều được gửi tặng cho viện Goethe ở Hà nội, các thư viện và các đại học cũng như các trường cao đẳng Phật học tại Việt nam, đã rất hợp với ý của nhà dịch giả tiên phong Phùng Khánh. Tuy tác phẩm đã được ấn hành mà lòng tôi vẫn còn áy náy vì phần hiệu đính còn cất trong tủ. May sao, hôm thứ ba 22. 06. 2004 được dịp nói chuyện với anh Thanh Tuệ, chủ nhân của nhà xuất bản Lá Bối thời trước và nhà xuất bản An Tiêm bây giờ, niềm vui „châu về hợp phố“ như được khơi dậy: chúng tôi cùng giao ước với nhau:

„Câu chuyện dòng sông“ sẽ được nhà xuất bản An Tiêm, hậu thân của Lá Bối, ấn bản cuối năm nay 2004, nhân dịp 40 năm nhà xuất bản Lá Bối/An Tiêm, do chính chủ nhân nhà xuất bản đảm nhiệm để kỷ niệm 40 năm „Câu chuyện dòng sông“, lần này phần bổ túc sẽ được hoàn tất theo đúng lời đã xin và đã hứa với người quá cố.

München, Ðoan Ngọ Giáp thân 2004
Thái Kim Lan
__________________________________________________________________________

(trích từ mạng Talawas)

Về họ và tên của dịch giả Phùng Khánh

Việt Lang | Thái Kim Lan

1.
Tôi đã đọc bài “Câu chuyện dòng sông“ và nữ dịch giả Phùng Khánh của bà Thái Kim Lan, một bài viết hay – như các bài viết trước đây của bà Kim Lan.
Tuy nhiên, trong bài viết có một điểm nhỏ liên quan đến họ và tên của dịch giả Phùng Khánh, là: “Người dịch chính là chị Công Tôn Nữ Phùng Khánh, theo lời của anh Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản Lá Bối” [1] . Đây chỉ là một chi tiết nhỏ đối với đa số độc giả, tuy nhiên lại khá tế nhị với một số người có liên quan đến Nguyễn Phước tộc.Tôi cũng có biết chút đỉnh về gia thế dịch giả Phùng Khánh, xinmạomuộitrìnhbàyýkiếnnhưsau:

Dịch giả Phùng Khánh có tên trong khai sanh là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh. Bà ta có một người anh ruột tên Bửu Đích, Phùng Thăng là em gái út. Thân phụ dịch giả Phùng Khánh là cụ Nguyễn Phước Ưng Thiều, thuộc phủ Tuy Lý Vương (cụ Ưng Thiều là cháu nội của Tuy Lý Vương Nguyễn Phước Miên Trinh).
Cùng thế hệ (đồng tôn) với dịch giả Phùng Khánh có nhà văn Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương (cùng chung ông cố nội Tuy Lý Vương Miên Trinh), Công Tằng Tôn Nữ Phương Anh (Chủ Bút Oklahoma Việt Báo – USA), nhà thơ Công Tằng Tôn Nữ Á Nam (phu nhân bác sĩ Hồ Đắc Duy)… Dịch giả Phùng Khánh ngang lớp với các người phái nam trong Nguyễn Phước tộc có họ kèm chữ lót là Bửu, tức trên vai với người có họ kèm chữ Vĩnh (chẳng hạn giáo sư Vĩnh Sính gọi dịch giả Phùng Khánh là cô, xưng cháu).

Về sau, các bà các cô mang họ Công Tằng Tôn Nữ hay Công Huyền Tôn Nữ hay rút ngắn họ và tên, trong quan hệ xã hội thành Tôn Nữ. Chẳng hạn như Tôn Nữ Hỷ Khương, Tôn Nữ Phùng Thăng… và tên dịch dịch giả Phùng Khánh có thể viết là Tôn Nữ Phùng Khánh.

Tính theo phổ hệ trong Nguyễn Phước tộc, dịch giả Phùng Khánh thuộc hệ chánh biên. Căn cứ theo các quy định đặt tên cho con cháu phái nữ trong họ Nguyễn Phước có thời vua Minh Mạng vào năm 1823 [2] : vì là con gái của cụ Ưng Thiều, nên chữ lót trong họ của bà sẽ là Công Tằng Tôn Nữ. Do đó, nếu ta chép họ và tên của dịch giả Phùng Khánh là Công Tôn Nữ Phùng Khánh thì e rằng dịch giả Phùng Khánh bị nâng lên một thế hệ - trở thành ngang lớp với cha của bà.

Ý kiến của tôi là như trên; BBT talawas vui lòng kiểm chứng, xem lại giúp cho. Chúc BBT talawas, bà Thái Kim Lan cùng quý quyến an khang.

Trân trọng, Sài Gòn đêm 29/06/2004 Việt Lang

2.

talawas vừa cho tôi đọc thư của tác giả Việt Lang về họ tên chính xác của nữ dịch giả Phùng Khánh, mà trong những năm vừa qua chúng tôi kính nể thường gọi „sư cô Trí Hải“ và bây giờ là „cố ni sư Trí Hải“. Tôi xin thành thật cám ơn tác giả Việt Lang đã nhắc lại tên thật đúng của nữ dịch giả là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh.

Xin cáo lỗi và nhờ talawas đính chính lại. Tôi cũng nhận được nhiều thư của bạn bè cảm mộ ni sư Trí Hải, mà bây giờ họ mới biết cũng chính là dịch giả của Câu chuyện dòng sông. Tác giả Nguyễn Văn Lục còn viết cho tôi cảm nghĩ của ông, rằng:
„Ðối với tôi Phùng Khánh là Phùng Khánh. Chị ấy có đi tu, có lên đến chức gì đối với tôi vẫn chỉ là ni cô... Ni cô, chữ đẹp thế mà người ta cứ chối bỏ…“ (Nguyễn Văn Lục, @ 26.6.2004)

Tôi xin trân trọng ý kiến của ông Lục, nhưng cũng mong ông hiểu, thật sự trong hàng giáo phẩm, đúng ra phải nên xưng danh hiệu của „sư cô“ bây giờ là: Cố Ni sư trưởng Thích nữ Trí Hải“, mà chúng tôi quen gọi thân tình là „sư cô“.
Một điểm nữa tôi xin trân trọng đính chính là về ngày tháng liên lạc với sư cô Trí Hải. Theo tư liệu của giấy xác nhận của dịch giả Phùng Khánh mà hôm qua (28. 06. 04) tôi vừa được nhận lại của cơ quan Goethe Institut Inter Nationes tại Bonn trong lưu trữ hồ sơ của họ thì ngày sư cô nhận tiền dịch thuật là vào mùa xuân năm 2000 do tôi ứng trước. Mãi đến cuối năm 2002 theo lời yêu cầu của hội bảo trợ, sư cô mới viết giấy xác nhận và ký tên qua điện thư „fax“.
Tài liệu này đã làm tôi cảm động vô cùng khi thấy lại chữ viết của sư cô, mà thân tình và tin tưởng đã là nền tảng của những cuộc gặp gỡ trao đổi giữa chúng tôi, của một „ni cô“ thoát tục và một người „trần tục“ chưa biết dừng.
Tôi xin cám ơn quí ông Việt Lang, Nguyễn Văn Lục và các độc giả đã chú ý đến Câu chuyện dòng sông của nữ dịch giả Phùng Khánh.

Và dĩ nhiên cám ơn BBT talawas cho tôi cơ hội đính chính những điểm không chính xác.

Thái Kim Lan

© 2004 talawas




[1]thuộc đoạn 1 bài viết „Câu chuyện dòng sông“và nữ dịch giả Phùng Khánh
[2]Tôi có nghe các chữ lót ấy được đặt theo trình tự sau:
Công Chúa (dùng cho con gái vua; không kể vua mang chữ lót Miên, Hường, Ưng, Bửu)
Đối với cháu gái vua trở đi (chắt, chít…) thì chữ lót tên cháu gái sẽ được đặt tuỳ thuộc thế thứ của cha mình:
Công Nữ (với cha có chữ lót tên: Miên)
Công Tôn Nữ (với cha có chữ lót tên: Hồng)
Công Tằng Tôn Nữ (với cha có chữ lót tên: Ưng)
Công Huyền Tôn Nữ (với cha có chữ lót tên: Bửu)
Phượng Các
#3 Posted : Tuesday, March 29, 2005 2:08:25 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)


Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã… văn

Việt Lang



I.
Hiện tôi có trong tay ba ấn bản của tác phẩm Câu chuyện của dòng sông. Trong số này có hai bản của Nhà xuất bản Hội Nhà văn (NXBHNV) và một bản của Nhà xuất bản Lá Bối [1].

Tôi đã xem kỹ các ấn bản của NXBHNV, có một số ghi nhận như sau:
1/ Ấn bản lần thứ 1 năm 1992 của NXBHNV, người chịu trách nhiệm xuất bản là Nguyễn Kiên, do Chi nhánh miền Nam thực hiện. Tôi đã rà soát kỹ ấn bản dày 245 trang này, từ trang đầu đến trang cuối, bản in không hề ghi bất kỳ tên dịch giả nào.
2/ Ấn bản lần thứ thứ 2 năm 2001 của NXBHNV, người chịu trách nhiệm xuất bản là Nguyễn Phan Hách. Nơi phát hành là Nhà sách Quang Minh, đường Nguyễn Thị Minh Khai, Sài Gòn. Ấn bản này dày 234 trang. Ở trang bìa và trang ruột đầu bản in không hề ghi tên dịch giả; tên dịch giả Bùi Giáng được để ở trang cuối cùng (tr. 234), chung phấn với tên người chịu trách nhiệm xuất bản.

3/ Trong cả hai ấn bản của NXBHNV, bài giới thiệu với tựa Hermann Hesse, người thắp lửa tâm linh, ở ngay phần đầu quyển sách đều đứng tên Nhật Chiêu [2] . Bài giới thiệu này dài khoảng 28 trang, tùy bản in lần 1 hay 2.

Tựa trang bìa cả hai ấn bản của NXBHNV đều là Câu chuyện dòng sông, đến khi vào trang ruột đầu tiên thì cái tựa ấy thành Câu chuyện của dòng sông. Bản in có khổ 13 x 19 cm.

Đây là các điểm khác và giống nhau của hai (02) bản in của NXBHNV, ngoài ra toàn bộ phần truyện trong hai bản in này thì hoàn toàn giống nhau. Để tiện theo dõi, từ đoạn này trờ đi tôi gọi chung là bản in của NXBHNV.

II. Tôi cũng đã xem bản in của Nhà xuất bản Lá Bối trước đây, có vài ghi nhận như sau:

1. Đây là bản in lần 1 của Nhà xuất bản Lá Bối, năm 1965, ấn quán Sen Vàng, 243 Sư Vạn Hạnh – Cholon.

2. Tựa cuốn sách là Câu chuyện của dòng sông, phần tên của dịch giả có ghi ngay ở trang bìa và trang ruột 1, với nguyên văn như sau: “Bản dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng”.

3. Lời nói đầu là của Nhà xuất bản Lá Bối.

III.
Xét cụ thể, hai ấn bản của Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Lá Bối có khá nhiều điểm khác nhau về: nhà xuất bản, năm xuất bản, khổ giấy, tên dịch giả và tựa tác phẩm (có “của” và không có “của”). Hai bản in này chỉ giống nhau có mỗi một điểm: toàn bộ nội dung bản dịch Việt ngữ tác phẩm Siddharta của Hermann Hesse của các dịch giả PhùngKhánhvàPhùngThăng. Tôi xin chép lại vài dòng đầu của chương một “Tất Đạt”, như sau: Bản in của Nhà xuất bản Lá Bối:

Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn dĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”.

Bản in của NXBHNV:

Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn dĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”.

Vài dòng cuối cùng của chương chót, chương mười hai “Thiện Hữu”:

Bản in Nhà xuất bản Lá Bối:

Thiện Hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt khôn ngăn rỉ xuống gương mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, tràn ngập niềm kính cẩn. Chàng phủ phục quì trước con người đang ngồi bất động, mà nụ cười nhắc chàng nhớ đến mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi giá trị và thánh thiện trong đời chàng.

Bản in của NXBHNV:

Thiện Hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt khôn ngăn rỉ xuống gương mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, tràn ngập niềm kính cẩn. Chàng phủ phục quì trước con người đang ngồi bất động, mà nụ cười nhắc chàng nhớ đến mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi giá trị và thánh thiện trong đời chàng.

Không chừng có độc giả sẽ hỏi tôi rằng, chỉ với hai đoạn đầu tiên và cuối cùng mà dám khẳng định là hai bản in này hoàn toàn giống nhau, liệu như vậy là có vội vã chăng? – Xin thưa rằng, hai bản in này dẫu được thực hiện cách nhau 27/36 năm (tuỳ năm xuất bản lần 1 hay 2 của NXBHNV), song chúng lại giống nhau cách dị thường đến từng dấu chấm (.) và dấu phẩy (,) !!! Do đó, tôi không thể chép toàn bộ hơn 200 trang giấy lên đây – trong khi phần việc để đối chứng sau đó thì quá đơn giản: copy lại. Như thế là các vị của Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, cụ thể là hai ông Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách đã làm cái trò gì vậy? Các vị thuộc Hội Nhà văn, nhưng các vị đã …văn; còn cái chữ trong ba dấu chấm (…) trước chữ văn là chữ gì thì xin các vị hãy tự điền thêm vào. Tại thời điểm này, tôi xin phép khẳng định rằng: các vị ấy đã dụng văn một cách không có đạo lý. Này những người của Nhà xuất bản Hội Nhà văn và những người có liên đới trách nhiệm, các vị hãy suy nghĩ lại về các hành động của mình đi.
Của đáng tội, để một bản dịch truyện nước ngoài được bày trên giá sách khơi khơi công khai như vậy, với quy trình pháp luật in ấn và phát hành trong nước hiện nay, mà nào chỉ liên quan chỉ có chừng ấy người? Lại đến 02 lần gian lận, vừa xóa gạt quyền dịch giả của Phùng Khánh – Phùng Thăng đồng thời còn mạo danh Bùi Giáng, một cách có ý thức và hệ thống!

Dịch giả Phùng Khánh đã qua đời, nhà thơ kiêm dịch giả Bùi Giáng cũng đã mất; nghĩa là họ sẽ không bao giờ lên tiếng phản hồi hành động xúc phạm của các vị. Lương tâm các vị cảm thấy thế nào? Đêm về, các người có liên quan đến vụ việc này hãy thắp một nén nhang tạ lỗi cùng những người đã khuất. Đây là lời khuyên rất chân thành không của riêng tôi [3].

IV.
Tuy nhiên so với hai ông Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách thì vị tiền nhiệm của NXBHNV: ông Ngô Văn Phú mới tỏ ra thực xứng là một bậc tiên phong trong kiểu xuất bản đáo để này, vụ việc cũng lại liên quan đến một tác phẩm khác của H. Hesse. NXBHNV đã xuất bản cuốn Tuổi trẻ băn khoăn với sự chịu trách nhiệm của Ngô Văn Phú vào năm 1998, tác phẩm này được phát hành đầy dẫy trên thị trường trước khi có việc trao đổi ý kiến với dịch giả Hoài Khanh.

Tôi đã đối chiếu bản Tuổi trẻ băn khoăn phát hành lần đầu năm 1968 của Nhà xuất bản Ca Dao với bản in năm 1998 của NXBHNV [4] . Trừ hình bìa và số trang, mọi thứ nội dung bên trong đều giống nhau; riêng bản in của NXBHNV lại có thêm một trang Lời cuối sách (tr. 251) với nội dung đáng xếp vào bậc có không hai trong lãnh vực xuất bản. Tôi xin chép lại trang ấy với nguyên văn như sau:

Do nhu cầu xuất bản (nhu cầu ấy có nghĩa là gì? - VL nhấn mạnh), chúng tôi cho in Tuổi trẻ băn khoăn của Hermann Hesse, bản dịch của Hoài Khanh. Rất tiếc, cho đến nay chúng tôi chưa liên hệ được với dịch giả. Vì vậy, sách biếu và nhuận bút chúng tôi xin giữ lại tại Nhà xuất bản. Tác giả (không phải dịch giả - VL nhấn mạnh) hoặc thân nhân (có ủy quyền hợp lệ) xin vui lòng liên hệ với chúng tôi tại 371/16 Hai Bà Trưng, q. 3, Tp., HCM.

Trân trọng cảm ơn Nhà xuất bản Hội Nhà văn “

Kể ra thì cũng khá minh bạch, nhưng… một độc giả nào đó thử tìm một tin nhắn/bố cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng với nội dung liên hệ tác quyền trước khi xuất bản tác phẩm; trong trường hợp Tuổi trẻ băn khoăn, e rằng còn khó hơn tiến hành xác định có người trên sao Hỏa!

Vậy là có thêm một màn biến tấu khó hiểu trong hoạt động xuất bản của NXBHNV, nhân vật chính lần này là ông Ngô Văn Phú. Chẳng rõ các ông Ngô Văn Phú, Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách có chân hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam không nhỉ? Đến đây, tôi thực sự chẳng biết nên bình luận như thế nào về Nhà xuất bản của Hội ấy nữa. Quí vị nào có lòng thì giúp cho vậy.

Đăng lần 1 tại website Đặc Trưng ngày 02/04/2004.

Ó 2004 Talawas




[1]Trước năm 1975, Câu chuyện của dòng sông ít nhất đã được xuất bản 03 lần. Theo sự ghi nhận của tôi, gồm như sau: Nhà xuất bản Lá Bối vào các năm 1965 và 1966; Nhà xuất bản An Tiêm vào năm 1967.
Tôi có đọc qua ấn bản của Nxbản An Tiêm năm 1967, bản in này gồm 190 trang. Tôi xin có vài ghi nhận ngoài lề như sau:

· Không thống nhất về tên tác phẩm: tựa bìa là Câu chuyện dòng sông, nhưng trang 3 lại in là: Câu chuyện của dòng sông.

· Tại trang 5 có một nhầm lẫn lớn: trang này in tựa lớn tiếng Việt Câu chuyện của dòng sông, nhưng tựa nhỏ tiếng Ðức trong ngoặc đơn ( ) bên dưới lại là: Weg Nach Innen. Weg Nach Innen theo chữ dịch của Phùng Khánh có nghĩa là Ðường về nội tâm; còn tên nguyên tác của Câu chuyện của dòng sông là Siddharta - một truyện trong tập truyện Weg nach Innen của H. Hesse.

Lời giới thiệu trong bản in Nhà xuất bản An Tiêm là của dịch giả.
[2]Hiện đang là giảng viên văn học nước ngoài trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM.
[3]Để tôn trọng sự công bằng trên văn đàn, trong lần đăng đầu tại website Đặc Trưng (www.dactrung.com), bài viết này có đồng gởi đến:

· tapchinhavan@netnam.vn – địa chỉ email của Tạp chí của Hội Nhà văn Việt Nam.

· quangminhbooksh@hcm.vnn – địa chỉ email của Nhà sách Quang Minh, nơi phát hành quyển Câu chuyện của dòng sông in lần thứ 2.)

Trong những ngày thực hiện bài viết này lần thứ nhất, tôi (Việt Lang) cố gắng liên hệ với Nhật Chiêu - người viết bài giới thiệu cho ấn bản Câu chuyện của dòng sông của Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - để chuyển bài viết này đến ông, song chưa được. Hy vọng sau khi đăng bài viết này trên Đặc Trưng, Nhật Chiêu sẽ biết đến nó. Một người thưởng thức được vẻ đẹp của những vần hài cú, cảm nhận được nét phiêu lãng trong thơ Basho, chắc cũng biết tự xử thế nào cho ngòi viết của mình mãi thẳng, phải không ông Nhật Chiêu?

[4]Quyển Tuổi trẻ băn khoăn do Hoài Khanh dịch từ ấn bản tiếng Anh Demian, the Story of Emil Sinclair’s youth, với lời tựa của Thomas Mann. Ðây là một tác phẩm của H. Hesse viết vào năm 1919, với tên nguyên tác là Demian. Nhà xuất bản Ca Dao xuất bản lần I (1968), lần II (1971); ấn loát tại Nhà in Thanh Bình, 666 Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Khổ 13x19 cm, dày 318 trang.

Quyển Tuổi trẻ băn khoăn của NXBHNV cũng sử dụng lời tựa của Thomas Mann; có khổ 13 x 19 cm, dày 252 trang.

_______________________________________________________________________________

Nguyễn Văn Lục

«Câu chuyện dòng sông » và câu chuyện của NXB Hội Nhà Văn

Bài viết của Việt Lang mới đây cho thấy việc ăn cắp bản dịch Câu chuyện dòng sông của chị Phùng Khánh là một điều sỉ nhục. Còn có gì có thể bào chữa được nữa?
Để nắm vững vấn đề, tôi đã nhờ bạn bè ở Sài Gòn truy tìm tài liệu mà kết quả là lá thư sau đây: «Ông Lục ơi! Ở Việt Nam, cái việc chôm đồ của nhau là đã được bình thường hoá từ lâu rồi. Hình như người ta không còn biết giữ nhân cách của chính bản thân mình nữa. Có dịp để mà chôm là cứ tiến hành. Báo chí phanh phui nhiều lần mà họ cứ trơ trơ ra.» Đã bình thường hoá rồi. Có còn lời kết án nào nặng hơn nữa không? Bình thường hóa rồi, nghĩa là coi việc ăn cắp, đạo văn là đương nhiên, là chuyện bình thường. Mà bình thường thật, vì việc chôm bản dịch này của nhà xuất bản Hội Nhà Văn, theo Việt Lang xảy ra từ năm 1992 và kéo dài đến 2001. Chẳng ai nói gì cả, chẳng ai thắc mắc gì cả. Đó là điều gây ngạc nhiên đến sửng sốt nhất đối với tôi, còn hơn cả việc ăn cắp nữa.

Riêng dịch giả Phùng Khánh, đối với giới sinh viên và trí thức miền Nam như tôi vào thời điểm 1960-1970 là biểu tượng của một làn gió mới, đem đến một sinh khí văn học trở về nguồn, tìm lại những nét đẹp Đông Phương huyền bí, sau khi có một thời chúng tôi đua đòi theo những xu hướng, trào lưu tư tưởng Tây Phương. Có thể tóm tắt công trình dịch thuật của Phùng Khánh bằng chỉ một câu thôi: Trở về nguồn. Vậy mà người ta nở ăn cắp, xúc phạm đến chị như thế.

Tôi đã nhờ một đứa cháu gái, sinh viên đại học ở thành phố, chụp cho tôi tài liệu: Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975. Tập một. Thư viện Khoa học Tổng hợp với mã số M 1087.89, tác giả Trần Trọng Đăng Đàn. In 1987. Ông tác giả này cũng là tiếng nói chính thức đã phê phán những dịch giả miền Nam, trong đó có Phùng Khánh như sau:

Trong khối lượng của các tác phẩm của «văn học» thực dân mới ở miền Nam, các tác phẩm dịch hoặc phóng tác sách của nước ngoài giữ một vị trí quan trọng. Loại này được đưa vào từ nhiều nước, cả từ các nước tư bản phương Tây và phương Đông, cả từ những nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý mấy điểm: thứ nhất là chúng ta không đồng nhất những thứ văn học của các nước được dịch ở Việt Nam với nền văn học đích thực của chính các nước đó. Thứ hai là phải phân tích xem các tác phẩm đó gây tác hại gì cho độc giả Việt Nam. Bởi vì có thể có những tác phẩm đối với một nước nào đó thì không gây tác hại mấy, nhưng lúc đưa vào Việt Nam lại bị hiểu theo những cách thức khác. Thứ ba là trong số tác phẩm nước ngoài được dịch không phải chỉ toàn là tác phẩm xấu mà do tính chất xảo quyệt của bọn cầm đầu «văn hoá» thực dân mới, cho nên có cả những tác phẩm vô hại, thậm chí có cả tác phẩm ưu tú. (tr. 25)

Cứ như lời phán của tác giả vừa nêu trên, bất cứ tác phẩm dịch thuật nào trước 75 đều tai hại vì do sự «xảo quyệt của bọn cầm đầu văn hóa thực dân mới». Bản dịch Câu chuyện của dòng sông của Phùng Khánh nằm trong trường hợp thứ ba này.
Vậy mà chỉ 5 năm sau, đã chôm chỉa, ăn cắp in lại của người ta một cách vô sỉ. Có cần nói thêm gì về cái nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấy nữa không? Chắc là không.

______________________________________________________________________________

Đính chính cùng Việt Lang [updated 07.7.04 : © 2004 talawas.org]

Lý Đợi

1.
Tôi đọc bài Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã … văn của tác giả Việt Lang hôm 25/6/2004 trên talawas, mà thực sự thấy rất áy náy. Có lẽ vì tôi ngờ ngợ với câu mà tác giả này viết: “Trong những ngày thực hiện bài viết này lần thứ nhất, tôi (Việt Lang) cố gắng liên hệ với Nhật Chiêu - người viết bài giới thiệu cho ấn bản Câu chuyện của dòng sông của Nhà xuất bản Hội Nhà văn - để chuyển bài viết này đến ông, song chưa được. Hy vọng sau khi đăng bài viết này trên Đặc Trưng, Nhật Chiêu sẽ biết đến nó. Một người thưởng thức được vẻ đẹp của những vần hài cú, cảm nhận được nét phiêu lãng trong Basho, chắc cũng biết tự xử thế nào cho ngòi viết của mình mãi thẳng, phải không ông Nhật Chiêu?"
Tôi không biết một bài viết như thế này thì chuyển tới nhà nghiên cứu Nhật Chiêu làm gì cơ chứ, để thắng thua hay tỏ ra mình thế này thế nọ chăng?
Thông thường, những kiểu bài này chỉ là viết về một sự thật, một cái đúng thôi. Mà sự thật thì phải được xác minh và rõ tính khách quan chứ. Nhưng tôi e rằng, nó không hoàn toàn đúng. Bởi thế tôi đã đến nhà ông Nhật Chiêu [1] để xác minh lại thông tin và được biết như sau:

o Quyển Câu chuyện dòng sông theo thông tin mà ông Nhật Chiêu xác minh được là do tư nhân (Nhà sách Quang Minh) liên kết với Nxb Hội nhà văn để in (năm 1992) và Nxb có xin phép sử dụng lại bài viết Hermann Hesse-Người thắp lửa tâm linh của Nhật Chiêu đã in trên Tạp chí Văn một thời gian trước đó (năm 1991) để làm Lời giới thiệu cho cuốn sách. Như vậy thì Nhật Chiêu có liên quan gì đến toàn bộ cuốn sách cơ chứ? Với lại, nếu không đọc Tạp chí Văn lúc ấy thì người biết đọc một chút cũng thấy rằng bài viết 28 trang này là viết về toàn bộ cuộc đời và tác phẩm của Hesse, chứ không phải là Lời giới thiệu riêng cho Câu chuyện dòng sông.

o Thứ hai, tất cả sự trình bày cuốn sách (có tên dịch giả hay không có tên cũng thế) hoàn toàn không thuộc chủ trương, thẩm quyền hay trách nhiệm của Nhật Chiêu. Dù khi sách in ra, chính bản thân Nhật Chiêu đã đến Nxb để phàn nàn về thái độ làm việc dễ gây hiểu lầm này. Và cung cấp luôn tên, địa chỉ của dịch giả Phùng Khánh, dù Nxb này đã có sẵn trước đó; sau đó còn yêu cầu họ làm ngay một đính chính để gởi kèm theo sách nhưng có vẻ đã trễ nên không có chuyện đính chính xảy ra.

o Vậy thì đã rõ, Nhật Chiêu đâu có liên quan gì đến câu chuyện xuất bản nhiều bí ẩn ở Việt Nam. Cho nên chuyện Việt Lang nói: “ngòi viết mãi thẳng", hay “tự xử"… với trường hợp Nhật Chiêu thì hơi oan uổng và có vẻ nhảm nhí.

Ngoài ra, tại TP.HCM, rất nhiều người đã biết nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cũng là một dịch giả với nhiều công trình, trong đó nổi tiếng và uy tín nhất là những bản dịch về thơ Haiku, chưa ai thay thế được. Các tác phẩm biên khảo như Đại cương văn hoá phương Đông (viết chung), Câu chuyện văn chương phương Đông, Nhật Bản trong chiếc gương soi… và nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành đã bị nhiều người khác đạo văn. Bằng chứng cụ thể như Hoài Anh trong cuốn Tìm hoa quá bước (Nxb Văn học), đã lấy khá nhiều bài thơ của các tác giả phương Tây do Nhật Chiêu dịch. Cuốn Những mẩu chuyên văn minh thế giới (Nxb Giáo Dục) do Đặng Đức An làm chủ biên đã chép gần như nguyên si 2 chương viết về Lưỡng Hà và Ai Cập do Nhật Chiêu viết và dịch trong Câu chuyện văn chương phương Đông. Tất cả điều này các báo trong nước đã làm khá rõ, thậm chí có nơi còn gọi Nhật Chiêu là nạn nhân kỷ lục của các vụ đạo văn.

2.
Tôi cũng đến lấy ý kiến nhà thơ Ý Nhi (Nguyên trưởng đại diện chi nhánh phía Nam của Nxb Hội nhà văn) thì biết như sau:

o Vào những năm đầu thập niên 90, cái tên Phùng Khánh rất là nhạy cảm, nên có thể các người liên kết với Nxb có vẻ ngại không muốn để vào. Dù nhà thơ Ý Nhi đã nhiều lần yêu cầu họ hãy tôn trọng quyền dịch giả và phải biết rằng bản dịch này không có vấn đề gì. Khi sách in ra, nhà thơ Ý Nhi đã nhờ nhiều người tìm cách tiếp xúc dịch giả nhưng không làm được, cuối cùng chính nhà thơ Nguyễn Đạt (một người bạn của dịch giả) đã cầm thư xin lỗi của Ý Nhi và tiền nhuận bút đến gặp. Dịch giả này (Ni sư Trí Hải) đã viết thư gởi lại cho Ý Nhi như sau (thư này vẫn còn): “K/g Nxb Hội nhà văn.Xin cảm ơn về bức thư thành thiết của Bạn, và số tiền nhuật bút 840.000đ. Từ lâu đã có rất nhiều người làm như vậy, nhưng không ai có thái độ ‘liêm khiết trí thức’ đáng muốn như vậy!

Một lần nữa xin chân thành chúc Nxb gặp nhiều may mắn, và mong được cộng tác trong nhiều tác phẩm giá trị khác.

Sư cô Trí Hải
17.8.92"
o Rồi trong lần tái bản năm 2001, nhà thơ Ý Nhi đã yêu cầu bên thực hiện sách ghi tên dịch giả Phùng Khánh-Phùng Thăng vào, không hiểu tại sao mà khi sách in ra lại thấy tên Bùi Giáng ở đó. Nhà thơ này lại yêu cầu họ làm đính chính cập vào cuốn sách (họ đã làm, chắc Việt Lang làm rớt mất) và viết thư xin lỗi, đồng thời gởi tiền nhuận bút, nhưng cũng mãi tới năm 2003 mới tới được nơi và lần này, cũng chính Nguyễn Đạt là người cầm đến. Nhưng cũng không gặp được dịch giả, chỉ có đại diện là ni sư Tuệ Dung tiếp nhận và viết thư như sau (thư này vẫn còn) : “Tôi là Tuệ Dung, có nhận quyển Câu chuyện dòng sông và một triệu tám mươi ngàn đồng của Nhà Xuất Bản Hội Nhà văn thay cho Ni Sư Trí Hải đang nhập thất tĩnh tu.

Phú Nhuận 16/6/03
Thích nữ Tuệ Dung"
Thư này có đóng kèm một dấu vuông, giữa có hình hoa sen và mấy chữ: Tuệ Uyển Vạn Hạnh.

o Với các bản dịch và dịch giả trước 1975, đây có thể là một trường hợp duy nhất mà một tác phẩm bị nhà liên kết đối xử không đúng luật, trước Nxb Hội nhà văn. Còn với những tác phẩm khác của Vũ Hoàng Chương như Ta đã làm chi đời ta, Mây (in 1992); của Bùi Giáng như Mưa nguồn, Mùi hương xuân sắc, Khung cửa hẹp…; của Mặc Đỗ như Người vợ cô đơn, của Nguyễn Minh Hoàng, Huỳnh Phan Anh, Trần Thiện Đạo, Bửu Ý, Hoài Khanh,… có thể nói, chỉ có Nxb này là nơi chính quy đầu tiên in lại vào đầu những năm 90. Ngay cả Bùi Giáng, khi cuốn Mưa nguồn được tái bản, ông đã đến Nxb cảm ơn và có cả thư cảm kích để lại. Vậy thì, không thể nói Nxb này “dụng văn một cách không có đạo lý". Dù sự thật về xuất bản ở Việt Nam trong rất nhiều năm qua, mỗi Nxb đều ít nhiều có hành động kỳ đà cản mũi và tự bôi nhọ mình.

3.
Cuối cùng, với tư cách của độc giả, xin lưu ý với BBT talawas rằng, với những trường hợp mà bài viết thông tin hơi một chiều như của Việt Lang thì cần làm một động tác xác minh lại để được chính xác và khách quan hơn trước khi đăng lên [2] . Nói như nhà thơ Ý Nhi, thì chẳng có gì quan trọng với những trường hợp như thế này cả, nhưng đã nói đến sự thật thì nên cần sáng tỏ.

© 2004 talawas




[1]Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, hiện là giảng viên Khoa Ngữ Văn & Báo chí, Trường ĐH KHXH & NV TP.HCM. Là tác giả của một vài cuốn sách uy tín như Basho và thơ Haiku, Thơ ca Nhật Bản, Câu chuyện văn chương Phương Đông, Văn học Nhật Bản… Là dịch giả của nhiều công trình, nổi tiếng với các bản dịch về thơ Haiku. Luân phiên giảng dạy các chuyên đề về: Văn học Nhật Bản, Văn học Hàn Quốc, Văn học Phương Tây, Văn học Phương Đông, Văn học Trung Cận Đông, Chủ nghĩa Hiện đại và Hậu hiện đại, Thiền luận Suzuki…
[2]Chú thích của talawas: Sau khi nhận được bài viết của tác giả Việt Lang, BBT talawas đã kiểm tra và xác nhận rằng những thông tin mà Việt Lang đưa ra sau đây là đúng: 1) Bản dịch Câu chuyện dòng sông do Nxb Hội Nhà văn xuất bản các năm 1992 và 2001 chính là bản dịch Câu chuyện dòng sông của dịch giả Phùng Khánh; 2) Trong bản năm 1992 của Nxb Hội Nhà văn không có tên dịch giả; 3) Trong bản năm 2001, tên dịch giả được đề cuối sách là Bùi Giáng.
Việc đánh giá các thông tin đã được xác minh này và phản hồi về sự đánh giá ấy như thế nào là thuộc quyền của công luận.

Phượng Các
#4 Posted : Tuesday, March 29, 2005 2:10:58 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Chỉ xin lỗi dịch giả là đủ?

Trần Trọng Hoàng Bách


Sau khi đọc bài viết Tìm dịch giả biệt tích (talawas, 11.11.2003) của tôi, hầu như mọi người quen tôi đều nói cùng một ý, đại loại là: Những điều ông phàn nàn đều đúng cả, nhưng ông phải hiểu là hoàn cảnh Việt Nam mình không cho phép, nó có nhiều cái lắt léo ở trong, nếu cứ nghiêm túc thì lấy đâu ra sách. Tôi cự lại rằng Việt Nam mình thời tôi mới lên lên, còn chiến tranh hẳn hoi, cũng "hoàn cảnh" lắm, nhưng không có chuyện các nhà xuất bản làm ăn ngược đời như bây giờ. Muốn hoàn cảnh gì thì gì, in sách của người ta thì phải được người ta đồng ý, có văn bản kí kết đàng hoàng. Ít nhất thì cũng phải có cái tên của người ta. Làm gì có thứ hoàn cảnh cho phép cứ in đã, tác giả, dịch giả nào biết tin biết đường thì đến mà nhận nhuận bút, ai vô phúc biệt tăm biệt tích thì cho qua luôn! Tôi đã in bài viết đó ra, gửi qua bưu điện đến Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm Đông-Tây và Nhà sách Đông-Tây, nhưng chẳng có hồi âm nào.

Vì thế cũng xin chia mừng với ông Việt Lang, sau bài Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã … văn (talawas, 25.6.2004) đã nhanh chóng được hồi âm gián tiếp của NXB Hội Nhà văn (NXBHNV) chi nhánh phía Nam qua nhà thơ Lý Đợi. Tuy nhiên, đọc xong những chi tiết xác minh trong bài này, tôi thấy có thể chốt lại vào mấy điểm sau đây:
I.Về vai trò của ông Nhật Chiêu, tôi đồng ý với ông Lý Đợi.

II. Về vài trò của NXBHNV:

1. NXBHNV đã trả tiền nhuận bút 2 lần in cuốn Câu chuyện dòng sông cho dịch giả Phùng Khánh, có chứng nhận của bên nhận. Bỏ qua chi tiết nhuận bút cho lần in năm 2001 phải cần tới 2 năm để đến tay người nhận (hoàn cảnh Việt Nam mình!), tôi cho rằng việc trả nhuận bút là việc đương nhiên, không thể coi là một thành tích của sự làm ăn "nghiêm túc" được. Hay mỗi khi đi ăn phở, trước khi rút tiền ra trả người ta phải hô to lên rằng: Trông này, tôi ăn phở có trả tiền đàng hoàng chứ không ăn gian đâu nhé!

Đó là việc bình thường mà mọi nhà xuất bản đều phải làm. Nghiêm túc, thực ra phải là kí kết rõ một hợp đồng, dịch giả phải được thoả thuận với nhà xuất bản mức nhuận bút và thời gian nhận nhuận bút, chứ không phải bỗng nhiên được nhận một khoản nhuận bút không do thoả thuận và không được biết trước. Dịch giả Phùng Khánh, sau này là ni sư Trí Hải, là người không "chấp" vào những sự vụ "trần tục" như vậy, như bà Thái Kim Lan đã thuật lại trong bài của bà về ni sư và cuốn Câu chuyện dòng sông. Nhưng nếu NXBHNV cho rằng có thể cứ tiếp tục làm như vậy, theo cái cách mà họ cho là đã đủ lương thiện lắm rồi ấy, mà gặp phải những dịch giả "khó khăn" hơn, không chấp nhận lề thói đặt người ta trước sự đã rồi như vậy, thì chắc sự thể không dừng lại ở những lời biên nhận vui vẻ đó, mà sẽ thành chuyện kiện tụng hẳn hoi. Vậy, theo cách nhìn của tôi, xin ông Lý Đợi chớ coi 2 lời biên nhận nhuận bút đó là bằng chứng cho cách làm việc nghiêm túc của NXBHNV, mà nên coi đó là biểu hiện của thái độ hoà nhã, rộng lượng, không "chấp" của phía dịch giả Phùng Khánh thì đúng hơn. Sự rộng lượng dễ dàng của bên này không nhất thiết nói lên sự đúng lẽ hợp tình của bên kia.

2. NXBHNV (bà Ý Nhi) đã hai lần viết thư xin lỗi (hoặc một lần viết thư xin lỗi, một lần yêu cầu bên liên kết viết thư xin lỗi) dịch giả Phùng Khánh. Theo tôi, việc xin lỗi riêng giữa NXB và dịch giả chỉ có hiệu lực giữa NXB và dịch giả, không có hiệu lực đối với công luận và độc giả. Độc giả như ông Việt Lang hay tôi không biết gì về vụ xin lỗi sau hậu trường và sau sự đã rồi này và cũng không có bổn phận phải đi tìm hiểu về vụ xin lỗi này. NXBHNV chưa bao giờ công khai công bố lời xin lỗi này trên công luận. Nếu không có bài viết của ông Lý Đợi, cũng chẳng ai biết có vụ xin lỗi ấy. Cho đến nay, đó cũng chỉ là tiết lộ riêng của bà Ý Nhi cho ông Lý Đợi, một cách gián tiếp tới công luận, chứ bà Ý Nhi không trực tiếp phát biểu trước công luận. Hơn nữa, talawas đã chính thức bị tường lửa, nên những xác minh gián tiếp này, dù có được phổ biến tương đối rộng ở trong nước thì vẫn là một xác minh gián tiếp và không chính thức đối với công luận trong nước. Tóm lại là nó vẫn chẳng làm ai đau!

3. Vì "cái tên Phùng Khánh rất là nhạy cảm" nên "ỉm" đi ở lần in thứ nhất, thế đã là quá thiếu lương thiện, bà Ý Nhi cũng đã biết rõ việc đó cũng như lí do của nó, đã không tán thành việc đó và đã phải xin lỗi dịch giả, vậy mà đến lần in thứ hai vẫn y chang như vậy, thậm chí tệ hơn, bệ luôn ông Bùi Giáng vào làm dịch giả. Theo bài viết của ông Lý Đợi thì NXBHNV dường như không có lỗi, vì đã...nhắc nhở bên liên kết. Trách nhiệm của NXB dường như chỉ dừng lại ở việc...nhắc nhở! Khi sản phẩm ra đời có khiếm khuyết, NXB chỉ việc nói rằng: Chúng tôi đã nhận ra khiếm khuyết đó, đã nhắc nhở bên liên kết, nhưng không hiểu sao họ không làm! Chúng tôi đã yêu cầu bên liên kết làm đính chính, còn khi ông độc giả Việt Lang mua sách mà tờ đính chính rơi đi đâu mất thì đó là chuyện của ông Việt Lang!

Ôi ông Lý Đợi ôi! Nếu vì cái tên ông hơi nhạy cảm mà tập thơ của ông được mang tên... Tố Hữu, và mỗi khi gặp một độc giả cầm trong tay tập thơ Tố Hữu ấy ông đều phải hỏi xem tờ đính chính (nội dung: Tố Hữu trong trường hợp này chính là Lý Đợi) có còn trong ấy hay đã rơi mất, thì chuyện này chỉ dzui với ông thôi. Nhóm Mở Miệng cũng có thể coi đó là một thành tựu mới của việc ướp xác ngay khi người ta còn chưa chết và thăng hoa nó lên hàng nghệ thuật. Nhưng độc giả như tôi mua sách là mua sách của một tác giả, dịch giả theo lựa chọn của mình, chứ không phải là cốt mua lấy cái tờ đính chính tên tác giả hay dịch giả. Thói quen làm một tờ đính chính lười nhác, cẩu thả, nhét rời ở đâu đó trong sách, đã là một thói quen khó chấp nhận. Nhưng đính chính gì thì còn thông cảm được, chứ đính chính luôn cả tên dịch giả nữa thì hết khả năng thảo luận!

Kết luận của ông Lý Đợi trong vụ việc Câu chuyện dòng sông này nghe sao mà quen: Bản dịch này đã "bị nhà liên kết đối xử không đúng luật, trước NXBHNV". Trên mọi tờ báo, mỗi khi có vụ nổi cộm nào đó trong ngành xuất bản, chúng ta lại được nghe điệp khúc "Cái này là do bên liên kết tự ý làm, chúng tôi đã có ý kiến nhưng họ không chấp hành". Ở mọi ngành, mọi cấp đều có điệp khúc ấy. Ai cũng "đã có ý kiến", nhưng thế nào cũng có một ai đó khác "không chấp hành", cuối cùng thì chẳng ai làm gì ai được. Cơ chế bán giấy phép vô tội vạ cho tư nhân làm liều chính là cách hợp thức hoá hoạt động xuất bản mafia mà các nhà xuất bản của nhà nước vẫn được vô tội. Nhà nước, như thế, có phải vô tình hay hữu ý mà thành nơi che chắn bất khả xâm phạm cho mafia không?

Tuy nghe quen, nhưng kết luận này lại khó phân tích, vì cụm từ "trước NXBHNV" mà tôi xin nhấn mạnh chữ trước, với tôi là có thể hiểu nhiều cách. Giả sử bây giờ tôi liên doanh với hãng "Cống Ltd." nhận làm 100 mét cống cho phường. Cuối cùng dù tôi đã nhắc nhở nhưng "Cống Ltd." chỉ làm 80 mét rồi rút quân, tôi có thể dùng cách nói này không: Hãng "Cống Ltd." đã có thiếu sót trong việc thực hiện hợp đồng với phường, trước tôi?

4. Cuối cùng ông Lý Đợi lập luận: không nên quy kết đạo lý cho NXBHNV, vì đây là trường hợp có thiếu sót duy nhất, chứ bình thường NXBHNV làm việc rất nghiêm túc, trong khi quang cảnh xuất bản xung quanh kinh khủng hơn nhiều.

Ông Lý Đợi ôi! Một người ăn cắp có thể tự xin lỗi bằng cách nói như thế này không: Đây là lần ăn cắp duy nhất của tôi, chứ bình thường tôi không ăn cắp, trong khi thiên hạ ai cũng ăn cắp cả? Hừm! Lập luận rất đúng... hoàn cảnh Việt Nam mình đấy! Nhưng cái lần duy nhất thiếu sót ấy của NXBHNV thực ra là 2 lần: năm 1992 và năm 2001. Nếu năm 1991 còn là «nhỡ tay» thì năm 2001 phải được coi là cố tình tái phạm rồi đấy ạ. Trong hoàn cảnh Việt Nam mình, vi phạm một lần, tái phạm một lần còn được coi là "trong sạch", ai có phê bình cũng nên căn cứ vào hoàn cảnh chung mà châm chước phải không?

5. Đọc báo, thấy các nhà xuất bản khi bị dư luận chỉ ra cuốn sách nào của nhà mình vi phạm luật tắc đều phải kí quyết định ngừng phát hành và thu hồi (dù có ngừng và có thu hồi thật hay không thì chẳng ai kiểm tra được!). NXBHNV (bà Ý Nhi), theo bài viết của ông Lý Đợi, không cần dư luận chỉ ra, mà đã tự phát hiện được ngay sự vi phạm bản quyền dịch giả, nhưng không đình chỉ phát hành, không thu hồi, mà vừa rũ trách nhiệm (cho bên liên kết) vừa lẳng lặng chấp nhận cho cái sản phẩm ấy lưu truyền. Bây giờ có ông Việt Lang lên tiếng thì lại được nghe lời đáp: Sự thật khách quan là chúng tôi đã xin lỗi dịch giả rồi mà! Dịch giả đã rất vui vẻ, thậm chí còn cảm kích nữa!

Xin thưa: Những cuốn sách ấy đã ra khỏi lò từ lâu lắm rồi, không lấy lại được, nhưng một lời xin lỗi độc giả bây giờ tưởng cũng không thừa. Muộn còn hơn không. Rút cuộc thì NXB không làm sách cho riêng các nhân viên của NXB và dịch giả đọc để biết riêng với nhau, mà làm cho độc giả. Luật lệ xuất bản không làm ra để cho riêng trường hợp của ni sư Phùng Khánh rộng lượng, mà là để áp dụng cho toàn xã hội. Hoàn cảnh Việt Nam mình bao giờ cũng cho phép một lời xin lỗi!

Cuối cùng tôi xin phép đưa ra một nhận xét: bà Ý Nhi và ông Lý Đợi, mỗi người đều là một nhà thơ cách tân của thế hệ mình, đi xa hơn phần lớn những nhà thơ cùng thế hệ. Nhưng khi ra khỏi việc sáng tạo riêng tư của cá nhân, vào việc đụng chạm đến cơ chế, xã hội,... thì cả hai dường như đều hao hao giống phần lớn những viên chức văn hoá khác, dù không nhất thiết phải ăn lương viên chức. Văn không phải là người vậy.

Phượng Các
#5 Posted : Wednesday, March 30, 2005 8:38:00 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
NHƯ SƯƠNG NHƯ ĐIỂN CHỚP… CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG

Thái Kim Lan


“Không còn biết nữa thời gian có hiện hữu hay không, cảnh trước mắt đã hiện ra trong một giây hay đã tròn một thếkỷ, không còn biết nữa đây là Tất Đạt Đa hay đức Thế Tôn, một tiểu ngả hay cái gì khác. Thiện hữu như vừa nhận mũi tên thần diệu đâm sâu vào trong chàng đem lại cho chàng niềm hân hoan. Vô cùng mừng rỡ, Thiện Hữu vẫn đứng một lúc, nghiêng mình trên nét mặt bình an của Tất Đạt mà chàng vừa hôn lên, nét mặt đã là sân khấu cho tât cả những hình hài hiện tại, vị lai. Vẻ mặt chàng không đổi sau khi làn gương của muôn nghìn hình thái đã biến mất. Tất Đạt mỉm cười bình an, hiền từ, nụ cười có vẻ đầy ơn huệ cũng có vẻ châm biếm, hệt như đấng Giác Ngộ đã cười. Thiện hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt không ngăn rỉ xuống khuôn mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, ngập tràn niềm kính cẩn. Chàng phủ phục qùy trước con nguời đang ngồi bất động, mà nụ cười nhắc chàng nhớ đế mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi giá trị và thánh thiện trong đời chàng.”

Hermann Hesse, Siddharta, Câu chuyện giòng sông, Phùng Khánh dịch, trang 165, tái bản song ngữ trong Tuyển Tập Văn Học Đức Việt, tập 3, Giao Lưu Việt Đức, 2002)

Những giòng chữ này đã đến với chúng tôi trong thập niên 60, trong những ngày tháng của tuổi trẻ bồng bột và hăng say, nơi đó khát vọng và đam mê còn đầy như giờ thủy triều đang lên, tình yêu và ảo vọng còn căng ứ như những cánh diều lộng gió, và mọi hứa hẹn còn là những thúc dục lên đường viễn khơi mạo hiểm. Giữa những ngổn ngang đam mê dại khờ đầy vọng tưởng cao xa và vọng ngoại như thế, “câu chuyện dòng sông” bỗng hé mở một thứ ánh sáng lạ lùng đến từ góc nhìn của một người nơi một hành tinh khác, phản ảnh như một tấm gương để nhìn lại mình, và bỗng thấy nhân vật chủ thể là mình đang vong thân xa lạ vơi chính mình. Mơ hồ câu hỏi tự vấn bỗng dấy lên ở một ngõ ngách nào đó trong dòng ý thức sống mà chính mình trong vô minh và ham muốn chưa nhận được chân tướng bản lai. Một câu hỏi từ đó đi theo cả suốt đời người, như một tìm kiếm, không phải hòng mong tìm được một vật thể ở ngoài để sở hữu trong tay. Trực giác của tuổi trẻ chỉ báo tin rằng, đây là một hành trình ngược chiều, trên con đường tìm về nội tâm, để gặp điều mà Thái tử Tất Đạt Đa mấy nghìn năm trước đã chứng ngộ…

Tôi đã gặp chị Phùng Khánh lần đầu tiên như thế, không bằng hình hài, mà qua “câu chuyện dòng sông” hay “Siddharta” của H. Hesse, qua ngọn bút dịch thuật tài hoa của chị. Như một kẻ đầu đàn trong giới lưu nữ tiếp cận với văn hoá tây phương, Phùng Khánh đã khám phá “Siddharta” như một của báu và trao lại cho chúng tôi. Từ đó không thể nào quên những giây phút lạ lùng giữa những cuốn hút của giòng văn, con mắt của chính mình đã hơn một lần choàng tỉnh nhận ra “của báu trong nhà tìm kiếm mãi” đang được một người ngoại cuộc nâng niu, rồi có một ngưòi chung cuộc trang trọng trao lại cho mình. Bỗng như một liên cảm, tuy chỉ văn kỳ thanh mà đã thấy tri ân chị Phùng Khánh xa lạ chưa quen

Khi tôi gặp chị trong phong trào Phật giáo giữa năm 1964 – 1965 thì chị đã là Sư Cô Trí Hải trong chiếc khăn bịt đầu và tấm áo nâu đơn giản, đã là một cánh tay đắc lực cho qúy ôn và qúy Thầy trong công việc Phật sự văn hoá. Trong một giây tôi đã nghĩ rằng : chị đã lên đường rồi đây, cương quyết hơn tất cả những người cùng thế hệ, giả từ cuộc chơi phiêu lưu ảo tưởng là cuộc đời nhiều hứa hẹn cám dỗ. Chị đang cất bước trên “đường về nội tâm”, làm cuộc thể nghiệm đích thực theo dấu vết của nhân vật siêu nhiên Tất Đạt Đa. Bỗng thấy có một chút kính nể và sợ hãi nơi dáng điệu khắc khổ và nghiêm trang của vị nữ tu trẻ tuổi này. Gương mặt và đôi mắt sáng ngời tỏa ra nghị lực nội tâm không có gì có thể lay chuyển trong chí nguyện tu học, sư cô Trí Hải đã không ngừng thể hiện tri và hành trong thế nhất quán Bi Trí Dũng của lời dạy Đức Phật và của các bậc Đạo sư. Đôi khi quá nghiêm khắc và nghiêm minh đến nỗi làm e dè những kẻ hay dễ dãi vơi chính mình trong việc tu tâm. Ni cô đã nổi tiếng trí tuệ nhất mực, chuyên cần nhất mực, giữ giới nghiêm túc không ai bằng, nhưng không bao giờ tự mãn. Có lần sư cô đã tâm sự sau khi sư bà Diệu Không, HT Thiện Siêu viên tịch : rằng sự học nơi những vị tôn sư không bao giờ cạn, luôn luôn ta có thể khám phá nơi người đi trước những NÉT ĐẠO tuyệt đẹp mà chỉ những giờ phút gần gũi ta mới thụ nhận được. Không cần một chút son phấn phù hoa, người nghe bỗng thấy được tham dự trong một vùng ánh sáng rực rỡ của vẻ đẹp tinh thần đến từ đức hạnh cao qúy của vị nữ tu.

Chính vẻ đẹp cao qúy tổng hợp được những nét của con người Phật tử Viêt nam bằng trí tuệ và tình thương này đã có sức mạnh thuyết phục những ngừơi xa lạ. Có lần một sinh viên Đức làm luận án cao học về so sánh các tôn giáo hỏi tôi về PGVN và những vị trong hàng giáo sĩ. Tôi đã giới thiệu các vị tôn túc ở VN. Sau chuyến đi tham khảo, sinh viên ấy trở lại Đức, gặp tôi để cám ơn đã cho anh ta cơ hội gặp, tìm ra và hiểu được PGVN qua một vị nữ tu sĩ. Ngưòi sinh viên đã tả hình dáng và gương mặt của vị mà từ đó anh ngưỡng mộ là vị Thầy VN. Tôi nghe và biết đó là sư cô Trí Hải. Hôm ấy tôi đã vui và hạnh phúc như chính mình được gặp cố nhân.

Một người Đức khác, xúc động nghe tin Ni Sư viên tịch, gặp Ni Sư trong công tác từ thiện hơn 10 măm, TS W. Boehme của Hội W.P. Schmitz - Stiftung, đã nhận chân được ý nghĩa sâu xa đạo Phật nằm trong từ bi và trí tuệ qua hành sự cùa Ni sư. Ông đã từng nói : chương trình cứu trợ từ thiện nào ở VN có sự đỡ đầu của Ni Sư Trí Hải đều nên được bảo trợ.

Không gặp sư cô, những lúc như thế tôi cảm nhận được thọ ơn đầy an lành !

Trong những năm sau, có thể nói mỗi lần gặp Ni Sư Trí Hải là mỗi lần vui pha lẫn với kính trọng. Vui trong niềm an lạc, vì nhận ra bước chân của sư cô càng lúc càng thanh thoát nhẹ nhàng, mọi chiến đấu nội tâm trong thuở ban đầu không để lại đấu vết, tâm hồn nghệ sĩ thoáng mát trên gương mặt sáng rỡ nụ cười rộng lượng. Không chỉ còn một con đường nội tâm hạn hẹp mà Nụ cười ấy là muôn nẻo vào cửa Giác Ngộ : “bạn có thể vào Thiền bằng bất cứ ngõ nào, vì toàn thể đời sống là một thiền định sâu xa : núi đồi, trăng sao, hoa lá, cây cỏ, toàn trái đất đều đang nhập định. Bởi thế, bât cứ gì cũng có thể trở thành ngõ vào thiền” (Thích nữ Trí Hải, Cảm hứng từ những Pháp thoại Osho, viết theo lời thỉnh nguyện của TKL, website Khuông Việt)

Từ nơi xa, đọc những lời của sư cô, thấy như tâm được chỉ nơi an trú và biết rằng ni sư Trí Hải đang cười khi nghe những kẻ còn vướng tục lụy như tôi đang làm chay hát bội trong cõi ta bà, rằng Ni Sư cũng muốn có một tấm vé đi xem hát như một người mê hát, chỉ khác chúng tôi một điều : nơi sư cô “mê ngộ” đã trong suốt như tiếng cười pha lê. Và tôi đã đinh ninh an tâm như thế ở nơi phương trời xa: biết rằng nơi quê nhà, - thảng lúc tôi có dịp quay về, ở đó có một dòng sông đang chảy, và có một cô lái đò với nụ cười đang thong dong chờ những kẻ biết quay về muốn qua sông mà bơ vơ không có người chỉ nẻo.

Tin sư cô liễu sinh đã đến với em trong một tâm thức như thế, thưa sư cô ! Chắc chắn sư cô đang cười và đưa một ngón tay lên trong thế hoa sen và bảo rằng : “chị Kim Lan thấy chưa, chị đang chấp vào một hình ảnh ! Chị còn mê mờ lắm ! Chị chưa thiền !” Cô đã nói : “Khi Thiền định, ta thấy mình chỉ như một làn sóng trên đại dương cuộc đời. Nói cho cùng thì chỉ có biểu hiệu sự hiện hữu mà thôi. Không thể có những làn sóng mà không có biển. Sóng chỉ là hiện tượng mà biển chì là thực chất.” (đã dẫn trên)

Quả thật như thế, thưa sư cô, tin sư cô và cùng với hai thị giả là cô Tuệ Nhã và Phước Tịnh đã như một tiếng sét, như ánh chớp vụt đến làm rụng rời. Nhưng ngay sau giây phút bàng hoàng, không hiểu sao từ lúc ấy hình ảnh sư cô hiển hiện trong tâm không dứt : thong dong, tự tại, hoan hỉ, cô đang cầm tay hai ngưòi đệ tử cùng đoàn lữ nhân du hành trên biển cả. Vũ trụ đang quay cuồng trong pháp hữu vi “mộng huyển bào ảnh”, cô đang cùng đệ tử vượt cơn sóng dữ trong nụ cười :

“Chúng ta cũng chỉ là những làn sóng trên đại dương và vũ trụ. Hơi thở vào của mỗi người là hơi thở ra của người khác và của cây cối, mọi sinh vật khác. Trong ta có toàn thể mọi người, mọi sự.” (TN TH, đã trích dẫn).

Có phải không Tuệ Nhã và Phước Tịnh và những ngưòi lâm chung ?, có phải hai vị đang cùng với Ni Sư đang vượt giông tố để đến vùng ánh sáng móng trời? Cô Tuệ Nhã ơi, em đã giật mình khi nhận ra cô trên di ảnh, sư cô có cặp mắt đen như hai hạt nhãn, nét mặt sáng như sao, người ốm nhỏ như sóc, mỗi lần gặp cô ra mở cửa, là mỗi lần kính phục ni sư Trí Hải thâu dạy đệ tử nghiêm minh mà hoà ái, tao nhã mà ân cần, là mỗi lần thương qúy các sư cô vô hạn. Biết rằng qúi cô thương yêu và qúi trọng vị thầy của mình bất diệt. Hai sư cô đang bỏ dòng sông như sương như điển chóp theo Thầy trên đại đương bao la. Có phải hai sư cô là ngôi sao, hay cánh bướm, hay hoa ngâu trong vườn ưu đàm, rơi trên vạt áo ni sư trưởng đang chỉ nẻo vào cõi vô sanh ?

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Saigon 11. 12. 2003
Phật tử Thái thị Kim Lan cẩn bái


Phượng Các
#6 Posted : Wednesday, May 4, 2005 9:44:33 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Tác phẩm của Thích Nữ Trí Hải:

http://www.thuvienhoasen...index-tacgia-trihai.htm


Phượng Các
#7 Posted : Sunday, May 8, 2005 5:51:40 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Tưởng niệm Ni Sư Trí Hải.

Trần Văn Khê.

Trên đời có những cơ duyên rất lạ.

Người dẫn đường tôi đến gặp Ni sư Trí Hải là Tôn Nữ Hỷ Khương hiền muội.



Mùa Xuân năm 1992, lần tôi về nước làm việc, một hôm, Hỷ Khương nói với tôi: "Có một ni sư, trong họ hàng nhà em, có ý muốn mời hiền huynh nói chuyện về âm nhạc truyền thống Việt Nam tại Thiền viện Tuệ Uyển, cho các ni cô. Ni sư nầy là một trong những người nữ tu có văn hoá rất cao và uy tín rắt lớn. "Tôi đã nhận lời, và đến ngày định trước, Hỷ Khương đưa tôi đi đến Thiền viện. Trên xe tắc xi, Hỷ Khương hỏi tôi có chuẩn bị đề tài nào chưa tôi trả lời : "Lẽ tất nhiên anh sẽ nói về âm nhạc truyền thống Việt Nam" Nhưng chưa biết nói về bộ môn nào cho các ni cô nghe".



Tới Thiền viện, tôi ngạc nhiên khi gặp Ni sư Trí Hải lần đầu. Hỷ Khương đã giới thiệu với tôi một ni sư "uy tín rất lớn", tôi hình dung một ni sư đứng tuổi, trang nghiêm. Đến chào tôi, là một ni sư trẻ hơn tôi tưởng tượng, nét mặt hiền hòa đôn hậu, gương mặt và đôi mắt sáng ngời, trên môi có một nụ cười thanh thoát, cuối đầu chào khách và lễ phép mời tôi vào Thiền viện. Có mấy chục ni cô mặc áo tràng cuối đầu chào diễn giả. Đã nhiều lần, tôi lựa đề tài tùy theo đối tượng. Hôm nay, cũng trong di sản âm nhạc Cha ông để lại, tôi đặt trọng tâm vào tiếng hát ru và cấu trúc của tiếng hát ru mỗi miền cũng là cấu trúc âm thanh cho những bài tụng niệm trong vùng đó. Rồi tôi giới thiệu các cách tụng, niệm, tán rơi, tán xấp, tán trạo. Ni sư và các ni cô tán thưởng nồng nhiệt. Trong câu chuyện ngắn ngủi, trước và sau buổi thuyết trình, tôi nhận thấy nơi Ni sư, một tâm hồn cởi mở, có thể nói là rất "nghệ sĩ" khi đề cập đến vấn đề văn hoá Việt Nam.



Mùa hè năm 92, tôi bị tai nạn xe, xe tan nát mà thân thể tôi còn nguyên vẹn, Hỷ Khương hiền muội đã đêm đêm tụng kinh cầu an cho tôi trong 49 ngày. Và có cho tôi biết rằng Ni sư Trí Hải cũng có cầu an cho tôi. Và từ đó tôi đã mang ơn lòng đối với Ni sư.



Mùa Thu năm 94, tôi lại đau một trận thập tử nhứt sinh. Hỷ Khương có tỏ ý lo ngại cho sức khoẻ của tôi khi gặp Ni sư. Thì người đã đề nghị sẽ cầu an cho tôi tại Thiền viện và hỏi Hỷ Khương pháp danh của tôi. Hỷ Khương trả lời là không biết. Mà cũng chẳng rõ tôi có pháp danh hay không? Tôi không phải là Phật tử, nên không có pháp danh, mặc dầu đã nghiên cứu về âm nhạc trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, đã thuyết trình về đề tài nầy tại nhiều Thiền viện. Ni sư đề nghị đặt pháp danh cho tôi là Nguyên Sơn. Nguyên là họ một dòng trong Phật giáo. Sơn vì tôi tên Khê. (và trong Kiều cũng có câu "Phong trần đến cả sơn khê ") Bỗng nhiên vì lòng vị tha muốn cho tôi dược ơn trên che chở, ni sư đã ban cho tôi một pháp danh, và trải qua 5 tuần lễ trong bịnh viện, và năm tháng điều trị tại gia, tôi đã tai qua nạn khỏi.



Lại một lần nữa mang ơn lòng của vị Ni sư khả kính.

Mùa Thu năm 1998, Hỷ Khương lại cho tôi biết Ni sư Trí Hải muốn mời tôi nói chyện về âm nhạc tại Thiền viện Tuệ Uyển. Tôi nhận lời ngay vì ít nhứt cũng là một dịp để trả ơn Ni sư và các ni cô đã thành tâm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi, "cho chữ cát thế chữ hung" như Hỷ Khương đã viết trong mấy bài thơ "Ánh Văn Tinh" tặng tôi mỗi lần tôi thoát khỏi tai ương nhờ Trời thương Phật độ.



Nhưng mấy hôm sau, tôi được một búc thư của Ni sư cho tôi biết rằng, buổi nói chuyện về âm nhạc của tôi, trước dự định cho Thiền viện Tuệ Uyển, nay xin đổi lại thành buổi nói chuyện trong một nơi rộng lớn hơn, là Thiền viện Vạn Hạnh, sẽ có nhiều người dự hơn, ngoài một số chư tôn Hòa thượng, Thượng toạ, Đại đức, có học viên lớp Cao cấp Phật học, có tăng ni đến từ nhiều nơi, có hội viên Hội Phật Học và gia đình, lại được Hòa thượng Thích Minh Châu chủ tọa và đích thân Hòa thượng lên giới thiệu diễn giả. Thật là một vinh dự rất lớn cho tôi.! Hỷ Khương có cho tôi biết là Ni sư Trí Hải sau khi nghe tôi nhận lời nói chuyện tại Tuệ Uyển thiền viện, có bàn với Hỷ Khương là Ni sư có ý muốn cho đông đảo thính giả được nghe tôi nói chuyện về âm nhạc truyền thống Việt Nam, và nhứt là biết những đặc điểm trong âm nhạc Phật giáo Việt Nam so sánh với nhạc Phật giáo trong vài nước châu Á. Tôi rất xúc động và khâm phục người lúc nào cũng có thái độ vị tha.



Hôm đó (ngày mùng 6 tháng 10 dương lịch năm 1998), sau buổi nói chuyện tôi có gặp Ni sư, và cám ơn Ni sư đã tạo điều kiện cho tôi được nói chuyện về nhạc trong truyền thống Phật giáo Việt Nam cho rất nhiều thính giả. Ni sư nhẹ nhàng không nhận lời cám ơn, mà còn cám ơn tôi đã chịu khó nghiên cứu trong bao tháng năm về âm nhạc truyền thống Việt Nam, và khen tôi nói chuyện về nhạc Việt Nam không phải bằng khối óc mà bằng con tim, nên lời nói mới đi thẳng vào lòng người nghe.



Tôi nhân dịp đó cám ơn Ni sư đã cầu nguyện cho tôi được qua khỏi tai ương. Ni sư lắc đầu trả lời: "Giáo sư đừng bận tâm về việc ấy. Chúng tôi không có cầu nguyện cho cá nhân Giáo sư Trần Văn Khê mà cầu nguyện cho người suốt đời đi giới thiệu tiếng nhạc Việt Nam trên khắp năm châu".



Tôi cuối đầu từ giã người Ni sư mà trí tuệ, đạo đức và hành sự làm tôi vô cùng kính phục, một người tuy ít có cơ hội tiếp xúc tôi, mà hiểu tôi và công việc tôi làm như một người tri kỷ, tri âm.



Hỷ Khương từ năm 1992, đã cho tôi được gặp và biết Ni sư Trí Hải.

Lại cũng chính Hỷ Khương, qua điện thoại báo tin Ni sư Trí Hải đã viên tịch, vì tai nạn giao thông. Thoạt tiên tôi bàng hoàng, sửng sốt, và như người phàm phu tục tử, chỉ biết nhờ Hỷ Khương thay tôi, đem một tràng hoa phúng điếu người quá cố. Và chúng tôi cũng có nhắc đến luật vô thường. Nhưng khi định hồn lại, tôi thấy Ni sư tuy rời khỏi trần thế, đang an nhiên," tâm vô quái ngại", đi trong một vùng "bất sanh bất diệt" và luôn luôn như Kim Lan đã viết, làm "cô lái đò với nụ cười, đang thong dong chờ những kẻ biết quay về, và muốn qua sông mà bơ vơ không có người chỉ nẻo"



Ni sư Trí Hải sẽ sống mãi trong lòng của mọi người.



Trần Văn Khê.
Phượng Các
#8 Posted : Sunday, May 8, 2005 5:53:30 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Sư Cô Trí Hải không còn nữa



Nguyễn Tường Bách



Thiền viện Vạn Hạnh trên đường Nguyễn Kiệm tại thành phố Hồ Chí Minh là một tòa nhà uy nghi to lớn. Bên cạnh thiền viện là một con hẻm nhỏ dẫn đến một ngôi chùa khiêm tốn, được gọi là tịnh thất của các tỉ kheo ni. Mỗi lần khách bấm chuông lại thấy một ni cô tuổi còn trẻ chạy ra cẩn thận hỏi tên khách mới mở cửa.



Kể từ hơn mười lăm năm nay, mỗi lần về thăm nhà tôi đều đến đó bấm chuông để tìm gặp và thăm Sư Cô Trí Hải. Thường thì tôi đến buổi sáng hơi muộn giờ, ngồi chưa đầy một tiếng đã thấy nhà chùa chuẩn bị thọ trai nên tôi xin về. Tuy thời gian không nhiều nhưng mỗi lần tôi vẫn cảm nhận một thiền vị nhẹ nhàng, quên hẳn mình đang ngồi không xa đường Nguyễn Kiệm ồn ào đầy tục lụy của những hàng quán gần đó. Ngồi ngoài sân chùa, tôi thường được nghe tiếng tụng kinh trong trẻo và đầy khí lực của các vị ni và nhất là được nghe Cô Trí Hải đàm luận Phật pháp. Từ lúc ban đầu tôi đã gọi Cô bằng "cô" và về sau giật mình khi nghe các vị ni khác cũng như các vị cư sĩ đến thăm đều gọi Cô bằng "sư". Thế nhưng đã lỡ thì tôi cho lỡ luôn và hình như Cô cũng không quan tâm gì đến việc xưng hô.



Thời gian trước khi gặp Cô tôi đã biết Cô là một tu sĩ Phật giáo xuất sắc, giỏi ngoại ngữ, giỏi viết văn dịch sách, yêu văn thơ. Nghe tôi dịch sách Phật, Cô tặng tôi cuốn từ điển Pali-Việt do Cô soạn. Hồi đó cuốn từ điển đó được đánh máy trên giấy pelure mỏng dính. Trong những năm tám mươi, tôi chưa kịp mong Cô đi học đánh máy vi tính thì ngày nọ nghe Cô nói:

- Thì ra cái máy vi tính hắn cũng giống tâm người.

- Giống chỗ nào Cô?

- Mình ở trong một cái file nào thì mình không thể erase nó. Mình ra khỏi file thì mới erase nó được.

- Thì giống chỗ nào?

- Tâm cũng thế thôi. Đang giận thì khó biết mình đang giận lắm, khó ra khỏi lắm.



Thì ra Cô đi học vi tính để viết lách mà Cô cũng không quên Phật pháp. Tôi nghiệm ra rằng Cô sống trong nhận thức luận của Phật pháp nên không có chuyện "quên" hay "không quên". Mỗi lần ghé thăm tôi đều mang theo ít sô-cô-la, thực tế là tôi không biết đem theo vật gì ngoài thứ đó. Có lần Cô nói:

- Cứ mỗi lần anh về thì tôi thấy mình như con nít, được sô-cô-la.



Thực tình tôi không biết Cô bao nhiêu tuổi và thấy không có gì quan trọng để hỏi. Tôi chỉ thấy Cô thực là dẻo dai, đi cứu trợ đường xa dài ngày không biết mệt. Nhìn quanh thấy nhà chùa chất đầy mì gói, tôi hỏi Cô:

- Sao Cô không đem tiền phát cho khỏe, đem phẩm vật vừa cồng kềnh vừa mua bán mất công?

- Biết thế nhưng đem cho tiền, đàn ông họ lấy đi nhậu hết cả, vợ con không còn gì. Cuối cùng mì gói vẫn hơn.



Thì ra đi cứu trợ mà cũng có chiến thuật chiến lược hẳn hoi. Thời gian giữa các lần cứu trợ Cô dùng để nhập thất hay dạy học, viết lách, dịch thuật. Ngày nọ tôi nói với Cô:

- Thưa Cô, con tìm được một chữ dịch cho từ appearance hay lắm, chữ đó ta nên dịch là "sự trình hiện".

- Hay chỗ nào?

- Đó, thì sự vật "trình hiện" lên đúng như tâm thức của ta. Đúng quá chứ còn chi nữa

- Tôi thì tôi dịch là "giả tướng".

- Thưa Cô, trong chữ "giả tướng" có chữ "giả". Mà nói "giả" tức là ta phê phán rồi. Ta không được phê phán, ta phải khách quan.



Cô cười khanh khách. Tôi không rõ tại sao lần đó Cô cười lớn, Cô thú vị điều gì? Tôi nghiệm ra rằng chỉ đối với Cô Trí Hải tôi mới mạnh dạn nói những điều tôi nghĩ. Tôi đã từng gặp các vị tu sĩ khác và ít có những cuộc đàm luận tự nhiên và bình đẳng như với Cô. Một điều đặc biệt nữa là Cô biết lắng nghe. Có lẽ đó là điều mà Cô học của Hoà thượng Thiện Siêu. Thầy Thiện Siêu và Cô là hai người mà tôi được gặp, hai vị tu sĩ chịu lắng nghe những ý kiến của một người tại gia sơ cơ như tôi.



Đời sống xã hội của Cô có nhiều phiền toái, Cô cũng chịu lắm điều khổ nạn. Ngày nọ Cô nói với tôi:

- Tôi mong kiếp sau sẽ được tái sinh ở cõi Phật A-di-đà. Tôi không muốn làm kiếp người nữa.



Cô nói với một giọng thanh thản và vững chắc. Tôi không ngạc nhiên lắm mặc dù thông thường Cô ít nói về cõi Cực lạc phương Tây. Phải thôi, kiếp của một ni sư trong đời làm người thật là khó khăn, nhất là khi trên thế giới bóng tối nhiều hơn ánh sáng. Con người phải kiên quyết lắm, nghị lực lắm mới vừa giáo hóa học trò, vừa đi cứu trợ, vừa sống trong thế gian tục lụy, vừa trau dồi Phật pháp, vừa tự mình sáng tác, vừa dịch thuật và giới thiệu kinh sách. Ai đã từng sống ở Thành phố Hồ Chí Minh ồn ào hẳn phải biết đây thật là một điều bất khả. Ngày nọ Cô nói:

- Anh biết không, Ngài Đạt-lai Lạt-ma có thần thông đó nghe.

- Thiệt không Cô, sao Cô biết?

- Cách đây không lâu tôi có viết thư cho Ngài xin một tấm hình. Không ngờ, không những Ngài gửi cho một tấm hình mà còn có cả chữ ký nữa. Vừa rồi đây, tôi dịch một tác phẩm của Ngài và nguyện chỉ uống nước thôi, không ăn suốt mười ngày để dịch cho xong. Tôi để tấm hình của Ngài trước mặt và quả nhiên không hề thấy mệt mà còn khỏe lên nữa.



Sau đó Cô gọi người đem tặng tôi một chồng sách do Cô viết và dịch, trong đó có tác phẩm nọ của Đạt-lai Lạt-ma. Cô lắng nghe tôi kể đã gặp Ngài tại Bonn và lời tôi tâm sự, sao giọng của Ngài nghe rất quen thuộc đối với tôi. Cô muốn nói điều gì nhưng cuối cùng giữ im lặng.



Ngày nọ trên đường từ Tây Tạng về, tôi "gùi" trong ba-lô một bức tượng của bồ-tát Văn Thù đem đến cúng dường trong chùa. Tôi biết tuy Cô mong thác sinh về cõi Cực lạc nhưng con người của Cô không phải chỉ chuyên tâm niệm Phật mà là người lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Thế nên Văn Thù tay cầm kiếm bén chém màn vô minh phải là tính cách của Cô. Và quả như thế, nội dung của các câu chuyện giữa Cô và tôi đều thuộc về nhận thức luận, lý giải cảnh đời, cảnh người, tác động của nghiệp, về các bậc thầy đã xuất hiện trên thế gian trong thế kỷ 20. Ngày nọ Cô nói:

- Đau răng mới biết rõ ý nghĩa của vô ngã!

- Răng cỏ với vô ngã ăn thua gì đâu Cô?

- Khi răng không đau thì mình không để ý tới hắn, coi như không có. Khi hắn lên tiếng là có chuyện. Cũng thế, nếu mình vô ngã thì môi trường xung quanh mình sẽ rất dễ chịu. Còn mình lên tiếng "có tôi đây" thì có chuyện ngay. Bởi vậy muốn lành mạnh là vô ngã, vô ngã là lành mạnh.



Lần nọ tôi kiếm thăm Cô và kể chuyện vừa đi chiêm bái Linh Thứu ở Ấn Độ về. Cô chăm chú nghe và mừng cho tôi được đi thăm các thánh địa. Tôi hơi có chút xấu hổ vì kẻ nhập môn như mình mà đã được đi chiêm bái, còn Cô thì chưa. Trong giọng nói của Cô tôi nhận ra có một niềm mong ước rất lớn được đi thăm dấu chân của Đức Phật.



Cách đây chưa đầy một năm, cuối tháng 12 năm 2002, Cô đưa chúng tôi về thăm tịnh thất tại Nhà Bè và Hóc Môn. Nhờ Cô mà tôi được gặp thầy Nhật Từ trong lần này. Thầy Nhật Từ gọi Cô bằng "Ni trưởng" hết sức trân trọng, còn tôi xưng hô cứ như cô cháu trong nhà. Nhà Bè là một cơ sở nuôi dạy các cháu mồ côi, nay đã khang trang. Còn Hóc Môn là một ngôi chùa khiêm tốn mới xây, có phòng giảng pháp và lớp cho trẻ em học. Đất ở Hóc Môn do một đệ tử cúng dường để cho Cô có một chỗ yên tĩnh để làm việc và nghỉ ngơi, xa bớt đường Nguyễn Kiệm bụi bặm. Chúng tôi ngồi uống trà trong một cái cốc lợp bằng tre lá, nghe tiếng gió bên ngoài xào xạc chen giữa các hàng cây. Tôi nói giọng cải lương:

- Bây giờ Cô cũng có một chốn để về rồi!

- Tôi mà cũng có phước báo sao?



Chúng tôi mỉm cười. Phước báo hiểu theo nghĩa nhà đất, tài sản thì đúng là xưa nay Cô không có và Cô cũng chưa bao giờ cần có. Bao nhiêu năm gặp Cô tại Nguyễn Kiệm chưa bao giờ tôi nghe Cô nói cần một cái gì, thậm chí chưa bao giờ Cô than "không có thì giờ". Còn hiểu phước báo là tài năng và trí tuệ thì Cô có thừa và đang chia sẻ cho tăng ni sinh của Cô. Trong dịp này Cô cho hay là được cấp lại hộ chiếu rồi. Tôi thầm mong có đủ nhân duyên để Cô đi thăm thánh địa và qua châu Âu thăm Phật tử một chuyến.



Ngày 11.10 năm 2003 vừa qua, tôi lại bấm chuông nơi chiếc cửa sắt màu bạc của ngôi chùa nhỏ trên đường Nguyễn Kiệm. Ni cô thị giả mở cửa cho tôi vào. Vị ni cô cho hay cách đây vài tháng Sư bị té ngã nằm nhà thương tưởng nguy hiểm tính mạng nhưng bây giờ lành rồi. Gặp tôi Cô tiếp câu chuyện tai nạn đó và kể:

- Lúc tôi té xuống, thật tâm tưởng mình sắp chết, tôi hết sức vui mừng sắp thoát được kiếp người

- Thật sao Cô?



Tôi ngẩn người nhìn Cô. Nhưng tôi liền nhớ ngay đến câu chuyện Cực lạc phương Tây và tin là Cô nói thật. Đúng thôi. Đối với một người sống từ nhỏ trong Phật pháp như Cô thì sống chết có nghĩa gì, chết là đi từ một cảnh giới này qua một cảnh giới khác thôi. Tôi bỗng nhớ đến thân phận mình:

- Cô được tự tại như thế chứ con thì không. Người tại gia bị vướng bận lắm Cô ạ. Vướng bận vợ con, nhất là con cái. Con không biết tới cái ngày đó mình sẽ ra sao.

- Ừ thì tại gia xuất gia chỉ khác nhau chỗ đó



Cô nói nhỏ tiếng. Tôi ngẫm nghĩ một lát:

- Nhưng nếu cho con được ước nguyện thì con không thích về cõi Cực lạc. Con thích về cung trời Đâu suất nghe Đức Di-lặc giảng pháp hơn.

- Anh coi chừng về Đâu suất thì phải nhớ Đâu suất nội viện nghe

- Đâu suất mà cũng có nội ngoại sao Cô?

- Có chứ. Ngài Di-lặc ở Đâu suất nội viện còn Đâu suất ngoại viện chỉ là vòng ngoài vui chơi hưởng lạc thôi.



Thấy tôi cười, Cô nói tiếp:

- Thì cũng như có người tới chùa không vô nội điện lạy Phật mà chỉ ở vòng ngoài ăn cơm chay thôi.



Tôi càng cười lớn tiếng. Tôi ghé qua nội điện của chùa thì thấy tượng Văn Thù "của tôi" được thờ ở đó, nhưng lại có thêm một bức thứ hai. Cô nói có một Phật tử ở Hồng Kông cũng thỉnh về một bức Văn Thù cho Cô. Cô nói trí huệ thì không bao giờ đủ. Thứ bảy hôm đó Cô hẹn tuần sau tôi hãy đến trình bày đề tài "Sự tái sinh trong quan điểm của đạo Phật":

- Bắt đầu sáu giờ sáng đó nghe. Anh dậy sớm nổi không?

- Dạ được chứ!



Tôi mạnh miệng như thế chứ không ngờ tăng ni sinh của cô bắt đầu khóa học sớm như vậy. Tuần sau, ngày 18.10 tôi dậy năm giờ sáng, lần đầu tiên tôi cả gan đi giảng bài cho môn đệ của Sư Cô Trí Hải. Đường từ quận năm đến Nguyễn Kiệm khá xa, xem như chạy từ đầu này qua đầu kia của thành phố. Đến nơi đúng sáu giờ thì các vị tăng ni sinh đã ngồi đầy sân, có vài vị cư sĩ do Cô thân hành mời riêng. Tôi bắt đầu buổi trình bày và thấy Cô ngồi tuốt đàng sau, gần các vị cư sĩ. Sau này mới biết Cô chu đáo ngồi xa nhất để xem người ngồi sau có nghe rõ. Trong phần trình bày tính chất của ý chí và ước nguyện, nói rằng những niệm lực này có thể tồn tại từ đời này qua kiếp khác, tôi lấy thí dụ:

- Ví như đời này ta có ước nguyện đi hành hương đất Phật mà chưa đủ điều kiện thì ước nguyện đó vẫn tồn tại và đợi nhân duyên hình thành, đời sau hay đời sau nữa sẽ thực hiện được.



Tôi bất giác nhìn Cô, thấy Cô mỉm cười gật đầu. Tôi cảm nhận có một sự rúng động nơi Cô. Ngờ đâu, đó là lời thưa gửi cuối cùng của tôi đối với Cô.



Chưa đầy hai tháng sau, chiều chủ nhật 7.12 tôi đọc một bức điện thư của một người bạn cho hay Cô đã bị tai nạn từ trần. Nửa tin nửa ngờ tôi gọi ngay về Nguyễn Kiệm. Một ni cô giọng đầy nước mắt xác nhận hung tin kinh hoàng đó. Sau khi viết thư báo tin cho thầy bạn, tôi tự hỏi năm nay Cô bao nhiêu tuổi. Trước sau, tôi vẫn không biết đến tuổi Cô.



Tôi vào Google, gõ từ "trí hải". Vô số tài liệu mang tên Cô hiện ra. Tôi lạc vào một website nọ và chợt thấy tác phẩm "Tâm bất sinh", ngữ lục của thiền sư Bankei[1], Việt dịch Thích Nữ Trí Hải. Tôi đọc lại "ghi chú của người chuyển ra Việt ngữ" và nhận ra lại văn phong nhẹ nhàng, lấp lánh trí huệ của Cô. Chiều nay lời văn vô cùng sống động như Cô đang trực tiếp nói với tôi. Tôi đọc lại Bankei và chợt thấy lời dạy của Ngài thật giống với Krishnamurti, một người mà Cô Trí Hải cũng vô cùng quí trọng và đã dịch khá nhiều.



Khi tôi đọc xong thì bên ngoài trời đã tối. Cô ra đi đã hơn sáu tiếng đồng hồ rồi. Cõi nhân sinh lại vắng thêm một người đầy tài năng, đức hạnh và nhiệt tâm phục vụ con người và đạo pháp. Ôi, những con người này càng ngày càng ít ỏi. Tôi lại không tìm thấy số tuổi của Cô vì mải đọc Bankei nhưng bây giờ điều đó không còn quan trọng nữa. Tâm bất sinh thì làm gì có tuổi. Tôi đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Trăng 14 rực sáng trong một bầu trời hoàn toàn không mây hiếm có của mùa đông châu Âu. Ánh trăng dường như có màu xanh, in rõ bóng đậm của mái nhà trên vách tường. Tôi đang đau buồn nhưng biết đâu Cô đang tiêu dao cùng trăng sao? Cô chẳng đã nói "vui mừng sắp thoát được kiếp người" ư?



Nghĩ lại thì ra trước khi chia tay, tôi kịp thưa gửi Cô một câu về chuyện hành hương, còn Cô cũng kịp nhắn gửi cho tôi một câu về lòng "vui mừng". May cho tôi được nghe câu đó, nếu không thì lòng tôi bây giờ đau xót đến bao nhiêu. Thế nhưng vẫn xin hỏi Cô, Cô có nhất định muốn thác sinh về cõi A-di-đà hay cuối cùng Cô "đổi ý" tái sinh làm lại kiếp người để tiếp tục giáo hoá và để đi thăm thánh địa?

NTB

9.12.2003


[1] Bàn Khuê (1622-1693), thiền sư Nhật Bản
Phượng Các
#9 Posted : Tuesday, September 13, 2005 3:36:48 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
SƯƠNG ỨA LỆ

Kính Giác linh cố Ni sư THÍCH NỮ TRÍ HẢI, nhân tuần sơ thất.



Đôi cánh mộng
lưng trời nay xếp lại

Người ra đi
bụi đỏ chợt hao mòn

Nhớ vầng trăng
nửa cài song cửa mộng

Nửa giật mình
sương ứa lệ tàn canh.


Cầu sinh tử
gãy đôi bờ huyễn hoặc

Bụi mây mờ
xin để lại phía sau

Đêm mộng mị
lững lơ mờ sương đậu

Ráng hồng phai
nghe khóc vỡ ngày tàn.



Hoa sóng cả
bạc đầu vương nắng sớm

Bụi tro tàn
theo gió nước lang thang

Bờ bến cũ
Người về sao chợt sáng

Để ngậm ngùi
Nhớ tiếc lại sau lưng.



Phổ Đồng
(Thượng Toạ Thích Đức Thắng)



Phượng Các
#10 Posted : Thursday, April 5, 2007 1:46:37 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Câu Chuyện Triết Học - Will Durant
Thích Nữ Trí Hải - Bửu Đích dịch

http://www.quangduc.com/...2cauchuyentriethoc.html

xv05
#11 Posted : Sunday, April 15, 2007 10:18:44 AM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các

[b]"CÂU CHUYỆN GIÒNG SÔNG“ VÀ NỮ DỊCH GIẢ PHÙNG KHÁNH
[b]


Chị P. Các,
Em có duyên được đọc tác phẩm trên cách đây khá lâu, hồi... mười mấy... tuổi nhưng vẫn nhớ hoài và ước mong được đọc lại lần nữa.
Em có thể tìm ở đâu chị nhỉ?
Phượng Các
#12 Posted : Sunday, April 15, 2007 10:48:27 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
xv05
#13 Posted : Wednesday, April 18, 2007 2:09:23 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các

Ở đây nè xv:
http://www.thuvienhoasen...auchuyendongsong-00.htm



Thật là tuyệt. Em đã in ra và sẽ đọc từ từ. Đọc từ bản in trên giấy mới có thể hiểu hết chiều sâu của câu chuyện.

Cám ơn chị. Kisses

Có phải hầu như tác phẩm nào mình cũng có thể lục tìm và đọc chùa ở trên Internet không? Em đã may mắn được đọc bao nhiêu là sách hay mà bây giờ chẳng thể tìm ở đâu hết.
Phượng Các
#14 Posted : Wednesday, April 18, 2007 5:53:18 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
quote:
Gởi bởi xv05
Có phải hầu như tác phẩm nào mình cũng có thể lục tìm và đọc chùa ở trên Internet không? Em đã may mắn được đọc bao nhiêu là sách hay mà bây giờ chẳng thể tìm ở đâu hết.


Nhiều sách cũng khó tìm trên Net, nhưng riêng về kinh sách Phật giáo thì hiện có rất nhiều, vì các người phổ biến tin là việc chép (đánh máy) kinh sách để phổ biến được coi là một công đức mang rất nhiều phước báo.
Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ còn giữ rất nhiều sách của VietNam thời trước 75.
xv05
#15 Posted : Thursday, April 19, 2007 3:14:56 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
quote:
Gởi bởi Phượng Các


Nhiều sách cũng khó tìm trên Net, nhưng riêng về kinh sách Phật giáo thì hiện có rất nhiều, vì các người phổ biến tin là việc chép (đánh máy) kinh sách để phổ biến được coi là một công đức mang rất nhiều phước báo.


Em cũng có nghe như thế. Bản thân cũng có thực hành nhiều lần nhưng vẫn... hoài nghi (?!)
Biết rằng niềm tin không thể đi đôi với sự hoài nghi. Khổ là ở chỗ đó.

quote:


Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ còn giữ rất nhiều sách của VietNam thời trước 75.



Tất nhiên em khó mà có dịp sang đó lục tìmSad
Chị có biết Web site của họ không?
Đã lở hỏi thôi thì em xin hỏi luôn, chị có thể cho em xin mấy sites mà mình có thể tìm sách?
(Chợt nhớ đến bài Thiếu Đọc, Dấu Chỉ Người Việt... Baí Vật mà xấu hổ vì có vẻ như mình chỉ muốn đọc chùa Shy thôi hay sao đây?)

Chị có thấy em cám ơn chị Kisses ở cái post phía trên không?
Chị có biết câu danh ngôn này không vậy: Khi bạn cám ơn ai nhiều quá thì họ phải coi chừng vì nó có nghĩa là bạn đang âm thầm xin thêm nữa! Tongue

Câu Chuyện Dòng Sông hay đến nỗi mình chỉ có thể đọc thật chậm và mỗi lần chỉ nên đọc vài trang. Em thấy có bản tiếng Anh, muốn in ra cho người bạn Úc làm chung mà không biết bà ấy có hiểu và thích như như mình không.
Liêu thái thái
#16 Posted : Sunday, April 22, 2007 5:47:14 PM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)
quote:
Câu Chuyện Dòng Sông hay đến nỗi mình chỉ có thể đọc thật chậm và mỗi lần chỉ nên đọc vài trang. Em thấy có bản tiếng Anh, muốn in ra cho người bạn Úc làm chung mà không biết bà ấy có hiểu và thích như như mình không.

xv05 đừng lo, tác giả là người Đức, truyện viết cho người tây phương mà. Nếu bà bạn đã có ít nhiều thích thú với triết học đông phương thì bà sẽ mê ngay. Còn người á châu không hẳn ai cũng thấy thú vị.
heart
xv05
#17 Posted : Monday, April 23, 2007 10:14:11 AM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
quote:
Gởi bởi Liêu thái thái

quote:
Câu Chuyện Dòng Sông hay đến nỗi mình chỉ có thể đọc thật chậm và mỗi lần chỉ nên đọc vài trang. Em thấy có bản tiếng Anh, muốn in ra cho người bạn Úc làm chung mà không biết bà ấy có hiểu và thích như như mình không.

xv05 đừng lo, tác giả là người Đức, truyện viết cho người tây phương mà. Nếu bà bạn đã có ít nhiều thích thú với triết học đông phương thì bà sẽ mê ngay. Còn người á châu không hẳn ai cũng thấy thú vị.
heart


Chào chị Liêu,
Chắc em phải suy nghĩ thêm hai lần nữa trước khi in ra cho bà bạn này - gọi là bà vì bà lớn hơn em khá nhiều. Nếu giới thiệu nhằm người mà họ không hứng thú mấy thì... cụt hứng chết đi được.

Có điều ông sếp của em (người Anh) thì lại theo đạo Phật và nghiên cứu nhiều về triết lý Đông phương, nhưng em lại... ngán ổng lắm, sếp bự mờ.
Phượng Các
#18 Posted : Sunday, April 29, 2007 9:57:21 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
PC thì chỉ mới đọc loáng thoáng thành ra không biết truyện này hay hay không. Tuy nhiên hiện nay truyện Đường Xưa Mây Trắng của Nhất Hạnh có bản tiếng Anh mà PC đọc bản tiếng Việt cũng thấy hấp dẫn lắm, hay là xv giới thiệu bà bạn xem sao. Còn người sếp người Anh mà đạo Phật thì biết đâu ông ta cũng có đọc truyện Câu Chuyện Dòng Sông rồi. Hermann Hess cũng nổi tiếng mà.

xv05
#19 Posted : Monday, April 30, 2007 4:05:34 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Đường Xưa Mây Trắng - em chỉ đọc thoáng, lối hành văn khá xưa, theo lối viết của người Việt thế hệ trước.

Câu Chuyện Dòng Sông thì nặng về triết. Thật sự em không dám nói em hiểu hết.

Nhưng cho dù khg hiểu hết, mình vẫn có thể thưởng thức lối hành văn - rất hay, gọn mà đầy hình ảnh, và diễn tả tâm trạng thật hay.Tác phẩm đã tròm trèm bảy mươi tuổi mà lối hành văn rất tân. Ngoài ra, lời lẽ xưng hô rất cổ điển - trân trọng mà nồng nàn - điều này chắc phải cám ơn người dịch.

Chắc em thôi hông giới thiệu cho ai đâu, để khi nào có hơi đã .
Phượng Các
#20 Posted : Tuesday, May 1, 2007 5:07:47 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Đúng là thầy Nhất Hạnh thuộc thế hệ trước 75 rất xa (thầy sinh vào thập niên 20). Tiếng Việt của Nguyễn Ngọc Ngạn còn bị người trong nước hiện nay phê bình là tiếng cổ xưa, huống chi là tiếng của thầy Nhất Hạnh. Big Smile. Nhưng hơi lạ là ni sư Trí Hải khi dịch truyện này cũng cách xa với tiếng Việt hiện thời khá lâu mà.

Nếu xv cảm thấy chưa đúng lúc giới thiệu sách cho người quen thì cứ chờ đi, khi nào đủ duyên thì tự nhiên sự việc trào ra hà. Wink

Users browsing this topic
Guest
2 Pages12>
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.