Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã… văn
Việt LangI.
Hiện tôi có trong tay ba ấn bản của tác phẩm Câu chuyện của dòng sông. Trong số này có hai bản của Nhà xuất bản Hội Nhà văn (NXBHNV) và một bản của Nhà xuất bản Lá Bối [1].
Tôi đã xem kỹ các ấn bản của NXBHNV, có một số ghi nhận như sau:
1/ Ấn bản lần thứ 1 năm 1992 của NXBHNV, người chịu trách nhiệm xuất bản là Nguyễn Kiên, do Chi nhánh miền Nam thực hiện. Tôi đã rà soát kỹ ấn bản dày 245 trang này, từ trang đầu đến trang cuối, bản in không hề ghi bất kỳ tên dịch giả nào.
2/ Ấn bản lần thứ thứ 2 năm 2001 của NXBHNV, người chịu trách nhiệm xuất bản là Nguyễn Phan Hách. Nơi phát hành là Nhà sách Quang Minh, đường Nguyễn Thị Minh Khai, Sài Gòn. Ấn bản này dày 234 trang. Ở trang bìa và trang ruột đầu bản in không hề ghi tên dịch giả; tên dịch giả Bùi Giáng được để ở trang cuối cùng (tr. 234), chung phấn với tên người chịu trách nhiệm xuất bản.
3/ Trong cả hai ấn bản của NXBHNV, bài giới thiệu với tựa Hermann Hesse, người thắp lửa tâm linh, ở ngay phần đầu quyển sách đều đứng tên Nhật Chiêu [2] . Bài giới thiệu này dài khoảng 28 trang, tùy bản in lần 1 hay 2.
Tựa trang bìa cả hai ấn bản của NXBHNV đều là Câu chuyện dòng sông, đến khi vào trang ruột đầu tiên thì cái tựa ấy thành Câu chuyện của dòng sông. Bản in có khổ 13 x 19 cm.
Đây là các điểm khác và giống nhau của hai (02) bản in của NXBHNV, ngoài ra toàn bộ phần truyện trong hai bản in này thì hoàn toàn giống nhau. Để tiện theo dõi, từ đoạn này trờ đi tôi gọi chung là bản in của NXBHNV.
II. Tôi cũng đã xem bản in của Nhà xuất bản Lá Bối trước đây, có vài ghi nhận như sau:
1. Đây là bản in lần 1 của Nhà xuất bản Lá Bối, năm 1965, ấn quán Sen Vàng, 243 Sư Vạn Hạnh – Cholon.
2. Tựa cuốn sách là Câu chuyện của dòng sông, phần tên của dịch giả có ghi ngay ở trang bìa và trang ruột 1, với nguyên văn như sau: “Bản dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng”.
3. Lời nói đầu là của Nhà xuất bản Lá Bối.
III.
Xét cụ thể, hai ấn bản của Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Lá Bối có khá nhiều điểm khác nhau về: nhà xuất bản, năm xuất bản, khổ giấy, tên dịch giả và tựa tác phẩm (có “của” và không có “của”). Hai bản in này chỉ giống nhau có mỗi một điểm: toàn bộ nội dung bản dịch Việt ngữ tác phẩm Siddharta của Hermann Hesse của các dịch giả PhùngKhánhvàPhùngThăng. Tôi xin chép lại vài dòng đầu của chương một “Tất Đạt”, như sau: Bản in của Nhà xuất bản Lá Bối:
Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn dĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”.
Bản in của NXBHNV:
Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn dĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”.
Vài dòng cuối cùng của chương chót, chương mười hai “Thiện Hữu”:
Bản in Nhà xuất bản Lá Bối:
Thiện Hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt khôn ngăn rỉ xuống gương mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, tràn ngập niềm kính cẩn. Chàng phủ phục quì trước con người đang ngồi bất động, mà nụ cười nhắc chàng nhớ đến mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi giá trị và thánh thiện trong đời chàng.
Bản in của NXBHNV:
Thiện Hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt khôn ngăn rỉ xuống gương mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, tràn ngập niềm kính cẩn. Chàng phủ phục quì trước con người đang ngồi bất động, mà nụ cười nhắc chàng nhớ đến mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi giá trị và thánh thiện trong đời chàng.
Không chừng có độc giả sẽ hỏi tôi rằng, chỉ với hai đoạn đầu tiên và cuối cùng mà dám khẳng định là hai bản in này hoàn toàn giống nhau, liệu như vậy là có vội vã chăng? – Xin thưa rằng, hai bản in này dẫu được thực hiện cách nhau 27/36 năm (tuỳ năm xuất bản lần 1 hay 2 của NXBHNV), song chúng lại giống nhau cách dị thường đến từng dấu chấm (.) và dấu phẩy (,) !!! Do đó, tôi không thể chép toàn bộ hơn 200 trang giấy lên đây – trong khi phần việc để đối chứng sau đó thì quá đơn giản: copy lại. Như thế là các vị của Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, cụ thể là hai ông Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách đã làm cái trò gì vậy? Các vị thuộc Hội Nhà văn, nhưng các vị đã …văn; còn cái chữ trong ba dấu chấm (…) trước chữ văn là chữ gì thì xin các vị hãy tự điền thêm vào. Tại thời điểm này, tôi xin phép khẳng định rằng: các vị ấy đã dụng văn một cách không có đạo lý. Này những người của Nhà xuất bản Hội Nhà văn và những người có liên đới trách nhiệm, các vị hãy suy nghĩ lại về các hành động của mình đi.
Của đáng tội, để một bản dịch truyện nước ngoài được bày trên giá sách khơi khơi công khai như vậy, với quy trình pháp luật in ấn và phát hành trong nước hiện nay, mà nào chỉ liên quan chỉ có chừng ấy người? Lại đến 02 lần gian lận, vừa xóa gạt quyền dịch giả của Phùng Khánh – Phùng Thăng đồng thời còn mạo danh Bùi Giáng, một cách có ý thức và hệ thống!
Dịch giả Phùng Khánh đã qua đời, nhà thơ kiêm dịch giả Bùi Giáng cũng đã mất; nghĩa là họ sẽ không bao giờ lên tiếng phản hồi hành động xúc phạm của các vị. Lương tâm các vị cảm thấy thế nào? Đêm về, các người có liên quan đến vụ việc này hãy thắp một nén nhang tạ lỗi cùng những người đã khuất. Đây là lời khuyên rất chân thành không của riêng tôi [3].
IV.
Tuy nhiên so với hai ông Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách thì vị tiền nhiệm của NXBHNV: ông Ngô Văn Phú mới tỏ ra thực xứng là một bậc tiên phong trong kiểu xuất bản đáo để này, vụ việc cũng lại liên quan đến một tác phẩm khác của H. Hesse. NXBHNV đã xuất bản cuốn Tuổi trẻ băn khoăn với sự chịu trách nhiệm của Ngô Văn Phú vào năm 1998, tác phẩm này được phát hành đầy dẫy trên thị trường trước khi có việc trao đổi ý kiến với dịch giả Hoài Khanh.
Tôi đã đối chiếu bản Tuổi trẻ băn khoăn phát hành lần đầu năm 1968 của Nhà xuất bản Ca Dao với bản in năm 1998 của NXBHNV [4] . Trừ hình bìa và số trang, mọi thứ nội dung bên trong đều giống nhau; riêng bản in của NXBHNV lại có thêm một trang Lời cuối sách (tr. 251) với nội dung đáng xếp vào bậc có không hai trong lãnh vực xuất bản. Tôi xin chép lại trang ấy với nguyên văn như sau:
Do nhu cầu xuất bản (nhu cầu ấy có nghĩa là gì? - VL nhấn mạnh), chúng tôi cho in Tuổi trẻ băn khoăn của Hermann Hesse, bản dịch của Hoài Khanh. Rất tiếc, cho đến nay chúng tôi chưa liên hệ được với dịch giả. Vì vậy, sách biếu và nhuận bút chúng tôi xin giữ lại tại Nhà xuất bản. Tác giả (không phải dịch giả - VL nhấn mạnh) hoặc thân nhân (có ủy quyền hợp lệ) xin vui lòng liên hệ với chúng tôi tại 371/16 Hai Bà Trưng, q. 3, Tp., HCM.
Trân trọng cảm ơn Nhà xuất bản Hội Nhà văn “
Kể ra thì cũng khá minh bạch, nhưng… một độc giả nào đó thử tìm một tin nhắn/bố cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng với nội dung liên hệ tác quyền trước khi xuất bản tác phẩm; trong trường hợp Tuổi trẻ băn khoăn, e rằng còn khó hơn tiến hành xác định có người trên sao Hỏa!
Vậy là có thêm một màn biến tấu khó hiểu trong hoạt động xuất bản của NXBHNV, nhân vật chính lần này là ông Ngô Văn Phú. Chẳng rõ các ông Ngô Văn Phú, Nguyễn Kiên và Nguyễn Phan Hách có chân hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam không nhỉ? Đến đây, tôi thực sự chẳng biết nên bình luận như thế nào về Nhà xuất bản của Hội ấy nữa. Quí vị nào có lòng thì giúp cho vậy.
Đăng lần 1 tại website Đặc Trưng ngày 02/04/2004.
Ó 2004 Talawas
[1]Trước năm 1975, Câu chuyện của dòng sông ít nhất đã được xuất bản 03 lần. Theo sự ghi nhận của tôi, gồm như sau: Nhà xuất bản Lá Bối vào các năm 1965 và 1966; Nhà xuất bản An Tiêm vào năm 1967.
Tôi có đọc qua ấn bản của Nxbản An Tiêm năm 1967, bản in này gồm 190 trang. Tôi xin có vài ghi nhận ngoài lề như sau:
· Không thống nhất về tên tác phẩm: tựa bìa là Câu chuyện dòng sông, nhưng trang 3 lại in là: Câu chuyện của dòng sông.
· Tại trang 5 có một nhầm lẫn lớn: trang này in tựa lớn tiếng Việt Câu chuyện của dòng sông, nhưng tựa nhỏ tiếng Ðức trong ngoặc đơn ( ) bên dưới lại là: Weg Nach Innen. Weg Nach Innen theo chữ dịch của Phùng Khánh có nghĩa là Ðường về nội tâm; còn tên nguyên tác của Câu chuyện của dòng sông là Siddharta - một truyện trong tập truyện Weg nach Innen của H. Hesse.
Lời giới thiệu trong bản in Nhà xuất bản An Tiêm là của dịch giả.
[2]Hiện đang là giảng viên văn học nước ngoài trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM.
[3]Để tôn trọng sự công bằng trên văn đàn, trong lần đăng đầu tại website Đặc Trưng (www.dactrung.com), bài viết này có đồng gởi đến:
·
tapchinhavan@netnam.vn – địa chỉ email của Tạp chí của Hội Nhà văn Việt Nam.
·
quangminhbooksh@hcm.vnn – địa chỉ email của Nhà sách Quang Minh, nơi phát hành quyển Câu chuyện của dòng sông in lần thứ 2.)
Trong những ngày thực hiện bài viết này lần thứ nhất, tôi (Việt Lang) cố gắng liên hệ với Nhật Chiêu - người viết bài giới thiệu cho ấn bản Câu chuyện của dòng sông của Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - để chuyển bài viết này đến ông, song chưa được. Hy vọng sau khi đăng bài viết này trên Đặc Trưng, Nhật Chiêu sẽ biết đến nó. Một người thưởng thức được vẻ đẹp của những vần hài cú, cảm nhận được nét phiêu lãng trong thơ Basho, chắc cũng biết tự xử thế nào cho ngòi viết của mình mãi thẳng, phải không ông Nhật Chiêu?
[4]Quyển Tuổi trẻ băn khoăn do Hoài Khanh dịch từ ấn bản tiếng Anh Demian, the Story of Emil Sinclair’s youth, với lời tựa của Thomas Mann. Ðây là một tác phẩm của H. Hesse viết vào năm 1919, với tên nguyên tác là Demian. Nhà xuất bản Ca Dao xuất bản lần I (1968), lần II (1971); ấn loát tại Nhà in Thanh Bình, 666 Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Khổ 13x19 cm, dày 318 trang.
Quyển Tuổi trẻ băn khoăn của NXBHNV cũng sử dụng lời tựa của Thomas Mann; có khổ 13 x 19 cm, dày 252 trang.
_______________________________________________________________________________
Nguyễn Văn Lục
«Câu chuyện dòng sông » và câu chuyện của NXB Hội Nhà Văn
Bài viết của Việt Lang mới đây cho thấy việc ăn cắp bản dịch Câu chuyện dòng sông của chị Phùng Khánh là một điều sỉ nhục. Còn có gì có thể bào chữa được nữa?
Để nắm vững vấn đề, tôi đã nhờ bạn bè ở Sài Gòn truy tìm tài liệu mà kết quả là lá thư sau đây: «Ông Lục ơi! Ở Việt Nam, cái việc chôm đồ của nhau là đã được bình thường hoá từ lâu rồi. Hình như người ta không còn biết giữ nhân cách của chính bản thân mình nữa. Có dịp để mà chôm là cứ tiến hành. Báo chí phanh phui nhiều lần mà họ cứ trơ trơ ra.» Đã bình thường hoá rồi. Có còn lời kết án nào nặng hơn nữa không? Bình thường hóa rồi, nghĩa là coi việc ăn cắp, đạo văn là đương nhiên, là chuyện bình thường. Mà bình thường thật, vì việc chôm bản dịch này của nhà xuất bản Hội Nhà Văn, theo Việt Lang xảy ra từ năm 1992 và kéo dài đến 2001. Chẳng ai nói gì cả, chẳng ai thắc mắc gì cả. Đó là điều gây ngạc nhiên đến sửng sốt nhất đối với tôi, còn hơn cả việc ăn cắp nữa.
Riêng dịch giả Phùng Khánh, đối với giới sinh viên và trí thức miền Nam như tôi vào thời điểm 1960-1970 là biểu tượng của một làn gió mới, đem đến một sinh khí văn học trở về nguồn, tìm lại những nét đẹp Đông Phương huyền bí, sau khi có một thời chúng tôi đua đòi theo những xu hướng, trào lưu tư tưởng Tây Phương. Có thể tóm tắt công trình dịch thuật của Phùng Khánh bằng chỉ một câu thôi: Trở về nguồn. Vậy mà người ta nở ăn cắp, xúc phạm đến chị như thế.
Tôi đã nhờ một đứa cháu gái, sinh viên đại học ở thành phố, chụp cho tôi tài liệu: Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975. Tập một. Thư viện Khoa học Tổng hợp với mã số M 1087.89, tác giả Trần Trọng Đăng Đàn. In 1987. Ông tác giả này cũng là tiếng nói chính thức đã phê phán những dịch giả miền Nam, trong đó có Phùng Khánh như sau:
Trong khối lượng của các tác phẩm của «văn học» thực dân mới ở miền Nam, các tác phẩm dịch hoặc phóng tác sách của nước ngoài giữ một vị trí quan trọng. Loại này được đưa vào từ nhiều nước, cả từ các nước tư bản phương Tây và phương Đông, cả từ những nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý mấy điểm: thứ nhất là chúng ta không đồng nhất những thứ văn học của các nước được dịch ở Việt Nam với nền văn học đích thực của chính các nước đó. Thứ hai là phải phân tích xem các tác phẩm đó gây tác hại gì cho độc giả Việt Nam. Bởi vì có thể có những tác phẩm đối với một nước nào đó thì không gây tác hại mấy, nhưng lúc đưa vào Việt Nam lại bị hiểu theo những cách thức khác. Thứ ba là trong số tác phẩm nước ngoài được dịch không phải chỉ toàn là tác phẩm xấu mà do tính chất xảo quyệt của bọn cầm đầu «văn hoá» thực dân mới, cho nên có cả những tác phẩm vô hại, thậm chí có cả tác phẩm ưu tú. (tr. 25)
Cứ như lời phán của tác giả vừa nêu trên, bất cứ tác phẩm dịch thuật nào trước 75 đều tai hại vì do sự «xảo quyệt của bọn cầm đầu văn hóa thực dân mới». Bản dịch Câu chuyện của dòng sông của Phùng Khánh nằm trong trường hợp thứ ba này.
Vậy mà chỉ 5 năm sau, đã chôm chỉa, ăn cắp in lại của người ta một cách vô sỉ. Có cần nói thêm gì về cái nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấy nữa không? Chắc là không.
______________________________________________________________________________
Đính chính cùng Việt Lang [updated 07.7.04 : © 2004 talawas.org]
Lý Đợi
1.
Tôi đọc bài Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam đã … văn của tác giả Việt Lang hôm 25/6/2004 trên talawas, mà thực sự thấy rất áy náy. Có lẽ vì tôi ngờ ngợ với câu mà tác giả này viết: “Trong những ngày thực hiện bài viết này lần thứ nhất, tôi (Việt Lang) cố gắng liên hệ với Nhật Chiêu - người viết bài giới thiệu cho ấn bản Câu chuyện của dòng sông của Nhà xuất bản Hội Nhà văn - để chuyển bài viết này đến ông, song chưa được. Hy vọng sau khi đăng bài viết này trên Đặc Trưng, Nhật Chiêu sẽ biết đến nó. Một người thưởng thức được vẻ đẹp của những vần hài cú, cảm nhận được nét phiêu lãng trong Basho, chắc cũng biết tự xử thế nào cho ngòi viết của mình mãi thẳng, phải không ông Nhật Chiêu?"
Tôi không biết một bài viết như thế này thì chuyển tới nhà nghiên cứu Nhật Chiêu làm gì cơ chứ, để thắng thua hay tỏ ra mình thế này thế nọ chăng?
Thông thường, những kiểu bài này chỉ là viết về một sự thật, một cái đúng thôi. Mà sự thật thì phải được xác minh và rõ tính khách quan chứ. Nhưng tôi e rằng, nó không hoàn toàn đúng. Bởi thế tôi đã đến nhà ông Nhật Chiêu [1] để xác minh lại thông tin và được biết như sau:
o Quyển Câu chuyện dòng sông theo thông tin mà ông Nhật Chiêu xác minh được là do tư nhân (Nhà sách Quang Minh) liên kết với Nxb Hội nhà văn để in (năm 1992) và Nxb có xin phép sử dụng lại bài viết Hermann Hesse-Người thắp lửa tâm linh của Nhật Chiêu đã in trên Tạp chí Văn một thời gian trước đó (năm 1991) để làm Lời giới thiệu cho cuốn sách. Như vậy thì Nhật Chiêu có liên quan gì đến toàn bộ cuốn sách cơ chứ? Với lại, nếu không đọc Tạp chí Văn lúc ấy thì người biết đọc một chút cũng thấy rằng bài viết 28 trang này là viết về toàn bộ cuộc đời và tác phẩm của Hesse, chứ không phải là Lời giới thiệu riêng cho Câu chuyện dòng sông.
o Thứ hai, tất cả sự trình bày cuốn sách (có tên dịch giả hay không có tên cũng thế) hoàn toàn không thuộc chủ trương, thẩm quyền hay trách nhiệm của Nhật Chiêu. Dù khi sách in ra, chính bản thân Nhật Chiêu đã đến Nxb để phàn nàn về thái độ làm việc dễ gây hiểu lầm này. Và cung cấp luôn tên, địa chỉ của dịch giả Phùng Khánh, dù Nxb này đã có sẵn trước đó; sau đó còn yêu cầu họ làm ngay một đính chính để gởi kèm theo sách nhưng có vẻ đã trễ nên không có chuyện đính chính xảy ra.
o Vậy thì đã rõ, Nhật Chiêu đâu có liên quan gì đến câu chuyện xuất bản nhiều bí ẩn ở Việt Nam. Cho nên chuyện Việt Lang nói: “ngòi viết mãi thẳng", hay “tự xử"… với trường hợp Nhật Chiêu thì hơi oan uổng và có vẻ nhảm nhí.
Ngoài ra, tại TP.HCM, rất nhiều người đã biết nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cũng là một dịch giả với nhiều công trình, trong đó nổi tiếng và uy tín nhất là những bản dịch về thơ Haiku, chưa ai thay thế được. Các tác phẩm biên khảo như Đại cương văn hoá phương Đông (viết chung), Câu chuyện văn chương phương Đông, Nhật Bản trong chiếc gương soi… và nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành đã bị nhiều người khác đạo văn. Bằng chứng cụ thể như Hoài Anh trong cuốn Tìm hoa quá bước (Nxb Văn học), đã lấy khá nhiều bài thơ của các tác giả phương Tây do Nhật Chiêu dịch. Cuốn Những mẩu chuyên văn minh thế giới (Nxb Giáo Dục) do Đặng Đức An làm chủ biên đã chép gần như nguyên si 2 chương viết về Lưỡng Hà và Ai Cập do Nhật Chiêu viết và dịch trong Câu chuyện văn chương phương Đông. Tất cả điều này các báo trong nước đã làm khá rõ, thậm chí có nơi còn gọi Nhật Chiêu là nạn nhân kỷ lục của các vụ đạo văn.
2.
Tôi cũng đến lấy ý kiến nhà thơ Ý Nhi (Nguyên trưởng đại diện chi nhánh phía Nam của Nxb Hội nhà văn) thì biết như sau:
o Vào những năm đầu thập niên 90, cái tên Phùng Khánh rất là nhạy cảm, nên có thể các người liên kết với Nxb có vẻ ngại không muốn để vào. Dù nhà thơ Ý Nhi đã nhiều lần yêu cầu họ hãy tôn trọng quyền dịch giả và phải biết rằng bản dịch này không có vấn đề gì. Khi sách in ra, nhà thơ Ý Nhi đã nhờ nhiều người tìm cách tiếp xúc dịch giả nhưng không làm được, cuối cùng chính nhà thơ Nguyễn Đạt (một người bạn của dịch giả) đã cầm thư xin lỗi của Ý Nhi và tiền nhuận bút đến gặp. Dịch giả này (Ni sư Trí Hải) đã viết thư gởi lại cho Ý Nhi như sau (thư này vẫn còn): “K/g Nxb Hội nhà văn.Xin cảm ơn về bức thư thành thiết của Bạn, và số tiền nhuật bút 840.000đ. Từ lâu đã có rất nhiều người làm như vậy, nhưng không ai có thái độ ‘liêm khiết trí thức’ đáng muốn như vậy!
Một lần nữa xin chân thành chúc Nxb gặp nhiều may mắn, và mong được cộng tác trong nhiều tác phẩm giá trị khác.
Sư cô Trí Hải
17.8.92"
o Rồi trong lần tái bản năm 2001, nhà thơ Ý Nhi đã yêu cầu bên thực hiện sách ghi tên dịch giả Phùng Khánh-Phùng Thăng vào, không hiểu tại sao mà khi sách in ra lại thấy tên Bùi Giáng ở đó. Nhà thơ này lại yêu cầu họ làm đính chính cập vào cuốn sách (họ đã làm, chắc Việt Lang làm rớt mất) và viết thư xin lỗi, đồng thời gởi tiền nhuận bút, nhưng cũng mãi tới năm 2003 mới tới được nơi và lần này, cũng chính Nguyễn Đạt là người cầm đến. Nhưng cũng không gặp được dịch giả, chỉ có đại diện là ni sư Tuệ Dung tiếp nhận và viết thư như sau (thư này vẫn còn) : “Tôi là Tuệ Dung, có nhận quyển Câu chuyện dòng sông và một triệu tám mươi ngàn đồng của Nhà Xuất Bản Hội Nhà văn thay cho Ni Sư Trí Hải đang nhập thất tĩnh tu.
Phú Nhuận 16/6/03
Thích nữ Tuệ Dung"
Thư này có đóng kèm một dấu vuông, giữa có hình hoa sen và mấy chữ: Tuệ Uyển Vạn Hạnh.
o Với các bản dịch và dịch giả trước 1975, đây có thể là một trường hợp duy nhất mà một tác phẩm bị nhà liên kết đối xử không đúng luật, trước Nxb Hội nhà văn. Còn với những tác phẩm khác của Vũ Hoàng Chương như Ta đã làm chi đời ta, Mây (in 1992); của Bùi Giáng như Mưa nguồn, Mùi hương xuân sắc, Khung cửa hẹp…; của Mặc Đỗ như Người vợ cô đơn, của Nguyễn Minh Hoàng, Huỳnh Phan Anh, Trần Thiện Đạo, Bửu Ý, Hoài Khanh,… có thể nói, chỉ có Nxb này là nơi chính quy đầu tiên in lại vào đầu những năm 90. Ngay cả Bùi Giáng, khi cuốn Mưa nguồn được tái bản, ông đã đến Nxb cảm ơn và có cả thư cảm kích để lại. Vậy thì, không thể nói Nxb này “dụng văn một cách không có đạo lý". Dù sự thật về xuất bản ở Việt Nam trong rất nhiều năm qua, mỗi Nxb đều ít nhiều có hành động kỳ đà cản mũi và tự bôi nhọ mình.
3.
Cuối cùng, với tư cách của độc giả, xin lưu ý với BBT talawas rằng, với những trường hợp mà bài viết thông tin hơi một chiều như của Việt Lang thì cần làm một động tác xác minh lại để được chính xác và khách quan hơn trước khi đăng lên [2] . Nói như nhà thơ Ý Nhi, thì chẳng có gì quan trọng với những trường hợp như thế này cả, nhưng đã nói đến sự thật thì nên cần sáng tỏ.
© 2004 talawas
[1]Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, hiện là giảng viên Khoa Ngữ Văn & Báo chí, Trường ĐH KHXH & NV TP.HCM. Là tác giả của một vài cuốn sách uy tín như Basho và thơ Haiku, Thơ ca Nhật Bản, Câu chuyện văn chương Phương Đông, Văn học Nhật Bản… Là dịch giả của nhiều công trình, nổi tiếng với các bản dịch về thơ Haiku. Luân phiên giảng dạy các chuyên đề về: Văn học Nhật Bản, Văn học Hàn Quốc, Văn học Phương Tây, Văn học Phương Đông, Văn học Trung Cận Đông, Chủ nghĩa Hiện đại và Hậu hiện đại, Thiền luận Suzuki…
[2]Chú thích của talawas: Sau khi nhận được bài viết của tác giả Việt Lang, BBT talawas đã kiểm tra và xác nhận rằng những thông tin mà Việt Lang đưa ra sau đây là đúng: 1) Bản dịch Câu chuyện dòng sông do Nxb Hội Nhà văn xuất bản các năm 1992 và 2001 chính là bản dịch Câu chuyện dòng sông của dịch giả Phùng Khánh; 2) Trong bản năm 1992 của Nxb Hội Nhà văn không có tên dịch giả; 3) Trong bản năm 2001, tên dịch giả được đề cuối sách là Bùi Giáng.
Việc đánh giá các thông tin đã được xác minh này và phản hồi về sự đánh giá ấy như thế nào là thuộc quyền của công luận.