Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

2 Pages<12
Từ Hy Thái Hậu - Pearl Buck
PC
#21 Posted : Friday, November 12, 2004 7:22:44 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Fri Jul 30, 2004 5:47 pm

Bà đi thẳng đến cung vua. Bà bước lên những bậc thềm đá hoa, đi ngang qua những bệ cao. Cửa cung đóng kín bà nhìn qua tấm rèm bằng vải mỏng, trong suốt. Con bà ngồi trong một chiếc ghế bành lớn có trải đệm, Ái Lan đứng cúi sát mặt con bà, đưa vào mồm những trái anh đào, những trái đầu mùa ở miền Nam vừa gởi lên tiến. Ông vua này thích ăn những trái anh đào. Đầu ông hất về phía sau ghế, đớp những trái anh đào, cười sặc sụa.Bà mẹ ít khi thấy con vui thích, cười như thế. Bọn thái giám và thể nữ của hoàng hậu thấy vua cười cũng cười theo, như một đám con nít.

Bà thái hậu, thình lình đẩy mạnh cửa bước vào, đứng ở thềm cửa, long lanh sáng quắc như một vị nữ thần hiện lên trên nền trời tối. Ánh sáng của hàng ngàn ngọn nến tỏ ra làm lung linh chiếc áo thiêu kim tuyến và chiếc mũ miện gắn toàn ngọc. Sự phẫn nộ hiện lên trên nét mặt bà. Hai mắt bà quan sát cảnh tượng. Bà nhìn con bà và Ái Lan, bà nói, giọng vô cùng dịu dàng song vô cùng hung dữ:

- Con, mẹ nghe nói con đau, mẹ đến tận nơi xem con đau đớn làm sao?

Ông vua vội vàng nhảy xuống ghế, quỳ dưới chân bà. Ái Lan vẫn đứng yên như một pho tượng, tay vẫn cầm chùm anh đào.

Hai mắt và vẫn chú mục vào con, bà nói tiếp:

- Ta xem con đau nhiều thật, để ta cho gọi ngự y đến chẩn mạch, săn sóc cho con.

Ông vua líu lưỡi không nói được, không đau cũng hóa ra đau, đau vì kinh hoàng. Bà quay mặt về hoàng hậu nói giọng rất đanh thép, sang sảng như những nhát dao chém:

- Còn mi, ta xem ý mi không để ý trông nom sức khỏe cho phu quân mi. Trong khi có bệnh, không được khỏe, phải kiêng ăn trái cây. Mi sẽ bị phạt về tính cẩu thả.

Ông vua ngậm miệng, nuốt nước miếng, lắp bắp thưa:

- Thưa mẹ, xin mẹ soi xét không phải lỗi Ái Lan. Hôm nay thiết triều suốt cả ngày, con bị mệt mỏi quá.

Hai mắt bà như nảy lửa, nhìn thẳng vào con một cách kinh khủng, bà tiến lên ba bước, thét lên:

- Quỳ xuống! Mi tưởng nay mi làm vua thì không còn là con ta nữa hả?

Ái Lan vẫn đứng yên không nhúc nhích, nàng đứng thẳng thắng, hiên ngang, tỏ ra không một vẻ gì sợ hãi. Nàng buông nắm anh đào cầm ở tay, đến nắm tay ông vua. Nàng nói khẽ:

- Không! Không phải quỳ.

Bà thái hậu tiến thêm lên hai bước, giơ cánh tay phải, một ngón tay chỉ xuống đất.

- Quỳ.

Ông vua ngập ngừng, do dự một lúc rồi dằn tay Ái Lan quỳ xuống, khẽ bảo nàng:

- Bổn phận của anh.

Bà thái hậu đứng yên nhìn con quỳ dưới chân. Gian phòng phẳng lặng, không khí vô cùng nặng nề, ghê rợn. Thủng thẳng bà buông thẳng tay bên người.

- Mi còn biết bổn phận với các bậc trưởng thượng. Trước mặt mẹ, dù con có làm vua chăng nữa, cũng chỉ là một đứa con.

Bà ngửng đầu nhìn quanh khắp gian phòng. Bà thét to:

- Mọi người ra ngoài hết. Để ta một mình nói chuyện với con ta.

Tất cả mọi người được lệnh lẩn hết ra ngoài, duy còn Ái Lan đứng lại.

Bà thái hậu chỉ vào mặt Ái Lan, nói:

- Cả mi nữa, ra hết bên ngoài.

Ái Lan, nét mặt ủ rũ, lúc đầu còn do dự sau lặng lẽ ra ngoài, đôi giày bằng vóc đi êm như ru đi không một tiếng động.

Còn một mình bà thái hậu ở lại, bà thay đổi một cách đột ngột, bất ngờ thái độ. Một phút trước, bà hung dữ bao nhiêu, thì một lúc sau, bà vui vẻ, niềm nở bấy nhiêu. Bà tủm tỉm cười, bàn tay xoa nước bông thom phức của bà xoa vào má con. Bà âu yếm bảo con:

- Đứng dậy con, ngồi xuống đây, mẹ con ta sẽ thảo luận.

Bà ngồi trên chiếc ghế bành, con ngồi trên chiếc ghế của Ái Lan. Ấu đế chưa hoàn hồn, người còn rung bắn, bà thấy hai môi con rung rung, hai bàn tay lẩy bẩy. Giọng vuốt ve, bình tĩnh, bà nói:

- Ở trong cấm cung, nội tẩm cũng phải có trật tự, lễ nghi. Trước mặt bọn thái giám và hoàng thượng, ta phải nêu rõ vấn đề tôn ti, trên dưới. Con này dù có là hoàng hậu cũng chỉ là vợ con ta.

Ấu đế ngồi im không nói gì, thè lưỡi liếm đôi môi khô bỏng. Bà nói tiếp:

- Mẹ nghe nói, con có ý định vượt quyền mẹ. Phải chăng, con có ý định tiếp các sứ thần ngoại quốc?

Ấu đế cố lấy lại vẻ tự tôn, tự đại cố hữu.

- Người ta khuyên con nên làm, nhất là ông chú con thân vương Cung.

Thế ý con có định làm không?

Không ai có thể biết hơn ấu chúa, giọng nói của bà tuy ngọt sớt nhưng vô cùng hiểm độc. Ấu đế xác nhận:

- Con sẽ làm.

- Với tư cách là mẹ mi, ta cấm.

Tuy bà giận lắm song quên ngay, nhìn nét mặt tuấn tú của con, cái mồm xinh xắn dễ thương, hai mắt to sáng quắc, tuy tính ương ngạnh bướng bỉnh, song bà đoán, ngày xưa khi con còn nhỏ, trong lòng sợ bà lắm. Bà nghĩ thấy lòng buồn. Bà muốn con bà phải có chí khí, quả cảm, đừng có tính sợ sệt vì sợ là yếu hèn. Nếu con bà sợ bà rất có thể sợ Ái Lan, rồi một ngày kia bị vợ cầm đầu. Ngày trước hắn thích đến bà Đông cung để được an ủi, nuông chiều. Bây giờ vì sợ mẹ, hắn cũng tìm nguồn an ủi ở Ái Lan, tuy lòng bà thường con vô bờ bến còn hơn cả Ái Lan. Bà đã tận tâm hy sinh cả một đời bà để tạo dựng cơ nghiệp cho con.

Trước con mắt nhìn soi mói của bà, ấu đế đưa mắt nhìn xuống. Tuy là đàn ông, nhưng lại có hàng lông mi dài và đen như đàn bà, phải chăng hình tướng đó đã thụ hưởng được của mẹ. Nếu người mẹ có thể truyền lại cho con được hình tướng, sao lai không truyền lai cho con được sự dũng cảm?

Bà thở dài, cắn môi, có ý muốn nhượng bộ.

- Việc người ngoại quốc chịu quỳ hay không trước ngay rồng, cái đó mẹ không cần lắm, bằng con, lúc nào mẹ cũng chỉ nghĩ đến con.

- Con biết lắn, con biết lắm. Mẹ làm gì cũng vì con. Con cũng làm một việt gì để đền đáp lại mẹ. Không phải về vấn đề chính trị, nhưng cái gì mẹ ưa thích. Một hoa viên? Một ngọn đồi biến cải thành hoa viên. Con có thể di sơn, và...

Tuy đang tức giận, song nghe con nói, bà cảm động quá.

- Mẹ có rất nhiều hoa viên và núi non.

Bà thủng thẳng nói thêm.

- Cái gì mẹ mơ ước, không có thể làm được.

- Cái gì vậy?

Ấu đế có vẻ băn khoăn muốn bà chấp thuận một thứ gì đó do ông đề nghị để bà nguôi hẳn cơn giận dữ.

Bà có vẻ trầm ngâm, thủng thẳng, nói:

- Thôi nghĩ làm chị..Đống tro tàn, con có thể làm sống lại được không?

Ấu đế hiểu ý bà nói. Bà nghĩ đến sự hoang tàn, đổ nát ở cung Viên Minh. Đã bao nhiêu lần, bà đã tả cảnh cho con nghe những mái chùa xinh xinh, những đình tạ, hoa viên giả sơn. Trong lòng bà vẫn hun đúc mối căm thù với bọn người ngoại lai.

- Nếu chúng ta cho tái lập lại cung Viên Minh; cung điện Viên Minh sẽ làm lại đúngnhư ngày trước. Con sẽ lập một thứ thuế mới vì con không muốn lấy tiền ở công khố quốc gia.

Bà như tán đồng ý kiến đó.

- Nếu con có thể làm lại được thì hay quá.

- Rất có thể.

Ông ngửng mặt lên nhìn sang bên. Đột nhiên bà cười.

- Một Viên Minh, một nơi đi thừa lương. Sao lại không?

Bà đứng dậy, ấu đế cũng đứng dậy theo. Bà lấy tay vuốt má con. Bà đi ra. Lý Liên Anh ở trong bóng tối hiện ra, để đi theo bà.

Con cái dù nghèo hèn cũng phải hành khất hay giàu sang, phú quý, nhiều khi làm trái ý cha mẹ làm cha mẹ phải buồn phiền.

Do thám tử mật báo, bà thái hậu biết con đã nói dối bà, không phải do khuyến nghị của Cung thân vương, ông đã chấp thuận cho các sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, đứng bình thân trước ngai rồng, không phải quỳ. Cung thân vương đã nhắc lại cho hoàng thượng biết các tiên đế ngày trước đã khước từ đặt ân đó. Dưới triều đại Càn Long, một người Anh Các Lợi Lord Macartney vào triều kiến bằng lòng quỳ sát đất với điều kiện, một thân vương Mãn Châu phải quỳ sát đất trước tấm chân dung của hoàng đế Anh Cát Lợi, vua Georges. Khi bọn sứ thần khẩn nài xin vào bệ kiến, Cung thân vương tìm cớ này, cớ khác để trì hoãn. Chuyện khất lần đó kéo dài trong bốn tháng. Hoàng thượng đích thân chấm dứt tình trạng đó, chấp thuận cho sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến. Ông đã tỏ ra một sự nhượng bộ, nhu nhược, phương hại đến uy danh của Thanh triều.

Xuân qua, hạ tới, bà thái hậu chưa có ý định chấp chính, chăm lo việc nước. Bà ngồi làm việc trong thư viện, bà phác họa một đồ án xây dựng cung Viên Minh, trước khi cho gọi kiến trúc sư và các nhà thầu khoán đến để thực hiện giấc mộng của bà. Cung điện xây bằng gạch và đá hoa. Ở trong thư viện, Lý Liên Anh đã tâu rõ ý định của ấu đế. Bà đang vẻ, đặt bút xuống bàn, bảo Lý Liên Anh:

- Mi đi kêu Cung thân vương vào hầu.

Thân vương đi vào thấy bà đang đi quanh gian phòng rộng lớn, mấy khuôn cửa lớn mở rộng trông ra vườn. Những cây lựu, lá xanh thẫm, điểm những bông hoa đỏ tươi. Thân vương biết tính bà thích vườn hoa, cây cảnh, nên sau mấy lời chào hỏi, ông tâng bốc, khen:

- Tâu thía hậu, cây cối ở hoa viên thật phồn mậu, hạ thần chưa được nom ở đâu cảnh vật đẹp như đây. Thứ gì được thái hậu để ý dều có một sắc thái rất khả quan.

Thân vương đã có kinh nghiệm, lời ăn, tiếng nói, đối với "Mụ" này phải thận trọng. Thân vương nói nhỏ nhẹ, điệu bộ khiêm tốn, thần phục và hơi phỉnh nịnh.

Bà thái hậu khẽ gật đầu đáp lễ. Mấy lời ca tụng, tâng bốc, bà rất đẹp lòng và có thiện cảm ngay với thân vương, bà rất đồng ý với thân vương cùng chung quan điểm với bà, không tán thành hành vi của hoàng đế. Bà đề nghị:

- Ra hoa viên nói chuyện.

Bà ngồi trên một chiếc đôn bằng sứ, còn thân vương theo phép xã giao, tỏ vẻ cung kính, không dám ngồi ngang hàng, sau phải tuân lệnh bà, ông ngồi trên một chiếc ghế đan bằng trúc để hầu chuyện. Bà nói:

- Tôi không muốn làm phiền, mất thời giờ thân vương song tôi nghe nói hoàng thượng, con tôi, chấp thuận cho sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, không bắt buột họ phải theo triều nghi, phủ phục. Việc đó làm tôi khó nghĩ quá.

- Tâu thái hậu, hoàng thượng có tính tò mò như con nít, nóng lòng muốn biết tận mặt ngoại nhân.

Bà kêu lên:

- Đàn ông tính nết lúc nào cũng như con nít.

Bà giơ cánh tay với bông hoa, nét mặt bâng khuâng suy nghĩ, tay bà lầ mần bứt từng cánh hoa vứt xuống đất. Thân vương ngồi im không nói gì làm bà bực mình. Bà nói giọng có vẻ gắt gỏng:

- Thân vương không khuyên can, ngăn cấm hắn hả? Thân vương là người cũ, biết rõ lễ nghi triều đường.

Thân vuơng giương cao cặp lông mày nói:

- Tâu thái hậu, hạ thần làm sau ngăn cản nổi công việc của hoàng thượng. Nếu hạ thần làm trái ý, sẽ bị khép vào tội khi quân và xử trảm.

- Thân vuơng cũng biết, tôi không cho phép hắn được làm càn, trái với nghi lễ.

- Xin đội ơn thái hậu. Xin thái hậu biết cho, theo hạ thần biết hoàng hậu có một ảnh hưởng mỗi ngày một lớn mạnh đối với hoàng thượng. Áp lực đó rất tốt đã trừ khử được sự giao du với bọn hoạn quan lôi cuốn hoàng thượng vào con đường hắc ám.

Với một giọng đanh thép, bà nói:

- Ừ, nhưng hoàng hậu chịu ảnh hưởng của ai? Năm thì, mười họa hắn đến thăm xã giao tôi, không thấy hắn nói gì.

- Tâu thái hậu, hạ thần không rõ.

Bà lấy bàn tay gạt trên vạt áo vóc những cánh hoa rớt.

- Chắc thân vương cũng biết, do người chị họ tôi, bà Đông cung.

Thân vương cúi đầu không nói gì. Ông nói mấy câu để bà nguôi giận:

- Hạ thần nghĩ không nên tiếp bọn ngoại nhân ở cung điện.

Bà tán thành:

- Cái đó dĩ nhiên.

Thân vương khôn ngoan đã lái câu chuyện sang một khía cạnh khác và trao đổi với bà nhiều ý nghĩ. Bà ngồi, mắt lơ đãng nhìn ánh nắng xuyên qua những cành lựu, đột nhiên bà mỉm cười, như đã tìm ra một ý kiến gì rất hay.

- Tôi có ý kiến này. Tiếp bọn họ trong Hồng Quang điện. Điện đó ở ngoài thành nội, bọn họ sao có thể biết được. Như thế bọn họ có cảm tưởng thỏa mãn được yêu sách của họ, sự thật mình không chịu nhượng bộ.

Trong thâm tâm thân vương rất ghét phải theo lời "Mụ", song thân vương cũng thấy thích thú "Chơi xỏ" bọn người ngoại quốc. Hồng Quang điện ở phía góc hồ giữa, con đường ranh giới ngoài thành nội. Ở đó, mỗi năm một lần, vào Tết Nguyên Đán, hoàng thượng tiếp sứ thần các rợ, các thuộc quốc, chư hầu.

Thân vương làm ra mừng rỡ, reo lên:

- Tâu thái hậu, trí thông minh của thái hậu thật biệt nhân xuất chúng. Hạ thần bái phục cao kiến đó. Hạ thần tuân theo ý đó để ra chỉ thị cho thuộc cấp sửa soạn tiếp tân.

Hôm đó, bà rất vui vẻ, lại được thân vương nồng nhiệt khen ngợi, bà mời thân vương đi theo bà vào trong thư viện coi họa đồ về cung Viên Minh.

Suốt trong một giờ, thân vương xem xét, ngắm nhìn đồ án. Ông được bà chỉ cho xem đồ án, những kiến trúc sắp đem ra thực hiện. Những con sông nhân tạo, quanh co uốn khúc, các giả sơn, những hồ nước, chỗ này, chỗ khác, những đồi làm bằng các phiếm đá tải từ miền Tây đến, trên có kỳ hoa, dị thảo, các mái điện lợp bằng ngói sứ, mạ vàng, những ngôi chùa ở các đỉnh đồi, xung quanh có một hồ nước lớn. Ông nghe bà tả cảnh, một công trình vô cùng vĩ đại, làm ông hết vía không nói được một lời. Nếu ông dám mở mồm ra nói thực hiện đồ án này, làm tiêu hao hết công khố, bà sẽ nổi cơn lôi đình và đem ra chém. Ông chỉ lẩm bẩm khẽ trong mồm:

- Ngoài thái hậu, hạ thần chắc không ai có sáng kiến tạo lập một cung diện nguy nga như thế.

Thân vương xin cáo lui đi ra đến thẳng viên quân cơ đại thần Nhung Lữ. Bà thái hậu đoán biết, buổi tối hôm đó trước giờ giới nghiêm, Nhung Lữ xin vào yết kiến.

Lúc đó, bà đang cắm cúi vẽ một ngôi chùa lớn với một ngọn bút lông nhọn hoắt. Bà không ngửng đầu lên, bảo tên thái giám:

- Mời ông quân cơ vào.

Biết tính Nhung Lữ không thích tính thất thường của bà, bà để yên cho hắn đứng một lúc lâu, bà cắm cúi vẽ, không ngoảnh đầu lại. Bà thủng thẳng hỏi:

- Ai đó?

- Tâu thái hậụ..

Như một thói quen, nghe tiếng nói trầm trầm của Nhung Lữ, bà thấy lòng nao nao, song hôm đó bà là ra vẻ hững hờ không để ý.

- À, anh, anh đến có việc gì? Anh không nom thấy ư, tôi bận lắm.

- Tôi đến đây có lý do, để trình thái hậu một việc. Xin thái hậu nghe, đã gần đến giờ giới nghiêm.

Đã lâu, bà nhận thấy Nhung Lữ như có quyền lực với bà. Ông là người duy nhất được bà nể, bà cũng biết ông rất yêu bà song nhất định không chiều theo ý bà. Hắn vẫn có óc tự chủ như hồi niên thiếu hai người đã đính hôn, bà có ý dềnh dàng để cho hắn đứng chờ. Bà đặt chiếc nắp ngọc trên nghiên mực, lau ngòi bút trong một chiếc chén nhỏ, công việc đó thường nhật bà sai thái giám làm, nhưng nay tự tay bà làm lấy. Nhung Lữ đứng chờ, thấy thái độ, cử chỉ của bà, đoán hiểu tâm trạng bà.

Bà đi suốt qua gian phòng rộng lớn, lên ngồi trên ngai. Theo tục lệ, Nhung Lữ đến quỳ trước ngai. Bà để mặc cho hắn quỳ, nhìn hai con mắt hắn nom vừa dữ, vừa như có vẻ nhạo báng mà lại dịu dàng.

Một lúc lâu, bà cất tiếng hỏi:

- Anh có thấy đau ở đầu gối không?

Với giọng bình tĩnh, Nhung Lữ trả lời:

- Cái đó không có gì quan trọng.

- Thôi anh đứng dậy. Tôi không muốn anh quỳ trước mặt tôi.

Nhung Lữ thủng thẳng đứng dậy, nom rất bệ vệ. Hắn đứng yên, bà để ý nhìn hắn từ đầu đến chân. Một lúc sau bốn mắt gặp nhau không chớp, không ai có thể bất chợt nom thấy, tên thái giám đứng trấn ở ngoài hành lang.

Bà nói giọng mềm mại, dịu dàng như một đứa trẻ xin lỗi:

- Thế nào, tôi dã làm gì anh không vừa ý?

- Bà làm gì chắc bà biết.

Bà thái hậu nhún vai.

- Tôi chưa nói chuyện với anh về cung Viên Minh tôi muốn tái lập lại. Tôi biết người nào sẽ đảm nhiệm việc tạo tác đó. Người đứng ra đảm nhiệm trông nom chắc chắn là Cung Thân vương. Tái tạo cung Viên Minh là sáng kiến của con tôi muốn dâng lên cho tôi. Đó là ý nguyện của hắn.

Nhung Lữ trịnh trọng thưa:

- Thái hậu cũng biết ngân khố không đủ tiền để xây cất cung điện đó. Phải đặt ra nhiều thứ thuế đánh vào các tỉnh.

Bà lại nhún vai nói:

- Không cần phải thu nhập tiền nong gì hết. Các tỉnh trong nước đem cống hiến, tùy theo mức độ mỗi địa phương đá, gỗ, ngọc thạch, thợ... Những thứ đó ở đâu cũng có.

- Thợ làm phải trả công chớ?

- Cái đó cũng không cần thiết lắm. Nhà Tần xưa kia đắp Vạn Lý trường thành có cần phải trả công đâu? Khi họ chết, nắm xương vùi tàn trong đống gạch, như thế đỡ tốn kém, ma chay, chôn cất.

- Trong thời gian đó triều đình nhà Tần đang cường thịnh không ai giám ho he, nói gì. Hoàng đế Tần Thủy Hoàng là người Hán không phải người Mãn Châu, đắp bức tường đó để bảo vệ cho dân, rợ Phiên khỏi tràn xuống. Bây giờ dân chúng có chịu hy sinh người và của để xây một cung điện cho thái hậu không? Thái hậu liệu có sung sướng gì ở trong những cung điện xây cất bằng xương người những kẻ vô tội? Tôi không thể tin thái hậu có tính độc ác như vậy?

Chỉ có Nhung Lữ là người duy nhất làm bà thái hậu phải rơi lệ. Bà quay mặt để che giấu.

- Tôi không độc ác.

Bà nói thêm, tiếng nói rất khẽ:

-Tôi sống, cô đơn... Cô đơn.

Bà lấy chiếc khăn tay bằng the hoa chùi nước mắt. Nhưng chiếc dây vô hình như ràng buộc hai người. Trong lòng bà muốn hắn đến gần bà, ít nhất nắm bàn tay bà.

Nhung Lữ ngồi yên như pho tượng, với một giọng trầm trầm hắn nói tiếp:

- Bà phải bảo ấu hoàng đã nghĩ nhầm cho việc tái lập cung Viên Minh, trong nước đang bị giặc giã ngoại xâm, đe dọa, dân chúng lầm than, nhất là những tỉnh ở trung tâm trong nước bị nạn lụt lội. Nói rõ cho ấu hoàng biết những việc đó là bổn phận của bà.

Bà quay mặt về hắn, hai con mắt buồn bã, long lanh nước mắt.

- Ôi, chao ôi! Nước với non, lúc nào dân chúng cũng khổ cực.

Hai môi bà rung rung, hai tay xoắn vào nhau.

- Làm sao anh không bảo nó. Anh là cha nó?

- Suỵt! Đừng nói gì về ấu đế.

Bà cúi xuống, những giọt nước mắt rơi lã chã trên vạt áo vóc hồng. Nhung Lữ nói:

- Làm sao bà buồn. Tôi tưởng như bà được mãn nguyện lắm thì phải. Bà muốn gì cũng có. Bà con muốn gì nữa? Ở trên đời này có người đàn bà nào quyền uy như bà?

Bà ngồi yên không trả lời, nước mắt vẫn rạt rào. Nhung Lữ nói như để an ủi:

- Triều đại này vững vàng ít nhất cũng trọn đời bà đã rèn luyện được một vị hoàng đế, bà đã lo vợ, mọi việc đã được hoàn hảo. Hai vợ chồng trẻ yêu nhau, chẳng bao lâu sẽ có hoàng nam.

Bà ngửng đầu, vẻ sửng sốt.

- Đã có rồi sao?

- Tôi không rõ, song trai gái quấn quýt, yêu nhau thế nào mà chẳng có sớm.

Nhung Lữ nhìn bà như có vẻ ái ngại.

- Cách đây mấy hôm, tình cờ tôi gặp hai người. Lúc đó đã khuya, tôi rảo bước ra cổng chính vì sắp đến giờ giới nghiêm. Tôi đi ngang qua viên đình Thanh Phong...

Bà lẫm bẫm khẽ nói:

- Nơi đó gần dinh bà Đông Cung.

- Lúc đó, cửa Viên Minh mở rộng, bất giác tôi liếc mắt nhìn vào trong. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi thấy hai người quấn chặt lấy nhau như hai đứa trẻ.

Bà cắn chặt hai môi, cằm bà rung rung, nước mắt rạt rào. Khuôn mặt bà lúc buồn nom càng đẹp, Nhung Lữ không sao cầm được lòng. Hắn tiến lại ba bước, tiến thêm hai bước nữa đến sát bên bà. Suốt trong bao nhiêu năm nay chưa lần nào được gần gũi như thế. Hắn nói rất khẻ chỉ đủ bà nghe, người ngoài không ai có thể nghe thấy:

- Mối tình chúng ta thật là oái ăm, thâm sâu. Phải giữ kín trong đáy lòng. Phải đem hết tài năng, tâm trí gây dựng, củng cố triều đại hiện hữu này vì nó phát nguyên từ mối tình thầm kín giữa hai chúng ta.

Bà bị cảm xúc mạnh, lấy hai tay che mặt, nức nở khóc, vừa khóc, vừa nói:

- Thôi đi, đi. Để tôi một mình như tôi đã sống trong bấy lâu nay.

Bà khóc, tiếng khóc nghe lớn quá, Nhung Lữ phải ra đi sợ có ai nghe thấy. Hắn thờ dài, lùi ra theo như ý bà muốn.

Tuy bà che mặt khóc nhưng bà vẫn để ý quan sát các kẻ tay; khi bà thấy hắn ra cửa, bà bỏ tay ra, ngửng đầu, hai mắt ráo hoảnh.

- Ta chắc... Ta chắc... Ngoài con anh, anh không yêu ai hơn phải không?

Nhung Lữ đứng dừng lại, khoanh tay:

- Tâu thái hậu, có ba đứa.

- Con trai?

- Con trai.

Một lúc lâu, bốn mắt buồn bã, thương tiếc nhìn nhau, Nhung Lữ ra đi, bà ở lại trong gian phòng một mình.

PC Gởi: Fri Jul 30, 2004 5:52 pm

Cuối tháng sáu dương lịch, hoàng đế Đồng Trị tiếp kiến các sứ thần Tây Phương. Bà thái hậu nghe lời tường thuật đầy đủ của viên tổng thái giám Lý Liên Anh.

Cuộc triều kiến bắt đầu 6 giờ sáng ở Hồng Quan Điện. Hoàng đế ngồi hai chân quặp lại sau một chiếc an thư thấp, trên một bục gỗ cao. Hoàng đế, chú mục quan sát những khuôn mặt lạ của bọn người bạch chủng, có thân hình cao lớn: Sứ thần Anh Cát Lợi, Pháp, Nga La Tư, Hòa Lan và Hoa Kỳ. Trừ có sứ thần Nga còn ăn vận quần áo thường màu sẫm, hai cẳng chân lồng trong chiếc quần hẹp, nữa người phía trên mặc chiếc áo ngắn cùn cỡn, họ không mặc đồ dài. Họ nghiêng đầu chào hoàng đế, không lay, không dập trán xuống đất, mỗi người đưa cho Cung thân vương một tờ giấy để đọc, đọc lớn cho vua nghe. Tờ giấy có những dòng chữ viết bằng Hán văn, lời lẽ tờ nào cũng giống hệt như nhau. Lời chúc mừng hoàng thượng lên ngôi, triều đại được thái bình, thịnh trị.

Hoàng thượng trả lời mọi người, lời lẽ cũng giống nhau, Cung thân vương trèo lên bậc, phủ phục, lễ rất thận trọng, dập trán xuống đất, hai tay kính cẩn nhận của "Hoàng điệt" một tờ phiếu chỉ. Trước bọn người ngoại quốc, ông theo thật đúng nghi lễ cổ truyền, có hàng bao nhiêu thế kỷ, theo đúng quy tắc của Khổng giáo. Khi lễ, mỗi lần đứng lên, quỳ xuống, hai tay ông giơ cao như hai cánh chim, những tà áo bay quanh ngươi, nét mặt hân hoan như được phò một minh quân, thánh chúa. Ông chuyển giao cho mỗi sứ thần một mảnh giấy của hoàng thượng. Các sứ thần lần lượt đặt lên trên án thư những ủy nhiệm thư và đi giật lùi ra ngoài. Mấy viên sứ thần này yên chí tưởng yêu sách của mình được toại nguyện, mình đã thắng chứ biết đâu, cả bọn họ được tiếp trong một cung điện thường không phải ở Long điện, nơi thiết đại triều.

Bà thái hậu ngồi yên nghe bản tường thuật của Lý Liên Anh, bà bĩu môi trong lòng bừng bừng tức giận. Sao con bà dám cưỡng lời bà như thế? Chắc con Ái Lan nó xúi giục, ỏn thót mới dám làm như thế, Bây giờ con bà nghe Ái Lan nó bảo gì cũng nghe còn hơn đối với mẹ ruột. Như Nhung Lữ đã nom thấy nói lại, bà tưởng tượng hai người quấn quýt, ôm lấy nhau, nghĩ thế lòng bà thấn nhói đau. Tại sao con bà không chiều bà, làm theo ý bà. Bà không từ bỏ việc tái tạo cung Viên Minh, trái lại bà còn muốn làm lộng lẫy, nguy nga hơn, vì con bà say mê Ái Lan. Đột nhiên như một mũi tên độc ở trên trời trớt xuống, một ý nghĩ kinh khủng thoáng qua trong óc bà. Nếu Ái Lan sanh con trai, như Nhung Lữ nói, kết quả cuộc ái tình, đứa con đầu lòng bao giờ cũng là trai như thế đương nhiên Ái Lan lên ngôi hoàng thái hậu. Bà lẩm bẩm nói một mình.

"Ta ngu thật, sao ta không nghĩ một ngày kia ta bị Ái Lan truất phế. Ta sẽ làm sao trong lúc đó, chẳng qua chỉ là một mụ già sống vất vưởng trong hoàng thành."

Bà quát đuổi tên thái giám ra ngoài.

Ngồi một mình, người ngay đờ như pho tượng gỗ, bà suy nghĩ, hoạch định đường lối để bảo trì quyền uy. Bà phá tan mối tình mà Nhung Lữ đã khuyên bà phải bảo vệ. Bà sực nhớ đến bốn cung phi chính bà lựa chọn hiện nay ở Diễm Hoa cung. Bốn người đó ở đây, chờ được vua cho vời đến. Hoàng thượng đang say mê Ái Lan, nên không nghĩ gì, thiết gì bốn người này. Bà thái hậu nhớ ra một trong bốn người rất đẹp, ít có... Bà chọn ba người vì con nhà danh giá tính nết hòa nhã còn người thứ tư vì có nhan sắc. Sao bà không lợi dụng bọn thứ phi này. Bà dạy dỗ, trang điểm cho bọn này để đem lên trình diện hoàng thượng. Bà sẽ lấy cớ, hoàng thượng thỉnh thoảng cũng phải tiêu khiển, thay cũ đổi mới, Ái Lan nghiêm nghị quá lại phải chung lo công việc triều chính, tính lại rất cẩn thận không thích hợp cho một người đàn ông còn trai trẻ, khao khát về nhục dục. Người thứ phi con nhà hèn kém, dân dã được tiến cử vào cung nhờ có sắc đẹp này nếu lung lạc được vua, kế ly gián Ái Lan và con bà đã thành công.

Xây dựng những mưu đồ đen tối đó, bà cũng tự biết là rất ác và thất đức, song bà không từ bỏ. Như bà bị cô độc, sống thui thủi một mình không ai dám yêu bà, vì sự ngăn cách về quyền thế, về địa vị. Nếu bà sợ vì lẽ nọ, lẽ kia, không dám làm, bà sẽ là một mụ già không tên tuổi, một mụ già không ai còn biết đến, tâm hồn, trí óc bà sẽ bị một lớp da tàn úa che kín. Hiện giờ bà còn trẻ, còn đẹp, bà phải xếp đặt để trở lại ngôi báu, nếu không muốn tên tuổi bị chôn vùi, sống cũng như chết.

Bà hồi tưởng lại thời thơ ấu, hoa niên. Bà là cô gái nhỏ, lo công việc hàng ngày. Khi ở với ông chú Muyanga, mẹ nàng góa bụa, ở nhà ông anh chồng như một tôi đòi. Đi đâu, cô nhỏ cũng phải điu em nhỏ sau lưng, không thể chạy nhảy, nô đùa. Nàng thông minh, nhanh nhẹn, nên được giao phó làm đủ mọi việc. Suốt ngày làm việc trong nhà lo bếp nước, nấu nướng, vá may, bà còn được sai ra chợ, mặc cả mua con gà hay con cá. Đêm nằm co quắp cùng một giường với em. Nhung Lữ cũng không giúp gì được cho nàng, vì Nhng Lữ lúc đó còn trẻ, một cậu nhỏ vô tư lự. Nếu lấy Nhung Lữ, suốt đời chàng chỉ là một ngự lâm quân, rồi nàng cũng như mọi người chăm lo công việc trong nhà, bếp nước, nuôi con, trông nom sai bảo gia đình, đầy tớ... Nàng làm vua, nàng đã giúp đỡ, cất nhắc cho người nàng yêu. Thế mà chàng không biết ơn, còn lấy địa vị là anh họ chê trách.

Còn con bà, ngoài tình mẹ con, công lao dưỡng dục lại còn nhờ mẹ lên được tuyệt đỉnh cao sang, bây giờ lại quý vợ hơn mẹ. Khi còn thơ ấu, con bà quyến luyến người chị họ bà (Đông cung) còn hơn bà. Bà phải cắn răng chịu đựng nhận một ông vua hèn yếu, bất lực làm chồng là dụng ý giành ngôi báu lại cho con. Bà nghĩ lại thấy ghê tởm, những giờ phút phải ở bên cạnh ông vua đó, khuôn mặt nhợt nhạt, hai bàn tay nóng ran, gầy còm, bệnh hoạn... Bà nghĩ lại thấy não lòng.

Suốt trong mười hai năm ở ngôi vị nhiếp chính, một mình bà không quản gian nguy phải đối phó với nội loạn, ngoại xâm, để cho con tước vị làm hoàng đế. Mộ một mình bà đã có thể kìm hãm được sự tham vọng đất đai của người da trắng, các rợ Mông Cổ phải hàng phục. Bà đã đè bẹp những cuộc nổi dậy của người Hồi giáo ở Vân Nam, Quế Lâm. Con bà lên ngôi hoàng đế, trong nước thiên hạ được thái bình, an lạc. Con bà cũng biết bà có tài an bang tế thế, sao không thấy đến hỏi han bà những việc trọng đại, bà là người độc nhất mới có thể dìu dắt, giúp đỡ, giải quyết được.

Những ý nghĩ đó luẩn quẩn trong tâm trí bà, tạo nên một sức mạnh đen tối và táo bạo. Tất cả tâm trí bà hướng về một nổ lực, phản ứng lại một số phận đen tối rình rập chờ đợi, hãm hại bà. Bà quyết tâm với một ý chí sắc đá như một lưỡi gươm sắc, phá tan đám cỏ hoang, vạch một lối đi, tiến đến thành công.

Tuy nhiên, bà hành động trong mọi công việc, theo lẽ công bằng, bà cần phải có một lý do chính đáng.

Trong nước đã trải qua một thời kỳ dài hai mươi năm giặc giã, thiên hạ điêu linh; năm con bà đăng quang lên ngôi, năm đó duy nhất, trong nước được thái bình, an lạc. Bây giờ những cuộc nổi dậy lại phát sinh khắp nơi. Ở Đài Loan, một cù lao ngoài biển, dân ở đó đã sát hại những thủy thủ người Nhật trôi dạt vào bờ khi thương thuyền của họ mắc nạn, bị đắm. Vua nước Nhật phái chiến thuyền, quân lính đến hải phận Trung Hoa để hạch tội và tuyên bố hải đảo đó và những hải đạo phụ cận thuộc về lãnh thổ Nhật Bản. Cung thân cương đảm nhiệm ngoại giao vụ khán nghị sự vi phạm vào những hải đảo thuộc quyền Trung Hoa. Vua nước Nhật dọa sẽ tuyên chiến với Trung Hoa.

Không riêng một chuyện đó. Từ bao nhiêu thế kỷ nay, các vua chúa nước tàu cai trị các miền đất thuộc về An Nam, trước khi sự hoan nghênh của dân chúng các miền đó. Nhờ uy danh của hoàng đế nước tàu, dân chúng ở các miền đó được sống yên ổn, không nước nào dám dòm ngó, trừ ra có người da trắng. Trong thế kỷ trước, quân đội Pháp đã xâm nhập vào nội địa An Nam. Đã hai mươi năm nay, các cố đạo và các nhà buôn người Pháp thâm nhập vào trong lãnh thổ An Nam, ỷ sức mạnh cưỡng bách vua An Nam ký một hiệp ước thoái nhượng những tỉnh miền duyên hải Đông Bắc kỳ, viện lẽ có hải tặc Trung Hoa quấy phá.

Bà thái hậu biết hết không sót một chuyện gì, nhưng tâm trí bà để hết vào công việc tái tạo cung điện Viên Minh. Đột nhiên, bà quyết định những việc trọng đại trong nước, bà phải tự giải quyết lấy mới được. Bà nhất quyết cáo giác, con bà không chịu hoạt động, các thân vương chơi bời, phóng túng, vận nước lâm nguy, bắt buộc bà, một lần nữa phải lên cầm quyền để cứu nguy trăm họ.

Sang đầu mùa hạ, bà cho gọi những thứ phi trẻ đến. Bọn này, từ khi được tuyển vào cung, chưa được vua vời đến lần nào, bây giờ được bà thái hậu gọi đến, mừng lắm. Cô nào cũng xinh xắn, nõn nà, quây quanh bà thái hậu như một đàn chim xổng lồng. Bà thái hậu không thể nào nhịn được cười, nom mấy cô như đàn chim non. Chỉ có bà mở được phòng vua cho các cô vào. Bà nghĩ thương hại cho mấy cô nhỏ, đào tơ mơn mởn, bà vẫy tay đến gần bà.

- Đàn chim non của mẹ, các con cũng biết mẹ không thể đưa các con vào một lúc với hoàng thượng. Bà hoàng hậu sẽ ghen đuổi hết các con. Bây giờ bắt đầu bằng một người, các con cũng phải biết điều đừng tranh giành, ta chọn người nào đẹp nhất trong các con.

Bà thái hậu hồi tưởng khi xưa, bà còn trẻ, được tuyển vào cung, bị nhốt trong bốn bức tường. Trước những con mắt đầy hy vọng nhìn bà như một vị cứu tinh, bà không nỡ làm mủi lòng ba người khi một người được chọn. Bà nói:

- Ta không biết ai nên chọn, ai không? Các con chỉ cho mẹ.

Cả bốn người phá lên cười. Một người lớn nhất không được đẹp lắm nói:

- Tâu thái hậu, thái hậu nom cũng biết người đẹp nhất trong bọn chúng con là chị Nhài.

Tất cả mọi người quay nhìn cô Nhài. Cô này đỏ mặt, lắc đầu, lấy khăn tay che mặt. Bà thái hậu nói:

- Bỏ tay xuống, con. Mẹ nhìn coi xem nào.

Mấy cô kia gỡ tay Nhài xuống để bà thái hậu ngắm nhìn. Bà nhận xét cô nhỏ này không thẹn thò, bẽn lẽn, nhưng láu lỉnh, vui vẻ. Nét mặt đanh, hai môi đầy, có vẻ bạo dạn, hai mắt to, hai lổ mũi phập phồng, mũi nhỏ hơi nhếch. Tóm lại, khuôn mặt khác hẳn khuôn mặt Ái Lan. Ái Lan giống cha, nguyên là phụ đạo của hoàng đế, khuôn mặt sáng sủa, nhẹ nhõm, thân hình tầm thước, mảnh dẻ. Nhài, người nhỏ nhắn, mũm mỉm, nước da đẹp, trắng như con nít, hai má hồng môi đỏ.

Bà ngắm nhìn xong, thái độ bà thái hậu thay đổi đột ngột. Bà lấy tay gạt hết bọn thứ phi, mấy ngón tay đeo đầy nhẫn, bà che mồm ngáp. Bà bảo Nhài với giọng rất thản nhiên.

- Hôm nào tiện, ta sẽ gọi mi đến.

Bọn thứ phi kéo nhau đi ra, những ống tay áo thêu rộng nom như những cánh bướm, lóng lánh phất phơ bay.

Công việc thu xếp như thế tạm xong, bây giờ phải báo lên tổng thái giám đến hỏi con ả hoàn hầu cận hoàng hậu xem hôm nào hoàng hậu không đến gần vua được? Khi bà đã biết còn độ một tuần lễ nữa; trước ngày đó bà cho lại bảo trước người thứ phi Nhài biết phải sẵn sàng chờ bà cho gọi. Bà ra lệnh cho người thứ phi mặc áo màu hoa đào, không sức dầu thơm, việc trang điểm sẽ do bà tự đảm nhiệm lấy.

Đến ngày đã được ấn định, người thứ phi Nhài trình diện bà, theo đúng chỉ thị của bà. Bà ngắm người thứ phi từ đầu đến chân; bà bắt tháo bỏ những đồ trang sức rẻ tiền. Bà sai một thể nữ.

- Đem đến cho ta hộp đồ trang sức số 32.

Bà mở hộp lấy ra hai hạt trai đỏ, một viên hồng ngọc gài lên mái tóc Nhài phía tay trái. Bà cho đeo vòng, nhẫn bằng vàng. Người thứ phi nom thấy vàng thích quá cắn chặt đôi môi, nhìn bà tỏ vẻ biết ơn.

Trang điểm xong, bà cho đem đến một lọ nước hoa xạ hương, bà bảo người thiếu nữ xoa vào hai bàn tay, dưới cằm sau tai, xung quanh hai vú và ngang thắt lưng.

Bà bảo mọi người:

- Bây giờ các ngươi đi theo ta hết, lên cung hoàng thượng.

Bà đổi ý kiến. Sao lại đến cung hoàng thượng. Biết đâu Ái Lan có thám tử biết có sự hiện diện của bà, hẳn cũng sẽ đến, lấy cớ đến chào bà mẹ chồng. Nếu không có lệnh, hắn không thể tự ý đến cung thái hậu.

- Không, ta không dại gì... Ta biết hôm nay con ta có một mình, ta cho mời hắn đến đây. Sai nhà bếp làm mấy món hắn ưa thích, hắn ăn ở đây cùng với ta. Hôm nay đẹp trời cho kê bàn ra ngoài vườn, dưới bóng cây, cho gọi bọn nhạc công đến giúp vui. Hôm nay ta cho gọi bọn đào kép diễn một vở tuồng.

Bà sai bọn thái giám, a hoàn tống đạt khẩu lệnh của bà xuống các cơ quan liên hệ, cho thi hành gấp. Bà bảo người thứ phi:

- Còn con, lúc đó con ở cạnh bên mẹ, con pha trà hầu mẹ, khi nào mẹ ra lệnh con mới được nói.

- Xin tuân lệnh thái hậu.

Mọi việc được xếp đặt xong. Một hay hai giờ sau, có tiếng kèn đồng thổi, báo tin kiệu hoàng thượng đã đến, vào trong sân sau. Bọn thái giám tíu tít quanh những chiếc bàn bọn nhạc công sửa soạn hòa tấu.

Bà thái hậu ngồi trong cung đường, người thứ phi đứng hầu bên cạnh, đầu cúi, tay cầm chiếc quạt. Các thể nữ đứng xếp hàng cánh cung sau lưng bà.

Hoàng đế bước vào, mặc áo long cổn, vóc màu thanh thiên thêu rồng kim tuyến, đội mũ bình thiên có gù, tay cầm hốt ngọc. Đến trước mẹ, ông vua nghiêng đầu chào, không quỳ lạy vì nay là thiên tử. Bà mẹ ngồi yên nhận lời chào, không đứng dậy. Một cuộc hội họp như thế này mang một sắc thái riêng biệt, một ẩn ý, vì nếu theo đúng lễ nghi, tất cả mọi người hiện diện, lúc hoàng thượng đến, phải đứng dậy, cung nghinh. Các thể nữ đưa mắt nhìn nhau như thầm hỏi. Hoàng thượng làm như không để ý, ông đến ngồi trên một chiếc ngai thấp hơn phía tay mặt thái hậu. Ông ra mặt bảo bọn cận vệ ra hết ngoài sân. Bà thái hậu nói:

- Ta nghe nói hôm nay con có một mình. Để cho con đỡ buồn cho đến khi hoàng hậu đến được với con, ta muốn giúp con tiêu khiển. Hôm nay mát trời, chúng ta có thể bày bàn ăn ở dưới gốc cây, trong khi các nhạc công tâu nhạc. Con chọn lấy một vở hát nào con...
PC
#22 Posted : Friday, November 12, 2004 7:24:14 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Fri Jul 30, 2004 5:58 pm

Mùa hạ đã trôi qua. Bà thái hậu thỉnh thoảng lại thở dài, bà thấy bà đã già, bà chờ cung Viên Minh tái lập xong, bà đến đó để dưỡng già. Bà nói bà đau xương, đau mình, răng long, có nhiều sáng bà không muốn dậy. Các thể nữ trong lòng không tin vì họ thấy bà vẫn trẻ vẫn đẹp. Khi bà nằm trên giường, nước da sáng. Bà vẫn trẻ trung, khỏe mạnh, khiến những người xung quanh lạ quá, hỏi nhau bà nói đau, không hiểu đau gì, có gì bí mật chứ thật ra nom sắc diện bà không thấy bà đau gì hết. Bà nói bà đau, chưa bao giờ bà ăn uống lại nhiều, ngoài hai bữa cơm chính lại còn quà bánh suốt ngày. Bà đi lại rất mềm mại, nhẹ nhõm, chẳng có vẻ gì đau đớn mệt mỏi.

Thế mà lúc nào bà cũng nói bà đau. Nhung Lữ và Cung thân vương đến xin yết kiến, bà từ chối, không tiếp. Bà cho gọi tên tổng quản thái giám, bà hỏi:

- Tại sao? Thế nào?

- Tâu thái hậu, người ta xì xầm, hoàng thuợng độ này thay đổi tính nết. Suốt ngày, ăn ngủ, chơi bời, rượu chè, đàn địch, đêm đêm hóa trang làm người dân, đi khắp các đường phố trong kinh thành với bọn thái giám và đệ nhất thứ phi.

Bà thái hâu nghe thái giám tâu làm ra vẻ kinh ngạc.

- Đệ nhất thứ phi, không có lý nào.

Bà đang nằm, bà nhỏm dậy rồi lại vật mình nằm xuống, rê rỉ.

- Ta đang đau, mi biết không? Ta đau nhiều. Ra bảo thân vương những tin tức con ta làm xằng bậy như thế làm ta chóng chết. Ta không thể làm gì được. Con ta bây giờ làm vua. Thân vương phải khuyên bảo, can ngăn. Con ta bây giờ không chịu nghe lời ta. Bọn ngự sử đâu? Họ phải có bổn phận để ý theo dõi hành vi của hoàng thượng.

Bà vẫn từ chối không chịu cho Cung thân vương vào yết kiến. Ông thân vương này viết một lá thơ, lời lẽ cứng cỏi, phản đối kịch liệt hành vi ông vua. Ngày mùng 10 tháng 9 dương lịch, hoàng thượng xuống một chiếu chỉ tước hết quyền chức Cung thân vương và người con là Tuấn chinh, để nghiêm phạt ông đã dùng những lời lẽ khiếm lễ đối với ngai rồng. Tờ chiếu chỉ có châu phê và đóng ngọc tỷ.

Bà thái hậu quyết ra tay hành động. Bà cũng xuống một chiếu chỉ, bà ký tên và mang chữ ký bà Đông cung với tư cách là đồng nhiếp chính, phục hồi quyền chức hai cha con Cung thân vương bị vua tước đoạt.Bà không cần hỏi ý kiến bà Đông cung, biết bà này tính nhu nhược, không dám phản đối. Bà thái hậu được tất cả mọi người từ trên xuống dưới kính nể, không ai dám làm trái ý bà. Cách xử trí nghiêm đoán này gia ân cho Cung thân vương là một người tượng trưng cho thế hệ cũ, làm mọi người vô cùng ngưỡng mộ bà, nhờ vậy uy danh của bà càng lên cao.

Ông vua trước khi có một quyết nghị phản ứng lại, ông mắc bệnh đậu trong một hộp đêm ở ngoài kinh thành, trong đêm hôm ông cải trang để chơi bời thỏa thích.

Tháng mười dương lịch, sau những ngày nóng sốt, những mụn đậu vừa vỡ, tình trạng ông đáng lo ngại. Bà thái hâu ngồi cả ngày trên đầu giường, bà không sợ lây vì hồi nhỏ bà đã lên đậu, nhưng không có dấu vết rõ. Bà phập phồng lo sợ. Nếu có thể, bà từ bỏ hết để trong lòng được thảnh thơi, khỏi phải nhiều điều phiền não. Ngay cả những ngày đen tối nhất, nguy hiểm nhất bà cũng không thể hành động với tư cách một người mẹ, cũng như không thể hành động với tư cách một người vợ.

Ngày 24 cùng tháng đó, tình trạng ông vua đã khả quan, nhiệt độ đã xuống thấp, nốt đậu đã vỡ, không đau đớn như khi trước, bà thái hậu xuống chiếu cáo tri cùng quốc dân sức khỏe hoàng thượng đã khả quan. Cùng ngay tuyên cáo cùng quốc dân, vua cho vời hoàng hậu đến. Từ ngày vua lên đậu mùa, hoàng hậu không dám bén mảng đến phòng vua, vì hoàng hậu đã có thai.Được lời ngự y nói không sợ bị nhiễm bệnh, hoàng hậu vộ vàng đến vì xa cách bao nhiêu lâu người nàng yêu quý. Trong khi vua lâm bệnh, suốt ngày nàng lên chùa lễ bái, cầu nguyện, nàng mất ăn, mất ngủ. Vì thế, thân thể bị gầy còm, sắc đẹp có phần kém xưa. Nàng vội vàng đến cung vua, không kịp trang điểm, nàng mặt chiếc áo màu khói hương. Nàng muốn nóng lòng đến ôm lấy ngay người nàng yêu, nhưng vừa bước tới ngưỡng cửa, nàng dừng ngay lại. Bà thái hậu ngồi cạnh giường vua nằm. Hai tay ôm lấy ngực, nàng thốt lên:

- Chao ôi!

Bà thái hậu lạnh lùng hỏi:

- Sao lại kêu "Chao ôi"? Chao ôi là thế nào, đã sắp khỏi bệnh. Mi mới đáng hai tiếng "Chao ôi", nom mì vừa xanh vừa vàng như một mụ già. Thật là không may cho con tao, mi nang đứa con của con tao trong bụng.

Ông vua tiếng yếu ớt bảo khẽ mẹ:

- Con xin mẹ, mẹ tha thứ cho nó.

Ái Lan không sao nén được lòng tức giận. Sau bao nhiêu ngày mong đợi, lo sợ, mất ăn, mất ngủ, nàng như mất sự kiên nhẫn. Bản tính nàng cương trực, trí óc thông minh sáng suốt biết lẽ phải trái và có tính khác người là dù thế nào, nói thẳng không sợ và không chịu khuất phục trước uy quyền, vũ lực.

Người nàng bé nhỏ, yếu đuối, đứng thẳng người, mắt nhìn thẳng như có vẻ thách thức, bất chấp hiểm nguy.

- Nếu bà xét tôi có tội, bà cứ việc trị. Tôi không xin bà thái hậu một ơn huệ nào để tha tội. Lòng tức giận của bà đối riêng với tôi, nếu phải chịu tội, tôi xin chịu tội, tội vì không vừa ý bà.

Nàng nói mấy câu đó to tát, rõ ràng, hai môi nàng cắn chặt vào nhau.

Bà thái hậu nhảy xổ đến nàng, hai cánh tay giương thẳng tát tui bụi vào hai bên má, tát vô hồi, cào cấu, những chiếc tháp vàng chạm ngọc móng tay cào rách mặt nàng, máu chảy chan hòa.

Ông vua bệnh tình vừa mới thuyên giảm phần nào, nom thấy cảnh não lòng, ông rên gừ gừ. Tiếng yếu ớt, nói không ra hơi:

- Thôi xin cả hai, để cho tôi chết. Sống làm sao được như người rớt xuống sông giữa hai dòng nước.

Ông nằm quay mặt vào tường, nức nở khóc. Hai người đàn bà vội vàng chạy lại giường vua, bọn thái giám chạy ùa vào. Bà thái hậu sai người đi gọi ngự y khẩn cấp đến ngay. Vua vẫn khóc, không ai có thể khuyên can hay có phương cách nào làm ông hết khóc. Ông vật vã trên giường suốt mấy tiếng đồng hồ rồi hôn mê, không biết gì hết. Ngự y quỳ trước thái hậu, giọng rầu rầu, tâu:

- Tâu thái hậu, y học của con người đành chịu khuất phục, vô kế khả thi. Thiên tử bị trù ếm, hạ thần không có cách gì ngăn cản được ngài về chầu tiên đế. Nhưng các ngự y trong triều và hạ thần đã biết trước thế nào cũng xảy ra một tai ương. Tâu thái hậu, ngày mùng 9 tháng 10 dương lịch, mới cách đây có 48 tiếng đồng hồ, có hai người Mỹ đến kinh thành. Họ đặt trên mặt đất một vật gì lạ lắm, có một ống dài để nhìn lên trời. Tâu thái hậu ngay lúc đó, sao hôm mọc lên sáng lắm, hạ thần có nhìn thấy một vết đen trên sao. Chắc hẳn họ thư phù gì ngôi sao đó, chúng hạ thần sợ sẽ xẩy ra một biến cố, biến cố đó đã ứng vào ngày hôm nay.

Bà thái hậu thét lên gọi Lý Liên Anh, bà nói bà không tin câu chuyện vừa kể. Tên thái giám quả quyết chắc chắn là đúng, hắn quỳ dập đấu xuống đất.

Thế là chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi của ấu chúa. Khi ông vua thở hắt ra, người đã lạnh ngắt, bà thái hậu đuổi tất cả mọi người ra ngoài, hoàng thân, quốc thích, các quan trong triều tự động đến như để chứng thực sự ra đi vĩnh viễn của ấu chúa. Bà đuổi tất cả thái giám, thể nữ, a hoàn, hoàng hậu cũng phải lui ra ngoài như tất cả mọi người. Bà bảo Ái Lan:

- Cả mi nữa, lui hết ra ngoài. Để một mình ta với con ta.

Hai con mắt bà không có vẻ gì hung dữ nhưng lạnh lùng, buồn thảm. Bà làm như tình mẫu tử còn thâm sâu muôn phần hơn tình nghĩa vợ chồng.

Ái Lan phải tuân lệnh. Chồng nàng nay đã chết, nay bà này có toàn quyền hành động.

Ở lại một mình, bà ngồi cạnh xác con, nghĩ đến đời mình, thân phận mình từ nay, nghĩ đến cái chết đột ngột của người con độc nhất. Bà chưa thể nào khóc được. Bà nghĩ đến bà, từ nay nắm trọn quyền, quyền của một vị chúa tể. Trên đời có một bà là duy nhất, biệt nhân xuất chúng, tuy là đàn bà nhưng trên hết mọi đàn bà, trên mọi lãnh vực, một người có tài tế thế an bang, vô tiền khoán hậu, ngay cả phái nam cũng ít người có thể sánh nổi với bà, khi nhu, khi cương, ý chí cương quyết như sắt đá.

Bà ngắm khuôn mặt con, người mà bà mang nặng đẻ đau, khuôn mặt trẻ, xinh xắn, nét mặt bình tĩnh, tuy đã chết, nom như người ngủ. Bà hồi tưởng lại khi con bà còn nhỏ, bà quý con hơn nén vàng. Nghĩ thế hai mắt bà rưng rưng lệ, bà nức nở khóc, hai giòng nước mắt chảy hai bên má, rớt xuống vạt áo. Bà nắm tay con, vuốt ve, đặt lên má bà, bà làm như con bà khi còn nhỏ. Có những tiếng nói kỳ lạ từ trong đáy lòng phát xuất, như một thác máu dồn lên tim. Bà rên rỉ:

- Ối, con ơi! Nếu mẹ biết nông nỗi này, mẹ chiều con cho con chơi chiếc xe lửa, chiếc xe lửa của ngoại nhân, con thích thứ đồ chơi đó mà mẹ cấm đoán.

Đột nhiên, lòng thương xót con tập trung tất cả ý nghĩ vào thứ đồ chơi đó, mấy năm trước bà cấm đoán, hai hàng lệ lã chã tuông rơi, quên hết mọi việc, như tất cả bà mẹ có đứa con duy nhất đã chết.

Giữa đêm khuya khoắt, cánh cửa phòng hé mở, một người đàn ông bước vào. Bà đang cúi mặt vào xác con, thút thít khóc, không để ý nghe thấy tiếng chân đi vào trong phòng. Bà thấy có một bàn tay khẽ đặt lên vai, bà quay đầu lại khẽ nói:

- Anh.

- Vâng, tôi. Tôi đứng chờ ở cửa ba giờ đồng hồ. Sao bà thức khuya thế? Các tộc đảng xôn xao, lo đặt lên ngôi kế vị trước khi trời sáng, trước khi dân chúng biết tin vua băng hà.

Bà gạt ra ngoài tất cả những tình cảm vụn vặt thường tình, để tâm suy nghĩ, xếp đặt một đường lối bà đã hoạch định từ lâu, đem áp dụng, thi hành, phòng sự bất ngờ xẩy tới. Bà nói:

- Người con trai của em tôi năm nay lên ba. Tôi đã chọn để lên kế vị. Cha hắn là em thứ bảy của cố lang quân, tiên đế tôi.

Nhung Lữ nhìn bà, quan sát hai con mắt đen lánh, trên khuôn, mặt xanh xao, quả cảm, hai môi mắm lại, vẻ cương quyết.

Với một giọng nói lạnh lùng, khó hiểu, Nhung Lữ bảo bà:

- Đêm nay, thái hậu có một sắc đẹp kinh rợn. Trước nguy cơ bà lại càng đẹp thêm. Bà như có một sức gì huyền bí ẩn tàng trong người.

Bà ngửng đầu lên, đôi môi buồn thảm hé mở, hai mắt như dịu lại. Bà lẩm bẩm, khẽ nói:

Nói nữa đi anh. Nói nữa, em muốn nghe anh nói.

Nhung Lữ lắc đầu, sẽ sàng nắm lấy tay bà. Ngồi cạnh bên nhau, tay trong tay, hai người ngắm nhìn xác ông vua sóng sượt trên giường. Bà thấy Nhung Lữ người run lên.

- Anh ơi, con của chúng ta.

- Suỵt! Chúng ta không có quyền nhắc lại chuyện đã qua. Tai vách mạch rừng.

Đứng vậy, hai người không bao giờ được đả động, nói tới. Sau một phút im lặng, Nhung Lữ rút tay ra, đi lùi ra một bước, và sụp xuống lễ. Bà trở lại làm hoàng thái hậu còn hắn trở lại là một thần tử. Hắn nói khẽ, sợ có do thám:

- Tâu thái hậu, thái hậu đi kiếm ngay đứa trẻ. Hạ thầ đã tiên liệu, nhân dan thái hậu cho triệu thỉnh khẩn cấp viên tổng đốc Lý Hồng Chương. Quân đội đã kéo về, đóng đầy các cửa thành. Việc này không ai biết - gió ngựa buộc giẻ, người ngặm tăm. Đến tảng sáng, mẫu hậu đem đứa trẻ vào hoàng cung, quân đội trung thành đống trong tỉnh. Như thế không sợ người nào dám chống đối.

Bà như được trợ lực, cùng một động cơ thúc đẩy giữa hai người, cùng chung một ý nghĩ, tiến cùng một mục đích, bên trong là mối tình thầm kín, bên ngòai la nghĩa vụ của một trung thần, bà như thêm hăn hái hoạt động. Khi bà đi ra Lý Hồng Chương đã chờ sẵn ở cổng thành, nbà đi có mấy thái giám và thể nữ trng thành theo sau. Không ai thắc mắc hỏi sau Nhung Lữ lại lọt được vào cấm thành trong giờ giới nghiêm. Trong đêm kinh hoàng d0ó không ai dám hỏi han.

Bà thái hậu không do dự, thi hành ngay kế hoạch tiến thẳng tới đích. Bà ra lệnh cho thái giám Lý Liên Anh:

- Lấy cho ta chiếc song loan. Tuyệt đối không được nói một câu, không được làm gì náo động. Bảo phu lấy giẻ quấn vào chân.

Bà khóac chiếc áo choàng, lẳng lặng đi ngang qua các thể nữ, bước vào xe, kéo rèm che kín. Bà đi qua cổng bí mật ở sau dinh. Viên thái giám đi trước, dẫn đường, qua các đường phố vắng vẻ, tối om. Suốt ngày hôm trước, mưa tuyết, lớp tuyết dày, bọn phu đi êm, không một tiếng động. Bà đến tư dinh Chuân thân vương. Thái giám Lý Liên Anh gõ cửa, khi cửa vừa hé mở, thái giám vội vàng lọt vào, lấy bàn tay bịt mồm người ra mở cổng. Bà thái hậu vội vàng theo sau, vạt áo bay tung, đi ngang qua nhiều chiếc sân rộng. Mọi người trong nhà còn đang ngủ yên, trừ có người gác cổng, sợ quá, lặng thinh, không dám nói một câu. Tên thái giám chạy đi trước đánh thức vợ chồng ông thân vương dậy. Hai vợ chồng sợ quá, không hiểu chuyện gì, vội vang2 mặc quần áo chỉnh tề đi ra. Hai vợ chồng sụp xuống lạy bà khách mới tới nhà. Bà thái hậu nói:

- Em ơi, tôi không có thời giờ giảng cho em hiểu, con tôi chết rồị.. Em đưa cho tôi thằng nhỏ của em để lên kế vị.

Chuân thân vương thốt kêu lên:

- Xin thái hậu tha cho con tôi, không dám, không dám.

- Sao không dám, còn số phận nào cao quý hơn lên ngôi hoàng đế.

- Thật bất hạnh cho hạ thần, ngày nào cũng xì xụp lễ con... Trong họ hàng, người trên, người già cả, lộ bậy cũng vì gia đình tôi. Trời phật sẽ phạt cả gia đình nhà chúng tôi.

Ông vừa nói vừa khóc, rập trán xuống đất mạnh quá, đau đầu, ông ngất đi.

Đối với bà thái hậu, không có gì có thể ngăn cản được. Bà vào phòng thằng nhỏ đang ngủ, bà bế xốc nó lên, quấn tã ôm đem đi. Thằng nhỏ gừ gừ nhưng vẫn ngủ. Mẹ thằng nhỏ chạy theo kéo ống tay áo bà, van lơn:

- Đến chổ lạ, thằng nhỏ thức lúc thức dậy nó khóc, xin bà cho phép tôi đi theo nó vài hôm.

Bà thái hậu quay đầu bảo:

- Cho đi, nhưng đừng có giữ tôi lại. Tôi phải về hoàng thành lúc tang tảng sáng.

Bà đã thành công. Khi mặt trời lên, tiếng chuông đồng các nhà sư ở chùa tụng niệm, các truyền lệnh sứ rao trong phố đức vua Đồng Trị băng hà, tân vương lên tức vị.

Trong hoàng cung, ấu chúa thấy khác lạ, sợ quá, khóc thét. Chính mẹ ôm con cũng không dỗ được cho thằng nhỏ nín. Mỗi lần thằng nhỏ bỏ vú mẹ ra, ngửng đầu nhìn lên trần, thấy những con rồng chạm uốn khúc, nó lại sợ, khóc thét lên. Tuy sợ mà lại thích nhìn. Hai hôm sau, mẹ nó nhờ thái giám tâu lên thái hậu, thằng nhỏ khóc quá thành bệnh.

Bà thái hậu ngồi trong thư viện, đang họa bản đồ các cung điện, nghe thái giám vào tâu, bà vẫn vẽ không ngoảnh đầu lại, bảo thái giám:

- Cho nó khóc. Để cho nó biết ngay từ bây giờ, khóc vô ích, không được gì hết cho dù có làm vua chăng nữa.

Bà tiếp tục làm việc cho đến chiều tối, ngày mùa đông, chóng tối. Bà đặt bút xuống, ngồi suy nghĩ. Bà ra hiệu bảo thái giám đến:

- Mi ra gọi hoàng hậu vào đây, bảo đến một mình.

Người thái giám tuân lệnh chạy đi, vài phút sau Ái Lan đến trình diện; bà đuổi thái giám ra ngoài, bảo Ái Lan ngồi xuống ghế cạnh bà. Bà ngắm một lúc thân hình mảnh dẻ nàng, ăn mặc đại tang. Một lúc sau, bà hỏi:

- Mi không ăn uống gì hả?

- Thưa tổ mẫu, con không sao ăn được.

- Trên trần thế không còn gì lại cho mi.

- Thưa tổ mẫu, đúng vậy, không còn gì.

- Đừng trông mong, không bao giờ có gì. Nếu ta là mi, theo quách lang quân cho xong.

Ái Lan ngẩng đầu nhìn người đàn bà đẹp và vô cùng độc ác, thản nhiên ngồi bệ trên ngai. Nàng phủ phục quỳ xuống.

- Con xin phép tổ mẫu cho con được chết theo.

- Ta cho phép.

Hai người đàn bà nhìn nhau một lúc. Ái Lan tiến ra cửa, một thái giám đi sau đóng cửa, theo người thiếu phụ đáng thương đó.

Bà thái hậu ngồi yên trên ngai như một pho tượng đá, một lúc sau bà vỗ tay gọi thái giám:

- Ta cần làm việc, thắp hết các đèn lên.

Bà lại cầm trên tay ngọn bút lông. Thời giờ trôi qua trời tối đen như mực, bà sử dụng ngọn bút vẽ một bức họa đồ. Vẽ xong, bà đặt bút xuống ngắm, nhìn bức họa vừa vẽ. Những lâu đài, cung điện, tập trung xung quanh một cái hồ lớn. Bà mỉm cười trước bức họa, thấy thật tuyệt vời, hoàn hảo. Một lúc sau bà lại cầm lên ngọn bút lông, nhúng vào màu phẩm tươi nhất. Dưới sườn đồi, sau các cung điện, bà vẽ một ngôi chùa, hình dáng thanh tú, mái cong, ngói mạ vàng, tường ốp gạch sứ màu thiên thanh.

Đến nửa đêm, tên thái giám đằng hắng ở ngoài cửa. Bà lặng lẽ đứng dậy mở cửa. Tên thái giám tâu:

- Ái Lan không còn nữa.

-Nó chết làm sao?

- Thưa, thuốc phiện, giấm thanh.

Bốn mắt nhìn nhau một hồi lâu, trong sự hiểu ngầm, một ẩn ý.

- Thôi được, thế cũng xong, êm ái không bị đau đớn thể xác.
PC
#23 Posted : Friday, November 12, 2004 7:25:00 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Fri Jul 30, 2004 6:04 pm

NỮ HOÀNG

Tháng tư dương lịch, mùa hoa đằng, người trông nom vườn tược trong hoàng thành có bổn phận báo cáo lên thái hậu, đúng ngày nào các cây đằng trong vườn Ngự Uyển nở hoa. Bà thái hậu nhận được báo cáo quyết nghị không thiết triều giải quyết những công việc quốc gia. Với các thể nữ đi tháp tùng, suốt ngày bà rong chơi trong vườn thượng lãm hương sắc những bông hoa đầu mùa. Theo xã giao, bà mời bà Đông cung cùng thưởng ngoạn, bà Đông nay lại là đồng nhiếp chính với bà.

Bà ngự ở viên đình, có những cây đằng leo, bà ngồi trong một chiếc ghế bành, kê cao như một chiếc ngai. Bà làm như không để ý đến bà Từ An là ngang hàng, vì bà biết quyền uy là bà tự tạo lấy, không phải nhờ ai. Bà bảo các thể nữ:

- Hôm nay cho các ngươi rong chơi cho thỏa thích. Muốn đi chơi đâu tùy ý, nhưng nhớ một điều, hôm nay thưởng hoa, những gì buồn bực phiền não phải bỏ đi hết.

Tất cả mọi người cúi đầu, cảm ơn bà thái hậu. Những tà áo màu bay phất phơ dưới nắng, mặt mày, son tô, phấn điểm, những bàn tay xinh xắn, những cặp mắt đen, to, những mái tóc gài hoa.

Bọn thể nữ sắp đặt, một nửa đứng thì hầu thái hậu, một nửa lang thang đi chơi khắp vườn. Bà thái hậu không rời mắt nhìn ấu vương, cháu bà đang chơi đùa ở gần đó, có hai thái giám trẻ trông nom. Bà giơ tay vẫy, bảo thằng nhỏ đến gần bà. Bà nói:

- Lại đây con.

Không phải con bà, bà nói mấy câu đó, trong lòng thấy ghét thằng nhỏ. Song, chính bà đã lựa chọn nó, đặt lên ngai rồng.

Thằng nhỏ nhìn bà, từ từ tiến lại gần bà, có một thái giám dắt đi. Với giọng nói nghiêm khắc, bà bảo tên thái giám:

- Ta cấm không được mó vào người nó. Ta muốn nó tự động đến.

Nhưng đứa trẻ không tự ý chịu đến, nó để một ngón tay vào mồm, nhìn bà rồi bỏ thỏng tay, đánh rớt chiếc đồ chơi trên nền gạch.

- Nhặt lên đem đây ta coi.

Khuôn mặt kháu khỉnh của thằng nhỏ, thản nhiên. Bà chờ cho đến khi thằng nhỏ phải tuân lệnh bà, nó lượm đồ chơi đem đến cho bà. Tuy nó còn nhỏ, đã biết quỳ trước mặt bà, hai tay nâng chiếc đồ chơi đưa bà. Bà hỏi:

- Cái gì thế này?

Thằng nhỏ nói lí nhí trong mồm, bà không nghe rõ.

- Một chiếc xe lửa.

- Xe lửa. Ai cho mày?

- Không ai cho.

- Ngu. Sao tự nhiên lại có ở trong tay mày?

Bà gọi tên thái giám để trả lời thay thằng nhỏ.

- Muôn tâu thái hậu, ấu vương vẫn ở một mình. Ở trong hoàng cung không có trẻ để cùng chơi. Để cho ấu vương được vui thích, chúng con đem đến các đồ chơi. Những đồ chơi ấu vương ưa thích mua ở một cửa hàng ngoại quốc ở khu sứ quán.

- Đồ chơi ngoại quốc?

- Tâu thái hậu, có một người sứ Đan Mạch có cửa hàng bán đồ chơi con nít. Hắn đem các thứ đồ chơi Châu Âu sang để cho ấu vương.

Bà thái hậu nhắc chiếc đồ chơi lên, nói:

- Một chiếc đầu máy xe lửa, bằng sắt, khá nặng, có bánh xe và ống khói.

Bà bảo cậu nhỏ:

- Mi chơi thế nào, làm thử ta coi.

Cậu nhỏ lúc này không còn sợ, nhảy đến chân bà.

- Tâu mẫu hậu như thế này. Ở trong con đốt lửa với mấy miếng gỗ nhỏ, chỗ này con đổ nước, khi nước sôi, hơi bốc ra, làm bánh xe quay. Con móc những chiếc toa nhỏ, đầu máy kéo đi. Thưa mẫu hậu, tất cả là một đoàn xe lửa.

Nét mặt bà buâng khuâng suy nghĩ, bà ngắm nhìn thằng nhỏ, người xanh như tàu lá, ốm nhom, , một thằng nhỏ làng nhàng ốm yếu, không có tư cách.

- Mầy còn gì nữa không?

Thằng nhỏ reo lên nói:

- Còn xe lửa nữa. Có những cái chìa khóa lên dây cót. Con có cả lính nữa.

- Lính gì?

- Con có một đống lính khác nhau, mẫu hậu ạ.

Trong lúc đang say mê với các món đồ chơi, cậu nhỏ không còn sợ hãi, đứng tỳ vào hai đầu gối bà. Bà thấy trong lòng nhói đau, nghĩ lại thấy đau lòng, những gì xa xưa, không còn nữa. Cậu nhỏ nói tiếp:

- Lính của con đeo súng, quần áo sơn màu nom như thật. Người ta làm bằng chì, mẫu hậu ạ.

- Mi có lính Trung Hoa không?

- Không có lính Trung Hoa, nhưng có lính Anh, Pháp, Đức, Nga, Hoa Kỳ, quân Nga đeọ..

- Sao mi phân biệt được lính nước này với nước khác?

Thằng nhỏ phá lên cười.

- Ôi! Thưa mẫu hậu dễ ợt. Quân Nga La Tư râu dài đến đây.

Cậu nhỏ lấy tay chỉ vào ngực cậu.

- Quân Pháp râu dài đến đây. Còn quân Mỹ...

Bà ngắt lời, nói:

- Mặt thằng nào cũng trắng bệch?

- Con phân biệt được.

Bà lấy tay đẩy cậu nhỏ ra xa. Cậu nhỏ lùi ra, mặt tiu nghỉu. Vừa lúc đó. Bà Từ An bước vào đi sau có các thể nữ, đầu bà nhỏ, đội chiếc mũ vừa nặng vừa lớn. Ấu vương chạy ra đón.

- Má ơi! Con tưởng má không đến.

Nói xong, cậu nhỏ nắm tay bà ấp lên má. Bà Từ An ngước mắt nhìn lên thấy bà thái hậu đang để ý nhìn bà. Bà Từ An khẽ bảo ấu vương:

- Buông tao ra.

Nhưng cậu nhỏ không chịu buông vẫn nắm tay bà. Cậu bám sát bà, níu vạt áo bà. Bà thái hậu bảo:

- Chị lại đây, ngồi cạnh tôi.

Bà lấy ngón tay đeo đầy nhẫn, chỉ chiếc ghế cạnh bà mời bà Từ An ngồi. Bà Từ An sau khi khẽ nghiêng đầu chào, ngồi xuống ghế.

Ấu vương vẫn đứng cạnh bà. Bà thái hậu nhìn thấy, không một việc gì không qua mắt được bà, nhưng bà không nói. Bà bình thảng nhìn cậu nhỏ rồi nhìn những bông hoa đằng. Những chùm hoa trắng, hoa đỏ quấn hai ngôi chùa song lập, những cành hoa vắt ngang lên mái ngói cong vút. Trời nắng ấm, đàn ong say sưa với mùi thơm, bay lượn quanh những bông hoa. Bà Thái hậu nói:

- Đàn ong này ở khắp trong tỉnh kéo đến.

- Đúng thế.

Bà Từ An không để ý ngắm hoa. Bà vuốt ve tay cậu nhỏ một bàn tay gầy đét, gân xanh nổi lên. Bà lẩm bẩm khẽ nói:

- Cậu thiên tử nhỏ này không chịu ăn.

Bà thái hậu nói vặn lại:

- Không phải không ăn đuợc - Cái gì đáng cho nó ăn, nó không ăn.

Câu chuyện ăn, uống của cậu nhỏ thường sinh ra cuộc đấu khẩu giữa hai bà và sự bất đồng ý kiến, mếch lòng cũng do tự đó. Bà thái hậu cho những món ăn thường là những món lành nhất, rau, cỏ nấu tái, thịt nạc, bà không muốn cho con nít ăn bánh, ăn kẹo. Bà biết tính thằng nhỏ này không chịu những món do bà chọn ăn. Bà quay lưng lại nó chạy lại bà Từ An để ăn bánh rán, , thịt heo quay, thịt vịt quay, bánh, kẹo. Khi thằng nhỏ đau bụng, bà hà hơi khói thuốc phiện cho nó. Bà thái hậu ghét lắm, tỏ ý khinh bỉ bà có những thói lạ lùng. Bà thuờng nói: "Con xuẩn đó tưởng chừng nó yêu thằng bé hơn ta? ".

Bà Từ An kinh hoàng thấy bà thái hậu, nét mặt xầm xầm. Bà ra hiệu bảo tên thái giám đến, khẽ bảo:

- Dắt ấu vương đi chơi chỗ khác.

Bà thái hậu nghe thấy - không một tiếng gì qua khỏi tai bà - Bà liền ra lệnh cho tên thái giám:

- Để nó đây, không đi đâu cả.

Bà quay đầu bảo bà Từ An:

- Chị cũng hiểu, tôi lkhông thể giao phó thằng nhỏ cho lũ thái giám "ác ôn", không một thằng nào ra gì. Thằng nhỏ yểm nhiễm, hư hỏng. Xưa nay đã có bao nhiêu ông vua trụy lạc cũng vì tụi nó.

Tên thái giám vào trạc 15, 16 tuổi, nghe bị mạt sát vội vàng lẫn trốn ngay.

Bà Từ an khẽ nói, lúc đó mặt bà xanh nhợt, lúc đó ửng đỏ:

- Chị này.

- Cái gì?

Bà Từ An phản đối yếu ớt:

- Nói trước mặt mọi người.

- Tôi nói sự thật. Tôi biết chị cho tôi ghét thằng nhỏ. Như chúng ta, hỏi xem ai yêu nó hơn? Chị làm hư nó, chiều nó lắm, nó sinh hư, hay tôi, tôi muốn cho nó ăn uống lành mạnh, điều hòa, chơi những thứ không có hại, chị giao phó nó cho một lũ ác ôn thái giám, tôi muốn nó không ảnh hưởng những thói xấu, tật hư.

Bà Tù An thút thít khóc, lấy ống tay áo che mặt, các thể nữ vội vàng chạy lại, bà thái hậu lấy tay gạt bọn này ra, nắm lấy tay bà Từ An, đưa bà này vào trong cung. Bà ngồi trên một chiếc ghế dài trải đệm nhung, kéo bà Từ An đến ngồi cạnh. Bà thái hậu hỏi:

- Ở đây không có ai, chỉ có hai chị em mình, chị cho tôi biết sao chị có vẻ giận gì tôi?

Bà Từ An hơi ương ngạnh, ngồi im không trả lời, chỉ sụt sịt khóc, nước mắt ngắn, nước mắt dài. Bà thái hậu thấy bà kia khóc lóc, bực mình quá, hỏi:

- Chị muốn khóc? Ừ khóc đi cho thỏa thích. Em biết tính chị, hơi một chút, có nhiều khi không có gì chị cũng khóc. Chị khóc dễ dàng quá. Người ta nói, người hay khóc sưng hai con mắt có thể mù.

Bà nói xong, đứng dậy ra thư viện, để bà kia ôm mặt khóc cho chán.. Bà ở thư viện cho đến chiều, ngày hôm ấy đẹp trời, bà ở đó một mình, đọc sách, các cửa phòng thư viện mở rộng, mùi hoa đằng ở vườn bay vào thơm ngào ngạt. Trong óc bà suy nghĩ nhiều thứ, không thể chắm chú đọc những trang giấy trong sách. Bà nghĩ bà ăn ở thế nào, có người vẫn không ưa bà. Ý nghĩ đó thường lẩn quẩn trong óc bà tùy bà nhiều công việc bận rộn. Có bao nhiêu triệu người trông cậy vào sự khôn ngoan của bà, người đứng mũi chịu sào đưa con thuyền quốc gia đến chỗ an vui hạnh phúc. Ở trong hoàng thành, bà cầm quyền sinh sát. Bà rất công bằng, chỉ những người thật sự có tội mới bị trừng phạt. Thế mà nom suốt các mặt, không ai có cảm tình chân thật với bà, đứa trẻ bà nhận làm nghĩa tử, chính bà đã lựa chọn để lên kế vị làm vua, cả Nhung Lữ, người sống cô đơn người mà bà yêu trọn đời, suốt ba năm nay, không có một lời nào tâm tình với bà, ngoài nhiệm vụ hắn phải đảm trách. Đã lâu lắm, hắn không đến thăm bà, không tìm một cớ gì để xin yết kiến bà. Khi nào bà cho gọi đến, hắn có vẻ nghênh ngang, lạnh lùng. Tác phong, tư cách của hăn không ai có thể so sánh được, bọn phụ nữ, ai cũng tấm tắc khen hắn là một người đàn ông lý tưởng. Bà đã phong tướt cho hắn (Vinh Lộc quân cơ đại thần), hắn cũng không chịu lui tới gần bà. Bà biết hắn trung trực, tuyệt đối trung thành, nhưng thế vẫn chưa đủ. Bà có thể nào làm xiêu lòng hắn để thỏa mãn dục vọng thầm kín?

Bà thở dài, gấp sách lại. Tất cả mọi người quanh bà có lẽ chính bà không hiểu bà. Tại sao, bây giờ bà đối đãi tệ bạc, ác nghiệt với người chị họ, bà Từ An? Bà Từ An ngay tình không biết, yên trí thấy thằng nhỏ quyến luyến mình hơn nhưng điều đó khiến bà thái hậu nổi lòng ghen ghét. Lòng ghen ghét này có từ hồi con bà còn sống, lúc nhỏ, con bà cũng yêu mến bà Từ An hơn mẹ ruột.

Bà nghĩ "Thế mà chính ta yêu nó hơn ai hết, ta có bổn phận rèn luyện tính nết. Nếu nó còn sống, có lẽ nó hiểu điều đó".

Nhưng nó bạc phận, chết rồi. Bà không dám nghĩ đến đứa con thân yêu nay nằm trong mồ; bà lại ra vườn đến chỗ vắng, không muốn gặp bọn thể nữ đứng chờ bà từ lâu. Buổi chiều, gió mát, gió đưa lại mùi hoa thơm phảng phất. Bà đứng yên một lúc, đứng nhìn cảnh vật thật huy hoàng, lộng lẫy, mặt nước hồ lóng lánh, những chùm hoa trắng đỏ, những mái nhà mạ vàng óng ánh, những con rồng đắp uốn khúc, những đường đi lát gạch đỏ. Tất cả những thứ này thuộc quyền sở hữu của bà. Bà có một người kế vị tự tay bà chọn và đặt lên ngai vàng, ấu đế, một đứa trẻ chín tuổi, mảnh khảnh như một mầm tre non. Tuy bề ngoài ôm yếu, nước da xanh xao, thằng nhỏ đã có một ý chí rõ ràng, không cần giấu giếm, nó mến bà Từ An hơn nghĩa mẫu. Người có quyền hành, uy thế hơn hắn là bà thái hậu. Bà không thể mua chuộc lòng thằng nhỏ cũng như bà không thể giấu được sự ác cảm mỗi ngày một gia tăng, như sự thất vọng của bà đối với nó. Sự đối nghịch giữa bà thái hậu già và một thiếu đế công khai bộc lộ, khắp cả triều ai cũng rõ. Bây giờ trong triều chia làm hai phe, phe nọ chống phe kia, phe của bà thái hậu, phe của thiếu đế. Bà Từ An, một người nhẹ dạ, không biết suy tính, ngờ nghệch, tưởng lợi dụng sự đối nghịch giữa hai phe, thủ lợi riêng, mưu đồ gây thế lực. Bà là người nhút nhát yếu hèn nhất trong hoàng thành, nghe lời xúi giục, dám có những mộng ảo khuynh loát. Lý Liên Anh, tên do thám của thái hậu cho bà biết bà Từ An có mưu đồ lớn, định khuynh phúc bà, ỷ vào là hoàng hậu chính thức của tiên đế.

Bà thái hậu nghe mật trình của tên thái giám phá lên cười, bà nói, bà Từ An loay hoay, ngọ nguậy làm bà buồn cười. Bà vừa nói, vừa cười:

- Một con mèo ốm giơ móng để dọa con cọp.

Bà mặt cho tên thái giám cười theo, không mắng.

Cũng năm đó, bà Từ An thử chơi khâm bà thái hậu để xem phản ứng ra sao? Ngay hôm trọng đại, tất cả triều thần, văn võ bá quan đến làm lễ các liệt thánh bản triều. Đến trưa, bà thái hậu và đoàn tùy tùng đến, bà kinh ngạc thấy bà Từ An đứng hàng đầu chủ lễ. Bà thái hậu đã sửa soạn kỹ càng trong ngày tưởng nhớ các vị tiền nhân. Bà trai giới từ chiều hôm qua, suốt đêm tụng nệm, gà gáy sáng đã dậy. Bà đi xe song loan ra lăng tẩm, bà thành tâm, cung kính, quan niệm về trọng trách, nhiệm vụ của bà đối với thần dân trong nước, ý bà muốn các tiên nhân phù hộ cho bà trong công việc an dân, trị quốc.

Khi thấy bà Từ An, một người yếu hèn (việc này do Cung thân vương ghen ghét với Nhung Lữ xúi giục) bệ vệ ngồi trước bàn thờ bằng đá cẩm thạch, ở chính giữa, lấy tay chỉ cho bà Từ Hy ngồi đến ở phía tay mặt, với một nụ cười đắc ý.

Cái lối mời trịch thượng như thế làm bà thái hậu vô cùng tức giận, bà nguýt bà Từ An. Bà bình tĩnh đến một viên đình bên, cho gọi Nhung Lữ đến.

- Ta không cần phải hỏi han lôi thôi, đem mấy chữ này cho bà đồng nhiếp chính. Nếu bà ta không chịu rút lui, nhường chỗ ngay, ta sai vệ binh bắt, đem nhốt vào ngục.

Nhung Lữ lễ xong đứng dậy, nét mặt đã già, lúc nào cũng lạnh lùng, hiên ngang. Ông vâng lệnh đem tờ giấy cho bà Từ An. Một lúc sau, ông quay trở lại, đem tờ phúc đáp.

Bà đồng nhiếp chính đã nhận được thư của bà Từ Hy. Bà nói bà có quyền ngồi ở chỗ danh dự đó, vì bà Từ Hy chỉ là đệ nhất cung phi. Chỗ ngồi bên trái còn trống là chỗ ngồi của cố hoàng hậu.

Bà thái hậu nhìn ra phía xa, những rặng thông và những bức tường bằng cẩm thạch. Bà nói rất bình tĩnh:

- Trở lại bà đồng nhiếp chính một lần nữa. Nếu bà còn ương ngạnh, cưỡng lại, truyền cho ngự lâm quân giữ bà ấy lại, đồng thời cả Cung thân vương. Từ trước tới nay ta rất khoan hồng, tha thứ cho bất cứ ai.

Nhung Lữ có vệ binh đi kèm đến gần bà Từ An. Vài phút sau, Nhung Lữ trở lại báo cáo bà Từ An đã nhượng bộ.

Với giọng lạnh lùng, buồn tẻ, ông nói:

- Chỗ đó trống, kính thỉnh thái hậu quang lâm. Bà đồng nhiếp chính đã sang ngồi ở ghế tay mặt.

Bà thái hậu ở trên ngai bước xuống, không nhìn nghiêng, nhìn ngửa, bệ vệ đi thẳng đến lăng mộ. Bà trịnh trọng làm lễ. Lễ xong bà lẳng lặng trở về cung không chào ai.

Câu chuyện xích mích giữa hai bà cũng phai nhòa; ở hoàng thành mọi công việc lại như thường lệ. Nhưng ai cũng biết giữa hai người đàn bà này không thể nào có hòa khí, một ngày kia sự xung đột sẽ bùng nổ, một bên có Nhung Lữ và tên tổng quản thái giám làm vây cánh, một bên có Cung thân vương bây giờ đã già, nhưng lúc nào cũng hách, không chịu khuất phục.

Mối bất hòa giữa hai bà phát xuất, thật bất ngờ, nguyên do tại Nhung Lữ. Một hôm, về mùa thu, cũng năm đó, người ta xì xầm phao đồn, Nhung Lữ, một trung thần, một chính nhân quân tử, một người có tâm hồn cao thượng, một người, xưa nay không có tiếng tăm, tỳ vết, người đó lại ham mê một cung phi còn trinh tiết, cố tiên vương chưa bao giờ hỏi han đến vì vua còn say mê Ái Lan. Khi bà thái hậu nghe người thái giám, môi dày tám tất, đến mật trình câu chuyện khó tin đó, bà kêu lên:

- Cái gì? ... Người anh họ ta? ... Ta tin ở hắn cũng như ta tin ở ta.

Lý Liên Anh nheo miệng, mỉm cười, nói:

- Tâu thái hậu, con xin thề là đúng sự thật. Mỗi lần gặp Nhung tướng quân, người cung phi lại đưa mắt tống tình. Tâu thái hậu, người cung phi còn trẻ và đẹp, chỉ bằng tuổi con gái tướng quân. Ông đã già, vào tuổi ông, thích vợ trẻ. Xin thái hậu biết cho tướng quân không yêu người vợ mà thái hậu lấy cho. Chuyện này đúng sự thật như 2 với 2 là 4.

Bà thái hậu chỉ cười và lắc đầu.

Vài tháng sau, khi người thái giám đem lại cho bà coi bằng chứng, một lá thư, hai người hẹ hò gặp nhau. Lần này bà không còn cười như lần trước.

Tâ thái hậu, thái hậu đọc coi.

Bà thái hậu cầm lá thư, ướp nước bông thơm.

"Anh đến với em độ một giờ sau giờ tý. Em đã cho người gác cổng tiền, hắn sẽ mở cửa cho anh cổng thứ ba. Con nữ tỳ của em nắp sau một thân cây sẽ đưa anh đến với em. Em như một bông hoa đang mong mưa."

Bà đọc xong lá thư, gấp lại, luồn vào ống tay áo.

Lý Liên Anh quỳ trước mặt, bà thái hậu ngồi suy nghĩ. Rõ ràng như thế này chứng cớ rành rành. Có những dây vô hình thắt chặt tâm hồn, xác thịt giữa hai người, mối tình khắn khít không thể nào nói lên được. Bà không thể nào tha thứ một sự phản bội như vậy. Bà bảo viên thái giám.

- Đi mời quân cơ đại thần vào hầu. Khi ông đến, đóng hết các cửa, kéo rèm xuống, không ai được vào, nếu không có tiếng chuông ta cho phép.

Tên thái giám đứng dậy, hắn có bẩm tính gieo tai rắt họa cho người nào thì trong lòng sung sướng lắm, sốt sắn lắm. Hắn chạy vụt đi, tà áo phất phới, bay quanh người bà thái hậu đang bừng bừng cơn giận, Nhung lữ bước vào, mặt chiếc áo màu da lam thiêu kim tuyến, đầu đội mũ lam, tay cầm hốt ngọc. Bà không thèm nhìn hắn, bà ngồi trong gian phòng thư viện rộng lớn, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, thêu rồng kim tuyến, phủ đến chân, đầu đội ngọc miệng, gài những chùm hoa nhài tươi, tỏa ra mùi hương thơm ngào ngạt. Bà sắp tiếp một kẻ thù: Hắn.

Nhung Lữ sắp quỳ, bà giơ tay ngăn lại.

Bà nói giọng ôn tồn, lịch sự:

- Mời tướng công ngồi xuống, để chiếc hốt bạc lên bàn, không phải là một cuộc yết kiến. Tôi muốn nói chuyện cá nhân ông về một lá thơ hiện tôi đang giữ trong tay. Tôi mới có cách đây một giờ. Như ông đã rõ, các thám tử của tôi được tung đi khắp mọi nơi.

Nhung Lữ không chịu ngồi, tuy bà đã ra lệnh, mà cũng không quỳ. Ông đứng trước mặt bà, khi bà kéo ở ống tay áo lá thơ ướp hoa, hắn cũng không giơ tay cầm lấy, bà hỏi:

- Anh cũng biết nội dung lá thơ?

- Tôi đã thấy.

- Anh không thấy xấu hổ à?

- Không.

Bà buông lá thơ rớt xuống đất, khoanh hai tay trên đầu gối.

- Anh không nhận thấy anh đã thiếu trung thành đối với tôi?

- Không. Tôi không phản bội thái hậu gì hết. Thái hậu cần gì, tôi đã thỏa mãn thái hậu theo như ý muốn. Còn thứ gì thái hậu không bảo tôi, không cần đến tôi là thuộc quyền sở hữu của tôi.

Bà thái hậu kinh ngạc về câu trả lời gọn gàng, bà thật sự không biết nói làm sao. Nhung Lữ đứng chờ. Một lúc sau, hắn nghiêng đầu chào, đi ra, không xin phép cáo lui. Bà để hắn ra không gọi lại.

Ngồi một mình, bà ngẫm nghĩ mấy lời Nhung Lữ vừa nói. Tính bà trung trực, công bằng, bà cân nhắc từng lời nói. Hắn chẳng nói lên sự thật là gì? Bà không nên để tai nghe lời gièm pha, mách lẻo của một tên thái giám. Nếu bà cho hắn là phản bội bà, thì không có gì là công bằng. Đúng lẽ phải ra, bà có thể tức giận, ghét hắn, vì hắn là một người đàn ông. Bà phải có mánh khóe, phải biết làm thế nào để hắn là một người tình chung thủy với bà.

Trong một hôm, hai hôm, bà mắng mỏ, hất hủi Lý Liên Anh, tên thái giám này thấy thái độ bà, sợ quá, lấm lét không dám dàn mặt, để tránh cơn phong ba có thể nổi lên bất cứ lúc nào, song hắn đang tức giận, âm thầm làm việc trong bóng tối.

Vài tuần lễ sau, một tên thái giám đệ trình bà một tờ mật trình của quan phụ đạo của ấu đế, tên Vương Tùng Hổ. Bà thái hậu biết ngay là chuyện bà thứ phi trẻ vì bà biết tên phụ đạo này đang có hiềm khích với Nhung Lữ.

Trong tờ mật trình nói nếu thái hậu đến phòng người thứ phi vào một giờ nào, bà sẽ được chứng kiến một cảnh hi hữu. Vương Tùng Hổ xin đem đầu hắn ra đảm bảo, nếu hắn không nói đúng sự thật. Nếu một việc tồi bại như thế diễn ngay trong hoàng thành mà được bỏ qua, thì tình thế xã hội quốc gia sẽ ra làm sao?

Bà thái hậu gạt tay, đuổi tên thái giám đi ra. Có các thể nữ tháp tùng, bà đi thẳng ra lãnh cung.

Bà sẽ sàng mở gian phòng người thứ phi, người mà chính bà, ngày trước, đã chọn cho con bà. Các a hoàn, thái giám, đột nhiên thấy bà thái hậu xuất hiện, sợ quá, quỳ cả xuống, lấy ống tay áo che mặt. Bà chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng: Nhung lữ ngồi trên ghế bành lớn, cạnh một chiếc bàn đầy rượu, trà, cốc tách, người thứ phi quỳ ở bên cạnh, hai bàn tay đặt lên gối người đàn ông. Người ngồi ở ghế cúi xuống, nét mặt say sưa, tình ái.

Bà thái hậu nhìn cảnh tượng đó, người choáng váng, như một mũi dao nhọn đâm vào giữa tim bà. Nhung Lữ ngửng đầu lên nhìn thấy bà; hắn nhìn bà một lúc rồi gạt tay người con gái ra, đứng lên, hai tay khoanh trước ngực, chờ đón sự phẫn nộ của bà thái hậu.

Bà thái hậu tức quá (ghen) líu lưỡi không nói được. Hai người đứng yên, nhìn nhau, cùng chung một mối tình vô vọng, không thê thổ lộ ra người ngoài biết. Bà nhận thấy người đàn ông này trong trường hợp nào cũng có tư cách, mối tình đối với bà không có gì lay chuyển, thủy chung như nhất, dù có chơi bời cũng vẫn trung thành với mối tình đầu. Bà đi ra sẽ sàng đóng cửa lại, trở về tư dinh.

Bà ngồi một mình trong phòng, suy nghĩ. Tuy bà không nghi ngờ, e ngại mối tình của hắn đối với bà, lòng chung thủy, trung thành của hắn không có gì ngờ vực, song bà được chứng kiến một cảnh làm bà đau lòng. Dù sao, Nhung Lữ cũng là người, cũng bằng xương, bằng thịt, cũng có lúc tâm trí như mọi người. Đã là một người, hắn cũng có những thú vui về nhục dục. Bà lẩm bẩm nói một mình "Nhung Lữ còn thua ta, ta sống hoàn toàn cô đơn."

Bà thấy đau ở hai thái dương, bà lột chiếc mũ nặng trịch đội trên đầu, đặt xuống bàn, lấy hai tay bóp trán.

Nếu hắn không màng tưởng đến những thú vui tầm thường như một người tầm thường, chỉ nghĩ đến mối tình đối với bà, thì mối tình đó đẹp đẽ, cao thượng. Nếu hắn chịu sống cô đơn, hắn có một tâm hồn cao thượng như bà.

Đột nhiên bà liên tưởng nghĩ đến bà Victoria, nữ hoàng Anh Quốc, bà vẫn thường coi như một người em gái tuy chưa gặp, chưa hề quen biết bao giờ. Bà nghĩ, chẳng thà bà chịu góa bụa như bà này, còn hơn có người yêu còn sống, yêu vụng, giấu thầm, mà người ta còn sinh lòng bội bạc.

Bà nghĩ thế, thở dài, nước mắt chảy ròng ròng xuống hai bên má. Bà nghĩ:

"Trước kia ta tưởng sống cô độc một mình đã là khổ, bây giờ ta mới hiểu sự cô đơn đưa ta đến vực thẩm."

Bà ngồi một mình hồi lâu suy nghĩ, thấy số phận thật hiểm độc, éo le. Bà thở dài, lấy khăn tay lau nước mắt. Bà như bừng tỉnh một cơn ác mộng, đứng dậy, đi đi, lại lại trong một gian phòng rộng lớn. Bà nghĩ đến công việc, bổn phận, bà nghĩ trừng phạt Nhung Lữ như thế nào cho đích đáng. Ba muốn tỏ ra biết trọng công lý, lẽ phải bất cứ ai và bất cứ trường hợp, thời gian nào.

Ngày hôm sau, trong lúc thiết triều buổi sáng, bà xuống một sắc chỉ, truất phế phẩm trật, quyền tước, quân cơ đại thần Vinh Lộc (Nhung Lữ). Trong sắc chỉ, không thấy nêu tội trạng đương sự. Thiên hạ xì xầm, bàn tán, sắc chỉ này là kết quả câu chuyện (ghen tuông) ngày hôm qua.

Từ khi con bà mất đi (vua Đồng Trị băng hà), bà ngự trên ngai vàng, quyền uy bao trùm cả triều, bá quan, văn võ len lét sợ, cúi đầu nghe bà giáng chỉ truất phế một vị đại thần. Nhung Lữ, một bước lên tới nhất phẩm triều đình, mà cũng một bước bị giáng xuống hàng lê dân, lên, xuống, cao, thấp đều do ở bà. Bà là nữ hoàng đế một mình nắm trọn uy quyền.
PC
#24 Posted : Friday, November 12, 2004 7:25:49 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 01, 2004 10:38 am

Trong tuần trăng thứ nhì, năm sau, Cung thân vương được giao phó đảm nhiệm một công tác rất phiền toái, ông không thể từ chối, phải cố gắng đảm nhiệm.

Một buổi sáng đẹp trời về mùa xuân, khi bãi triều, Cung thân vương xin thái hậu được tư yết, đã lâu lắm thân vương không xin đặc ân đó. Bà thái hậu vội vàng rời Long điện (nơi thiết triều), bà muốn suốt cả ngày hôm đó chơi ở ngoài vườn vì đang mùa mận nở hoa. Song, bà thể theo lời thỉnh cầu tiếp Cung thân vương, bây giờ là cố vấn độc nhất của bà và cũng làm trung gian cho người da trắng với triều đình. Người ngoại quốc càng ngày càng yêu sách, hạch hỏi, họ có cảm tình với thân vương. Bà thái hậu lợi dụng thân vương làm trung gian giữa triều đình với người ngoại quốc. Thân vương vào tư yết bà, sau lễ nghi chào hỏi, ông nhập đề nói đến nội dung cuộc yết kiến.

- Tâu thái hậu, hạ thần hôm nay đến để khấn cầu uy quyền của thái hậu giúp đỡ cho Đông cung thái hậu Từ An buồn phiền quá mà sinh bệnh.

- Buồn phiền chuyện gì?

- Tâu thái hậu, hạ thần không biết. Thái hậu có rõ thái giám Lý Liên Anh càng ngày càng lộng hành, ngạo mạn. Hắn tự phong cho hắn là " Cửu thiên tướng công". Ngày xưa, dưới triều nhà Minh đã có một tên thái giám cũng tự xưng như vậy. Lý Liên Anh tuyên bố chỉ kém hoàng đế có một bậc, hoàng đế vạn niên, còn hắn cửu thiên.

Bà thái hậu cười nhạt, nói:

- Ta có trách nhiệm về những tiếng xưng hô của bọn thuộc hạ đối với người cai quản chúng, sao? Công việc nội đình, thái giám thay ta trông nom coi sóc. Đó là bổn phận của hắn, ta không thể nào kiểm soát, kiểm điểm những chuyện nhỏ nhen, ta phải gánh vác, lo toan bao nhiêu công việc trọng đại trong cũng như ngoài nước. Phàm giả người nào cai trị giỏi cũng bị người ta ghen ghét.

Cung thân vương khoanh tay, mắt nhìn xuống, mím môi.

- Tâu thái hậu, nếu bọn thuộc hạ than phiền, hạ thần không dám đến tâu ở ngai rồng. Nhưng người bị tên thái giám tỏ vẻ xấc láo, vô lễ, hống hách, lộng quyền là bà đồng nhiếp chính, bà Đông cung thái hậu.

- Thật thế à?Sao bà đồng nhiếp chính không thấy than thở gì với tôi? Tôi thiếu bổn phận thế nào đối với bà ta? Nếu tôi đảm nhiệm tất cả trọng trách về công việc quốc gia là tôi nghĩ không muốn để bà ta lo lắng quá vì sức khỏe yếu kém. Tôi đã tự bắt buộc lo toan hết mọi việc cho bà ta. Nếu bà ta than phiền tôi, dú gián tiếp hay trực tiếp là tùy ý.

Bà giơ cao tay bàn tay mặt lên, đuổi thân vương ra. Thân vương lủi thủi đi ra, nghĩ nói không những chẳng ăn thua gì, bà ta còn oán thù.

Ngày hôm đó, đối với bà thái hậu là hỏng cả một ngày. Bà không thấy hứng thú đi dạo chơi trong vườn, tuy rất mát trời, nhờ có cơn giông mới đây, nền trời trong trẻo, ánh nắng chan hòa. Bà đến một cung thật xa, ngồi một mình trong đó. Về tình ái bà không mơ mộng đến nữa, bà chỉ thấy lòng man mác, lo sợ. Bà không muốn từ nay có người nào than phiền đến bà, hay những người hầu hạ gần bà. Bà sẽ khóa mồm những người nào hay ca tụng bà. Tuy nghĩ vậy, nhưng bà có lòng thương người nên cũng không hà khắc, nghiệt ngã quá. Bà ở trong cung đi ra có các thể nữ tháp tùng, đến một ngôi chùa, đốt hương ở bàn thờ đức Quan Âm. Bà thâm niệm, khấn vái kêu cầu đức phật khai thông cho bà hiểu thế nào là hai chữ từ bi, khai thông cho bà Từ An cũng hiểu hai tiếng đó, để bà khỏi phải ra tay sát hại.

Nhờ sự kêu cầu, trong lòng phấn khởi, bà sai người đến Đông cung báo tin cho bà Từ An biết, bà sẽ đến thăm. Bà đến vào buổi chiều, thấy bà Từ An đã đi nằm.

Bà Từ An nom thấy bà, bèn than thở:

- Em ơi! Hôm nào chân không đau mới ngồi được, hôm nay hai chân đau nhức, ngồi không được. Chị đau ở các khớp xương, không sao nhúc nhích được.

Bà thái hậu ngồi ở chiếc ghế bành lớn đã để sẵn ở cạnh giường. Bà đuổi tả, hữu đi ra ngoài hết để được trò chuyện một mình với bà Từ An. Bà nói chuyện tự nhiên, không khách sáo, như hồi hai người còn nhỏ.

- Chị, em không thể chấp nhận những lời than phiền của chị qua mồm người trung gian. Nếu chị không bằng lòng việc gì, chị đến bảo em, em sẽ tùy theo nếu có thể giúp chị. Em không muốn chị gieo mối bất hòa, lủng củng trong nội đình.

Hoặc giả Cung thân vương mớm lời cho, hay vì sự thất vọng, bất mãn triền miên, không ai có thể đoán được vì lẽ nào. Bà Từ An chống một khuỷu tay nhìn bà thái hậu vẻ mặt cau có, khó chịu.

- Lan, có lẽ quên rồi chăng? Thực ra ta ở ngôi thứ địa vị cao hơn em. Em chỉ là soán nghịch, không riêng gì mình ta nói. Ta có bạn hữu, người đồng tuế. Em muốn nghĩ gì, tùy em.

Bà thái hậu vô cùng kinh ngạc, thấy một con mèo ốm nhom đột nhiên biến thành con cọp cái. Bà đứng phắt dậy, chạy đến kéo tai bà Từ An. Bà nghiến răng rít lên:

- Đồ hèn, đồ giun đất, quân vô ơn, ngu xuẩn, tao đối xử với mày thế nào?

Bà Từ An bất chợt bị nắm tai, vươn cổ cắn bà thái hậu ở ngón tay cái. Bà nghiến răng cắn chặt, không chịu buông ra, bà thái hậu phải hết sức vạch hàm bà Từ An ra, máu chảy ròng ròng ở cổ tay dính cả vào chiếc áo cẩm bào.

Bà Từ An nói thêm:

- Ta không hối hận gì. Ta đã mãn nguyện. Bây giờ mày biết tao không phải là không có tự vệ đâu nhé.

Bà thái hậu lấy chiếc khăn tay lụa gài ở vai quấn ngón tay cái bị thương. Bà đi ra ngoài liền. Ở ngoài, các thể nữ, thái giám kéo đến đầy cửa. Thấy bà đi ra, bọn này dẹp sang một bên, nét mặt người nào cũng có vẻ lo âu. Lúc đó, có ai can đảm cản đường một con cọp cái đang say máu.

Bà thái hậu trở về tư dinh. Bà ngồi một mình, suy nghĩ, từ chập tối đến đêm, ngón tay đau nhức, bà ôm lên ngực. Bà gõ chiếc chiêng bạc gọi Lý Liên Anh. Tên này nghe thấy tiếng chiêng, vội chạy vào. Hắn đã biết câu chuyện buổi chiều, thế nào cũng có phản ứng khốc liệt.

- Tâu thái hậu, ngón tay thái hậu chắc đau lắm?

- Răng con mụ đó có nọc độc như rắn hổ mang.

- Xin lệnh bà cho phép hạ thần trị liệu ngón tay đau. Hạ thần có món thuốc gia truyền, học được của ông chú hạ thần.

Bà giơ bàn tay. Tên thái giám tháo chiếc khăn tay lụa quấn ở ngoài tay, đổ nước nóng vào chậu pha thêm nước lạnh. Hắn rửa ngón tay, lấy khăn lau khô.

- Tâu lệnh bà cố chịu đau thêm một chút.

- Không cần phải hỏi.

Mấy ngón tay chuối mắn của hắn, nhặt một hòn than đỏ trong lò bếp đặt lên vết thương để khử trùng? Bà ngồi yên, không rên la không nhúc nhích. Hắn lại lấy chiếc khăn tay sạch ở trong một chiếc hộp bà chỉ, quấn thật chặt ngón tay bị thương.

- Tâu lệnh bà, lệnh bà dùng chút nha phiến chiều nay cho đỡ mệt. Ngày mai, ngón sẽ khỏi như thường.

- Tốt.

Tên thái giám đứng yên như để chờ lệnh. Một lúc sau, bà nói:

- Khi thấy ở vườn có một ngọn cỏ dại, không thể để được phải nhổ đi.

- Tâu lệnh bà, đúng thế.

- Việc này ta chỉ có thể trông cậy vào một người nô bộc hết sức trung thành, thân tín.

- Tâu lệnh bà, tên nô bộc đó là hạ thần.

Hai người nhìn nhau một lúc lâu như ngầm hiểu ý nhau. Hắn khấu đầu chào, rồi đi ra.

Bà thái hậu cho gọi bọn thể nữ vào tiêm thuốc phiện. Hút vài điếu, bà lơ mơ ngủ, tâm hồn phảng phất bay bổng.

Ngày mùng mười tháng đó, bà Từ An bị một bệnh lạ phát một cách rất đột ngột, không một ngự y nào có thể cứu chữa. Bà bị đau nội thương, vật vã rồi chết. Một giờ trước khi lâm chung, bà biết thế nào cũng chết, bàa còn đủ sáng suốt đọc cho viết mấy lời trối trăng lại.

Di ngôn:

"Tôi tự biết, tuy tôi gầy còm, ốm yếu song cơ thể tôi vẫn điều hòa, tôi ước vọng được sống cho đến già; đột nhiên hôm qua tôi bị một bệnh kỳ lạ, làm tôi vô cùng đau đớn và tôi biết phải lìa bó cõi trần thế này.

"Đêm đã đến, việc cứu chữa cho tôi đã tuyệt vọng. Tôi mới có 45 tuổi. Tôi đảm nhiệm chức vụ nhiếp chính suốt trong hai mươi năm. Tôi được ân thưởng nhiều tước phẩm về tác phong đạo đức của tôi. Làm sao tôi lại sợ chết. Tôi chỉ nguyện một điều trước khi nhắm mắt, 27 tháng tang xin rút xuống 27 ngày tang để tôi chết được thảnh thơi. Bình sinh, tôi không thích rườm rà, hoa mỹ, tôi cũng xin đám tang tôi được giản dị đến mức tối thiểu".

Nhân danh bà thái hậu Từ An (Đông cung thái hậu) đã quá vãng, Cung thân vương cho phổ biến tờ di ngôn đó. Bà Từ Hy không bình phẩm một lời vì trong tờ di ngôn đó. Bà Từ Hy không bình phẩm một lời vì trong tờ di ngôn thấy có chỗ gián tiếp chỉ trích bà về sự xa hoa quá mức. Tính bà thâm trầm, những ai trong lòng hiềm khích, bà biết hết, bà không nói nhưng chôn sâu trong tâm khảm. Một năm sau, trong nước đột khởi tai họa, nhân đó bà quy trách nhiệm hoàn toàn vào Cung thân vương. Quân Pháp chiếm 6 tỉnh ở Bắc Kỳ cho như một chiến lợi phẩm và phá tan những chiếc thuyền buồm của bà sai đi để đánh đuổi quân Pháp. Bà nhận được hung tin, lên cơn lôi đình, thịnh nộ. Tự tay bà thảo một sắc lệnh buộc cho Cung thân vương không đủ khả năng lực nếu không là bội phản. Bà dùng lời lẽ ôn hòa có vẻ khoan hồng, độ lượng song vô cùng nghiêm khắc:

- Sắc lệnh.

Trẫm thừa nhận những công huân Cung thân vương.

Để tỏ lượng khoan hồng, trẫm đã phục hồi tất cả phẩm tước thế tộc và bổng lộc tương xứng.

Chiếu theo sắc lệnh này, Cung thân vương bị truất hết quyền tước và lương bổng.

Khâm thử.

Cùng với Cung thân vương, bà thái hậu sa thải một số bạn đồng liêu với thân vương. Bà bổ nhiệm Chuân thân vương thay thế Cung thân vương. Bà lựa trong hàng thân vương lấy một số để thay thế số bị sa thải. Những người trong tộc đảng thân vương Chuân rất bất mãn, họ sợ Chuân thân vương được bà thái hậu phong cho một chức vị cao, sẽ thừa cơ soán nghịch dòng dõi vua Đồng Trị, lập một triều đại mới. Bà thái hậu không sợ một ai hết. Bà đã trừ khử những người có óc đối nghịch. Bà trở nên kiêu hãnh, vô hiệu hóa tất cả những mầm móng chống đối, mưu đồ khuynh đảo. Tuy vậy bà không muốn người ta cho bà có óc độc tài. Khi viên ngự sử Hàn Sâm gởi tờ trần thuật, nói những quyền hành giao phó cho Chuân thân vương làm lu mờ hội đồng ngự sử, hội đồng này trở nên vô ích, không còn lý do tồn tại. Bà đề cao những khả năng của thân vương, nguyên là phó khâm sai đại thần ở Mãn Châu, hiện giờ tổng đốc Tứ Xuyên. Trong một sắc chỉ, bà cho phổ biến đi khắp nước, bà nói một thân vương cùng huyết thống không nên nắm một quyền lực như Chuân thân vương. Bà biết như vậy nhưng vẫn phải làm. Bà kêu gọi thần dân trong nước phải nổ lực giúp đỡ triều đình để nước được phú cường. Bà còn nói nhiệm vụ, chức vị của Chuân thân vương chỉ có tính cách tạm thời. Trong tờ sắc chỉ, bà kết luận.

... Hỡi các thân vương và văn võ bá quan phải hiểu nhiều vấn đề trọng đại, trẫm phải liệu lý, giải quyết một mình. Những người trong hội đồng ngự sử đừng có lấy cớ địa vị của Chuân thân vương để trốn nhiệm vụ. Trẫm muốn từ nay, các quan phải tuân theo triệt để những mệnh lệnh của trẫm và không được kêu ca. Với sắc chỉ này, những đơn kêu ca không được cứu xét.

...

Như thường lệ, các sắc chỉ, sắc luật, lời lẽ gọn gàng, giản dị, minh bạch, không có lời văn phù phiếm, rườm rà. Các quan trong triều và các hàng thân vương đọc xong, không ai dám hé răng bình phẩm, người nào cũng có vẻ lo sợ. Suốt trong 7 năm được sự phục tòng tuyệt đối, bà trở thành một nhà cai trị độc tài chuyên chế và cũng là một nữ chúa hào hoa, diễm lệ.

Trong nước thái bình, thịnh trị. Đình thần cũng như hoàng thân cúi đầu tuân theo mệnh lệnh, nên bà ít khi cho thiết triều. Tuy vậy những lễ nghi về tôn giáo bà rất cẩn thận, không bỏ qua một lễ nào và bà biết chiều theo ý dân, nguyện vọng của dân.

Trời cũng chiều lòng, những năm bà cầm quyền, trong nước không có nạn hồng thủy, tiêu khô hạn hán, gió thuận mưa hòa,phòng đăng hoa cốc. Dân được yên ổn làm ăn, không có chiến tranh, giặc giã, những người ngoại quốc sống yên trong các tô giới. Bà dùng chính sách cứng rắn, dân chúng khiếp sợ, không ai dám ho he, xì xào, các quan ngự sử cũng giấu bà những mối lo ngại, không dám tâu lên.

Trong bầu không khí phẳng lặng, yên vui, tứ phương vô sự, bà để thời giờ nhàn hạ để thực hiện mộng tưởng hoàn thành Di Hòa cung. Bà đã bày tỏ cùng quốc dân ý định của bà, nên dân chúng đem cống hiến vàng, bạc; các tỉnh gởi đồ cống hiến gấp bội. Bà xuống chiếu cám ơn thần dân đã gởi phẩm vật cung tiến và giải thích ấu đế vừa là hoàng điệt và nghĩa tử của bà sẽ làm lễ đăng quang khi 17 tuổi. Bà sẽ cáo lui, đi dưỡng tuổi già ở Di Hòa cung.

Bà đã không khéo che mắt tất cả thần dân trong nước, mộng tưởng xa hoa, lãng phí bao nhiêu tài nguyên, vật lực trong nước. Bà chuyên chú, để tâm thực hiện mộng tưởng, xây cất những cung điện cực kỳ tráng lệ trong một khung cảnh thần tiên.

Bà đã chọn được địa điểm xây dựng cung điện, bà cho thế là nối chí được các tiên vương. Trong bản họa đồ, có ngôi cổ tự Vạn Phật xây từ đời vua Càn Long. Trong trận tàn phá, quân thù đã để lại không thiêu rụi và những chiếc cao đỉnh bằng đồng không bị làm mồi cho ngọn lửa và còn sót lại chiếc hồ lớn, nước chảy trong xanh. Các cung điện, đền, đài bị tàn phá, bà cho để nguyên đống tro tàn làm kỷ niệm. Những vật kỷ niệm đó nhắc nhở cho người đời biết vạn vật trên thế gian này đều vô thường. Bà cho xây cung của bà và cung của hoàng đế ở phía đông nam chiếc hồ lớn. Hai cung đó ở cách khá xa để cho hai người sống riêng biệt. Bà cũng cho xây một đại hí trường để tiêu khiển lúc tuổi già. Gần cổng vào hí trường bằng đá hoa, có một phòng rộng tiếp tân, vì theo quan niệm của bà, dù vào những ngày nghỉ, có lẽ tiết vị quốc trưởng phải tiếp các quan và hoàng thân. Gian phòng này rất rộng, tráng lệ, uy nghi, được trang trí bằng những bức chạm trổ, những đồ cổ, sơn son thiếp vàng. Các khuôn cửa kính treo những bức họa màu sắc tươi tượng trưng cho chữ "THỌ", trước mặt một chiếc sân rộng lát đá hoa, có mấy bực thềm trông ra hồ nước. Những bức tượng lớn bằng đồng bày ở sân. Về mùa hạ, những bức rèm lụa buông xuống ngoài hành lang, gian phòng về mùa nào cũng mát lạnh.

Cung bà thái hậu có những gian phòng rất rộng, tráng lệ, uy nghi, xung quanh có hành lang. Bà thích đi bách bộ ở các hành lang để suy tưởng. Khi bào trời mưa, bà ngắm nhìn mặt hồ có sương mù bao phủ, những cành cây, giọt sương long lánh. Mùa hạ, bà cho trồng cỏ thơm ở vỉa đường đi trong vườn. Vườn có nhiều giả sơn, kỳ hao dị thảo. Thứ hoa bà thích nhất là hoa lan (lan là nhũ danh của bà). Xung quanh hồ, bà cho xây một hành lang dài một cây số rưỡi, có những cột đá hoa. Đứng ở trong hành lang đó có thể ngắm nhìn đồi trồng hoa mẫu đơn, tao dại, trúc đào, lựụ.. Càng về già, bà càng thiên về thẩm mỹ, dưới mắt bà chỉ có thẩm mỹ là đáng kể.

Trong nước không ai ta thán, bà thái hậu mỗi ngày mỗi xa hoa. Những tấm rèm ở giường bà bằng vóc vàng thêu rất cầu kỳ một đàn chim phượng bay. Bà mua ở nước Tây phương rất nhiều đồng hồ đủ các kiểu.

Những đồ vật đó dùng làm đồ tiêu khiển, tuy vậy bà vẫn không quên thú chơi sách. Bà cho lập một thư viện, có đủ các loại sách, một thư viện của những nhà đại văn hào uyên thâm.

Ở trong cung, bà ngồi ở góc nào, ở phòng nào cũng nhìn thấy mặt hồ nước xanh ngắt. Giữa hồ có một cù lao, ở đó có xây một ngôi chùa nhỏ; cù lao nối liền với bờ bằng một chiếc cầu cẩm thạch, có 17 nhịp. Trên cù lao có một bãi cát nhỏ, vua Càn Long khi xưa trí một con bò bằng đồng, cát phủ lấp một nửa, để tránh cho cung, điện đời đời không bị nạn hồng thủy. Tất cả những chiếc cầu bà cho xây, có một chiếc bà ưng ý nhất, chiếc cầu này uốn cong rất đẹp, cao trên mặt nước 10 thước. Bà thường ra ngự trên cầu đó, ngắm nhìn bao quát nước non miếu mạo, đình chùa và những khoảng đất rộng.

Sống trong cảnh huy hoàng diễm lệ, ngày tháng thấm thoát trôi qua. Một hôm viên thái giám vào tâu ấu đế đã được 17 tuổi tròn, bây giờ xin bà cho lập hoàng hậu. Bà nhận thấy lời tâu của tên thái giám là đúng, bà để tâm vào việc lập hoàng hậu cho nghĩa tử. Ngày trước, bà rất thận trọng chọn vợ cho con trai bà, bây giờ bà đã có kinh nghiệm, bà cần chọn người con gái nào biết phục tòng bà, không yêu say mê chồng như con Ái Lan. Bà bảo Lý Liên Anh:

- Ta muốn được an nhàn, chỉ cho ta mấy người con gái tính nết dễ thương không như hạng con Ái Lan, lấy chồng chỉ biết có chồng. Ta không chịu được cảnh đối địch. Ta không muốn bị về vấn đề ái tình hay thù oán.

Lý Liên Anh, độ này quá mập, quì xuống rất khó khăn, bà cho phép ngồi hầu chuyện. Người thái giám mập mạp, đứng d6ỵ, ngồi trên ghế, lấy ống tay áo phe phẩy quạt. Mới sang đầu xuân, trời đã nóng bức. Hắn ngồi suy nghĩ một lúc lâu, tâu:

- Muôn tâu thái hậu, lệnh bà không chọn người con gái của tôn huynh, quận công vệ hoàng, người con gái đó tuy tính nết rất ngoan song xấu không được đẹp.

Bà thái hậu chấp thuận liền, liếc mắt nhìn có vẻ âu yếm chiếc mặt phị của tên thái giám mập.

- Ồ! Sao ta không nghĩ ra nhỉ? Tất cả các thể nữ, người đó ít nói lắm, nhũn nhặn và tận tâm với ta lắm... Ta có thể yên chí hắn không quấy nhiễu ta.

Tâu lệnh bà, thế còn các thứ phi?

- Mi biết những ai, nói ta nghe, nhưng phải đần độn mới được.

Tên thái giám vội vàng thưa:

- Tâu lệnh bà tên tổng đốc Quảng Đông đáng được ân thưởng, ông đã đánh bại toán giặc ở miền Nam. Ông có hai người con gái, một người đẹp, một người mập lắm, cà hai rất đần độn.

- Được rồi, ta chọn hai người đó. Thảo tờ sắc chỉ.

Lý Liên Anh, người nặng nề, thở dai và như rên rỉ. Thấy dáng điệu hắn phục phịch, thở hổn hểnh, đi đứng có vẻ khó nhọc, bà thái hậu có vẻ như chế ngạo hắn, hắn có ý không bằng lòng. Hắn lẩm bẩm trong mồm: "Lão Phật lhông phải lo lắng gì hết, con xin đảm nhệm hết thảy mọi việc, hôm nào làm lễ cưới, lão Phật đến chứng kiến.

Bà thái hậu làm ra vẻ không bằng lòng, lấy ngón tay đeo nhẫn chỉ vào mặt hắn, nói:

- Mi dám kêu ta là Lão Phật hả?

Muôn tâu thái hậu. Mùa hè năm ngoái có hạn hán, thái hậu cầu khẩn xin được đảo vu, dân gian bấy giờ kêu thái hậu là Lão Phật.

Suốt mùa đông năm ngoái, không có mưa tuyết, da trời lúc nào cũng trong xanh, suốt cả xuân sang hạ không có một trận mưa nào. Bà thái hậu xuống chỉ bắt dân chúng ăn chay, tụng kinh, lễ bái trời Phật, bà và toàn thể triều đình tuân theo chỉ thị đó để làm gương cho mọi người Tụng kinh được ba hôm có cảm ứng nên trên trời trút xuống một trận mưa lớn. Dân ở thành phố chạy ra đường để uống hụm nước mưa, tắm táp cám ơn bà thái hậu đã sai khiến được cả quỷ thần, họ reo hò. Đó là lão Phật của dân ta.

Từ ngày đó, viên tổng quản thái giám luôn gọi bà thái hậu là Lão Phật. Đó là một cách xu nịnh, bà cũng biết thế, trong lòng thích thú. Lão Phật là một danh xưng lớn nhất, ca tụng công đức, ví bà như Trời, Phật. Chính bà thái hậu nhiều lúc cũng quên mình là một phụ nữ, năm bà 55 tuổi, bà cho bà khác hẳn người phàm, người ta có thể cho bà là một thiên thần, ở trên cõi trời xuống trần gian để cai trị muôn dân.

Bà vừa cười, vừa nói:

- Thôi cút đi, ta còn định hỏi han mi nữa. Thôi cút đi, đồ quỷ.

Người thái giám lui ra, bà lại tiếp tục đi chơi trong vườn hoa, ánh nắng soi chiếu khuôn mặt bà đã trở về già và chiếc áo màu sắc lộng lẫy. Theo lệnh bà, các thể nữ tháp tùng phải đi ở xa, quần áo sặc sỡ như một đàn bướm.

Đã đến ngày làm lễ thành hôn cho ấu đế, một ngày xấu vì trời ảm đảm, có những triệu chứng không được tốt, hôm lễ cưới một cơn cuồng phong ở mạn bắc thổi làm bay những chiếc trải làm làm mái rạp ở sân ngoài. Buổi sáng nền trời tối om theo sau một trận mưa lớn. Những ngọn nến thắp lên, gió thổi bạt, thắp không cháy. Tiệc cưới, bánh làm mềm xìu vì trời ẩm ướt. Cô dâu vào trong sân rộng đứng cạnh chú rể, chú rể ngoảnh đầu đi để tỏ vẻ ác cảm với người chính tay bà lựa chọn. Bà đã cố hết sức nhịn, nếu không đã nổi lên một trận lôi đình. Bà cố nuốt giận, lòng căm thù đối với đứa cháu, dám coi thường bà. Bà đã chọn hắn lên kế vị, một thằng nhỏ gầy còm, ốm yếu, xanh xao, hai bàn tay nhỏ bé, run lẩy bẩy, tính lại ương ngạnh. Thấy hình thù hắn ốm yếu, bà tự trách đã chọn hắn, còn cái tính ương ngạnh của hắn. Bà lo cho mối hậu họa sau này. Trong khi bà nuốt giận, cô dâu khóc, hai hàng lệ chảy hai bên má, nước da tái mét.

Suốt cả buổi lễ, bà thái hậu ngồi đó làm vờ không để ý vào một việc gì. Đến chiều, bà về Di Hòa cung, từ nay bà ở luôn đó.

Ở Di Hòa cung, vào đầu tuần trăng, năm bà 56 tuổi, bà xuống một chiếu chỉ tuyên cáo cùng toàn thể quốc dân, ý bà rút lui vào hậu trường để an dưỡng tuổi già. Hoàng đế đã làm lễ đăng quang lên ngôi, trị vì. Bà có ý nói bà không trở về hoàng thành, bà cho di chuyển các kho liễm về Di Hòa cung. Các thân vương và đình thần khẩn cầu bà ở lại cương vị tối cao để chế ngự một ông vua vừa nhu nhược vừa ương ngạnh.

Trong bản thỉnh nguyện, có viết:

" Hoàng thượng bị ảnh hưởng của hai phụ đạo là Khang Hữu Vệ và Lương Chí Thiện.

Hoàng thượng thích những đồ chơi ngoại lai. Ấu đế đã thành nhân, đã có vợ con còn thích chơi những đồ chơi của trẻ nít: Những chiếc xe cho chạy, vặn bằng dây cót hay đốt lửa. Chúng hạ thần nghĩ không phải hoàng thượng chỉ thích thú đồ chơi đó, ngài còn ý đặt trên lãnh thổ nước ta những đường độ thiết ngoại lai."

Bà thái hậu đọc tờ thỉnh nguyện, nghĩ mặc kệ chúng bay, ta không phải lo lắng trách nhiệm gì hết.

- Chư khanh, việc này trong phạm vi trách nhiệm của chư khanh. Chư khanh khuyên can ấu đế để cho ta được an dưỡng.

Mấy lời bà thái hậu phán ra làm các quan hết sức bối rối, nhất là Cung thân vương và Nhung Lữ, hai người này đã bị truất phế, họ cố năn nỉ:

- Tâu thái hậu, nếu hoàng thượng không nghe lời khuyên can của chúng hạ thần, xin thái hậu, vì vận mệnh quốc gia can thiệp với hoàng thượng. Hoàng thượng chỉ sợ uy của thái hậu.

- Ta không ở xứ nào xa xôi, ta ở cách kinh thành có 12 cây số. Ta vẫn giữ bọn thái giám làm thám tử. Nếu các khanh trung thành với ta, ta không để hoàng thượng chặt đầu mà sợ.

Hai mắt bà sáng lên, hai môi đỏ chót như hồi còn trẻ. Bà cười có vẻ châm biếm. Thấy bà vui vẻ, cả bọn vững tâm.

Bà lại sống êm đềm, tháng ngày trôi qua, tuy vậy bà vẫn để mắt vào mọi việc, trong thành nội vẫn có thám tử của bà hoạt động. Nhờ có mật tin báo cáo, bà biết những chuyện xích mích giữa hai vợ chồng ông vua. Ông vua say mê hai thứ phi không hỏi han đến hoàng hậu.

Trong tờ báo cáo hàng ngày, Lý Liên Anh có nói:

- Cả hai thứ phi này đần độn lắm, không có gì đáng quan tâm.

Bà thản nhiên nói:

- Con thứ phi làm cho nó sa ngã. Ta không có chút hi vọng nào vào hắn hay bất cứ người nào.

Hai mắt bà buồn buồn, bà thở dài ngoảnh đầu đi chỗ khác.

Tuy bà không thật sự cầm quyền, song mọi công việc, mọi nghị quyết trong triều, lời bà phê phán là một quyết nghị.

Khi các thân vương trong tộc đẳng Yehonala đến xin bà thăng chức cho thân vương Chuân để vua biểu dương được lòng hiếu đối với cha, tước vị cha phải ở trên con, và cũng theo tục lệ của các thế hệ. Bà từ chối không chịu chấp thuận. Dòng dõi hậu duệ hoàng triều phải do bà xếp đặt, chỉ có bà mới đủ thẩm quyền. Quang Tự là nghĩa cử của bà, bà là tổ mẫu hoàng gia. Tuy vậy bà cũng lựa lời không làm mất lòng thân vương Chuân. Cách đấy mấy năm, bà đã tự chọn người chồng cho em gái bà. Nhân dịp đó, bà ban nhiều ân điển cho Chuân thân vương, đề cao lòng trung kiên của thân vương và nói ông đã nhiều lần từ khước những ân điển bà tặng. Bà nói: Mỗi lần tôi xuống một sắc chỉ ân thưởng công huân cho thân vương, ông đều từ chối, nước mắt chảy ròng ròng. Ông được đặc ân treo trên xe song loan những rèm vóc vàng, phù hiệu của hoàng gia, song ông cũng từ khước, không làm. Ông đã nêu lên tính khiêm nhường và tinh thần trung kiên tuyệt đối với hoàng gia và dân tộc.
PC
#25 Posted : Friday, November 12, 2004 7:26:34 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 01, 2004 10:44 am

Thời giờ thấm thoát trôi qua, đã đến một ngày trọng đại, ngày khánh hỷ tượng thọ lục tuần đại khánh của bà hoàng thái hậu.

Di Hòa cung, một cung điện nguy nga, cực kỳ tráng lệ, nơi bà thái hậu đi dưỡng tuổi già nay đã hoàn thành. Việc xây cất, bà lấy tiền ở công khố quốc gia, hoàng đế cũng không dám can ngăn, từ chối. Cung điện đã hoàn thành, bà còn muốn làm một chiếc tàu lớn bằng đá cẩm thạch đặt ở giữa hồ. Chiếc tàu được nối liền vào bờ bằng một chiếc cầu đá cẩm thạch. Ông vua chỉ âm thầm thở ngắn, thở dài, không biết lấy tiền đâu ra để cung phụng.

Lần này, ông định nói ra mối lo ngại của ông về nền tài chính trong nước, dùng lời lẽ hết sức kính cẩn và hiếu thảo.

Đọc tờ trình của ông, bà thái hậu lên cơn lôi đình. Bà xé nhỏ tờ trình ném xuống đất, tên thái giám lượm cho vào bếp. Bà thét lên:

- Cái thằng cháu lười, nó phải biết tìm đâu ra có tiền chứ.

Bà không muốn ai làm trái ý bà, bà phải phật lòng, lên cơn bực tức như hồi còn nhỏ. Chỉ có Lý Liên Anh có thể làm bà nguôi cơn giận.

- Tâu thái hậu, xin thái hậu chỉ giáo nơi nào có tiền, thái hậu sẽ được như ý.

- Đồ ngu, mi không biết, hiện nay ngân khố đang thu thập tài nguyên trong nước để lập hải quân à?

Đúng vậy, hiện trong các kho các hàng triệu nén bạc dự trữ sắp được đem sử dụng về lập hạm đội, hải quân. Bọn giặc lùn (người Trung Hoa nhạo báng gọi người Nhật Bản) đang đe dọa duyên hải Trung Hoa.

Nhật Bản là một dân tộc rất thiện về hải chiến, họ có một hạm đội hùng mạnh, đóng những chiếc thuyền bọc sắt rập theo kiểu mẫu người Tây phương. Trong khi đó, dân tộc Trung Hoa sống trên đất liền, có những chiếc thuyền buồm cổ lỗ từ ngàn xưa với đám dân ngư phủ. Hạng thượng lưu, trung lưu Trung Hoa lo ngại về những tham vọng của người Nhật, họ bèn tự động đóng một thứ thuế riêng để lập một hạm đội hùng mạnh, cũng bắt chước người Nhật rập theo khuôn mẫu của người da trắng.

Bà thái hậu phản đối:

- Làm sao mình lại sợ quân lùn Nhật Bản? Bọn chúng chỉ có thể lảng vảng ở bờ biển trong hải phận nước ta, dân mình khi nào để cho bọn chúng đổ bộ, xâm nhập vào nội địa nước mình. Thật là cả một sự điên rồ đem tiền lãng phí, đóng tàu theo kiểu ngoại nhân. Chẳng có ích lợi gì chỉ thêm cho thằng cháu ta (vua Quang Tự) một món đồ chơi. Ta nghe người ta xầm xì hắn vẫn thích như hồi còn nhỏ những đồ chơi ngoại quốc làm. Vì thế hắn lãng phí ngân quỹ quốc gia.

Dù có can ngăn cũng không được, ông vua đành nhượng bộ, chiều theo sở thích của bà thái hậu, cho xây chiếc tàu bằng đá hoa đặt giữa hồ Tĩnh Tâm. Ở nơi đó bà cho tổ chức lễ thọ lục tuần đại khánh. Tất cả mọi chi tiết lễ nghi phải được hoàn tất vào tháng mười âm lịch, toàn dân mở hội suốt một tháng, mọi công việc đình chỉ, thăng thưởng phẩm tước cho tất cả những người nào trung thành với bà. Để cho cuộc lễ thọ cực kỳ long trọng bà khuyến dụ tất cả quan lại, lớn, nhỏ trong nước, bà cho khấu trừ một phần tư lương bổng hàng năm và bà tuyên bố bà không từ chối những phẩm vật mừng lễ thọ bà, trong đó có vàng, bạc, châu báu.

Trong thâm tâm, bà muốn nhận một phần quà thật đích đáng, vĩ đại. Nhung Lữ, trước kia phạm tội dan díu với một cung phi bị lãng quên, ông bị loại trừ trong các tiết lễ, đã lâu bà không gặp. Bây giờ, người cung phi đã chết, nỗi căm hờn của bà lâu ngày đã phai nhòa, bà nghĩ có lý do gì bà trừng phạt người bà yêu nhất trên đời. Bà đã già, không còn trong tuổi hoa niên, ham mê vì tình ái, bà đối với Nhung Lữ như một người bạn già. Mối tình của bà như đám tro tàn lại được khơi động lên. Bà muốn nhìn lại khuôn mặt người yêu, quên hết dĩ vãng, nghĩ đến hiện tại. Bà mừng thượng thọ lục tuần còn hắn đã quá cái tuổi đó. Bà gửi cho Nhung Lữ một lá thơ. Bà viết rất đẹp, nét chữ già dặn, cứng cáp, ngay ngắn:

" Mấy chữ này không phải một sắc luật, đây là một lời chào, một lời mời, hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau với tâm hồn cởi mở, quên hết chuyện xưa. Mời anh đến chiều hôm trước ngày lễ Thượng Thọ Lục Tuần của tôi, chúng ta sẽ hàn huyên trước khi ra mắt quần thần."

Bà chỉ rõ nơi hai người gặp nhau ở thư viện. Bà biết tính Nhung Lữ ghét bọn thái giám, bà đuổi ra ngoài tất cả bọn thái giám, cả Lý Liên Anh, lấy cớ cho ra ngoài phố xem xét những miếng ngọc Thổ Nhĩ Kỳ đem đến. Đã sắp hết thu, một ngày nóng bức không có gió. Ánh nắng rây vàng các sân trong hoàng thành, có hàng ngàn cây cúc đầy hoa. Tuy đã sang tháng mười, nhưng các người làm vườn hãm hoa không cho nở, để hoa nở đúng ngày đại lễ thượng thọ. Bà thái hậu mặc áo vóc vàng thêu phượng màu lam, ngồi chờ trong thư viện, hai bàn tay đặt trên hai đầu gối.

Vào lúc 3 giờ, bà nghe có tiếng chân người. Các thể nữ mở rộng các khuôn cửa, ở trong hành lang bà thấy tiến về gian phòng, bóng dáng to lớn Nhung Lữ. Đột nhiên bà cảm thấy tâm hồn bối rối, trái tim đập mạnh. Bà cố lấy vẻ bình tĩnh, không để cảm xúc hiện trên nét mặt. Nhung Lữ tiến lại gần phía bà, vẫn thế dáng dấp vẫn như xưa, mạnh bạo, hiên ngang. Mặc quần áo sẫm màu, một chiếc áo dài lụa màu lam sẫm, đầu đội mũ vóc đen, trên ngực gài một đồ trang sức bằng hồng ngọc, một tước vị của các thân vương, chiếc bài ngà này là một bức tường ngăn cách giữa hai người. Bà ngồi yên cho đến khi hắn đến gần. Bốn mắt nhìn nhau, Nhung Lữ định sụp xuống làm lễ chào như ngày trước nhưng bà vội vàng can ngăn giơ tay không để hắn lễ và chỉ hai chiếc ghế. Bà bước xuống ngai, nắm tay áo Nhung Lữ dắt ra ngồi ở ghế. Hai người ngồi hai ghế song hàng, nói chuyện.

Với một giọng âu yếm song có vẻ kiêu hãnh, bà bảo:

- Đặt chiếc hốt xuống.

Nhung Lữ đặt chiếc hốt xuống bàn, chờ xem bà nói.

Đột nhiên nét mặt bà rất tươi tỉnh, liếc mắt nhìn Nhung Lữ đầy vẻ âu yếm, tình tứ.

- Thế nào, độ này có khỏe không?

- Tâu thái hậụ..

- Miễn đừng kêu thái hậu.

Nhung Lữ cúi đầu xuống nói:

- Đáng lẽ tôi phải hỏi thăm sức khỏe bà trước, nhưng tôi đã nom thấy sức khỏe bà dồi dào. Tôi xem bà không có gì thay đổi. Khuôn mặt này vẫn đúng khuôn mặt đã in sâu trong tâm khảm tôi suốt bao nhiêu năm nay.

Cả hai người, không ai muốn khêu lại dĩ vãng. Cả hai không muốn nhắc đến chuyện cũ đã qua. Không có một người nào có thể lọt vào tâm hồn hai người. Khi hai người ngồi cạnh nhau chuyện trò, thế giới bên ngoài hầu như không có. Bà nghĩ, tuy chàng đã cao niên, ánh mắt vẫn thấy trẻ như xưa. Xác thịt cũng như tâm hồn, tuy hai mà là một, tuy một hóa hai. Bà cảm thấy lạ, khi gần chàng, bà thấy tâm hồn rạo rực, lòng yêu mến dạt dào. Bà thở dài cảm thấy sung sướng. Nhung Lữ hỏi:

- Sao bà thở dài?

- Tôi nghĩ tưởng chừng tôi có nhiều chuyện nói với anh, bây giờ ngồi trước mặt anh, tôi có cảm tưởng như anh đã hiểu hết về tôi.

- Bà cũng biết hết về tôi. Tôi không có gì thay đổi, vẫn như trước, từ ngày hai chúng ta đã hiểu nhau.

Bà không nói gì. Hai người đã hiểu rõ tâm sự của nhau. Những năm qua, sống trong mấy bức tường thành, sợ tai vách mạch rừng, hai người không ai dám thổ lộ một lời tuy cùng chung một quan niệm, một ý nghĩ. Khi bà hỏi han câu gì, lời nói nhẹ nhàng, âu yếm:

- Anh có điều gì muốn bàn luận, khuyên bảo tôi không? Đã bao nhiêu năm nay, không nhận được ý kiến gì của anh. Tôi tự ý định đoạt không hỏi ý kiến một thân vương nào.

Nhung Lữ lắc đầu nói:

- Tôi không có gì đáng chê trách.

Bà nhận thấy trong giọng nói của hắn có gì không tiện nói ra. Bà nói:

- Anh và tôi thường có gì nói thẳng cho nhau biết không cần úp mở, có phải thế không? Anh nói cho tôi biết anh có buồn gì về tôi không?

- Không... Không có gì. Tôi không muốn đến làm mất vui ngày đại lễ thượng thọ của bà. Người thứ dân trong nước cũng ăn khao thọ huống hồ là bà.

Bà có vẻ thúc giục, vội vã nói:

- Thôi anh, nói thật đi anh, có gì anh cứ nói thật đi.

Nhung Lữ bất đắc dĩ, dù không muốn nói cũng phải nói:

- Tôi rất tin tưởng vào sự lịch duyệt, khôn ngoan của bà. Nếu quân đội ta bị quân Nhật đánh đại bại ở đảo Đài Loan, họ đổ bộ vào đất liền, lãnh thổ của ta, là một đại họa cho quốc gia dân tộc, bà không thể tổ chức lễ khánh thọ tưng bừng như thế này.

Bà nghe xong, nét mặt trầm ngâm, suy nghĩ, bất giác thở dài. Thủng thẳng bà đứng dậy, thủng thẳng đi ngang qua căn phòng, lên ngồi trên ngai. Nhung Lữ cũng đứng dậy, chờ cho bà tại vị yên trên ngai, hắn ra lễ trước bà, lần này bà để yên cho hắn lễ. Mắt bà nhìn xuống chiếc lưng Nhung Lữ cúi xuống. Bà nói:

- Bây giờ tôi đã nhận rõ mối nguy cơ, không biết cầu viện ở đâu? Nhiều đêm tôi đang ngủ, bừng thức giấc nghĩ thấy rùng mình, lo ngại cho ngày mai, không biết thế nào. Tôi nhìn thấy những đám mây đen đang cuồn cuộn ở trên bầu trời bay tới. Quốc gia này, dân tộc này sẽ ra sao? Tôi nghĩ không biết có nên không, sau lễ thượng thọ này, tôi có nên cho gọi bốc sư gieo quẻ xem vận nước thế nào?

Nhung Lữ trả lời, giọng trầm ngâm, nghiêm nghị:

- Tâu thái hậu nên tiên liệu trước hơn nghe lời mấy kẻ bốc sư, đừng chờ nước đến chân mới nhảy.

- Như thế anh cầm quyền tư lệnh đạo quân bảo vệ hoàng thành, anh ở gần tôi và bảo vệ tôi như ngày trước. Tôi không quên đêm hôm nào anh vào trong lều tôi ở giữa rừng sâu núi thẳm, gần Nhiệt Hà. Chiếc kiếm của anh đã cứu mạng tôi và con tôi.

Bà muốn nói lớn ý nghĩ thầm kín, đứa con của chúng ta, anh đã cứu mạng. Dù sao đứa con đó đã chết rồi và được mai táng theo lễ nghi một vị hoàng đế và được an nghỉ trong lăng tẩm của hoàng gia.

Nhung Lữ đứng dậy nói:

- Tôi xin chấp nhận trách nhiệm đó.

Hắn lấy chiếc hốt, nắm chặt trong hai tay rồi đi ra. Chao ôi! Cuộc khánh lễ đã không được cử hành theo như dự định. Dân phải đóng góp rất nhiều, xây Khải Hoàn môn suốt dọc đường từ Di Hòa cung đến hoàng thành. Những ban thờ bái vọng được thiếp lập, các vị sư luân phiên tụng niệm. Toàn dân, ở các tỉnh và những lãnh thổ phụ thuộc sửa soạn một tháng yến ẩm, hội hè để ăn mừng một ngày trọng đại của vị nữ hoàng. Nhưn, hội hè sắp sửa khởi diễn, đột nhiên quân Nhật tấn công, phá tan hạm đội chiến thuyền Trung Hoa. Dân ở Cao Ly gửi cấp báo lên ngai rồng, dân chúng ở bán đảo đó bị quân giặc áp bức, đè nén, tình thế vô cùng khẩn trương, nếu không có quân tiếp viện ngay, đảo đó sẽ bị quân Nhật thôn tính. Công văn thượng khẩn ở Đài Loan bay đến kinh thành, như bươm buớm, giờ nào cũng có. Bà thái hậu nhận những tin thất trận liên tiếp, cuộc lễ thọ mới khởi sự, bà rất phẫn nộ. Bà vô cùng hối hận đã làm một việc hết sức sai lầm, nguy hại. Nếu bà lấy số tiền dự trữ để tạo lập một hạm đội hùng mạnh khả dĩ đương đầu với quân địch, thì đâu nên nỗi. Trước mặt mọi người, bà không nhận lỗi đó, sợ như thể sẽ mất uy tín. Ngai rồng, theo đúng nguyên tắc, không bao giờ có thể sai lầm được. Bà lo liệu để phản công, phá tan quân thù. Hôm đầu, bà không ăn, không ngủ, không nghỉ ngơi, những ngày hôm sau, bà ăn rất ít, đi đi, lại lại mấy gian phòng trong cung. Bà không còn bụng dạ nào ngắm hoa, nghe chim hót líu lo. Bà ngoảnh mặt khi người ta dâng lên bà một cuốn sách hay sớ, điệp. Nhanh như cơn lốc, một tin đồn lan truyền trong cấm thành, bà thái hậu phẫn nộ đến cực điểm, không biết bà sẽ trút cơn giận của bà lên đầu người nào? Để khởi đầu, bà lôi Lý Hồng Chương ra hạch tội, viên tướng này được bà tin cậy. Bà sai tổng quản thái giám đi gọi Lý Hồng Chương, bà tiếp ở cung đường riêng. Lúc tiếp bà cho mở rộng các cửa phòng để cho mọi người biết, bà tức giận đến mức nào, tin đó sẽ truyền đi cho tất cả cấm thành, tất cả nước ai cũng biết.

Lý Hồng Chương vừa bước vào, bà đã hét lên:

- Khanh!

Bà không thèm lấy ngón tay chỉ, mà lấy hai ngón tay út chỉ vào mặt. Nét mặt hầm hầm, bà thét lên:

- Anh dám để quân giặc đánh dấu tất cả hạm đội chiến thuyền và chiếc tàu Cửu Hưng chở quân lính. Bây giờ chiếc tàu nằm sâu dưới đáy biển. Lấy tiền đâu, đóng chiếc tàu khác? Sự bất lực của anh đã làm hại quốc gia như thế nào?

Viên tướng này không dám hé răng nói một lời. Ông quỳ mọp xuống nền gạch, hôm ấy ông mặc bộ triều phục rất đẹp. Biết ông không dám cãi lại, bà thái hậu càng tấn công mạnh:

Bà lại hét to, ngón tay út vẫn chĩa vào ông tướng.

- Suốt mấy năm nay, anh lo liệu những cái gì? Anh quên vận mạng, quyền lợi quốc gia? Tôi biết anh chỉ chăm chú mấy chiếc thuyền buôn đi các dòng sông và anh cho đặt mấy đường thiết lộ. Anh cũng biết tôi ghét mấy thứ đồ ngoại lai. Hình như anh có lập ở Thượng Hải một nhà máy dệt ngoại quốc để anh thủ lợi. Anh cũng biết phục vụ ngai rồng phải mất thời giờ và trí não. Anh dám coi việc tư của anh trọng hơn việc công.

Ông tướng chỉ nghe bà khiển trách, không dám cãi lại một lời. Bà lại tiếp tục sỉ vả, nhục mạ, hai ngón tay út xỉa thẳng vào mặt ông tướng như mũi dao găm.

- Suốt trong mười năm nay, quốc gia này đã thiệt hại biết bao nhiêu vì lòng tham và ích kỷ của anh. Quân Pháp chiếm trọn An Nam, tấn công Đài Loan, chúng ta giải phóng được hai nơi đó cũng khó vì đồng thời quân Nhật tấn công ở Cao Ly. Làm sao quân ngoại quốc tấn công, hăm dọa nước mình? Rất dễ hiểu, vì quân đội, hải quân mình yếu kém, lỗi tại ai? Nếu không phải anh thì còn ai? Anh vẫn ở nhiệm sở, anh phải làm cái gì trước kia anh không chịu làm. Anh bị tước hết chức phẩm, quyền thế, bị phạt như một tên nô lệ, một tên nô lệ không được nghỉ ngơi.

Bà bỏ tay xuống, thở thật mạnh mấy cái, rồi ra hiệu đuổi viên tướng đi ra.

- Thôi, đứng lên, làm tròn nhiệm vụ, đoái tội lập công. Khôi phục lại uy thế cho nữ hoàng của anh.

Viên tướng đứng dậy, phủi hai đầu gối, cúi đầu, lom khom, đi giật lùi, ra ngoài. Đột nhiên, bà để ý nhận thấy sắc diện của ông đượm vẻ kiên nhẫn, nghị lực làm bà để tâm. Người này đã giúp bà bao nhiêu công việc to tát. Ông có óc phục tòng và rất trung thành. Bà thái hậu phải có lượng khoan hồng đối với ông, nhưng bà hãy thong thả để sau này, không nên làm ngay.

Bà chưa hả cơn giận, lòng còn phẫn nộ. Bà cho gọi ông vua đến. Bà tự tay viết giấy mời ông vua đến, trên giấy mời bà có đóng ấn tín.

Hôm nay bà định cho tống đạt giấy triệu thỉnh ông vua đến, đột nhiên xảy ra một chuyện lạ lùng, làm náo loạn cả Di Hòa cung. Về buổi chiều, bà đang nằm ở Lan Đình, một thể nữ tất tưởi chạy đến, quần áo lốc thốc, tóc rối bù. Lúc đó con a hoàn đang quỳ cạnh bà để hầu quạt. Con a hoàn vội giơ tay bảo người kia đừng làm náo động, thái hậu đang ngủ. Người thể nữ sợ quá, không để ý, kêu lên the thé:

Thái hậụ..thái hậụ.. Con nom thấy, con nom thấỵ..

Bà thái hậu tỉnh giấc liền. Bà ra ngồi trên ghế, hai mắt nhìn thẳng vào người kia, bà hỏi:

- Mi nom thấy gì?

Người thể nữ mồm lắp bắp, nói không ra lời, hai tay co quắp ôm ngực, sợ quá, khóc.

- Một người, đầu trọc lóc như sư.

- Ồ thế thì sư chứ cái gì?

- Tâu thái hậu đầu trọc lóc như sự.. Có lẽ một nhà sư Tây Tạng, mà không phải. Hắn không mặc áo vàng. Người hắn đen sì từ đầu tới chân, cao lớn, con chưa thấy người nào cao lớn như thế. Hai bàn tay hắn to lắm.Tâu thái hậu, cửa phòng đóng kín mít, không một người nào có thể lọt vào được.

Bà thái hậu ngửng đầu nhìn lên nền trời, mặt trời đã lặn ở sân, ánh sáng đã nhạt nhòa. Không có một người nào, có thể đến đây được. Bà bảo người thể nữ, vẻ mặt lo sợ, hốt hoảng.

- Mi mê rồi. Các thái giám canh gác, không một người nào có thể vào được.

Người thể nữ cố cãi:

- Tâu thái hậu, chính mắt con nom thấy, con nom thấy rõ ràng.

- Nếu đúng thế, ta thân chinh đi kiếm xem sao.

Một đội quân đi hộ vệ khoảng hai mươi tên thái giám đi với bà, người cầm kiếm, cầm đèn lồng, đi tìm kiếm con người bí mật kia. Bà kêu lên:

- Chúng ta ngu quá. Chắc là nó ngủ mê hay nó say rượu.

Lý Liên Anh sai bọn thái giám tiếp tục tìm kiếm, cầm đèn lồng đi theo hắn.

Lý Liên Anh và một cây đèn lồng dẫn đầu, đưa bà thái hậu đi. Bà vừa bước lên ngưỡng cửa thư viện, ngửng đầu lên thấy trên mặt bàn một tờ giấy đỏ lớn có viết mấy đại tự: "Ta nắm mạng mi trong lòng bàn tay ta."

Bà chộp lấy miếng giấy, đọc hai lần, quẳng cho tên thái giám. Bà nói:

- Coi xem, nó chỉ trốn quanh đâu đây, một tên thích khách, tiếp tục kiếm nữa.

Tất cả thể nữ vây quanh bà. Lý Liên Anh tuân theo lời bà. Mọi người cố trấn tĩnh bà thái hậu. Các thể nữ đồng thanh nói các thái giám thế nào cũng tìm ra người đầu trọc, không còn là chuyện mộng mị mơ hồ, đó là sự thật, mà đã là sự thật thế nào cũng khám phá ra được.

Bọn thể nữ thắp rất nhiều nến, đưa bà thái hậu về phòng ngủ, bọn này đứng túc trực phòng bà suốt đêm để bà ngủ cho đỡ mệt. Nhưng khi các thể nữ bước chân vào phòng ngủ, họ thấy một tờ giấy đỏ ghim ở chiếc gối vóc vàng, cũng có mấy chữ, so tự dạng cùng một thứ chữ với tờ giấy trước.

"Khi nào đến giờ đã được ấn định, lưỡi kiếm sẽ đâm nát thây mi, bất luận ngày hay đêm, mi sẽ chết."

Các thể nữ nhìn thấy thế, sợ quá, kêu thất thanh, bà thái hậu càng thêm bực mình. Bà giật tờ giấy ngài ở gối, vo viên, ném xuống đất. Bà rũ lên cười, hai mắt long lanh, sáng quắc.

- Thôi im mồm đi các cô, một thằng nào trêu ghẹo bọn mình. Đi ngủ hết, ta cũng đi ngủ.

Tất cả bọn đồng thanh nói:

- Tâu lệnh bà, chúng con không rời lệnh bà đêm nay.

Bà mỉm cười, cũng chiều lòng để cả bọn thức, túc trực. Bà thay quần áo, lên giường nằm. Sáu người thể nữ trải đệm nằm dưới đất, cạnh giường bà, còn lại chia làm hai, một nửa thức đến nửa đêm, một nửa thức từ nữa đêm đến sáng để canh chừng. Lý Liên Anh gươm tuốt trần cùng với bọn thái giám canh ở ngoài cửa.

Đến tảng sáng, bà thái hậu thức dậy, ngáp, lấy bàn tay che miệng, mỉm cười nói, câu chuyện chiều hôm qua thế mà lại hay.

- Ta thấy trí óc tò mò bị kích thích; ở đây, lầu son, gác tía, êm đềm quá sinh ra lười nhác.

Bà ở trong phòng ngủ đi ra, vẻ mặt vui tươi đầy nghị lực, trên mái tóc gài hoa tươi. Bà ra ăn sáng, đưa mắt quan sát xung quanh. Đột nhiên, dưới những đĩa đựng món ăn, bà thấy một tờ giấy đỏ, vẫn một thứ chữ viết mực đen.

"Trong khi mi ngủ, ta chờ."

Các thể nữ không giấu được sự kinh ngạc, kêu thét lên có vài người khóc. Các a hoàn líu lưỡi không nói được.

- Chúng con vừa bưng các món ăn lên. Chúng con không nom thấy có người nào.

Với một giọng thản nhiên, không có gì lo sợ, bà nói:

- Người ta sẽ tìm ra.

Bà vo viên tờ giấy, liệng xuống đất.

Mặc dù các a hoàn lo sợ, các món ăn có chất độc, định đem đi, bà không cho. Cuộc truy tìm người bí mật được liên tục làm suốt ngày hôm đó. Không ai nom thấy, tìm thấy bóng dáng người bí mật, nhưng người ta thấy có bốn tờ giấy lời lẽ hăm dọa ở bốn nơi khác nhau trong cung.

Ròng rã suốt hai tháng, các thái giám lục soát trong cung, thỉnh thoảng một đôi khi, người ta có nom thấy một đầu trọc, quần áo đen sì, từ đầu đến chân, nhưng không sao bắt được. Một người a hoàn suýt mất trí, hóa điên vì sáng lúc ngủ dậy, nom thấy khuôn mặt người bí mật treo lơ lửng trên đầu nàng. Nàng kêu thét lên, chiếc đầu như bay đi mất.

Tuy vậy, bà thái hậu không sợ, bà cấm mọi người không được phao truyền tin đó ra ngoài, sợ gieo hoang mang cho dân chúng, bọn bất lương lợi dụng sự lộn xộn làm bậy. Bọn thái giám cắt phiên nhau, ngày đêm canh gác.
PC
#26 Posted : Friday, November 12, 2004 7:27:22 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 01, 2004 10:48 am

Một đêm, trong khi bà thái hậu ngủ, các thái giám nghe tiếng kẹt cửa. Dưới ánh trăng lờ mờ, bọn thái giám nom thấy một cẳng chân đen sì bước vào trong cửa. Tất cả thái giám kéo ùa đến để bắt. Người bí mật chạy trốn, bọn thái giám lục soát khắp mọi nơi, ở trong vườn sau một tảng đá lớn, họ đã bắt được người đó.

Tiếng hò reo, kêu la của bọn thái giám làm bà thức giấc. Bà ngồi dậy, truyền cho dẫn người đó đến, bất luận ngay trong tối. Các thể nữ vội vàng lấy áo long cổn đội mũ miện cho bà, bà lên ngự trên ngai ở cung đường. Người bí mật bị trói đem dẫn lên trình bà.

Người đó đứng trước mặt bà, không cúi đầu làm lễ, các thái giám đè hắn xuống, bắt phải quỳ. Bà thái hậu, giọng rất bình tĩnh, bảo:

- Để cho nó đứng.

Bà thái hậu để ý quan sát người đứng đó, một thanh niên dáng điệu hiên ngang, đầu cạo trọc, khuôn mặt lạ lắm hao hao như mặt cọp, trán hất về đằng sau, hai môi cắn chặt, mắt xếch. Một chiếc áo dài đen bó sát người, như một lần da nữa, thân hình mảnh khảnh, bà thẩm vấn:

- Mi là ai?

- Không là ai. Tôi không có tên. Cái đó không can hệ.

- Ai sai mày đến đây?

- Bà cứ việc giết chết, tôi không nói.

Thấy người đó ăn nói vô lễ, bọn thái giám rút kiếm toan chém, bà thái hậu giơ tay cản lại. Bà ra lệnh:

- Khám người hắn.

Bọn thái giám tuân lệnh, xúm lại khám. Người kia đứng yên không chống cự. Trong người hắn không có gì. Lý Liên Anh tâu:

- Tâu thái hậu, con xin thái hậu giao thằng đó cho con. Con sẽ có cách tra, nó sẽ khai ra, con cho đánh bằng những thanh nứa rất sắc, cột chặt nó lại, dang bốn chân, tay quất bằng roi nứa, gan bằng sắt cũng phải khai.

Tất cả mọi người đều biết Lý Liên Anh rất thành thạo về việc tra tấn tội nhân nên đồng thanh tán thưởng lời đề nghị của hắn. Bà thái hậu nói:

- Cho mày đem nó đi, mày muốn làm gì tùy ý.

Bà nhìn con mắt phạm nhân, bà thấy mắt nó không như mắt mọi người, mắt nó vàng vàng, gờm gờm như mắt thú dữ, không sợ người. Bà như bị thôi miên, mãi mới ngoảnh đi được chỗ khác. Bà ra lệnh cho bọn thái giám:

- Không phải nương tay, nếu không làm sao lấy được khẩu cung của nó.

Hai hôm sau, Lý Liên Anh vào để tường trình.

- Nó có khai gì không?

- Tâu thái hậu, không.

- Như thế, tra nữa, kỳ nào nó khai mới thôi.

Lý Liên Anh lắc đầu thưa:

- Tâu thái hậu, nó nhất định không nói. Nó chết rồi, người ta nói nó tự vẫn.

Lần thứ nhất trong đời bà thái hậu, bà cảm thấy sợ. Bà giơ tay gái một bông hoa nhài trồng ở chậu, đưa lên mũi ngửi. Bà hít hương thơm, bình tĩnh trở lại, nói:

- Thôi chuyện ấy bỏ qua, không nói đến làm gì nữa.

Tuy bà nói thế song không sao quên được người bí mật đầu trọc, cả một bí mật, một nghi vấn. Bà nghi nghi hoặc hoặc, không biết sự thật thế nào, trong lòng lúc nào cũng băn khoăn, lầu son, gác tía, bà cũng không thấy vui sướng. Tuy trong vườn có đủ hoa thơm, cỏ lạ, tuy vẫn thường đi ngự lãm những buổi trình diễn của gánh hát ở trong hoàng cung, đầu óc bà không được nhẹ nhõm, thảnh thơi, không phải bà sợ chết, nhưng bà không sao quên được câu chuyện bí ẩn đè nặng trong tâm hồn bà, có những người muốn hãm hại bà. Nếu biết rõ ai là thù nghịch với bà, bà thẳng tay loại trừ, nhưng không biết là ai, không tìm ra manh mối.

Một hôm, về quá trưa, bà với các thể nữ ở trên chiếc tàu lớn bằng cẩm thạch, bà thấy Lý Liên Anh đến. Một tay bà cầm chén trà, bà đang đánh cờ. Người thái giám tâu:

- Tâu thái hậu, chén nước trà nguội.

Hắn cầm chén trà, bảo nữ tỳ rót đầy. Bà uống xong, đặt chén xuống bàn, tên thái giám ghé mồm nói khẽ:

- Tâu thái hậu, con đem tin lại.

Bà làm như bà không nghe thấy gì, đánh xong ván cờ, bà đưa mắt bảo Lý Liên Anh theo bà.

Khi chỉ còn hai người, các thể nữ đứng cả ở ngoài không thể nghe được ở trong nói chuyện, bà truyền cho Lý Liên Anh nói, miễn không phải quỳ.

Lý Liên Anh ghé sát mồm vào mặt bà, tiếng nói như huýt sáo. Bà lấy quạt đập vào người tên thái giám, nói giọng có vẻ gắt gỏng:

- Lùi ra xa. Hơi mày hôi như mùi thịt thối.

Hắn lấy bàn tay che mồm, nói:

- Thưa thái hậu, tiện nô vừa khám phá có một âm mưu.

Bà quay mặt lại, để chiếc quạt lên mũi. Khứu giác bà rất nhạy cảm, mùi hôi cũng như mùi thơm, nếu tên thái giám này, không một dạ trung thành với bà, không bao giờ bà cho hắn đến gần bà. Hắn tố cáo một âm mưu định khuynh đảo, phản nghịch.

- Tâu thái hậu, thiếu đế bị ảnh hưởng của tên phụ đạo Vương Hùng Tổ. Tên phụ đạo khuyên vua nên cho tăng cường binh lực để quốc gia khỏi rơi vào tay quân thù, bọn này chỉ chờ cơ hội thuận tiện là nuốt chửng dân tộc Trung Hoa. Một miếng mồi rất béo bở, họ thèm rỏ dãi. Tên phụ đạo khuyến dụ vua nên nghe lời đề nghị của tên Khang Hữu Vi, một nhà nho học rất uyên thâm về Sử ký và phong tục Tây phương. Hắn có thể giúp triều đình đóng những hải thuyền, xây đường thiết lộ, những trường học cho nam nữ thanh thiếu niên, canh tân xã hội. Vua có cho triệu thỉnh Khang Hữu Vi.

Bà thái hậu khẽ quay đầu lại, vẫn lấy chiếc quạt ngăn cách mặt bà với mặt tên thái giám.

- Tên Khang, hiện giờ có trong cấm thành không?

- Tâu thái hậu, hắn luôn luôn ở bên cạnh hoàng thượng. Thường nhật hai người trò chuyện hàng giờ trong phòng kín. Tiện nô có nghe lõm được hắn nói muốn canh cải xã hội, trước hết phải cắt hết đuôi sam.

Nghe nói thế, bà thái hậu hốt hoảng, đánh rớt chiếc quạt xuống đất.

- Tụi nó không biết sao, chiếc đuôi sam là tượng trưng sự thống trị dân tộc Hán của triều đình Mãn Châu đã được hai trăm năm nay.

Lý Liên Anh gật đầu, tán đồng ý kiến.

- Tâu thái hậu, tên Khang này là một người cách mạng người Hán, quê ở Quảng Đông. Hắn mưu đồ khuynh đảo thái hậu. Thế chưa đủ. Hắn còn xúi giục vua cho gọi Viên Thế Khải, tên tướng chỉ huy đạo quân dưới quyền tư lệnh của Lý Hồng Chương. Thái hậu chắc rõ tên Viên này đã nhận được lệnh của hoàng thượng muốn bắt thái hậu để cầm tù.

Tên thái giám thở dài thật mạnh, hơi hôi thối trong mồm phát xuất làm bà thái hậu giật bắn người. Bà thái hậu giọng rất nhỏ nhẹ, thủng thẳng, nói:

- Cháu ta chắc có ý định giết ta đây.

- Tâu thái hậu, không đến nỗi thế đâu. Hoàng thượng không có ác tâm thế đâu. Cũng có thể tên Khang xúi vua như thế, nhưng theo lời những trinh sát của tệ nô, hoàng thượng tuyệt đối cấm không được xâm phạm đến thánh thể. Ông chỉ muốn thái hậu ở yên trong Di Hòa cung. Tất cả mọi thứ tiêu khiển, ẩm, thực, để nguyên, nhưng thái hậu mất hết uy quyền.

- Thế à?

Bà cảm thấy như có một sức mạnh tràn ngập trong hồn. Bình sinh bà thích tranh đấu. Một lần nữa, bà lại phải ra công chiến đấu mà phần thắng chắc chắn về phía bà. Bà vừa cười, vừa nói:

- Chà! Chà! Hay, hay.

Lý Liên Anh lạ quá thấy nét mặt bà tươi tỉnh, vui vẻ, hắn cũng sẽ nhếch mép cười theo. Khuôn mặt hắn đã xấu xí, lại thêm cái cười như mếu, nom càng thêm thiểu não.

Hắn nhỏ nhẹ thưa:

- Một người như thái hậu thật có một không hai ở thế gian này. Thái hậu chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ, nhưng đứng lên trên cả hai, tâm hồn phóng khoáng, siêu việt trên tất thảy mọi người.

Hai người nhìn nhau như hiểu ngầm ý nhau. Bà gập chiếc quạt, đập khẽ vào mặt hắn, đuổi ra. Bà nói:

- Ngậm miệng lại nhé, mở mồm thối hoắc, mọi người xung quanh bị chết ngạt.

Bà thái hậu rất điềm tĩnh, không làm gì hấp tấp, vội vàng. Bà ngồi suy nghĩ rất lâu về những khám phá của tên trinh sát. Bà bình tĩnh, thản nhiên như không có chuyện gì. Bà có một con chó trắng. Loại chó ở miền bắc, lông trắng như tuyết, đi đâu bà cũng cho đi theo, con chó này chỉ biết có bà là chủ nó. Những con chó nhỏ, loại chó Mãn Châu, lông như màu quế, thấy thế ghen tỵ. Đàn chó con nhảy lên đầu con chó lớn làm bà buồn cười. Bây giờ, bất cứ ở đâu, bà đi thưởng hoa trong vườn, dã yến trên bờ hồ hay ở trong nhà hát, bà luôn luôn nghĩ đến việc nước, bà cần phải hy sinh những gì để bảo toàn thanh bình và sự điều hòa.

Đã mấy phen, triều đình nhà Thanh tránh được chiến họa với dân tộc Nhật Bản, hoặc phải lấy vàng đút lót họ, hoặc phải bỏ Cao Ly để cho họ chiếm đóng. Bà nhận thấy trong những cảnh huống đó, tên trung thành Lý Hồng Chương đã tỏ ra yếu kém, bất lực. Nếu bà nghe hắn (lập hải quân) có lẽ quân Nhật không dám cuồng vọng định nuốt chửng hết Trung Hoa lục địa. Phải có chiến tranh, trực diện với quân thù, những cuộc tấn công vũ bão gan dạ hoặc trên mặt biển hay trên đất liền, mới bảo toàn bờ cõi. Đáng lẽ tên Viên Thế Khải mở chiến trận không phải trên đất Trung Hoa mà ở Cao Ly; ở đó, hắn đẩy hết quân Phù tang ra biển, đuổi chúng về mấy cái cù lao núi đá lỏm chỏm cho chúng chết đói.

Một ngày mùa hạ đẹp trời, vào lúc quá trưa, bà có một quyết nghị, trong lúc ngồi coi hát, một khúc tình ca của một tên thái giám, hóa trang làm đàn bà. Vở tuồng diễn hôm đó là một vỡ cũ nhan đề "Tây cung diễn sử". Bà thái hậu mồm chúm chím cười, lẩm bẩm hát nhỏ bài tình ca bà thuộc. Tuy vậy, tâm trí bà không sao nhãng mà luôn nghĩ đến quốc sự.

Đêm hôm đó, bà cho gọi Lý Hồng Chương đến, giao phó mệnh lệnh. Bà không để tai nghe khi viên tướng này trình bày, quân đội yếu kém, thuyền bè còn vài chiếc cũ kỹ, hư nát, làm sao có thể đương đầu được với địch.

- Vấn đề phải có đại đội hùng binh, hạm đội chiến thuyền hùng mạnh, cái đó ông không cần quan tâm đến. Nếu chẳng may, quân đọch đổ bộ lên đất Hán dân chúng sẽ nổi lên, quăng chúng ra biển để chúng làm mồi cho cá.

Viên tướng nói như mếu:

- Tâu thái hậu, thái hậu không am tường thời buổi nhiễu nhương, dân tình xao xuyến, đói khổ, lầm than vì thái hậu ở nơi cung ngọc, điện vàng, lầu son, gác tía với mộng ảo trong một thế giới thần tiên riêng biệt.

Viên tướng đi ra, thở dài thườn thượt, vừa đi vừa lắc đầu lia lịa.

Chao ôi, chưa đuợc đầy năm, sau mấy trận giao phong với quân đội Phù Tang, quân đội của hoàng gia nhà Mãn Thanh thu liểng xiểng, quân đội "Lùn" tiến như vũ bão. Tướng Viên Thế Khải bị tống xuất khỏi Cao Ly, quân đội Nhật hoàng đặt chân lên đất tàu. Lại một lần nữa, bà thái hậu tính nhầm nước cờ. Dân chúng Trung Hoa lãnh đạm, thờ ơ, người dân Trung Hoa thản nhiên đứng nhìn quân đội Nhật diễu trước mặt họ, qua làng mạc, xã ấp họ để kéo lên kinh thành. Quân đội ngoại quốc có súng, người dân Trung Hoa chất phát chỉ có giáo, mác, lưỡi liềm, những thứ đồ chơi như con nít, những người thận trọng không ai mó tới. Khi quân thù đòi uống, đòi ăn, dân làng những nơi họ đi qua, phải cung cấp đầy đủ.

Tin thất trận, tình thế nguy kịch, cấp báo lên thái hậu, bà xoay chiều, ứng phó với thời cuộc. Bà thích đánh cờ, thích thắng lợi, nhưng xem chiều thế thất bại, bà ngừng lại ngay không theo đuổi nữa. Bà ra lệnh cho Lý Hồng Chương đầu hàng, chấp nhận những điều kiện, yêu sách của địch để tránh họa diệt vong. Lý Hồng Chương được lệnh phải ký một hiệp ước nhục nhã, làm bà thái hậu một người kêu ngạo, tự cao, tự đại phải tủi nhục, đau lòng. Bà lui vào phòng riêng trong ba ngày mất ăn, mất ngủ. Lý Hồng Chương phải thân chinh lên Di Hòa cung để tìm lời an ủi, khích lệ bà. Ông nói cũng thấy bản hiệp ước vô cùng khắc khe, nghiệt ngã, song ngai rồng có thể vững tâm chờ thời. Nước mình tìm bạn đồng minh, kết liên với hoàng đế Nga La Tư, vì quyền lợi của nước Nga sẽ kiềm hãm lòng dục vọng của Nhật Bản.

Bà thái hậu nghe nói cũng xuôi tai, có chút hy vọng, bà nói:

- Dù sao, chúng ta cũng phải cố gắng đuổi hết quân ngoại quốc da vàng ra khỏi lãnh thổ, suốt miền duyên hải. Bất cứ giá nào, chúng ta cũng phải tống xuất hết bọn ngoại xâm, bất luận da vàng hay da trắng. Tôi không thể để một tên nào đặt chân lên bờ cõi nước ta. Còn dân Hán, còn triều đại Mãn Châu ta cầm quyền, tôi cố thu phục bọn người Hán trừ bọn trẻ mới lớn lên, chúng đã hít không khí ngoại lai, uống nước ngoại lai.

Bà vỗ hai bàn tay, chân phải đạp mạnh:

- Tôi thề độc dù có chết, dù có già, tôi phải đả phá bằng ảnh hưởng ngoại lai trên đất nước chúng ta. Khôi phục lại nếp sống cổ truyền của tiền nhân để lại.

Ông tướng đứng nghe bà nói, chiêm ngưỡng dung nhang của vị nữ thần. Bà vẫn đẹp, cường tráng, nước da hồng hào, mái tốc vẫn đen lánh, hai mắt sáng quắc như hồi còn trẻ, ý chí cương cường, không giảm sút.

- Người làm được việc đó, tiện tướng tin chắc chỉ có lệnh bà mới làm nổi.

Ông nhắc lại lời thề tuyệt đối trung thành.

Thời giờ êm đềm trôi qua. Bà thái hậu dùng thời giờ nhàm rỗi để vẽ, làm thơ, đem những hộp nữ trang ra coi lại vẽ kiểu những ổ nhẫn để gắn ngọc trai, cho đi mua kim cương của người Ả Rập. Tuy bề ngoài, b2 có vẻ vô tư lự, thật ra trong óc bà luôn luôn suy nghĩ, xếp đặt mưu đồ. BaØ làm như không để ý đến ông vua và các phụ đạo. Ban đêm khi mọi người ngủ yên, bà để tai trong phòng trống để nghe những mật trình của bọn thám tử. Ngày này qua ngày khác, một lời nói, một cử động của vua, quan, bà biết hết. Như thế, bà có đủ dữ kiện sẵn sàng hành động. Phương sách thứ nhất của bà là bổ nhiệm Nhung Lữ vào chức vụ tổng thấn kinh thành, chức vụ này vẫn để khuyết tịch từ ngày Cung thân vương tạ thế. Ông thân vương này đã lâu không còn là người thân tín của bà.

Công việc bổ nhiệm xong, bà ngừng lại, nghe ngón dư luận. Hoàng thượng vừa phong Viên Thế Khải làm tư lệnh. Việc này đến tay bà, bà do dự nghĩ có nên đọat ngôi ngay lúc này hay nên chờ trong ít lâu nữa. Bà nghĩ nên chờ, vì bà muốn bước lên sân khấu chính trường vào chung kết.

Ít lâu sau bà nhận được mật báo Viên Thế Khải đã bí mật rời khỏi kinh thành, không biết đi đâu. Bà nghĩ: "Ta nên chờ, không nên hấp tấp. Chờ cho đúng thời cơ là một lợi khí. Ta tự biết bản năng ta, ta như có linh cảm cho ta biết chưa đến lúc".

Bà lại để thời gian trôi qua. Hết hạ đã sang thu, tiết trời vẫn còn nóng nhưng đêm mát. Hoa về thu đã nở. Những bông hoa cuối mùa nở trên mặt hồ, chim đã xào xạc bay về phương Nam, loài dế đã kêu ra rả suốt ngày.

Một hôm, sau lễ cất đám rất trọng thể Cung thân vương, bà thái hậu ngồi trong thư viện, làm thơ. Hôm đó rất mát trời. Bà vừa nhúng ngọn bút lông vào nghiêng mực, nhìn ra ngoài vườn trời nắng, tình cờ thấy một con chuồn chuồn xanh biếc, hai cánh nó giương ra đậu yên trên cành hoa. Chắc chắn là một điềm, không biết là điềm gì, ứng vào việc gì?

Bà rùng mình vì thấy màu xanh biếc là màu của tử thần. Bà vội vàng đứng dậy đến đuổi con chuồn chuồn. Bà đuổi không được. Bà dang tay bắt, nhưng lần nào cũng trượt, gần đến, nó lại bay vụt đi. Các thể nữ nom thấy muốn giúp bà, cũng giơ tay bắt, lấy quạt xua đi, con chuồn chuồn vẫn cứ là là bay lượn trên đầu. Bà thái hậu sai một tên thái giám đem một chiếc sào tre dài đến. Lệnh đó chưa được thi hành thì nghe ngoài cổng tiếng người lao xao, người ta xô đẩy, tên tổng quản thái giám không được gọi, đột nhiên thấy xuất hiện, hắn đến trình bà có sứ giả của tổng trấn Nhung Lữ, đến báo tổng trấn xin vào bệ kiến.

Ngày trước, theo lệnh bà, Nhung Lữ lấy người thể nữ Mai, ít khi Nhung Lữ lui tới hầu. Bà có khiển trách, hắn trả lời bao giờ cũng trung thành phục vụ bà, có lệnh bà sai khiến, hắn tận tâm phục vụ bất luận ngày đêm, gian khổ.

Bà ra lệnh cho bọn thái giám sửa soạn để đón tiếp, bà trở về cung, bà không sao làm xong bài thơ đang làm dở. Con chuồn chuồn chắc ứng vào một điều gì nguy biến, bà nghĩ không nên hỏi ngay bốc sư vội, trước khi biết mục đích Nhung Lữ xin yết kiến, chắc hẳn một vấn đề tối mật và vô cùng quan trọng. Bà rất nóng ruột nhưng bề ngoài vẫn giữ vẻ bình tĩnh, bà thu dọn bút nghiên, ra vườn dao chơi cho đến trưa.

Bà nóng lòng muốn biết ngay mục đích Nhung Lữ xin yết kiến, bà không thiết ăn, uống.

Đến chiều, Nhung Lữ đến, ngồi trên một chiếc võng, khênh đến, đặt ở sân lớn bên ngoài. Bà thái hậu chờ hắn ở sân trong. Về mùa hạ, nóng bức, chiếc sân lớn dùng làm nơi nghỉ mát, người ta che rạp, trên lợp chiếu rơm, cột rạp làm bằng mấy cây tre. Bàn ghế được bày dưới bóng mát, xung quanh trên các lan can có bày những chậu cảnh rất đẹp.

Một ngọn gió phương Nam thổi tới, có mùi thơm hoa sen đưa lại, bà thái hậu hít hương thơm, bất giác nghĩ cảnh vật bao giờ cũng vậy, bình thản, sinh trưởng theo thời tiết, tranh đấu. Lúc này trong thâm tâm, bà mong chờ Nhung Lữ đến, lòng bồn chồn, khắc khoải, coi như một người chồng rất quý trong tuổi già. Cả hai không còn trẻ trung, ái tình không còn bồng bột như xưa, song vẫn ấp ủ trong lòng như bất diệt. Bà nghĩ đến tình cũ, nghĩa xưa đượm nồng thắm thiết, trong lòng không còn một chút gì là thù hận.

Chiều đến, dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn nến cắm trên giá đồng, bà thấy hắn đi một mình tiến lại bà. Bà ngồi yên chờ hắn đến. Khi hắn sắp quỳ, bà đặt nhẹ bàn tay trên cánh tay hắn, ngăn lại. Bà chỉ chiếc ghế nói:

- Ghế đây, ngồi xuống.

Hắn vâng lời ngồi xuống ghế. Cả hai ngồi yên ngắm hồ nước phía trước, có nhiều cây đuốc thắp sáng.

- Tôi vẫn cầu mong bà được sống yên vui, an nhàn trong khung cảnh hợp với bà. Nhưng tôi phải nói lên tất cả sự thật. Cuộc âm mưu khuynh đảo bà đã đến thời kỳ quyết liệt.

Hai bàn tay hắn đặt lên ngực, nắm vạt áo. Bà thái hậu lấy làm lạ thấy hai bàn tay hắn vẫn còn trẻ, lớn, gân guốc rất mạnh. Bà nghĩ sao hắn không có vẻ gì là già. Bà khẽ nói:

- Thực ra tôi khó tin lắm, song vì chính anh nói nên tôi tin.

- Chính viên Thế Khải đã bí mật đến nói chuyện với tôi bốn đêm liền, tôi đã báo cáo bà rõ. Hoàng thượng cho gọi hắn đến, cách đây 12 hôm, vào lúc nửa đêm. Hai người gặp nhau ở hữu vu Long điện.

- Có ai dự thính cuộc mật đàm đó không?

- Có viên phụ đạo Vương Tùng Hổ.

- Người đó thù nghịch với anh. Làm sao bây giờ anh mới nói đến, thế còn trước kia. Tôi quên bẵng đi mất.

- Bà cũng tự biết tính bà rất nóng nảy. Tôi tha thứ cho hắn, nhưng bà không thể nào bỏ qua. Mối tình xuất phát ở trái tim một người đàn bà sống cô đơn, đối với tôi không can dự gì hết. Tuy vậy tôi cũng rút tỉa được một bài học.

- Bài học gì?

- Như tôi với bà sống riêng biệt như tất cả mọi người, chúng ta sống riêng rẽ như hai ngôi sao trên nền trời. Chúng ta phải chịu sống cô đơn như vậy, vì cái đó không sao tránh được. Nhiều lúc tôi tự nhủ, sống cô đơn như thế, làm cho mối tình giữa hai ta càng thắt chặt.

Bà thái hậu nghe hắn nói làm nhàm, thấy bực mình khó chịu.

- Tại sao anh nói chuyện gì đâu đâu? Mục đích chính của anh là đến báo cáo với tôi hiện có một âm mưu khuynh phúc.

- Tôi cần nói câu chuyện đó, nhân tiện trong lúc này tôi nhắc lại lời thề trung thành bất di bất dịch đối với bà.

Bà cầm chiếc quạt xòe ra để ở bên má, như một tấm bình phong ngăn cách hai người. Bà hỏi:

- Có người nào ở trong phong lúc đó không?

- Thứ phi Ngọc được vua sủng ái. Như bà đã rõ, không một việc gì không qua khỏi mắt bà, vua không muốn tiếp xúc với hoàng hậu. Hoàng hậu vẫn còn trinh tuyết. Hoàng hậu vì thế căm thù với lắm, đứng về phía thái hậu.

- Tôi biết.

- Chúng ta phải kiểm kế tất cả những người đồng tình với mình, triều đình bây giờ bị phân tán. Những người dân ngoài phố cũng biết. Họ chia làm hai phe, phe của thái hậu và phe của "Cậu thiếu niên".

- Thật nguy hại. Chúng ta phải giữ bí mật về liên hệ họ hàng.

- Không thể được. Người Hán như con mèo, len lỏi, lách vào các khe hở, đi đâu đánh hơi đến đó. Trong nước bây giờ dân chúng đang kích khởi, quân giặc người Hán chờ cơ hội để đả phá triều đại Mãn Thanh, họ lên nắm chính quyền. Bà phải lên ngôi "Cửu ngũ" một lần nữa.

Bà thái hậu, giọng nói rất buồn bã:

- Tôi biết thằng cháu tôi ngu lắm.

- Nhưng bọn tả, hữu không ngu.

- Những chiếu chỉ, hàng ngày tung ra như bươm bướm bà có đọc không?

- Tôi làm sao đọc hết được.

- Hàng tuần, hoàng thượng đến vấn an bà, có hỏi gì không?

- Không cần hỏi, tôi đã có trinh sát.

Nhung Lữ nói thẳng, không cần úp mở, quanh co:

- Một lẽ hoàng thượng căm thái hậu là tên thái giám để hoàng thượng quỳ chờ trước cửa. Có phải thái hậu ra lệnh cho hoàng thượng phải quỳ không?

Bà thản nhiên trả lời:

- Đó là bổn phận hắn làm đối với bực trưởng thượng.

Bà biết tên Lý Liên Anh có tính xược, để nguyên hoàng thượng quỳ chầu ở ngoài cửa. Tính tinh quái, nghịch ác, mưu mẹo, thủ đoạn, mấy tính đó như cố tật, không bao giờ bà chịu hoán cải.

Nhung Lữ nói tiếp:

- Tôi còn biết những thái giám của bà bắt "Thiên tử" phải có "Chè lá" cho chúng mới được vào bệ kiến bà, làm như thiên tử là một ông quan nhỏ trong triều. Việc này rất không nên, mà bà cũng thừa biết.

Bà nhận thấy hắn nói đúng, cái lối đó tai ác thật, bà mỉm cười, nói:

- Hắn hiền quá, nhút nhát quá, sợ tôi như cọp nên tôi trêu chơi.

- Bà đừng tưởng hắn sợ đâu. Hàng trăm sắc chỉ một ngày, một người yếu hèn không làm được. Bà đừng quên hắn là cháu bà, trong huyết quản có dòng máu của tộc đẳng Yehonala.

Hai con mắt nghiêm nghị của Nhung Lữ, giọng nói trịnh trọng trang nghiêm làm thái hậu quên những sự vụn vặt, nhỏ nhen. Bà ngoảnh mặt đi không muốn nhìn người đối thoại. Nhung Lữ là người đàn ông độc nhất được bà nể sợ. Bà tiếp hắn trong lòng thấy run, những cuồng vọng hồi còn trẻ nay lại bừng bừng bốc cháy. Đột nhiên bà thấy mồm khô, hai mắt nóng ran. Bà không biết hưởng lạc thú để cho cuộc đời trôi qua. Bây giờ bà đã già quá, nghĩ lại những kỷ niệm về tình ái khi còn trẻ. Cái gì bà đã mất, mất hẳn, không bao giờ còn trở lại, Bà khẽ nói:

- Âm mưu, anh nói hồi nãy có âm mưu?

- Bọn người âm mưu phản loạn, muốn tước đoạt quyền của bà dùng thám tử và tịch thu chiếc ngọc ấn. Bà phải hứa với họ từ nay chỉ có quyền dùng thời giờ chăn nuôi đàn chim, chăn dắt đàn chó.

Bà kêu lên, chiếc quạt cầm ở tay tuột rớt xuống đầu gối. Bà hỏi:

- Nhưng tại làm sao?

- Vì bà là chướng ngại vật, người ta không thể canh tân quốc gia theo ý muốn của bọn chúng, rập theo khuôn mẫu Tây phương.

Bà kêu lên:

- Đường thiết lộ, súng đại bác, hạm đội chiến thuyền chiến trận, chinh phục, phá hoạị.. Bà đang ngồi trên ngai, nhảy xuống, lột chiếc mũ đang đội trên đầu.

- Không, không. Tôi không để cho họ giày xéo lên quốc gia, cả một gia tài khổng lồ do huyết hãn tiền nhân gây dựng lên. Tôi yêu dân, ta cai trị chúng. Đối với dân Hán, ta không phải là ngoại nhân. Ngai rồng đã thuộc về chúng ta suốt trong hai trăm năm nay, ta có bổn phận phải bảo trì. Cháu ta đã phản ta và tất cả liệt thánh.

Nhung Lữ đứng dậy nói:
- Xin thái hậu cho chỉ thị.

- Nghe rõ ta nói: Kêu viên ngự sử ngay lập tức và hết sức bí mật. Đồng thời gọi tất cả các trưởng tộc của tộc phái hoàng gia. Bọn này sẽ có đơn thỉnh nguyện truất phế đương kim hoàng đế và khẩn cầu ta lên ngôi cầm quyền một lần nữa. Họ sẽ nêu lên lý do cháu ta đã phản bội dân tộc, đi ngược quyền lợi quốc gia, thao túng bọn xâm lăng ngoại quốc. Lúc đó, chiếu theo bản thỉnh nguyện, vì quyền lợi tối cao của tổ quốc và dân tộc, ta sẽ lên cầm quyền. Binh đội của anh thay thế ngự lâm quân trấn giữ các cổng ở cấm thành. Đến tảng sáng khi hoàng thượng ra làm lễ ở đền Kính Thiên, bắt ngay lại, dẫn giải đến một cù lao nhỏ, được gọi là sân thượng Đại Cương, giữ hắn lại cầm tù, chờ ta đến xét xử.

Bà thái hậu tự tin, tự chủ, hành động mọi việc đều theo thứ tự, phần vào đề, cách bố cục, lớp lang phân minh như bà soạn một vở hát. Nghe bà nói rành rẽ, xếp đặt rất khéo, hai mắt Nhung Lữ sáng lên nhìn bà, lẩm bẩm khẽ nói:

- Hay quá. Tuyệt xảo, tuyệt xảo, bà thật là một nữ vương hoàn vũ. Không có một người đàn ông nào trí lự siêu việt như bà, vượt cả không gian và thời gian. Tôi hiểu không có gì phải hỏi lại. Đường lối, kế hoạch bà thật tinh vi, đầy đủ.

Một mắt nhìn nhau một lúc lâu. Hắn đứng im một lúc rồi cáo từ đi ra.
PC
#27 Posted : Friday, November 12, 2004 7:28:08 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 01, 2004 10:54 am

Cùng ngày hôm đó vào hai giờ đêm, các quan ngự sử đến. Bà thái hậu ngồi trên ngai chờ, bà mặc triều phục, chiếc áo vóc vàng thêu chim phượng bằng kim tuyến, đầu đội chiếc mũ miện, có gắn ngọc. Hai bên có hai cây đuốc lớn. Kim tuyến ở trên áo bà, những đồ trang sức và hai con mắt lóng lánh. Các thân vương có mặt, mỗi thân vương có kèm thêm gia quyến. Tên thái giám giơ tay làm hiệu, tất cả mọi người hiện diện quỳ xuống trước mặt bà. Bà tuyên bố lý do buổi họp:

- Các thân vương, tất cả mọi người trong hoàng tộc, các triều thần, các quan ngự sử, hiện nay có âm mưu phản nghịch đang manh nha chống ta ở ngay trong hoàng thành. Cháu ta, được ta đưa lên ngôi làm vua, muốn hạ ngục và giết ta. Sau này khi ta chết, hắn sẽ giải tán các người thay thế vào một bọn người mới. Bao nhiêu phong tục, tập quán của tiền nhân từ ngàn xưa bị đào thải, triết lý thánh hiền bị bài xích, học thuyết bị phế bỏ, thay thế bằng học thuyết ngoại lai, những tư tưởng lai căng. Ngoại nhân nghiễm nhiên trở thành chỉ đạo cho toàn thể dân tộc mình. Như thế có cho là phản nghịch không?

Tất cả đồng thanh:

- Phản nghịch, phản nghịch.

Bà thái hậu nhẹ nhàng giơ bàn tay lên như vỗ về, ngầm bảo phải bình tĩnh.

- Thôi các người đứng lên. Bây giờ chúng ta có bổn phận phải bóp nát âm mưu mới manh nha đó. Tôi không sợ chết, nhưng vì tiền đồ của dân tộc, tôi không muốn nhìn thấy bách tính làm nô lệ cho ngoại bang... Tôi chết đi ai là người bảo vệ đươc non sông, xã tắc?

Trong đám đông, Nhung Lữ cất tiếng nói:

- Tâu thái hậu, viên tướng Viên Thế Khải hiện nay chờ lệnh. Hạ thần trộm nghĩ nên gọi hắn vào hầu để cho chính hắn tường thuật lên thái hậu và cử tọa cuộc âm mưu đó.

Bà thái hậu gật đầu, chấp thuận.

Một lúc sau, Viên Thế Khải, bận Nhung phục bước vào, bên hông, đeo lủng lẳng chiếc đoản kiếm.

Viên tướng tiến trước ngai rồng, phủ phục.

Giọng nói đều đều, viên tướng tâu:

- Sáng hôm mùng 5 tháng này, lần đầu tiên, hạ thần được thiên tử bí mật vời đến tại tư cung. Ngài đã cho gọi hạ thần ba lần để nói về cuộc âm mưu, cuộc trao đổi ý kiến lần chót, trước khi âm mưu được đem ra thi hành. Lúc đó trời còn nhá nhem tối. Hạ thần không nhìn rõ hoàng thượng, trong long điện còn tối lắm. Ngài có ra hiệu bảo hạ thần đến gần và ghé sát vào tai hạ thần ra chỉ thị. Theo chỉ thị hạ thần phải cấp tốc đến Thiên Tân, chặt đầu Nhung Lữ, tổng trấn ở đó; làm xong, hạ thần phải trở về ngay kinh thành lấy quân bảo hộ bắt thái hậu và giấu kín trong thành nội. Thần có nhiệm vụ lấy ngọc tỷ và thân chinh đem lên nạp thiên tử. Hoàng thượng có than phiền lúc ngài đăng quang, tức vị, không có ngọc tỷ. Việc này, thiên tử không thể bỏ qua được, thái hậu vẫn còn giữ ngọc tỷ. Ngài phải dùng ấn tính riêng để đóng vào sắc chỉ, như thế, đối với thần dân, thái hậu vẫn chưa tin hẳn vào người lên cầm quyền. Để xác định những mệnh lệnh, thiên tử có gieo uy quyền cho hạ thần chiếc tên bằng vàng.

Viên Thế Khải rút ở dây lưng chiếc tên vàng trình lên thái hậu.

Thái hậu, giọng nói nhẹ nhàng, hai mắt sáng long lanh, hỏi:

- Ông ấy có hứa thưởng gì cho nhà ngươi không?

- Tâu thái hậu, nếu hạ thần làm mọi việc được trôi chảy, hạ thần sẽ được phong tước vương ở kinh thành.

- Một công việc nặng nề, nguy hiểm như thế được tưởng thưởng ít ỏi qua, không xứng. Nhà ngươi yên chí ta sẽ có thưởng rất hậu.

Các quan ngự sử nghe viên tướng tâu trình, vẻ mặt người nào cũng hậm hực, tức tối. Khi viên tướng nói dứt lời, tất cả mọi người quỳ xuống khẩn cầu thái hậu lên cầm quyền một lần nữa, cứu vãn đất nước khỏi lột vào tay quân man di, mọi rợ ngoại bang.

- Ta hứa với các người, ta chấp thuận, thể theo lời thịnh nguyện của các người.

Tất cả mọi người đứng dậy, bàn cải một lúc, được thái hậu đồng ý, chấp thuận. Nhung Lữ bí mật trở lại ngay nhiệm sở, sau khi đã thay thế đội quân bản hộ bằng những người tính cẩn. Lúc sáng, khi hoàng đế đến lễ đền thờ các vị thần linh, bọn thái giám và ngự lâm quân bắt lại ngay, dẫn lại ở cù lao nhỏ giữa hồ, đợi thái hậu đến xét xử.

Mọi công việc xếp đặt xong thì vừa đúng giờ tý, đúng 12 giờ đêm, các quan về nhà, Nhung Lữ trở lại nhiệm sở. Bà thái hậu xuống ngai, vịn tay vào một tên thái giám, trở về phòng.

Bà rất thản nhiên như không có chuyện gì khác lạ đêm hôm đó. Như thường lệ, các a hoàn tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo bà đi ngủ. Bà nhắm mắt, ngủ say sưa, êm đềm, ở ngoài kia, bọn người thân tín của bà đã bắt giữ ông vua cầm tù.

Bà bừng mắt dậy, trong ngoài êm ả, mặt trời đã lên cao, gió hây hẩy mát, đưa lại mùi hoa thơm ở vườn. Mặc dù các quan ngự y đã khuyên can đêm ngủ nên đóng cửa vì gió ban đêm độc, dễ bị cảm, bà thái hậu không nghe, bà ngủ, cho mở hết các cửa để thoáng khí, cả rèm màn bà cũng không cho buông. Đêm hôm ấy cũng như mọi đêm, thường lệ vẫn có hai thể nữ luân phiên thức trong lúc bà ngủ và ngoài cửa có hai chục thái giám canh giác. Bà không có gì thay đổi khác thường. Bà chọn đồ nữ trang lâu hơn mọi ngày. Ngày hôm đó, bà chọn thứ ngọc tử thạch anh, một thứ ngọc màu tối, buồn, ít khi bà dùng đến. Bà chọn thứ áo sẫm màu, không gài hoa lan lên mái tóc như mọi ngày, bà muốn có vẻ bệ vệ, uy nghi.

Bà ăn sáng rất ngon miệng, chơi với đàn chó con, chọc ghẹo con chim, bắt chước tiếng hót của nó, cho đến khi con chim hót lại. Bà cho gọi tên tổng quản thái giám Lý Liên Anh, vẫn đứng túc trực ở phòng ngoài.

- Mọi việc được hoàn hảo không?

- Tâu lệnh bà, mệnh lệnh của bà ban xuống đã được tuyệt đối thi hành.

- Ông khách đã ở ngoài cù lao chưa?

Bà cười thầm hai môi đỏ chót của bà hơi rung rung-.

- Tâu lệnh bà, có những hai. Thứ phi Ngọc đuổi theo, bám chặt lấy vua, hắn bám chặt lắm, không sao gỡ ra được chúng con suýt giết chết vì chưa có lệnh thái hậu nên không dám.

- Mày ngu lắm, nói thế không biết xâu hổ. Tùy nghi liệu định. Thôi được, có nó cũng không có gì đáng ngại. Ta cần đối chất với nó về việc mưu phản. Một mình theo ta đủ rồi, ta không cần phải có vệ sĩ. Nó vô hại không cần phải đề phòng.

Bà búng hai ngón tay gọi con chó bà thích nhất, con chó này cao lớn, loại chó miềm Bắc, nom như con gấu trắng, đi theo bên chân bà. Lý Liên Anh đi theo sau. Lặng lẽ bà tiến về phía hồ, đi qua chiếc cầu đá cẩm thạch. Bà thái hậu không quên ngắm phong cảnh tuyệt mỹ do bàn tay bà đã tạo nên, những cây phượng vĩ, đỏ ối, trồng ở sườn đồi, những bông sen nở trên mặt hồ, những mái nhà mạ vàng, óng ánh, những ngôi chùa mái cong vút, những vườn bông, những bụi thông. Tất cả những thứ này, do tâm trí bà sáng tạo. Tuy nhiên nếu không có uy quyền, không có sức mạnh, thiếu tự do, cảnh tuy đẹp mà thành ra không đẹp. Nếu bà phải nhưởng quyền lại cho một người nào là vì quyền lợi riêng tư của bà và quyền lợi của quốc gia dân tộc. Bà tin ở sự hiểu biết, sáng suốt của bà, phải cứu vãn dân tộc, trừ khử một thằng cháu ngông cuồng.

Với nghị quyết sắt đá đó, bà đặt chân lên cù lao, con chó lớn vẫn ở bên cạnh, tên thái giám lẽo đẽo theo sau.

Hoàng thượng ở trong một viên đình, mặc quần áo thầy chùa. Thấy bà đến, ông đứng dậy, khuôn mặt mỏng quẹt, nước da xanh mét, hai mắt buồn buồn, mồm nom như mồm đàn bà, hai môi mỏng run run.

Bà bước vào, ngồi ở giữa viên đình, bà quát lên:

- Quỳ xuống.

Trong các gian phòng, cung điện, đình tạ, phần chính giữa bao giờ cũng giành quyền để bà ngồi. Ông vua sụp xuống, quỳ trước mặt, đầu cúi, trán chạm đất. Con chó lớn của bà đến đánh hơi ngừi từ đầu đến chân, ông vua đang lom khom quỳ. Con chó ngửi chán đến nằm dưới chân bà như để bảo vệ chủ.

Bà cúi nhìn người đang quỳ trước mặt, bà nói:

- Tội của mi đáng phải phanh thây, xé xác ra làm muôn mảnh vứt cho chó ăn.

Ông vẫn quỳ nên không nói một câu nào.

Bà không nói to, nói vừa đủ cho người quỳ trước mặt nghe, tiếng nói lạnh lùng như những nét dao sắc chém xuống.

- Ai đặt mày lên ngôi? Một thằng nhỏ còn bú mớm, quấy khóc thành một hoàng đế.

Ông vua lẩm bẩm nói gì trong mồm bà không nghe rõ, bà lấy chân đá, hất ông ra xa.

- Mày lẩm bẩm nói gì? Nếu mày dám, ngửng mặt lên nói lại tao nghe.

Ông vua ngóc đầu lên, nói:

-... Con nóị.. để yên nó nằm trong nôi, nó còn sướng hơn.

- Thằng vô ơn bạc nghĩa kia, ta cho mày làm vua một nước giàu mạnh nhất gầm trời này. Nếu la người khác sướng lắm thì phải, còn biết đội ơ tao, một người mẹ nuôi, tao cũng được mát mặt. Nhưng mày, lúc nào cũng mê thích đồ chơi của ngoại nhân, những đồ con nít, bọn thái giám rủ rê làm hư hỏng mày, mày sợ con vợ mày, không dám đi lại với mấy con vợ lẽ. Tao nói thật cho mày biết không có một người Mãn Châu nào, hay một người dân trong nước lại không mong muốn tao lấy ngai vàng. Ngai vàng để cho mày không xứng đáng. Đêm ngày, người ta đến van nài, cầu khẩn tao. Đồ ngu, mày định chống đối tao, ai nâng đỡ làm hậu thuẩn cho mày, nếu không phải là bọn giặc người Hán. Mày nghe lời chúng nó, nghe chúng nó phỉnh nịnh để rồi chúng nó cướp đoạt, chấm dứt triều đại nhà Thanh. Mày phản bội không riêng gì mình tao, mày phản bội các tiên đế đã công khai sáng ra cơ nghiệp này. Mày dám đem các tổ tiên ra hy sinh. Mày canh cải thế a? Tao nhổ vào việc canh cải của màỵ..

Bà nói một hơi dài, mệt quá, hơi thở hổn hển. Bà ngừng lại lấy tay để trên ngực, trái tim đập mạnh như muốn vỡ tung. Con chó ngửng đầu lên, gừ gừ. Bà nhếch mép mỉm cười. Bà nói tiếp:

- Súc vật nó còn khôn, có nghĩa hơn người. Ta không thèm giết mày, thằng bất nhân kia. Mày vẫn giữ huy hiệu hoàng đế. Nhưng mày bị cầm tù, bị người ta coi chừng canh gác mày. Mày xin nhường ngôi quyền hành lại cho tao, bắt buộc tao phải nhận, nhưng thật bất đắc dĩ. Tao thấy mày ươn hèn quá, ngu dốt qua, tao không thể giao phó quyền hành cho mày, tao phải tự đảm nhiệm lấy, ngay từ bây giờ cho đến khi mày chết.

Ngay lúc đó, ở trong tấm rèm che, người thứ phi Ngọc chạy đến quỳ bên cạnh chồng. Nàng vừa khóc, vừa nói:

- Tâu thái hậu, chồng con hối hận đã làm thái hậu tức giận. Con thú thật, chồng con muốn cải thiện cho tất cả mọi thứ được hoàn mỹ, không có người nào hiếu lễ hơn chồng con, không có ác tâm, ngay cả một con chuột cũng không muốn giết. Thưa thái hậu, đúng thế, ngày hôm nọ chồng con đã cứu sống một con chuột bị mèo vồ.

- Câm mồm, đồ ngu.

Người thứ phi không chịu im. Nàng ngửng mặt lên, ngồi xổm trên hai gót chân, nước mắt rong ròng, nàng kêu lên trước mặt người đàn bà hách dịch, kiêu ngạo.

- Con không thể nào im được, nếu bà muốn giết cứ việc giết. Bà không có quyền lấy lại ngôi. Ông làm hoàng đế là thuận theo ý trời. Bà chỉ nhờ thời thế, số phận run rủi đưa lên.

Mặt bà thái hậu biến sắc, vô cùng dữ tợn.

- Câm. Từ nay không bao giờ mày được nhìn mặt thằng chồng mày.

Ông vua nghe nói sợ thất thần, nhảy lên dưới chân bà.

- Ồ! Thái hậu đừng giết nó, nó vô tội. Nàng là người duy nhất con mến thương. Nàng không phỉnh nịnh, không nói dối con bao giờ.

Người thứ phi đứng dậy, ôm lấy chồng, ấp má vào ngực chồng.

- Những món ăn anh ưa thích, từ nay ai sẽ làm cho anh, đêm đông giá rét, ai ấp ủ cho anh?

- Sẽ có cháu ta, hoàng hậu, không cần đến mày.

Bà quay lại Lý Liên Anh, người thái giám tiến lại gần.

- Lôi con này đi, đem nhốt nó vào lãnh cung. Nó ở đó cho hết đời nó. Quần áo nó mặt cho đến khi rách, nát. Cho nó ăn gạo hẩm, rau, như cho nó ăn. Không được nhắc tên nó với ta, nó chết không cần báo cho ta biết.

- Tuân lệnh.

Mặt Lý Liên Anh tái đi, tiếng nói nghẹn ngào đủ rõ cả tên đầy tớ trung thành nhất của bà cũng bất mãn về sự quá nghiệt ngã, ác độc của bà. Ông vua nằm vật xuống nền gạch, chết ngất dưới chân bà thái hậu. Con chó lớn của bà đến ngửi, đánh hơi, kêu gừ gừ. Bà thái hậu ngồi thản nhiên, hai mắt nhìn ngoài khung cửa để ngỏ.



LÃO PHẬT

Bà thái hậu lại lên ngôi, trị vì một lần nữa. Vì tuổi đã cao nên dáng điệu, tính nết biến cải, như không còn nữ tính, bà thản nhiên ngự trên ngai rồng không cần buông rèm như khi xưa. Bà ngồi trên ngai như một người đàn ông, đối diện với đình thần, trong một khung cảnh, trang nghiêm, rực rỡ, huy hoàng. Niên tuế đã cao, tính nết đã cởi mở, độ lượng, từ bi, không khắt khe, nghiệt ngã như hồi còn trẻ. Vì thế, bà cũng cho người cháu (ông vua bị cầm tù) thỉnh thoảng xuất hiện trước công chúng. Về lễ tiết thu, tháng tám (xuân thu nhị kỳ), bà cho phép cháu bà (vua Quang Tự) được làm chủ lễ. Ngày mùng tám tháng tám, bà cho phép phế đế vào bệ kiến ơ long điện. Trước mặt văn võ bá quan, các thân vương, bà chấp nhận của cháu bà chín lễ (cửu bái), chứng tỏ cho thần dân trong ngoài biết bà là vị chúa tể của toàn dân.

Bà cho phép cháu bà (vua Quang Tự) có một đội lính đi kèm để coi chừng, đứng chủ lễ đình Kính Thiên, tạ ơn thiên địa về sự thái bình và phong đăng hòa cốc. Bà nghĩ để cho hắn coi việc cúng lễ hơn là cai trị người. Bà cho hành quyết sáu người Hán, can tội phản loạn, bọn này đã xúi giục vua Quang Tự mưu phản. Bà vô cùng phẫn nộ khi hay tin tên cầm đầu Khang Hữu Vi đã chạy thoát nhờ có sự ám trợ của người hồng mao. Bà cho đem giết hết những người trong tộc đẳng của Khang Hữu Vi. Thân vương tài, bạn và đồng chí của Quang Tự, bị vợ tố cáo, bà cho bắt và hạ ngục. Người vợ của ông thân vương này giận chồng ghét bỏ, người đó cũng là cháu gái của bà. Bà loại trừ xong những phần tử đối nghịch, một công việc nữa cũng không kém phần quan trọng, biện minh với quốc dân những hoạt động của bà. Bà biết hiện trong nước có hai khuynh hướng, một khuynh hướng tán đồng, cổ võ chính sách của thiếu đế, canh tân trong nước, tạo lập một hạm đội chiến thuyền, chỉnh đốn, canh cải, quân đội, thiết lập đường hỏa xa, rập theo khuôn mẫu các nước Tây phương, cho hợp với trào lưu tiến hóa. Một khuynh hướng, thủ cựu, lấy lý thuyết Khổng Mạnh làm tôn chí, bế môn tỏa cảng, có óc bài ngoại.

Bà thái hậu cố dung hòa hai khuynh hướng đó. Bằng những sắc chỉ, những lời phao vu, bịa đặt xuyên tạc, do bọn thái giám tung ra trong dân chúng bằng đường lối truyền khẩu, rỉ tai, vua Quang Tự đã phạm vào nhiều lỗi lầm rất nguy hại, nếu bà thái hậu không kịp thời ngăn chặn, tổ quốc sẽ lâm nguy. Ông vua đã âm mưu sát hại bà cô già, và thông đồng với ngoại nhân để ám trợ. Ngoại nhân lợi dụng sự khờ khạo của ông để xâm chiếm toàn thể lãnh thổ. Hai tội tày trời đó cũng đủ lý do chứng minh, vì non sông vì tiền đồ của quốc dân, bà thái hậu lại phải một lần nữa chéo chống con thuyền quốc gia. Những người bảo thủ, thấm nhuần nho giáo, không thể nào chấp nhận một đường lối bất chính, bất nhân của thiếu đế đối với một bực trưởng thượng. Bọn người có xu hướng canh tân cũng không thể tha thứ vị thiếu quân kết liên với người bạch chủng hay quân giặc người Hán.

Lời phao vu, tuyên truyền này của bà thái hậu rất điêu xảo, tinh vi, chỉ trong vài tháng toàn dân chấp nhận bà là một nữ hoàng đế chân chính, thậm chí cả những người ngoại quốc cũng muốn giao dịch với một nữ đế có uy quyền có nghị lực hơn là một thiếu quân ươn hèn.

Lão phật với sự khôn ngoan vượt bực, sự tế nhị đã hoàn toàn thành công, đánh đổ tất cả các dư luận bất lợi cho bà. Bà biết bọn người đàn bà là lợi khí sắc bén, bà dã dùng lợi khí đó để "Chiêu dụ" các sứ thần, quan lại ngoại quốc. Bà cho mời các bà đại sứ, quan lại Tây phương, vào trong hoàng thành dự yến. Suốt trong đời bà, lần thứ nhất bà được nom tận mắt bọn người da trắng. Tuy trong lòng bà rất ghét song cũng cho mời bọn này vào cấm thành yến tiệc. Bà biết nếu bà chinh phục được bọn người đàn bà này, gây được cảm tình với họ. Bà sẽ chinh phục được bọn đàn ông, chồng của chúng. Bà chọn ngày sinh nhật của bà, không phải một lễ tiết quan trọng, nhưng là ngày sinh nhật hàng năm (năm bà 64 tuổi), bà mời bảy người đàn bà, vợ của bảy sứ thần ngoại quốc.

Bà ra chỉ thị cho sửa soạn, xếp đặt đón tiếp. Hoàng thành trở nên nhộn nhịp, các thể nữ tò mò muốn xem người da trắng thế nào, các a hoàn bận rộn, lần thứ nhất những người đàn bà ngoại quốc được xâm nhập vào trong cấm thành. Duy chỉ có bà thái hậu rất bình thản, bà nghĩ nên cho dò hỏi xem họ thích những món gì? Bà cho thái giám đến hỏi các tân khách, tôn giáo họ có được dùng thịt không? Họ ưa dùng trà Trung Hoa, nước xanh pha loãng hay tra Tích Lan, nước đen và đậm, họ có thích dùng bánh ngọt rán với mỡ heo tay bằng dầu thảo mộc. Thực ra bà không cần để ý họ trả lời ý muốn thế nào, bà làm theo ý bà, tuy nhiên bà theo phép lịch sự xã giao mà hỏi cho có lệ.

Bà không thiếu xót một chi tiết nào. Đến trưa bà cho một lính kỵ mã người Hán, quần vàng, áo đỏ đến các sứ quán báo tin, kiệu song loan đến sau. Một giờ sau, những chiếc kiệu loan đến, mỗi kiệu có 5 phu kênh, có một toán lính kỵ mã đi hộ tống đến chờ ở sứ quán hồng mao. Để cho thật chu đáo, theo đúng nghi lễ, thái hậu phái một viên quan ở bộ ngoại giao đi kèm với bốn thông dịch viên, 18 lính kỵ mã, sáu chục ngự lâm quân đi hộ tống.

Đến cổng ngoài Di Hòa cung, đoàn người dừng lại, các tân khách xuống kiệu. Có bảy chiếc kiệu loan, đệm bọc vóc đỏ, sáu thái giám áo vóc vàng thắt lưng đỏ đã chờ sẵn phía trong cổng.

Đến cổng thứ nhì, các tân khách lại xuống kiệu, được mời lên đoàn xe lửa ngoại quốc, có đầu máy chạy bằng hơi nước kéo đi. Đường thiết lộ này nguyên của cựu đế Quang Tự cho thiết lập từ mấy năm trước để tiêu khiển và học hỏi. Đoàn xe đi ngang qua cấm thành đến chính điện. Các tân khách được các thân vương huyết thống (Princes de sang) tiếp đón, mời dùng trà trước khi được hướng dẫn tới long điện. Ở đó hoàng thượng và hoàng hậu đã chờ sẵn. Bà thái hậu, một người ngoại giao đại tài, mưu trí, thủ đoạn hôm đó cho phế đế Quang Tự ngồi bên tay mặt ngai, bà thái hậu ngồi bên tay trái để cho người ngoại quốc nhìn thấy một khung cảnh gia đình đầm ấm, trên, dưới, tôn ti.

Các vị phu nhân các sứ thần đứng trước ngai rồng, một thông dịch viên ngự tiền văn phòng giới thiệu trước ngai rồng, từng người theo thứ tự những vị nào đến nhiệm sở lâu ngày ở Bắc Kinh. Cuộc giới thiệu chấm dứt, thân vương Chinh hướng dẫn lên trình diện trước ngai rồng.

Bà thái hậu để ý quan sát từng khuôn mặt, bà rất ngạc nhiên, lạ lùng, nhưng không để lộ cảm xúc. Bà ngồi trên ngai, cúi về phía trước hai tay giơ ra, niềm nở nắm tay từng người, mỗi người bà đeo tặng ở ngón tay một chiếc nhẫn vàng có gắn hạt trai thật đẹp.

Người nào cũng cám ơn bà thái hậu, bà gật đầu, mỉm cười. Tiếp xong các tân khách, bà xuống ngai, rời long điện bọn thái giám xếp thành vòng cung đi sau bà như một tấm rèm.

Bà về tư dinh, bà giơ cánh tay phải ra hiệu, cho "Dẫn độ" "Hoàng thượng" trở về ngục thất.

Bà thái hậu dùng cơm trưa có các thể nữ sủng ái thị hầu. Trong khi đó các tân khách ngoại quốc dự yến ở đại sảnh trong cung với các thể nữ thường, bọn thông dịch viên và vài người thái giám.

Hôm đó, bà thái hậu rất vui vẻ, bà và tất cả mọi người đều rất lạ và thích nhất màu sắc mắt của mấy người đàn bà ngoại quốc, mắt màu xám nhạt, vàng hay xanh như mắt mèo rừng. Bà chê họ có vẻ thô kệch, nhưng khen nước da họ đẹp thật, trắng hồng, mịn màng trừ có người Nhật, nước da bánh mật. Theo bà nhận xét, người đàn bà hồng mao đẹp nhất đám, người Đức quần áo chải chuốt hơn cả. Bà chê cái mũi cao lênh khênh của người đàn bà Nga La Tư. Còn người đàn bà Mỹ, ba thấy hao hao giống một vị nữ tu sĩ, nét mặt nghiêm nghị rắn rỏi. Các thể nữ cười ngặt nghẹo, vỗ tay tán thưởng bà phê bình đúng quá, chưa bao giờ họ thấy bà vui tính như ngày hôm nay. Ăn cơm xong, bà thái hậu thay xiêm y và nữ trang, trở lại long điện. Lần này có hoàng hậu đứng cạnh bà ở bên tay ngai. Các tân khách trở vào cung điện để bà thái hậu giới thiệu với cô cháu dâu. Bà rất thích thú nhận thấy trong khóe mắt của các tân khách ánh lên sự thán phục. Khen ngợi những xiêm y lộng lẫy và những đồ trang sức của hoàng hậu. Hai lần ra mắt tân khách, chưa lần nào bà thái hậu mặc những xiêm y, đeo các đồ trang sức đẹp nhất. Mấy người đàn bà ngoại quốc khen ngợi những xiêm y và đồ trang sức của bà. Bà muốn cho bọn người này ngạc nhiên đến lần thứ ba và cũng là lần chót bà ra mắt, bà sẽ thay đổi phục sức cực kỳ lộng lẫy. Bà rất hoan hỉ, đứng dậy chào hỏi mọi người, bà nắm tay họ đặt lên ngực bà và lên ngực họ, luôn luôn đọc lên một câu châm ngôn của một hiền triết cổ: "Tứ hải giai huynh đệ".

Khi thông dịch viên dịch sang Anh, Pháp, mọi người trầm trồ khen ngợi câu nói rất hay. Bà mời tân khách coi một vở hát, ba có nhã ý tự soạn để chào mừng tân khách. Thông dịch viên dịch sang Anh, Pháp ngữ cho mọi người đều hiểu sự tích vở hát. Một lần nữa, bà lại cáo lui, trở về tư dinh bà thấy người hơi mệt, bà tắm nước nóng có pha nước bông. Bây giờ bà chọn một chiếc áo cực kỳ lộng lẫy, một chiếc áo vóc vàng, thêu đàn chim phụng bằng chỉ ngũ sắc và kim tuyến. Bà đeo chuỗi hạt trai tuyệt đẹp, trê đầu mười ngón tay có những chiếc tháp nhỏ bằng vàng bảo vệ ngón tay. Chiếc mũ miện có gắn những viên ngọc quý ở Miến Điện, bạch ngọc Ấn Độ, hồng ngọc, lam ngọc lóng lánh giữa những viên kim cương sáng chói ở Phi Châu. Tất cả thể nữ đều công nhận, chưa bao giờ bà thái hậu lại đẹp, lộng lẫy như lần này. Nước da bà trắng nõn, mịn màng, đôi môi đỏ chót, hai mắt long lanh, mặc dù niên tuế đã cao, bà vẫn như còn ở trong tuổi thanh xuân.

Bà trang điểm xong, trở lại đại sảnh, lúc đó các tân khách đang thưởng thức trà và bánh ngọt. Bà đến như tiên nga giáng trần, ngồi trong kiệu loan, bọn thái giám khênh đến tận ngai rồng. Tất cả thực khách đứng dậy nét mặt tươi cười, sự ngưỡng mộ thấy trong các khóe mắt. Bà thái hậu nhấc cao chén trà, uống một ngụm, lần lượt mời các tân khách lại gần cạnh bà, một tay bà cầm chén trà, bà lại nhắc câu triết lý cổ nhân: Tứ hải giai huynh đệ. Bà truyền thái giám đem lại tặng mỗi vị tân khách một món quà kỷ niệm: Một chiếc quạt, một tấm tranh lụa chính tay bà vẽ, một đồ trang sức bằng ngọc.

Cuộc triều kiến được kết thúc với sự hoan hỉ và lòng nhiệt thành cảm tạ của tất cả các tân khách.

Mấy hôm sau, bọn thám tử đến tâu với bà, những người đàn bà ngoại quốc khoe với chồng họ sự tiếp đãi của hoàng gia thật là nồng hậu. Họ tấm tắc khen ngợi bà. Họ nói một người đàn bà vừa đẹp, vừa có độ lượng, bặt thiệp không thể nào có tâm địa ác độc, làm hại người khác. Bà thái hậu cũng cho họ nhận xét đúng.

Bà đã thành công, gây được thiện cảm với tất cả mọi người, trong cũng như ngoài, bà để trọng tâm diệt hết phiến loạn và bọn người chủ trương cải cách, đặt toàn dân dưới một chế độ, một chủ trương, đạt tới mục tiêu đó, bà củng cố uy danh của bà. Nghĩ đến vấn đề đó, bà thấy sự hiện hữu của phế đế là một chướng ngại vật, làm cản trở việc thực hiện ý định đó. Phế đế có bộ mặt buồn buồn, lúc nào cũng có vẻ suy tư, tính ôn hòa, dễ bảo, gây được thiện cảm với nhiều người. Một lần nữa, vì quyền lợi chung của triều đại, của dân tộc, bà lại ra tay hành động một cách quyết liệt. Tên thái giám Lý Liên Anh ỏn thót, xúc xiểm:

- Tâu thái hậu, phế đế còn sống ngày nào, khuynh hướng trong nước bị phân chia. Tình trạng này kéo dài sẽ có hai khuynh hướng đối nghịch, người ta sẽ chọn đường lối của thái hậu hay phế đế. Người Hán, bẩm sinh có tính ác hiểm, họ thấy trong nước không thuần nhất, có sự chia rẽ phái này, phái nọ, họ mừng lắm. Bọn chủ mưu hoạt đầu, lúc nào cũng âm mưu trong bóng tối. Họ tuyên truyền, nhắc nhở dân chúng, người Mãn Thanh cai trị chúng không phải người Hán. Chỉ có thái hậu đem lại thanh bình vì uy tính thái hậu vang lừng trong dân chúng.

Bà thở dài nói:

- Nếu cháu ta là người có tư cách, có nghị lực, ta sẵn sàng giao phó trọng trách cho hắn.

- Tâu thái hậu, phế đế không phải người có uy quyền, có nghị lực, một người nhu nhược, bất chấp. Ông đã nghe bọn phản loạn người Hán, không suy xét, hiểu thâm ý của họ. Như thế, mặc nhiên ông đã phá hủy triều đại mà không biết.

Bà không nói gì, cho hắn nhận xét rất đúng, rất phải. Tên thái giám đứng chờ tưởng thế nào ba cũng cho chỉ thị để thi hành tức khắc.

Ngày hôm đó, bà đi bách bộ trước tư dinh, ngắm chiếc cù lao giữa hồ, mặt hồ đầy sen, cháu bà hiện bị cầm tù ở đó. Không thể gọi nơi đó là ngục thất, một tòa lâu đài, trang bị đồ đạc rất diễm lệ, đủ tiện nghi, trong một khung cảnh rất vui tươi. Bà nom thấy cháu bị cầm tù đi chơi trên tù lao, bọn thái giám đứng ở xa vẫn để ý theo dõi.

Bà nghĩ bọn người có phận sự canh gác nên thay đổi luôn luôn, không nên để mãi, sợ lâu ngày, phế đế gây cảm tình với họ. Cho đến giây phút này chưa thấy có triệu chứng gì họ phản trắc. Chiều nào bà thái hậu cũng nhận được bản sao tờ báo cáo về người cháu bị cầm tù, nên bà hiểu rõ những tư tưởng thầm kín của hắn. Có một tên trong bọn thái giám được cắt cử canh gác phế đế, người đó tên là Hoàng, người này có nhiều điểm đáng ngờ vì tờ báo cáo hàng ngày hắn gửi, ca tụng tính nết phế đế.

"Hoàng thượng, hàng ngày đọc những sách có giá trị. Khi nào ngài chán đọc sách, ngài vẽ hay làm thơ."

Suy nghĩ lời lẽ trong tờ báo cáo, đột nhiên bà thay đổi ý định, bà nghĩ chưa đến lúc cần phải giết. Bà đã chọn hắn lên ngôi, bà không muốn chịu trách nhiệm về việc giết hắn. Bà cầu mong cho hắn chết nhưng để cho "Hoàng thiên" xếp đặt, định đoạt.

Với một giọng lạnh lùng, dứt khoát và như cấm không được hỏi lại, bà hỏi Lý Liên Anh:

- Từ rày không được nói đến việc viễn du của hoàng thượng ở suối vàng. Việc đó sẽ do lòng Trời định đoạt.
PC
#28 Posted : Friday, November 12, 2004 7:28:59 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 01, 2004 11:00 am

Thật không ai có thể ngờ tưởng, quân giặc người Hán nhờ có tên thái giám làm môi giới, trung gian đã liên lạc được phế đế. Một buổi sáng vào tuần trăng thứ mười, phế đế lợi dụng sự ơ hờ, bất cẩn của bọn người canh gác, đã trốn thoát, chạy ra rừng thông, đến một bãi ở phía bắc cù lao, ở đó đã có một chiếc thuyền chực sẵn. Một tên thái giám đã nhìn thấy chiếc vạt áo ông biến sau rặng cây, bọn người đuổi theo và bắt được ông, lúc ông sắp xuống thuyền.

- Chúng con xin thiên tử đừng trốn, nếu thiên tử trốn, lão phật sẽ cho chặt đầu chúng con.

Lời van nài của bọn thái giám thật công hiệu, ông vua nhân từ, thấy họ van nài, ông không nỡ, ngập ngừng không xuống thuyền. Người lái thuyền, một tên giặc người Hán, giục ông xuống thuyền gấp, đừng nghe họ mà bỏ lỡ đại sự, mặc kệ họ, dù họ có chết cũng không sao. Phế đế nhìn mặt bọn người, trong số đó có một thằng nhỏ mới lớn lên thằng này rất ngoan, thường nhật hết lòng hầu hạ ông. Ông nhìn thấy nó mếu khóc, ông không nỡ lòng bỏ nó để lên thuyền. Ông lắc đầu, người lái thuyền không dám chờ lâu, đành lẽ đánh thuyền đi, chiếc thuyền mất dạng trong đám sương mù buổi sáng.

Câu chuyện thương tâm đó đến tai bà thái hậu, bà vô cùng căm phẫn người cháu (phế đế). Bà hạ lệnh giết hết tất cả những ai (thân vương, các quan lại) a tòng, ám trợ phế đế, âm mưu phản lọan. Còn phế đế, bà không cần giết vội vì bà có cách chế ngự rất hữu hiệu. Theo học thuyết Khổng giáo, người Hàn bài xích thiếu quân vì chủ trương âm mưu chống đối lại với một bà cô già nua. Chính thiếu quân cũng tự hiểu vì ông là người có lương tâm và đã được thấm thuần học thuyết Khổng Mạnh.

Nhung Lữ đến xin yết kiến thái hậu và khẩn cầu thái hậu mở lương từ bi:

- Tâu thái hậu, nếu dân chúng không tán thành lại cuộc âm mưu chống đối lại thái hậu, dân chúng cũng không tán thành thái hậu sát hại thiếu quân dù thiếu quân chết một cách đột ngột bất đắt kỳ tử. Tốt hơn hết là giam giữ thiếu quân lại không để cho làm một lợi khí tiếp xúc với ngoài. Nhưng bề ngoài vẫn phải có phong độ. Trong mười ngày nữa có sứ thần Nhật Bản và các thuộc quốc vào triều kiến, thái hậu nên cho phép thiếu quân đứng thị hầu bên cạnh ngai. Thái hậu nên tỏ ra khoan dung, đại độ cả với người thứ phi Ngọc.

Bà giơ cả hai tay lên trời tỏ ý bảo Nhung Lữ im. Bà không muốn nghe ai nhắc đến tên đó. Giờ đây, không còn là một người vợ nghe chồng khuyên nhủ mà là bà hoàng thái hậu với hai con mắt lạnh lùng. Nhung Lữ lảng sang nói chuyện khác.

Hiện nay trong nước thái bình song dân tình xao xuyến. Mối câm thù người bạch chủng nổi lên dữ dội. Trong tỉnh Quảng Châu, dân chúng giết người tu sĩ hồng mao. Sự kiện đó, gây khó khăn, lộn xộn cho nhà cầm quyền. Người hồng mao đòi phải bồi thường thỏa đáng và còn yêu sách về đất đai, đòi đặt thêm tô giới.

Bà thái hậu đùng đùng lên cơn phẫn nộ. Hai bàn tay nắm chặt, bà đập lên hai đầu gối, thét lên:

Lại chuyện mấy thằng tu ngoại quốc. Làm sao chúng không ở trong nước chúng, đến đây làm gì? Mình có phái thầy tu nước mình đến nước họ để phá hoại thần của chúng đâu? Đó là kết quả tai hại những trân mình thua với bọn tây phương. Họ buộc mình phải ký hòa ước để cho bọn thầy tu, lái buôn của họ được nhập cảnh vào nước ta.

Bà tuyên bố:

- Ta thề phải trừ khử bọn ác ôn này.

Bà ngồi trầm ngâm suy nghĩ, hai mắt sầm lại, hai vành môi đỏ cắn chặt. Bà làm như không biết Nhung Lữ đứng đó. Nhung Lữ thấy bà ngồi yên, hắn quỳ xuống lạy rồi lặng lẽ đi ra. Bà vẫn ngồi yên, đầu cúi, lúc Nhung Lữ đi ra bà cũng không ngửng mặt lên.

Tháng chạp năm đó, trong tỉnh Hồ Bắc lại có một thầy tu bị giết. Họ giết rất dã man, kinh rợ, lột hết quần áo, tùng xẻo cắt từng miếng thịt. Thiên hạ phao đồn bọn thầy tu ngoại quốc là bọn phù thủy, ăn cắp con nít, khoét mắt, giã xương thành bột luyện thành bùa.

Bà thái hậu vô cùng phẫn nộ, bà biết, dân chúng sát hại thầy tu ngoại quốc là một nguy cơ, người ngoại quốc sẽ phản kháng mãnh liệt, bà đã nhìn thấy bóng dáng chiến tranh xuất hiện.

Đúng thế, các nước kết liên lại chống bà: Nga La Tư, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức... đều tỏ thái độ quyết liệt. Nước Pháp lấy cớ nhiều nhà truyền giáo bị giết trên lãnh thổ Trung Hoa, yêu sách một tô giới ở Thượng Hải. Nếu yêu sách đó không được thỏa mãn, sẽ tuyên chiến. Bồ Đào Nha yêu sách những phần đất đai ở MaCao, nước Bỉ đòi hai tu sĩ bị giết bằng một phần đất ở Hán Khẩu. Người Nhật yêu sách ở phần đất phì nhiêu nhất ở Phúc Kiến. Tây Ban Nha cũng tiềm cách trả thù cho bọn tu sĩ bị sát hại. Ý Đại Lợi tỏ ra ương ngạnh nhất, sứ thần họ yêu sách phải nhượng bộ họ vịnh Sầm Côn trong tỉnh Chiết Giang, một hải khẩu đẹp nhất của Trung Hoa.

Trước tình thế nguy khốn, các nước Tây phương xúm lại xâu xé, vô cùng tai hại, bà thái hậu cho họp hết quân thần, các thân vương, trong một cuộc thiết triều khẩn cấp và đặc biệt. Bà cho triệu hồi khẩn cấp tướng Lý Hồng Chương, lúc đó đảm trách trùng tu con đê sông Hoàng Hà bị nước lên to đe dọa.

Hôm thiết triều, trời oi bức, nóng lắm, có một trận bão cát từ mạn Tây Bắc thổi tới. Trong không khí có lẫn chất cát rất nhỏ, sự hô hấp rất khó khăn. Các đình thần, các thân vương chờ bà thái hậu lâm triều, phải lấy khăn tay che mặt. Bà mặt triều phục rất uy nghiêm, lộng lẫy, xuống kiệu loan, vịn vào cánh tay Lý Liên Anh đi thẳng lên ngai rồng. Dáng điệu bà rất uy nghiêm, bình tĩnh, các quan phải noi theo. Tất cả mọi ngườoi làm lễ, tung hô trước ngai rồng. Bà nhận thấy ngay Nhung Lữ vắng mặt. Bà hỏi Lý Liên Anh:

- Quân cơ đại thần Nhung Lữ đâu?

- Muôn tâu thái hậu, ông có nói ông bị đau đầu không đến triều kiến được. Hạ thần nghĩ chỉ là một cớ để không vào bệ kiến vì quyết định của thái hậu cho triệu thỉnh Lý Hồng Chương.

Mấy lời "ám hiểm" của tên thái giám như một mũi tên cắm vào giữa trái tim bà thái hậu. Tuy nhiên, bề ngoài bà vẫn bình tĩnh, điềm đạm, uyểng chuyển như thường.

Bà cho gọi các quan lại, các thân vương, từng người một đến gần ngai cho bà ý kiến từng cá nhân về tình thế biến động, bà chăm chú để tai nghe lời tâu trình. Viên lão tướng Lý Hồng Chương là người cuối cùng lên bệ kiến. Ông đi rất nặng nề, chậm chạp, quỳ xuống trước ngai rồng có vẻ khó khăn. Hai thái giám phải xốt nách đỡ, tuy thế bà không cho phép được ngồi. Hôm đó, bà bắt buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Điều gì bà không chấp thuận, không ai được nhắc đến.

- Lão tướng, lương đống của triều đình, có ý kiến gì nói lên, trẫm nghe.

Lý Hồng Chương đầu vẫn cúi gầm, thưa:

- Muôn tâu thái hậu, đó là cả một vấn đề, hạ thần đã nghiên cứu trong bao nhiêu tháng nay. Chúng ta hiện nay bị quâ thù bao vây. Ngôn ngữ, phong tu6c, tập quán, đường lối sinh hoạt của bọn họ khác hẳn ta. Hạ thần thiển nghĩ, chúng ta nên tránh cuộc binh đao vì giao tranh với quân địch có quân số đông khác nào nhảy vào miệng chó sói. Ta nên khôn ngoan, tìm trong các nước thù địch với ta một nước, ta có thể kết liên làm đồng minh. Chẳng hạn như Nga La Tư, một nước thuộc Châu Á như ta.

- kết liên, xây tình hữu nghị với họ, ta phải trả giá thế nào?

Giọng nói nhỏ nhẹ, lạnh lùng của thái hậu làm viên lão tướng sợ quá, run lên. Bà nom thấy hai tay ông, hai bàn tay chấp lại run run. Ông không trả lời, bà cất to giọng, nói:

- Trẫm trả lời câu hỏi của trẫm đặt ra. Mình phải trả một cái giá quá cao. Cần gì phải đánh bại tất cả quân thù để rồi làm chư hầu, nô lệ cho một nước. Ở trên đời này, thử hỏi có nước nào chịu đem tiền bạc, xương máu cho không một nước khác không? Ta chưa thấy một người nào hào hiệp như thế. Chúng ta phải tự lực quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi. Tất cả người bạch chủng, đàn ông, đàn bà, con nít phải được tống xuất ra biển. Ta không nhượng bộ gì hết. Ta thu lại tất cả những gì thuộc về ta.

Bà đứng lên nói. Mọi người hiện diện lúc đó tưởng như bà là một tiên nữ dáng phàm, người cao lớn, có phép nhiệm màu. Hai mắt bà sáng ngớt, hai má ửng hồng, bà giang thẳng hai cánh tay, hai bàn tay xòe ra, những chiếc tháp nhỏ bằng vàng, bảo vệ móng tay, nom tựa như móng vuốt. Bà như có sức mạnh phi thường nhập thể. Cơn phẫn nộ của bà như sấm sét, nhãng quang bà loang loáng như những tia chớp. Tất cả mọi người phủ phục, trán chạm đất. Bà nhìn những chiếc lưng cúi rạp, lòng tự cao, tự đại bốc lên ngùn ngụt, bà say sưa như một chất men nóng chạy trong huyết quản.

Nghĩ đến Nhung Lữ văng mặt, không đến, lại nhìn những chiếc lư cúi gập, những bộ triều phục lộng lẫy trên nền gạch, bất giác bà để ý đến viên ngự sử Quan Hi một người tuy đã có tuổi song vẫn khỏe mạnh, óc bảo thủ, bài xích những lề lối mới. Bà nói to, giọng trong trẻo, rõ ràng:

- Ngự sử Quan Hi ở lại tư yết. Đinh thần, thân vương cho cáo lui.

Bà bước xuống ngai. Lý Liên Anh tiến lại, đưa cánh tay bà vịn. Bà đi rất đường bệ, uy nghi, không để ý các triều thần sì sụp lễ sau lưng. Bà đã lấy quyết nghị, không thay đổi, hoán cải. Không bao giờ bà nhượng bộ người da trắng.

Đại thần ngự sử Quan Hi được lệnh tư yết lúc quá trưa vào giờ thân (ba giờ trưa). Tổng quản thái giám đứng gần đó, để tai nghe trộm, có lẽ đã đút lót trước với Quan Hi. Bà thái hậu nói, mắt bà nhìn ra cửa để ngỏ. Lúc này đã ngớt cơn mưa, cơn gió, nhờ có trận bão, không khí trong lành mạnh mẽ, bà tuyên bố:

- Trẫm nhất quyết, không do dự, không thể nào nhân nhượng với bọn người da trắng, trẫm phải cho thu hồi lại đất đai bị cưỡng đoạt, không thể nào hy sinh một cách phi lý.

Viên đệ tử của Khổng Khâu (tên của Khổng Tử) thưa:

- Muôn tâu thánh thượng, lần thứ nhất trong đời hạ thần thấy hé mơ hy vọng.

Nữ hoàng nói:

- Nhà ngươi có điều gì tâu lên trẫm không?

- Muôn tâu thánh thượng, thườnh nhật hạ thần vẫn luận đàm với Tuấn thân vương về vấn đề đó. Cả hai chúng hạ thần cùng chung một ý nghĩ, một quan điểm, muốn đánh bại quân giặc man di (tây phương) phải lợi dụng lòng uất hận của người Hán, dùng họ làm hậu thuẫn. Muôn tâu thái hậu, người Hán căm thù người bạch chủng kéo đến nước ta gây chiến, mở cuộc đao binh, chiếm đóng lãnh thổ nước ta, yêu sách những món tiền bồi thường khổng lồ vì những tên ác tăng của họ bị giết. Người Hán có lập những hội kín, thề sẽ tận diệt bọn người Tây phương. Muôn tâu thánh thượng, bộc bạch vài lời tâu trình lên đèn trời soi xét. Hạ thần không dám tự cao, tự đại, khôn ngoan, lịch duyệt. Tâu thánh thượng, hội kín của người Hán đã có, sao mình không lợi dụng. Hạ thần trộm nghĩ, thỉnh thỏang, cho chúng biết thánh thượng tán thành tôn chỉ của họ. Những hội đó một khi đã xác nhập vào quân đội hoàng triều do Nhung Lữ làm tư lệnh đại tướng quân, hạ thần nghĩ không có sức nào có thể chống lại được. Người Hán sẽ tuyệt đối trung thành với thánh triều khi họ được thánh thượng nâng đỡ để trục xuất man di mọi rợ.

Bà thái hậu suy nghĩ, bà thấy kế hoạch nghe được, hay. Bà hỏi thêm vài câu nữa rồi cho viên (đệ tử) này rút lui. Bà không ngỏ một lời khen nào. Sau cuộc trình bày mưu trí của viên ngự sử, bà thấy trong lòng vui vui, khoan khoái, nhẹ nhõm. Khi Lý Liên Anh đến trình bày ý kiến, bà cho phép. Tên thái giám hỏi bà:

- Thái hậu đã có kế họach nào hay không? Viên ngự sử này là người thận trọng, khôn ngoan.

- Phải, đúng thế.

Bà để ý thấy tên thái giám nhìn sang bên, hai mắt hé mở, có vẻ tinh quái. Bà hỏi:

- Thế nào? Hai người đó (Nhung Lữ và Quan Hi) đồng quan điểm hả?

- Tâu thái hậu, con xin báo trước thái hậu rõ. Theo như con biết, chắc chắn Nhung Lữ không táng thành ý kiến của Quan Hi.

Nói xong, hắn lấy đầu lưỡi đặt lên môi trên, rồi đưa lưỡi về bên giữa mồm.

Bà thái hậu thấy nét mặt nhăn nhở của tên thái giám, bà phì cười.

- Như thế, ta không nghe Nhung Lữ.

Tuy bà nói thế song vài hâm nữa bà cho gọi hắn đến định khiển trách về mấy công tác do bọn trinh sát báo cáo. Hắn vừa bước chân vào, bà hỏi ngay:

- Thế nào?

Mặc dù lúc đó đã trễ, bà không cho hắn ăn cơm xong, cho gọi lập tức vào hầu. Ở nhà phải để phần cơm.

- Tâu thái hậu, hạ thần có làm điều gì nhầm lỗi?

Lần đầu tiên bà thấy hắn già, dáng người có vẻ mỏi mệt.

- Ta nghe nói nha ngươi để cho các sư quán tăng gấp đôi đội lính phòng thủ?

- Hạ thần bị bắt buộc phải chấp thuận như vậy. Hình như bọn họ cũng có do thám, họ biết thái hậu nghe lời đề nghị của Quan Hi, thái hậu bảo trợ những hội kín của bọn thảo khấu người Hán, như ai cũng biết, hăng say diệt trừ tất cả người ngoại quốc trên đất nước này. Tôi có nói, tôi không tin thái hậu tán thành một việc quái gở như thế. Thái hậu tưởng có đủ uy lực để chống lại tất cả các nước trong địa cầu này sao? Thái hậu nên tìm cách điều đình, cho tình thế bớt căng thẳng, chờ cho mình có đủ sức mạnh mới có thể thắng được họ.

Bà nói:

- Nghe nói, hình như dân chúng rất công phẫn, nguyền rủa ngoại quốc dầy xéo lên đất nước ta. Quang Hi sau cuộc chu du ở thành đô có kể chuyện lại tỉnh đó dân chúng tổ chức kháng chiến. Hắn có đem về trình tôi mấy tên quyền phỉ để biểu diễn mấy môn quyền thuật. Hình như họ có phép siêu nhiên, khi lâm chiến không bao giờ bị thương hay chết. Súng đạn cũng vô hiệu không làm gì được họ.

Nghe bà thái hậu nói thế, Nhung Lữ lo, sợ quá, kêu lên.

- Ôi! Thái hậu! Sao thái hậu có thể tin tưởng những chuyện hoang đường đó?

Bà thái hậu nói văn lại:

- Chính ông mới nói những chuyện viển vông, anh quên rồi sao, cuối đời nhà Hán, Trương quấc cầm đầu bọn giặc khăn vàng (hoàng cân) năm mươi vạn quân tấn công triều đình, lấy được bao nhiêu thành trì. Bọn khăn vàng có những ma thuật siêu nhiên, khi lâm trâïn không một người lính nào bị thương vong. Quang Hi cả quyết xác nhận, nhiều bạn bè ông được chứng kiến họ biểu diễn những quyền thuật vô cùng kinh dị ở tỉnh Giang Tây cách đây đã lâu. Ta nói khi mình có chính nghĩa, quỷ thần sẽ ám trợ, phù trì cho mình.

Nhung Lữ người nóng ran như điên, cầm mũ quăng xuống đất, hai tay bứt đầu, bứt tóc. Hai hàm răng nghiến ken két, hắn nói:

- Tôi không kể ngôi thứ, địa vị, bà vẫn là em gái họ của tôi, người mà tôi đã hy sinh tất cả. Với tư cách một người anh họ, tôi nói thẳng công việc bà đang làm là điên rồ. Không phải vì sắc đẹp, vì quyền lực của bà, mà bà không làm những việc dại dột. Tôi xin nói rõ bà biết, bà nghe lời Quang Hi là chết, hắn không nhìn hiện tại, lúc nào cũng mơ màng sống trong những thế kỷ trước. Nếu bà tin vào lời sàm tấu của tên thái giám và đồng bọn, cả thân vương Tuấn, họ lơ mơ sông trong ảo ảnh, tôi có thể nói bọn họ làm sụp đổ triều đại. Bà nghe tôi, bà nên nghe tôi, nếu không hối không kịp.

Nhung Lữ chấp hai tay van vái bà, nhìn thẳng vào mắt bà. Bốn mắt gặp nhau, hắn thấy bà có vẻ xiêu xiêu, hắn không dám nói thêm sợ lỡ hỏng việc.

- Tôi có hỏi thân vương Chính về vấn đề đó. Hắn trả lời, kể dùng bọn quyền phỉ cũng có lợi.

- Chỉ có tôi mới dám nói lên sự thật. Thân vương Chính không dám nói những gì hắn nói riêng với tôi. Bọn quyền phỉ là bọn xí gạt, hợm hỉnh, khoe khoang, thực lực không có gì, bọn ăn cướp ngu dại, nó định nhờ hơi hướng bà để có chút thế lực. Có người nào thật lòng tôn kính bà như tôi không?

Câu nói cuối cùng, hắn hạ giọng nói rất khẽ, lời nói ngập ngừng. Bà cúi đầu suy nghĩ. Hắn nhấn mạnh:

- Xin bà hứa với tôi, bà quyết định làm một việc gì cũng phải nói cho tôi biết. Đó là một lời hứa, một â hưởng độc nhất, tôi hỏi xin bà.

Hắn chờ một lúc, hai mắt nhìn vào chiếc đầu đang cúi xuống. Một lúc sau, bà ngửng đầu lên nói:

- Tôi xin hứa với anh.

Quang Hi nói một cách quyết đoán với bà thái hậu:

- Tâu thái hậu, thái hậu bỏ lỡ đại sự. Thái hậu niên tuê đã cao, nên khoan dung, độ lượng, không muốn làm mạnh. Thái hậu không ban lệnh cho phép trừ khử hết ngoại nhân ở trong nước. Chỉ cần một lời của thái hậu ban ra là bọn ngoại nhân phải cuốn xéo đi hết, không còn sót một tên, cả lũ chó và mớ gà, vịt của bọn chúng. Một viên đá nhà chúng cũng không còn.

Quang Hi vội vàng xin vào bệ kiến, vì bọn do thám của hắn báo cáo Nhung Lữ gièm pha, phá hỏng kế họach của hắn.

Bà thái hậu nghe lời tâu, quay đầu lại bảo:

- Tất cả các khanh chỉ đến quấy rầy tôi, làm tôi thêm mệt.

Quang Hi cố vật nài thưa:

- Tâu thái hậu, lúc này lhông phải là lúc mệt mỏi. Giờ đã điểm để ta toàn thắng. Thái hậu không phải thò ra một ngón tay, thái hậu chỉ cần nói lên một tiếng, người khác sẽ làm. Tất cả chỉ chờ lệnh của thái hậu ban rạ.. Chỉ chờ lệnh...

Bà lắc đầu nói:

- Ta không thể nào ra lệnh được.

Ngự sử Đồng Phúc Hoàng quỳ xuống tâu:

- Tâu thái hậu, hạ thần chỉ xin thái hậu cho thời hạn là năm hôm, hạ thần cho phá sạch hết nhà cửa, cơ sở của bọn ngoại quốc ở kinh thành.

Bà thái hậu tiếp các quan ngự sử ở Ôn cung. Bà ở cấm thành từ chiều hôm qua, bà luyến tiết phải tạm rời Di Hòa cung. Bọn quyền phỉ đã tự ý không có lệnh của bà phá hủy con đường thiết lộ ở Thiên Tân.

Chao ôi, có thật bọn quyền phỉ có ma thuật, gươm giáo, súng, đan, kông thể phạm đến người?

Viên ngự sử Chi Huấn tâu:

- Muôn tâu thái hậu, xi thái hậu cho phép hạ thần thảo một sắc chỉ để xin châu phê. Ta hãy đọan giao với người Tây phương, như thế cũng làm tụi chúng khiếp sợ.

- Khanh có thể thảo sắc chỉ nhưng ta nói trước ta không phê chuẩn.

Quang Hi quỳ xuống, tâu:

- Muôn tâu thái hậu, hôm qua hạ thần có đến chơi nhà quận công Lan. Ở sân ngoài có đến trăm quyền phỉ đến đóng trại. Tâu thái hậu quả thực bọn này có phép siêu nhiên, hô thần, hoán quỷ. Hạ thần thấy những đứa trai độ 14, 15 tuổi, xuất thần nói xi x6 toàn tiếng ngoại quốc. Quận Lan có nói với hạ thần, lúc nào có thời cơ thuận tiện, bọn quyền phỉ có quỷ thần (lục đinh, lục giáp) sẽ kéo đến đền Gia Tô Giáo để tiêu diệt.

Bà thái hậu tuyên bố:

- ta chưa nhìn thấy tận mắt.

Bà giơ cao cánh tay, ra hiệu cho bọn này rút lui.

Đến chiều, Lý Liên Anh mật tâu:

- Tâu thái hậu, có rất nhiều người chọn bọn quyền phỉ đến đóng ở nhà họ.

Tên thái giám ngập ngừng, hạ thấp giọng, nói: - Nếu thái hậu không phẫn nộ, hạ thần xin mật tâu việc này. Lệnh điệt tẩu (cháu dâu của bà) nuôi 250 quyền phỉ, hiện cấm trại đóng ở ngoài tỉnh. Thân vương Tài Hưng đang học ma thuật của họ. Bọn quyền phỉ ở Cam Ninh, Cam Túc đang định tiến vào tỉnh. Nhiều người sợ chiến tranh tái phát đã bỏ đi lánh nạn về vùng quê. Tất cả mọi người mong chờ lệnh của thái hậu.

- Ta không thể ra lệnh được.

Ngày mùng 6 cùng tháng, bà sai Lý Liên Anh triệu thỉnh Nhung Lữ. Trước khi ra quyết nghị, bà cần giải lời hứa với Nhung Lữ.

Buổi sáng, do thám đến trình bà có nhiều quân đội ngoại xâm mới đỗ bộ ở biển, kéo vào trong nội địa. Bọn lính mới đến tăng cường quân trú phòng và trả thù những người ngoại quốc bị người Hán giết hại ở tỉnh Cam Ninh.

Đến trưa, Nhung Lữ đến, mặc quần áo thường, như đi ra vườn hay về quê. Bà thái hậu không để ý cách phục sức của hắn.

Nom thấy Nhung Lữ, bà vội hỏi:

- Trong tỉnh đầy nhóc binh lính ngoại quốc, ta có nên im lặng, ám binh bất động được không? Ta e dân sẽ nổi lên chống đối ta, triều đại sẽ lâm nguy.

- Tâu thái hâu, hạ thần cũng không đồng ý để quân ngoại quốc kéo vào kinh thành đông quá. Nhưng hạ thần xin nhắc lại thật là một quốc sĩ cho ta, nếu vô cớ mình tấn công quân ngoại quốc. Người ta sẽ cho mình là man rợ không hiểu công pháp quốc tế. Không ai đi đầu độc những khách đến cư trú nhà mình.

Nét mặt bà đăm chiêu, bà hỏi lại:

- Như vậy, theo ý anh, ta phải làm thế nào?

- Mình mời khéo họ, gia đình họ, bạn hữu họ hãy tạm lánh xa kinh thành. Nếu họ đi, quân đội họ cũng rút đi. - Nhưng trường hợp họ không chịu đi, thì sao?

Nhung Lữ bình tỉnh trả lời:

- Tôi tin họ sẽ đi. Nếu trường hợp họ không chịu đi, bà không phải chịu trách nhiệm nữa.

- Anh có bằng lòng bỏ lời hứa của tôi không?

- Để maị..mai.

Nhung Lữ trả lời xong đi ra.
PC
#29 Posted : Friday, November 12, 2004 7:29:47 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 08, 2004 6:05 am

Nửa đêm hôm đó, bà đang ngủ, chòang trở dậy, lửa sáng rực kinh thành. Theo thói quen, bà ngủ để cửa ngỏ, ánh sáng ở ngoài chiếu vào gian phòng bà nằm. Không phải ánh đèn, không phải ánh trăng, cả một bầu trời đỏ rực. Bà đánh thức bọn thể nữ ngủ dưới đất có trải nệm. Bọn này lục tục thức dậy, chạy ra cửa sổ nghe ngóng, xem chuyện gì.

Cả bọn kêu ầm:

... Àị.. Àị..

Lý Liên Anh đẩy cửa bước vào, mặt ngơ ngác, hắn đến báo cáo có một ngôi đền thờ ngoại quốc bị đột cháy, ngọn lửa bốc cao. Không bắt được thủ phạm, không biết ai đã gây ra hỏa hoạn.

bà thái hậu ở trên giường bước xuống, bà sai lấy ngay quần áo để mặc. Bọn thể nữ lao xao đem quần áo lại. Có các thái giám tháp tùng, bà đi thẳng ra phía đồi nơi trồng mẫu đơn, ở vị trí cao, bà có thể quan sát phía ngoài qua bức tường thành. Những cột khói bốc lên mù mịt, bà không nom rõ đám cháy, nhưng một lúc sau bà ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt. Bà lấy khăn tay bịt hai lỗ mũi, bà hỏi tại sao có mùi thịt cháy? Bọn quyền phỉ đã châm lửa đốt ngôi nghà thờ của người Pháp, ở trong nhà thờ có hàng trăm người Hán theo đạo Gia Tô, đàn ông, đàn bà, con nít.

Bà thái hậu nói như rên:

- Gơm quá, gớm quá. Nếu ta biết nông nỗi này, ngay lúc đầu ta không cho người ngọai quốc nhập cảnh. Việc này đang lý ta phải làm biết bao nhiêu năm nay, người dân không bị cám dỗ, lầm lạc đi theo mấy ông thần ngoại quốc.

Để khích lệ bà, Lý Liên Anh tâu:

Tâu thái hậu, bọn ngoại quốc bắn trước vào đám đông ở trước cửa nhà thờ, bọn quyền phỉ mới đốt nhà thờ để trả thù.

Bà rên lên:

- Lịch sử đã cho ta biết, khi ngọn lửa tiêu hủy hoàn thành, ngọn lửa sẽ đốt hết, bất luận từ viên đá cụoi đến viên ngọc quý.

Bà quay đầu không muốn nhìn cảnh tượng hãi hùng. Suốt ngày hôm đó, bà buồn lắm. Vì phảng phất có mùi tử khí. Bà sai thái giám đem mấy quyển sách của bà đến cung Diên Thọ, ở đó bà không nom, khônh thấy gì mà không khí cũng trong lành.

Bọn thái giám và thể nữ đứng vây quanh bà, khẩn cầu:

- Muôn tâu thái hậu, để bọ ngoại nhân khỏi tàn phá, bảo toàn được cung diện, chúng con xin phép cho bọn quyền phỉ được dùng yêu thuật. Hiện giờ lính ngoại quốc tràn vào kinh thành như nước vỡ bờ.

- Xin thái hậu ra lệnh ngay tức khắc, đừng trì hoãn. Muôn dân trong đợi ở thái hậu.

Các quan ngự sử thúc bách, kêu nài. Bà nhìn tất cả mọi người: Quang Hi, thân vương Tuấn,các quân cơ đại thần, thượng thư các bộ... Khi bãi triều, ở long điện kéo đến, vây quanh bà thái hậu, không có thứ tự, hàng lối, phẩm trật... Tình thế cấp bách, tất cả mọi người không giữ lễ nghi ở triều đường.

Bên tay mặt bà, phế đế ủ rũ ngồi, mặt xanh mét, đầu cúi gầm, hai bàn tay yếu đuối bạc nhược đặt trên hai đầu gối. Bà ngoảnh lại phế đế, hỏi:

- Thế nào, thiên tử? Chúng ta có nên ra lệnh cho bọn quyền phỉ tấn công quân thù không?

Nếu ống nói "Nên" một mình ông chịu trách nhiệm một việc tày trời. Ông vẫn cúi gầm mặt xuống, nói:

... Thái hậụ.. Thái hậụ..

Những tiếng vẫn lao xao nói xung quanh bà, những tiếng trầm trầm, âm thanh dội lên rầm, rui sơn son trên trần nhà.

Bà đứng dậy, hai tay giơ cao, ra hiệu bảo mọi người im. Lúc đó vào tảng sáng, không ai từ lúc thấy đám cháy. Quân ngoại quốc kéo vào bốn cổng thành trong tỉnh, theo hướng tiến vào trung tâm kinh thành. Không có cách gì giải quyết nổi, ngoài vấn đề gươm, giáo, súng, đạn.

Bà thái hậu tuyên bố:

- Giờ đã điểm, phải tận diệt các ngoại nhân ở các lãnh sự quán, không còn một tên nào sống sót, một ngôi nhà nào của bọn chúng còn lại.

tất cả mọi người im lặng đón nhận lời tuyên bố quyết liệt của bà. Bà đã bội hứa với Nhung Lữ.

Nhung Lữ đến quỳ trước mặt bà. Hai má ông nước mắt chảy ròng ròng. Ông cố trình bày với bà sự lợi hại.

- Tâu thái hậu, vẫn hay quân ngoại quốc thù nghịch với dân tộc mình, họ phải chịu trách nhiệm về những cuộc tập sát. Hạ thần xin mẫu hậu xem lại quyết nghị của thái hậu vừa ban bố. Nếu chúng ta phá sập được mấy ngôi nhà của họ, giết được một số người họ, chúng ta đương nhiên gây sự câm phẫn với các chính phủ họ. Họ sẽ đem đại quân, chiến hạm đến đánh mình. Các lăng tẩm miếu mạo thờ liệt thánh sẽ phút chốc thành tro bụi. Các vị thần linh cũng xiêu bạt, phách tán, đình chùa của dân chúng sẽ bị san bằng.

Bà nghe mấy lời tâm huyết, lòng tê tái, máu ngừng trong huyết quản, tuy vậy bà giấu nỗi kinh hoàng, nét mặt vẫn bình tĩnh. Chưa bao giờ, ai nom thấy bà tỏ vẻ sợ hãi. Trong lòng có kinh sợ thế mấy, bà cũng trấn tĩnh được, khuôn mặt kiều diễm của bà vẫn thản nhiên.

Bà bảo Nhung Lữ:

- Trẫm không thể kìm hãm được dân chúng. Họ nóng lòng phục hận. Nếu quân chúng không đánh bại được quân thù, lúc đó ta sẽ ra tay. Như khanh, lương đống của triều đình, nếu không có mưu lược nào hay hơn, để đấy trẫm lo liệu. Trẫm miễn cho khanh không phải dự hết buổi họp.

Nhung Lữ đứng ngay dậy, hai mắt ráo hoảnh, không nói một lời, đi ra ngay.

Khi Nhung Lữ đi khỏi, viên ngự sử Chí Huấn rút ở chiếc hia nhung, tờ giấy gấp. Thủng thẳng ông mở rộng tờ giấy, trịnh trọng đến gần ngai để trình bản văn lên nữ hoàng.

- Muôn tâu thánh thượng, hạ thần mạo muội thảo tờ sắc lệnh, thánh thượng cho phép hạ thần xin tuyên đọc.

Bà thái hậu uy nghi ngồi trên ngai, hai môi khô bỏng.

- Đọc lên!

Viên ngự sử đằng hắn, dọn vọng, tuyên đọc tờ sắc lệnh tuyên chiến với tất cả kiều dân ngoại quốc.

Tiếng ông đọc oang oang trong một bầu không khí, phẳng lặng, trang nghiêm, kinh rợn.

- Cúi xin thánh thượng châu phê và đóng ngọc tỷ.

Bà thái hậu giọng nói rất bình tĩnh, lạnh lùng:

- Chư khanh, trẫm cho công bố theo thể lệ một sắc chỉ của hoàng triều.

Nghị quyết của bà thái hậu ban ra được toàn thể đình thần long trọng đón nhận. Chí Huấn lễ tạ, lui về chỗ.

Trời vừa sáng, theo thường lệ giờ thiết triều. Lý Liên Anh tiến lên, giơ cánh tay bà thái hậu vịn để lên kiệu loan. Kiệu rước thẳng ra long điện. Ở Long điện, phế đế đã túc trực, chờ sẵn, khi kiệu bà thái hậu đến, phế đế quỳ xuống nghênh đón.

Bà sẽ đáp lễ phế đế rồi đi thẳng vào nội điện, có hai thái giám đi kèm đỡ hai bên. Ở trong nội điện, đình thần, văn võ, bá quan phủ phục tung hô vạn tuế. Buổi thiết triều cực kỳ trang trọng, có các tộc biểu, các quan cơ mật đại thần, các thượng thư của hai mươi bốn đạo quân, các quản chấp kỳ, đội ngự lâm quân...

Đi chậm chạp sau thái hậu là thiếu quân, mặt tái mét, hai mắt to, hai bàn tay mất máu, nắm chiếc đai áo. Bà thái hậu lên ngự trên ngai rồng, phế đế ngồi trên chiếc đai thấp hơn ở phía bên tay mặt.

Theo lễ nghi triều đường, các quan xếp theo thứ tự, phẩm trật, trên dưới tôn, ti. Bà thái hậu khai trào. Thường nhật, tiếng nói bà rất nhỏ nhẹ, song vì lòng câm phẫn đối với quân thù, nên giọng nói rất hùng mạnh, quyết liệt, luồng nhỡn quang sáng lóe, như tia chớp.

Ý ta đã quyết, lòng ta đã định, chúng ta không thể nào tha thứ những sự ngạo mạn, hỗn xược, những yêu sách phi lý của ngoại nhân. Thực ra ta cũng không muốn dùng quyền phỉ, nhưng thế bất đắc dĩ. Ngoại nhân còn muốn nhúng tay vào nôi bộ của chúng ta, chúng hâm dọa dân tộc ta, trực tiếp cả đến ta. Chúng cho người đến bảo ta phải thoái vị, nhường ngôi lại để cho cháu ta, một người nhu nhược, yếu hèn để chúng dễ bề lung lạc. Tại sao chúng muốn ta rút lui vì chúng sợ ta, chúng biết ý chí ta cương quyết, sắt đá, chúng không thể lay chuyển được. Đối với cháu ta chúng coi như một miếng sáp ong, muốn nặn hình gì cũng được. Sự hỗn xược của ngoại kiều đã thể hiện một cách điển hình qua thái độ của viên lãnh sự Pháp ở Thiên Tân đòi ta phải bồi thường cái chết của một tên tu sĩ quèn lấy các đồn ải ta ở tả Khẩu (taku)

Bà nói đến đó, dừng lại, uy nghiêm nhìn các đình thần tập hợp trước ngai rồng. Ánh sáng những ngọn đuốc chiếu vào những khuôn mặt nghiêm nghị, đăm chiêu, lo buồn, họ nhìn bà và phế đề ngồi trên ngai. Bà quay lại hỏi cháu:

- Mi không có nói gì à?

Phế đế vẫn ngồi gục mặt xuống, lấy lưỡi liếm môi, hai bàn tay gầy còm, khẳng khiu duỗi ra, nắm vào. Một lúc sau ông cất giọng nói, lời nói ngập ngừng, sẽ sàng, yếu đuối, run run.

- Tâu mẫu hậu, vì mẫu hậu cho phép cháu phát biểu ý kiến. Theo cháu nghĩ, chaú cho lời khuyến cáo của Nhung Lữ là khôn ngoan, để tránh đổ máu. Không sao một mình có thể chống đối với tất cả các nước, mình không có khí giới tối tân, không có chiến thuyền... Cháu đồng quan điểm với Nhung Lữ để cho các lãnh sự và gia đình họ rời khỏi kinh thành một cách yên ổn. Viện này không thuộc thẩm quyền cháu, lẽ tất nhiên như vậy. Việc này thuộc phạm vi thẩm quyền của mẫu hậu xin để mẩu hậu phê phán.

Phế đế vừa dứt lời, lập tức một viên ngự sử tâu lên thái hậu:

- Muôn tâu thánh thượng, vì sự tồn vong của tổ quốc, vì hạnh phúc của muôn dân, cúi xin thánh thượng cho thi hành ngay đường lối duy nhất đã được hoạch định. Phải giết chết bọn ngoại kiều, cho bọn chúng tiệt chủng. Khi bọn ngoại kiều được triệt hạ xong, ta sẽ trừ diệt bọn thảo khấu người Hán hiện nay nổi lên như ong vẽ ở miền Nam.

Bà thái chấp nhận lời tâu, bà nói:

- Ta đã nghe lời khuyên dụ của Nhung Lữ, ta không cần ai phải nhắc tới. Soạn thảo tờ sắc chỉ tuyên chiến.

Bà đứng dậy, bãi trào. Đột nhiên ở trong cử tọa, có tiếng ồn ào, bàn cãi. Có bọn hoan nghênh quyết nghị của bà thái hậu, có bọn nói khai chiến với ngoại quốc là tiếng chuông cáo trung của triều đại, người Hán sẽ chiếm đoạt ngai vàng. Viên thượng thơ về ngoại giao sự vụ xác nhận trong các cuộc đàm phán, người Tây phương rất biết điều. Viên này tin chắc không khi nào họ lại yêu sách ký quái thái hậu phải từ bỏ ngôi báu. Những người đàn bà ngoại quốc hết lời ca ngợi thái hậu. Những sứ thần ngoại quốc từ ngày vợ họ được thái hậu tiếp đón nồng hậu đã tỏ ra rất nhã nhặn lịch sự.

Thân vương Tuấn lên cơn phẫn nộ, bà thái hậu muốn tránh cuộc xung đột giữa hai người, bảo viên thượng thơ ngoại giao rút lui. Đến lượt quận vương Lan, một người bênh vực bọn quyền phỉ, nói đêm qua nằm mơ thấy ngọc hoàng thượng đế, xung quanh ngài có rất nhiều quyến phỉ, người đã tán thưởng quyền thuật của bọn này, đã biết dùng ma thuật để cứu nguy trăm họ.

Bà thái hậu để tai nghe, rất thích câu chuyện nằm mơ của quận Lan, bà cười rất tươi và đầy tin tưởng vào mộng triệu. Mộng đó là điềm rất tốt, quỷ thần sẽ phù hộ chúng ta để đánh dẹp quân man đi.

Tuy vậy, bà cũng chưa tin tưởng vào ma thuật của quân quyền phỉ. Bà nghĩ không hiểu những ma thuật đó có thật hay không.

Bà cho bãi trào trờ về tư cung, không nói một lời nào với phế đế.

Quyết nghị tuyên chiến đã được hầu hết triều thần ưng thuận, bà đã thấy đỡ lo. Người mõi mệt, đêm hôm đó, bà ngủ rất ngon giấc. Bà bảo bọn thể nữ:

- Để yên ta ngủ suốt ngày hâm nay, cấm không ai được đánh thức, làm mất giấc ngủ của ta.

Lúc đó vào giờ mùi (hai giờ trưa) Tiếng Lý Liên Anh ở ngoài cửa làm bà thức dậy.

Lý Liên Anh ở ngoài cửa nói vào:

- Tâu thái hậu, thân vương chính đi cùng với Quang Hi xin vào bệ kiến.

Bà thái hậu không thể không tiếp bọn này, bà vội vàng mặc áo, đội mũ ra.

Quang Hi sau khi sụp xuống lễ, tâu:

- Muôn tâu thánh thượng, cuộc chiến đã thật sự bùng nổ. Sáng nay tên đội người Mãn Châu đã giết hai người ngoại quốc, trong số đó có viên lãnh sự người Đức đi kiệu, định đến xin yết kiến thánh thượng. Người đội này có công đã giết hai người ngoại quốc, hắn vội đến thân vương Chính để xin lãnh thưởng.

Bà thái hậu nghe lời báo cáo, lòng bà lo buồn như thắt ruột, thắt gan.

- Nhưng làm sao, quân chúng đã biết khi sắc chỉ chưa được công bố? Tên đội chưa có lệnh đã tự xát hại, không có thưởng gì hết.

Thân vương Chính húng hắn ho, ấp úng tâu:

- Muôn tâu thánh thượng, tình thế đã đến lúc nguy kịch, thân vương Tuấn và Chí Huấn, sau khi bãi trào đã ra lệnh thanh toán hết ngoại nhân trong kinh thành.

Nói xong hai người đưa mắt nhìn nhau. Quang Hi nói thêm:

- Muôn tâu thánh thượng, quân thù phải chịu trách nhiệm. Tên đội xác nhận quan lính gác người da trắng đã bắn trước và giết chết ba người Hán.

Bà thái hậu kêu lên:

- Khiếp quá... Khiếp quá...

Vẻ lo âu hiện trên nét mặt bà, hai tay xoắn vào nhau.

- Nhung Lữ đâu? Đi gọi Nhung Lữ đến ngay, nhanh lên. Chiến tranh bùng nổ sớm quá, ta chưa kịp sửa soạn gì hết.

Nói xong, bà quay phắt người, đi thẳng vào trong phòng.

Hai giờ sau, Nhung Lữ đến, nét mặt ủ ê, buồn thảm.

Bà ra lệnh cho thái giám, thể nữ ra ngoài hết, bà hạ lệnh:

- Có chuyện cơ mật, cấm không ai được vào.

Bà nhìn Nhung Lữ đứng trước mặt, hai mắt hắn cúi xuống nhìn bà, bà nói giọng yếu ớt:

- Anh cho tôi ý kiến, tình thế khẩn trương, ta nên làm thế nào?

Giọng nói trầm trầm, nét mặt lo buồn, Nhung Lữ trả lời:

- Tôi cho bộ đội hộ tống người ngoại quốc ra bờ biển. Làm sao bà không chịu nghe lời tôi?

Bà thái hậu ngoảnh đầu đi, lấy khăn tay lau nước mắt. Nhung Lữ lại nhắc lại:

- BÀ đã không nghe lời tôi khuyên can, bây giờ bà lại hỏi ý kiến tôi?

Bà thái hậu sụt sịt khóc, Nhung Lữ nói:

- Bà định lấy quỹ nào trả cho bọn quyền phỉ? Bà đừng tưởng họ làm không công đâu?

Bà nhìn Nhung Lữ, như muốn vật nài hắn giúp đỡ, có phương kế gì hay, đột nhiên bà thấy mặt hắn tái đi, hai tay run run ôm ngực, hai chân như đứng không vững, muốn khuỵu xuống.

Bà vội vàng chạy đến đỡ, hai bàn tay hắn đã lạnh ngắt hai mắt hé mở vẻ đã đờ, hơi thở có vẻ khó khăn.

Bà kêu to:

Trời ơi! Trời ơi!

Các thể nữ chạy vào thấy bà thái hậu quỳ cạnh viên cơ mật vụ, mọi người kêu ầm lên, bọn thái giám đến. Bà ra lệnh:

- Nhắc ông đặt lên giường.

Bọn thái giám khênh Nhung Lữ đặt lên trên trường kỷ, kê một chiếc gối dưới đầu, bà cho gọi ngự y khẩn cấp đến. Nhung Lữ nằm yên trên trường kỷ, hơi thở khò khè.

Viên ngự y tâu:

- Tâu thái hậu viên cơ mật hiện đang đau, có lệnh thzí hậu triệu thỉnh, ông phải cố gắng gượng đến hầu.

Bà quay đầu, quắt mắt nhìn Lý Liên Anh.

- Sao mi không nói cho ta biết.

- Tâu thái hậu, quân cơ mật không cho hạ thần trình lên thái hậu.

Vì tình nghĩa thâm sâu với một người đã hy sinh suốt cả đời cho bà, bà cố nén lòng xúc động, đau đớn, bà lấy lại bình tĩnh, sai bảo thuộc hạ xung quanh:

- Đem ông về dinh, các quan ngự y, ngày đêm phải túc trực bên giường, chạy chữa. Báo cáo tình trạng sức khỏe của ông từng giờ một. Ta ra chùa lễ bái, kêu cầu.

Bọn thái giám phụng chỉ thi hành mệnh lệnh. Bà nói xong vội vả đến ngôi chùa riêng ở trong cung. Lúc đó vào giờ tuất, nhá nhem tối.

Màn đêm rủ xuống, cảnh vật êm ả có vẻ buồn buồn, không có ngọn gió nào để xua đuổi cái nóng gay gắt ban ngày. Bà thái hậu trong lòng buồn bã, lo âu, như một sức nặng ngàn cân đè trong tâm hồn bà. Bà đi thẳng đến bàn thờ đức Quang Âm. Bà thấp ba nén nhang, cắm vào lưu hương bằng ngọc dưới ánh sáng chập chờn của mấy ngọn nến. Bà thấy chuỗi hạt ngọc ở trên bàn thờ, lẩm bẩm cầu khấn, tụng niệm.

- "Chị cũng cô đơn như em, xin chị nghe lời kêu cầu xin chị phù hộ. Chị giải thoát cho em, những quân thù đang dòm ngó, ngấp nghé, muốn chiếm đoạt giang sơn cẩm tú này, đó là gia tài của ông, cha em để lại. Chúng muốn chia cắt nước này như một quả dưa để nuốt dần. Xin chị giải thoát, giải thoát cho em. Đó là lời cầu nguyện thứ nhất của em. Em xin chị cứu tử cho người em yêu. Hôm nay hắn đã ngã quỵ trước mặt em. Có lẽ giờ tận số của hắn đã điểm. Chị giúp em, chị can thiệp với trời già cho hắn sống thêm. Nếu việc đó không thể được, chị phù hộ cho em lúc đơn đọc hay bại trận, em vẫn được đường hoàng. Nét mặt chị không bao giờ thay đổi, sắc đẹp chị, bao giờ cũng thế. Chị cho em sức mạnh tinh thần để được như chị."

Bà vừa kêu cầu vừa lần tràng hạt, tin tưởng lời cầu nguyện phần nào cũng được cảm ứng. Quân thù có thể thắng, người yêu có thể mệnh một, nét mặt bà vẫn không thay đổi, sắc đẹp vẫn như xưa, vẫn kiều diễm, vẫn duyên dáng. Bà vẫn giữ được quyền thế, uy lực.
PC
#30 Posted : Friday, November 12, 2004 7:39:19 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 08, 2004 6:10 am

Những tháng trong nước có chiến tranh, bà thái hậu sống hoàn toàn cô đơn, không có ai để bàn bạc, san sẽ nỗi lo âu. Thân vương Ưng đến nói với bà:

- Tâu thái hậu, quân quyền phỉ khi xuất trận có đem theo một lá bùa hộ mệnh: Một miếng giấy vàng hình tròn, vẽ một hình tượng kỳ quái, không phải người mà cũng không phải quỹ không có chân, xung quanh đầu có bốn vòng hào quang. Trên khuôn mặt hình tam giác, hai con mắt đen dữ tợn. Hình thù kỳ quái có viết những chữ về yêu thuật: Ta là thần ở Hàn Vân, Hỏa thần, Lão Tử cũng trợ giúp ta. Ở bên trái, phía trên có viết những chữ: Bảo thủ Thiên mô câp câp giáng hạ. Ở phía dưới bên phải có những dòng chữ: Hắc thần Dịch khí cấp giáng hạ.

Ai mà đọc mấy dòng chữ yêu thuật đó tự nhiên có linh ứng, đọc một lần thì một ngoại nhân trong nước sẽ chết. Tâu thái hậu, học những dòng chữ đó có hại gì không?

- Không có hại.

Bà thái hậu đọc đi đọc lại mấy chữ đó cho nhớ. Mỗi ngày bà đọc nhiều lần. Lý Liên Anh đến xem bà đọc được bao nhiêu lần thì có bao nhiêu người chết. Hắn nói chuyện với bà về yêu thuật của bọn quyền phỉ: "Khi lưỡi kiếm họ chém vào đâu nó tóe ra lửa. Khi họ bắt sống được một người ngoại quốc, họ làm lễ hỏi Trời nên giết hay không? Họ vo một nắm giấy vàng đốt, nếu tro bốc lên cao thì Trời bảo phải chết, nếu tro giấy rơi xuống thì tha tội giết".

Bà thái hậu không tin những chuyện huyễn hoặc, mơ hồ, song trong tình thế khẩn trương, nguy kịch, những chuyện tuy hoang đường cũng làm bà phấn khởi được phần nào.

Bà hy vọng ai đó sẽ đến giúp bà, cứu trợ bà. Ngày đêm bà đang lo nạn binh đao với người ngoại quốc, lại có những tin tức khủng khiếp, cấp báo: Dân chúng xao xuyến đang nổi lên chống đối, nạn hồng thủy gia tăng, nhiều làng không còn gì ăn, chết đói như rạ, mùa màng thất thu, không thể gieo mạ được. Dân đói quá, đi cướp phá các nhà giàu và các nhà tu sĩ ngoại quốc, ở đó lúc nào cũng sẵn có tiền bạc, lương thực.

Bọn thầy tu ngoại quốc bị giết, bị cướp chỉ có một số nhỏ so với ngàn hàng, hàng vạn nạn nhân người Trung Hoa bị nạn cướp bóc, tuy vậy chính phủ của họ sẽ phái quân đội, tàu chiến đến nếu trật tự không được vãn hồi. Nhìn ra bốn bể năm châu, không một nước nào, một người nào để thái hậu có hy vọng đến cứu trợ. Nhung Lữ nằm liệt trên giường bệnh. Tướng Viên Thế Khải đã tự kiểm chứng bọn quyền phỉ, không tin lời tuyên bố huênh hoang súng, đạn, gươm, giáo không làm gì được chúng, không chạm đến người chúng. Ông xin thái hậu đừng cả tin vào bọn bịp bợm, khoác lác. Ông không giúp được gì, cũng không bàn bạc được điều gì ích lợi để vãn hồi trật tự.

Trong lúc đó, thân vương Tuấn đến quấy rầy bà, hắn khoe khoang có thể đẩy hết bọn người ngoại quốc ra biển nếu bà cho phép... Bà khất lần này sang lần khác, mong tình thế được sáng sủa, thanh bình trở lại. Thân vương Tuấn tự ý tán trợ quân quyền phỉ, vô cớ tấn công vào các lãnh sự quán. Viên tổng đốc Nam Kinh, bây giờ đã già nhưng rất trung thành với triều đình, gởi sở về, xin bà thái hậu cấm chỉ những việc khiêu khích, tấn công người ngoại quốc, khẩn cầu bà cho bảo vệ kiều dân ngoại quốc.

Bà thái hậu trả lời, gởi theo lối tống đạt đặc biệt công văn:

"Không phải do trẫm trong lòng thích thú khởi hấn. Khanh thông báo cho các lãnh sự quán ngoại quốc, trẫm muốn giao hảo với các chính phủ của họ, trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết. Trẫm muốn đề nghị cùng các nước soạn thảo một quy chế, vì lợi ích chung, một giải pháp sống chung trong hòa bình."

Bà cho soạn thảo một tờ công hàm gửi đi khắp các nước:

...Vì nhiều trường hợp ngẫu nhiên, dồn dập xảy tới rất bất lợi đã phát sinh ra sự mất trật tự, chúng tôi không biết giải thích thế nào đã xảy ra cuộc đao binh Trung Hoa với liệt cường Tây phương. Các đại biểu của chúng tôi ở hải ngoại, cách xa hàng vạn dặm không am hiểu trạng huống thực sự ở nước nhà và giải bày những cảm tình chân thật của chúng tôi.

Bà giải thích những trạng huống về chiến sự hiện tại, sự nổi dậy của quân giặc người Hán, bọn hạ lưu, ti tiện du đãng, lúc nào cũng sẵn sàng gây sự lộn xộn, bất ổn trong dân chúng. Triều đình đã can thiệp, ra chỉ thị cho các địa phương đề phòng, nếu không các tu sĩ ngoại quốc sẽ bị giết trên khắp lãnh thổ. Vì thế đã xảy ra chuyện một viên lãnh sự Đức bị giết và các chiến sĩ ngoại quốc muốn xâm chiếm các đồn lũy ở Thiên Tân. Viên quan chỉ huy người Hán không thể nào chấp thuận được. Người ngoại quốc đã oanh tạc các đồn ải đó.

Bà kết luận:

Xét như vậy, chúng tôi không chịu trách nhiệm về cuộc chiến này. Trung Hoa tự biết mình còn yếu kém, muốn được sống yên ổn, không có tham vọng. Gây chiến với toàn thể thế giới là một chuyện phi lý, điên rồ. Với bản công hàm này, chúng tôi trình bày trung thực những biện pháp để áp dụng do tình thế tạo nên. Những đại diện của chúng tôi ở ngoại quốc sẽ giải thích rõ ràng bản công hàm này. Chúng tôi đã ra chỉ thị cho các cơ quan binh vụ phải bảo hộ các sứ quán, chúng tôi sẽ cố vãn hồi trật tự cho cuộc sinh hoạt trở lại bình thường. Các tổng bộ trưởng, tất cả các cơ quan phải tăng năng lực để đạt tới mục tiêu đó. Không ai có thể hờ hững, khách quan trong lúc quốc gia đang gặp biến cố.

Bức công hàm đó bà thấy chưa đủ. Bà gửi cho các vua chúa liệt cường những bức điện văn do chính tay bà soạn thảo. Trong bức điện văn gửi cho Nga hoàng, bà viết:

Suốt trong hai thế kỷ rưỡi nay, hai nước chúng ta sống trong tình bằng hữu, giao hảo. Vì, gần đấy, có sự bất đồng ý kiến của một nhóm người theo đạo Gia Tô và các đạo cổ truyền khác, bọn vô lại đã lợi dụng để gây rối cuộc trị an. Liệt cường ngoại quốc đã tưởng nhầm triều đình chúng tôi chủ trương bài xích đạo Gia Tô giáo.

Dưới bức điện văn, bà viết mấy dòng này:

Bây giờ, Trung Quốc đã gây nên, ngoài ý muốn của mình, mối bất hòa với liệt cường Tây phương. Chúng tôi kính nhờ quý quốc can thiệp để vãn hồi hòa bình, chấm dứt các sự bất đồng ý kiến với Tây phương. Tôi trân trọng kêu gọi hoàng thượng đứng ra làm trọng tài, cứu giúp chúng tôi. Chúng tôi mong đợi quý quốc phúc đáp.

Bà thái hậu viết cho nữ hoàng Anh Cát Lợi, trong bức điện văn lời lẽ rất thân mật, như viết cho một người chị. Bà nhấn mạnh việc thương mại của Trung Hoa phần lớn với Anh Cát Lợi. Bà nói:

Chúng tôi xin nự hoàng xét, nếu chẳng may chúng tôi mất quyền tự chủ, quyền lợi quý quốc sẽ bị thiệt hại, không phải là nhỏ. Chúng tôi cố gắng thành lập một đạo quân đế tự vệ. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc đứng làm trung gian, giàn xếp việc xích mích, để đem lại thanh bình trên đất nước chúng tôi. Chúng tôi mong được biết tôn ý.

Bà gởi một lá thơ cho Nhật hoàng, lá thơ mang chữ ký của bà và phế đế. Bức thơ gởi cho sứ thần Trung Hoa ở Đông Kinh, chuyển đệ lên Nhật hoàng.

Kính chào hoàng thượng, Trung Hoa và Nhật Bản gắn liền như hai ngón tay của bàn tay. Âu Châu và Á Châu kết liên trong trận chiến, hai quốc gia Á Châu chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ. Các nước Tây phương như một đàn mãnh thú đói, muốn đi xâm chiếm đất đai. Họ không tha thứ, sẽ dòm ngó đến lãnh thổ quý quốc. Trước nguy cơ thiệt hại, hai nước chúng ta sẽ quên những xích mích cũ, kết liên làm huynh đệ chỉ bang. Chúng tôi trân trọng yêu cầu quý quốc làm trọng tài với bọn quân thù đang vây hãm chúng tôi.

Bà thái hậu gởi giác thư, điện văn đi các nước để cầu cứu, nhưng bà không được một nước nào trả lời. Ngày đêm bà mong có thơ phúc đáp, lời kêu gọi của bà được hưởng ứng. Ngày đêm thân vương Tuấn đến thúc giục, quấy rầy bà.

- Tâu thái hậu, bạn hay thù, thiện cảm hay ác cảm với triều đình, toàn thể các quan lại, lớn, nhỏ, cả đến quân giặc người Hán, đều căm thù, bất cộng đới thiên với bọn Gia Tô giáo bọn ngoại nhân, họ đến nước ta để buôn bán hay để huyễn hoặc dân chúng, truyền bá đạo của họ, đối nghịch với ý chí của chúng ta.

Bà thái hậu bị hoàn toàn cô đơn, cô lập, thể chất cũng như tinh thần, không có tiếng nói của một người nào, một nước nào đáp lại lời bà, thần phật thì trơ trơ trích trích. Ngày ấy sang ngày khác, suốt ngày, bà thái hậu ở trong Long điện.

Các quan, các thân vương đứng im trong khi thân vương Tuấn nói. Xung quanh bà, hoàn toàn phẳng lặng, yên tĩnh. Nhung Lữ vẫn nằm liệt trên giường bệnh. Hè đến, ngày này qua ngày khác, trời nắng chang chang đã lâu không có mưa. Nền trời trong xanh không một cụm cây, một vẩn đục. Dân tình nhốn nháo, ta thán, dân đói quá, trộm cướp nổi lên như ong. Sau trận hồng thủy năm ngoái, tiếp đến năm nay hạn hán, tiêu khô. Dân chúng lầm than, thời buổi nhiễu nhương, thiên đình phẫn nộ, ra tai. Bà thái hậu bề ngoài rất bình tĩnh, thực ra trong lòng rối như tơ vò, bà không còn chút hy vọng nào. Trong kinh thành, giặc cướp nhan nhản, quân quyền phỉ đầy đường. Những người tử tế có chút máu mặt đóng chặt cửa ở trong nhà. Các sứ quán đề phòng, sợ bị đánh úp bất ngờ, các cửa đóng hết, quân lính đặt trong tình trạng báo động.

Ngày 20 tháng 5, bà thái hậu biết chờ đợi cũng vô ích không sao có thể ngăn cản được sự phá hoại, tiêu hủy. Mới sáng kinh thành đã đỏ rực lửa. Hàng trăm cửa tiệm bị tiêu hủy do quân giặc và quân quyền phỉ châm lửa đốt. Những người buôn bán giàu có, mạnh ai người ấy chạy toán loạn ra khỏi thành phố. Họ bồng bế, đem theo vợ con chạy loạn. Bọn quyền phỉ, giặc cướp tạo nên hỗn loạn, không phải họ nhắm vào người ngoại quốc mà thực ra để thúc giục triều đình và nhất là bà thái hậu phải có thái độ dứt khoát. Ngày hôm đó, bà nhận một lúc hai tờ phúc trình của hai viên thượng thư Viên và Hứa, hai viên chức này làm ở bộ ngoại giao. Hai người này quả quyết, chính mắt họ nom thấy, lính ngoại quốc bắn chết quân quyền phỉ, xác hãy còn trên đường phố, trước lãnh sứ quán. Bọn quyền quý bắt buộc phải tự vệ. Phế đế có hỏi viên thượng thư Hứa, nếu thảng hoặc quân đội ngoại quốc tấn công, mình liệu có đủ sức đề kháng hay không? Câu trả lời, mình làm sao có thể chống cự nổi, làm vua ứa hai hàng nước mắt. Viên thượng thư Viên tuyên bố khi ông nghe thấy có cuộc tấn công vào lãnh sứ quán, là một thất bại lớn, mình đã vi phạm nặng nề về quốc tế công.

Bà thái hậu do dự, không quyết định hành động. Ba oán trời, trách đất, biết trông cậy vào đâu?

Lời lẽ các tờ phúc trình cò vẻ hỗn xược, như quy trách nhiệm vào bà thái hậu, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu bà. Ngày lại ngày, trong các sứ quán, người ngoại quốc sống như bị cô lập, vây hãm. Bà thái hậu được tin báo những người trong sứ quán không tiếp xúc với bên ngoài, nên bị đói khát. Bà lo lắng cho số phận họ, nên truyền đem thức ăn và mấy thùng nước tốt để uống. Họ từ chối không nhận vì sợ nước có thuốc độc.

Ngày rắm tháng sáu âm lịch, tình thế đến hồi quyết liệt, gay cấn nhất. Có hàng trăm giáo dân người Hán bị quân quyền phỉ sát ở trước cửa nhà một thân vương.

Khi bà thái hậu được tin bọn người vô tội bị sát hại, bà vô cùng xúc động, hai tay đưa lên bên tai, người run rẩy. Nếu người đi theo đạo Gia Tô chịu từ bỏ đạo, bà không bị bắt buộc phải lao mình vào chiến tranh tàn khốc này, nhưng bọn này ngoan đạo không chịu từ bỏ.

Bà còn nhậncđược những tin cấp báo ở Thiên Tân gởi về tình thế vô cùng cấp bách nguy ngập, quân đội ngoại quốc đã chiếm thành phố Thiên Tân, tiến quân về kinh thành để phá vỡ vòng vây của người Hán quanh các lãnh sứ quán. Quân đội hoàng gia thua liểng xiểng, cuốn cờ chạy toán loạn. Bà thái hậu biết làm sao bây giờ, chỉ còn mong đợi thời cơ, lễ bái, cầu thần lực.

Ngày mùng 10 tháng 7, sự kêu cầu lễ bái hàng ngày của bà đã cảm ứng thấu đến cửu trùng, Nhung Lữ thoát khỏi cơn bạo bệnh. Bà ra chùa làm lễ tạ và cho người đem đến cho Nhung Lữ những giỏ món ăn ngoại quốc rất bổ dưỡng để chóng được bình phục. Bốn hôm sau, Nhung Lữ nằm trên cáng cho người khênh đến trình diện bà thái hậu.

Nom thấy Nhung Lữ người ốm yếu, xanh xao, bà cho phép cứ nằm yên trên võng, không phải dậy. Bà ở trên ngai bước xuống, bắc một chiếc ghế, ngồi bên cạnh. Bà hỏi, tiếng nói nhỏ nhẹ, hịu dàng:

- Trong khi anh nằm đờ trên giường, hồn anh phảng phất nơi đâu?

- Hồn tôi bay bổng, phảng phất nơi đâu? Tôi quên hết không còn nhớ lại được. Tôi không hiểu nhờ vào uy linh nào tôi còn trở lại dương thế, chắc hẳn nhờ bà thành tâm kêu cầu cho tôi được qua cầu thoát nạn.

- Đúng vậy, tôi chí thiết chí thành, kêu cầu lễ bái cho anh được tai qua nạn khỏi. Anh có biết không chiến tranh hiện giờ đang hồi quyết liệt, Thiên Tân thất thủ, quân thù tiến tới gần kinh thành.

- Tôi biết tất cả. Lúc này phải tranh thủ thời gian, sớm ngày nào, bớt nguy nan ngày đó. Việc trước tiên phải bắt giữ thân vương Tuấn lại, bọn người ngoại quốc quy trách nhiệm cho hắn, hắn đã cổ võ, xúi giục bọn quyền phỉ làm càn. Chém đầu hắn cho người ngoại quốc nom thấy và minh oan cho thái hậu lúc nào cũng chủ trương thái bình, giao hảo.

Bà thái hậu bị chạm vào lòng tự ái, bà kêu lên:

- Anh nói sao? Đầu hàng quân thù? Chặt đầu thân vương Tuấn, cái đó không nói làm gì, nhưng đầu hàng? Không, không thể được, tôi không sao chịu như thế. Tất cả những gì suốt cả một đời tôi xây đắp, nay thành tro bụi.

Nhung Lữ rên giọng nói rất yếu ớt:

- Bà thật ương ngạnh, cổ hủ, không theo trào lưu, tôi không biết đến bao giờ bà mới chịu từ bỏ sự đi ngược trào lưu tiến hóa.

Hắn ra hiệu cho bọn phu khênh hắn đi. Bà thái hậu nhìn hắn, ruột như thắt lại, để cho hắn đi không giữ lại.

Bà thái hậu hãy còn cố tin tưởng vào yêu lực của bọn quyền phỉ. Một nửa kinh thành đã bị ngọn lửa thiêu rụi, quân đội ngoại quốc nhất định không chịu đầu hàng. Họ chờ quân cứu viện đến.

Ngày hôm thứ ba, năm lần liền, bà cho triệu tập các quan văn võ, thân vương...tụ họp ở cung Diên Thọ. Mặc dù người còn yếu, Nhung Lữ cũng cố gắng đến dự, ngồi ở hàng ghế các viên ngự sử. Nhung Lữ vẫn giữ vững lập trường, những lời khuyến nghị, trước sau như một, bà thái hậu không chịu nghe theo. Các quan và thân vương câm như hến, mặt người nào cũng xanh xao, hốc hác, vừa lo, vừa sợ, vừa mệt mỏi.

Trong khi mọi người ngậm miệng, im lặng, thân vương Ưng bô bô khoe khoang những bùa phép, thần chú của bọn quyền phỉ thật vô cùng lợi hại, thần sầu, quỷ khốc. Quân giặc (ngoại quốc) không sao qua được hào, một số đông bị chết đuối.

Nhung Lữ nghe trái tai quá, tuy người còn mệt, ông kêu lên:

Quân quyền phỉ là một nắm lông trước gió, đã là một nắm lông trước gió, quân giặc đến như một trận cuồng phong, nắm lông bay hết không còn một sợi.

Lời tiên tri đó đã thành một sự thật hiển nhiên. Vào giờ thân (3 giờ trưa), ngày hôm mùng 5, quận Lan hớt hải, chạy vào thư viện, bà thái hậu ngồi đọc sách ở đó, hắn kêu thét lên, bất chấp lễ nghi:

Lão phật! Lão phật. Chúng vào đến đây rồi. Bọn quỷ sứ Gia Tô phá cổng tỉnh, giặc kéo vào như thác lũ.

Bà ngửng đầu lên, trái tim ngừng đập.

- Như thế, người anh họ ta nói đúng.

Bà gấp sách đứng dậy. Bà đứng yên suy nghĩ, lấy ngón tay cái và ngón tay chỉ cầm chiếc môi trên.

- Quận Lan kêu lên:

- Thái hậu phải đi ẩn. Thái hậu và thiên tử tạm lánh lên mạn Bắc.

Bà đang suy nghĩ, lắc đầu. Quận Lan vội vàng đi tìm Nhung Lữ đến. Hắn đến gần bà, tay chống gậy, đi chưa được vững, nhưng với lòng nhiệt thành muốn phục vụ bà. Bà ngồi xuống, hai bàn tay nắm lại, nhìn hắn với hai con mắt để lộ trong lòng vô cùng bối rối, lo sợ.

Nhung Lữ đến gần bà, tiếng nói mệt nhọc, yếu ớt:

- Bà phải nghe tôi. Bà không thể ở đây được, bà tượng trưng cho triều đình, bà ở đâu, trung tâm quốc gia ở đó. Đêm nay vào giờ dần, trăng chưa lên, trời không sao. Bà phải lánh đi.

- Lại đị.. Lại phải đi nữạ..

- Việc như thế phải như thế, biết làm sao. Bà đã biết đường vất vả lại còn có người nọ người kia, không phải đi một mình.

- Có anh không?

- Không, tôi không đi. Tôi phải ở lại để tập trung tàn lực. Rồi bà sẽ về, cũng như lần trước bà đã trở về. Tôi phải ở lại để bảo vệ ngôi báu.

- Anh không có quân đội trong tay, bảo vệ bằng cách nào?

Bà gục đầu xuống. Nhung Lữ nhìn thấy những giọt nước mắt trên hàng lông mi rậm.

Nhung Lữ cố trấn tĩnh bà:

- Cái gì tôi không thể đạt được bằng sức mạnh, tôi dùng mưu trí. Tôi xin hứa bảo toàn ngôi báu cho bà:

Bà ngửng đầu lên, người ta nhìn thấy trên gương mặt bà sự nhượng bộ. Không phải bà nghe Nhung Lữ rồi nhượng bộ. Nghĩ mà thấy thương, và cũng vì tình cũ nghĩa xưa, Nhung Lữ nắm bàn tay bà một lúc. Nhung Lữ đi lùi ra xa một bước, trở lại vị trí theo đúng lễ nghi quân thần.

Tâu thái hậu, thời giờ cấp bách, không nên trì hoãn. Hạ thần phải lo việc hóa trang thái hậu và chọn người thay thế hạ thần đi hộ giá. Thái hậu phải xoa vào da một chất làm cho da thành màu nâu xậm, đầu đội chiếc nón như một nông dân. Bà lén rời khỏi hoàng cung, chỉ có hai thể nữ tháp tùng, đi đông quá có sự ồn ào rất bất tiện. Hoàng thượng hóa trang làm một nông phu. Các thứ phi ở lại hết.

Bà ngồi nghe Nhung Lữ dặn dò. Khi Nhung Lữ đi khỏi, bà như bói sách, mắt bà để vào một dòng chữ của Khổnf tử, cách đây hàng bao nhiêu thế kỷ:

"Đại sự thất bại chỉ vì trí lự hẹp hòi, sự hiểu biết kém cỏi."

Mấy lời trong sách, tình cờ bà nhìn thấy, làm bà mê hoặc, có ảo giác như có người nói lớn trong gian phòng. Tiếng nói từ ngàn xưa như đập mạnh trong tâm hồn, bà cảm thấy tự thẹn với chính mình.

Trí bà không quảng bác, bà không hiểu thời cơ, đại sự của bà bị phá hỏng... Đại sự là cứu nguy tổ quốc. Quân thù đã thắng, bà bị đại bại. Bà từ từ gấp sách lại và tự hiểu mình đã thất bại. Từ nay bà không đi ngược lại trào lưu tiến hóa, bà phải để trào lưu đưa bà đi.

Trong lòng bà nghĩ thấy cay đắng, đã thất bại, nhưng không bao giờ để lộ trên gương mặt nên mọi người khen bà lúc nào cũng có vẻ ung dung, bệ vệ, bình tĩnh. Bà ra lệnh cho các thể nữ, thái giám đem cất chỗ nào kín đáo, cẩn thận các sách vở của bà, những tranh ảnh, những tấm họa thủy mặc các đồ trang trí lặt vặt. Trong một gian phòng, bà bí mật sai Lý Liên Anh khoét tường cất ở trong các nén vàng, rồi lấy vôi cát, trát lại như cũ. Khi công việc sửa soạn đã xong, tuy vội vàng nhưng rất bình tĩnh, đến giờ dần, bà cho gọi các phế đế cung phi, bà giảng cho họ biết tại sao bà không cho tất cả họ đi theo bà trong cuộc lưu vong:

- Hoàng đế và ta phải bảo toàn tính mệnh, không phải vì cá nhân ta hay hoàng thượng, nhưng để bảo trì ngôi báu được liên tục. Ta đem theo ngọc tỷ, ta ở đâu là quốc gia ở đó. Các ngươi ở lại đây, không có gì phải sợ, vì quân cơ Nhung Lữ đã được bình phục một cách linh diệu vừa đúng lúc quốc gia nguy biến. Ông sẽ tập họp quân đội, đặt dưới quyền thống lĩnh của ông. Ta không tin quân thù đột nhập vào trong nội thành. Các ngươi ở lại, tiếp tục công việc hàng ngày như ta vẫn ở đây. Các thái giám ở lại để phục vụ các ngươi, chỉ có Lý Liên Anh đi theo ta hộ giá.

Các cung phi sụt sịt khóc, lấy ống tay áo chùi nước mắt, không ai nói một câu nào. Đột nhiên người cung phi Ngọc, bọn thái giám thả ra, tiến lại gần. Người này xanh xao héo hon, quần áo rách rưới nhưng vẫn cứng đầu. Hai con mắt như hai viên long não lóng lánh dưới đôi mày lá liễu. Nàng kêu lên:

- Tâu thái hậu, con không ở lại. Con xin phép thái hậu cho con được đi theo hầu hạ lang quân con.

Bà thái hậu nhỏm người lên như con phượng hoàng. Bà mắng, hai ngón tay xỉa vào mặt nàng.

- Mày còn dám nói à? Chính mày phải chịu trách nhiệm về sự nguy biến này. Chồng mày làm bao nhiêu điều không phải, mày không biết mở mồm can ngăn.

Bà lên cơn phẫn nộ, quay lại bảo Lý Liên Anh:

- Xách cổ con này đi, ném nó xuống giếng ở cửa Đông.

Phế đế quỳ xuống, định kêu nài, nhưng bà không cho nói. Trong lúc bình thường, bà rất mềm mỏng, kiều diễm, nhưng trong lúc nguy kịch bà vô cùng độc dữ.

Bà kêu lên, ngón tay chỉ thẳng xuống đầu phế đế quỳ dưới chân.

- Cấm nói, nó là con quỷ. Ta đã nuôi con rắn trong tay áo.

Bà nhìn Lý Liên Anh lấy tay ra hiệu. Tức thời hai thái giám đến nắm lấy người cung phi, đem đi, nàng không kêu một tiếng, người xanh và ngay đờ như một xác chết.

Bà ra lệnh bảoo phế đế:

- Lên xe, kéo rèm xuống khỏi ai nom thấy. Thân vương phúc Lan ngồi trên càng xe. Xe ta đi trước, Lý Liên Anh cưỡi la. Nó đi con ngựa dở lắm, cưỡi la phải cố theo xe cho kịp. Đi đường lở có ai hỏi gì, nói chúng tôi là nông dân nghèo, chạy trốn lên núi. Chúng ta đi ngang qua cung Viên Minh.

Bà dặn dò xong, xe bắt đầu chuyển bánh. Bà thái hậu ngồi trên mấy chiếc đệm, người ngay đờ như pho tượng, nét mặt thản nhiên, để tai nghe ngóng, dáng điệu quyết liệt. Xe đi ngang qua cung Viên Minh, bà kêu:

- Ngừng lại, ta vào đây nghỉ một lát.

Bà xuống xe, cấm mọi người không được xuống, phải ngồi yên trên xe, trừ có Lý Liên Anh được đi theo ba vào. Lần đầu tiên bà bước lên hành lang bằng đá cẩm thạch, cung điện lặng ngắt không một bóng người. Bà để lại đây tâm hồn bà. Bao lâu bà mong ước đến đây dưỡng lão, thảnh thơi, tịch mịch, trong một khung cảnh tuyệt đẹp. Có thể không bao giờ bà được nhìn lại những ngôi chùa xinh xinh, cung điện bà ưa thích nếu quân thù lại phá hủy một lần nữa như cách đây mấy năm... Ngày xưa, bà đã trở lại nơi này, bà cho tái tạo diễm lệ, huy hoàng hơn xưạ.. Nhưng hồi đó bà còn trẻ.

- Bà nhìn lại cung điện một lần nữa, rồi quay đi.

Trong bộ áo cục mịch, thô sơ bằng vải bông xanh, bà vẫn mảnh mai, yểu điệu, thướt tha. Bà bước lên xe, ra lệnh:

- Đi về phương Tây. Qua thị trấn Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây.

Cuộc hành trình kéo dài 90 ngày. Đi đường tuy vất vả, nhọc mệt, nhưng lúc nào nét mặt bà cũng rất thản nhiên. Bà không quên, tuy là trên bước đường bôn tẩu, triều đình vẫn ngưỡng trông bà như ánh sáng vừng thái dương.

Khi xe đi ngang qua một tỉnh lân cận, bà cởi bỏ hóa trang, nghỉ ngơi, tắm táp, rồi ăn mặc triều phục. Bà thấy trong lòng phấn khởi. Trong tỉnh Thiểm Tây, dân chúng sống trong thái bình, không có chiến tranh, nhưng đang bị nạn đói khủng khiếp hoành hành. Khi đã đặt chân lên tỉnh đó, viên tướng tống trấn sở tại đem quân bản bộ ra nghênh đón. Ông đem dâng bà một ổ trứng, một chiếc đai có gắn ngọc quý, một chiếc túi gấm để ống điếu và thuốc hút. Cử chỉ của viên tướng làm bà phấn khởi, mừng thầm. Bà đã đắc nhân tâm. Thực tế, trong khi ở đây đang có nạn đói, nhưng hàng ngày người ta vẫn đem dâng bà những sọt lúa mì kê, hay những con gà, vịt ốm nhom. Như được sưởi ấm bởi lòng dân mến phục, bà thấy phấn khởi, thưởng thức phong cảnh trong lúc bôn tẩu.

Đi qua một ngọn đèo được mệnh danh là đèo Nga Phi, bà cho xe dừng lại để thưởng ngoạn phong cảnh.

Trùng trùng điệp điệp những ngọn núi trọc in bóng trên nền trời đỏ sẫm, rủ bóng đen xuống các thung lũng. Viên tướng sở tại đi hộ giá, hái một ôm hoa vàng trên cánh đồng cỏ. Hai tay ôm một bó hoa lớn đem dâng bà thái hậu, nói các sơn thần, thổ địa ở đây đã rắc hoa suốt dọc đường để nghênh giá.

Bà thái hậu nghe nói rất đẹp lòng, cảm kích về lời tán dương ý nhị, bà truyền thái giám dọn tiệc rượu mời viên tướng đó để tẩy trần. Những chuyện nhỏ nhặt đó cũng làm mát dạ, hả lòng. Tuy ăn uống giản dị, sơ sài, bà ăn ngủ vẫn được điều hòa.
PC
#31 Posted : Friday, November 12, 2004 7:40:19 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 08, 2004 6:13 am

Ngày mùng tám tháng chín, bà đến thủ phủ miền Bắc. Viên tổng đốc Vũ Hiến ở đó ra nghênh giá với tất cả nghi lễ triều đường. Ông quan này tin tưởng vào yêu thuật của bọn quyền phỉ, ông đã sai giết hết người ngoại quốc, đàn ông, đàn bà, con nít. Bà thái hậu nhận những phẩm vật triều cống khi bà đến cổng tỉnh. Bà tỏ lời khen ngợi ông quan này đã có công tẩy uế hết quân thù trong địa hạt ông cai trị.

- Tuy nhiên, chúng ta thất trận, rất có thể quân thù ngoại quốc yêu sách phải đem khanh ra trừng phạt. Trẫm vẫn biết khanh là một trung thần, trẫm sẽ vờ chấp nhận lời đề nghị của họ, trẫm sẽ bí mật ân thưởng cho khanh. Phải cầu ước sau này mình sẽ thắng mặc dù hiện nay mình đang bị bại trận.

Vũ Hiến sụp xuống đất làm lễ cửu bái:

- Muôn tâu hoàng thượng, nếu cần hạ thần vui lòng hoàng thượng bãi truất hay khổ hình.

Bà chỉ ngón tay vào viên quan quỳ trước mặt, dọa:

- Dù sao, khanh đã có lỗi, sao dám xác nhận với trẫm, quân quyền phỉ có phép siêu nhiên, gươm, giáo, súng, đạn, không chạm được tới người họ? Có biết không, chúng chết như giạ. Đạn bắn vào người họ như bắn vào sáp ong.

- Muôn tâu hoàng thượng, yêu thuật của họ không linh ứng vì họ làm càn không theo quy tắc. Họ đi cướp của, bắn những người vô tội theo đạo Gia Tô. Muôn tâu hoàng thượng những người chân chính, yêu thuật của họ rất linh nghiệm.

Bà gật đầu, nhận lời xét đoán đúng, bà đi thẳng vào trong dinh viên tổng đổng đã được sửa soạn sẵn để cung nghinh. Bà thấy bày trên bàn tiệc chiếc đĩa bằng vàng, bạc, những thứ này khi nào có tân khách mới đem ra dùng.

Chưa năm nào, mùa thu lại đẹp trời như năm đó. Ngày này sang ngày khác, trời nắng ấm, vạn vật tốt tươi. Năm đó được mùa, phong đăng hòa cốc, sau vụ gặt lúa đầy nhà, về nhiên liệu cũng đầy đủ, rơm rạ đầy đồng.

Trận chiến tiếp diễn ở tận đâu đâu, người dân vùng đó không biết gì về chiến tranh, sống trong cảnh thanh bình, no ấm. Họ tâm thành, lũ lượt đến chào mừng người mà họ tôn xưng là Lão Phật.

Tâm trí sảng khoái, chứa chan hy vọng, vững lòng về ngày mai xán lạn, bà thái hậu trở lại nếp sống phong độ như xưa, nhất là các hàng triều thần, thân vương đi hộ giá. Triều đình lại được thiết lập quanh bà.

Vừng trăng đang sáng vằng vặc giữa trời bị đám mây che phủ, tối sầm lại, cũng như sự sung sướng của bà đột nhiên tan biến về tờ phúc trình của Nhung Lữ. Nhung Lữ, trong tờ phúc trình, báo cáo hoàn toàn thất bại, sự nghiệp tiêu tan, người thuộc hạ trung thành nhất, Tùng Chi, vì tuyệt vọng đã thắt cổ nguyên sinh. Bà thái hậu phúc chỉ, ngỏ lời ngợi khen Tùng Chi, một dạ trung thành đã tự sát vì đại nghĩa; bà cho ra lệnh Nhung Lữ đến trình diện. Nàng thất Mai, vợ Nhung Lữ đi theo chồng, đã chết ở dọc đường. Để khích lệ, an ủi người anh họ, bà định cho hắn được thấy nhiều thắng cảnh, triều chính đã hồi sinh tại đây.

Khi Nhung Lữ đến, bà cho phép hắn nghỉ ngơi một giờ trước khi vào bệ kiến.

Bà tiếp Nhung Lữ trong một cung nhỏ cũ kỹ và cấm không được ai dự thính.

Cánh cửa mở, Nhung Lữ bước vào, người gầy gòm, mệt nhọc vì mới khỏi bệnh lại đi đường vất vả. Nhung Lữ rất cẩn thận, dùng một giờ nghỉ ngơi, tắm rửa, thay quần áo.

Theo thông lệ, Nhung Lữ sắp quỳ làm lễ chào, bà thái hậu giơ cao bàn tay mặt lên, cản lại. Hắn đứng yên, Bà ở trên ngai bước xuống. Hai người nhìn nhau một lúc, nét mặt đều có vẻ buồn. Bà khẽ nói:

- Tôi rất buồn khi nhận được tin vợ anh mất.

Nhung Lữ khẽ nghiêng mình, thưa:

- Tâu thái hậu tôi nghĩ rất thương tiếc một người rất tốt đã hết lòng vì nhà vì nước.

Hai người đứng yên, người nào cũng có ý chờ để người kia nói trước, nhưng biết nói gí bây giờ? Một lúc sau, bà thái hậu nói:

- Để tôi kiếm cho anh một người vợ khác.

-Việc đó tùy ý bà.

Anh có vẻ mỏi mệt, cho anh miễn tất cả các nghi lễ. Chúng ta đàm luận tự nhiên. Tôi cần sự lịch duyệt, khôn ngoan của anh trong lúc này.

Bà xuống các bực ở bệ ngai, đi ngang qua gian phòng, dáng điệu kiều diễm, thướt tha, bệ vệ, uy nghi. Hai người ngồi đối diện trên hai chiếc ghế, ngăn bởi một chiếc bàn nhỏ. Bà cầm chiếc quạt bằng lụa, trên quạt bà vẽ phong cảnh ở tỉnh đó. Bà nhìn hai bàn tay Nhung Lữ gân guốc đặt trên hai đầu gối, một lúc sau bà hỏi:

- Thế nào? Mất hết hả?

- Tâu thái hậu, mất hết.

- Anh có điều gì khuyến dụ tôi không?

- Tâu thái hậu, bây giờ chỉ còn một con đường duy nhất. Thái hậu hồi loan, nhượng bộ những yêu sách của quân thù để bảo toàn ngôi báu. Lý Hồng Chương còn ở đó để điều đình. Trước khi hồi loan, thái hậu ra lệnh cho đem thân vương Tuấn ra xử trảm để tỏ cho quân thù biết thái hậu đã hối hận, phục thiện.

Bà gập mạnh chiếc quạt nói:

- Không khi nào.

- Nếu thái hậu từ chối, thái hậu không thể nào hồi loan được. Bọn người ngoại quốc quy trách nhiệm vào thân vương Tuấn. Họ dám phá nát hoàng thành, không để cho thái hậu trở lại.

Trong huyết quản của thái hậu, máu đông lại, chiếc quạt bà đang cầm rơi xuống đất. Bà nghĩ đến bao nhiêu của cải quý giá, kho tàng chôn giấu trong hoàng thành, công lao của tiền nhân gây dựng nên nghiệp lớn. Liệu bà có chịu chấp thuận trở về hay bỏ mặc mất hết, cơ nghiệp tan ra mây khói.

Bà lẩm bẩm khẽ nói:

- Tính anh nóng nẩy, thô bạo.

Bà đưa ngón tay út chỉ chiếc quạt rớt xuống đất, hắn cúi xuống nhặt lên, đặt chiếc quạt lên mặt bàn. Bà hiểu hắn không e ngại bà đã chạm vào tay hắn.

Nhung Lữ kiên nhẫn nói tiếp:

- Quân ngoại quốc đuổi theo ta đến tận đây nếu bà nhất định cương quyết, không chịu điều đình cho ổn thỏa.

- Ta có thể tiếp tục đi nữa về phía Tây. Chỗ nào ta dừng chân lại là kinh đô hoàng triều ở đó. Các vị tiên đế ngày xưa cũng làm thế, ta noi gương người trước.

- Cái đó tùy ý thái hậu. Cả thế giới đều biết nếu thái hậu không trở về là thái hậu đi trốn.

Bà nhất định không chịu nghe theo, đứng dậy, khuyên Nhung Lữ nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.

Bà nhất định không nhượng bộ. Ngày hôm sau, bà ra lệnh cho đình thần sửa soạn sẵn sàng để tiếp tục hành trình. Bà định đóng đô ở Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Bà lấy cớ ở đó đang có nạn đói, sự thực, nạn đói nay đã hết. Mọi người phụng chỉ, không ai có ý kiến gì khác. Theo lệnh bà, Nhung Lữ đi ngựa, hộ giá. Nhung Lữ không nhắc nhở chuyện trở lại Bắc Kinh. Đi đường bà chỉ nói phong cảnh rất đẹp, Nhung Lữ trả lời, đọc mấy vần thơ cổ. Tuy đọc thơ nhưng trong lòng thấy chán ngán, thất vọng, một ngày nào đó phải trở lại hoàng thành. Bà rất kín đáo, không để lộ tâm tư trên nét mặt, vẫn cứ hướng Tây tiến thẳng. Càng đi, mỗi ngày ngai rồng càng thêm xa hơn.

Đến Tây An (thủ phủ tỉnh Thiểm Tây), bà thiết lập triều đình ở dinh viên tổng đốc. Dinh đã được sửa sang, quét dọn.

Đến ở đây, bà theo chính sách tiết kiệm, ăn uống giản dị tầm thường, không xa hoa. Người ta làm hàng trăm món ăn, những món đặc biệt ở miền Nam, nấu nướng rất cầu kỳ, bà chỉ dùng có sáu món. Bà chỉ cho nuôi sáu con bò cái để lấy sữa dùng hàng ngày. Tuy đi đường vất vả, xa xôi, bà vẫn mạnh khỏe, nhưng mất ngủ. Vì thế, đêm nào cũng có một thái giám đấm bóp cho bà ngủ.

Kinh đô được tạm lập trong lúc bôn tẩu, bà cho thiết triều hàng ngày, nhận được công văn phúc bẩm những tin tức ở kinh thành xa xăm.

Bà chịu đựng cảnh huống đó cho đến ngày bà nhận được tin cung điện Viên Minh bị quân đội ngoại quốc xâm phạm làm ô uế. Linh tráng ngoại quốc ăn uống bừa bãi trong cung điện. Họ ném chiếc ngai xuống đất, cướp phá tủ quần áo, xiêm y của bà, những bức họa của bà, trên tường phòng tủ của bà, họ vẽ bậy bạ, tục tĩu. Bà nhận được những tin đó, phát đau, nghĩ kinh tởm quá, nôn ọe. Bà nghĩ cần phải trở lại kinh thành, chịu khuất phục những yêu sách của đối phương, bà cho giết hết quân quyền phỉ. Hàng ngày viên tướng Lý Hồng Chương có gửi báo cáo tường trình với bà. Bà quyết định, song rất bối rối, khó nghĩ đem việc hồi loan ra thực hiện. Trong lúc khó khăn, lúng túng này, Nhung Lữ vẫn ở bên cạnh bà, hắn im lặng, lầm lì, cho chung cục không thể nào tránh khỏi.

Thỉnh thoảng bà lặng lẽ quay nhìn hắn, thấy hai con mắt hắn đen lánh, trên khuôn mặt xanh xao. Một hôm bà hỏi:

- Không còn đường lối nào khác ngoài sự phải chịu sự khuất phục chúng à?

- Tâu thái hậu, không còn cách gì. Vô kế khả thi.

Bà lặng lẽ nhìn hắn, hắn chỉ mỉm cười một cách đau khổ không nói gì. Một buổi chiều bà đang ngồi chơi một mình trong vườn, Nhung Lữ đột nhiên xuất hiện không cho báo trước.

- Tôi đến đây với tính cách thân hữu, không phải về công vụ. Số phận trời đã xếp đặt, an bài như vậy. Sao bà cố cưỡng lại. Bà muốn ở đây mãi sao?

Nhung Lữ kiên nhẫn, hết sức thuyết phục, trình bày, phải trái, hơn thiệt. Ông nói:

- Bà nên hiểu, nếu bà khăng khăng không nghe tôi khuyên nhủ, đại sự sẽ hỏng, lúc đó hối không kịp. Vả lại ở đây bà không đủ tiện nghi, không sao có thể sung sướng được.

- Đã lâu, tôi từ bỏ nếp sống sa hoa vương giả.

Nhung Lữ kiên tâm, cố thuyết phục để bà phải hiểu, phải nghe theo.

- Thế còn giang sơn xã tắc. Làm sao bà cứu nguy được tổ quốc, để cho giang sơn thu về một mối. Nếu bà cứ sống bôn tẩu mãi thế này? Đục nước béo cò, quân giặc chiếm đoạt thành trì, quân ngoại quốc đứng khoanh tay cho bọn giặc hoành hành. Nước sẽ chia năm xẻ bảy. Trăm họ sống bấp bênh lầm than, khổ ái, người ta sẽ oán trách bà vì bà đã bỏ họ đi ẩn một nơi với một nhóm người.

Nhung Lữ thuyết phục đã thành công. Ông đã khéo khêu gợi chí cao thượng, hùng tâm của bà. Bà thái hậu đứng dậy nhìn thẳng vào mặt Nhung Lữ, nói:

- Trước kia, tôi chỉ nghĩ đến tôi, bây giờ tôi nghĩ đến thần dân, trăm họ, tôi sẽ quay lại Bắc Kinh.

Ngày 24 tháng 8 tức là tháng 10 dương lịch, sau mấy trận mưa hè, đường xá đã khô ráo, đi lại được dễ dàng. Bà thái hậu sửa soạn rất trọng thể việc " Xa giá hồi loan", bà không muốn cuộc trở về âm thầm "Lùi xùi". Cuộc trở về phải được trịnh trọng, huy hoàng.

Vào một ngày đẹp trời, không mưa, không nắng, suốt ngày gió máy. Đột nhiên, xảy ra một biến cố bất ngờ, lão tướng Lý Hồng Chương chết đột ngột vì bệnh già. Bà thái hậu nghĩ lại, hối hận, đã có lần bà đã tỏ ra nhẫn tâm, ác nghiệt với một trung thần, người duy nhất trong hàng các võ tướng, không bao giờ dấu giếm bà sự thật, một người tận tâm với chức vụ, đã cải thiện lại quân đội.

Tuy tuổi già, sức yếu, cần phải nghỉ ngơi, một người rất trung thành, liêm khiết, tận tụy hi sinh, đã phụng chỉ bà thái hậu đề cử đem binh mã xuống miền Nam dẹp loạn ở Quảng Đông. Khi trở về Bắc Kinh, ông đã dàn xếp kí với người ngoại quốc một thỏa ước để phục hồi thái bình. Nếu bà thái hậu thực sự triệt để cho thi hành những điều khoản trong thỏa ước đã ký kết. Thái bình đã thực sự hiện hữu trên đất nước.

Để tỏ lòng ưu ái với một thành tử trung kiên, có công lớn với nước, bà truyền lập một đền thờ ở sinh quán ông và tất cả các tỉnh ông đã phục vụ, mỗi tỉnh một ngôi đền thờ ông.

Chẳng mấy lúc, bà thái hậu nhận thấy lời Nhung Lữ nói rất đúng. Cuộc trở về kinh thành của bà là một sự đắc thắng, khải hoàn. Dân chúng hoan hô, cuộc tiếp đón rất trọng thể, tưng bừng. Người ta cho sự trở về của bà là đánh dấu một kỷ nguyên mới, chấm dứt chiến tranh, trăm họ được an cư lạc nghiệp. Ở Khai Phong, thủ phủ tỉnh Hồ Nam, người ta tổ chức những màn hát bội để mừng ngày bà thái hậu hồi loan. Nền trời trong vắt, không có một cụm mây, ngày nóng, đêm mát.

Xa giá đến sông Hoàng Hà, bà cho ngừng lại, tuyên bố:

- Ta muốn dâng chút phẩm vật cho hà bá ở con sông này.

Bà cho sửa soạn nghi lễ rất trọng thể, ánh nắng buổi trưa làm tôn bộ triều phục của thái hậu và triều thần thêm huy hoàng, lộng lẫy. Bà hoan hỷ thấy dân chúng đến chiêm ngưỡng, đứng đông ở hai bên bờ sông, trong số đó có mấy khuôn mặt người tây phương. Để tỏ tình thân thiện, tạo hòa khí, bà sai thái giám đem rượu và trái cây cho người ngoại quốc. Bà dặn các quan và thân vương cho phép họ được chiêm ngưỡng khi xa giá về đến hoàng thành. Bà sang sông bằng một chiếc thuyền rồng, vẩy rồng mạ vàng, hai con mắt rồng gắn hai viên hồng ngọc.

Để tỏ tình thân thiện với đối phương, bà vui vẻ dùng xe lửa của họ để đi một quảng đường. Những chiếc xe bằng sắt này là một món đồ chơi giải trí ngày trước của cố hoàng đế, bà đã ra lệnh cấm không được dùng. Bà muốn cho người ngoại quốc biết bà đã hoán cải, bà đã tân tiến, có thể hiểu được phong tục của họ. Tuy nhiên bà chỉ đi xe lửa một quãng đường, nhất định không chịu vào trong hoàng thành bằng con thiết quái (Monstre de fer). Để tỏ lòng cung kính tiền nhân, bà cho xe ngừng lại ở cổng thành, tiếp tục lộ trình bằng ngọc liễn. Một nhà ga tạm thời được thiết lập ngay trước cổng tỉnh, nhà ga có xây một nhà rất rộng, trang trí bằng những tấm thảm quý, những đồ bằng sứ, chậu hoa, cây cảnh rất đẹp. Có đặt hai chiếc ngai để tiếp bà thái hậu và thiếu quân; ở đó các sứ thần ngoại quốc và đình thần đã túc trực để cung nghênh.

Phải dùng đến ba mươi toa xe lửa mới chở hết hành lý của thái hậu và quan tùy tùng cùng những cống phẩm thái hậu nhận được.

Đoàn xe chạy ngoằn ngoèo qua các đồi núi vắng vẻ. Khi xe đến ga, bà thái hậu nhìn ra cửa xe, bà rất cảm động thấy dân chúng đi đón bà đứng đông nghẹt ở ga. Trong hàng các thân vương, tướng tá, thân hào nhân sĩ trong tỉnh, y phục chỉnh tề, trang nghiêm, bà con nhận thấy các người ngoại quốc, nét mặt nghiêm nghị, lầm lỳ. Bà cố một nở một nụ cười xã giao với họ.

Cuộc tiếp đón diễn ra trong trật tự và trang trọng. Khi thái hậu xuất hiện, ở cánh cửa sổ toa xe, tất cả mọi người trừ những người ngoại quốc ra đều quỳ lạy. Viên quan nghi lễ của hoàng triều kêu to người ngoại quốc bỏ nón, bỏ mũ xuống. Việc này họ đã tự động làm rồi, trước khi có lời rao.

Người thứ nhất trịnh trọng ở trên toa xe lửa bước xuống là Lý Liên Anh. Người thái giám không cần để ý đến đám đông đứng đó, hắn vội vàng lo xếp đặt các hành lý. Hoàng đế xuống xe, thái hậu lấy tay ra hiệu, ông vội vàng vào ngay song loan đi thẳng, không nhận lời hoan hô, chào mừng của dân chúng. Có các vị thân vương đi kèm đỡ, bà thái hậu xuống đến sân ga. Bà đứng ở trong ánh nắng để nhìn cho rõ và cũng để mọi người chiêm ngưỡng, trong khi đó từ quan cho chí dân phủ phục hết, trán chạm đất; sân ga vừa được quét sạch. Bà thái hậu ngạc nhiên thấy có đông người ngoại quốc. Bà nói to, tiếng nói đứng xa cũng nghe rõ:

- Có bao nhiêu người ngoại quốc?

Khi bà biết những người ngoại quốc hiểu câu bà hỏi, bà mỉm cười rất duyên dáng, nói chuyện rất vui vẻ với viên quan nội an. Viên quan này hết lời ca tụng bà, nước da của bà vẫn nguyên vẹn, tuy đã trải qua phong sương, tóc bà đen, tuổi trẻ của bà thật bất diệt.

Viên tổng trấn Viên Thế Khải đến xin bà cho phép để trình diện ông trưởng xe và người tài xế, hai người ngoại quốc. Bà chấp thuận. Hai người da trắng đến đứng trước mặt bà, đầu trần... Bà cảm ơn và khen ngợi đã vâng theo lời bà không cho chạy với tốc độ quá hai mươi cây số một giờ. Thái hậu lên kiệu sơn son thiếp vàng để vào nội thành. Bà định đi vào qua cửa Nam. Bà dựng lại ở cửa Nam để làm lễ tại võ miếu. Trong khi các vị sư tụng niệm, tình cờ bà ngẩng đầu lên, thấy lố nhố trên mặt thành hàng trăm người ngoại quốc, đàn ông, đàn bà đang đứng nhìn bà. Thoạt đầu bà giận lắm, định gọi ngay thái giám đến tống cổ bọn này đi, nhưng bà nghĩ lại phải biết khoan dung, đại độ với đối phương mới có thể bảo toàn được ngôi báu. Bọn người ngoại quốc tưởng cái cười của bà là tự nhiên, không biết trong lòng bà căm lắm mà bề ngoài phải cười với họ. Làm lễ ở võ miếu xong, bà lên kiệu hồi cung.

Bà mừng quá thấy cung điện của tiền nhân để lại không bị quân thù phạm đến, còn nguyên vẹn. Cung điện xây cất rất công phu, tốn công, tốn của. Bà đi xem qua các cung điện, đình tạ trở lên Long điện. Bà nghĩ thầm:

"Ta lại tiếp tục lên ngôi, cai trị muôn dân"

Bà thấy các hoa viên còn nguyên vẹn, không có gì thay đổi, bóng cây vẫn rũ xuống mặt hồ. Tư dinh của bà, các khuôn cửa đồ sộ, uy nghi, tráng lệ, sơn son thiếp vàng, những mái hiên, ngói vàng óng ánh, bức tượng phật bằng vàng vẫn nguyên tại vị. Bà nghĩ "Ta sẽ sống ở đây chết cũng ở đây".

Nhưng hãy còn sớm quá nghĩ đến chuyện chết. Sau khi đã xem xét, kiểm điểm lại một lượt các cung điện, bà nóng lòng muốn biết những của cải, vàng bạc, châu báu, bà chôn, bà cất còn nguyên vẹn không?

Đi kèm với tên thái giám, bà xem xét tỷ mỷ bức tường (chỗ bà chôn giấu) xem có vết tích gì khả nghi không?

Sau khi đã xem xét, bà rất mừng nói:

- Không có một viên gạch nào bị mó đến.

Nói xong, bà cười, nét mặt vui tươi như ngày trước. Bà bảo tên thái giám đứng đó:

- Lũ quỷ Tây phương chắc đã nhiều lần đi ngang qua bức tường này, nhưng chúng không có bùa phép để đoán biết ở trong bức tường có chôn giấu gì.

Bà ra lệnh cho Lý Liên Anh hạ bức tường xuống, thteo bản danh sách kê khai, kiểm điểm lại xem có thiếu sót gì không? Bà dặn tên thái giám:

- Mi phải coi chừng bọn thái giám, có khi tao không mất về tay bọn quỷ Tây phương mà mất về bọn thái giám gian manh.

Lý Liên Anh làm ra vẻ không bằng lòng nói:

- Thái hậu không tin con hay sao?

Bà thái hậu trở về phòng riêng. Cuộc trở về này thật vui mừng, yên ấm biết chừng nào. Lẽ tất nhiên bà phải trả một giá đắt, từ nay, dù sao bà cũng phải làm ra có thiện cảm đối với họ. Ngay chiều hôm đó, bà nói bà sẽ cho mời phu nhân các sứ thần ngoại quốc một lần nữa. Bà tự tay viết thiếp mời. Để bảo vệ thanh danh, khỏi mang tiếng độc ác, bà tán dương tiếet hạnh của cô thứ phi Ngọc. Trong một sắc chỉ được phổ biến, bà nói người thứ phi chậm chạp quá, không đi theo được hoàng thượng trong khi bôn tẩu,vì không muốn nhìn thấy cung điện, lăng tẩm bị quân thù xâm phạm, nàng đã gieo mình xuống giếng quyên sinh.

Đến chiều tối, thái hậu sai Lý Liên Anh mời Nhung Lữ đến.

Nhung Lữ vào trình diện ở gian phòng tư yết, hai thái giám xóc nách đi hai bên. Bà nom thấy Nhung Lữ già quá, yếu quá, lòng bà đang hớn hở sung sướng, bị mất hết. Bà nói:

- Mời anh vào.

Bà bảo bọn thái giám:

- Đưa ông lại ngồi trên ghế. Ông không phải quỳ lạy, tất cả được miễn hết.

- Bưng đến cho ông một bát cháo, một bình rượu nóng, ít bánh nhẹ. Người anh họ ta nhọc mệt vì đã tận tụy phò giúp ta.

Khi bọn thái giám lui hết ra ngoài, còn lại có hai người. Bà thái hậu đến gần Nhung Lữ, đặt mấy ngón tay lên trán hắn, vuốt ve bàn tay hắn.

- Ô! Tay anh gầy đét, còn trơ xương, hai má anh sâu hắm, da anh nóng bỏng.

Nhung Lữ thều thào nói:

- Tôi xin bà, van bà nên đứng xa tôi ra. Những tấm đệm ở đây có mắt, tường có tai.

Bà nói giọng như van nài:

- Tôi không thể săn sóc, trông nom anh được sao?

Bà thấy hắn có vẻ lo ngại, nghĩ đến thanh danh của vị hoàng thái hậu, mà phải lùi ra, thở dài, trèo lên ngồi trên ngai.

Tuy tuổi già, mắt kém, Nhung Lữ cố đọc bản phúc trình về các thể nữ trở về.

- Các bà thể nữ có tuổi than phiền về chuyến đi vất vả. Họ than phiền phải đi xe hỏa, than khói, xe chạy lộc cộc, xốc lắm. Chính tôi phải trông nom, kiểm điểm thùng đựng bạc nén, mỗi thùng có biên ở ngoài tên một tỉnh. Công việc đó vất vả lắm. Tâu thái hậu, những hành lý chất đầy ba ngàn chiếc xe lừa kéo, cái đó cũng không đáng kể, có điều lo ngại nhất là sợ dân chúng bất mãn, khi họ biết việc du hành lúc đi, lúc về rất tốn kém, đặt các trạm nghênh tiếp ở dọc đường, cầu kỳ, sa hoa, những cái đó phải tăng thuế để bù vào chỗ thiếu hụt.

Hắn đang nói, bà thái hậu chặn lại, âu yếm bảo:

- Tôi xem anh mệt lắm, anh về nghỉ ngơi, tỉnh dưỡng. Bây giờ chúng ta đã trở về, cái đó mừng rồi.

Nhung Lữ lẩm bẩm khẽ nói:

- Tôi thấy còn nhiều công việc khó nhọc, nặng nề lắm.

- Những cái đó anh khỏi phải lo, đã có người khác lo liệu, gánh vác.

Bà nhìn kỹ khuôn mặt hắn, tuy đã già nhưng vẫn còn đẹp. Hắn đứng yên cho bà ngắm nghía, quan sát. Sự cảm thông của đôi bên còn sâu đậm hơn đôi vợ chồng già có cưới xin.

Tuy không có sự kết hợp bằng thể xác, song có những sợi dây vô hình thắt chặt tâm hồn hai người. Bà âu yếm vuốt ve hai bàn tay hắn. Hai người lặng lẽ đứng yên một lúc, bốn mắt nhìn nhau trong sự cảm thông. Một lúc sau hắn lặng lẽ cáo lui đi ra.

Làm sao bà có thể biết trước hai người gặp nhau lần này là lần chót? Trong đêm hôm đó Nhung Lữ lại lên cơn bệnh. Suốt bao nhiêu ngày, hắn ở trong tình trạng hôn mê. Bà thái hậu buồn bã, thất vọng, các ngự y trong triều không đủ năng lực làm thuyên giảm được bệnh. Bà cho mời một bốc sư đến. Bốc sư gieo quẻ nói Nhung Lữ đã đến ngày tận số, không sao cứu chữa được. Nhung Lữ mất trong cơn hôn mê tháng ba, tháng tư dương lịch. Bà thái hậu ra lệnh cho triều thần để tang và bà cũng kiêng kỵ không mặc quần áo màu, đeo đồ trang sức trong một năm.

Từ ngày Nhung Lữ mất đi, không có ai, không có gì giải sầu được bà. Bà đứng cạnh quan tài, tự tay trải tấm khăn đỏ phủ trên quan tài. Nếu không phải giữ gìn ý tứ, vì lẽ địa vị cao sang, bà muốn mặc đồ tang chế, túc trực suốt đêm cạnh quan tài. Bà muốn khóc thật to để vợi được phần nào lòng đau khổ. Nhưng bà là vị nữ hoàng, bà không thể rời hoàng cung, than khóc ầm ỉ, chỉ vì mất một trung thần. Bà chỉ than khóc khi vắng vẻ không có ai, nên bà muôn được những lúc rãnh rang, nhàn rỗi, ngoài những công vụ nặng nề trong tình trạng đất nước hiện tại để khóc.
PC
#32 Posted : Friday, November 12, 2004 7:40:59 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
PC Gởi: Sun Aug 08, 2004 6:18 am

Một đêm bà nằm vật vã trên giường không sao ngủ được, bà âm thầm khóc. Bà cho kéo hết rèm xung quanh giường nằm để được tự do khóc. Bà nghe tiếng trống cầm canh, lúc đó đã sang giờ tý (nửa đêm), bà mơ mơ màng màng như thấy mình thoát xác, nhẹ nhành, bay bổng. Bà mơ thấy Nhung Lữ, trẻ, khôi ngô. Bà mơ thấy ông ôm chặt bà trong hai cánh tay một lúc lâu. Bao nhiêu sự phiền muộn tiêu tan hết, tâm hồn nhẹ nhỏm có thể bay bổng. Bà mê nghe tiếng hắn nói, bà nhận ra đúng tiếng hắn.

"Không bao giờ tôi rời em. Lúc nào tôi cũng ở cạnh bên em. Khi nào em ngoan ngoãn, biết điều, anh đến với em. Tâm hồn anh là tâm hồn em, thể xác anh là thể xác em. Chúng ta tuy hai mà là một".

Mơ màng... Mơ màng... Có phải là mơ màng không? Bà cảm thấy trong tâm hồn như không phải là mơ màng, mộng mị mà là sự thật. Nhung Lự linh thiên đã hiện về. Khi bà bừng thức dậy, thấy trong người nhẹ nhỏm, không mỏi mệt. Bà thực sự được người ta yêu quý, hơn bao giờ hết, dù âm dương cách biệt, bà không cảm thấy cô đơn. Đó là ý nghĩa giấc mộng của bà.

Thái độ, tâm trí bà thái hậu đột nhiên biến đổi, quần thần đều phải sửng sốt ngạc nhiên. Dù sao, những ý nghĩ, tư tưởng bà vẫn giữ kín đáo.

Nhờ có trí thông minh, lịch duyệt, sự hiểu biết, như người ngủ mê, vừa mới thức tỉnh, bà đã lấy bại làm thắng. Đáng lẽ bà còn tranh đấu, bây giờ bà đã khôn ngoan nhượng bộ, chịu nghe theo lẽ phải, theo trào lưu tiến hóa.

Trước sự kinh ngạc của mọi người, bà đã khuyến khích thanh niên, nam và nữ, người Hán cho xuất dương du học. Trong một đạo sắc chỉ, bà cho phổ biến, có minh thị:

"Tất cả thanh, thiếu niên tuổi từ 15 đến 25, những người có đủ sức khỏe và thông minh, có thể, nếu muốn được xuất dương du học. Triều đình đài thọ tất cả phí tổn về di chuyển."

Bà cho triệu viên thượng thơ Viên Thế Khải và học giả Trương Chí Tùng, người Hán có óc chủ trương chống đối bà. Bà thảo luận rất lâu với hai người đó, rồi bà cho bãi bỏ những kỳ thi hương, thi hội. Bà khuyên nhủ bọn thanh niên không những đến viếng thăm, quan sát Nhật Bản mà sang cả Châu Âu và Châu Mỹ. Bà nói tất cả dân tộc trên năm châu này là cùng một gia đình dưới bầu trời, họ sống rãi rác do đại dương phân cách. Bà xuống chiếu chỉ một năm sau Nhung Lữ mất.

Năm sau bà cho ban bố một sắc lệnh cấm dân chúng không được dùng nha phiến. Những người già cả đã quen dùng nha phiến, bà ra ân lùi lại mười năm mới cho áp dụng thi hành sắc lệnh.

Suy nghĩ về những sự cải cách, bà thấy còn nhiều thứ phải canh tân, Người ngoại quốc không chịu từ khước những đặc quyền nên bà không cho canh cải về hình luật. Bà xuống chiếu từ nay, xử án theo luật không dùng cường bạo hay khổ hình. Bà ra lệnh bãi bỏ hết cực hình đối với phạm nhân như chặt đầu, tùng xẻo, phanh thây, đánh bằng trượng hay sắt nung đỏ, vấn đề tru di tam tộc. Bây giờ bà hãy còn nhớ, mấy năm trước Nhung Lữ có khuyến cáo bà nên bãi bỏ những tục lệ dã man, vô nhân đạo đó.

Bà lo lắng, tự hỏi ai là người sau này kế vị bà. Bà không muốn thiếu quân, một người ốm yếu, nhu nhược, một tên tội phạm của bà lên cầm quyền. Phải một người nào có chí khí, có nghị lực, mạnh khỏe, nhưng biết ai? Người nào có đủ tài năng để cầm vững tay chèo con thuyền quốc gia trong vận hội mới.

Bà thấy thắc mắc về tương lai. Bà thường nói với các vị thân vương, người đó sẽ là một vị thánh. Bà bắt đầu để ý, suy xét về Tây phương, ở đó phát sinh ra sự hùng mạnh. Thường nhật bà nói, bà tiếc nay bà đã già, không còn trẻ để đi quan sát mấy nước đó. Bà than:

- Chao ôi! Ta đã già quá rồi.

Các thể nữ nhao nhao lên nói bà vẫn đẹp lắm, nước da rất hồng hào, sáng sủa, hai mắt đen lánh, tinh nhanh, đôi môi đỏ, tươi thắm. Bà chấp nhận những lời khen ngợi đó, song bà cũng hiểu sự chết không từ ai, một định luật thiên nhiên chung cho tất cả mọi người trên thế gian này.

Bọn thể nữ đồng thanh tung hô:

- Muôn năm. Muôn năm Lão Phật. Muôn năm. Muôn năm.

Bà xuống chiếu, cho các quan, người nào xuất sắc nhất được đi du lịch các nước Tây phương. Cuộc du lịch đặt dưới quyền hướng dẫn của quận vương thái tử.

Trong tờ chiếu có nói:

"Chư khanh đi du lịch các nước Tây phương, những nước nào cường thịnh nhất, có nếp sống cao, dân chúng ưa chuộng chính phủ của họ. Được tuyển chọn bốn vị xuất sắc nhất ở mỗi nước một năm. Để tâm nghiên cứu chính phủ của họ, tìm hiểu đúng nghĩa những chữ "Hiến pháp", "Dân chủ".

"Làm tờ trình cặn kẽ về những vấn đề đó".

Trong lòng các quan có người chê trách bà, phải chịu khuất phục bọn người đi chinh phục, thiếu tự hào, sự yếu kém đó làm tổn thương đến danh dự quốc gia dân tộc.

Một nhà Nho người Hán viết: "Người dân chúng tôi sẽ bị khinh thị là bọn quê mùa, thô kệch, nếu chúng tôi cúi đầu vâng theo người ngoại quốc. Nhưng biết nói làm sao khi bà thái hậu của chúng tôi chịu hạ mình một cách thái quá đối với mấy người đàn bà vợ của các viên sứ thần ngoại quốc? Sự tươi cười, niềm nở, chào hỏi của bà khi bà ngồi trong kiệu loan đi ngoài phố, gặp một người đàn bà ngoại quốc như thế biết nói làm sao? Hình như trên mặt bàn ở trong hoàng cung người ta cũng thấy những mảnh giấy viết chữ ngoại quốc, những đồ đạc ngoại quốc đầy rẫy trong nội thành. Tuy người mình đã nhún nhường đến như thế, các lãnh sự quán ngoại quốc vẫn luôn luôn tỏ vẻ thù nghịch với người mình qua trung gian của viên bộ trưởng ngoại giao của họ."

Tuy nhiên, người ta cũng thấy những ý kiến, những lời bình phẩm đối nghịch. Một người Hán khác viết:

"Bà thái hậu tuy đã cao niên vẫn không từ bỏ đường lối thù nghịch với người ngoài. Chắc người ngoại quốc tự hỏi bà âm thầm mưu đồ kế hoạch gì để chống đối họ."

Lại một người khác viết:

"Thái độ kỳ lạ hiện nay của bà thái hậu, có thể giải thích vì lý do bà đã già, muốn thực hiện bốn chữ "Lão giả an tri"."

Trong những lời chỉ trích, phê bình, bà mỉm cười nói:

- Ta biết công việc ta làm, ta hiểu rõ, ý thức được hành động của ta. Không có nghị quyết nào của ta mà không thể giải thích được. Tư tưởng đó ta có từ lâu, nhưng phải chờ đúng cơ hội mới đem thực hành.

Không ai hiểu những lời giải thích của bà, nhưng bà đã nhất định theo một đường lối mới.

Một năm sau khi đoạn tang Nhung Lữ, nhân dịp tết Nguyên Đán, bà thái hậu cho mời tất cả các sứ thần ngoại quốc, các phu nhân và con cái đến dự yến ở hoàng thành. Các sứ thần dự yến ở đại sảnh, các bà phu nhân ở trong tư dinh thái hậu; các cung phi tiếp đón đám con nít trong các gian phòng riêng của họ, có thái giám và a hoàn phụ giúp.

Hoàng thượng ngồi dự yến tiếp các sứ thần, khi tan tiệc bà thái hậu mới xuất hiện. Hoàng thượng rất sành, biết thưởng thức những món cao lương mỹ vị Tây phương cũng như ngài hiểu những món ăn Đông phương. Phải huy động ba trăm đầu bếp giỏi để làm bữa tiệc đặc biệt. Bọn nhạc công trong triều hòa tấu, gánh hát hoàng gia diễn bốn tuồng, mỗi vở dài ba tiếng đồng hồ.

Chưa lần nào, ở trong nội thành, có một cuộc tiếp đón khách khứa quá đông đảo như vậy, bà thái hậu phải hết sức cố gắng. Bà truyền lệnh cho người con gái của viên khâm sai ở Âu Châu, chỉ cho bà cách chào hỏi theo xã giao Tây phương và bà học vài tiếng Anh ngữ thông thường.

Bà coi bản đồ Âu Châu, chê nước Pháp nhỏ quá, không cần phải học Pháp ngữ; nước Mỹ, một nước tân lập, chưa được vui mừng lắm. Duy có Anh quốc, có nữ hoàng cai trị, bà rất có thiện cảm với nữ hoàng. Vì có thiện cảm với nữ hoàng, bà muốn học Anh ngữ. Bà còn treo ảnh nữ hoàng Anh quốc trong phòng bà. Bà ngắm rất lâu bức chân dung nữ hoàng, bà nói tướng mạo của bà này cũng giống bà, thọ lắm.

Các sứ thần ngoại quốc sửng sốt, thấy bà thái hậu tiếp đón họ, bà nói bằng một câu Anh ngữ. Bà vào trong đại sảnh, ngồi trong chiếc kiệu loan, có 12 thái giám mặc đồng phục màu vàng khênh. Hoàng thượng tiến lại để cung nghênh, bà đặt bàn tay lên cánh tay hoàng thượng, một bàn tay đeo đầy nhẫn nạm ngọc. Bà mặc chiếc áo thêu kim tuyến óng ánh, áo thêu những con rồng xanh, đeo chuỗi hạt trai. Chiếc mũ miện nạm hồng ngọc và bích ngọc. Bà đi lên ngai, tuy bà đã già nhưng dáng đi vẫn kiều diễm, thướt tha như hồi còn trẻ. Bà gật đầu chào mọi người đứng ở hai bên. Bà định nói gì? Các quan khách nghiêng đầu chào, đáp lễ không người nào quỳ. Họ nghe bà nói một câu gì không ai hiểu.

Sau đó thông dịch viên, người ta mới hiểu câu bà vừa nói: "Bà thái hậu chào mừng tất cả các quan khách, chúc mừng năm mới và mời dùng trà". Các sứ thần ngoại quốc nghe bà nói mấy câu đó, cảm động, vỗ tay. Lúc đầu bà lạ quá không hiểu thế nào, chưa nom thấy ai vỗ tay bao giờ, bà nhìn những người cao lớn, nét mặt cứng cỏi, quần áo cũn cỡn, nhưng thấy vẻ mặt người nào cũng đầy thiện cảm. Bà hiểu họ hoan nghênh. Bà rất vui vẻ, cười, lên ngồi trên ngai, nói lớn:

- Các ông đã thấy, muốn kết tình giao hảo cũng dễ dù với quân man di. Cái đó chỉ cần một chút cố gắng về phía những người văn minh.

Bữa tiệc được tiếp diễn trong tình thân hữu. Tan tiệc bà tặng quà cho tất cả mọi người và những người tùy tùng. Bà cáo lui về phòng riêng.

Hồi tưởng lại trong bao nhiêu năm dài của quãng đời bà đã qua, bây giờ bà lo cho tiền đồ của dân tộc. Bà thấy ngày hôm nay (ngày hôm mời sứ thần ngoại quốc dự tiệc) đã giúp bà về nhiều phương diện, bà đã xây đắp được nền móng vững vàng cuộc giao hảo với liệt cường Tây phương tùy theo thái độ của bà, hoặc là bạn hay là thù. Bà nghĩ đến bà Victoria, vị nữ hoàng Tây phương, bà mong ước được ngày nào gặp bà, cùng với bà thắt chặt tình thân hữu, kết hợp hai vũ trụ: Đông và Tây.

Nếu gặp bà nữ hoàng Tây phương, bà sẽ nói:

- Dưới bầu trời, mọi người tuy khác chủng tộc đều là anh em.

Nhưng chao ôi, ít lâu sau bà nhận được tin bà nữ hoàng đã băng hà. Bà thái hậu buồn quá. Bà nghe nói bà nữ hoàng được toàn dân mến phục, bà mất về bệnh già như mọi người. Bà thái hậu vô cùng thương tiếc, như bị một vết thương trong tâm can. Bà lẩm bẩm nói một mình: "Ai cũng phải chết, không ai có thể sống được mãi" (Nhân sinh thế thượng thùy vô tử? )

Lúc bà nói câu này, bà khỏe mạnh, không cảm thấy mình cũng sắp đến ngày về chầu tiên đế.

Việc bà nữ hoàng Anh băng hà một cách đột ngột, làm bà thái hậu lo về vấn đề người kế thừa ngai rồng. Bà nữ hoàng một cường quốc, tử thần đến đón đi, thì bà thái hậu, một ngày kia tử thần cũng chiếu cố đến đón. Nhưng, hiện nay, bà còn mạnh khỏe, bà còn sống lâu, chờ cho một đứa trẻ nào lớn, sẽ lên kế vị ngai rồng, trước khi bà vào nằm trong quan tài. Lại một lần nữa, bà để tâm lo tìm người kế vị, một đứa trẻ, bà dạy cách làm vua. Lần này bà không còn nhầm như xưa kia, bà sẽ chỉ bảo cho người thừa tiếp thực trạng của thế giới hiện tại. Bà sẽ chọn những người phụ đạo người Tây phương. Bà cho phép ấu chúa được chơi các món đồ chơi do ngoại quốc chế tạo: Xe lửa, tàu bè, thần công, đại bác của ngoại quốc. Ấu chúa tập đánh nhau với quân Tây phương. Khi nào bà mãn phần như nữ hoàng Victoria, ấu chúa sẽ thắng, sẽ lấy lại những cái gì bà đã mất, những đất đai bị quân thù cưỡng đoạt. Bà lo lắng, thắc mắc tìm đâu ra con người lý tưởng đó để nối nghiệp bà. Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong óc. Người đó, hiện nay là đứa trẻ, chẳng phải tìm đâu xa xôi, hiện nó ở trong dinh Nhung Lữ, là cháu ngoại Nhung Lữ, mẹ là con gái Nhung Lữ, cha là thân vương Chuân. Bà mừng quá, cúi đầu xuống cười một mình. Gián tiếp bà cho chăm nom, nuôi nấng đứa trẻ cho đến ngày lớn khôn để lên ngai rồng. Việc này do thiện chí của bà. Trời đất phải ủng hộ bà cho đạt được ý nguyện đó.

Dẫu sao, sự lựa chọn này hãy còn quá sớm. Bà giữ kín, không nói với ai ý nguyện đó, cốt sao nuôi được đứa trẻ đó mạnh khỏe chờ cho đến ngày kim thượng băng hà. Ông này nhiều bệnh hoạn, chắc cũng không sống được bao lâu nữa. Bà đã già, người yếu, chưa nghĩ đến việc làm lễ Giao về thu tiết. Cuộc tế Giao bà phải làm chủ lễ, mạnh bái, phải quỳ, phải lạy nhiều nên rất khó nhọc, mệt mỏi. Theo tục lệ cổ, cấm không được đọc tên người kế vị trước khi hoàng thượng quay về chín suối. Nếu tình trạng sức khỏe ông vua cứ kéo dài mãi thế này, thì là bọn thái giám sẽ dùng độc dược để cho ông về chầu tổ ngaỵ..Đột nhiên, bà nghe có tiếng gió thổi, bà ngửng đầu lên, bảo bọn thể nữ:

- Các ngươi nghe tiếng gió thổi, gió này phải chăng báo hiệu sắp có mưa.

Đã hai tháng nay, trong nước bị trời ra tai, khí hậu rất khắc nghiệt, khó chịu. Trời hanh, rét rồi kéo theo một sức nóng trái mùa. Những cây mẫu đơn nhầm thời tiết cũng ra nõn. Dân chúng kéo nhau ra các đình chùa lễ bái, cầu đảo. Bà thái hậu ra lệnh cho các sư sãi ở các chùa ngày nào cũng phải ra ngoài trời để tụng niệm.

Bà hỏi các thể nữ:

- Các ngươi thấy gió thổi hướng nào tới?

Các thể nữ hỏi bọn thái giám, bọn này chạy ra sân, giơ bàn tay lên, quay mặt về tứ phía, vội vàng chạy vào báo tin mừng. Gió từ biển Đông thổi tới, có hơi nước.

Đột nhiên, nghe có tiếng sấm, một hiện tượng lạ trong mùa này. Ngoài phố, dân chúng ở trong nhà chạy hết ra ngoài đường, ngửng mặt nhìn trời.

Gió bắt đầu thổi mạnh, cửa ngõ các nhà rung chuyển. Gió thổi ở ngoài biển vào đem theo hơi nước. Bà thái hậu ra ngoài sân, nhìn lên trời, quan sát. Lúc đó, mây đen cuồn cuộn kéo đến, tiếp theo là một trận mưa mát lạnh.

Bà thái hậu khẽ nói:

- Một điềm rất tốt.

Các thể nữ kéo đến cạnh bà, bà xua tay đuổi đi, bà đứng một mình dưới mưa. Có tiếng ồn ào ngoài phố, bà nghe thấy:

- Lão Phật, Lão Phật đem lại mưa.

Lão Phật là bà, dân chúng tôn xưng bà ngang hàng với các vị Tiên Phật.

Bà đi vào, lên mấy bậc thềm ở cung, những giọt nước ở áo bà rơi xuống nền gạch. Bà để cho các thể nữ lau áo, bà cười, nói:

- Từ thưở nhỏ đến giờ chưa khi nào ta được sung sướng như hôm nay. Ta nhớ lại lúc ta còn nhỏ hay chạy đùa dưới mưa.

Các thể nữ nhìn bà, âu yếm nói:

-Thái hậu quả thực là một vị Phật sống.

Bà vui vẻ nói:

-Việc mưa, gió do thiên đình, ta người trần làm sao sai bảo được thần Phong, thần Vũ.

Các thể nữ nhất quyết nói bà có phép hô phong, hoán vũ. Bà biết bọn này muốn tâng bốc bà.

- Trời mưa cho Lão Phật. Một trận mưa cứu nguy muôn dân. Nhờ ơn Lão Phật chúng con được thấm nhuần mưa móc.

Để cho bọn này vui, bà cười bảo họ:

- Cũng có khi thế thật.
_________________
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
VHC
PC
#33 Posted : Friday, August 21, 2009 4:25:31 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)


Tương truyền bà Từ Hy thái hậu có một cái áo như trên. Chiếc trên là rập lại tấm áo của bà.

Hình chụp tại Victoria & Albert Museum, London
Mme Ngô
#34 Posted : Saturday, January 30, 2010 10:32:16 PM(UTC)
Mme Ngô

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 161
Points: 0

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)

Triều đình Mãn Thanh – Từ Hi Thái Hậu.

Nguyễn Hiến Lê

Dẹp được Thái Bình Thiên Quốc, loạn Niệm, Hồi là công của ba danh thần Hán: Tăng Quốc Phiên, Lí Hồng Chương và Tả Tôn Đường. Chính họ đã làm cho nhà Thanh phục hưng lại, nhưng không được trọng dụng, triều đình Thanh vẫn nghi kỵ họ; họ càng thành công thì bọn quí tộc Mãn càng ghen ghét. Cho nên họ chỉ được làm những chức trưởng quan ở địa phương. Ngay như Tăng Quốc Phiên cũng phải giữ ý, không dám đưa ra một kế hoạch lớn để làm cho Thanh hùng cường lên. Đó là một nguyên nhân khiến cho Thanh không vượng lên được.

Ở triều đình họ không dám dùng người Hán có tài, mọi việc bọn vua chúa Mãn quyết định với nhau hết, mà bọn này đã “chẳng biết chút gì tình hình dân chúng”, lại ít học, ngu dốt, càng mù tịt về tình hình thế giới.

Khi liên quân Anh Pháp vào Bắc Kinh, Hàm Phong trốn ở Nhiệt Hà, giao việc nước cho một người em (Cung Thân Vương). Ông ta là ông vua trác táng nhất đời Thanh, bẩm sinh vốn bạc nhược mà ngày đêm chìm vào tửu sắc, năm sau chết ở Nhiệt Hà, mới khoảng 30 tuổi, ở ngôi được một năm.

Con ông mới 6 tuổi lên nối ngôi, niên hiệu Đồng Trị (1862 – 77) Hoàng Hậu vợ của Hàm Phong, Từ An không có con, Đồng Trị là con một cung phi, Từ Hi(1) của Hàm Phong, nhưng theo phong tục Trung Hoa, vẫn coi Từ An là mẹ lớn.

Hoàng tộc quyết định để cho hai bà đó “thùy liêm thính chính” (rủ mành mành mà nghe việc nước), nghĩa là cùng quyết định việc nước thay vua, cùng phụ chính. Cung Thân Vương và Văn Tường đều là người tốt, giúp ý kiến hai bà thái hâu đó.

Từ An Thái Hậu ít học, đôn hậu, có phẩm cách. Từ Hi học khá hơn, đọc viết được chữ Hán (triều đình dùng toàn chữ Hán, cà ngôn ngữ Hán nữa), thông minh, lanh lợi, rất có bản lĩnh, nhưng cũng rất nhiều tật : Ham quyền như Võ Hậu đời Đường, dâm dật, xa xỉ, để đạt được mục đích thì vô sở bất vi, tính tình bất thường, lúc thì hiền, rộng lượng, lúc thì tàn nhẫn vô cùng.

Mới đầu Từ Hi chỉ là một cung tần, nhờ hát hay, khéo nịnh được Hàm Phong yêu, rồi có con, từ đó sinh ra hách dịch, độc tài, Hàm Phong biết trước rằng Từ Hi sau này sẽ là một tai họa cho nhà Thanh nên trước khi chết để di chúc lại bảo phải giết đi, nhưng viên thái giám, Lí Liên Anh, cho Từ Hi hay rồi hủy di chúc liền, từ đó thành sủng thần của Từ Hi, tham ô, làm loạn trong cung.

Mới đầu Từ An thái hậu và Từ Hi thái hậu cùng thính chính, nhưng lần lần Từ Hi lấn Từ An, quyết định mọi việc, Từ An hiền hậu, nhượng bộ nhiều lần. Năm 1872, Đồng Trị 18 tuổi, hai bà tính lập hậu (cưới vợ) cho ông rồi sẽ thôi không thính chính nữa.

Đồng Trị không ưa mẹ đẻ mà quí Từ An thái hậu, lựa người Từ An đề nghị tên là A Lỗ Đặc, gạt bỏ người Từ Hi giới thiệu. Do đó mà Từ Hi thù cả Đồng Trị lẫn Từ An.
Từ Hi cấm Đồng Trị ăn nằm với A Lỗ Đặc, người ông ta mến vì hiền đức, mà bắt phải ăn nằm với một cung phi tên là Phong, ông ta cương quyết không chịu, có lẽ do đó mà sinh ra chán nản đau khổ, thường cùng với một vài hoạn quan ban đêm trốn ra khỏi cấm thành, đi chơi phố phường, có lần về trễ, không kịp buổi triều. Hai năm sau ông chết, sử chép là do bịnh “Thiên hoa” (bệnh lên đậu), nhưng dân gian đều xưng do bệnh hoa liễu. Ông chết rồi, A Lỗ Đặc khổ sở, Từ Hi bắt bà phải tự tử để không được làm thái hậu mà “thính chính” trong đời vua sau.
Đông Trị không có con, Từ Hi lựa một đứa cháu trong hoàng tộc, mới bốn tuổi, em con chú của Đồng Trị, đưa lên ngôi để dễ thao túng.

Hồi này Thái hậu Từ An đã bị Từ Hi đầu độc chỉ vì bà bắt gặp một nhà sư trong phong ngủ của Từ Hi. Bà nổi cơn đau bụng rồi chết thình lình, năm giờ sau không một người nào hay.
Quang Tự bốn tuổi vào cung, bị Từ Hi quản thúc chặt chẽ quá, hóa ra khiếp nhược.

Lương Khải Siêu trong tập “Mẫu Tuất chính biến ký” bảo không có một em bé nào như cậu. Năm tuổi lên ngôi vua, lên ngôi rồi thì không một người nào – ngay cả mẹ nữa – được phép lại gần trừ mỗi một người là Từ Hi, mà Từ Hi thì kiêu xa dâm dật, có ngó ngàng gì tới cậu đâu. Ăn cũng một mình. Món ăn la liệt trên bàn, nhưng già nửa đã thiu rồi, vì những món hôm trước ăn không hết, hôm sau dọn lại, món ăn được thì đặt xa quá với không tới, thành thử bữa ăn không no mà không dám nói với ai. Vì Từ Hi rất dữ, mỗi chút là quát tháo, đánh đập nữa, hoặc bắt quì cả mấy giờ. Bà ta “luyện vua” cho tới mức sợ bà như sợ cọp, bảo gì cũng phải nghe. Lớn lên vua Quang Tự mỗi ngày phải vỗ thỉnh an bà một lần, mà thình an thì phải quì, cho phép đưng dậy mới đứng.

Thái giám Lí Liên Anh cũng ăn hiếp Quang Tự nữa, tàn nhẫn vô cùng. Hắn là một tên kép, rất đẹp trai, hát rất hay, được Từ Hi sủng ái, tời mức hắn nói gì, bà ta cũng nghe, hắn tự phụ, tự coi là ngang với bà. Đình thần sợ hắn như sợ bà vậy. Quang Tự có một quí phi rất hiền, trung thành với ông, ông rất quí mến, Lí Liên Anh ghét nàng, xô nàng xuống giếng, một hoạn quan thủ hạ của hắn, liệng đá xuống lấp giếng, Quang Tự không dám nói gì cả.

Sau vụ Mậu Tuất chính biến (coi ở sau), Quang Tự bị giam trong một phòng bẩn thỉu, ăn không được no, mặc không đủ ấm, chịu nhục nhã tới khi chết, một phần cũng là do Lí Liên Anh, hắn rất ghét nhóm Khanh, Lương mà Quang Tự tin cậy, dùng để duy tân Trung Quốc. Cũng chính hắn khuyên Từ Hi dùng quyền phỉ để diệt người da trắng, do đó mà liên quân tám nước vào phá Bắc Kinh. Tới lúc đó thì ai cũng biết nhà Thanh sắp sụp đổ, vì hai nạn ngoại thích và hoạn quan một lúc. Uy tín Trung Quốc không còn gì cả.

Nhưng cũng có học giả Âu khen Từ Hi vào hạng nữ hoàng Catherine của Nga, có tài cai trị, biết tin dùng người Hán, chỉ phải cái tội ít học, nên lạc hậu, không tiến kịp thời đại. Lời khen đó có phần quá đáng. Bà tin bọn Tăng Quốc Phiên, Lí Hông Chương thật, nhưng chỉ cho họ nắm quân đội, tài chính và việc cai trị ở các tỉnh thôi, mà triều đình vẫn hủ bại, hậu quả là “ngoài nặng trong nhẹ”, quyền cai trị ở ngoài các tỉnh lần lần qua tay người Hán, họ mạnh lên; còn quyền thống trị của người Mãn ở trong (triều đình) nhẹ lần, khiến cho Mãn Thanh dễ bị diệt vong.
Năm 1895, buồn về nỗi Hoa thua Nhật, Lương Khải Siêu làm đại biểu cho một nhóm 190 cậu cử Quảng Đông lên kinh thi, dâng thư lên triều đình bàn về thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng nhóm 3.000 cậu cử khác dân thư xin biến pháp, hai nhóm họp làm một. Từ thế kỉ XII, đời Nam Tống đến bây giờ, trên bảy thế kỉ, mới lại thấy một phong trào học sinhdâng thỉnh nguyện lên vua. Lần đó, thỉnh nguyện của nhóm Khang, Lương không được chấp nhận.

Năm 1896, Khang dân thư xin biến pháp nữa, lần này đạt được đến Quảng Tự, nhờ một vị đại thần, thầy học cũ của Quang Tự.

Quang Tự lúc này đã thực sự cầm quyền. Từ Hi Thái Hậu lui về nghỉ ở Di Hòa viên, dĩ nhiên vẫn theo dõi hành động của ông. Ông tuy sợ “Phật bà” – Từ Hi – như cọp, nhưng sáng suốt, nhiệt tâm muốn noi gương Minh Trị Thiên Hoàng và hoàng đế Pierre, cứu Trung Quốc, cho vời Khang, Lương lên kinh bàn việc nước. Ông tiếp Khang, Lương suốt một buổi, 5-6 giời liền, phong cho chức tước để cùng mưu việc biến pháp.

Đề nghị nào họ đưa ra Quang Tự cũng chấp nhận hết: Cải cách việc triều đình cho mới mẻ, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào, lập học hiệu, khuyến khích kẻ viết sách mới và kẻ chế khí cụ mới, bỏ những nha thự ít việc, luyên tập quân đội theo lối mới, trù lập ngân hang, làm đường xe lửa, khơi mỏ, mở nông và công nghiệp, lập hội buôn, mỏ rộng đường ngôn luận, cầu nhân tài…

Trong khoảng chưa đầy ba tháng, mà một trăm mấy chục đạo chiếu ban ra, làm cho cả trong trièu lẫn ngoài tỉnh, mọi người xôn xao. Đúng là “toàn biến” và “tốc biến”.

Khang Hữu Vi biết rằng bọn cựu thần tất phản đối, nên khuyên vua đừng vội bỏ hết các nha môn, mà giữ hết họ, cho họ các chư hầu, không mất lộc, vị. “Phật bà” ở Di Hòa Viên biết hết, không ưa trò biến pháp đó, bổ nhiệm một người về phe bà là Vinh Lộc, tổng đốc Trực Lệ làm thống lãnh quân đội ở vùng Kinh kỳ để củng cố thế lực của bà. Vua Quang Tự cương quyết, bảo: “ Không cho ra biến pháp thì giết ta còn hơn”.

Đàm Tự Đồng thấy Từ Hi cản trở công việc duy tân, khuyên Quang Tự đoạt lại chính quyền. Quang Tự nghe lời, triệu Viên Thế Khải, (học trò của L‎ Hồng Chương trong việc đào tạo quân mới) lúc đó đương thống lĩnh 7.000 quân tâm phúc, về Bắc Kinh bàn việc, có ‎ dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên. Chẳng may việc đó tiết lộ (chính Viên phản vua, vì thấy Từ Hi còn mạnh), Từ Hi hay được, vội vàng từ Di Hòa Viên trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự và các đại thần lại, bắt Quang Tự quì một bên, các đại thần quì một bên, trừng mắt, lớn tiếng mắng Quang Tự một cách tàn nhẫn: “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tiên, mày sao dám tự ‎ làm bậy? Các quan đây đều do tao tuyển dụng trong nhiều năm để họ giúp mày, mày sao dám tự y không dùng người ta? … Rồi bà quay sang phía các đại thần mắng là bất lực, không tận tâm với quốc sự…”

Sau cùng bà tuyên bố rằng Quang Tự đau, bà phải thinh chính trở lại, và đem giam Quang Tự ở Doanh Đài, trong hồ Tây Uyển. Vậy là cuộc biến pháp thành cuôc chính biến.
Bà ban lịnh cấm dân dâng thư, phế bỏ cục Quan Báo, đình chỉ việc lập học hiệu trung, tiểu ở các tỉnh, các huyện; dùng lại lối văn tám vế để lựa kẻ sĩ, bỏ khoa thi đặc biệt về kinh tế; bỏ các tổng cục nông công, thương, cấm báo quản, truy nã chủ bút, cấm hội họp, dùng lại các vũ khí cung đao…; tóm lại là chỉ trong một hai tuần toàn hủy, tốc hủy các canh tân của Quang Tự. Sử gọi vụ đó là “Chính biến Mậu Tuất” (1898); cũng gọi là vụ “duy tân 100 ngày”.

Khang Hữu Vi hay tin trước, trốn vào sứ quán Anh ở Thượng Hải rồi xuống Hương Cảng, qua Nhật Bản. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra mới trốn qua Nhật. Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết với năm người nữa: Khang Quảng Nhân, (em Khang Hữu Vi) Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú, người bấy giờ gọi là “Lục quân tử” có ‎ sánh với lục quân tử thời Minh, tức là sáu kẻ bi tên hoạn quan Ngụy Trung Hiền hãm hại, chết trong ngục.

Khang Hữu Vi ở Nhật lập đảng Bảo hoàng mông lật đổ Từ Hi, phò trợ Quang Tự lên cầm quyền; Lương Khai Siêu xuất bản tờ báo Thanh Nghị mạt sát Từ Hi.

Từ Hi xin Anh, Nhật giao Khang, Lương cho bà ta, nhưng họ không nghe, còn bảo vệ cho Khương, Lương mà họ coi là quốc sự phạm. Bà ta còn muốn bắt Quang Tự thoái vị để bà đưa một người khác lên, sai người cho dò ‎ công sứ các nước, họ đều phản đối. Hoa kiều ở hải ngoại đánh điện về ủng hộ Quang Tự, bà ta càng ghét ngoại nhân đã mớm cho Trung Hoa những y phản động: Hiến pháp, dân chủ… Đó là nguyên nhân gây ra nạn Quyền phỉ hai năm sau. Vận nhà Thanh đã tới lúc mạt. Mà mầm cách mạng Tân Hợi đã nhú.

Sau hòa ước nhục nhã Tân Sửu (1901), Từ Hi bị dân chúng vạch tội, muốn mua chuộc lại lòng dân, mới chỉnh sửa đổi chính sách, bao nhiêu sắc lịnh biến pháp của Quang Tự mà năm 1898, bà hủy bỏ thì bây giờ thực hiện hết, lại lập nhiều cơ quan mới như hội nghị chính vụ xứ, thượng bộ, học bộ, luyên tân quân, chấn hưng công, thương.

Khanh Hữu Vi ghét Từ Hi nhưng vẫn chưa oán người Thanh, lập Đảng Bảo Hoàng, hi vọng ở Quang Tự, nhưng tư tưởng ông hơi thay đổi, đòi quân chủ lập hiến; Lương Khải Siêu theo Khang xuất bản tờ Tân Dân tùng báo để cổ súy lập hiến đối lập với tờ báo Dân báo của Đảng Cách mạng lúc ấy.

Năm 1905, dân Trung Hoa thấy Nhật theo Quân chủ lập hiến mà mạnh, thắng được Nga theo Quân chủ chuyên chế, nên càng tin ở chế độ lập hiến, và đòi Thanh đình phải lập hiến, chứ chỉ sửa đổi chính sách (Thanh đình gọi là tên chính: Chính sách mới) chỉ duy tân thì không đủ. Ngay một số đại thần Hán trung với thanh như Trương Chi Động, Viên Thế Khải cũng chủ trương lập hiến. Phong trào lập hiến sôi nổi trong nước, Từ Hi bất đắc dĩ phải phái năm đại thần đi Nhật, Anh, Đức để khảo sát chế độ lập hiến của ba quốc gia đó.

Năm sau họ trở về đều chủ trương lập hiến. Từ Hi xuống dụ:

“Trước hết cải cách quan chế rồi đến chính trị, khiến sĩ dân hiểu rõ quốc chính để dự bị cơ sở cho việc lập hiến, vài năm sau, xét lại tình hình, xem tiến bộ mau chóng mà định kì hạn xa gần.”

Rồi họ sửa đổi quan chế : Đặt ra Tư chính viện ở kinh sư, Tư nghị cuộc ở các tỉnh để làm cở sở cho Quốc hội và Tỉnh nghị hội, lập thẩm kê viện, thẩm phán sảnh, ban bố Hình luật mới…, nhưng một số biện pháp không thực hành được, có danh mà không thực.

Họ lại hạ chiếu lập một nội các mới bề ngoài có vẻ tiến bộ mà sự thực chỉ là để phá nguyên tắc Mãn và Hán ngang nhau, vì trong số 12 thượng thư chỉ có 4 người Hán, 1 người Mãn, 2 thị lang Mãn, 2 thị lang Hán), còn 8 người kia là Mãn, mà 5 người là hoàng tộc; vì vậy người Trung Hoa gọi nội các đó là nội các hoàng tộc.

Sau cung năm 1908, họ ban bố Hiến pháp đại cương gồm 15 điều mà điều số 1 là: Hoàng đế Đại Thanh thống trị Đế Quốc Đại Thanh, nối tiếp nhau tời vạn đời, và điều số 2 là: Hoàng đế tôn nghiêm như thần, thánh, bất khả xâm phạm. Nội dung là quyền vua rất lớn, quyền dân rất ít, nghị viện chỉ là một cơ quan tư vấn. Họ dự bị 9 năm sau mới hoàn thành hiến pháp. Rõ rang là họ không thành tâm chút nào cả.

Trong năm đó, sau khi ban bố Hiến pháp đại cương thì Quang Tự chết trước rồi Từ Hi chết sau, chỉ cách nhau có mấy giờ. Dân chúng ngờ rằng Từ Hi biết mình sắp chết, không muốn cho Quang Tự sống nên đầu độc Quang Tự.

Con của thuần Thân Vương (em cùng mẹ với Quang Tự) tên là Phổ Nghi, mới ba tuổi lên ngôi, hiệu là Tuyên Thống. Mẹ Phổ Nghi là thái hậu Long Dụ cũng thùy liêm chính thính chính như Từ Hi, cũng nắm quyền, xa xỉ, dâm đãng, tin dùng một tên kép hát đẹp trai, đã có hai con rồi, cho làm Thái giám, chỉ trong mấy năm tiêu 5-6 triệu lạng bạc vào việc xây cất cung điện, và sắm châu báu để làm của riêng.

Thanh đình còn đồi trụy hủ bại hơn thời Từ Hi nữa. Hai người Hán trung với họ và có tài năng nhất là Trương Chi Động và Viên Thế Khải, thì Động đã chết, mà Khải đã bị cách chức.

Năm 1909, Tư nghị cuộc các tỉnh thành lập, đại diện của dân hai lần vào kinh xin khai Quốc hội, sinh viên Bắc kinh và Thiên Tân bãi khóa để ủng hộ. Năm sau, Tư Chính viện ở Kinh Sư cũng khai hội, thông qua phải dùng kế hoãn binh, bất đắc dĩ rút ngắn kì hạn dự bị hiến pháp từ 9 năm xuống còn 6 năm, nhân dân phản đối, Thanh đình ra lệnh đàn áp.

Sinh viên du học ở Nhật và Âu châu biết rằng không còn hi vọng gì lập hiến được, quyết tâm lật nhà Thanh, và chuyển qua phe Cách mạng rất đông. Phong trào cách mạng lên mạnh.
Năm 1911, phát sinh cuộc nổi loạn hỏa xa ở Tứ Xuyên. Dân tứ xuyên góp cổ phần để làm đường xe lửa cho tỉnh. Khi hay tin chính phủ muốn quốc hữu hóa các đường xe lửa thì các sinh viên hầu hết là con cháu thương nhân, địa chủ có cổ phần trong công ty xe lửa, cầm đầu một cuộc phản Thanh mà triều đình không dẹp được.
Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của dân quân ở Vũ Xương (một trong ba thị trấn của Vũ Hán ngày nay, hai thị trấn kia là Hán Dương, Hán Khẩu); ngày 10.10.1911 (19.8 năm Tân Hợi) (1); họ thành công một cách dễ dàng, bất ngờ, các tỉnh hưởng ứng, Trung Hoa Dân Quốc thành lập, vua Thanh thoái vị (năm Tuyên Thống thứ ba). Trước kia, Thái Bình Thiên Quốc trong 14 - 15 năm, dùng hằng triệu quân mà không lật đổ được nhà Thanh. Nay chỉ một nhóm quân có mấy tuần mà kết quả rực rỡ. Nhà Thanh như một trái đã chin mùi, chỉ khẽ đụng tới là rụng.
- Viết tới đây tôi nhìn lên tấm lịch, thấy đúng là ngày 19 tháng 8 Nhâm Tuất (5.10.82), sau ngày khởi nghĩa đó đúng 71 năm âm lịch, thật thú vị!

Chú Thích
(1) Từ An, Từ Hi đều là tên hiệu, họ là người Mãn, tên rất khó nhớ, nên chúng tôi không dùng.
(2) Nhóm đầu tiên qua năm 1872 có vài nhà Nho theo dạy cho họ Tứ thư và Ngũ Kinh.
(3) Về Ung Wing và Wang Tao tên dùng tài liệu trong East Asia- The Modern Transformation của Đại học Harvard, các bộ sử chữ Hán của tôi có không nói tới.
Users browsing this topic
Guest
2 Pages<12
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.