Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

3 Pages<123
Kiệt Tấn
Liêu thái thái
#41 Posted : Friday, November 13, 2009 10:20:39 PM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)
Điên như Kiệt Tấn

Khuất Đẩu

Bài 1. Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!

Thuở còn bé, St Exupéry vẽ một con trăn nuốt con voi mà bao nhiêu người lớn nọ cứ tưởng là vẽ một cái mũ. Cái hồn mộng mị mà người lớn không sao hiểu được ấy, mãi sau này, giữa sa mạc mông mênh, giữa chết và sống, chú mới tìm được người đồng cảm. Đó là một cậu bé mong manh như ánh trăng từ một tinh cầu bé xíu đi lạc xuống trần gian, nhờ vẽ cho một cái rọ bịt mõm. Phải mất một lúc lâu, từ người lớn trở lại làm đứa bé, anh mới vẽ được một cái thùng hình hộp đủ cho trí tưởng tượng của chú bé tin là mình đang nhốt một con cừu.

Hoàng tử bé của tôi ơi! Biết bao người ở khắp nơi trên thế giới đã từng kêu lên như thế. Nhờ cậu mà tâm hồn khô cằn của họ bỗng dưng xanh mướt như cỏ tháng giêng, để cho đứa bé của năm xưa bước đi núng nính. Nhưng họ là những cư dân của phố thị giàu có rộn ràng. Họ reo vui khi tìm lại được thiên đường tuổi nhỏ nhưng với một anh nông dân cho dù là ở xứ Bạc Liêu giàu có nếu một hôm bất ngờ gặp hoàng tử bé thì cũng chỉ biết giương mắt ếch mà nhìn. Vì sao? Vì chú mong manh quá, cao sang quá, con của vua mà lại!

Cho dù Kiệt Tấn đã có bằng đại học ở Canada và đang sống ba mươi năm hơn ở Pháp, tôi vẫn tin ông là một nông dân. Mà lại là nông dân thứ thiệt, chẳng tin, thử đọc Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi thì hết cãi. Kiệt Tấn không kêu Hoàng tử bé của tôi ơi mà lại kêu em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!, kêu lên giữa Paris hoa lệ, giữa xứ sở của St Exupéry, kêu lên giữa lúc khôn nguôi nhớ về cái tuổi nhỏ quê mùa ở tận Hậu Giang, chỉ mong đến Tết để được ăn thèo lèo cứt chuột!

Mà lại kêu bằng em mới dễ thương và dễ ghét làm sao! Dễ thương vì một cậu bé sáu tuổi tưng tiu con vịt bé xíu như em út của mình là thương đứt đuôi con nòng nọc rồi, không trật một ly ông cụ nào. Còn dễ ghét là vì anh dám gọi con vịt bằng em trong khi tôi là vợ anh cho dù đã già nhưng rất hiền lại cứ bị gọi mụ nọ mụ kia! Hay là tại ông điên như Bùi trung niên thi sĩ đã từng kêu các nàng dê bằng em! Kêu sướng miệng quá, ước gì tôi cũng điên được như ông.

Nói vậy mà chơi chứ ông không điên đâu, ông khôn bỏ mẹ. Ông mượn cái chết của con vịt vàng để chửi Pháp, chửi chiến tranh, chửi thằng con bà chủ, chửi luôn cả bà, lại nói kháy cả ông cụ sinh ra mình. (Cái chi tiết bà chủ đi ra bờ ao xả nước thải bị con vịt xiêm cồ cuồng dâm rỉa cái bàn tọa la choi chói đã lạ rồi mà ông bố bảo gặp tao, tao cũng rỉa huống hồ là con vịt, quả thật là có một không hai trong văn chương Việt).

Xin được trở lại với em vịt vàng. Câu chuyện bắt đầu bằng một cái trứng vịt ( trứng sinh ra vịt đấy nhé, đừng có cãi cù nhầy nữa). Cậu bé Kiệt sáu tuổi một hôm nhặt được một cái trứng giữa đám ruộng trước nhà. Cậu lấy mực đánh dấu rồi nhờ con vịt xiêm mẫu hậu ấp nở giùm. Con vịt xiêm là mẹ nuôi còn cậu tự xưng là anh ruột. Nhưng vịt vàng xinh xinh lại tưởng mẫu hậu là mẹ ruột nên suốt ngày cứ lẻo đẻo chạy theo. Và rồi một hôm trước tết, bị một đoàn xe nhà binh và xe thiết giáp của Pháp cán chết. Chỉ có vậy thôi, nhưng tôi nghĩ Trường hận ca của Bạch Cư Dị khóc Dương Quý Phi, hay Tự Đức khóc Trịnh Bằng Phi cũng không lâm ly não nuột bằng chú bé Kiệt Tấn khóc em vịt vàng của mình. Không bằng, bỡi vì cái chết của con vịt vàng tội nghiệp quá. Mười mấy chiếc xe mười bánh và xe tăng xích sắt kêu loảng xoảng cán qua thì còn gì là xương thịt. Không bằng, cũng bỡi ông quan tư mã áo xanh và ông vua ốm yếu mặc hoàng bào ấy dẫu sao cũng đã là người lớn. Mà người lớn thì đã chắc gì khóc thiệt nhất là khóc bằng cách “đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ xếp tàn y lại để dành hơi

Có một thời tôi cũng đã khóc con chó mực của mình, nhưng khi cột ba đồng tiền vào cổ liệng xuống sông là hết khóc ngay. Có đâu như Kiệt Tấn, qua Canada rồi qua Paris mà vẫn còn khóc đến tận bây giờ. Xem cái đoạn cậu bé sáu tuổi phải mất một buổi ngồi nhặt từng sợi lông, cạy từng chút đất sỏi dính máu dính thịt bỏ vào tờ báo gói đem đi chôn, tôi không khỏi liên tưởng đến người mẹ Gio Linh nghẹn ngào không nói một câu mang khăn gói đi lấy đầu. Có biết bao người mẹ đi nhặt xác con, người chị đi nhặt xác em, người vợ đi nhặt xác chồng trong cuộc chiến dài lê thê vừa qua! Bây giờ ông hãy còn khóc là khóc cho bọn họ, những nạn nhân không tên không tuổi ở quê hương mình.

Cái tuổi thơ của những người Việt nay sáu bảy chục tuổi là vậy. Mất mát nhiều quá. Chỉ một con vịt vàng bé xíu kêu lép kép đã đau như thế huống hồ mất mẹ, mất cha, mất cả quê hương.
Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình Tôi tô đậm sáu chữ này để khắc sâu một lần nữa cái quê hương đằng đẵng ba mươi năm chiến tranh khiến một người giàu xúc cảm như ông xót xa khi nhớ tới. Con vịt vàng bé xíu bị hàng chục chiếc xe mười bánh và những chiếc xe tăng nghiền nát sao giống với thân phận của nước Việt mình quá.
Năm nay đào lại nở, năm nào đào chẳng nở, nhưng ông chẳng nhớ tới ông đồ già, cũng chẳng nhớ tới một nhân diện đào hoa tương ánh hồng nào, lại càng không nhớ tới một tà áo tiểu thư hay tóc vàng sợi nhỏ mà nhớ tới em vịt vàng nhỏ của mình. Nhớ tiếng kêu lép kép, nhớ màu lông vàng tức là nhớ tới cái xóm Mới tuy nghèo vẫn rộn ràng đón xuân. Nhớ tài kho thịt của cha, quần áo mới do má xỏ kim may có hai túi thẳng hai bên coi cũng le lói lắm. Trên tầng thứ mười lăm của một cao ốc lạnh lẽo ở ngoại ô Paris, ông nhớ thương quê cha đất tổ còn hơn bà huyện Thanh Quan nhớ nước đau lòng con quốc quốc / thương nhà mỏi miệng cái gia gia khi đi qua đèo Ngang.

Ông Kiệt( không có chữ Trụ) ơi, bắt chước một câu thơ nổi tiếng, tôi cũng kêu lên rằng, ông ơi, ông ở rất xa/ mà sao tôi thấy rất là Việt Nam. Ông đã là dân Paris rồi nhưng không mất gốc, những người đã gần bảy chục tuổi đầu mà còn biết nhớ tới con vịt vàng bé xíu là không bao giờ mất gốc. Nỗi nhớ như rễ đước cắm sâu ở rừng Cà Mâu thì sóng gió nào nhổ bật lên được.

Cũng đừng bảo rằng chuyện một con vịt be bé bị xe cán có chi đâu mà phải ầm ĩ. Hãy nhớ rằng đối với một đứa bé sáu tuổi, con vịt xấu xí đó đã được cậu yêu thương hơn cả cha, yêu như yêu mẹ đó, thì trên đời này không có gì to tát bằng. Yêu nước, yêu dân, cậu không biết yêu ra làm sao, nhưng bảo yêu con vịt từ lúc xí được cái trứng cho đến khi biết kêu lép kép là cậu hiểu được và yêu được. Yêu mãi cho đến già, đến chết.

Trở lại câu chuyện Hoảng tử bé. Tác giả bảo cảnh đẹp nhất là cảnh vẽ một ngôi sao cô độc trên nền trời sa mạc. Còn đây là cảnh đẹp và buồn nhất mà ông Kiệt vẽ ra cho tôi, một người đồng niên ở tận quê nhà: trên cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm con vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian ngắm thiên hạ nở pháo rộn ràng đón Xuân

Cảm ơn ông đã cho tôi sống lại thuở lên năm lên sáu bằng một truyện nhỏ đầy chất dân dã mộc mạc như những câu hát buồn muốn chết mà thương cũng muốn chết trên Cửu Long giang.

Khuất Đẩu
10/2009
Liêu thái thái
#42 Posted : Monday, November 16, 2009 5:06:36 AM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)
Điên như Kiệt Tấn

Khuất Đẩu

Bài 2; Năm nay đào lại nở

Ờ, đào lại nở trên đất Paris! Lại một mùa xuân rưng rức hoa đào làm lạnh thêm một người xa xứ. Để ấm lòng, ông Kiệt Tấn hết nhớ em vịt vàng bé xíu lại nhớ đến những người đàn bà mà có lẽ chỉ có ông trên đời này mới nhớ tới họ mà thôi.

Những người đàn bà ấy, một bà lượm lon, một bà bán càrem, một bà bán đậu phộng. Ba người ấy là những “mối tình đầu” theo như cách nói của ông. Mối tình đầu của tuổi học trò! Ông có đùa dai không đấy. Sao không là Diễm để những chiều mưa sao em không lại? Sao không là Ngọ để theo Ngọ về? Sao không là người em xóm học để em ơi “khoóc” đi em? Mà lại là những bà cụ hom hem chít khăn mỏ quạ đi dép Nhựt cũ đến nỗi cao su bè ra, hoặc đội một chiếc nón rách tơi tả, hoặc để đầu trần đi cẳng không, áo trắng rách lưng đã ngã màu vàng xỉn!
Yêu lần đầu mà yêu như thế, bảo sao người ta không bảo ông điên!

Người tình đầu thứ nhất ông gặp ở xóm Hàng Xanh. Mới Tết xong ba bữa đã lại hỏi: thưa ông cho nhà cháu hỏi thăm, còn mấy hôm nữa thì là tết ạ? Còn lâu lắm cụ ạ! Thế hở ông? Thế mà cháu quên mất, làm phiền ông quá. Ông cho nhà cháu xin lỗi.

Những câu nói làm tôi bỗng giật mình. Cụ bà đồng bằng bắc bộ di cư ấy những năm mươi năm trước đây sao ăn nói lễ phép và lịch sự đến như vậy. Chả bù với bây giờ, nào nỡm, nào cút xéo ngay không bà đánh cho nát mặt!

Và cụ lại hỏi: Phiền ông cho nhà cháu hỏi thêm. Ông có biết nhà ông Đa ở lối nào, xin ông chỉ hộ cho nhà cháu! Lịch sự hơn cả Tây, hơn cả Mỹ!

Ông Đa là ông nào, có trời mà biết, nhưng bà cụ lượm lon cứ quanh quẩn ở xóm Hàng Xanh hỏi mãi. Ông Kiệt đoán chừng có thể là người tình cũ lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm, cũng có thể là người chồng đi lạc lúc trốn lên tàu di cư vào Nam. Một cụ bà còm cõi lẩn thẩn đi tìm người xưa cứ tới lui hỏi mãi khiến ông Kiệt đa đoan của chúng ta “yêu” lúc nào không hay. Vì yêu nên thương. Vì thương nên lo. Vì lo nên sợ. Và ông sợ rằng, xe tăng thiết giáp rần rần rộ rộ kéo lê những khẩu đại bác dài ngoằng băng qua xóm Hàng Xanh một ngày nào đó sẽ làm cho cái khăn mỏ quạ, đôi dép Nhựt bổn, mấy cái lon vừa lượm được văng tung toé và trái tim vẫn còn ấp ủ hình bóng người xưa còn đập, nhảy trên mặt đường!

Người tình đầu thứ hai là một bà già bán cà rem lúc tác giả còn học tiểu học. (Yêu sớm quá ông Kiệt nhĩ?). Không như bây giờ, kem đông cứng thơm ngon đựng trong thùng xốp, kem của sáu mươi năm trước xanh đỏ toàn nước đá đụng một tí là vỡ tan, lại giữ trong tẹt mốt làm bằng thuỷ tinh, nên người bán phải nâng niu ôm giữ trong lòng. Bà không thể chạy theo khách hàng là đám học trò nghịch phá như quỷ, không thể cạnh tranh với bọn con trai ma mảnh bày trò đổ xíngầu để vét sạch túi bọn nhỏ. Bà chỉ ngồi một chỗ vẩy vẩy cái chuông bằng đồng bóng loáng, leng keng, leng keng mời mọc như con chó hiền lành chỉ chờ có người ngó là vẩy đuôi ngoắc! Bà già nghèo xấu xí đó không ngờ hiện ra dưới mắt cậu bé Kiệt thân thương đến nỗi cậu thấy đó là má tôi đang ngồi chồm hổm. Gọi ngon lành, má tôi tay xách bình cà rem, đứng ngó thằng con trai của bà đang xếp hàng đi vào lớp.

Yêu như ông đúng là điên thật, một người điên vô lượng thanh khiết, dẫu tôi có muốn điên cũng đâu có dễ.

Người tình đầu thứ ba là một bà già bán đậu phộng ở bến xe Mỹ Tho. Bà cũng rách rưới, xập xệ nhưng lúc nào cũng sẵn sàng tặng không một nụ cười móm mém cho khách. Cũng như bà bán cà rem, bà không thể nào tranh khách được với các cô gái nhanh nhẹn trẻ trung. Vì vậy bà bán ế. Mà càng ngày càng ế ẩm hơn nữa vì bà buộc phải bán đậu lép. Trời hỡi! Sao khốn cùng tới mức phải đi bán đậu lép! Tác giả kêu lên nghe đứt ruột. Đứt ruột vì một người biết việc bán đậu lép là không lương thiện mà vẫn cứ phải bán. Dù có lí nhí cảm ơn, dù có tặng không bao nhiêu nụ cười thì trong lòng bà vẫn nặng trĩu xấu hổ xót xa. Con trai đi lính chết, con dâu phải tần tảo nuôi con. Hạt chắc cô dâu luộc bán ban ngày, hạt lép để bà lập lờ đánh lận con đen lừa bán trong đêm. Có vậy mới kiếm được chút tiền lời nuôi mình và nuôi cháu! Thế là những người nghèo muốn sống lương thiện cũng khó mà sống được. Cứ phải dối gạt một chút. Một chút nhưng mà cả một đời dài thì dối gạt bao nhiêu?! Cho nên những hạt đậu ấy tan vào miệng ông đắng chát.

Ngồi ở tầng cao Paris bên ly rượu vàng sóng sánh mà ông không nhấm nháp được hương vị nồng nàn của mùa xuân vì ông nhớ ra không chỉ ờ Hàng Xanh, ở sân trường tiểu học Bạc Liêu, ở bến xe Mỹ Tho mà còn ở bến phà Rạch Miễu, Cần Thơ, Vàm Cống…nhiều không đếm hết những bà già quê hương, những bà có làn da nhăn thơm tho mùi đất, có nụ cười rì rào tre trúc, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng đã bơm máu vào rún tôi từ thưở còn trong bụng mẹ. Những bà mẹ Việt Nam không một chút anh hùng, những bà mẹ bình thường của bao nhiêu năm chinh chiến. Vẫn còn đó những mối tình đầu của ông. Vẫn còn đó cho dù thời gian qua mau và cuộc sống quay cuồng khiến chúng ta vô tình hay ơ hờ không thấy.

Ông Kiệt ( không có Trụ ) ơi, đọc xong truyện này tôi thấy mắc cỡ quá. Mắc cỡ vì tôi đã từng gặp bao nhiêu người lượm lon, bán cà rem, bán đậu phộng, bán chuối chiên, cóc ổi xoài như ông mà sao lòng tôi lúc ấy và cả đến bao năm sau vẫn cứ dửng dưng. Tôi không khinh họ nghèo vì tôi có giàu có gì hơn đâu, nhưng tôi lại chỉ động lòng trắc ẩn với những người ăn mặc lành lặn và nói ra ông chớ cười, xinh đẹp một chút, trẻ trung một chút, sẵn sàng lao vào dòng xe cộ như mắc cửi để nhặt cho nàng một chiếc khăn rơi, hay gồng mình làm Lục Vân Tiên trước bọn lục lâm thảo khấu cho dù sau đó ôm đầu máu vì dở hơi trói gà không chặt. Tôi nào dám gọi một bà bán cà rem, bà lượm lon hay bà bán đậu phộng bằng một cách thực lòng như ông.

Nhiều người khen ông là bồ tát nhưng tôi không nghĩ vậy. Ông yêu họ một cách thực lòng vì cuống rún của ông chưa lìa, vì mùi bùn đất phù sa vẫn chưa rửa sạch ở tim ông dù ông đang sống ở Paris. Sống ở Paris mà lòng ông thì ở Bạc Liêu, ở Việt Nam, còn tôi và chắc cũng có nhiều người khác sống ở Việt Nam mà hồn mộng ở tận Paris hay Nữu Ước! Sống xa quê hương mà ông lại nhớ, lại yêu. Còn tôi sống giữa quê hương mà lại quên lại ghét. Đôi khi ghét quá vì nghèo đói, vì tụt hậu, vì …hàng trăm thứ…!

Có ngứa ngáy cầm bút một đôi khi, tôi mới thấy viết được một truyện như ông viết, nếu có phải lăn ra chết thì cũng thực là sướng. Sướng vì ít ra cũng làm được một việc nhỏ có ích cho mình và cho đời. Mà đọc lại cho kỹ thì thấy ông đâu có viết, ông chỉ trải lòng mình ra, không như trải thảm đỏ ở nhà hàng khách sạn hay các cuộc đón rước phương diện quốc gia quan trên ngó xuống người xa trông vào, mà là trải như lúa rạp mình trên đồng ruộng, như nước phù sa đong đưa vào tận thềm nhà, trải như nghé con goi mẹ như cháu sà vào lòng bà. Tự nhiên phơi hết gan ruột chứ không kỳ khu gọt dũa, không làm văn theo kiểu cách tân.

Ông Kiệt ơi, cảm ơn ông đã cho tôi tìm gặp lại quê hương ngay chính giữa quê hương mình. Tôi cũng như ông, chỉ mỗi một quê hương chiến tranh nghèo đói, nhưng đó là một quê hương thật với những bà mẹ quê hương, mà dù có đi khắp năm châu bốn bể cũng không dễ gì tìm ra được. Ờ, cũng như ông, tôi yêu họ, dù đây là tình cuối chứ không phải tình đầu....

Khuất Đẩu
10/2009

Liêu thái thái
#43 Posted : Monday, November 30, 2009 6:58:25 AM(UTC)
Liêu thái thái

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 2,677
Points: 786
Woman
Location: thôn bọ ngựa

Thanks: 8 times
Was thanked: 38 time(s) in 38 post(s)
Lại Điên Như Kiệt Tấn

Khuất Đẩu

Bài 3. Em điên xoả tóc

Bệnh viện Paul Brousse, ngày…
“ Có hai điều tôi sợ nhất trên đời là bệnh tật và cô đơn. Mà rồi bây giờ tôi cô đơn và bệnh tật. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ở nhà thương điên…”


Đó là những dòng mở đầu cho nhật ký của ông. Và câu chuyện ở nhà thương điên, cho dù là nhà thương điên của Tây có mỹ từ là bệnh viện tâm lý thì cũng như Nguyễn Ngu Í và Bùi Giáng ở Chợ Quán Biên Hoà, có chi mà đáng nói đáng viết. Đúng là không có chi nếu không có cái sự vụ một em tóc vàng sợi nhỏ cũng điên như ông!

Khoan nói về nhà thương điên của Tây, hãy nói về nhà thương điên của ta trước đã. Hồi học trung học, một anh chàng si tình phát điên bị nhốt trong phòng có song sắt, hắn ta miệng nói làm xàm không ngớt và leo trèo lòng vòng như khỉ phát chóng mặt. Bận khác đi thăm con nhỏ cháu tôi ở Chợ Quán. Nó bị nhốt chung với rất nhiều người điên, nhà giam giống như chuồng nhốt súc vật ở sở thú. Mùi hôi hám nhớp nhúa hực ra tanh thúi không thể tả. Nó đứng vịn song sắt khóc ròng đòi về..Bỗng có một mụ dơ dáy quần áo rách bươm tới nắm tóc nó kéo đi, tru tréo sao nó giết con mụ ta…

Bị đưa vào một nơi như thế ai mà không sợ. Nhà thương điên ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng giống như một cái ruột thừa. Xã hôi tộng vào đó những kẻ không chịu ăn như họ, nói như họ, ngủ nghê và làm tình như họ. Tộng vào đó cho khuất mắt chứ chữa chạy được gì. Những người được coi là hết bệnh chẳng qua là sợ quá nên chẳng dám điên nữa vậy thôi. Ông Kiệt bị đưa vào đó, tuy ở Tây sạch sẽ hơn, văn minh hơn, nhưng là vẫn phải sống chung với bọn người mà xã hội nôn mửa không muốn nhìn mặt. Với một người nhiều xúc cảm như ông thì nơi ấy chính là địa ngục. Vậy mà rồi sau một giấc ngủ đầu tiên ở bệnh viện đen ngòm như chén chí-bá phù, thức dậy ông lại thấy trời xanh nắng ấm, thấy chim chóc cây cỏ bên ngoài cửa kính vẫn đẹp vẫn đáng yêu, ấy là bỡi thấp thoáng bên ông có một mái tóc dài. Mái tóc thần tiên gợi nhớ những cô em trên Cửu Long giang, trên những đường phố Sài Gòn Gia Định.

Nàng đẹp, phải công nhận nàng đẹp, nhưng đẹp đâu phải là một lý do để nổi điên, ông nói. Điên phải có lý do chính đáng chứ. Như ông là vì mất ngủ đến tám tháng, vì thất nghiệp, vì khổ đau xấu hổ phải để vợ đi làm ở nhà hàng có ông chủ hay bốc hốt ẩu tả, vì cuộc chiến vừa qua làm bạn bè đứa chết, đứa cụt tay cụt chân, đứa đi cải tạo và những thứ triết lý con tiều làm ông mệt óc. Hay như anh chàng tây sún răng bị vợ bỏ theo người đàn ông khác, hay như mấy ả đứng đường cũng biết yêu rồi thất tình hoá điên. Còn nàng tóc nhỏ mà dài như thế, gót chân hồng như thế, ăn mặc trang nhã và tinh tươm như thế sao lại vào đây? Ông cũng như tôi cứ tưởng điên là phải xấu, phải dơ, phải ăn nói quàng xiên, múa may nhảy nhót bậy bạ, chứ đâu có mà ngồi yên một chỗ với cái nhìn xa vắng như theo đuổi một hình bóng xa xăm ở cõi trời nào.

Đầu tiên ông tưởng nàng là một y tá của bệnh viện để mơ mòng đợi nàng nghiêng mái tóc xuống mặt mình mà nhớ tới tàng cây vú sữa rì rào trong nắng trưa, với những trái tròn căng như vú có sữa trắng, leo lên cây không để hái trái mà để ngắm trộm nàng có lông tơ trên cánh tay, chị nàng có nước da trắng trẻo…Cái máu mê gái đến thành bệnh của ông trong nhà thương điên này không có chi là bậy bạ, mê một mái tóc dài thì có chết thằng tây đen nào đâu. Cho nên ta thấy ông không sàm sỡ, trái lại đàng hoàng rất mực nếu không muốn nói là hơi cả ngố. Tôi thò tay đặt lên giường nàng trái táo, như lén lút rồi vội vã trở về phòng mình đóng cửa lại, tim đập mạnh. Không phải ông tán tỉnh đâu, ông thương nàng quá đấy thôi, thương đứt ruột là bởi một người đẹp có mái tóc yêu kiều thướt tha như em sao lại nỡ nổi điên?

Dần dà rồi ông cũng làm quen được nàng. Khi trái táo, khi ly sữa, khi cây cà rem. Cái cảnh ông và nàng ngồi trên ghế gỗ bên đường mút cà rem là cảnh mà tôi thấy dễ thương nhứt, ngây thơ nhứt mà cũng tình tứ nhứt của những người điên yêu nhau mà không hề biết. Rồi đó nàng tỉ tê kể cho ông nghe chuyện mình. Nàng trước đây cũng là một y tá, nhưng ba mẹ kình cãi nhau miết khiến nàng phải dùng dao cắt đứt gân tay. Người ta sợ nàng hoá điên nên phải đưa vào đây.Thực ra là nên đưa mẹ nàng vì bà ghen với nàng, cứ ám ảnh chồng mình đã ngủ với con gái! Cơ sự như thế đúng là đâu cái điền!

Không ai cạy miệng cho nàng nói mà ông làm được. Rồi nàng rủ ông đi học vẽ, ông rủ nàng đi chơi phố, hứa dẫn nàng xuống Paris xem xi nê. Nghĩa là hai người đang hết điên mà chẳng phải nhờ đến bác sĩ hay thuốc men gì ráo trọi. Vậy mà bọn người duy kiến thức ấy lại định đưa nàng đi nơi khác để chạy điện! Tôi bủn rủn. Người ta sẽ tra hai cực điện lên màng tang Evelyne và phóng điện vào óc nàng, tóc nàng cháy khét lẹt. Làm sao chịu nổi! Còn nàng: đôi mắt van lơn, anh, em không muốn đi! Nhưng cuối cùng họ vẫn phải xa nhau để giờ này anh ngồi trên băng đá, nước mắt lưng tròng. Em ơi, em ở đâu, em đã bớt điên chưa hay có còn sống sót?!

Cái thế giới người tỉnh với những Hitler, Mỹ, Nga, với bom nguyên tử, với những chủ thuyết truy bức con người đến tận cùng, với Thượng đế do họ dựng nên để rồi quỳ lạy cầu xin, cái thế giới ngu si loảng xoảng tiếng xích sắt ấy quả thực là chẳng ai hiểu được người điên, chẳng ai giải cứu được họ ngoài chính họ. Những người tỉnh chỉ làm cho họ điên hơn nếu không muốn nói là giết họ từng ngày. Evelyne ơi, ngày nào em rời khỏi bệnh viện, ngày nào anh rời khỏi bệnh viện, ngày nào anh và em hết khật khùng, anh hứa sẽ mua cho em cây cà rem và dắt em đi coi hát bóng. Sẽ không coi phim thằng khùng ăn cắp con gà đồng, mà sẽ coi phim thằng người gỗ…Với những người duy ý chí, duy kỷ luật, duy máy móc… thì ngày đó xa, xa quá, ngày mà ông mơ em sẽ không bao giờ lớn thêm, anh sẽ không bao giờ trưởng thành, hai đứa mình không ai lớn lên hết, ngày của thiên đường vì màu thời gian thanh thanh của tuổi thơ như ngừng lại nên xanh hơn bao giờ, ngày đó không bao giờ gặp lại nữa.

Bên cạnh một gã ồn ào huênh hoang lý thuyết này nọ, một gã râu rậm gãy mất hai răng cửa vì phải dùng cây cạy răng để đổ thuốc vào mồm, một ả đứng đường vào nhà thương điên mà vẫn không bớt đi cái thói õng à õng ẹo,thì Evelyne buồn và nghiêm trang như Đức mẹ Maria, thuần hậu như gái Miền Nam, u uẩn như Trương Quỳnh Như có làm cho Kiệt Tấn tương tư cũng không có gì lạ. Không ngờ ở cái xứ có nhiều người em xóm học, nhiều giai nhân nằm phơi loã thể như ở Paris lại có một Evelyne bí ẩn, tội nghiệp đến như vậy.

Viết về tình yêu rất dễ vì một người cầm bút ai chẳng có ít nhiều tình yêu nếu không muốn nói là quá dư thừa, nhưng viết cho người khác (chứ không phải cho mình) đọc mà phải ngẩn ngơ, rồi muốn rồi thèm được nhốt vào nhà thương điên như Kiệt Tấn là không phải dễ. Một mối tình bàng bạc hồn nhiên của tuổi ấu thơ giữa hai người điên sao mà tinh khiết và thơm tho đến như vậy.

Nguyễn Mộng Giác trong bài tựa nói Kiệt Tấn đã sống hết mình và viết hết mình, khi sự chân thành đã đền độ giống như sự khoả thân trước cuộc đời cọng với tài ba ắt phải thành nghệ thuật. Liệu có muốn đưa Kiệt Tấn lên ngồi cùng chỗ với các nhà văn Tây phương hay Nhựt Bổn? Liệu vinh danh hay ô danh? Trong những truyện tôi vừa mới nêu tên và cả tập truyện gần hai mươi truyện của nhà xuất bản văn hoá Sài Gòn, tôi chẳng thấy ông sống hết mình đâu hết mà chỉ thấy ông thương hết mình, thương lai láng, thương con vịt vàng chết oan, thương bà lượm lon, bà bán cà rem, bán đậu phụng lép, thương một em tây bị mẹ ghen là ngủ với cha mình. Nếu bảo tác giả sống hết mình thì chắc ông đã hãm nàng rồi vì xem những tranh ảnh và sách khiêu dâm ai đó để trong nhà thương ông đã lại thấy cương cứng lên rồi khiến ông mừng rơn vì thấy mình đang khỏi bệnh. Còn bảo viết hết mình thì cũng chưa vì một nhà văn thực sự là người chưa viết được hết những gì muốn viết. Vả lại cũng không nên viết hết mình vì còn để cho người đọc viết thêm bằng những xúc cảm của họ. Như truyện này, có chết thằng tây đen nào đâu mà ông không dám viết hôn nàng một cái dù ông rất muốn! Vây mà ông không chịu hạ bút, ông để cho chính mình và người đọc thèm chơi. Đó chính mới là nghệ thuật, một nghệ thuật vừa che dấu vừa khơi gợi.

Kiệt Tấn là ai vật cà? Xin thưa là một Việt kiều yêu nước thầm lặng, một nhà thơ trước 75 có trình làng tập Tình yêu và trái phá, bẵng đi mấy chục năm không viết, mới viết lại như chơi, viết cho đỡ nhớ nhà và mới đây nhờ bạn là Thân Trọng Minh in ở Sài Gòn để gọi là chữ thương còn một chút này, xin cầm cho vững đừng dày cho tan! Còn tôi là ai? Là đồng niên, chứ không phải đồng hương hay đồng song đồng chí gì ráo. Thấy thương ông và thương mình cũng nổi máu điên viết chơi mà viết trộm chứ ông cũng đâu có biết tôi là ai. Đọc ông tôi chẳng thấy chỗ nào hơi thở rướn cong cả,chỉ thấy hồn mình trở nên mênh mông bát ngát, thấy mình thơ trẻ trở lại, thấy ông đi cùng trời cuối đất mà vẫn rất gần trong khi quanh đây có biết bao nhiêu người ngồi nói đứng cười sát bên cạnh mà vẫn cứ thấy xa cách nghìn trùng. Ông là một người tự trọng nên muốn khen cũng không dám khen. Tôi chỉ muốn nói,viết được như ông thì quả là không uổng mấy mươi năm đất khách quê người. Phải cảm ơn sự hắt hủi chia lìa vì nếu còn sống ở Bạc Liêu tức là sống giữa ruột rà quê hương chắc gì ông đã viết được hay đến nỗi muốn khóc.

Ở trong còn lắm điều hay, xin mượn câu thơ Kiều để được nói thêm rằng ngoài câu chuyện tình bảng lảng như sương như khói, còn có cả những chiêm nghiệm trầm tư của một người mất ngủ vì nhớ nước thương nhà, những giải đáp rất gàn rất điên nhưng rất đúng cho những tra vấn hiện hữu hay không hiện hữu, sống chết ra răng… còn có Tây mà cũng thế a? khi thấy gã bị vợ bỏ lấm lét chỉa quần lót trong cửa hàng, nghĩa là một góc xã hội Tây phương già cỗi huênh hoang được tác giả thu nhỏ lồng bên cạnh mái tóc dài đà đuột phương đông.

Viết đến đây tôi lại nhớ tới những nụ cười được tặng không của các bà già quê hương, xin cũng được quảng cáo không công cho tác giả rằng, ngoài ba truyện tôi vừa đọc trên đây còn rất nhiều truyện tràn ngập chất thơ với một văn phong rất riêng của Kiệt Tấn, nếu không muốn nói sợ tác giả mắc cỡ rằng khi đọc ông một đôi lúc tưởng chừng đang đọc Bồ Tùng Linh.

Khuất Đẩu
10/2009

Kiệt Tấn
#44 Posted : Friday, December 4, 2009 4:23:14 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

Đa tạ Liêu phu nhơn đem bài của KĐ vô đây Rose
Kiệt Tấn
#45 Posted : Friday, December 4, 2009 5:08:35 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0


EM VỊT VÀNG NHỎ CỦA TÔI ƠI!
Má ơi con vịt chết chìm
Thò tay vớt nó con cá lìm kìm rỉa tay
Ca Dao




Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó dương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê. Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kep!... Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.

Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại. Má nó là con vịt xiêm mái cồ đã đẻ nhiều lứa, giữ con thiệt hay nhưng cũng rất dữ tợn, ba tôi gọi con vịt mẹ này là con vịt Mẫu Hậu. Có lần tôi bắt con nó để giỡn chơi bị nó bay đáp lên đầu vừa quào vừa mổ chảy máu, tôi la khóc chói lói và cũng kể từ đó tôi sợ nó lắm.

Vì vậy lần này tôi lén bắt con vịt vàng nhỏ trốn ra góc hè, ngồi dựa vách lá chỗ khuất để được tha hồ mà tưng tiu trững giỡn với nó. Mà nói cho ngay, con vịt vàng này là của tôi chớ không phải là con ruột của con Mẫu Hậu. Cách đây đâu chừng ba tuần lễ, má tôi biểu tôi ra đồng lùa vịt. Tình cờ tôi lượm được một trứng của con vịt mái nào đó đẻ rớt. Tôi đem về lấy mực làm dấu rồi lén bỏ vô ổ cho con Mẫu Hậu ấp chung với mấy trứng khác cùng chạng. Vịt xiêm biết ấp trứng, còn vịt ta thì không biết. Chừng nở ra mấy con vịt kia đều cùng một họ Xiêm lớn con màu xám có hai chấm vàng trên cánh, chỉ có trứng vịt làm dấu của tôi là nở ra con vịt nhỏ nhứt vàng lườm vô cùng xinh xắn. Nhưng con Mẫu Hậu không kì thị chủng tộc một chút nào, con nào cũng là con của nó hết, tôi rớ tới con vịt vàng là bị nó xòe cánh mổ liền. Còn giống vịt cũng ngộ lắm, khi nở ra là theo riết người mẹ mà nó ngó thấy trước tiên lúc mở mắt. Bởi vậy nên mới có cái cảnh mẹ gà con vịt chít chiu, khi lũ vịt con chạy ùa xuống nước bơi lội thì mẹ gà chỉ còn nước đứng trên bờ gọi khan cả tiếng … rồi rút khăn mù-xoa ra mà lau lệ.

Trước khi xảy ra vụ Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương và phong trào Việt Minh nổi dậy, gia đình tôi sống tại châu thành Bạc Liêu, ba và anh Hai tôi chung sức tạo dựng được một trại mộc nhỏ. Khi giặc giã tràn tới, gió bụi nổi lên tơi bời, anh Hai và anh Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, còn ba tôi thì đóng tam bản chở gia đình đi tản cư. Sau hơn một năm lang bạt kỳ hồ, muỗi cắn đỉa đeo, kẻ đau gan người mang bịnh thũng, chúng tôi chịu đời không thấu nên hồi cư.

Về thành, trại mộc đã mất, ba tôi bèn biệt kinh kỳ tấp về Xóm Mới ở ngoại ô Bạc Liêu làm lại cuộc đời. Chúng tôi ở nhà mướn, ba tôi cất một trại mộc mới nhỏ hơn, cùng với anh Hai và chú Chín câm điếc của tôi bào đục, tự lực cánh sinh. Còn má tôi thì nuôi thêm gà vịt đắp đỗi. Má tôi vốn người quê mùa miệt Cờ Đỏ nên cũng ham nuôi heo nuôi gà nuôi vịt lắm. Tôi cũng ham không kém vì lần nào có một lứa gà hay vịt nở, má tôi đều cho tôi tự ý lựa chọn một con làm bạn riêng và tha hồ cho tôi tưng tiu chăm sóc nó. Vì vậy, khi trứng bắt đầu khẻ mỏ, tôi cứ túc trực canh chừng bên ổ, mặc tình cho mấy con mạt gà (một loại giống như bồ mắt) từ gà mẹ hay từ ổ bay ra chun vô áo mà cắn, ngứa ngáy gãi sướt cả da. Tôi gan lì ở lại giúp cho gà con và vịt con khẻ mỏ gấp gấp và chun ra khỏi vỏ mau mau. Mỗi bận một con nở ra là mỗi bận tôi reo mừng và thú vị hết sức.

Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhầm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu giạt ra mà rồi cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí, ai dè Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: “Gặp tao tao cũng rỉa nữa … huống hồ là con vịt!”

Mãi về sau này, dun rủi lần nọ khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại Bàng còn hứng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành dâm khúc mà quên thu hồi báu kiếm, xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy tưởng là mồi bở trồi lên đớp mất. Thế là … tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà, cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là bạo chúa đã xuống tóc đi tu?). Kể từ đó thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.

Nhưng đối với bà chủ nhà, tôi chỉ nể mà không ghét. Ghét là tôi ghét cậu em trai của bà chủ. Cậu này là bợm nhậu mút mùa, chó vàng chó vện gì mập mập mà lảng vảng trước mắt cậu là kể như tới số. Cậu đi đâu chó trong xóm hùa ra sủa vang rân tới đó. Thỉnh thoảng thiếu mồi, cậu lại ghé qua chuồng gà chuồng vịt của nhà tôi mà dòm dèm. Tuần trước cậu lại ghé nhà tôi mượn đỡ con gà, nói là để đưa ông táo về trời trong dịp cuối năm, Tết nhứt tới rồi. Về mặt lý thuyết, tôi chẳng có gì chống đối. Nhưng trên thực tế, ác thay cậu lại nhè chọn con gà giò mà má tôi đã cho tôi chọn bạn từ hồi mới nở, tôi chăm sóc rất kỹ, cứ ôm ấp hoài và cho ăn thêm nên nó mập bự hơn mấy con khác cùng bầy. Như vậy mới đổ nợ. Khi cậu chỉ tay chọn con gà ruột của mình, mặt tôi vụt xanh dờn bí xị và mếu khóc. Má tôi ôm tôi vào lòng và năn nỉ cậu chọn con gà khác mà cậu nhứt định không nghe, đã vậy còn lên mặt giận hăm he đuổi nhà. Khi cậu thò tay ẵm con gà giò của mình, tôi lăn ra khóc sướt mướt. Má tôi cũng sụt sịt và hết sức dỗ dành tôi. Má tôi hứa khi vịt nở, má tôi sẽ đền cho tôi con khác. Tuy vậy, tôi cũng tỉ tê cả buổi trời.

Rồi buổi chiều hôm đó, tôi lén má ra sau hè nhà bà chủ lượm nắm lông tàn của con gà ruột của mình, đoạn giấu đem ra ruộng phía bên kia mương lộ mà chôn cất gần giếng nước. Bên bờ giếng, tôi dành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng.

Mà khi tôi khóc, mấy thằng nhỏ trong xóm bèn xúm lại kêu ngạo tôi. Hồi đó, lúc khóc chắc là tôi xấu lắm. Lúc năm sáu tuổi, răng tôi bị siết ăn đen sì rụng sát nướu, chỉ còn trơ lại hai chiếc răng chó ở hàm trên, cũng đã bị ăn khuyết mòn xung quanh. Hết răng thì móm, dĩ nhiên. Vì vậy, khi tôi nhăn nướu đen siết ra khóc, tụi lỏi xúm lại nhạo tôi, “bà già móm tóm lưỡi câu, ông già râu câu cá chốt”, hoặc ác hơn “sún răng bắt cầu chía ỏ” (xin đừng nói lái mà chết cái duyên thằng nhỏ).

Sau khi cạy mô đất nẻ và vùi chôn nắm lông tàn bên dưới, tôi lại ngồi bẹp một bên mà thút thít ngậm ngùi chứa chan lệ đẫm. Sắm sanh nếp tử sa châu, Vùi nông một nấm mặc dù cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà… Tỉ tê như vậy không biết bao lâu. Tới khi nghe tiếng má kiếm và kêu tên mình từ phía bên kia mương lộ “Kiệt ơi! Kiệt à!” tôi mới giựt mình ngơ ngác. Tôi quẹt nước mắt đứng dậy đi trở ra mương lộ, rồi leo qua chiếc cầu khỉ trở về nhà.
Trời gần Tết, gió hiu hiu lạnh…



Hai bữa sau ổ vịt xiêm nở ra được mười một con, trong đó có Em vịt vàng nhỏ của tôi. Đối với tấm lòng thơ ấu của tôi, vịt vàng là đứa con rơi, mồ côi mồ cút, con Mẫu Hậu là má nuôi của nó, còn tôi là anh ruột của nó. Vịt vàng em tôi đã tới kịp thời xoa dịu lòng đau khổ của anh mình và lấp được chỗ trống trải trong con tim ấu thời do con gà bạn thân vừa chết đi để lại. Nhưng vịt vàng còn quá nhỏ, chưa truyền được hơi ấm như những lần tôi luồn tay dưới bụng con gà giò ngày xưa mà ôm vào lòng yêu ấp. Tuy nhiên, tiếng thủ thỉ lép kép! lép kép! ngây thơ của nó cũng chở được vào tâm hồn đứa nhỏ sáu tuổi biết bao là hạnh phúc tuyệt vời!

Vịt vàng lại đưa chiếc mỏ nhỏ xíu rỉa mấy hột cơm giữa hàng răng sún của tôi. Bỗng trên thinh không Ầm!!! một tiếng long trời lở đất, tôi giựt bắn người hết hồn, con vịt vàng cũng la chét lên một tiếng thất kinh. Ầm!!! Ầm!!! hai tiếng nổ long trời khác tiếp theo liền, trên đầu đạn bay véo véo. Tôi còn đang chới với thì vịt vàng đã sút khỏi tay tôi rớt xuống đất lăn cù rồi đứng dậy chét! chét! chét! chét! gọi má thất thanh, bỏ chạy. Con Mẫu Hậu nghe con kêu cứu cũng lên tiếng đáp ứng và từ xa chạy tới. Vịt vàng mừng quá nhào vô quấn lấy cẳng má mình ẩn núp. Cảnh tượng trước mắt gợi lại trong trí tôi cái Tết năm ngoái trên đường tản cư, khi má tôi dừng mái chèo lại trên dòng sông Vĩnh Phước để cứu vớt ba mẹ con người đàn bà chạy giặc sắp chết đuối, xung quanh đạn lửa bừng bừng, người trúng đạn té xuống sông lòi ruột. Má tôi đã đưa tay kéo đứa nhỏ gái cho đeo cột chèo để má nó trồi lên ôm đứa con trai độ hai tuổi lội qua bên kia sông an toàn. Và đứa nhỏ gái cũng đã lên tiếng gọi má nó thất thanh như con vịt vàng nhỏ của tôi giờ đây vậy. Cũng một giọng cuống cuồng, cũng một điệu thảng thốt, rát ruột. Cho tới khi má tôi trả đứa nhỏ gái lại cho má nó bên kia bờ sông và người đàn bà bồng hai đứa con lẫn khuất trong đám người chạy giặc hỗn loạn tôi mới hết nghe nó kêu khóc. Chỉ mới năm ngoái thôi nên hình ảnh còn rất rõ rệt.

Thấy con Mẫu Hậu cất cổ gọi hết bầy con lại và xù lông bảo vệ, mồng trên đầu và trên mặt đỏ ké dữ tợn, tôi không dám nhào vô mượn đứa em ruột của mình trở lại.

Ầm! Ầm! Ầm! Ầm!... Tiếng cà nông thụt từ bót “Hội Đồng Điều” cách nhà tôi khoảng một trăm thước tiếp tục rền rĩ xé trời. Sở dĩ bót mang tên như vậy là vì ngôi nhà cao cẳng của ông Hội Đồng Điều bị người Pháp trưng dụng và cất thêm lô cốt xung quanh để làm đồn bót chận đường Việt Minh.

Tôi ngó theo hướng đạn đang bay về miệt Trà Kha, thấy mấy ngọn cau miệt đó gẫy gục, khói bốc lên ngùn ngụt. Miệt Trà Kha cây cối um tùm và rạch sình chằng chịt, du kích quân thường ẩn núp trong đó, chờ đêm tối kéo ra đánh đồn phá bót rồi lại rút về đó dưỡng quân. Thỉnh thoảng Tây kéo lính, công voa và thiết giáp vô Trà Kha ruồng bố. Chiều qua đã có chạm súng đụng độ và xe cứu thương hụ còi chạy ngang nhà tôi, nghe nói lính ở thành bị lọt phục kích chết nhiều. Có lẽ vì vậy mà bây giờ Tây thụt cà nông vô đó trả thù. Hoặc không chừng pháo kích trước để chuẩn bị hành quân càn quét. Xe díp cứ xẹt tới xẹt lui ngang Xóm Mới tôi từ sáng tới giờ. Nhiều khi mấy ông còn kéo về tận xóm tôi và núp sau mấy cái mả đá bắn phá và liệng lựu đạn qua bót Hội Đồng Điều. Lính trong đồn xả súng liên thanh và mọt chê tưới sượi vào xóm tôi, nhà nào nhà nấy đều bị thủng đạn, cháy vách bể ngói lung tung! Bởi vậy nhà nào cũng có đào hầm trú ẩn ngay bên trong, nhà tôi cũng vậy.
Khi có chạm súng, ai nấy đều sợ mất vía nên tự động nhào hết xuống hầm. Chỉ trừ có chú Chín tôi vì điếc không sợ súng nên cứ đứng sổng lưng tự nhiên mà coi đạn bay đỏ trời và còn phát âm dễu dễu! dễu dễu! mấy tiếng trầm trồ thán phục. Can không nổi. Lúc nào bắn rát quá, kèo lá trên nóc nhà gẫy tuôn hết xuống ào ào, má tôi niệm Phật lia lịa, còn chị Tư tôi thì đội cái thau nhôm trên đầu, răng cỏ đánh bò cạp lốc cốc và đái trong quần luôn hồi nào không hay. Còn tôi thì cứ đau bụng mắc ỉa thúc tới, cẳng chưn lạnh ngắt, miệng khô queo.

Cuộc pháo kích còn đang tiếp diễn đinh tai nhức óc thì ba tôi từ trong trại mộc bước ra sân ngó lên trời chửi đổng:
- Đ.m! Năm nào cũng vậy, hễ Tết nhứt tới là có sanh giặc. Thiệt tình! hổng có năm nào bà con được yên ổn ăn Tết một lần thử coi.
Đoạn day qua thấy tôi đang đứng xớ rớ ở xó hè, ba tôi lên tiếng:
- Thôi mầy với thằng Lộc sửa soạn tao dắt đi chợ Tết. Bữa nay hăm chín, chiều nay là hết họp chợ rồi. Đi cho kịp trưa nay mua chút đỉnh đồ với thịt heo ba rọi về tao kho để dành Tết ăn.

Tôi nghe nói mừng lắm. Thế nào cũng có thèo lèo cứt chuột, hột dưa, tôm khô củ kiệu, mứt dừa, mứt bí. Hơn nữa, gì chớ ba tôi mà kho thịt heo với cá bống kèo kiểu Bạc Liêu là số dách. Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vô nước sôi đậy nắp lại, cá bống còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chặp sau, ông giở nắp ra vớt cho tới khi hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm. Khi chín, con cá mềm sùi và còn nguyên chất ngọt. Phần bụng và đầu nhẩn nhẩn để cho người lớn, tôi thì hẩu xực cái đuôi. Còn kho thịt, ba tôi lựa mua thịt heo ba rọi có nhiều mỡ, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang. Xong ông đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa. Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào nhâm nhi là hết xẩy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ, càng rệu. Hễ tới tết là ba tôi giành để chính tay mình kho thịt. Má tôi kho ông chê nạc nhiều thịt cứng và mặn. Má tôi thì làm những món khác như hủ qua hầm, gà rô ti, vịt cà ri, bánh tét, cải món, dưa cải, dưa giá… cũng ly kỳ lắm. Hồi nhỏ tôi ăn cái gì cũng thấy ngon và sướng ran, khoái tỉ. Nhà nghèo nên cũng ít khi được ăn nhiều món như trong dịp tết. Quần áo má tôi xỏ kim may lấy cho tôi và Lộc – không biết bà học may ở đâu. Bận vô, bâu vè bẹt ra, túi thẳng hai cái hai bên coi cũng le lói như ai.




Trước nhà tôi có cái mương nhỏ lưa thưa cỏ lát mọc và bèo nổi. Kế mương là bờ đất cỏ dại, giáp ranh đường lộ lởm chởm đá xanh loang lở, rồi một bờ đất khác tiếp nối dốc xuống mương lộ rộng chừng ba thước có cầu khỉ bắc ngang, bên kia là ruộng lúa với giếng đào chứa nước mưa ngọt và cái nghĩa địa của tôi nằm cạnh bờ giếng. Tôi bước ra trước nhà, ngó thấy cách đó không xa con Mẫu Hậu đang dắt bầy con kiếm ăn ở mương nước, lũ vịt con vừa kêu lép kép vừa chìa mỏ rỉa vào bèo nổi, con vịt vàng nhỏ của tôi tách rời với hai con vịt xám khác, cách vịt mẹ đâu chừng một thước. Tôi đi về phía đó tính lùa vịt về chuồng ở sau nhà nhốt lại.

Chợt từ phía bót Hội Đồng Điều vọng lại tiếng động cơ ồn ào, mỗi lúc một lớn hơn, mỗi lúc một gần hơn. Có lẽ đoàn công-voa đang bắt đầu chuyển dịch. Rồi từ phía xa, một chiếc xe heo nọc trờ tới, mỗi lúc một rõ dần, chiếc xe bọc thép mở đường có gắn súng lớn xung quanh, mũi xe đeo ống dây cáp sắt để trục xe sa lầy, hai bánh trước chạy bằng cao su thường, hai bánh sau chạy trên xích sắt, khi di chuyển dây xích nghiến nát đá đường chát chúa điếc tai, mặt đất rung rinh chấn động. Khi xe thiết giáp dẫn đầu còn cách bầy vịt độ năm thước, bỗng dưng con Mẫu hậu ngửng đầu ngó lên rồi chợt giựt mình nhảy phóc ra khỏi mương vọt chạy băng qua phía bên kia lộ, dắt theo tám con vịt xám nhỏ - tôi không kịp phản ứng gì hết. Vịt mẹ dừng lại bên kia mương cất tiếng kêu réo đám con còn kẹt lại ở mương nhỏ bên này.

Vừa khi đó chiếc xe bọc thép mở đường cũng đúng nhịp trờ tới lướt qua mặt tôi, trực chỉ Trà Kha, xích sắt rần rật lay chuyển mặt đất dưới chân chỗ tôi đang đứng. Chiếc xe cam nhông chở lính đầu tiên từ từ tiến tới, chậm rãi nối đuôi theo xe thiết giáp. Từ từ, từ từ… Bên kia đường vịt mẹ vẫn tiếp tục gọi con, giọng kêu hoảng hốt, lo lắng. Ba con vịt nhỏ lại vụt nhảy lên mương rồi vọt băng qua phía bên kia đường, tôi dang tay ra cản ngăn không được. Chiếc cam nhông trờ tới… Hai con vịt xám lẹ chưn chun tọt dưới lườn xe biến mất, con vịt vàng nhỏ của tôi cũng vọt theo, tôi cũng vọt theo. Bỗng em tôi vấp bánh sau của xe cam nhông dội lại, tôi cũng dội lại, đuôi xe kình càng lướt qua sát rạt bên mũi, mấy người lính lê dương râm ria xồm xoàm ngồi trên xe chồm ra la ó vang rân và khoát tay đuổi tôi trở lộn vô bờ lề. Chiếc xe cam nhông thứ hai từ từ tiến tới, động cơ rù rì, bí mật, lạnh lùng, vô giác. Từ từ, từ từ… bánh xe cao su từ từ lăn tới…

Con Mẫu Hậu vẫn tiếp tục gọi con thảng thốt. Hai con vịt xám nhỏ đã qua được bên kia đường an toàn và nhập bầy. Chỉ còn lại bên nầy đường có mỗi con vịt vàng nhỏ của tôi đang chạy lăng xăng cuống cuồng và tôi cũng đang cuống cuồng rượt theo. Tôi cúi xuống chụp nó mấy lần nhưng chụp hụt. Má nó lại cất tiếng réo gọi. Con vịt vàng ngửng cổ nghe ngóng rồi bỗng lại vọt phóng trở ra giữa lộ thần tốc. Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông mịn màng không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng “Chét” thảm thương bên tai, thôi rồi! chết em tôi rồi, tôi ngã quị xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!... Chết em tôi rồi! Nhúm lông vàng dính trên bánh xe sau ghép đôi cuốn theo đoàn lính lăn đi, để lại vết máu đỏ tươi bằng bàn tay thấm ướt trên mặt lộ. Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt theo, chết em tôi rồi! Tôi hét lên một tiếng thất thanh ngã lật ra sau té lên bờ cỏ, nước mắt vọt ra xối xả, ruột gan nát ngướu như xác vịt con bấy nhậy giữa đường, tim gan rạn nứt bể vụn … Hết rồi! thôi hết rồi! chẳng còn gì nữa em vịt vàng nhỏ của tôi! Vĩnh biệt! Em ơi vĩnh biệt.

Tôi nằm lăn lộn giẫy giụa trên bờ cỏ, cổ họng thắt gút tắt nghẽn, không bật khóc được thành tiếng, chỉ còn biết hả miệng để kịp lấy hơi thở và để cho tiếng nấc tràn ra ngoài, trời đất xung quanh nhạt nhòe, cổ họng ngất ngất muốn bể tét. Mặt đất dưới lưng tôi tiếp tục chấn động dưới lốp cao su ghép đôi của đoàn xe cam nhông mười bánh rầm rộ, tiếng động cơ vẫn tiếp tục xầm xì dửng dưng lướt qua xịt phun xuống mặt đường mùi xăng khét nghẹt trộn lẫn bụi đường và khói xám xanh mù mịt. Rù rù rù rù rù… chiếc thứ ba… rù rù rù… chiếc thứ tư… rù rù rù... chiếc thứ năm rồi chiếc thứ sáu… Mỗi lần xe lướt qua tôi lại nghe vang động trong đầu tiếng “chét” tuyệt mạng của em tôi. Rù rù rù rù… Chét! Rù rù rù rù chét!... Tôi úp hai bàn tay nhỏ của mình lên lỗ tai lăn người ngóc dậy, đầu gối quì trên lề cỏ, ngước đầu ngó ra giữa lộ.

Trên mặt đường không còn phân biệt được dấu máu và vết lông vàng của em tôi nữa. Hết rồi! Em tôi đã hoàn toàn biến mất trên thế gian này. Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng “chét! chét!” thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà, ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng siết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! em đã chết bỏ tôi thiệt rồi!...

Khi nghe tiếng xích sắt chát chúa của chiếc xe thiết giáp bọc hậu cuối cùng chấn động trên mặt đất, tôi biết là đoàn công-voa đã đi qua hết. Tôi ủ rũ bò dậy quì gối ngó ra mặt đường. Chẳng còn gì nữa dấu vết em vịt vàng nhỏ của tôi, chẳng còn dấu lông vàng, chẳng còn vết máu đỏ. Em của tôi đã vỗ đôi cánh nhỏ bay về trời mất tích! Tôi òa khóc thành tiếng… Tôi quặp người ghịt lấy bụi cỏ bật khóc ngất ngất, khóc ồ ạt, khóc quằn quại, khóc vật vã. Nếu rủi thời má tôi ngã ra chết lúc đó, có lẽ tôi cũng khóc nhiều đến như vậy là cùng. Tấm lòng thơ dại tan nát! Con tim ấu thời đã giập bể trên mặt lộ đá xanh lởm chởm! Hết rồi! Em đã bỏ tôi thiệt rồi! Tôi hét lên “trời ơi!” một tiếng xé ruột rồi rũ người nghiêng qua một bên, từ từ sụm trên mặt cỏ còn nặc nồng mùi xăng khói …

Tôi nằm co quắp bên lề đường, tay bấu lấy bờ cỏ khóc la thảm thiết như vậy không biết bao lâu. Như mê sảng. Tôi muốn mình mê sảng. Khi gặp chuyện quá dữ dằn, tôi ước rằng đó là một cơn ác mộng, một cơn mơ dữ. Tôi cắn vào đầu lưỡi. Tôi không nằm mơ. Tôi tỉnh táo. Không phải chiêm bao. Chuyện thiệt. Rõ ràng chuyện thiệt. Em vịt vàng nhỏ của tôi đã chết thiệt rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi không còn ở trên dương thế này nữa! Tiếng khóc quằn quại của tôi bật tràn ra cổ họng như thác lũ, rồi mòn mỏi theo đường suối đi nhỏ dần, dợn uốn nao nao và từ từ dịu tắt.

Tôi ngồi dậy hỉ mũi chùi xuống cỏ. Tôi đưa sống tay dụi lên tôi mắt ướt nhẹp và thở dài đứng dậy. Đầu gối chợt buốt nhói muốn té sụm. Tôi cúi xuống phủi mấy vụn đá nhỏ còn dính trên đầu gối, da rách sướt chảy máu rát nhức. Tôi bước ra lộ để lượm xác em tôi đem qua bên kia bờ giếng mà chôn cất. Nhưng trên mặt đường những vụn thịt, những vụn lông vàng non dại, những vụn đất và đá trộn lẫn chi li không còn phân biệt được gì nữa hết. Tôi mếu máo bước trở vô lề đường lượm miếng giấy nhựt trình xười rách dính phất phơ trên ngọn cỏ. Tôi phủi sạch rồi bẻ một nhánh cây bình bát mọc ven mương lộ tước hết lá. Tôi trở ra lộ ngồi chồm hổm cạy gỡ những mảnh vụn mà tôi nghĩ là của em tôi còn để lại trên cõi đời này và đùa vào miếng giấy nhựt trình gói thành gói nhỏ. Tôi đi ra mương lộ, dợm bước lên cầu khỉ để qua bên kia bờ giếng.

Dưới mương lộ, con Mẫu Hậu thản nhiên tiếp tục dẫn đàn con mười đứa còn lại tung tăng trên mặt nước rỉa rói quanh đám cỏ lát và bèo dại kiếm ăn. Đám vịt con xám buông tiếng kêu lép kép! lép kép! Tim tôi vụt se thắt. Tôi ngồi thụp xuống đầu cầu khỉ, ôm cứng gói nhựt trình nhỏ vào lòng và bật khóc trở lại sướt mướt. Lòng đau đớn quá đỗi. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Tôi không oán hận gì hết. Chỉ thấy đau đớn. Quá đỗi đau đớn. Tôi thương quá chừng em vịt vàng nhỏ của tôi. Bây giờ nó đã chết rồi. Em tôi đã chết rồi. Tôi không oán hận chiến tranh. Ở tuổi thơ đó lòng tôi không biết oán hận. Tôi không oán hận chiếc xe cam nhông đã nghiến nát em vịt vàng nhỏ của tôi. Tôi không oán hận người tài xế đã lái chiếc cam nhông cán em tôi ra bấy nhậy. Tôi không oán hận đoàn lính Lê Dương ngồi trên chiếc cam nhông đó. Dù sao chiếc cam nhông cũng đã đi mất, đoàn công-voa cũng đã đi mất, người tài xế cũng đã đi mất, đoàn lính Lê Dương cũng đã đi mất. Có thể tối nay khi trở về có người đã chết, đúng vào đêm giao thừa.. Tôi hít nhẹ tủi thân, tấm tức. Và bật khóc trở lại lần nữa, lần nữa…

Dù thâm tâm mình khong mảy may thù oán, trong đầu óc non nớt của tôi bỗng phựt lên cơn giận dữ - cơn giận dữ gắn liền với cái chết, nỗi tang thương và sự khổ đau. Tôi giận con vịt Mẫu Hậu! Trong đầu óc khờ khạo của mình, tôi nghĩ tại vì nó đã ngốc nghếch cất tiếng réo gọi con mình cho nên em vịt vàng nhỏ của tôi mới băng qua đường cho xe cán chết thảm. Tôi lượm cục đất ở đầu cầu nhắm con vịt mẹ liệng tới. Cơn giận bay ra nửa chừng mãn hơi rớt ùm xuống nước. Con Mẫu Hậu giựt mình thốt kêu mấy tiếng rồi dắt đàn con lội đi nơi khác. Bỏ lại tôi ngồi chong ngóc ở đầu cầu khỉ tiếp tục khóc thút thít, khóc nghẹn ngào, khóc lẻ loi…

Kiệt ơi! Kiệt à! Kiệt!”, tiếng má tôi từ hiên nhà bên kia đường vọng qua. Má tôi kêu tôi chạy về lạy mâm cơm cúng để rước ông bà về cùng gia đình chúng tôi chung vui ba ngày Tết. Đầu xóm ai đó đốt pháo đợi giao thừa, mừng mọi người. Cái Tết ấu thời nhỏ theo giọt lệ hồng của tôi sùi sụt. Nào ai có biết trong ruột gan đứa nhỏ sáu tuổi, một nửa cái Tết thơ ấu đó đã nát vụn theo con vịt vàng nhỏ em tôi giờ đây nằm trong gói giấy nhựt trình tôi đang ôm cứng trên bụng bên bờ mương nước mặn. Và một nửa cái Tết kia đã theo nhúm lông tàn của con gà bạn tôi mà vùi dập tự bao giờ bên kia bờ giếng nước ngọt, khi những nụ mai vàng theo gió Xuân mướt xanh vừa chớm nhú.
Một cái tết thơ ấu đã nát vụn và vùi dập bên hai dòng nước mặn ngọt, trong xóm nhỏ của tôi tự bao giờ…




Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình, đằng đẵng ba chục năm không hề ngừng nghỉ. Cuốn chìm phăng phăng trong dòng lửa sắt bất cưỡng, tôi may mắn và tình cờ còn sống sót. Và từ Xóm Mới ấm áp phương Đông mình, tôi giạt trôi tới phương trời Tây lạnh lẽo xa lạ.

Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.

Và năm nay đào lại nở!

Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.

Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu, quấn quít sông ngòi, đặc ngừ tôm cá.

Và em đang thò chiếc mỏ vàng xinh xắn rỉa vào đám bèo nổi kiếm ăn, buông tiếng kêu lép kép nhỏ nhít. Em đang gọi tôi cùng đến để chia sớt nỗi vui mừng rất trẻ con của em.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Cũng như mọi sinh vật khác trên đời, em đã từng có một tuổi nhỏ thơ dại và một trái tim thơ dại ẩn chứa trong lớp lông tơ vàng mịn êm đềm. Trái tim thơ dại đó đã truyền vào con tim ấu thời của tôi biết bao là thương mến, muôn ngàn thương mến, biết bao là cảm xúc, vô vàn cảm xúc, biết bao là hoan lạc, vô vàn hoan lạc, và cũng biết bao là đau đớn, đau đớn tưởng chừng có thể xé đứt ruột gan mình mà ngã ra chết được. Em đã cho tôi con tim thơ dại, tôi đã cho em tuổi ấu thời. Dù vẫn còn phưởng phất ở Xóm Mới mỗi độ Xuân về, con tim thơ dại và tuổi ấu thời đó đã có lần vỗ cánh thơ ngây bay tìm mùa Xuân trong trắng ở một vùng trời tuyệt nhiên không nhuốm một dấu vết hận thù. Rồi đã vĩnh viễn cư ngụ lại muôn đời luôn ở đó.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!
Em vỗ cánh nhỏ bay về trời
Em tha trong mỏ em vàng nhỏ
Tấm lòng thơ nhỏ của riêng tôi


Và năm nay đào lại nở! Giờ đây trên cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm con vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian nhìn ngắm thiên hạ nổ pháo rộn ràng mừng đón Ông Bà và Nàng Xuân về ăn Tết…

Kiệt Tấn
Kiệt Tấn
#46 Posted : Monday, January 11, 2010 1:06:29 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

Những Đóa Hạnh Phúc Không Ngờ

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chị ơi em cưới mùa xuân nhé
Đốt pháo cho thơm với rượu hồng.
Nguyễn Bính


Khi đó nàng đứng dậy và cất tiếng hát. Và rồi một nửa nắng Tết của đất trời chợt hừng xuống đốt rụi cả tim tôi. « Về đây nhìn non nước bơ vơ/ Về đây nhìn cây lá xác xơ/ Về đây mong tìm bóng chiều mơ/ Mong tìm mái tranh chờ/ Mong tìm thấy người xưa... »
Tiếng ca thánh thót của nàng thắp sáng lòng tôi chóa lòa mà thôi cũng vô cùng nóng rát. Cái nóng rát phừng phực mà câm nín, rộn ràng mà ẩn mật trong con tim xanh hồi hộp mười ba tuổi của đứa học trò mới lên lớp đệ lục trường Cao tiểu Vĩnh long. Nàng học lớp đệ tứ, đoán chừng tuổi nàng mười sáu hay mười bảy gì đó. Tôi lén lên ngồi ở bàn chót lớp học nàng để hồi hộp lén nghe nàng ca hát.
Không còn dằn nổi cơn xúc động đang hoành hành trong lòng mình, tôi vụt đứng dậy xô giạt hết mọi người xung quanh chạy tới nắm lấy tay nàng dục dặc bày tỏ lòng mình hết sức quê mùa ngơ ngáo: “Xin nàng hãy thương tôi! Tôi si tình nàng xiết bao! Xin nàng cho tôi một chút thương yêu vì lẽ lòng tôi vô cùng thành thật.” Mọi người giựt mình ngó tôi rộ cười diễu cợt. Được chăng? Nhắm như vậy coi được chăng? Tôi thở dài ngồi xuống trở lại ngay chỗ cũ bất động, trong lòng vô cùng bối rối, vô cùng bấn loạn.
Nàng tiếp tục hát. Cơn bấn loạn trong lòng tôi không ăn nhập gì tới giọng hát của nàng hết. Tiếng ca từng giọt thánh thót vỗ cánh bay vút lên vòm lá phượng vĩ điểm chấm bông đỏ chi chít mọc giữa sân trường. Tay tôi lạnh ngắt, còn chưn thì run rẩy cũng như tim mình. Tôi ngồi co ro ở bàn chót mà vẫn thấy mình bị để ý dù chẳng một ai ngó ngàng gì tới tôi hết. Tôi dợm bỏ chạy ra khỏi lớp học. Do dự. Phập phồng. Nhấp nhỏm. Ngập ngừng. Rồi vẫn ngồi yên lại chỗ cũ như trước mà chịu trận.
Cúc! Cúc! Cúc ơi Cúc!” Tôi thầm gọi tên nàng trong câm lặng. Nàng không nghe thấy tiếng tôi gọi, cũng như nào đâu hay biết tôi có mặt trong lớp học của nàng, và lại càng không ngờ tự dưng có thằng lỏi ấm ớ chợt si tình nàng ngang xương. Tôi vụt phát ghen với gã con trai đang đệm đàn cho nàng hát. Sao hắn dám cả gan đứng sát nàng khít rịt? Có lẽ hắn đang hít trọn hương vị thơm tho bí mật của mái tóc nàng yêu kiều xõa mướt. Nhưng tôi có ghen hay không, nàng vẫn tiếp tục say sưa buông ra từng giọt thuốc mê, từng câu bùa chú, từng giọt thánh thót, từng giọt từng giọt. Nàng tiếp tục hát say sưa mà vui thích. Còn tôi, tôi tiếp tục nghe nàng say sưa hát mà ngầy ngật lờ đờ… « Về đây buồn trông cánh chim bay/ Về đâybuồn nghe gió heo may/ Về đâyđâu còn phút sum vầy/ Đâu còn thấm niềm say/ Lạnh lùng ngắm trời mây… »
Lời ca não nuột trong bản “Trở Về” của Châu Kỳ phát ra từ hai cánh môi xinh xắn của nàng khiến tôi muốn bỏ xứ ra đi. Tôi muốn bỏ trốn với đóa si mê vừa tình cờ hái trộm được trên hương sắc nàng rợp ngời nắng Tết. Một đóa hạnh phúc dính liền với đau khổ. Đau khổ vì bởi giờ đây tôi đã trót lỡ biết si tình. Si tình một bóng hồng đột ngột đã khiến cho trái tim mình không còn giữ được nhịp hai bình thường như trước nữa. Tôi si tình Cúc, nụ hoa mỹ miều kết tụ tinh anh của đất trời đang xòe cánh nhỏ tích đọng những giọt sương buổi ban mai lóng lánh. « Cúc, Cúc! Cúc ơi Cúc! Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Cúc xinh Cúc đứng một mình cũng xinh. »
Còn tôi, Kiệt? Đối với nàng cái tên Kiệt có một âm hưởng gì khác thường chăng? Hay Kiệt cũng chỉ là một cái tên vô danh tiểu tốt nào đó đối với nàng, như biết bao cái tên cù lần khác? Ngay lúc này nếu có ai đó ơ hờ nhắc tới cái tên Kiệt với nàng, chắc nàng sẽ phân vân chi xiết: “Kiệt? Kiệt nào? Ai vậy?” Tôi ao ước đừng một ai đó, dù vô tình hay cố ý, trỏ ngón tay về phía tôi đang ngồi co ro ở bàn chót và làm tài khôn giải thích: “Đó! Kiệt là thằng lỏi đó đó!” Tôi không biết đằng vân, tôi không biết độn thổ, chắc chỉ còn nước chui xuống gầm bàn học mà lủi trốn. Nhược bằng trốn không được chắc tôi sẽ đứng tim, mặt mũi xanh dờn mà ngã ra chết tốt tại chỗ.
Cúc đẹp đậm đà. Làn da ngọt ngào mật ong phơn phớt. Lông mày lá liễu mảnh mai, hàng mi chớp cong rù quến gọi tình. Mái tóc xõa dài mượt nhỏ đen tuyền. Nhưng đặc biệt nhứt là nụ cười tươi rọi nắng xuân, và làm lụy anh hùng là ở hai khóe nhỏ cuối đường môi đóng ngoặc cho nụ cười lăng lẳng. Và tôi đã lụy, dù mình chẳng phải anh hùng. Cúc mặc áo xanh rêu, gầy gầy liễu yếu. Nghe đồn nàng bị lao, nhưng tôi không tin. Tôi chắc chắn vi trùng lao không thể nào đột nhập được một nhan sắc tươi tốt đã khiến cho tôi nao nức si tình.
Những buổi cận bãi trường, ngày nào tôi cũng nặng gói hành trang lên nằm vùng ở bàn chót lớp đệ tứ để nghe các anh các chị dợt hát chung vui trước khi chia tay nhau về ăn Tết. Đối với nhà phê bình nghệ thuật sành điệu lớp đệ lục, Cúc là đệ nhứt giai nhân, Cúc là đệ nhứt ca sĩ. Tôi khờ khạo ôm lấy nhan sắc, và tiếng ca của nàng mà ngỡ mình ôm được hạnh phúc không ngờ, giống như con bọ ngựa trời ôm lấy hòn lửa than hừng hực, hy vọng tha được nó về trời để thắp sáng cho những vì tinh tú đêm giao thừa.
Ba ngày Tết năm đó, dù không phải là thi sĩ tài danh với con tim rướm máu, tôi cũng cùng tâm sự với Nguyễn Bính khi gió xuân vừa lao xao vừa thổi tới.
Huyền Trân ơi!
Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi
Giờ đây chín vạn bông trời nở
Duy có tình ta khép lại thôi...





Xuân nối xuân. Tết này nối qua Tết khác. Rồi lại Tết nữa.
Tết năm đó tôi và Nhựt học trò ở Sài Gòn cùng về quê ở Vĩnh Long ăn Tết. Hai đứa đều đã trở thành cậu Tú, tôi ban toán, Nhựt ban triết. Từ thuở còn chung học ở trường Cao Tiểu Vĩnh Long, tôi và Nhựt rất khắng khít và thường làm thơ thẩn khoe cho nhau coi. Có bài tôi viết một đoạn, Nhựt viết đoạn tiếp, bên tung bên hứng rất đúng luật, các vần vế đối nhau chan chát, rùm rụp.
Tôi và Nhựt khoái la cà ở quán chị Tư Tùng ngoài chợ Vĩnh Long, cạnh dòng Tiền Giang trăng thanh gió mát. Sở dĩ hai đứa ưa rà rà ở đây là vì thời gian đó tôi cặp với em Tuyết, Nhựt cặp với em Sáu. Hai đứa mua vải có chấm vuông lục sậm đặt may hai cái áo mới giống hịt nhau để mặc Tết. Tròng hai cái áo le lói và xỏ hai cái quần jeans, Nhựt đèo tôi cỡi chiếc Lambretta bình bịch đổ bộ xuống quán ong bướm với nhị Kiều. Thấy hai đấng cao bồi hương thôn cỡi ngựa sắt xuất hiện, Tuyết và Sáu hớn hở ra mặt, lăng xăng tíu tít.
Tiết xuân mát mẻ, giai nhân mơn mởn, hai đứa bèn nổi hứng kêu hai em tửu bảo mang rượu Bisquit pha sô đa hầu rót vào mạch máu cho Xuân thêm nồng. Hai Kiều mắn mó áo mới khen đẹp. Noi gương Lý Bạch và Tản Đà, rượu ngấm độ nửa tuần tôi và Nhựt hối hai Kiều đem bút mực và giấy trắng cho hai thi bá đề thơ “Áo Mới.” Thơ rằng:
Hôm nay mình mặc áo mới
Áo xanh nắng vàng phơi phới
Ô hay! lòng bỗng rộn ràng
Mới hay tiết xuân vừa tới.

Ai mà dám xâm mình chê bốn câu mở đầu tuyệt vời trên đây ắt là phải bước qua xác chết của hai đấng thi sĩ hương thôn. Nhựt một đoạn, tôi một đoạn, theo đà đó mà bài thơ song tấu cứ dài ra ngoằn ngoằn. Thỉnh thoảng em Tuyết và em Sáu ghé mắt “coi cọp” và rú lên cười rúc rích. Quả thiệt, thơ xuất thần tới mức đó thì hai Kiều chỉ còn nước e lệnép vào dưới hoa là cái chắc. Tôi hỏi Tuyết chớ thiệt tình thấy hai anh làm thơ có thớ không? Em bé chuyên môn xay rau má và chặt dừa tươi hoảng quá buột miệng khen túi bụi: “Hay lắm! Anh với anh Nhựt làm thơ hay lắm!”
Nổi máu cỡi bò hương thôn, tôi muốn tặng cho em nhỏ ngưỡng thơ sành điệu một món quà ăn Tết sẽ còn mãi mãi khắc sâu suốt cả cuộc đời bán quán của em. Tôi dắt Tuyết ra chợ nhà lồng cho em nhỏ tha hồ chọn lựa. Nàng dạo tới dạo lui, liếc qua liếc lại, thỉnh thoảng ngó tôi rồi dừng bước lại trước một sạp bán guốc. Nàng ướm thử nhiều đôi, rồi cuối cùng chọn một đôi guốc mộc sơn xanh láng bóng đóng quai trắng. Tuyết ôm tro tro đôi guốc mới tinh khôi trên ngực, nói để dành mùng một Tết đem ra mang. Tôi không chịu, bắt nàng phải đem guốc mới ra mang liền. Tuyết mang guốc xanh đi tới đi lui, gót mộc vang dội trên mặt nước Tiền Giang lốc cốc mà đối với hai thi bá nghe ra tuồng như đã vang lừng giai điệu. Hai mầm non văn nghệ bèn nương theo đà khởi hứng mà tiếp tục tung ra những khúc tao đàn lâm ly cho bài thơ “con cóc” của mình hầu vạch một bước thang mây để đi vào văn học sử một cách trọng thể như các bậc tiền bối:
Em đi guốc mới xinh xinh
Anh mặc áo mới tình tình
Hạnh phúc mai cành một đóa
Ngát hương xuân mới đôi mình
.
Và tôi đã thò tay hái đóa hạnh phúc không ngờ đó đem về chưng cho cái tuổi vừa chớm say mê tình dục nao nức của mình trong ba bữa Tết ngợp trời hương sắc. Thò tay mà ngắt ngọn ngò, thương em đứt ruột giả đò làm lơ.



Tết nối Tết. Rồi lại Tết nữa.
Năm nay em đã lớn khôn rồi, em không còn lêu lổng chơi bời như những khi còn bé nữa.” Lớn thì quả có lớn lên thiệt, mà khôn thì chưa chắc đã khôn hơn trước. Lêu lổng thì chưa bỏ được, còn chơi bời thì ôi thôi nói tới làm chi!
Sau Tết Mậu Thân, giặc giã vẫn phừng phực không ngừng. Những lúc gần cuối năm, tôi đã bắt đầu ăn Tết lai rai. Và ba ngày Tết thiệt sự chỉ là một cái cớ cho tuổi trẻ ham vui dợt trước dài dài. Những ngày cận Tết, thỉnh thoảng chiến trường lắng đọng, thiếu tá Thứ từ Lai Khê vọt về kéo Danh , Lộc và tôi đi “hát dạo”, la cà tửu quán trà đình. Rồi một chiều nắng đẹp nọ sau khi thu dọn chiến trường đớp hít ở Chợ Cũ, trên đường về Lai Khê, Danh kéo cả bọn tấp vào một cái quán tre không tên miệt Bình Dương. Nói là quán chớ thiệt ra chỉ là một căn nhà lá hiền hậu như thường thấy ở miệt vườn. Sau nhà là một khu đất rộng bày biện hai ba bàn gỗ thấp, xung quanh lác đác vài cái ghế cóc đã cưa cẳng cho vừa tầm. Điểm đặc biệt là trong vườn um tùm những khóm tre gió đưa kẽo kẹt, lay lắt những bóng lá gầy nhọn thanh thoát la đà. Nhờ có Danh là thổ địa nên mới biết được những sào huyệt kỳ lạ như vầy.
Hầu rượu chúng tôi là hai em “bia ôm” có vẻ bụi đời, một em son phấn màu sắc chói nghịch, em kia nhuộm tóc hoe nâu xỉn xỉn, cánh tay để trần có cái thẹo lớn và trên vai có xâm hình xanh đỏ. Danh nháy mắt thiếu tá. Còn tôi thì chẳng tha thiết gì, lòng lâng lâng êm ả dưới bóng tre tinh khiết đang đùa giỡn cùng nắng quái chiều tà, tâm hồn lan man hạnh phúc vẩn vơ như đang chợt sống một thuở thanh bình yên vui bây giờ đã mất. Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi... Thứ mân mê vết thẹo lớn trên vai em bé xâm mình. Vọng xa xa nhiều tiếng rền văng vẳng, nhắc nhở thời buổi chó má nầy còn lâu mới hết được. Thứ cầm ly cối đưa lên miệng nốc một hơi cạn, mặt đỏ rần. Tiếng đại bác vang dội gần hơn trong bóng chiều xế ngã... Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Bỗng từ sau nhà bước ra một tiểu Kiều tay cầm một xô nhôm nước đá bước về phía chúng tôi tiếp tế. Tôi dụi mắt. Dáng dấp quen quá. Tiểu Kiều tới gần, mi mắt trên bụp nhẹ, đôi môi hình trái tim, tóc dợn uốn mơ hồ. Trời ơi Hoa! Hoa Bến Đò ! Hoa người yêu mười sáu tuổi tôi ôm hôn lần đầu tiên trong đời bên dòng sông Định Tường. Tiểu Kiều gắp nước đá bỏ vào ly, va chạm long cong. Đúng là Hoa, một nhan sắc trải hơn mười mấy năm qua mà không hề suy suyển. Quả thiệt nhiệm mầu! Tiếp tế xong tiểu Kiều đặt xô nhôm lên bàn trở gót. Tôi gọi nhỏ “Hoa! Hoa!”, tiểu Kiều tiếp tục bước đi, tuồng như không nghe. Tôi đứng dậy chạy theo. Tiểu Kiều bước vào nhà sau, tôi bước theo rồi ngừng lại ở ngạch cửa gọi lớn “Hoa!”. Tiểu Kiều giựt mình ngó lên, mặt có vết như cô Bé Lọ Lem, đang chụm củi vào bên dưới thùng phuy lớn kê trên ba tảng đá xanh, đoán chừng là thùng cháo heo. Tôi gọi lớn “Hoa!”. Em ngơ ngác nhìn quanh, đoạn ngó tôi rồi nói, “Em đâu phải tên Hoa.” Tôi thừa biết vậy, nhưng: “Bữa nay đối với anh, em tên là Hoa, quê quán ở Định Tường.” Tiểu Kiều nói “Anh nầy kỳ cục quê em ở Trảng Bom, dưới đó giặc dữ quá nên em phải lên đây lánh nạn với dì. Em phải phụ dì lo chuyện lặt vặt trong nhà.”
Hình ảnh Hoa vo gạo, tắm em, giặt giũ bên sàn nước hiện lên ràng ràng trong trí tôi, những lúc tôi ôm ruột xe bơm cứng thả nổi trên dòng Định Tường để được ngó nàng, thuở trọ học ở Bến Đò. Tiểu Kiều lính quýnh giục tôi trở lại bàn ngoài ngồi chơi với mấy cô, không có dì la em bây giờ. Đột nhiên tôi tự động móc bóp mình ở túi sau lôi ra tất cả số tiền mặt còn lại đưa hết cho tiểu Kiều. Em chưng hửng ngó tôi lấm lét. Tôi nói em cầm đi, anh lì xì cho em ăn Tết đó. Tiểu Kiều dụ dự chưa biết tính sao. Tôi nắm tay em mở ra, đặt các tờ giấy vào lòng tay mềm nhỏ đã có vài vết chai cứng. Em chới với cúi đầu. Hồi lâu tiểu Kiều ngửng gương mặt lọ lem buông tiếng ngập ngừng: “Rồi anh... rồi anh có đòi hỏi gì em không?” Câu hỏi rất tự nhiên lại khiến cho tôi hết sức bực mình, lòng tôi vô cùng thành thật, không hề tiềm ẩn một chút hậu ý. Nhưng liền tức thì tôi nhận thức mình quá cố chấp. Thời buổi giặc giã nầy, ai biết?
Tôi mỉm cười lắc đầu: “Không! Anh không đòi hỏi gì em hết! Anh chỉ muốn lì xì cho em ăn Tết. Vậy thôi.” Tiểu Kiều vẫn chưa hết cơn bối rối: “Thiệt hả anh?...Thiệt hả?”, nàng ngó tôi ngơ ngác. Tôi gật đầu: “Ừ! Anh không đòi hỏi gì em hết.”
Gương mặt lọ lem hớn hở chập chờn dưới ánh lửa lắc rắc tỏa ra từ bên dưới thùng phuy lớn, mắt ngó long lanh. Tôi bồi hồi lui gót. Trở lại dưới vòm tre đang giỡn đùa cùng nắng quái, tôi tự chuốc rượu lấy một mình chếnh choáng. Biết bao lần tôi tự níu mình lại để khỏi bất thần chạy vô nhà sau ôm lấy tiểu Kiều và cạ môi mình lên môi cong, như tôi đã hái nụ hôn đầu trên môi Hoa trước hàng ba nhà nàng, để rồi sau đó trở về gác trọ hễ nhắm mắt lại là tôi thấy mình bay bổng, chóng mặt rên ư ử. Tôi vẫn ngồi sờ sờ ở vườn tre khua lá xào xạc mà tâm trí đã trôi giạt về dòng Định Tường tự bao giờ. Chẻ tre bện sáo cho dầy, ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp em. Hạnh phúc lâng lâng, ngập ngừng. Có gì đâu? Một tiểu Kiều tình cờ, một cái Tết giặc giã, những chùm nắng hực hỡ, những bóng tre thoát tục, và tấm lòng tôi một thuở nào yêu Hoa trong lành giờ đã từ từ ố hoen say khướt.
Thứ nắm vai tôi lắc lắc. Danh đưa ly cối lên la lớn: “Ê! vô mầy!”, đoạn ngó qua Thứ: “Mẹ rượt! Bữa trước mất tin mầy hồi xảy ra trận An Lộc thằng Kiệt ngồi trong quán ở Chợ Cũ khóc ròng. Nó tưởng mầy chết rồi chớ. Ai dè mầy còn sống nhăn. Ha! Ha!... Thôi vô chớ!”. Tôi cầm ly đưa cao cụng lốp cốp bên nầy một cái, bên kia một cái. Thứ ôm em bé xâm mình, miệng cười rộng trên cổ áo màu ô liu trộn lẫn mầu đất, coi bộ vui thiệt tình trong giờ phút nầy đây, dưới vòm lá tre xào xạc. Tưởng chừng như Lai Khê là địa danh xa lạ của một hành tinh nào khác đó. Và chiến tranh tự thuở Kinh Kha đi thuyền nhỏ qua sông Dịch, tự thuở Khắc Chung tuốt gươm tràn qua hai châu Ô Lý để cướp Huyền Trân... Có cảm tưởng chiến tranh tự thuở nào đối với loài người tuồng như là một nhu cầu tất yếu, không phải tất yếu cho lịch sử mà là tất yếu (hay đúng hơn là một hệ lụy) cho cái biến dịch của trời đất, không có cách né tránh được. Dương Tử giang đầu, dương liễu xuân, Dương hoa sầu sát độ giang nhân. Sổ thanh phong địch ly đình vãn...
Rồi bằng cách nào trở về thủ đô, tôi cũng không rõ. Có giã biệt tiểu Kiều hay không tôi cũng không nhớ. Sực tỉnh thấy mình đang đứng xớ rớ trên vỉa hè Sài Gòn ồn ào cạnh sạp nước mía Viễn Đông. Tôi vốn uống nhiều hơn ăn nên bây giờ cảm thấy bụng đói cồn cào. Tôi xáp vô ngồi ở tiệm mì có đặt bàn ghế lộ thiên. Gọi một tô mì lớn có hoành thánh trộn lẫn ăn ngấu nghiến. Trong bụng tần ngần còn nhớ bóng lá tre thiền vị, nhớ trận chiến kinh hồn đã đốt Thứ cháy lột lưng, nhớ Danh, nhớ Lộc, nhớ Nhựt, nhớ tiểu Kiều, nhớ Hoa, lăn trôi theo những nghiệp chướng riêng biệt, biết tới bao giờ mới được hội ngộ tình cờ ở quán tre như chiều hôm nay một lần nữa? Và khi đó, biết sẽ ai mất ai còn ? Cuộc binh đao biết bao giờ mới dứt. Em bây giờ xiêu lạc hà phương ? Còn chàng thì đã xanh rì cổ mộ… Sổ thanh phong địch ly đình vãn, quân hướng Tiêu tương, ngã hướng Tần... Trong thoáng chớp tôi vụt sống lại cảm giác nguyên thủy của cuộc tình mới lớn, và không khỏi thầm lo ngại cho tiểu Kiều. Một xứ sở bầm giập, những miền quê ngụt cháy, những địa pháo Lai Khê, những Trảng Bom nát bấy, những ruộng vườn trụi lá, những mìn đạn bờ đê, những núi đồi ngất cao ngút trời lửa sắt...
Mai mốt em tôi về xứ Bắc
Cách bao đồi núi cách bao sông
Tôi nằm mộng thấy em cười khóc
Lo ngại đời hoa nhạt má hồng.

Đóa hạnh phúc nào tôi đã từng hái được trên môi Hoa một buổi tờ mờ sáng bên dòng sông Định Tường giờ chợt bừng nở lại trong khu vườn Bình Dương mát rượi lúc chiều tà. Tôi bồi hồi thấp thỏm như mới hò hẹn với người yêu thứ nhứt bên kia chùa Vĩnh Tràng. Thời gian bất lực trước trí nhớ, hay trí nhớ bất lực trước thời gian, tôi không rõ. Chỉ biết buổi chiều cận Tết hôm nay tôi đã bất ngờ hái tặng tiểu Kiều một đóa hạnh phúc. Một đóa hạnh phúc rất vô thường, cũng như kiếp người, cũng như vết chim bay, cũng như nhan sắc, cũng như tình yêu, cũng như khổ đau, cũng như chính bông hoa hoài niệm yêu kiều tôi vừa hái được còn rung động phập phồng trên tay mình vậy đó.



Rồi Tết lại nối Tết. Xuân hạ thu đông. Mùa lại nối mùa. Mai sen đào cúc ra đi. Rồi Cúc đào sen mai lại trở về. “Trở về” như bài ca Cúc đã có lần cất tiếng hát lên Tết năm nào. Cúc! đóa hoa vô thường đã bất ngờ đơm bông hạnh phúc trong lòng đứa con trai lớp đệ lục mùa Xuân năm đó. Những tai hoa cúc trắng, những phiến nắng rộ vàng, những chấm phượng rực đỏ giữa tàng lá minh mông. Cột nhà hàng xóm lên câu đối, em đọc tương tư giữa giấy hồng, thiên hạ đua nhau mà sắm Tết, một mình em vẫn cứ tay không. Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống, nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng!
Tôi mỗi ngày một thêm tương tư, mỗi ngày thêm mất hồn, mỗi ngày một thêm lãng mạn. Chiều tất niên năm đó tôi càng thêm rụng rời khi nhìn Cúc đứng dậy và cất tiếng hát giữa sân trường: « Nơi xưa ơi giờ đây nát tan/ Đò vắng không người sang/ Thôn xóm trông điêu tàn/ Xa xa nghe tiếng chim kêu đàn/ Nghe suối vang bên ngàn/ Dường như oán như than… »
Giọng nàng trong trẻo ngân nga như hồi chuông thanh thoát đang giục gọi hồn tôi. Tôi chết mất. Áo nàng vàng tôi về yêu hoa Cúc, áo nàng xanh tôi mến lá sân trường. Nhưng dù cho áo nàng có xanh rêu tôi vẫn cứ thủy chung hằng thường yêu hoa cúc. Tôi biết đánh đờn măng-đô-lin và ngón trê-ma-lô nghe ra cũng khá giòn –- tôi sực nhớ ra. Sao mình thiệt ngu quá! Thỉnh thoảng tôi giữ một tay đờn cho ban nhạc trường trung học Nguyễn Thông do thầy Tư Hón làm ông bầu. Sao tôi không thử đề nghị với Thầy cho tôi hát thử một bản, biết đâu nhờ dịp đó mà tôi ngửi được hương tóc bí mật của nàng Cúc. Dụ dự mãi tôi mới dám đề nghị với thầy, và may phước thay! Thầy nhận lời. Không phải nhận cho tôi lên sân khấu trổ tài mà là nhận cho tôi hát lót đường trong đêm đốt lửa trại ngoài sân vận động Vĩnh Long trước khi bãi trường thiệt sự. Thôi như vậy cũng được vì đêm đó Cúc cũng sẽ góp tiếng, vẫn bản ruột Trở Về của Châu Kỳ.
Còn tôi? Tôi không dám đề nghị với thầy Tư Hón cho tôi hát những bản tân nhạc lãng mạn mút mùa đang thịnh hành thời đó như Dư Âm, Trở Về Bến Mơ, Lời Hẹn Xưa, Lá Đổ Muôn Chiều, Ai Về Sông Tương, Chờ Một Kiếp Mai... hay bản vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu với giọng ca Út Trà Ôn mùi mẫn. Thầy đồng ý cho tôi hát bài Sau Lũy Tre Xanh dìu đặt với lời ca mộc mạc chân tình của miệt đồng quê thôn dã: Sau lũy tre xanh xưa làng cũ, tiếng gió đưa êm đềm một chiều thu. Bao ngày thắm khi ta còn thơ, người ơi sao vẫn thờ ơ!... “Người ơi! Sao vẫn thờ ơ?” Lời ca thiệt chí tình, vẫn còn có một chút hy vọng mong manh biết đâu nàng sẽ nghe thấu được thông điệp của mình mà bồi hồi đoái tưởng. Càng cận ngày đốt lửa trại tôi càng dợt riết tới và cũng càng khớp riết tới, càng lính quýnh riết tới.
Rồi giờ trọng đại đã điểm!
Ban nhạc và ca sĩ ngồi trên hai bệ vuông ghép đôi cho có đủ diện tích đặt giữa sân vận động, xung quanh có ánh lửa trại đốt lên bập bùng. Rừng thiêng nghe bao sức sống... ú u! ú u!... Với bài hợp ca mở đầu man dại đó, mọi người dần dần qui tụ đông đủ. Đông đủ, ngoại trừ người ngọc mà vì nàng, chỉ một mình nàng, tôi sẽ cất tiếng hát lên đêm nay, cho rụng rún hết mọi người, kể cả Cúc. Chờ hồi lâu. Rồi một hồi lâu nữa. Ban nhạc đã chơi dứt ba bốn bản hùng ca mà vẫn không thấy người ngọc của tôi xuất hiện. Tôi làm gan hỏi gã đệm đàn chớ duyên cớ gì khác thường mà Cúc đâu sao bây giờ vẫn chưa thấy tới? Hắn nói gia đình đã vội vã đưa nàng lên Sài Gòn hồi sáng nầy để chữa bịnh. Bịnh gì, tôi không dám hỏi tới. Tôi bủn rủn! Hết còn tha thiết đàn địch ca hát gì nữa. Nàng mang trọng bịnh ngặt nghèo của nàng. Tôi mang trọng bịnh chí tử của tôi: bịnh tương tư!
Gần tới phiên tôi ra hát. Tôi tằng hắng và lẩm nhẩm một mình để thử giọng. Không một âm thanh nào thoát ra khỏi cổ họng tôi hết. Tôi bàng hoàng. Tôi tưởng tại vì mình hát nhỏ quá nên không nghe được, tôi cố hát lớn hơn. Từ môi tôi chỉ phát ra vài tiếng láp kháp không hồn. Tôi hoảng hốt. Thanh âm dại khờ trong cổ họng tôi đã theo tà áo Cúc mà bay đi mất tự bao giờ! Tôi khều gã đánh đàn và ra dấu cho hắn hiểu là tôi đã tắt tiếng. Thừa lúc ban nhạc bận rộn lăng xăng, tôi lén rút lui một mình êm thắm. Không biết có ai lăng xăng đi tìm kiếm nhà tiểu nghệ sĩ đa tình hay không nữa.
Ra tới ngoài đường lớn ngoái nhìn lại sân vận động dưới ánh lửa bập bùng, tôi có cảm tưởng mảnh tình si của tôi đang bốc cao theo tàn đóm đỏ rực chi chít, thất lạc giữa không trung tối đen mà bay đi mất hút. Tôi biết. Tôi hằng dư biết. Tôi đã dư biết từ lâu. Nhưng không rõ nàng có biết. Nàng có biết chăng trong dịp Tết vừa qua, khi nàng đứng dậy và bắt đầu cất giọng thủy tinh ru hồn thơ dại của tôi: « ... Chiều nay buồn trông cánh chim bay/ Chiều nay buồn nghe gió heo may/ Chiều nay đâu còn phút sum vầy/ Đâu còn thấm niềm say/ Lạnh lùng ngắm trời mây. »
Nàng có biết đâu khi nàng vừa dứt câu hát cuối cùng của bài ca đó thì nguyên vẹn tuổi xanh tôi đã vỗ cánh nương theo tiếng hát thiên thần của nàng mà vút bay về một thiên đường lãng mạn khù khờ xa tít. Và sẽ không đời nào trở lại nguyên vẹn như thuở tôi vừa ngờ nghệch chớm si tình nàng một lần nữa bao giờ, mặc cho mùa Xuân có theo tiết điệu tự nhiên của trời đất mà tuần hoàn trở lại. Dù không chắc đã có thề nguyện từ kiếp nào xa lắc, nhưng trong giờ phút nầy đây, vẫn có cảm tưởng vô tình nàng đã để cho hững hờ trôi mất trăm năm nguyền ước hẹn thề...
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi! chị một em em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông

Chén rượu tha hương… Trời! đắng lắm...


Kiệt Tấn
Kiệt Tấn
#47 Posted : Saturday, February 13, 2010 11:42:22 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0


TẾT NÀY CHƯA CHẮC EM VỀ ĐƯỢC


Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chén rượu tha hương, trời! đắng lắm
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng!




Mỗi năm tôi đều chép một hai đoạn Xuân tha hương của Nguyễn Bính để gởi về cho chị Trúc ở Vĩnh Long. Không biết Nguyễn Bính có may mắn hơn tôi hay không, riêng tôi, tôi không bao giờ được chị Trúc trả lời. Chị Trúc của tôi không có máu văn nghệ văn gừng gì hết. Chị có trái tim nhân hậu, nhưng tôi không biết chị tìm gì trong cuộc đời này. Tình yêu? Tuyệt đối! Vui chơi? Trật lất hết. Chị Trúc rất hiền lành và chơn chất, đâu có lẩm cẩm đi tìm một cái gì siêu việt. Chị nấu cơm kho cá, chị khâu vá thêu thùa, đặc biệt chị làm bánh rất ngon. Tết đến chị làm bánh lu bù. Còn tôi thì ở phương xa.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi chị một em em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông


Mấy con sông? Sông Cái Cá, sông Cổ Chiên, sông Long Hồ, sông Thiềng Ðức, sông Cầu Lộ, sông Cầu Lầu, sông Ðịnh Tường, sông Cửu Long, sông Tiền Giang... Ôi thôi, nhiều chi xiết! Càng xa chị Trúc tôi càng lãng mạn, tôi càng rên rỉ, nhứt là lúc gần Tết.

Tết đến cho em thêm một tuổi
Thế nào em cũng phải thành công
Em không khóc nữa không than nữa
Ðây một bài thơ hận cuối cùng


Mà nào tôi có hận gì ai. Thiệt lãng xẹt! Vậy mà năm nào tôi cũng lăn ra nằm vạ với chị Trúc. Và dĩ nhiên chị không bao giờ trả lời trả vốn cho cái lãng mạn nửa mùa của tôi. Riêng tôi, tôi cũng chẳng phiền hà gì về sự im lặng của chị. Thành ra Tết nào cũng vậy. Tết này chưa chắc em về được. Mà em về được hay không về được gì thì chị Trúc vẫn đốt lò nướng bánh và chăm chỉ thêu thùa. Chị rất khéo tay, trong Xóm Cái Cá ai cũng đã từng thưởng thức tài nghệ của chị.

Nãy giờ chắc ai nấy đều thắc mắc. Chị Trúc tài như vậy, còn sắc thì sao? – “Ðẹp!” Ôi, chị Trúc của tôi đẹp lắm. Ðường nét xấp xỉ Thẩm Thúy Hằng. Cũng mũi thẳng mắt to, môi dưới mời mọc và nhứt là trắng tươi, trắng rất trắng. Ngực vừa phải, eo thon, mông tròn trĩnh, thích mặc áo dài trắng học trò. Mỗi lần lượn ngang Xóm Rạp Hát của tôi, bọn con trai ùa ra ngắm nghía, chắc lưỡi “Người Ðẹp Bình Dương”, không ai thấy mình có đủ tiêu chuẩn để chinh phục một mỹ nhân như vậy. Phần tôi, tôi cũng chỉ còn biết giậm cẳng kêu trời. Tết đến cho em thêm một tuổi; thế nào em cũng phải thành công. Thành công? Thành công cái gì? Ở tuổi dậy thì, sự thành công có nghĩa là thành công trong tình yêu.
Và tôi đã thành công! Không, không, không phải như quý bạn tưởng đâu. Tôi đâu có tham vọng chinh phục Người Ðẹp Bình Dương. Tôi bắt bồ với Ánh, em nàng. Tuy Ánh tài sắc không bằng chị, nhưng dung nhan này cũng làm rung động bao trái tim ở Cầu Cái Cá, Xóm Lò Tương, Xóm Rạp Hát trong đó có tôi. Nhờ thằng bạn học cùng lớp là em bà con của Ánh, tôi lọt vào nằm vùng ở nhà chị Trúc. Không biết lẽ gì, chị Trúc lại ưng bụng tôi nên chị lén mở tập ảnh gỡ vài tấm ảnh của Ánh tặng tôi cho thỏa tình mơ ước, và bỏ bóp lấy le với bạn bè.

Chị ơi Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não nùng
Uống say cười vỡ ba gian gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông


Tết năm đó, tôi viết cho chị Trúc như vậy. Lúc đó tôi với Ánh chưa tỏ tình gì hết, và tôi cũng chưa biết uống bia. Vậy mà tôi vẫn cứ cười sập gác trọ ầm ầm và liệng gà-mên xuống sông Ðịnh Tường ào ào. Tôi du học Mỹ Tho và yêu Hoa xóm Bến Ðò. Tôi không khổ sở vì yêu đương, nhưng cũng rên với chị Trúc cho có lệ. Tôi còn muốn tỉ tê hơn nữa. Rượu say nhớ chị hồi con gái, thương chị từ khi chị lấy chồng. Nhưng chị Trúc đâu có ưng ai mà lấy với bỏ. Chị tiếp tục cặm cụi làm bánh và cũng chẳng buồn khỉ mốc gì hết. Nhiều lúc ngó chị, tôi cũng rung rung trái tim. Nhưng người rung rinh trái tim hơn hết là Lộc, anh tôi. Chàng là kép độc trên sân khấu học trò của cả tỉnh Vĩnh Long nên có nhiều ưu điểm để lọt vào mắt người đẹp. Bởi vậy cho nên Ánh lo lắng. Ánh lo rủi Lộc rước chị Trúc về làm vợ thì tôi với Ánh kẹt cứng. Anh ơi, nếu mộng không thành thì sao? Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời! Thành thử khi Lộc ghé chiếc Vespa vào nhà chị Trúc thì Ánh và tôi tìm đủ mọi cách để đẩy chàng ra - không xì bánh xe là may. Ðể an ủi chàng, Ánh mang tập ảnh ra cho chàng xem. Chàng lựa những tấm hình mỹ miều mơ mộng nhứt của chị Trúc và lén gỡ dắt bóp lấy le. Người ta bận bịu mọi thứ, riêng tôi tôi trấn an Ánh “Lộc cưới chị Trúc thì Lộc cứ cưới, còn anh cưới em thì anh cứ cưới, đã chết ai”. Ánh la kỳ chết!

Nhưng Lộc không phải là người duy nhất mê chị Trúc. Trăm vạn người mê. Nhưng đi hỏi cưới chính thức lúc đó thì chỉ có một người: Phước. Phước lớn tuổi hơn tôi nhưng học cùng lứa với tôi. Phước âm thầm yêu chị Trúc lâu lắm, khi nàng theo học lớp nữ công gia chánh. Thuở đó, cuối năm học đều có diễn tuồng. Lộc đẹp trai được đóng vai Ngô Quyền, Phước xấu trai đóng vai tướng Tàu - từ chết tới bị thương khi màn sập. Phước có tài diễu và diễu rất có duyên. Mỗi lần Phước kể chuyện vui là tôi ngã lăn ra cười chết bỏ. Người sao mà có duyên dữ vậy! Nhưng than ôi, ý kiến của chị Trúc lại hoàn toàn trái ngược. Về Phước, chị phê bình người gì mà mặt dài như mặt ngựa, chuyên làm hề cho thiên hạ, chưa nói đã cười. Dù biết hay không lời phê bình bất lợi một trăm phần trăm đó, Phước vẫn thừa thắng xông lên và xúi má mình chính thức đến nhà ở Cầu Cái Cá hỏi chị Trúc về làm vợ. Vâng em trẻ dại em đâu dám, thôi để người ta được kén chồng. Nhưng chị không từ chối hẳn lời cầu hôn của Phước, chị dùng kế hoãn binh. Lúc đó Phước được học bổng du học Mỹ hai năm, nhưng Phước nói nếu chị Trúc nhận lời cầu hôn thì Phước sẽ ở lại quê hương để cưới chị - sợ ra đi thiên hạ sẽ thừa cơ cuỗm mất cái bàn thờ của mình. Chị nói Phước hãy du học trước đi, lúc về rồi hẵng tính sau. Phước xin đính hôn trước khi lên đường nhưng chị từ chối. Và Phước ôm mối mộng tình lớn lao lên đường du học. Ôm bao hy vọng lúc ra đi!
Trong thời gian đó có nhiều người tới dạm hỏi chị về làm vợ, trong số đó có Tất. Tất là đại úy, tướng người cao lớn, tuy không đẹp trai nhưng rất bền chí, dù đã bị chị Trúc từ chối hai lần cầu hôn. Và chị cũng không nhận lời ai hết - chẳng phải là để thủy chung với Phước. Chị tiếp tục thêu thùa nướng bánh, và bọn con trai Xóm Rạp Hát tiếp tục chắc lưỡi trầm trồ Người Ðẹp Bình Dương và cô em bé nhỏ xinh xinh - trong số đó vắng mặt tôi. Bởi lẽ tôi đã lên đường du học Canada. Anh đi em ở lại nhà, Vườn dâu em đốn thịt gà xé phay. Ánh ở lại nhà đeo chưn má tôi rất kỹ. Ðáp lại má tôi cũng thủy chung với Ánh hết dạ hết lòng. Còn tôi thì trúng tủ thơ Nguyễn Bính. Năm nào, khi Tết đến ở Canada tôi cũng lăn ra giẫy đành đạch nằm vạ với chị Trúc: Tết này chưa chắc em về được. Em về không được là cái chắc. Con đường Québec - Vĩnh Long nào đâu có ngắn như con đường lục tỉnh Sài Gòn - Vĩnh Long, sáng đi chiều về. Càng chắc chắn về không được tôi càng làm dữ - với dân da đỏ địa phương.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ một thêm đông
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng


Ở Canada những năm 60 mà tôi đã bày bán gạo nếp, nước mắm, bánh tét và dán liễn đỏ ở cột nhà hàng xóm tùm lum. Thây kệ, sư phụ biểu sao thì tôi làm vậy. Trời Québec càng xuống tuyết ào ào tôi càng rống la chói lói. Áo rét ai đan mà ngóng đợi? Còn vài hôm nữa hết mùa đông. Tôi lạc quan quá trớn. Mùa đông xứ Tuyết thì dài bất tận, hết làm sao nổi mà hết. Ánh không biết đan áo, còn chị Trúc thì lo nướng bánh kẹp. Thằng em chỉ còn có nước từ chết tới bị thương. Nằm vạ ở Québec đã đời tôi đáp tàu thủy sang Paris nghỉ hè và kết tình với Diane, người em Xóm Học. Hết mùa hè tôi chia tay với Diane bước chân xuống đò trở về Xứ Tuyết. Lênh đênh trên mặt biển, nhớ Diane quá cỡ, tôi khóc lóc ,và một lần nữa, lại lăn ra nằm vạ với chị Trúc.

Chị cho em chị chiếc khăn thêu
Ý chị thương em khóc đã nhiều
Khóc chị giờ đây mình lại khóc
Cho mình khi tắt một tình yêu


Ðêm nào tôi cũng la cà ngất ngư ở quầy rượu.

Ồ say thương nhớ vô cùng!
Rượu hay lệ ướt khăn hồng chị cho?


Trong lúc tôi muốn thắt họng trên mặt biển thì ở nhà chị Trúc ra sao? Chị Trúc vẫn mạnh giỏi và vẫn tiếp tục từ hôn. Từ hôn trở thành một phản xạ tự nhiên của chị. Nhưng oan nghiệt thay! Lần này trầm trọng hơn. Chị từ hôn Lộc? Không phải. Chị từ hôn Tất? Không phải. Chị từ hôn Hồ Chí Minh? Không phải. Chị từ hôn một nhà tu? Không phải. Chị từ hôn quốc trưởng? Không phải. Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Chị Trúc, một lần nữa, lại từ hôn. Và nạn nhân là Phước, sau khi du học ở Mỹ hồi hương.

Ôm bao hy vọng lúc ra đi
Chuốc lấy buồn thương lúc trở về
Lòng mỗi lần đi lòng bão táp
Mỗi lần là một cuộc phân ly


Chị Trúc từ hôn và Phước lâm trọng bịnh. Bịnh tương tư. Tóc rụng một nửa phần đen, nửa phần còn lại bạc lưa thưa. Ða mang chi nữa tình mây nước. Ðể mặc sương sa bạc mái đầu. Má Phước phải đưa Phước vào chùa tịnh dưỡng cho nguôi ngoai mối tình oan nghiệt.

Hoa đào tưởng bóng đào xưa,
Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi.
Hoa dương vàng nhạt sầu người,
Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng.


Mặc dù không phải chị Trúc từ hôn Phước để đi lấy chồng, nhưng tôi cũng e rằng chị Trúc đã tạo nghiệp chẳng lành. Mấy tháng sau, được tin Phước lâm bịnh ngặt nghèo, chị hối hận có nhờ Lộc đi thăm Phước. Lộc đến nơi được một ni cô cho biết Phước đã rời chùa. Rồi từ đó những nay biệt luôn tung tích. Lộc về nói lại, chị Trúc bưng mặt khóc ngất.

Thì thôi tóc ấy phù vân,
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương,
Thì thôi mù phố xe đường,
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi.


Rồi Xuân tiếp nối Xuân, Tết tiếp nối Tết, tôi tiếp tục rên rỉ với chị Trúc Tết này chưa chắc em về được. Cho tới một mùa Xuân nọ, một lần nữa, lần thứ ba, đại úy Tất lại đến gõ cửa xin cưới chị về làm vợ. Nhờ bà mai trong gia đình nói khéo, ba má chị bằng lòng, phần chị Trúc có lẽ ngó lại tuổi Xuân mình nên cũng gật đầu. Thế là đám con trai ở Xóm Rạp Hát của tôi đều rút khăn mù soa ra mà lau lệ. Chạnh nhớ thuở nào ở xóm này, tôi ra ngồi ở đống cây trước nhà ngóng Ánh đạp xe chở Người Ðẹp Bình Dương về ngang ngõ, hương đượm ba ngày hương chửa tan.
Lần nọ có lẽ tôi ngó kỹ quá nên Ánh luống cuống đâm xe vào một con chó lớn đang chạy băng qua đường bất kể đèn xanh đèn đỏ. Bị đụng vào “đầu” đau điếng, con chó la “cẳng” một tiếng lớn (là cái cẳng!) chạy lộn trở lại, còn hai Kiều thì cũng té ngửa xuống đường chổng gọng. Tôi vội vã chạy tới đỡ hai nàng lên một cách rất nịnh đầm? Không! Tôi chỉ biết nhăn hàm răng hô ống điếu của mình ra mà cười. Hai Kiều thẹn đỏ mặt. Hai nàng lật đật dựng chiếc xe đạp lên, thay tài xế rồi đạp thẳng một mách về nhà. Ánh giận lắm, mét với chị Trúc là “thằng nhỏ vô duyên!” Ðó là thời kỳ tôi chưa lọt được vào sào huyệt của hai Kiều và chưa nằm vạ với chị Trúc.

Ðã có yêu nhau là đến thế,
Ðừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân.


Bọn con trai ở Xóm Rạp Hát đều nhất tề năn nỉ chị Trúc một mực như vậy mà người đẹp vẫn bước lên kiệu hoa đành đoạn. Huyền Trân thì trao thân cho vua Chiêm còn chị Trúc trao thân cho ai? Than ôi, than ôi và than ôi! Chị Trúc đã trao thân lầm tướng cướp.

Cũng là thôi cũng đã đành,
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?
Tuổi son nhạt thắm phai đào,
Ðầy thuyền hận có biết bao nhiêu người.
Em đừng khóc nữa em ơi,
Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em.


Sau khi cưới hỏi đủ lễ nghi, chị Trúc theo chồng lên Sài Gòn sống chung ở Xóm Vườn Chuối. Khi chị có bầu, Tất bắt đầu hắt hủi chị và bỏ nhà đi suốt đêm. Lúc đó mới vỡ lẽ ra là Tất đã có vợ lớn cư ngụ tại Chợ Lớn. Một buổi chiều Tất chê cơm chua canh mặn, mắng mỏ chị, chị cãi lại, hắn xô chị ra ngoài đường rồi khóa cửa lại bỏ đi mất. Một thân một mình trên đất khách, chị Trúc chỉ còn biết ra ngồi bên lề đường đô thành bụi bặm mà khóc sướt mướt. Lối xóm thấy tội nghiệp đem chị về nhà mình an ủi và cho tá túc. Sự thể càng lúc càng trầm trọng nên má phải lên Sài Gòn rước chị về Vĩnh Long chăm sóc. Vậy mà đâu có êm. Tất lại đuổi theo về tận Vĩnh Long quát mắng, đòi ăn như giặc, rồi lại chê cơm chua canh mặn, vỗ bàn đập ghế, đánh chó mắng mèo. Thấy ai nấy nín thinh nên hắn làm tới. Có lần hắn nói với Ánh: “Phải chi mà vợ tôi được lanh lợi như cô Tám...” Ánh trả đũa liền tức khắc: ”Anh có phước lớn mới cưới được chị tôi, gặp tôi, tôi đã tống cổ anh ra ngoài đường từ khuya”. Hắn nín thinh xò câm. Ma nhát bắt mặt người có khác. Tuy giận hắn, nhưng chính một tay Ánh đã nuôi nấng đứa con đầu lòng của Tất, vì sau khi sinh nở thì chị Trúc ngã bịnh li bì. Vậy mà lần nào Tất về Vĩnh Long cũng có một màn đòi ăn nằng nặc như con nít đòi bú, như giặc!

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Tết này ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Rượu say nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng


Ở Canada, mỗi lần Tết đến, lạnh teo bu gi, tôi lại tiếp tục lăn ra nằm vạ với chị Trúc, mà nào tôi đâu có hay biết gì về kiếp hồng nhan bạc mạng của chị. Phải chi chị bị bắt buộc bán mình chuộc cha thì không nói. Đàng này!... Cũng may mọi người đều giấu biệt tin tức bất lợi cho đệ tử Nguyễn Bính. Nếu không có lẽ tôi đã đáp máy bay về hành thích bạo chúa, đại úy dâm tặc, và ra hầu tòa một cách hiên ngang. Sang Tần tráng sĩ Kinh Kha chết, Máu đỏ trôi sông Dịch Thủy về. Ta hề là tráng sĩ. Ta tráng sĩ là hề! Tiếc thay trời đã không cho tôi dịp may so gươm với đại úy dâm tặc và cứu chị Trúc của tôi đang bị con quỷ râu xanh uy hiếp. Chị thà coi như là hạt bụi, em thà coi như hơi rượu cay. Nếu biết thế, tôi đã đêm đêm mài kiếm dưới trăng, hâm bầu máu nóng, dọn đường về nước. May thay tôi không biết gì hết và tiếp tục lãng mạn. Chị ơi nếu chị đã yêu, đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương… Rời Diane, trở về Québec, tôi gặp Louise và trở thành người tình của Nữ Chúa. Nàng bèo bọt quá em lăn lóc; Chắp nối nhau hoài cũng uổng công. Một trăm con gái đời nay ấy. Ðừng nói ân tình với thủy chung! Đang yêu nhau ra rít, đùng một cái đêm sinh nhựt tôi nàng tự nguyện lên gác trọ tôi nạp mạng rồi bỏ đi lấy chồng. Ngon lành!
Tết này chưa chắc em về được. Tuy nói vậy nhưng tôi đã trở về. Về quê hương. Về Việt Nam. Về Vĩnh Long. Tôi cưới Ánh - đám con trai Xóm Rạp Hát, thêm một lần nữa, lại hò dô ta rút khăn mù soa ra mà lau lệ. Ðừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân; Ta viết thư này gửi cố nhân. Năm mới tháng Giêng mồng một Tết, còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân. Bẵng đi một dạo tôi không còn viết thơ Xuân cho chị Trúc nữa. Chị có hai con rồi ba con. Và tiếp tục không hạnh phúc. Mỗi lần chúng tôi về, tôi nằm đưa võng kẽo kẹt trong căn nhà bên Cầu Cái Cá, chị kéo Ánh về nhà kế bên tâm sự. “ Mầy có phước hơn tao. Tao không biết hạnh phúc và sung sướng là gì hết. Mỗi chiều tao lo cho thằng chả ăn. Thằng chả ăn no, dọn dẹp xong thằng chả leo lên bụng tao. Như gà đạp mái. Xong lăn ra ngủ ngáy phì phò. Sáng thức dậy đòi cà phê hủ tiếu như giặc...”
Trong khi đó cuộc chiến tranh chó má ở quê hương ta vẫn tiếp diễn, từ những năm 60 sang những năm 70. Tôi đi lính và Tất lên lon Thiếu tá, phục vụ ở Bộ Quốc Phòng. Ánh có hai con thì chị Trúc đã được năm con. Ra đường thiếp hãy còn son; Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. Chị Trúc vẫn còn tươi tắn, đẹp đẽ, dù bất hạnh.
Tết này chưa chắc em về được. Em về không được là cái chắc, vì năm đó là Tết Mậu Thân 68. Tôi kẹt ở Hàng Xanh, chị Trúc kẹt ở Vĩnh Long. Dứt Tết Mậu Thân, qua năm 69 tôi xung vào quân đội rồi được biệt phái về dân sự. Tôi có gặp Tất một vài lần và thầm tiếc cho chị Trúc. Nhưng mọi sự đều quá muộn màng. Em đi theo đuổi tơ duyên; Dò mãi lòng sông sắm mãi thuyền. Cho đến một hôm em mới nhớ: “Lòng người...” chị Trúc nhớ hay quên? Hỏi là hỏi chơi vậy thôi chớ chị Trúc có bao giờ cầm bút lên trả lời tôi, thằng em lãng mạn lẩm cẩm.
Cuộc chiến khốc liệt tiếp diễn dài dai dẳng và kết cuộc là miền Bắc nuốt trộng miền Nam năm 1975. Giải Phóng? Ðó cũng là một cách nói, một cách diễn dịch lịch sử. Ðiều trước mắt là mọi quân nhân, công chức Ngụy đều phải đi học tập. Tôi, Ánh và hai con may mắn không kẹt lại. Tất, bấy giờ đã lên lon trung tá, còn kẹt lại và học tập rất xa, tận ngoài Bắc Việt. Chị Trúc lên đường khăn gói thăm nuôi từ Nam ra Bắc và được chồng trách là nuôi ăn thiếu thốn, không đúng tiêu chuẩn. Chị Trúc chỉ còn biết giấu mặt âm thầm quẹt nước mắt.
Từ cái ngày tang thương năm 75 đó, tôi không được tin tức trực tiếp gì về chị Trúc. Chị chết, chị sống, chị hạnh phúc, chị khổ đau, tôi không biết gì hết. Dù rằng mỗi năm tôi vẫn cặm cụi viết thư cho chị.

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Cầu mong cho chị vui như Tết
Tóc chị bền xanh má dậy hồng


Cho tới một Tết nọ, có người về thăm quê hương trở qua và mô tả nhan sắc hiện thời của chị Trúc. Ánh vội vàng gởi tiền về cho chị trồng răng. Chị biên thơ cám ơn, không xin gì thêm. Ngày qua ngày, và cuối cùng trung tá Tất trở về và đòi bán nhà để ăn uống tiêu pha. Chị Trúc khóc lóc, năm đứa con của chị phản đối kịch liệt ba nó mới chịu buông tha. Rồi Tất nộp đơn xin ra đi với diện HO. Lúc bấy giờ tôi và Ánh đang ở Pháp và được thư chị Trúc cầu cứu: “Em gởi cho chị bốn cây để chị lo giấy xuất cảnh cho cả gia đình”. Dĩ nhiên Ánh từ chối vì chúng tôi không có tiền, mặt khác chúng tôi lại sợ Tất làm áp lực chị Trúc để lường gạt. Ngoài ra, lo sợ cho sự dốt nát của chị, “to eat, to drink” không biết, Ánh khuyên chị chớ nên ra đi. Ðược thư Ánh, chị Trúc lặng thinh cho tới ngày chị lên đường sang Mỹ. Chúng tôi được tin chị tới Mỹ qua lá thư đứa con trai của chị cám ơn nhờ Ánh khuyến dụ mà bây giờ má nó, nó, và em gái nó được tha hồ uống sữa và coca cola - có hình kèm theo. Ðược thư Ánh giận lắm, gởi trả lại khổ chủ và dặn chị Trúc phải biết dạy con. Chị Trúc, như bao giờ, chẳng trả lời trả vốn gì hết.
Ðùng một Tết nọ, chị Trúc viết thơ cho Ánh biết là chồng chị đã đứng ra lãnh hết tiền trợ cấp của chánh phủ Hoa Kỳ, xua chị và hai con ra đường mặc kệ. Nhờ người chỉ dẫn chị đã nộp đơn xin ly dị với Tất. Chị đòi chết. Chị kêu cứu. Chúng tôi biết đại khái chị ở vùng Philadelphia, nhưng không có một địa chỉ chính xác nào hết. Thơ gởi về địa chỉ cũ bị trả lại. Ánh báo động cho người anh thứ Năm - trung tá ra đi với diện HO - cư ngụ ở Cali tiếp tay tìm kiếm. Chị Trúc vẫn biệt vô âm tín. Xứ Mỹ mênh mông, chim trời cá nước biết đâu mà tìm. Tôi và Ánh vô cùng lo lắng. Nhưng có lo lắng cách mấy cũng đành bó tay mà thôi. Tôi tưởng tượng chị Trúc lang thang trong gió lạnh mà lòng mình như dao cắt. Tôi mở địa đồ nước Mỹ ra tìm kiếm. Philadelphia nằm gần New York, mùa đông rét buốt biết chừng nào. Mà biết chị Trúc có còn ở đó hay không? Chiếu chăn phủ lạnh y xiêm; Y xiêm còn đó cánh chim biệt mù.

Ánh và tôi tiếp tục hồi hộp cho chị Trúc. Cho tới một hôm tin tức từ quê nhà nhắn qua cô cháu gái của Ánh ở Paris cho biết chị Trúc đã trở về Việt Nam và ở lại luôn bên đó - cũng ngôi nhà cũ bên dòng sông Cái Cá êm đềm. Chúng tôi mừng húm, thở phào nhẹ nhõm. Ðứa con trai của chị cũng về theo, cưới người xứ ta rồi trở qua Mỹ sinh sống, kéo cày gởi tiền về nuôi vợ.
Riêng tôi bây giờ, cơ hội lãng mạn đã trở lại. Mỗi độ Xuân về, như Xuân năm nay, tôi lại được dịp lăn ra nằm vạ với chị Trúc, y chang như ngày xưa, thời còn đi học:

Tết này chưa chắc em về được
Em gởi về đây một tấm lòng
Tết này ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Chắc chị đời nào quên nhắc nhủ
Xa nhà rượu uống có say không?


Ðược thư tôi, chị Trúc lần mò xuống gian bếp nhỏ lợp lá còn đọng khói, kéo chiếc ghế nhỏ xục xịch, ngồi vào chiếc bàn ăn nhỏ, vặn nhỏ ngọn đèn dầu. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhứt trong đời, chị Trúc rưng rưng viết cho tôi mấy câu bằng mực tím tràn đầy thương mến:

Vườn nhà Tết đến hoa còn nở
Chị gửi cho em một cánh hồng
Với lá thư này là tất cả
Những lời tâm sự một đêm đông
Chị về ở lại vườn dâu cũ
Buồn cũng như khi chị lấy chồng



Kiệt Tấn

* Thơ trong bài này mượn của Nguyễn Bính, Phạm Thiên Thư, Thâm Tâm và TTKh.
linhvang
#48 Posted : Sunday, February 14, 2010 1:52:39 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Đúng là chị Trúc hồng nhan đa truân!
PC
#49 Posted : Sunday, February 14, 2010 3:36:21 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
quote:
Bởi vậy cho nên Ánh lo lắng. Ánh lo rủi Lộc rước chị Trúc về làm vợ thì tôi với Ánh kẹt cứng.

Ủa, vậy phong tục của người Nam là không cho hai anh em lấy hai chị em?
PC
#50 Posted : Sunday, February 14, 2010 3:39:54 AM(UTC)
PC

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,668
Points: 25
Woman

Was thanked: 4 time(s) in 4 post(s)
quote:
Gởi bởi Kiệt Tấn

quote:
Gởi bởi PC

Hay là bài đó đem tặng riêng cho PNV để in trong tuyển tập PNV?

Big Smile

Được thôi.
Nhưng bần tăng viết, rồi có phải đi Thái lan đổi hệ không? để in trong tuyển tập PNV
Question


Không ngờ nói chơi chơi mà anh Kiệt Tấn gởi bài cho PNV thật tình (qua trung gian chị Liêu thái thái). Cám ơn anh rất nhiều.

Nhà văn Kiệt Tấn có bài trong tuyển tập PNV 2009. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

Kiệt Tấn
#51 Posted : Wednesday, February 17, 2010 7:07:43 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi PC
Ủa, vậy phong tục của người Nam là không cho hai anh em lấy hai chị em?

Người ta tránh thôi, có lẽ tại vì đã "trở thành người một nhà", không cấm đoán nghiêm nhặt. Nghĩ cho cùng, như vậy đâu có loạn luân, mà các đương sự cũng không cùng huyết thống.
Vả lại, Kiệt đã nói với Ánh ngay sau câu đó là chàng hổng ke, cưới thì cứ cưới có sao đâu!
quote:
Không ngờ nói chơi chơi mà anh Kiệt Tấn gởi bài cho PNV thật tình (qua trung gian chị Liêu thái thái). Cám ơn anh rất nhiều.

Bần tăng hoan hỉ nhận lời cám ơn Wink. Nhưng mà tên tuyển tập lẽ ra phải là Muôn hồng... Một tía thôi chớ!
Big Smile
Kiệt Tấn
#52 Posted : Saturday, February 27, 2010 10:31:37 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

Cho thiếp theo cùng
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Ca dao



Trưa hôm qua, thêm một lần nữa, đấng lang quân yêu dấu của tôi lại làm cho tôi mất mặt bầu cua. Chàng la tôi truớc mặt mọi người! Mấy chị em thử nghĩ, hai đứa được một gia đình bạn thân mời tới nhà ăn Tết muộn. Ăn xong, ông già người bạn có hảo tâm biếu chai sâm banh để tưới cho lên men ba ngày Tết. Chàng chếnh choáng đứng dậy xung phong mở chai. Bốp! Bọt rượu trào ra, mọi người vỗ tay. Chàng rót mỗi người một ly rồi mời ông già cụng ly. Ông cụ khoát tay:
- Cho tui xin khước từ vì tui còn phải đi nhà thờ.
- Ôi! Thì bác cũng nên làm một ly cho mau gặp Chúa!
Chàng buông một câu xanh dờn! Đó mấy chị em nghĩ coi. Gia đình người ta vốn mộ đạo. Ông cụ thoáng nghe vụt biến sắc mặt. Cũng may, sau đó ông cũng đành cười trừ. Bà cụ đỡ lời:
- Cậu này coi vậy mà không phải dễ.
Tôi xen vào:
- Tánh ảnh vậy đó bác ơi, uống vô ba cái là khích bác người ta...
Chàng la tôi:
- Chính em mới khích bác anh chớ anh đâu có khích bác ai. Đi nhà thờ không phải để gặp Chúa chớ để gặp cái gì? Anh chỉ muốn giúp...

Cái tính kỳ chướng đó cũng đâu phải mới đây. Nó có từ hồi bên nhà, hồi thuở trời đất nổi cơn gió bụi, thuở người mình với cộng sản đánh nhau dài dài xương máu. Đêm nọ, một người bạn nhạc sĩ kéo vợ chồng tôi tham dự buổi trình tấu nhạc của Hội họa sĩ trẻ tại một biệt thự ở đường Phan Đình Phùng, giới nghệ sĩ tới chơi cũng đông. Sau màn ăn xeo-xẹt-uýt, tới màn nghe nhạc hòa tấu thính phòng. Giữa lúc vĩ cầm, tiêu, sáo và đại hồ cầm đang réo rắc bên tung bên hứng thì đấng ông chồng vĩ đại của tôi bật ngửa trên ghế ré lên cười “Há! há! há!... há! há! há!” Mọi người quay lại ngó, khó chịu ra mặt. “Há! há! há!...”, mặt chàng đỏ ké, trông thỏa mãn ra phết. Có tiếng suỵt suỵt từ phe thưởng ngoạn. Tôi sượng sùng quá kéo chàng ra ngoài hiên, ngồi trên ghế bành. Tưởng êm. Dè đâu thay vì “Xin quý vị vui lòng vặn vừa đủ nghe riêng mình, để khỏi làm phiền người khác đang cần sự yên lặng nghỉ ngơi”, chàng lại tiếp tục “Há! há! há!...” lớn hơn nữa. Tôi bụm miệng chàng, chàng gỡ tay tôi ra (há! há!), tôi bịt lại, chàng gỡ ra (há! há!), tôi quýnh quáng, phòng nhạc lao xao không ngớt. (...)

Nạn nhân có bằng cấp trên chiến trường triết lý của chàng phải kể là ông anh ruột của chàng – ông anh thứ năm. Ông này qua tới tận bên Tây để học triết ở Sorbonne. Mê Sartre lắm. Mà nói Sartre là bị đấng lang quân của tôi sạt-cà-rây. Anh Năm bị chàng đả thương trí mạng nhiều lần. Nói cái gì cũng bị chàng kê cái tủ đứng vô bản họng. Bực quá anh Năm la:
- Vậy chớ mầy binh vực cái gì?
- Tôi chẳng binh vực cái gì hết ráo. Cũng chẳng chủ trương chủ triết gì cả. Có điều thấy chuyện nghịch lý thì chửi chơi vậy thôi.
Chửi chơi vậy thôi”! Đó, mấy chị em thấy ổng nói vậy có ngon không? Nói chuyện phang phang bửa củi như rứa, biểu anh Năm không giận tóe khói sao được. Chưa hộc xì dầu như Châu Du là kể như có phước lớn. Anh Năm bị chàng dụ khị vào bát quái trận hoài hoài. Hai người cãi nhau như mổ bò, hết tiếng việt tới tiếng tây. Có lần hăng quá, hét vang dậy cả xóm, khiến nhân dân tự vệ ngang nhà xách súng qua tính can thiệp.

Đụng Nhân dân tự vệ chưa đủ, chàng đụng luôn cảnh sát. Đụng theo nghĩa đen chớ không có bóng gió gì cả. Như đã nói, tối nào chàng cũng la cà đầu đình xó chợ, bia ôm bia iếc. Hay một cái là khi còi hụ giới nghiêm, tiếng xe chàng đã nghe đồng vọng ngoài đầu ngõ. Một tối, còi hụ xong hơn năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, cánh chim trời vẫn biền biệt. Tôi càng lúc càng lo lắng. Độ nửa giờ sau chợt có tiếng đập cửa sắt nhà xe xèng xèng. Tôi vội vã chạy ra, thấy chàng mặt mày máu me tùm lum, trên tay còn cầm khúc bánh mì. Tôi hoảng hốt hỏi tới tấp:
- Anh làm sao đổ máu vậy? Sao đi bộ? Còn xe đâu? Trời ơi! Làm gì mà thấy ghê quá xá! Anh có sao không?
Chàng tỉnh bơ:
- Xe đụng rồi.
- Đụng ở đâu?
- Đụng ở bót cảnh sát.
- Bót nào?
- Bót ngã ba Hàng xanh. Xe còn dính ở thùng phuy đằng đó.
Tôi dắt chàng vào nhà rửa ráy sạch sẽ rồi lấy băng keo dán lại chỗ chân mày bị rách. Không có gì trầm trọng. Tờ mờ sáng hôm sau tôi đã lò dò tới bót thu thập tin tức chiến trường. Quả nhiên đầu xe còn dính trong thùng phuy. Tôi vào bót tự giới thiệu rồi hỏi thăm việc gì đã xảy ra khiến cho thiền môn nhuộm máu. Một anh cảnh sát tường trình:
- Hồi tối tui đương nằm thiu thiu trên võng máng giữa hai cây trứng cá trước bót, bỗng nghe ầm một cái, tui lọt từ trên võng xuống đất. Tui tưởng Việt cộng tấn công nên chạy ra sau bót núp, chờ phản công. Té ra là xe ổng lủi vô bót! May là thùng phuy có đổ bê tông chớ không là xe ổng chạy tuốt vô văn phòng rồi. Ý là tụi tui đã có đề cao cảnh giác trước, vì khuya nào nghe tiếng xe ông từ bên Thị nghè vọt qua, bẻ cua thắng rét rét là tụi tui tan hàng giạt vô bờ lề né hết. Vậy mà cũng không khỏi.
Lúc đó gần tết, tôi mua mấy tấm lịch Nhựt bổn và Tam tông miếu tặng mấy anh em cảnh sát trong bót nên nội vụ cũng êm. Cả tháng sau chàng phải ngồi xe lam ba bánh đi làm việc. (...)

Nhiều lúc tôi ước ao trại cách mạng hay quân đội chăn chàng giúp giùm tôi. Vì ngày nào chàng còn tự do la cà là ngày đó tôi còn hồi hộp. Nói ra nghe kỳ, chớ những lúc chàng điên điên khùng khùng tôi mới cảm thấy chàng thuộc về tôi. Lúc nào chàng ngoắc ngoải ngồi dậy được là tôi lại sợ mất chàng. Đã hai lần trong đời, chàng phát khùng. Lần đầu tiên nhằm thời kỳ tôi dắt chàng đi coi khỉ coi cọp, coi cá sấu ở Thị nghè và ăn cà rem. Bỗng dưng chàng xệ quá sức. Đêm đêm tôi phải gãi đầu cho chàng và ầu ơ một hồi chàng mới ngủ được một giấc ngắn. Tôi ngậm ngùi thương xót, trong lòng thương có pha một chút tình... mẫu tử (có lẽ tôi cũng hơi bịnh hoạn ở điểm này). Lần thứ hai chàng phát khùng sau khi thất nghiệp hơn năm ở Paris. Đêm đêm tôi lại phải gãi đầu ru chàng ngủ. Tôi ngồi đâu chàng cũng be be ngồi bên cạnh như con chó bị bịnh. Tôi đi làm về chàng mừng rơn như con nít mừng má đi chợ về. Chàng bệ rạc quá sức nên phải đưa vào bệnh viện tâm lý. Hôm đưa chàng vào nhà thương, tôi vừa khóc vừa nói: “Anh ráng cho mau lành bịnh, rồi anh muốn cưới vợ bé em cũng sẽ cưới cho anh”. Chàng không nói gì chỉ níu lấy tay tôi cứng ngắc. May quá, hai tháng sau chàng ra nhà thương, và cũng không nhắc nhở gì tới ba cái vụ vợ bé.

Lần khùng đầu tiên chàng không phải vô nhà thương. Lúc chàng xìu xìu ển ển tới hồi ngặt nghèo thì bỗng dưng được thăng chức và đổi lên làm việc ở khu kỹ nghệ Biên hòa – tôi xin nói rõ là khu kỹ nghệ chớ không phải dưỡng trí viện Biên hòa. Vậy mà rồi từ từ chàng lành bịnh và hăng say làm việc, nhân viên rất cảm mến chàng. Tôi nghĩ sự mầu nhiệm đó chẳng qua là chàng đổi lên chỗ khỉ ho cò gáy, xung quanh không có mấy con hồ ly bia ôm, gái nhảy, nên tâm thần chàng lắng xuống rồi dần dần đi tới bình phục chẳng mấy hồi. Nhưng rồi tôi lại nhẹ dạ nghe lời chàng xúi bẩy, tham dự vào việc giành trụ sở cho chàng trở về Sài gòn. Trụ sở đó ở đường Hàn Thuyên, nguyên khởi cấp cho công ty mổ thịt ở cầu Bình lợi. Xếp sòng công ty này là bạn học của chàng ở Canada. Hai vợ chồng đều có cảm tình với tôi, do đó chàng kéo tôi theo nói giúp cho mau được việc. Anh bạn này đề cao cảnh giác:
- Tôi thấy để cho nó ở Biên hòa chơi với khỉ vậy mà yên bề cho chị hơn. Chị đem nó về Sài gòn, nó lạng quạng theo gái chị đừng có trách tôi nghe.
Tôi hiên ngang:
- Ảnh mà lạng quạng là tôi cưa cụt hết hai cẳng! Đừng có giỡn mặt khó làm việc.
Thấy tôi nói ngon lành quá, anh bạn cười hề hề giao cho tôi chìa khóa đưa cho chàng hôm sau đi lấy trụ sở.
Quả nhiên, tôi đúng là dân miền Nam thật thà mắc mưu cộng sản. Trở về Sài gòn như cá gặp nước, đấng lang quân yêu dấu của tôi lại “giang hồ quen thói vẫy vùng”. Lại rà rà mút mùa lệ thủy. Thiệt là quá cỡ con thợ mộc (ba chồng tôi hành nghề đóng đồ gỗ). Tôi hối hận thì đã muộn. Thét rồi tôi cũng hết muốn theo dõi hành tung của chàng luôn. Tôi thường dắt hai đứa con tôi đi xi nê ở rạp Cao đồng Hưng cho khuây khỏa. Đi coi cọp vì tôi quen với ông quản lý.

Không muốn theo dõi mà vẫn được biết như thường. Một bữa người chị dâu thứ Ba của tôi nói nhỏ là chàng lẹo tẹo với một con nhỏ Bắc kỳ làm ở Ngân hàng Quốc gia. Rồi bà xúi tôi rủ chị dâu thứ Hai đi bắt ghen giùm. Chị Hai tôi bắt ghen được gắn mề đay anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Chị đã từng căng dây giựt tình địch té lăn cù từ xe gắn máy xuống đất. Bận khác bắt ghen giùm bạn, búa lầm vào đầu một người đàn bà lương thiện phun máu, suýt nữa ở tù. Vừa nghe đề nghị của chị Ba tôi đã hồn vía lên mây, lắc đầu nguầy nguậy. Và vái van cho đừng bao giờ tôi gặp chàng đi với bồ.
Vái không gặp mà rồi vẫn gặp. Tôi không thấy nhưng thằng con trai tôi thấy. Bữa đó tôi chở Honda thằng lỏi (lúc đó đâu sáu tuổi) đi học về. Tới chỗ ngã tư đèn xanh đèn đỏ Xa lộ bỗng nó chỉ qua bên đường la lên: “Ba kìa!” Quả nhiên chàng đang đánh công xa chở một cô mặc áo hường, hai bên không biết nói gì với nhau mà cười toe toét. Chàng từ Cầu Sơn (khít bên xóm tôi) chạy ra mới dễ giận chớ! Thiệt là giỡn mặt tử thần! Tôi quành xe trở lại rượt theo chàng qua khỏi Thị nghè. Tới góc Hồng thập tự - Đinh Tiên Hoàng tôi bóp còi qua mặt rồi ngó trở lại khoát tay cho chàng tấp vô bờ lề. Tôi nghe tiếng xe thắng, nhưng khi ngó lại xe chàng biến đâu mất, như mây khói. Vòng vòng một hồi kiếm không ra, tôi vọt ga tiếp tục con đường Hồng thập tự, phom phom chạy về Hùng Vương, Chợ lớn, chỗ anh chị Ba tôi ở. Tôi vượt đèn xanh đèn đỏ, cảnh sát công lộ hú còi rượt theo buộc tôi phải dừng lại. Khi thấy tôi nước mắt nước mũi tèm lem, người bạn dân thông cảm, nhưng cũng khuyên nhủ:
- Bà chạy từ từ vì sợ em nhỏ ngồi sau té xuống đường nguy hiểm.
Bấy giờ tôi mới sực nhớ. Thằng lỏi mặt mày xanh dờn, tay chưn lạnh ngắt, nó lắp bắp:
- Má ơi! Con sợ!
Tôi xúc động càng khóc lớn hơn. Nhưng sau đó tôi cố lấy lại bình tĩnh và chạy Honda từ từ về nhà anh Ba. Ông công lộ lẽo đẽo theo sau, cách một quãng xa.
Đâu khoảng một giờ sau chàng xịt xe tới, dắt theo anh chị Năm và vợ chồng một cộng sự viên thân tín. Đố mấy chị em chàng đặt ra chuyện gì để chạy tội? Tưởng tượng không nổi! Chàng nói:
- Em đừng có ghen ẩu. Bà áo hường là bạn cũ muốn xin cho đứa em vô sở anh làm nên anh nể bạn mời đi uống nước, nhắc chuyện đời xưa, chớ có gì đâu. Không tin em thử hỏi...
Chàng chỉ hết người này tới người nọ. Và ai cũng làm chứng gian tại tòa. Ứa gan không? Tôi mệt mỏi quá nên chịu thua, không thèm lấy khẩu cung ai hết. Tôi chỉ muốn tin chuyện chàng nói (dù tôi dư biết là nói dóc), cho đỡ khổ. Trời ơi sao tôi khổ quá! Tôi muốn chết và đừng bao giờ đầu thai trở lại làm người, nhất là làm đàn bà, để đừng rủi ro gặp lại chàng bất tử.

Hồi còn là học sinh trung học tập tễnh yêu nhau, tôi hết mực tin chàng đã yêu tôi bằng mối tình đầu. Tới lúc chàng đi du học, tôi và anh Năm ở nhà tò mò mở cái rương học trọ của chàng. Tôi bật ngửa: trong rương có hình cô gái lộng kiếng, lưng ảnh đề tặng người yêu (ký tên: Hoa, bến đò Định tường). Và tập nhật ký chàng viết hồi học lớp đệ nhị ở Mỹ tho, tang vật rành rành. Tôi khóc sướt mướt. Anh Năm hoảng quá nên đem ảnh và nhật ký đốt hết cho tôi hài lòng. Nhưng tôi vẫn ân hận và vẫn khóc. Bởi vậy từ đó tôi rất sợ táy máy các đồ vật riêng tư của chàng, mà chàng lại hay vứt bừa bãi, không giấu giếm che đậy.
Lúc đã sống chung, một bữa tôi mở tủ tìm quyển sách mà tôi muốn đọc lại. Tôi bới các kẹt hốc. Sau dãy sách một chiếc hộp thiếc rớt ra. Một hộp đựng kẹo ngậm cho thông cổ. Tôi hý hoáy mở hộp. Tôi khám phá một lọn tóc màu hoe vàng và một chùm lông cùng màu, rồi một lọn tóc và một chùm lông màu nâu óng. Không tin giở hộp ra coi, rau răm ở dưới cá mòi ở trên. Quỷ thần thiên địa ơi! Tôi đã lấy nhằm con quỷ râu xanh! Tôi bủn rủn. Xin ông trời ngó lại mà coi! Dân Gia nã đại đóng thuế, chính phủ Gia nã đại cấp học bổng cho chàng qua xứ người ta du học. Chàng qua xứ người ta rồi chàng cắt lông cắt tóc con gái người ta bỏ vô hộp thiếc mang về xứ mình như mọi Da đỏ. Thiệt hết cỡ nói! “Ta ngắt đi một cụm lông thạch thảo”. Đến nước vậy, chàng vẫn tìm được lý do để tự bào chữa:
- Mấy nàng tự ý xởn cho, chớ anh đâu có nỡ lòng nào xởn lông, xởn tóc con người ta như vậy. Vả lại, cái màu nâu óng ả là của Louise Gia nã đại, còn hoe vàng là của Diane từ Paris đem về, chớ đâu phải của Gia nã đại hết!

Của ai thì của, tôi mất ngủ cả đêm. Cả tuần. Chàng lường gạt ái tình tôi trước khi đi, trong khi đi, và ngay cả sau khi đi du học về nước. Quá thể! Tôi không có một kí lô nào trong đời chàng hết. Tôi tủi thân khóc sưng vù cả mắt. Tôi sụt cân, thụt mắt. Bởi vậy tôi sợ biết đời tư của chàng lắm. Như con chim thấy cành cong sợ ná, tôi chọn lựa sự đào tẩu: tôi không muốn biết. Mấy chị em đừng tưởng khi không tôi trở thành triết gia như vậy đâu. Trước đó, tôi đã áp dụng nhiều ngón tuyệt kỹ khác, kể cả phương pháp của công an mật vụ. Khuya chàng mò về lăn kềnh ra mở tiệm cưa, tôi thao láo con mắt ngó nóc mùng đâu có chịu nổi. Tôi với tay lấy cây đèn bấm trên đầu nằm, vạch mắt chàng rọi vào lấy khẩu cung. Chàng lè nhè “Trời ơi sao ác ôn như việt cộng vậy?” rồi chàng khai hết. Lúc đó tôi mới đâm hoảng, không muốn nghe nữa. Tuốt tuột! Con nhỏ nào vú nhỏ, đít lớn, lông nách nhiều, lỗ rún vuông, dầy dầy mỏng mỏng... Thôi thôi tôi không muốn nghe nữa. Tôi tắt đèn bấm, khóc thút thít.

Một đêm nọ, nghe tiếng chàng về nhưng buồn ngủ quá, tôi nằm luôn trong mùng. Tôi nghe lãng đãng tiếng lục đục rồi tiếng vòi nước tỏa ra ở nhà tắm. Nhưng chờ mãi không thấy chàng vào ngủ, tôi thắc mắc bước ra trinh sát. Cảnh tượng thiệt hoang đường: đèn nê ông thắp sáng choang, chàng trần truồng ướt mem ngồi ở bàn ăn... khóc sướt mướt. Tôi hoảng hốt xáp tới ngồi bên cạnh hỏi việc gì đã xảy ra, chàng tiếp tục khóc ngất không nói được một lời, trông thiệt thương tâm. Một lát sau sực nhớ, sợ chàng cảm lạnh tôi lấy khăn lông trùm cho chàng rồi vỗ về chàng đi ngủ. Chàng ngoan ngoãn nghe theo. Đêm đó tôi nằm bên chàng mà đầu óc hoang mang cho đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu được vì lý do gì mà chàng ở truồng ngồi khóc tầm tã như vậy.

Khi Sài gòn sập tiệm, tôi xách hai đứa nhỏ chạy giạt gáo qua tới bên Tây muôn dặm tìm chồng (chàng đã mừng rơn tính phen này kiếm vợ khác làm ăn). Tôi những tưởng chàng đã được giải phóng ra khỏi vòng tay mấy con quỷ cái! Đâu được năm sau đứa cháu gái của chàng (con anh Năm) biên thư nhắn nhe chàng “hãy tội nghiệp người con gái đáng thương ấy và chú đừng quên bổn phận làm cha”. Thế là chàng lòi ra tội... trốn quân dịch. Vậy mà hồi ở Sài gòn tôi không hay biết gì hết. Người con gái đáng thương ấy chính là Nhung, con nhỏ bồ Bắc kỳ làm ở Ngân hàng Quốc gia của chàng. Tôi vừa giận chàng vừa giận con nhỏ cháu. Tôi đã gởi thuốc men quần áo về giúp nó mà nó nỡ nào biên thơ qua khuyên chàng một câu xanh dờn. Tôi tức cành hông, lấy khẩu cung, đương sự khai là thương con nhỏ Bắc kỳ tại vì cô bé giống Thanh Lan, mà chàng thì khoái Thanh Lan. Tôi cũng thích Thanh Lan, nhưng kể từ đó, nghe Thanh Lan hát tôi thấy dở ẹc. Tôi thề độc với chàng là chuyện tình gì của anh, anh viết em đều đọc, chớ còn chuyện tình của anh với con nhỏ Bắc kỳ đó là em nhứt quyết sẽ không bao giờ đọc. Con nhỏ biết chàng có vợ rồi mà vẫn còn nhào vô giành dân lấn đất.

Thêm một lần nữa, chàng lại độc diễn cái tuồng “tiền dâm hậu thú” với vợ nhà. Nghĩ cho cùng, không có cách nào hơn, tôi đành mở rộng vòng tay chiêu hồi đón nhận người anh lạc hướng quay về hồi chánh. Tôi thề trong bụng: đây là lần chót! Sau đó là “the river of no return”. Chàng hãy liệu hồn! Chiến trường Đông dương coi bộ có mòi lắng dịu thì đùng một cái phe địch từ Bắc Mỹ đánh sang. Đánh bằng điện thoại: Louise, cô bồ cũ ở Gia nã đại (đã tự ý xởn lông như chàng nói) tưởng chàng đã chết mất xác trong cuộc chiến tranh dai dẳng ở Việt nam, nay nghe chàng còn sống sót đã vội vã gọi sang hỏi thăm sức khỏe. Cô ta đã ly dị chồng và hiện sống với con gái ở Québec. Anh Năm vượt biển tị nạn ở xứ này nên nối lại được nhịp cầu tri âm. Khi nàng gọi, chàng bắt điện thoại và trao cho tôi ống nghe phụ. Hai bên trao đổi văn nghệ xã giao một hồi, rồi bắt đầu chia động từ yêu đương “je t’aime, tu m’aimes, nous nous aimons...” tỉnh bơ. Lòng sùng sục sôi dầu sống, tôi trả lại ống nghe, bước ra phòng khách đóng ập cửa lại cho hai trẻ tha hồ mà tỏ tình nhau qua làn sóng điện – ngót nghét một giờ. Tôi giận run. Chàng giỡn mặt chính quyền quá thể.
Tối hôm đó tôi hát bài Ai xuôi vạn lý, điệp khúc “những người mang mền biệt ly”: tôi vác mền ra ngủ ở ghế nệm phòng khách. Tôi chờ: chẳng thấy chàng ra năn nỉ. Qua đêm sau cũng hoạt cảnh như đêm trước. Tôi tức thở không ra hơi. Đêm thứ ba chịu hết nổi tôi mò vô phòng đè chàng xuống vừa bóp cổ vừa ngắt. Chàng vừa đỡ vừa cười... ruồi kiếm điểm. Chàng nói:
- Em đừng ghen ẩu! Cô ta với anh cách trở một đại dương, có cách gì tình qua không gian làm ăn với nhau được mà em ghen? Hồi đó anh lấy cô ta hà rầm em không ghen, bây giờ mới đá bóng một chút mà em phát ghen mới kỳ. Người ta có lòng ưu ái đánh điện thoại xuyên dương hỏi thăm mình, chẳng lẽ anh hất hủi...
Vân vân... và vân vân... Mấy chị em nghĩ coi tôi có thể làm gì khác được không? Cắm sừng chàng để trả thù? Tôi sợ thù chẳng những trả không được mà lại còn mang nặng lấy mặc cảm phạm tội suốt đời. Rồi sau đó chàng òn ỷ thế nào không biết mà tôi còn may áo tốt gởi cho nàng Louise mặc trong dịp lễ Giáng sinh, và nàng cũng có gởi cho tôi món quà đáp lễ nhưng bị thất lạc. Nàng viết thư rủ chàng và tôi qua bên bển chơi trong dịp hè, nàng trả vé máy bay. Nhưng tôi thấy cái tuồng bộ ba ông táo không thể khá được nên cứ khất lần.

Không biết mấy con quỷ cái đó cố tình làm cho chàng “ngất ngư ngất ngư gần chết” hay không, vì tôi nhận thấy chàng cũng làm tròn bổn phận công dân “đực rựa” đối với xã hội chủ nghĩa: lao động tốt. Rất tốt (tùy mùa). Chàng đã giúp tôi khám phá những tiềm năng ở tôi mà chính tôi không hề ngờ tới. Những lúc đó tôi muốn kiếp sau được đầu thai trở lại làm người, làm đàn bà, và gặp chàng trở lại. Chàng bảo đừng cám ơn chàng mà nên cám ơn những người đàn bà đã dạy dỗ chàng. Tôi không ghen, nhưng thấy khó lòng hậu thuẫn ý kiến này được. Khi giận chàng, xách gói về với má, tôi gặp lại chị tôi và có dịp tâm sự. Chị tôi sắc nước hương trời, tôi bằng một nửa là may lắm. Chính chàng thú thiệt cũng mê sắc đẹp của chị tôi. Đàn bà nửa đêm tâm sự, tôi nói phớt qua kinh nghiệm giữa tôi với chàng. Chị tôi bộc bạch:
- Tao không biết sướng là cái gì hết! Mỗi lần thằng chả về ăn xong cơm tối là ngáp dài. Rồi leo lên tao như gà đạp mái... Nghe mầy nói mà ham. Thiệt tao chưa hề biết sướng. Gẫm lại mầy không đẹp bằng tao mà có phước hơn tao nhiều...
Ra đường thiếp hãy còn son/ Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. Chị tôi giờ vậy đó. Nghĩ cho cùng, phải chăng chẳng qua đó là nghiệp báo. Hồi thời trung học chị đã khiến cho một anh chàng si tình nuôi hy vọng hão huyền theo đuổi nhì nhằng, đau tương tư tưởng chết. Rồi cạo đầu đi tu.

Chàng lao động tốt tùy theo mùa, như đã nói. Có lúc cả tháng khi lên giường chàng khư khư ôm theo một quyển kinh dày mo bìa cứng màu đỏ. Liên tiếp nhiều đêm sau khi coi truyền hình, hé cửa bước vào buồng ngủ, tôi giựt mình vì đụng nhằm khối đen lù lù ngồi bẹp dưới đất. Tôi rón rén khép cửa lại còn nghe chàng kêu “ộp ộp” như Âu dương Tây độc luyện Hàm mô công.

Nhà tôi ở từng mười lăm. Một đêm trăng sáng nọ chàng mở cửa sổ bước ra ngoài không trung cỡi lên lưng con dơi đen bay tuốt lên cung Hằng như chú Cuội. Nếu tình cờ xảy ra như vậy, tôi cũng sẽ không ngạc nhiên. Tuy nhiên, còn một điều khiến cho tới bây giờ tôi vẫn thắc mắc là vì duyên cớ gì mà năm xưa nọ ở Hàng xanh, chàng đã trần truồng ngồi khóc tỉ tê dưới ánh đèn nê ông giữa đêm hôm khuya khoắc...


Kiệt Tấn
Kiệt Tấn
#53 Posted : Monday, August 16, 2010 12:27:46 AM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

BẾN ĐÒ TRAO THƠ
Thương em đứng dựa góc thành
Chờ con trăng lặn mới đành trao thơ.
Ca Dao


Hoa. Nàng tên Hoa. Tôi biết nàng tên Hoa. Bữa nay tôi mới biết nàng tên Hoa. Hoa, hoa, hoa, hoa bưởi, hoa mai, hoa cúc, đâu phải lần đầu tiên trong đời tôi mới nhắc tới tiếng Hoa. Nhưng bữa nay, lần đầu tiên trong đời tiếng Hoa làm cho tim tôi chấn động, tiếng Hoa đối với tôi có một âm hưởng tuyệt vời. Mỗi lần nhắc tới tiếng Hoa, dù chỉ bí mật trong đầu, tim tôi cũng khựng lại một bước.

Tôi lấy tờ giấy mỏng, loại viết thơ, màu xanh lợt, tôi cầm cây viết ngòi lá tre nhúng vào mực tím mua đặc biệt cho bữa hôm nay, tôi gò gẫm chép lại bài thơ của Nguyễn Bính mà tôi thuộc nằm lòng:

Đã quyết không không được một ngày
Rồi yêu mất cả buổi chiều nay
Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá
Không biết là mưa hay nắng đây?
Lâu nay tôi thấy ở hồn tôi
Như có tơ vương tới một người
Người ấy… nhưng mà tôi chả nói
Tôi đành ngậm miệng nữa mà thôi!...


Tôi hồi hộp xếp lá thư xanh đút vào tờ báo Xuân ngoài bìa có vẽ một cành mai rực rỡ. Tôi sai Bút, thằng lỏi trong nhà trọ cầm tờ báo Xuân sang nhà cho “cô Hoa” mượn – chính nó đã cho tôi biết tên của nàng.

Nhà trọ thuộc loại nhà sàn, một nửa trên đất liền, một nửa dưới nước. Nhà nàng cách nhà tôi trọ một căn phía bên trái, cũng nhà sàn. Cách nhà trọ độ mười thước phía bên mặt là bến đò đưa khách từ Định Tường sang Vĩnh Tràng và trở về. Tết vừa qua được mấy bữa. Gió từ bến đò thổi vọng lại mát mẻ.
Mùa Xuân thơm tho hãy còn đó, thoang thoảng, ngây ngất.
Hoa!... Em Hoa!...”
Tôi gọi nho nhỏ.




Hoa giở tờ giấy xanh mỏng đọc hết bài thơ của Nguyễn Bính rồi mỉm cười. Không! Giấy xanh mực tím là điều nghiêm trọng, đâu có thể mỉm cười như vậy được! Nàng chớp mắt cảm động, run run ép bài thơ lên tim mình rồi thầm gọi tên tôi. Nhưng nàng có biết tôi tên gì để mà gọi hay không? Nguy! Nếu nàng tưởng tôi tên Bính, họ Nguyễn thì hỏng hết! Trật lất. Tôi tên là Kiệt, họ Lê, Lê Tấn Kiệt, mười bảy tuổi. Tôi hối tiếc tại sao tôi không dám ký địa tên mình ở dưới bài thơ. Tôi cứ dụ dự mãi. Để bây giờ hư bột hư đường: Nàng ép bài thơ lên tim mình chớp chớp mắt rồi… nín khe!

Tờ báo Xuân ra đi cả ngày rồi không thấy trở về .Nàng đọc gì mà lâu dữ ! Tôi lóng nhóng ,bứt rứt ,bồn chồn .“Qua tên là Kiệt nghe cưng ! Biết rồi, khổ quá, nói mãi!”. Tôi đi vô đi ra ngó vọng sang nhà nàng. Im ỉm. Tôi giở tập học ra, rồi xếp lại, rồi giở ra . Học bài không vô. Cậu chuẩn Tú thở dài, dài thậm thượt. Nước sông lững lững lờ lờ, đò đâu chẳng thấy anh chờ hết hơi

Một khi đã lậm với (ơ ơ…) tình !... câu vọng cổ Năm Nghĩa xuống cả chục năm trước bây giờ nhớ lại mới thấy thấm thía. Than ôi! Tôi đã lậm với tình! “chao ôi! yêu có ông trời cứu”, Nguyễn Bính cũng đã kêu trời như bộng khi lê mòn gót trước cửa nhà nàng ở phố Hàng Đào ngoài Hà Nội. Vậy mà tôi không tởn. Tôi vẫn cứ giỡn mặt ái tình. Nếu nàng không đáp lại tình tôi, và ông Trời cũng không chịu cứu tôi, chắc tôi chết mất. Không phải đây là lần đầu tim tôi rung động vì yêu nữ. Tôi đã có lụy với ái tình lai rai, bắt đầu từ thuở mới năm tuổi. Nhưng lần này thì khác. Lần này, lần đầu tôi cảm thấy tôi chỉ có một mục đich duy nhứt trên đời: Tôi sinh ra để … yêu nàng. Và nàng là Hoa. Hoa của tôi. Nàng yêu: tôi sống. Nàng không yêu: tôi chết! (dễ ợt!) Giết người không gươm giáo là mặt trận của ái tình. Năm Nghĩa cũng đã cảnh báo như vậy từ khuya. Tôi chết là hết sức đáng đời. Tôi sẽ ra bến đò đón đò băng qua bên kia sông, rồi sẽ đi mất biệt… Nhện sa xuống nước nổi phình, kiếu huynh kiếu đệ kiếu người tình tôi lui.

Nhưng tôi chưa kịp lui thì nàng đã ngoắc tôi lại. Phải, nàng đã ngoắc tôi lại. Tờ báo Xuân đã trở về - nàng đã đưa cho thằng Bút cầm báo về cho tôi. Tôi len lén leo lên gác trọ, hồi hộp giở ra. Lá thơ xanh của tôi đã biến mất. Thay vào đó là tờ giấy mỏng, cũng loại giấy viết thơ mầu hường lợt xếp đôi. Tôi mừng quýnh, run run giở ra, lật qua lật lại: không có một chữ viết. Tôi đưa lên mũi ngửi, chỉ có mùi giấy. Tôi chới với – tuy lòng sung sướng. Nàng muốn nói gì? Chỉ có trời biết được – mà cũng chưa chắc.

Đêm hôm đó tôi nằm lăn trở trên gác trọ nghe gió luồn rào rào qua mái lá, như trời sắp đổ mưa. Chúng tôi ba đứa từ Vĩnh Long sang học trọ. Mái nhà trọ thấp lè tè, đứng dậy phải khum lưng, tối tối ba đứa nằm sắp lớp như cá mòi. Trước tết, chúng tôi ở trọ gần trường và bến xe đò. Bến xe đò ban đêm có bà già đậu phộng lép đã được tôi tặng cho cái áo blouson trắng dính mực ở lưng lúc lập đông. Qua Tết, bà già đậu lép đâu mất. Còn chúng tôi thì dời về bến đò. Vì vậy mới đổ nợ. Vì vậy mới lậm với tình!

Vừa qua Tết nên thiên hạ còn múa lân. Lân tới đâu xóm bến đò tôi chạy ra coi. Coi cái đầu lân lên xuống lắc lư và khói pháo hăng hăng. Tôi nhìn thấy một cô gái mặc áo đen xinh xinh trắng trẻo, ẵm em cũng đứng coi múa lân, phía bên kia. Vừa thoáng nhìn nàng là tôi chịu liền. Không rõ tại sao. Đối với tôi, cái đầu lân và khói pháo thoắt đã biến mất. Chỉ còn nàng đứng đó mỉm cười, răng trắng đều óng ánh ngọc lựu. Môi nàng đầy đặn ửng hồng, môi trên cong dợn như cánh chim bay, ở giữa trũng xuống hình trái tim, môi dưới mở hờ… Trời ơi! muốn cắn một cái! Đặc biệt là đôi mắt. Đôi mắt không to tròn ngây thơ ngơ ngác con nai vàng. Mi trên bụp nhẹ lên như mắt Shirley Mac Laine, khi cười nheo nheo tình tứ, mi đen khép xuống dịu dàng nhung thẩm, sâu sâu phía trong lóe ánh long lanh vệt mắt gọi mời. Tôi bị thôi miên. Choáng váng. Ngất ngư.

Bắt gặp tia nhìn kì dị của tôi, nàng vội vàng cúi mặt, như linh cảm điều gì. Rồi ngửng lên liếc, rồi lại cúi xuống, làm bộ hun em mình. Khi lân đã đi xa, tôi theo dõi nàng bồng em ra về mới biết nhà nàng ở cạnh nhà mình trọ, chỉ cách có một căn. Phía trước nhà nàng là hàng ba lót gạch tàu đỏ, có rào cây song thẻ sơn nâu. Đằng trước nhà trọ thì trống lổng cho chiếc xe đò của ông chủ tối về đậu – loại xe Huê Kỳ sơn đỏ dài ngoằng, đưa rước khách Mỹ Tho – Sài Gòn. Chú Tư tánh tình hịch hạc, cười có răng bịt vàng nguyên hàm chói rực. Thiếm Tư có món cá trê nướng giầm nước mắm gừng ngon hết xẩy. Con chú là Hoàng Tửng trạc tuổi tôi, xuống vọng cổ nghe cũng rung rinh cái rún lắm. Bút là thằng cháu bà con miệt Bến Tranh lên ở đậu nhà dì Tư đi học. Từ ruộng mới ra thành nó đen thui, chưn đóng phèn mốc cời mà nấu cá có hạng. Chỉ sai nó đi điều tra một chút là tôi đã biết được tên nàng: Hoa!

Vào nhà một chút nàng lại bồng em trở ra, liếc qua thấy tôi đang chống nạnh đứng ngó, nàng lại bồng em trở vô. Chặp sau nàng lại trở ra cầm cái khăn bàn giũ giũ ở ngoài rào, lại liếc. Tôi đoán chừng nàng cũng có cảm tình với tôi – hạp nhãn? – nên tôi cũng vuốt tóc cười ruồi một phát. Khi nàng trở ra lần nữa, tôi làm gan hấp háy một bên mắt, đá lông nheo. Nàng liếc nhanh, mỉm cười đi vô. Rồi không trở ra nữa. Để tôi đứng một mình chống nạnh ngẩn ngơ, linh cảm phen này chắc mình đã thực sự sụp bẫy ái tình.

Tôi lăn qua trở lại hồi tưởng. Thắc mắc. Sao nàng chẳng viết cho tôi lấy một chữ! Hay nàng viết rồi nhè để lộn trang giấy chưa viết vào tờ báo Xuân? Chẳng lẽ nàng cũng như Hương, cô láng giềng yêu dấu của tôi ở Vĩnh Long, đã làm ngơ tình tôi? Hồi học đệ tứ, tôi đã làm gan cầm thơ tình sang tận lớp của Hương để trao trong giờ ra chơi. Tôi dám làm gan vì thơ đó không phải của tôi, mà là của thằng bạn tên Nhờ, bạn cùng lớp. Nó yêu nàng, tôi cũng si nàng, và tôi đi thơ cho nó, như thằng Bút bây giờ - quả thiệt tôi ngốc tử! Lúc Hương cầm lá thơ trong tay nhìn tôi, tôi lắp bắp, lính quýnh: “thằng Nhờ … anh Nhờ… anh Nhờ nhờ tôi đưa thơ của Nhờ… nó nhờ tôi… cho Hương”. Ý là trước khi ra đi tôi có dợt đi dợt lại câu đó cả chục lần. Nghe tôi cứ “nhờ nhờ” nàng tưởng tôi cà lăm. Tôi phải lặp lại mà cẳng chưn lạnh ngắt. Khi hiểu được thông điệp, nàng mỉm cười trả thơ lại cho tôi: “Tưởng thơ của anh thì Hương lấy, chớ thơ của người khác thì Hương không lấy đâu”. Tôi quê quá, kéo tai gãi gãi rồi bần thần lui gót. Về lớp tôi lại bị thằng Nhờ mạt sát là đồ vô tích sự!

Từ đó mỗi lần nghe nói tới “thư tình” là tôi ê càng. Đường tình thiệt lắm chông gai mà những người đi trước tôi chẳng ai chịu dẹp bớt. Thiệt khổ hết sức! Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu. Tôi lăn qua trở lại trong góc tối một hồi thấy mình ê ẩm. Ái tình là cái làm cho người ta mất ngủ, như thằng Nhờ đã định nghĩa. Làm sao bây giờ! Một mình lưỡng lự canh chầy. Chợt có tiếng trẻ khóc từ phía nhà nàng vọng sang, rồi tiếng ầu ơ trong veo, thoang thoảng:
Ầu ơ…
Má ơi con vịt chết chìm
Con thò tay vớt nó, con cá lìm kìm rỉa (ớ ờ) tay…
Ầu ớ…
Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng (ơ ờ…) anh thương nàng bấy (ó ờ) nhiêu
(ầu ơ…)


Gió từ bến đò thổi vọng lại đong đưa tiếng ru em nghe rầu thúi ruột. Chắc là tiếng nàng ầu ơ chớ chẳng ai đâu. Bao nhiêu lá rụng… Phải! Bao nhiêu lá rụng mà nàng đâu hay biết! Tôi lăn qua. Thương nàng nhiều vô số kể như lá me nhỏ chi chít của hàng me rậm rạp trồng hai bên con đường lởm chởm đá trắng chạy dọc theo bến đò. Tôi thở dài, lăn trở lại. Chợt trí tôi bừng sáng trong bóng tối. Nàng biết hát ru em, vậy tôi phải đi vào tâm hồn nàng bằng lối mòn tâm tình dân tộc: Con đường Ca Dao!





Chấm ngòi viết lá tre vào mực tím, tôi lại bồi hồi gò gẫm trên tờ giấy mỏng xanh lợt:
Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim can cháy lụn anh sầu tương tư một mình.


Tôi chấm mực, đọc lại hai câu vừa viết. Phải mùi hơn một chút nữa mới được. Lại húy hoáy:
Thấy cô nho nhỏ tôi muốn nghỉ cái nghề đờn,
Theo cô mần tùng giả quánh quờn cho cô coi.


Như vậy biết nàng đã chịu rung động chưa? Mực tím tiếp tục:
Tháng ba trời hạn sen tàn,
Đêm nằm trải lá gan vàng đợi em.


Ngưng viết đọc lại, vẫn chưa vừa ý. Cứ nói bóng nói gió làm sao mà nàng hiểu đặng với cái tuổi mới xấp xỉ mười lăm mười sáu trăng tròn? Hay cứ nói phứt ra cho rồi. Tôi nhồi nhồi ngòi bút trong bình mực rồi rút ra gạt mực dư trong miệng bình:
Em hãy thề với anh hết miễu qua chùa
Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê?


Đậm đà hơn chút nữa coi:
Anh đi lục tỉnh giáp vòng,
Tới đây trời khiến đem lòng thương em.


Như vậy đã lay chuyển tim nàng được chưa? Tôi nhớ đôi mắt nàng khi cười nheo nheo nhỏ lại tình tứ. Tình tứ, đa tình… chung tình, phải đó!
Làm thơ trái ấu gửi thấu chung tình,
Anh đau tương tư bịnh nặng,
Không thấy mình vãng lai…


Tội nghiệp như vầy mà nàng không thương nữa thì thôi! Lòng tôi lai láng như con sông Định Tường nước lớn. Tôi còn viết nữa viết hoài cho tới lúc trái đất ngừng quay, trái tim ngừng đập cũng không sao nói hết được. Tôi xếp tờ giấy xanh bỏ vào giữa tờ báo Xuân rồi sai thằng Bút cầm đi. Tôi còn bốn câu độc đáo nữa nhưng đợi tới lúc quyết liệt mới liều mạng đem ra xài. Chờ phản ứng của nàng xem sao đã.

Buổi chiều tôi ôm cây đàn ghi-ta sáu dây ra ngồi ở băng cây trước nhà so tơ nắn phím cho Hoàng Tửng xuống vọng cổ. Tôi biết đờn thuộc lòng hết câu vọng cổ số một do Hai Te, anh thợ mộc tài hoa của ba tôi dạy cho lúc học đệ ngũ – thuở đó tôi thầm kín si tình Lệ Dung qua tiếng xuống vọng cổ mùi mẫn ngậm ngùi của Hai Te: “Lệ Dung em ơi! Sao em nỡ đang tâm lòng quyết sang (ơ ờ…) Tề!...” Tôi dạo nhạc nhấn nhấn nghe cũng ra rít lắm. Hoàng Tửng thì khoái hát “Hoàng tử lưng gù”, cái đoạn ông anh xấu xí nầy bắt gặp người tình xinh trẻ và thằng em đẹp trai mắc dịch của mình đang ôm nhau xà nẹo. Hoàng Tửng nói lối:
“… Giờ nầy ta phải chứng kiến đôi chim non nớt kia đang âu yếm ấp ủ nhau trong đêm đông tàng tịch…
Còn ta
! … (Hoàng Tửng ngưng một chút rồi lấy trớn nói lối thúc lên để chuẩn bị xuống vọng cổ cho mùi)… Ta phải chịu bấy nhiêu điều đau khổ cay đắng như dày vò như cấu xé cho tan nát mảnh (ảnh…) tơ… (ơ ơ…) lòng!”

Đứt ruột! Con gái con ông chủ vựa mắm ngang nhà chắc cũng rung rinh cái rún mình không ít. Tôi lẳn tẳn một hơi kè theo Hoàng Tửng cho tới lúc chấm dứt câu vọng cổ. Hai thằng đều đã đời. Tới phiên tôi chuyển sang tân nhạc. Tôi bấm ắc-co búng vừa dây vừa vỗ thùng đờn bùm bùm, cất tiếng hát: “Dựng một mùa hoa”:
Chào bình minh Hoa ban mai lả lơi…
Nhạc dịu êm chim tung bay ngàn lối


Tới tiếng “Hoa” là tôi cố tình rống lớn, mong thấu tới tai nàng. Tôi thấy nàng bồng em ra đứng trước hàng ba giả bộ ngó lên ngọn me, đoạn đảo mắt liếc nhanh về phía tôi (Tôi vội vàng hấp háy một bên mắt) rồi nàng ẵm em đi vô… Hoa bướm tung bay, trong nắng yêu đời… (cha cha cha)… Tôi lại hét lớn tên nàng. Chắc chắn nàng phải cảm động. Có dè đâu cái xảo thuật này, tôi có dùng với Hương từ hồi còn học đệ tứ ở Vĩnh Long!

Chiều chiều Hương ra bên hông nhà lấy gàu mo tưới giàn trầu. Nhà tôi cách đó hai căn, tôi leo lên gác ra ngồi ở bực cửa sổ nắn phím cố gân cổ lên “Gợi giấc mơ xưa”: “Chiều nay lênh đênh trên sông Hương (rống lớn chữ Hương!)… Theo gió ru hồn về đâu? … (Dìa đâu thì dìa, thằng cha nầy hỏi lãng nhách, chắc Hương nghĩ bụng). Dù ở Vĩnh Long chỉ có sông Thiềng Đức, sông Cá Cái, sông Cổ Chiên và sông Long Hồ, nhưng tôi vẫn cứ nằng nặc đòi “lênh đênh trên sông Hương” cho bằng được. Có lẽ thấy tôi đòi “lênh đênh” dữ quá nên nàng bèn dứt dây cho tôi trôi luôn. Ngày tôi lên đường du học Mỹ Tho, nàng đính hôn với con ông chủ vựa nước mắm ngang nhà. Chẳng những tôi đau khổ mà thằng con ông chủ hãng cà-rem khít bên vựa nước mắm, thằng Dự, cũng đau khổ không ít. Bây giờ nó lại chung nhà trọ với tôi. Ly hương! hai thằng mà chung một tâm sự. Còn thằng thứ ba là Quâng, một cây mít ướt, bị tôi ghẹo khóc tối ngày từ đệ thất lên tới đệ tứ. Vậy mà chưa tởn còn lẽo đẽo theo ở chung trọ. Nhưng đỡ một cái là bây giờ cả bọn sắp trở thành cậu Tú Một nên Quâng không còn là đối tượng của tôi nữa.

Đã một lần vì yêu nữ mà lênh đênh vô bờ bến trên sông Hương nên phen này tôi phải liệu trước đề phòng. Nếu sau khi nhận lá thư xanh thứ hai viết bằng mực tím của tôi mà Hoa vẫn nỡ nhẫn tâm không đáp lại tình tôi thì tôi nhứt quyết sẽ… xả láng, tung ra bốn câu tuyệt mạng:
Đèn Mỹ Tho ngọn xanh ngọn đỏ
Anh coi không tỏ rõ, anh tưởng đèn màu
Rút gươm đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh!


Chỉ nghĩ tới bốn câu đó thôi, tôi đã rùng mình nổi da gà. Maria hỡi, linh hồn con ớn lạnh! Nhưng tới mức đó mà nàng vẫn bình tâm như vại thì tôi cũng nên đâm họng mà chết phứt đi cho rồi. Trước khi nhắm mắt, tôi sẽ cho xâm lên ngực mình bốn chữ “hận kẻ bạc tình”, bên cạnh trái tim có mũi tên xuyên qua chảy máu nhểu giọt.

Sau màn trình tấu tân cổ giao duyên giữa tôi và Hoàng Tửng, và sau buổi cơm chiều với canh chua, cá rô chiên có trứng vịt giầm nước mắm tỏi ớt, tôi leo lên gác nằm ngửa ngó mái lá thở dài. Một cọng lá lẻ loi rung theo gió từ mé sông thốc lên, khua lè tè. Tự nhiên tôi muốn chảy nước mắt. Tôi biết rằng tôi yêu mất rồi! Chao ôi yêu có ông trời cứu!

Chợt có tiếng ai leo lên cầu thang nhè nhẹ. Thằng Dự và Quâng mới đèo nhau bằng xe đạp đi chơi. Ai đây? Tôi tính trở mình thì có tiếng “suỵt suỵt”. Tiếng của sứ giả: Bút Bến Tranh! Tôi mừng quá liền lật úp mình trở lại. Thằng Bút ló đầu lên gác trọ cầm tờ báo Xuân đưa cho tôi, nhăn răng cười rồi thụt xuống. Tôi tính kêu nó lại vặn hỏi nhưng nó đã chạy vọt ra đường. Tôi hồi hộp giở tờ báo ra lật kiếm. Một tờ giấy màu hường lợt xếp đôi rớt xuống: “Hoa”. Mở trang giấy mỏng thấy có chữ viết. Tôi mừng quýnh kê trang giấy hồng dưới ánh sáng nhá nhem xuyên qua ô kiếng trên mái lá, nhướng mắt cố gắng đọc:

Em dạo chơi mười tám nước chư hầu
Chưa nghe ai than thở thảm sầu hơn anh.

Chuyện chi mà bắt em thề
Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai

Nước sông khỏa múc một vùa
Ai cho em uống thuốc bùa em mê?


Em mê!” nàng mê. Hoa đã mê. Hoa đã yêu tôi. Em đã yêu anh! Tôi áp trang giấy hồng lên ngực, sung sướng quá đỗi. Tôi bật người ra sau nằm ngửa trên sàn, hai chân co lên, hai bàn chân đập lạch bạch trên sàn gác trọ, miệng rên ư ử, mũi thở phì phì. “Ai cho em uống thuốc bùa em mê?” Qua cho em chớ ai cho em mà còn làm bộ hỏi! Nàng đã đáp lại tình tôi. Hoa cũng yêu tôi. Bây giờ nếu nàng chạy qua đính chánh tôi đã hiểu lầm hai tiếng “em mê” là tôi sẽ đứng tim chết liền tại chỗ. Còn hồ nghi, tôi đưa tờ giấy hường lên cao, lật qua lật lại, không thấy có viết gì thêm tôi mới yên bụng.

Tôi đứng bật dậy thẳng lưng va đầu lên kèo tre của mái lá nổ đom đóm. Tôi ngồi xuống vớ cây lược chải sơ lại mái tóc, vuốt sơ lại quần áo rồi tuột xuống gác. Tôi chạy ra trước cửa ngó qua nhà nàng bắt gặp Mân, gã anh bà con của nàng cũng đang quay cổ ngó tôi. Hai đứa nghinh nghinh, chưa quen nhau. Tự nhiên tôi cụt hứng, trong bực dọc có lẫn chút ghen tức. Hồi đó Mỹ Tho còn chấn động vì vụ án “Hải Đường”. Cô Hải Đường đâu mười sáu tuổi và người anh trai bà con đa tình yêu nhau. Gia đình biết được rứt hai người ra, chia uyên rẽ thúy vì sợ tai tiếng. Cậu con trai nổi điên cầm dao con chó đâm Hải Đường nhiều nhát ngã gục xuống mương trước cửa nhà chết tốt. Tôi ngó Mân nghi ngờ. Tôi để ý thấy hắn không có lận dao con chó. Nhưng làm cái gì mà nghinh dữ vậy cha nội?
- Cậu Kiệt!
Tôi giựt mình quay lại thấy thiếm Tư đang đứng sau lưng mình từ hồi nào. Có lẽ vẻ dị hụ phát tiết ra ngoài trên mặt mũi tôi, thiếm hỏi:
- Nãy giờ cậu ở đây có một mình hả?
- …?
- Vậy mà tôi nghe cái gì lạch bạch trên gác, tôi tưởng cậu giỡn với cậu Dự chớ.
- Dạ … dạ tôi giũ chiếu đặng nằm cho đỡ xót … chớ đâu có giỡn với ai.

Tôi lúng túng nói trớ rồi giả bộ bước ra đường đi thẳng ra bến đò hứng mát. Cô lái đò tưởng tôi là khách lên tiếng mời, tôi thối thoát. Cô đẩy đò ra sông với hai người khách muộn và chèo bì bõm qua bên kia bờ Vĩnh Tràng. Chuyến đò cuối, cô không trở qua nữa.
Ngồi một mình ở gốc me cạnh bờ sông gió mát, tôi dần dần tỉnh mỉnh. Hoa ơi! Ai cho ai uống thuốc bùa ai mê? Nước đập lách tách dưới dạ cầu nơi bến đò sẫm tối. Sông dài cá lội sóng xao, nhớ em anh ra đứng bờ ao đỡ buồn. Hận sông Hương còn đó. Chẳng lẽ con sông Định Tường bây giờ mắc mớ gì khi không lại phản tôi? Đôi mắt của Hoa hiền lành quá, tôi không tin nàng đành đoạn phụ rẫy tình tôi. Tôi phải gặp mặt nàng cho rõ lẽ. Còn hơn là chun về gác trọ nằm dẫy lạch bạch một mình như … cá lóc bị đập đầu.

Tàn me xanh đen xào xạt. Bao nhiêu lá rụng, thương nàng… Xào xạt! Phải rồi, nàng quét nhà. Tôi đã nghĩ ra. Mừng quá! Sáng nào nàng cũng dậy rất sớm, khoảng năm giờ rưỡi sáu giờ sáng, và nàng cầm chổi ra trước nhà quét hàng ba và quét lá me trên mặt lộ gom thành đống hai bên góc hàng ba. Lúc đó mới tờ mờ sáng, nàng chỉ có một mình. Chờ cho trăng lặn, tôi bèn bước tới trao thơ. Tuyệt! Tôi vụt chạy về gác trọ lôi tờ giấy xanh mỏng và bình mực tím, nằm sấp chuẩn bị múa ngòi lá tre vi vút.

Trong lúc sóng lòng đang dâng lai láng, văn chương của tôi lại chợt bí, như vậy mới kẹt. Chẳng lẽ vừa khai bút tôi lại xả láng liền một khi: “Rút gươm đâm họng máu trào”, coi sao đặng. Tôi định cầu cứu sư phụ Nguyễn Bính:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu một cây… xanh dờn.

Cũng không hợp tình hợp cảnh. Nhưng biết nói gì bây giờ? Thằng Dự và thằng Quâng lại sắp về tới. Thôi để gặp nhau cái đã rồi muốn nói gì đó thì nói. Tôi bấm gan viết đại, dù biết rằng “bút sa là gà chết”:
“Hẹn em sáng mai, thứ Năm, trước hàng ba nhà em lúc năm giờ sáng. Đừng phụ lòng kẻo anh mong đợi.”
(Ký tên: Người lậm bùa).

Tối đêm đó tôi trằn trọc trắng dờ con mắt. Nghe tiếng nàng ầu ơ văng vẳng tôi lại muốn sa nước mắt. Chắc tôi chết mất. Chắc tôi phải chết vì quá lậm với tình. Tôi phải chết vì quá yêu nàng. Bao nhiêu lá me rụng, tôi thương nàng bấy nhiêu. Hồi đó tới giờ tôi sống không có nàng không sao, nhưng bây giờ không có nàng tôi không thể nào sống sót nổi… Thằn lằn chắc lưỡi trên kèo lá, cắc kè nghiến răng ở ngọn me bến đò hay thằng Dự mở tiệm cưa trên gác trọ gì tôi đều nghe hết thảy. Tờ mờ sáng tôi lò dò tuột xuống gác, tới núp sau đuôi chiếc xe Huê Kỳ của chú Tư như thằng ăn trộm. Trên xe chỉ có thằng Bút nằm ngủ chèo queo ở băng sau nên tôi không sợ.
Vừa nghe tiếng sột soạt từ phía nhà nàng vọng lại tôi chết điếng, tay chưn vụt lạnh ngắt, tim vỗ thùng đờn như đệm nhịp “Dựng một mùa hoa” (cha cha cha). Khi nghe tiếng chổi xuống đường, tôi cầm lá thơ tình đã xếp lại nhỏ xíu rời khỏi chỗ ẩn núp. Bước ra đường tôi nín thở xăm xăm bước về phía Hoa đang tảo thanh lá me. Nàng ngửng đầu lên ngạc nhiên, ngó tôi: “Trời ơi! chết qua rồi em Hai ơi!”. Tôi dừng lại một giây, nhét đại lá thư tình màu xanh vào lòng bàn tay nàng đang đặt trên đầu cán chổi. Hoa chưng hửng, lá thơ rơi xuống mặt đường. Tôi bước thật nhanh. Anh Kiệt! … (Hương đang gọi tôi để trả lại lá thơ tình). Anh Kiệt! … Tôi vụt bỏ chạy.

Khi dừng bước giang hồ ở gốc me cuối con đường đá trắng tôi ngó trở lại. Hoa không còn ở đó nữa. Cột điện cao trước nhà nàng, bên kia đường, tỏa ánh sáng lù mù. Tôi từ từ đi trở lại, dọc theo phía bên kia đường. Gần tới nhà nàng, tôi băng ra giữa lộ. Tới trước nhà nàng, tôi ngó xuống mặt đường kiếm dáo dác. Không thấy dấu vết mẩu giấy xanh xếp nhỏ xíu đâu hết. Tôi mừng rơn. Nhưng vừa về tới gác trọ, tôi lại đâm lo. Mà chẳng lẽ tự dưng chạy ra bươi hai đống lá me cạnh hàng ba nhà nàng mà kiếm? Rủi má nàng chạy ra hỏi “ cậu kiếm cái gì?” Chắc chỉ còn có nước độn thổ!

Cả ngày hôm đó, tâm hồn tôi phưởng phất ở trên ngọn cây me hay cuốn theo chiều gió thổi lại từ bến đò. Trước khi chun vô mùng, tôi vặn đồng hồ reo dợt thử coi nó reo có đúng giờ. Tôi dặn hờ thằng Dự, Hoàng Tửng, thằng Bút, ai có dậy sớm thì kêu tôi thức. Rốt cuộc tôi thức sớm hơn ai hết, sớm hơn cả cái đồng hồ reo, vì tôi có ngủ nghê gì đâu. Nàng được thơ? nàng không được thơ? Cứ vậy mà tôi lăn qua lăn lại cả đêm. Tôi cẩn thận nhấn nút đồng hồ reo cho nó nín, rồi lò dò đi đánh răng súc miệng vội vã để còn ra có mặt trước giờ hẹn. Năm giờ thiếu bảy phút: “Hôm qua qua hẹn qua qua bây giờ qua qua”.

Tôi thò đầu ngó qua hàng ba nhà nàng. Không thấy ánh sáng hắt ra ở cửa sổ. Tôi bước ra đường, đi khỏi hàng ba độ chục thước dọ dẫm rồi quay trở lại. Tối tăm. Im lìm. Tôi dụ dự. Tới đầu hàng ba phía bên nhà trọ tôi dừng bước. Tôi đứng xen vào giữa hai vách lá phân cách nhà nàng với nhà bên cạnh. Tôi thụt vào trong bóng tối chờ đợi. Bí mật. Kín đáo. Nhưng chưa đầy một phút, bầy muỗi đói dưới nhà sàn đánh hơi người xông lên xạ kích tôi ào ào, xuyên qua vải quần vải áo, chích lên tay, mặt mũi để trần. Chịu đời không thấu, tôi vọt ra ánh sáng ngoài đường lộ. Nhà nàng vẫn im lìm. Hồi lâu tôi nghe có tiếng lục đục trong nhà, rồi có ánh sáng le lói bật lên xuyên qua khe vách. Tôi vội vã trở lại chỗ ẩn núp giữa hai vách lá hồi nãy. Lại muỗi. Lại xạ kích. Tôi lại vọt ra. Tiếng động trong nhà nhiều hơn, lớn hơn, xen lẫn có tiếng guốc. Tôi đành bấm bụng đứng nửa trong nửa ngoài, nửa sáng nửa tối. Khi đó nếu ai cắc cớ biểu tôi định nghĩa ái tình, tôi sẽ đáp ngay lập tức: “Ái tình là cái làm cho người ta bị muỗi cắn, hoặc văn chương hơn, là cái làm cho người ta rỉ máu”.

Bỗng từ cuối đường có tiếng lụp cụp. Trong ánh sáng lù mù chập choạng một khối đen vuông vức bước tới. Tới gần. Thì ra chiếc xe hủ tiếu bán dạo đẩy ra chợ sớm. Khi xe tới gần nhà nàng, tôi giựt mình thụt vô giữa hai vách lá, rồi ló ra, rồi thụt vô. Bỗng chiếc xe dừng lại trước cổng nhà nàng, bên kia đường, dưới cột điện, người đàn ông bỏ chiếc xe đang đẩy đi xăm xăm về phía tôi, dừng lại, cất tiếng hỏi:
- Ai ló? Ai lứng ló?
Giọng cắc chú lơ lớ. Tôi bước ra:
- Tui đây, tui đây mà … Nhà tui ở gần đây.
Tôi vừa trả lời nho nhỏ vừa chỉ cái đuôi xe Huê Kỳ ló ra trước cửa nhà trọ.
- Zậy hả? Xao lị không ỉa trong nhà mà lị da ỉa lây làm cái zì?
- Tui … tui đi lượm banh.
- Hà! Chòi lất ơi mí tỏn sáng mà lị lá panh thì bà con lối xóm làm xao nghì ta ngủ cho liệt?
- Hổng có đá! Đá từ hồi chiều banh rớt xuống đây bây giờ tôi đi kiếm.
Xì-thẩu có vẻ hoài nghi:
- Ò… ò… Mà lị làm cái zì kí thụt da thụt dô hoài làm ngộ tiểng lị là thằng ăn chộm chí! hầy lá!...
Nhưng có lẽ thấy mặt tôi không lộ vẻ gì bất lương nên xì-thẩu quay trở lại xe hủ tiếu đẩy tiếp. Tiếng lụp cụp xa dần. Hú hồn! Tôi làm gan đứng đại ngoài ánh sáng, tựa bụng vào song rào gỗ đầu hàng ba.

Ánh sáng vụt bật lên hắt qua cửa sổ. Tim tôi đập loạn cào cào. Tôi nghe tiếng ho của nàng sát cửa cái, rồi tiếng chốt mở. Nàng bước ra! Ngó thấy tôi, nàng chới với thụt vô, tôi cũng chới với. Nhưng chỉ một phút nàng lại trở ra liền. Nàng cúi xuống quơ chổi quét loạt xoạt trên hàng ba, từ từ tiến về phía tôi. Nàng dựng chổi dựa rào. Đặt hai bàn tay lên đầu song gỗ. Một cách hết sức máy móc, tôi úp hai bàn tay tôi lên bàn tay nàng. Tay nàng lạnh ngắt run nhẹ. Tôi hỏi nhỏ:
- Hoa có được thơ anh không?
Nàng khe khẽ gật đầu. Tôi im lặng, lúng ta lúng túng không biết bắt đầu từ chỗ nào. Nàng mặc bộ bà ba đen, cổ nàng trắng ngần, tóc nàng hăng hăng mùi nắng. Tôi đỡ cằm nâng đầu nàng ngửng lên. Buông ra, nàng lại cụp đầu xuống. Tôi lại nâng lên. Buông ra, lại cụp xuống. Đến lần thứ tư, nàng mới chịu để yên. Nàng ngó tôi, đôi mắt long lanh trong bóng tối. Tôi úp hai bàn tay lên màng tang của nàng, hai ngón tay cái ve vuốt mi mắt trên bụp nhẹ của nàng và đường lông mày măng tơ. Như nhung. Cảm giác như nhung. Êm đềm chi xiết. Nàng nheo nheo rồi nhắm mắt lại, giấu kín ánh long lanh sâu khuất trong đáy mắt. Hơi thở nàng cũng thúc ngắn như hơi thở tôi, cảm thấy mạch máu ở màng tang nàng chấn động phập phều, tưởng chừng như mỏ ác dễ vỡ của trẻ sơ sinh. Tôi cúi xuống cạ nhẹ môi tôi lên môi nàng. Lướt qua, khẽ lướt qua… Mướt như lụa. Tuyệt diệu. Thần tiên. Hoang đường!

Chợt nghe kiểng đổ trong đầu, thánh thót, ngân nga, vang vang, lùng bùng. Môi nàng khép kín. Nụ hôn đầu đời. Phớt nhẹ. Một lần. Chỉ một lần thôi. Mà vĩnh viễn!
Tiếng kiểng tiếp tục ngân nga trong đầu. Chợt nghe có vẻ khác lạ. Tiếng kiểng… không, không phải tiếng kiểng, tiếng trẻ khóc, tiếng trẻ đang khóc trong nhà. Rồi tiếng của má nàng cất lên gọi tên nàng. Hoa vội vã lùi lại rồi xô cửa bước trở vào nhà. Tôi đứng lại một mình tần ngần. Hồi lâu, e bất tiện, tôi cũng lui gót trở về gác trọ. Mọi người hãy còn say ngủ. Còn tôi cũng say, mà say ái tình! Ra về bụng nhớ người thương, tay vỗ thanh giường chép miệng thở than…

Kiệt Tấn



linhvang
#54 Posted : Monday, August 16, 2010 2:05:59 AM(UTC)
linhvang

Rank: Advanced Member

Groups: Moderator, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 4,933
Points: 1,248
Woman
Location: University Place, Washington State, USA

Thanks: 23 times
Was thanked: 45 time(s) in 43 post(s)
Hello nhà văn, nhà thơ Kiệt Tấn. Lâu ngày mới thấy xuất hiện ha!
Kiệt Tấn
#55 Posted : Wednesday, August 18, 2010 6:08:22 PM(UTC)
Kiệt Tấn

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 36
Points: 0

quote:
Gởi bởi linhvang

Hello nhà văn, nhà thơ Kiệt Tấn. Lâu ngày mới thấy xuất hiện ha!

Rose
Cám ơn thí chủ Linh Vang đoái hoài. Bần tăng vân du thiên địa, hễ có dịp là ghé thăm vườn (muôn) hồng chớ Smile
Users browsing this topic
Guest
3 Pages<123
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.