Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Chuyện Cà Kê số 4 - "Mai Nở Miền Tuyết Trắng" - Tô Vũ (Paris)
Nguyệt
#1 Posted : Tuesday, August 7, 2007 4:00:00 PM(UTC)
Nguyệt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 123
Points: 0

Chuyện Cà Kê số 4
(tháng 08/2007)

Tô Vũ

Mai Nở Miền Tuyết Trắng

Nhận được giấy mời của Văn Bút Âu châu mời tham dự buổi ra mắt sách của Nhóm Diễn Đàn Phụ Nữ tại Trung tâm FIAP ngày 24-6-07, Tô Vũ ngần ngại vì vấn đề đậu xe chung quanh trung tâm đó.
Mỗi lần đến họp ở đó, may mắn lắm mới tìm được chỗ đậu, còn không thì phải chạy lòng vòng bao nhiêu lần chung quanh mới tìm thấy một chỗ, mà mỗi vòng cả cây số chứ ít đâu.
Hơn nữa, Tô Vũ không quên hôm 10-12-06, bị xui xẻo ở FIAP nên TV cũng không ‘chaud’ lắm. Hôm đó, ông HVT mời đến tham dự ngày Kỷ niệm của đảng ĐV, chạy 5, 6 vòng mới thấy một cái xe đang ra, mừng quá, sà ngay vào đậu ở chỗ đó, rồi đi bộ đến Cabanis. Không xa lắm.
Không ngờ hôm đó số hao tiền mất của.
Ngồi họp xong, lúc ra lấy xe, tới gần, đã nhìn thấy có giấy phạt gài trên kiếng gió rồi, phạt 35 euros vì đậu vào bến xe ca, mà lúc đậu mừng quá không để ý đến bảng cấm nhỏ. Đang bực tức vì mình vô ý, nhìn thấy một cái giấy màu đỏ dán ở cửa xe bên phải của cảnh sát gọi xe dépannage đến kéo xe về phú-de (fourrière). May mà ra sớm, xe dépannage chưa tới, chứ nếu bị kéo rồi, thì còn rắc rối và tốn thêm nhiều tiền nữa và mất công nữa. Phải đi taxi đến phú-de, nộp tiền phạt, trả tiền kéo xe từ chỗ đậu đến phú-de, mất khoảng hai trăm euros, không kể xe mà bị kéo đi thì thế nào cũng bị hỏng, bẹp chỗ này chỗ nọ rồi mất tiền sửa nữa.

Tô Vũ về sau nghĩ lại cũng ngạc nhiên thấy tâm lý con người lạ thật, bị phạt xe 35 euros mà trong lòng Tô Vũ lại khoan khoái và coi như là hên. Thật đúng như chuyện Tái ông mất ngựa !
Hai hôm sau di mua tem phạt ở tiệm thuốc lá, đến hai tiệm gần nhà mà không mua được, chẳng biết có phải tại cảnh sát phạt nhiều hay sao mà thiếu tem bán. TV phải lấy xe đi kiếm ở tiệm xa. Mùa đông khoảng 6 giờ đã tối mịt, lại gặp phải kẹt đường vào xa lộ A4, Tô Vũ phải lách sang bên trái để về nhà, tối quá nhìn không rõ quệt nhẹ vào xe trước. Xe của Tô Vũ bị vỡ đèn, xe trước không bị sây sát chút nào, nhưng anh chủ xe trước cứ bắt phải làm biên bản để đòi bồi thường. Làm thì làm chứ sao, có gì mà phải cãi với nó, bảo hiểm hai bên nói chuyện với nhau, chứ mình đâu có phải đền bồi gì, nhưng xe mình bị hư thì mình phải móc tiền túi ra sửa, bảo hiểm ‘au tiers’ không trả !
Hôm sau phải đi gara sửa ngay, vì để đèn hư mà chạy thì bị phạt, (ở Na Uy hình như chạy xe ban ngày trời sáng tỏ, xe nào cũng phải bật đèn (!?)
Đi hai gara ở gần nhà, chỗ thì đòi 600 euros, thay đèn, gõ móp, sơn bóng lại, v.v, chỗ thì đòi 800, Trời ! sửa một chút mà bao nhiêu là tiền !
May quá, (lại may ! ) có một người quen giới thiệu cho một người làm giùm, mua đồ cũ phế thải để thay, sửa chữa gõ móp, sơn qua loa, cuối cùng phải trả 300 euros.
Thật là số xui, đi họp mà mất 335 euros, nên từ đó đến giờ Tô Vũ ngại đi họp ở Cabanis lắm.
Hôm ra mắt Tuyển Tập Phụ Nữ Việt 2006 của nhóm Diễn Đàn Phụ nữ Việt, Tô Vũ ngập ngừng, không muốn đi, nhưng sau cũng quyết định đến, một phần vì Tô Vũ ở trong hội Văn Bút Âu Châu mà buổi Ra Mắt Sách lại do Văn Bút tổ chức, một phần vì tò mò muốn biết nhóm Diễn Đàn Phụ nữ ở đâu tới Paris, chưa từng nghe danh nhóm này bao giờ cả.
Tô Vũ đậu xa, chỗ thật an toàn, không sợ bị phạt, đi bộ tới, phải mất hơn hai mươi phút, lúc ở nhà ra đi đã đi trễ, đến nơi lại phải đi bộ xa, đến phòng họp thì chương trình đã xong phần giới thiệu, sang phần Văn nghệ, giải lao và bán sách.
Khi hỏi mua Tuyển Tập Phụ nữ 2006 ở quầy bán sách thì cô tiếp viên cho biết là sách đã bán hết, nếu muốn mua thì trả tiền trước, rồi sách sẽ gửi đến nhà, TV đưa tiền, đưa tên và địa chỉ. Nhìn thấy một cuốn sách khác để trên bàn, tựa đề là Mai Nở Miền Tuyết Trắng, nhìn ảnh tác giả Võ Thị Điềm Đạm thấy giống cô tiếp viên, TV hỏi cô có phải là tác giả không ?
Cô tươi cười gật đầu. Thế là TV may mắn gặp một nhà văn trong Nhóm Diễn Đàn Phụ nữ Việt bằng xương bằng thịt, khỏi phải đi tìm. May mắn và hân hạnh. TV hỏi cô ở đâu tới, cô nói từ Na Uy. Thảo nào. Ở xa thế, làm sao TV biết và gặp được.
TV trả tiền mua tập truyện ngắn đó, và xin chữ ký đề tặng. Nhìn chữ ký thấy như chữ viết thường đủ dấu sắc hỏi huyền ngã. TV nghĩ bút hiệu Điềm Đạm nói lên một đức tính tốt rất cần thiết trong đời sống bon chen vật chất này và chữ ký cũng đặc biệt dản dị.

Một tác giả (TVkhông biết tên) về khoa đoán chữ ký đã viết :
(.. .) Việc bạn ký tên một cách rõ ràng, không thiếu chi tiết nào chứng tỏ bạn rất cẩn thận khá tỉ mỉ, làm việc gì cũng cẩn thận chứ không hề đốt cháy giai đoạn để đảm bảo mình có thể dự đoán được kết quả càng nhiều càng tốt (...)

Hồi trước ở Sài gòn có Chiêm tinh gia Huỳnh Liên nổi tiếng, nghiên cứu chữ ký, gọi là khoa chiết tự, nhìn chữ ký đoán được tính nết của người ký, và luận ra tương lai của người đó.
Đây là bìa cuốn sách của Chiêm tinh gia Huỳnh Liên :
NGHệ_ THUậT XEM CHữ_ KÝ
1969
LOạI SÁCH XEM CHO BIẾT ĐờI MÌNH
Cấm trích dịch dưới mọi hình thức
HUYỀN BÍ ĐờI NGƯờI
Nghệ thuật XEM CHữ_KÝ
Của Chiêm tinh gia HUỲNH LIÊN TỬ

Làm người ai chẳng có tên.
Ký thành nét chữ số liền hiện ra.
Tương lai hung, kiết, hiền hòa?
Hiện trên nét chữ ấy là mệnh nhân..

Thông thường thì chữ ký có thêm hoa lá cho đẹp, hoặc ký rắc rối không đọc được, người ký bao giờ cũng ký nhanh chứ không viết chậm chạp như chữ viết thường. Hình như ở Mỹ và ở một vài nước, nhiều người ký tên (viết tên) như chữ viết thường, đầy đủ dấu, tôi không biết có đúng như thế không ?
TV có một người bạn trung học, anh Ng. đ. H., du học ở Mỹ, học thành tài xong về nước, anh được cử làm Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn, (Anh mất ở bên Mỹ mấy năm nay rồi, cầu xin cho Anh yên vui nơi miền vĩnh cửu), chữ ký của anh cũng như chữ viết thường đầy đủ cả dấu sắc huyền hỏi ngã. Bạn tôi lúc sống là một người dản dị thành thực và là một người chủ gia đình tốt, một người bạn tốt. Vì thế nên tôi có những ý nghĩ tốt đẹp về những người có chữ ký dản dị, chắc tâm hồn họ cũng dản dị chân thật và thành thực, giống như bạn tôi.

Thời Pháp, tôi biết một ông giữ chức vụ quan trọng, ông ta làm công sứ một tỉnh Bắc Việt, nghĩa là một ông quan đầu tỉnh, tên ông là V, ông ký những công văn quan trọng mà chữ ký như chữ viết thường, nhìn thấy tôi cứ nghĩ là người nào muốn giả mạo chữ ký của ông thì thật dễ dàng.
Tôi không biết rành rẽ về luật pháp, nhưng cũng biết rằng giả mạo chữ ký là một tội phạm hình luật.
Ngày trước, ở ngoài Bắc, ở vùng quê, nơi mà còn ít ngưòi biết viết chữ quốc ngữ, làm văn tự mua hay bán nhà, đất, v.v... không biết ký, thỉ điểm chỉ thay chữ ký (tức là empreintes digitales), bây giờ khi mình đi lấy passeport hay lấy căn cước, công an cảnh sát họ cũng lấy điểm chỉ của mình bỏ vào hồ sơ cá nhân. Điểm chỉ thì không bao giờ thay đổi và giả mạo được.

***

Chữ ký thời xưa, thời nho học, thì dản dị lắm. Tự tay đương sự viết một chữ ‘ký’ (ký có nghĩa là ‘signé’ của Pháp, hay ‘signed’ của Anh) dưới tên họ của mình. Nếu có chức tước thì đề tên họ và chức tước, rồi viết một chữ ‘KÝ’, cũng có khi kèm theo một triện son màu đỏ. Trên triện đó có đề tên người ký, khắc bằng một lối chữ riêng gọi là ‘chữ triện’.
Sau đây, TV mời quý độc giả coi những chữ ký năm 1884, thời nho học :
Hiệp ước Bảo Hộ (Traité de Protectorat) ký tại Huế ngày 06-06-1884, giữa nước Pháp và nước Đại Nam (Việt Nam):
1 - Một bên là Đại sứ đặc quyền Patenôtre thay mặt nước Pháp
2 - Một bên là ba vị Đại thần thay mặt nước Đại Nam :
1 Thứ nhất là Phụ chánh Đại thần Nguyễn Văn Tường,
2 Thứ hai là Toàn quyền Đại thần Phạm Thận Duật,
3 Thứ ba là Phó Toàn quyền Đại thần Tôn Thất Phan

***

Ở phiá dưói tờ Hiệp ước (mà nội dung viết bằng chữ Pháp), có tên, chức tước chữ ký viết bằng chữ Hán (chữ nho) của ba ông Đại diện nước Đại Nam .
- Đọc từ dòng phải trước, từ trên xuống dưới :
- Dòng l (phải) : Đại Nam Phụ chánh Đại thần Nguyễn văn Tường ‘ KÝ ‘ Chữ Ký (có mũi tên chỉ) là chữ của ông Tường viết bằng chữ Hán
- Dòng 2 (giữa): Đại Nam Toàn quyền đại thần Phạm Thận Duật ‘ KÝ ‘
Chữ Ký (có mũi tên chỉ) là chữ của ông PT Duật viết bằng chữ Hán
- Dòng 3 (trái) : Đại Nam Phó Toàn quyền đại thần Tôn Thất Phan ‘ KÝ ‘ Chữ Ký (có mũi tên chỉ) là chữ của ông TT Phan viết bằng chữ Hán


Nhìn ba chữ ‘KÝ’ của ba ông Đại thần không nét chữ ông nào giống nét chữ ông nào. Ngày xưa, xem tự dạng, tức là coi một chữ viết để biết được những đặc điểm của chữ đó, so sánh, phân biệt với những chữ viết của người khác, rồi tìm được ra tác giả viết những dòng chữ đó, một bài thơ đó.
Tô Vũ ký bút hiệu dản dị, không ký thoắng, viết rõ ràng đầy đù abcđ , cũng đánh dấu nhưng có một đặc biệt là dấu mũ và dấu ngã dính làm một, cuối cùng thì bay bướm kéo dài lên cao vút, và tiện đường kéo xuống gạch một vạch ngang dài và mạnh dưới tên bút hiệu.
Hồi trước, có người bạn nói chữ ký của TV có tương lai lắm. Tô Vũ không tin. Được tiếng khen thì ho hen chẳng còn. Viết một bài báo, viết một truyện dài, một truyện ngắn, một cuốn sách, nhất là một sách tài liệu, mệt đứt hơi.
Nhưng bù lại, khi sách đã viết xong, in xong, ra mắt độc giả, thật là một ngày trọng đại, một niềm vui.
TV đã nhìn thấy những nét mặt tươi cười vui mừng của tác giả ngày hôm ra mắt sách mà TV đã hân hạnh giới thiệu như :
- thi sĩ Đỗ Bình ra mắt tập thơ Bóng Quê ở salle de conférence lớn chứa 400 người của trung tâm FIAP, -
- thi sĩ Bích Xuân, ra mắt tập thơ Bây giờ Em Vui ở salle de réception của hôtel lớn Apogia,
- thi sĩ Việt Dương Nhân ra mắt tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi và đãi khách ăn ở tiệm ăn sang trọng Asia Palace, quận 13 Paris
- thi sĩ Minh Tâm ra mắt tập thơ Nắng chiều ở Institut Franco Vietnamien quận 5 Paris.
Tình cờ cách đây vài tuần, mở web Đặc Trưng thấy đăng hình của Tô Vũ kèm theo bài TVgiới thiệu tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi của thi sĩ Việt Dương Nhân. Thật bất ngờ thấy tấm hình chụp ngày 25-10-1998 (chưa được coi bao giờ), TV đọc lại bài giới thiệu đó, mà lòng vui vui nhớ lại kỷ niệm cũ, thấm thoát đã gần 10 năm trời,
Nhân bài Cà kê hôm nay, TV đăng tấm hình đó để nhắc lại một kỷ niệm chung vui với thi sĩ Việt Dương Nhân, và chép một đoạn trong bài để lấy ra một vài ý kiến gửi tới nhà văn Võ Thị Điềm Đạm và thi sĩ Thi Hạnh ở Na Uy.

Hình Tô Vũ giới thiệu tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi của Việt Dương Nhân tại Asia Palace ngày 25-10-1998

Xin trích :

(...) Dịp trình làng một tác phẩm đầu tay, là một dịp vui mừng hiếm có cho một tác giả. Ngày ra mắt là một ngày vui trọng đại đánh dấu son đậm trong cuộc đời cầm bút, ghi khắc trong trí óc những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt, những cảm giác không bao giờ xóa nhòa.

Thật vậy, ngày ra mắt tác phẩm là ngày cụ thể hóa bao tâm tư suy nghĩ, cụ thể hóa bao cảm giác, bao cảm xúc tâm hồn đã tạo lên trong lúc hình thành tập thơ tập truyện, bao thời giờ khó nhọc, vất vả, mê say không kể ngày đêm, có khi quên ăn, bỏ ngủ để kết thúc bài viết trong điều kiện mong ước.

Thụ thai một đứa con tinh thần không có thời gian nhất định, có thể là vài tháng, có thể vài năm, có thể là vài chục năm nhất là sáng tác tùy hứng không bị điều kiện nào dàng buộc. Tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi của thi sĩ Việt Dương Nhân là một thí dụ điển hình. Bài Về Đất Mẹ đã ghi sáng tác năm 1976, và liên tiếp những năm sau 76, những năm 80, những năm 90 đều có những bài sáng tác, gần nhất là trong năm nay, năm 1998, như thế chứng tỏ tập thơ này đã có 22 tuổi đời kể từ bài đầu. Ngoài tinh thần và nhịp sáng tác của tác giả, phải nói đến những điều kiện cụ thể để in ra tập thơ, tập truyện, mà không phải ai cũng có đủ. Một tác giả chưa có tiếng tăm trên văn đàn, không thể tìm thấy một nhà xuất bản nhận in tác phẩm của mình, vì vấn đề lợi tức của nhà in, đừng nói đến món thơ là món khó tiêu thụ. Vì vậy nhiều tác phẩm đã phải do chính tác giả bỏ tiền ra in để tự mình phát hành lấy. Do đó cái cơ may của một tác phẩm được trình làng rất hiếm hoi, vì còn tùy thuộc điều kiện sáng tác, nhất là tùy thuộc điều kiện xuất bản.(...)
***

Thế rồi nhà văn Điềm Đạm cho biết đã từ Na Uy tới với nhà thơ Thi Hạnh, và mấy nhà văn nữ khác từ Đức, Hoà Lan, Mỹ tới Paris để ra mắt Tuyển Tập Diễn Đàn Phụ Nữ Việt 2006.
Tô Vũ đến chậm thành ra không được nghe lời giới thiệu của nhà văn Từ Trì giời thiệu tuyển tập đó.
Chương trình ca nhạc do ban nhạc silicon Band với các ca sĩ tuy không là ca sĩ nhà nghề, nhưng cũng hát hay chẳng thua kém, đặc biệt với những lời giới thiệu duyên dáng, vui vẻ, của cô Thi Hạnh, cô gây được nhiều thiện cảm của khán giả.
Sự tình cờ là khi mua sách, TV định mua tập thơ Đếm Những Hư Hao, mà vì trong túi hết tiền lẻ, có mấy chục đã trả mua hai cuốn kia rồi, nhưng cô Điềm Đạm đã mang lại cho TV tập thơ với lời đề tặng của tác giả Thi Hạnh. TV rất ngạc nhiên, cảm ơn cô Điềm Đạm. Xứ Na Uy không đến nỗi lạnh quá! Rồi cô Thi Hạnh bận điều khiển chương trình văn nghệ nên Tô Vũ không gặp được cô để cám ơn. TV nghĩ phải mời mấy cô đi ăn phở nhưng cô ĐĐ nói rằng ban tổ chức đã mời các cô rồi. Như vậy là TV mắc nợ, khi nào hai cô sang Paris là phải cho phép TV trả nợ.
Thi Hạnh nói giới thiệu dễ dàng lưu loát và vui vẻ, chắc cũng đã có nhiều kinh nghiệm, nhiều lần giới thiệu những buổi họp.
Bây giờ người ta gọi những người điều khiển chương trình là MC (Master of Ceremony, hay Maitre de Cérémonie).

Xin nói ngay đến tập thơ Đếm Những Hư Hao.
Thi sĩ Thi Hạnh là một nhà thơ trẻ ở Na Uy đồng tác giả tập thơ với nhà thơ Nhược Thu.
Tập thơ in trang nhã. Bià màu xanh-đen xẫm (deep black blue) hay nâu xẫm (deep brown), Tô Vũ nhìn không rõ, chữ vàng, bìa trước có hai ngọn nến cháy, một lớn một nhỏ, hai ngọn nến soi trong đêm tối. Tô Vũ nghĩ hai ngọn nến là hai nhà thơ, một nhà thơ lớn, một nhà thơ nhỏ, thắp nến để đếm những hư hao (?), không biết có đúng ý người trình bầy trang bìa đó không ? Sách dày 120 trang, khoảng 100 bài thơ, mỗi trang một bài. Theo lời giới thiệu của Thi Hạnh thì tập thơ này ghi những bài thơ xướng hoạ giữa Thi Hạnh và Nhược Thu (Nhược Thu là một nam thi sĩ). Có lẽ phải một nam và một nữ đối đáp thì mới mặn mà câu chuyện, nhưng Nhược Thu đã sợ Thi Hạnh ‘tưởng là thật’ phải : ‘dặn dò, cảnh cáo Thi Hạnh’ :

Thơ chỉ là thơ em biết không.
Chẳng như mộng ngọc phủ cung lòng.
Thơ như mây gió không bờ bến,
Thoáng hợp rồi tan cõi viển vông.

Rõ rệt là những bài thơ của hai bên xướng hoạ sáng tác chỉ để cho gió bay đi, không phải là ‘mộng ngọc phủ cung lòng’ . Nhưng đọc xong một số bài, người đọc khó chấp nhận được đó là những lời thơ vô hồn, vô hình, vô tình, làm chơi cho vui. Thật là uổng nếu đúng như vậy, vì những bài thơ của Thi Hạnh và Nhược Thu là những bài thơ lãng mạn trữ tình, với những lời thơ nhẹ nhàng, óng ả, thi tứ dồi dào. Tô Vũ nghĩ rằng những bài thơ đó, nếu đứng riêng một mình, (không đứng chung trong tập thơ xướng hoạ), thì là những bài thơ đẹp.
Nhưng nếu để gió bay đi, thì sao lại phải ‘đếm những hư hao’ ?
Hư hao gì ? Phải có nhiều mới đếm, phải không còn lành mới là hư, phải hụt số mới là hao.
Hư hao gì ? Hư hao tình cảm chăng?
Nhà thơ Thi Hạnh có thể bật mí một chút được không ?

*

Tô Vũ hân hạnh giới thiệu với quý độc giả tập thơ ‘Đếm Những Hư Hao’, của Nhược Thu và Thi Hạnh xuất bản ở Na Uy. Độc giả muốn biết chi tiết xin liên lạc email thẳng với nhà thơ Thi Hạnh email : thihanhthi@yahoo.com

***

Giở tập truyện ngắn Mai Nở Miền Tuyết Trắng của Võ Thi Điềm Đạm, Tô Vũ chọn 2 truyện để đọc, chọn một cách ngẫu nhiên, và tự hứa sẽ đọc nốt những truyện kia khi nào có thêm nhiều thì giờ. Vì TV làm nhiều việc một lúc, nên lúc nào cũng bề bộn, Thường thì TV đọc nhanh những sách mới mua hay được tặng để có một ý niệm chung, bài nào hay đoạn nào hay thì đọc kỹ chứ không đọc hết cả quyển ngay. Không phải do thói quen đâu, mà vì bây giờ thiếu thì giờ chứ trước kia thì có quyển nào cũng đọc ngấu nghiến xong ngay quyển đó.
Hiện có trên 10 cuốn, TV đang đọc giở hay chưa đọc :
1) cuốn La Petite Fille de monsieur Linh tác giả Philippe Claudel, đóng thành phim do Depardieu đóng
2) cuốn Da Vinci Code của Dan Brown, 745 trang, đọc gần hết. Nhưng TV cũng đã đọc thêm rất nhiều tài liệu khác liên quan và đã coi cuốn film về cuốn sách này.
3) cuốn Terre des Oublis của Dương thu Hương, 800 trang chữ nhỏ, in màu mực lợt (đọc không rõ, không hiểu sao bây giờ các nhà xuất bản đều in mực nhạt không in mực xẫm như trước, đọc rất khó). Cuốn này TV đọc không thấy ham như mấy cuốn sách khác của DTH, thí dụ như cuốn Những Thiên Đường Mù
4) cuốn Le Fleuve Rouge của Mai Kim mới tặng
5) cuốn Le sixième sens de la Petite souris của Mai Linh viết bằng chữ Pháp,trên 200 trang chữ nhỏ, do La Bruyère Paris xuất bản. Một hồi ký tự truyện về những ‘aventures amoureuses’ của tác giả. Sách bán tại nhà in La Bruyère.
6) cuốn Lê Vân Yêu và Sống của Nguyễn Mai Hạnh xb ở Saigon. Cuốn này là một cuốn tự truyện của một nghệ sĩ múa ba-lê (ballet) ở Hà nội viết nhiều về những điều kiện sinh sống của nghệ sĩ sống dưới chế độ cộng sản tại Hà nội trước 75
7) Truyện trào phúng Đaị Hội Đảo Điên của nhà báo Nguyển đình Nhân cựu chủ nhiệm báo Tin Tức, châm biếm về những toan tính chính trị của một số người lợi dụng tranh đấu, sách dày 300 trang, viết bằng chữ Việt, do nhà xuất bản Pháp l’Harmattan ở Paris xuất bản
8) Tuyển tập Phụ nữ Việt 2006 mới nhận được
9) Tập thơ Bến Đợi của Phú Sĩ và Kim Thành mới nhận được
10) Thơ David Lý Lãng Nhân , 250 trang, thơ sáng tác chữ Việt, chữ Pháp và và chữ Anh, dày 250 trang xb ở bên Mỹ, mới nhận được
11) Tập thơ Tình còn Say - Forever Love, của Sóng Việt Đàm Giang và Thomas D. Le, thơ chử việt và chử Mỹ gần 300 trang xb ở bên Mỹ mới nhận được
12) Bản thảo một truyện dài Những mảnh Tình, dày trên 300 trang, chữ nhỏ, của nhà văn ĐTV nhờ đọc trước khi đưa xuất bản. Đọc gần xong.
13) Tập thơ Nhặt Lá Tim Rơi của Dã Thảo nhờ viết bài giới thiệu. Dã Thảo tác giả tập thơ Tình Của Cỏ xb ở Paris trên 10 năm trước với những bài thơ lãng mạn, TV đã viết bài giới thiệu cho tập thơ Tình của Cỏ và giới thiệu trên Radio Asie Paris trong một buổi phỏng vấn.

*

TV xin cáo lỗi cùng các tác giả đã tặng sách về những chậm trễ trong việc giới thiệu.

Mai Nở Miền Tuyết Trắng

Tới đây, xin giới thiệu tập truyện ngắn Mai Nở Miền Tuyết Trắng của nhà văn Võ thị Điềm Đạm
Sách dày 300 trang
Bìa màu xanh hy vọng, có in bức hoạ Angel of Love
Nhà xuất bản An Tiêm, Na Uy
Tuyển tập này gồm 15 truyện ngắn, trong số có truyện Hai Mẹ Con Nó đã được giải thưởng của Mạng Website Vietno ở Na Uy năm 2006. do lời giới thiệu trong sách

***

TôVũ chọn truyện Mảnh Giẻ Vụn để giới thiệu với độc giả www.congdongnguoiviet.fr.
Đề tài truyện ngắn này là một đề tài xã hội, mà tất cả những người Việt Nam tránh cộng sản, bỏ nước VN thân yêu ra nước ngoài cư ngụ, không cứ gì ở Na Uy, đều phải lưu ý. Vì nó liên quan đến tương lai của những trẻ em trong gia đình, những thanh niên trong xã hội, mà mặc dù nền giáo dục cổ truyền nền nếp gia giáo tốt đẹp của xã hội Việt Nam, các vị-thành niên, trí khôn còn non nớt, đã vấp phải khi chạm chán với một xã hội, đầy cạm bẫy hư hỏng ở một số nước ngoài.
Theo nhận xét của Tô Vũ, ngọn bút già dặn của Điềm Đạm đã nêu ra những vần đề được phân tích sâu rộng với nhiều kinh nghiệm sống và kinh nghiệm giáo dục trẻ em. Vấn đề thiếu nhi phạm pháp là một vấn đề phức tạp, một đề tài xã hội nóng bỏng mà nhà văn ĐĐ đã trình bày thành một truyện ngắn,

Trong truyện ngắn Mảnh Giẻ Vụn, tác giả đã để chính nạn nhân của sự phạm pháp, kể lại chuyện của em với những trường hợp nào đã dẫn em đến phạm pháp. Một thiếu niên đáng thương. Một thiếu niên phạm pháp do sự đưa đẩy của lòng tham lam của cha mẹ, do sự không hiểu biết pháp luật của cha mẹ, do sự chểnh mảng, do sự lơ là nhiệm vụ của cha mẹ, em được hưởng tất cả những phúc lợi xã hội, sự chăm lo, săn sóc, nuôi nấng tốn kém của xã hội Na Uy cho em, mong muốn em trở thành một công dân tốt như mọi công dân tốt, nhưng em đã không bắt kịp với cuộc sống ở một xứ văn minh, những đà tiến triển, em đã không lợi dụng được những phúc lợi quý giá của một xã hội văn minh đã tặng cho em. Do sự khai man của cha mẹ ruột em tham tiền trợ cấp khai em là cháu, không có cha mẹ, nên em được nuôi dưỡng sống đầy đủ tiện nghi trong một trại mồ côi, em sống ở xã hội Na Uy mà em không nói được tiếng Na Uy, không hội nhập được với xã hội Na Uy, khiến em phải tụ tập bè đảng với những em đồng cảnh ngộ để làm những việc phi pháp, sống ngoài lề một xã hội văn minh, một xã hội tận tình săn sóc em mong em trở thành một công dân tốt, em đã bỏ uổng cơ hội của đời em.
Tác giả đã kết luận với lời hy vọng của chính em mong trở thành một vật hữu ích, hy vọng có những bàn tay giúp vá víu những mảnh giẻ vụn (là các em phạm pháp) để may thành môt vật hữu ích, một bao gối, một bao chăn, một khăn trải bàn, một patchwork đẹp, hữu ích mà ta vẫn thấy bày bán ở các tiêm bán chăn mền, rideaux ở Âu Châu.

***

Để tìm hiểu xứ Na Uy, một nước tự do giàu có, ở Bắc Âu,Tô Vũ xin giới thiệu qua về xứ Na Uy trên một vài khía cạnh đặc biệt.
Na Uy có 385.000 cây số vuông. Dân số là 4 triệu 700 ngàn người.

A.- GDP của Na Uy :
GDP tức là Tổng sản phẩm nội địa, năm 2006, Na Uy đứng hàng thứ 25 trên bảng so sánh 180 quốc gia trên toàn cầu.
Tổng sản phẩm nội địa là Gross domestic Product (viết tắt là GDP) tức là tổng số giá trị các sản phẩm và dịch vụ của Na Uy trong năm 2006. So sánh 180 nước trên toàn cầu, thì năm 2006, theo thống kê của IMF (International Money Funds = Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế) Hoa Kỳ là nước đứng hàng số một với GDP 13,244,550 triệu Mỹ kim. Na Uy đứng hàng số 25, với GDP 335,281 triệu Mỹ Kim
Xin quý độc giả coi bảng kê so sánh, sắp hạng 30 nước đứng đầu thế giới sau đây, năm 2006 :
1 United States 13,244,550 triệu US$
2 Japan 4,367,459
3 Germany 2,897,032
4 People's Republic of China 2,630,113
5 United Kingdom 2,373,685
6 France 2,231,631
7 Italy 1,852,585
8 Canada 1,269,096
9 Spain 1,225,750
10 Brazil 1,067,706
11 Russia 979,048
12 South Korea 888,267
13 India 886,867
14 Mexico 840,012
15 Australia 754,816
16 Netherlands 663,119
17 Belgium 393,590
18 Turkey 392,424
19 Sweden 385,293
20 Switzerland 377,240
21 Indonesia 364,239
22 Republic of China (Taiwan) 355,708
23 Saudi Arabia 348,604
24 Poland 338,689
25 Norway 335,281
26 Austria 321,934
27 Greece 307,709
28 Denmark 276,611
29 South Africa 255,155
30 Ireland 222,080

Trong số 180 nước so sánh này, thì :
- Na Uy đứng hàng thứ 25, với PNB 335,281 triệu Mỹ Kim
- Thái Lan đứng hàng 36, với PNB 168.774 triệu Mỹ Kim
- Việt Nam đứng hàng thứ 59, với PNB 50.900 triệu Mỹ Kim
- Kiribati đứng sau chót, hàng thứ 180, với 63 triệu Mỹ Kim

B.- GNP của Na Uy
Gross nominal product hay là Nominal per capita tức là Tổng sản phẩm cá nhân
Chia GDP cho dân số mỗi nước thì tìm thấy GNP.
GNP là sản phẩm trung bình của một người dân một nước trong một năm.
So sánh Tổng sản phấm cá nhân năm 2006 của 182 nước trên toàn cầu, theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) thì nước Na Uy đứng hàng thứ nhì trên thế giới với số tiền 72.306 US$ mỗi đầu người Na Uy , hơn hẳn người Mỹ. Mỹ đứng thứ 9, với 44.190 US$ . Anh đứng thứ 13 với 39.213 US$. Pháp đứng thứ 18 với 35.404 US$ .
Xin mời quý độc giả xem bảng so sánh GNP (tổng sản phẩm cá nhân) của 20 nước trong năm 2006 :

Thứ hạng Quốc gia Tổng sản phẩm cá nhân US$
1 Luxembourg 87,955 US$
2 Norway 72,306
3 Monaco 67,000
4 Qatar 62,914
5 Iceland 54,858
6 Ireland 52,440
7 Switzerland 51,771
8 Denmark 50,965
9 United States 44,190
10 Sweden 42,383
11 Netherlands 40,571
12 Finland 40,197
13 United Kingdom 39,213
14 Austria 38,961
15 Canada 38,951
16 Belgium 37,214
17 Australia 36,553
18 France 35,404
19 Germany 35,204
20 Japan 34,188

Tổng sản phẩm cá nhân Đại Hàn năm 2006, đứng thứ 36 với 18.392 US$ mỗi đầu người.
Tổng sản phẩm cá nhân cộng sản Việt Nam đứng thứ 138 với 723 US$ năm 2006
Theo một tài liệu của ông Nguyễn Văn Thành trình bày, cho biết ông so sánh GDP Đại Hàn với GDP Cộng sản Việt Nam thì kết quả cho thấy :
Tô Vũ lược trích :
(...) Nếu so với Đại Hàn thì Tổng sản lượng (GDP) cộng sản Việt Nam bằng 61/888 = 6.87 %, của Đại Hàn. Nếu so với Thái Lan thì VN bằng 61/206 = 29.6 %
Như vậy, tổng sản lượng GDP của cộng sản Việt Nam trong khoảng 34 năm nữa mới bằng tổng sản lượng của Đại Hàn ngày hôm nay. Bài tính sau đây sẽ dẫn chứng :
Theo thống kê của nhà nước cộng sản XHCN Việt Nam, hiện nay, mỗi năm độ tăng trưởng của Việt Nam là 8%. Thử tính xem bao nhiêu năm nữa thì GDP của Việt Nam mới bằng GDP của Đại Hàn năm 2005.
Biết rằng năm 2005, GDP của cộng sản Việt Nam là 61 tỷ USD và GDP của Đại Hàn là 888 tỷ USD.
Ta có phương trình:
61 x (1+0.08)n = 888
Lấy Logarithm thập phân cho cả hai vế của phương trình trên để giải n, ta được: n ≈ 34,8
Như vậy đợi đến năm 2040 tháng 10 (hơn 34 năm nữa), thì tổng sản lượng GDP của cộng sản Việt Nam mới có thể bằng GDP Đại Hàn, năm ngoái 2006 ( hết lời trích)

C.- Một vài khía cạnh xã hội Na Uy (tài liệu Wikipédia) :

1) Về Phát Triển Nhân Bản (Human development) Na Uy đứng thứ nhì trên 177 nước (2/177) theo UN Development Programme.
2) Về Tự do Báo chí (Worldwide Press Freedom), Na Uy đứng thứ 6 trên 168 nước (6/168) (theo Reporters Without Borders)
3) Về tình trạng săn sóc/trợ giúp thiếu nhi, năm 2004, Na Uy đứng thứ Nhất trên 119 nước (1/119) (theo Save The Children State of the World’ children năm 2004)
4) Về tình trạng săn sóc người Phụ Nữ , năm 2004, Na Uy đứng thứ 6 trên 119 nước (6/119) (Theo Save the Children, State of the world’ women 2004)
5) Về tình trạng săn sóc các Bà Mẹ , năm 2004, Na Uy đứng thứ 6 trên 119 nước (Theo Save the Children, State of the world’ mothers 2004)
6) Về tình trạng săn sóc đời sống tốt đẹp của trẻ em (Child Well being) , theo UNICEF, thì Na Uy đứng thứ 7 trong số 21 nước kỹ nghệ hàng đầu thế giới (7/21)
7) Về Khả năng Bảo vệ Môi trường (Environmental Sustain Ability) Na Uy năm 2005 đứng thứ Nhất trong số 149 nước (1/149) (theo Yale University, University of Columbia)
8) Về Hoà bình Toàn cầu (Global Peace) theo báo The Economist, Na Uy đứng thứ nhất trong số 121 nước (1/121)

***

Tô Vũ phỏng vấn nhà văn VT Điềm Đạm

Tô Vũ : Chào nhà văn Điềm Đạm. Tô Vũ đã đọc bài Những Giẻ Vụn viết về vấn đề thiếu niên phạm pháp ở Na Uy, xin Nhà văn vui lòng giới thiệu với Cộng đồng Người Việt ở Paris tình trạng các thanh thiếu niên gốc Việt Nam ở Na Uy.
Điềm Đạm : Nhìn chung, đa số nhịp sống cũng như nếp nghĩ của thanh thiếu niên Việt Nam thuộc thế hệ thứ hai ở Na Uy đã dần dần tìm được chỗ đứng khá vững trong xã hội. Đó là do thế hệ cha mẹ đã nhanh chóng hòa nhập vào mạch sống với đất nước và xã hội mới. Theo thống kê cũng như tin tức trên báo chí thì cộng đồng người Việt ở Na Uy có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất và trình độ học thức cao nhất trong số các nhóm ngoại kiều đến từ các nước có địa lý nằm ngoài tây Âu. Thêm vào đó, chịu ảnh hưởng tinh thần trọng chữ nghĩa của cha mẹ, con đường học vấn của đa số các em khá trôi chảy và sinh viên Việt Nam chiếm tỉ lệ khá cao trong sân trường đại học và cũng là nhóm sinh viên có nhiều triển vọng.
Dầu rằng các em cảm thấy là khách du lịch khi các em viếng thăm Việt Nam nhưng các em vẫn luôn luôn tự hiều và tự cố gắng tìm một căn cước cho chính mình. Một căn cước được nhồi nắn từ hai nền văn hoá, một căn cước phải có khả năng đàn hồi theo từng hoàn cảnh. Theo những bài tường trình trên báo chí cũng như trong những buổi hội thảo cho thấy sự cân bằng trong quá trình hòa nhập của thanh thiếu nên Việt Nam có nhiều dấu hiệu tốt đẹp.

Tô Vũ : Xin cho biết về những trẻ em Việt Nam phạm pháp ở Na Uy.
Điềm Đạm : Có những em vì hoàn cảnh gia đình, vì vốn liếng tiếng Na Uy quá yếu kém, không được sự giáo huấn đứng đắn; các em không tự tạo được một căn cước thích hợp cho mình. Các em rơi khỏi nhịp sống bình thường. Các em mất thăng bằng.
Theo nhà xã hội học Whym Uyen Lam, hiện trạng thanh thiếu niên Việt Nam hàng ngày lang thang vĩa hè thủ đô Oslo và những thành phố rất lớn hay sống ngoài vòng pháp luật, rất đáng lưu ý. Cô đã làm việc với năm mươi lăm em và kể rằng: Các em ấy cảm thấy vô dụng trong xã hội, không có bạn Na Uy, không nghề nghiệp, không công ăn việc làm, tiếng Na Uy yếu kém, khả năng giao dịch rất thấp. Nói chung, các em vừa không tìm được chỗ đứng trong xã hội các em đang sống, vừa không tìm được cho mình một cội nguồn như cha mẹ, vừa cảm thấy xa lạ với tập tục văn hóa mà các em đại diện. Đa số các em này là nam, chỉ khoảng 10 đến 15 phần trăm là nữ, tất cả trong lứa tuổi từ mười bốn đến hai mươi ba.

Tô Vũ : Xin cho biết về tỷ lệ phạm pháp các em gốc Việt Nam
Điềm Đạm : Theo SSB, Trung Tâm Thống Kê Quốc Gia, năm 2002, có khoảng ba mươi hai trong số một ngàn người phạm pháp là người gốc Việt Nam. Trong khi đó, tỉ lệ phạm pháp ngoại kiều không thuộc gốc Tây Ấu là 30/1000 và tỉ lệ phạm pháp gốc Na Uy là 13,5/1000. Nói chung, số lượng người phạm pháp tăng đều từ năm 1998. Và tệ nạn băng đảng, bụi đời, nghiện narkotika là hiện tượng rõ nét nhất trong số thanh thiếu niên phạm pháp này.

Tô Vũ : Đã có những sự giúp đỡ gì của công đồng Việt Nam ở Na Uy cho các em phạm pháp?
Điềm Đạm : Các hội đoàn Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, các tổ chức chính quyền tìm mọi cách để tạo những sinh hoạt nhằm hướng dẫn thanh thiếu niên tìm hướng sống hài hòa trong xã hội đồng thời giữ được cội nguồn. Thêm đó, chính quyền cũng hỗ trợ tích cực những tổ chức, những kế hoạch nhằm tạo điều kiện thuận tiện giúp các em đã mang thành tích phạm pháp trở về với gia đình, với đời sống bình thường.

Tô Vũ : Cảm ơn nhà văn Võ Thị Điềm Đạm.

***

Và bây gìờ Tô Vũ xin giới thiệu với quý độc giả tác phẩm Những giẻ Vụn của VT Điềm Đạm trích từ Tập truyện ngắn Mai Nở Miền Tuyết Trắng. Quý độc giả muốn liên lạc với tác giả xin gửi email cho diemvost@yahoo.no ...
Nguyệt
#2 Posted : Thursday, September 20, 2007 6:12:31 AM(UTC)
Nguyệt

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 123
Points: 0

Chuyện Cà Kê số 5
(tháng 09/07)
Tô Vũ

Kỷ niệm 100 năm Trường Bưởi - Chu văn An
(1907-2007)


17 tháng 6-07 tại Paris, ngày hội họp của anh em cựu học sinh Trường Bưởi - Chu văn An, được gần 200 cựu học sinh và thân hữu tham dự vui vẻ tại nhà hàng Asia Palace, quận 13 Paris. Cảm ơn ban Tổ chức đã hy sinh thời giờ để anh em đồng môn có dịp gặp mặt nhau, đặc biệt cảm ơn anh Bùi sỹ Thành đã cố gắng hết mình, mặc dầu sức khoẻ không được tốt:
Từ lâu, Tô Vũ chưa tham dự một buổi họp mặt của anh em cựu học sinh trường Bưởi - Chu Văn An. Cũng nhờ buổi họp này mà Tô Vũ mới gặp được một số anh em cùng trường trung học, thật là một dịp may hiếm có, quý giá, chứ thật sự sống ở ngoại quốc, ngay cả cùng sống với nhau ở Paris, cũng ít khi có dịp gặp nhau.

Lịch sử Trường Bưởi - Chu văn An
Năm 1907, chính phủ Đông Dương thành lập ở Hà Nội trường Collège du Protectorat. Trường được xây cất trên đất làng Thụy Khuê ở gần làng Bưởi, nên được gọi là trường Bưởi. Năm 1931 trường được đổi thành một lycée - Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo Hộ), dạy tới hết chương trình tú tài.
Trường Bưởi là tên dân chúng đặt ra từ hồi thành lập trường.
Trường Chu văn An là tên gọi thứ hai từ năm1945, khi trường được chính thức đổi tên thành trường trung học Chu Văn An.
Năm 1943 để tránh nạm ném bom đồng minh, trường phải di tản ra khỏi Hà Nội, vào Phúc Nhạc và vào Thanh Hóa, Ninh Bình. Trường trở lại trụ sở cũ ở Hà nội khi đệ nhị thế chiến kết thúc.Về sau, năm 1954, trường di tản vào Sài gòn. Từ đó tên trường Chu văn An được chính thức dùng đến ngày nay, không ai gọi là trường Bưởi nữa.

1) Kỷ niệm Một : Kỷ niệm niên học đầu tiên của trường Bưởi, niên học 1908-1909

Theo cụ Đào Văn Minh, học sinh trường Bưởi niên học thứ nhất của trường (1908-1909), thì trường Bưởi tức là Collège du Protectorat, là trường trung học đầu tiên có quy củ, có chương trình 4 năm học, mở cho người Việt Nam tại Hà nội. Trường sở được đặt nền móng xây cất năm 1907, trên một bất động sản mua lại của nhà in Schneider, bên bờ Hồ Tây thuộc địa phận làng Thụy Khuê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Khu đất rất rộng, nằm từ ven Hồ Tây ra tới đường xe điện chạy từ hồ Hoàn Kiếm (giữa Hà Nội) đến làng Yên Thái, tức là làng Bưởi.
Cụ Đào văn Minh kể rằng niên học đầu tiên chính thức là niên học 1908-1909, trụ sở trường còn thiếu thốn về mọi phương diện nhưng cũng đã nhận lưu trú học sinh. Buổi đầu chưa có phòng tắm, chưa có phòng rửa mặt, lưu trú học sinh phải rửã mặt và tắm ở Hồ Tây. Đến sau Nhà trường mua đưọc 50 vỏ thùng bằng gỗ (tonneaux) đựng rượu vang, cắt đôi mỗi thùng để làm thùng tắm cho học sinh. Chiều chiều lao công gánh nước Hồ Tây đổ đầy vào các thùng lúc 4 giờ, để học sinh lưu trú thay phiên tắm gội lúc 5 giờ sau khi tan học. Học sinh có thói quen đùa rỡn lức tắm, nhúng cả mình vào thùng nước truớc khi ra mặc lại quần áo. Hiệu trưởng đầu tiên là ông Cyprien Mus, tính tình hoà nhã, một buổi, nghe thấy học trò đùa nhau vui vẻ, hiệu trưởng đi qua chỗ học sinh đang tắm. Tất cả học sinh đang ngâm mình trong bồn tắm, thấy hiệu trưởng đi qua, vội "tồng ngồng" đứng dậy chào, hiệu trưởng mỉm cười gật đầu chào trở lại.
Niên học 1908-1909, trường Bưởi gồm có Petit Collège cho bậc tiểu học, có chừng 250 học sinh và Grand Collège cho bực Trung học phổ thông, có chừng 120 học sinh (trong số có tới 100 học sinh, được học bổng nội trú). Học sinh phải đỗ tiểu học rồi mới được thi vào năm thứ nhất (première année), và học hết năm thứ tư (4è année) mới được thi đíp-lôm (Trung học phổ thông). Vì mục đích lúc đó là đào tạo công chức, nên đến 4è année mỗi lớp tùy theo sự lựa chọn của học sinh chia làm hai ban : ban hành chánh (section administrative) thi ra làm phán sự (thư ký), ban sư phạm (section normale) thi ra làm giáo viên tiểu học. Đặc biệt niên khoá 1909-1910, có 11 người thi rớt đíp-lôm vì bài pháp văn không đủ điểm nên nhà trường cho học lại, nhưng cho ngồi riêng một lớp gọi là 5è année. Cuối niên học sau 10 người thi đỗ đíp-lôm, một người thi rớt, nhưng chỉ một tháng sau thì người đó cũng trúng tuyển thông ngôn toà sứ.
Hiệu trưởng Cyprien Mus tính tình rất hoà nhã, vui vẻ, thân mật với học sinh, ông ta người tỉnh Tours, vùng Touraine, đậu thủ khoa trường Ecole Normale Saint Cloud. Ông vưà làm hiệu trưởng vừa dạy 4è année về môn sư phạm.
Trừ một giáo sư có bằng cử nhân văn khoa, còn các giáo sư Pháp khác là các giáo viên tiểu học ở Pháp gửi sang. Giáo sư người Việt có hai vị là cụ Trần hữu Đức, người Hà nội, khoảng chừng 50 tuổi, dạy môn phiên dịch Việt Pháp (thème et version) và cụ tú tài Ngô tiến Tiệp dạy chữ nho.
Sách học hồi đó trường phát cho học sinh mượn không phải mua, nhưng cuối năm học nhà trường cũng không đòi lại.
Việc thi hồi đó dản dị lắm. Độ nửa tháng trước ngày thi đíp-lôm, hiệu trưởng lập danh sách thí sinh trường, lấy chữ ký từng thí sinh rồi gửi danh sách đó tới nha Học chính. Năm đó tổ chức thi tại trường Trung học Pháp Collège Paul Bert ở đường Đồng Khánh, gần nhà Gô-đa (hồi đó chưa có Lycée Albert Sarraut). Khoá thi năm đó có 30 thí sinh dự thí, mà 25 thí sinh là học sinh của trường Bưởi, còn 5 thí sinh tự do.
18 thí sinh trường Bưởi đậu, 7 người rớt, 5 thí sinh tự do đều rớt cả.
Lúc đó thi rớt đíp-lôm cũng không buồn, vì luôn luôn có những kỳ thi tuyển thư ký, cho những người có học lực tiểu học, nên rớt đíp lôm thì dư sức để đậu những kỳ thi tuyển thư ký. (Đào văn Minh)

2) Kỷ niệm Hai : Kỷ niệm lưu trú học sinh

Học sinh năm thứ ba, học ở "Troisième étude", mà lại là học sinh nội trú ngủ ở "troisième dortoir" thì nghịch chỉ thua quỷ với ma.
Không phải lo thi như học sinh năm thứ tư "quatrième", không ngờ nghệch như học sinh năm thứ nhất, năm thứ nhì, nên ai nấy đều lợi dụng mọi cơ hội để phá phách. Trong giờ étude, thày giám thị (surveillant) vừa quay lưng đi, thôi thì nào tiếng gà gáy, tiếng đập bàn, thày quay lại cả phòng lại im phăng phắc để nổi lên một điệu kèn trước còn tỉ tê, sau ầm ĩ, không biết ở miệng ai phát ra vì cả 40 bộ mặt đều thản nhiên và 40 cặp môi không cử động
Các thày giám thị giàu kinh nghiệm như thầy Nghị, thầy Lễ, thường nhắm mắt bỏ qua, biết tâm lý bọn nhỏ, để mặc một hồi rồi chúng sinh chán. Những thày giám thị mới ở tỉnh nhỏ bổ về, phần thì sợ Hiệu trưởng (Proviseur) , sợ Tổng giám thị (Censeur), phần thì sợ cái tiếng "học trò Cô- le", nên hết năn nỉ đến doạ nạt, phạt lên phạt xuống, thật là khổ sở cho các thày giám thị và cho bọn trẻ.
Năm 1933, thày Lung ở trường Gia Lâm đổi về làm giám thị troa-dem ê-tuýt (3ème étude) nhiều phen điêu đứng : có bận thầy phạt đuổi 10 học sinh lưu trú phải ra khỏi nột trú, tìm nhà ở vùng Thụy Khuê, Bưởi mà trọ.

Anh em sợ như rắn mất đầu, quay ra làm báo.
Câu chuyện được định đoạt trong một bữa cơm. Nguyễn đình Thân làm chủ bút, Nguyển phúc Lâm làm chủ nhiệm, Nguyễn văn Phúc làm quản lý, còn thì người góp công, người góp của. Góp công ở đây là sáng tác, dịch thuật, hay là chép lại thành nhiều bản. Góp của thì có giấy dư thì cho giấy, không có giấy thì mỗi bữa cơm "hy sinh" quả chuối đét-se (dessert) thù lao cho ban biên tập lúc đó ngồi bàn đầu khỏi phải sới cơm, rót nước.
Từ ngày quyết định làm báo được ban ra, thày Lung hình như cho chính sách đuổi ra khỏi nội trú của thày là đắc sách, nên khi vào lớp thày lại càng hầm hầm, phạt gắt gao. Học sinh âm thầm chịu đựng. Họ đương mải miết làm báo. Thôi thì đủ trò, thơ, phú, truyện ngắn, truyện dài, chuyện vui, tranh hí hoạ, đố vui, giải trí, chế diễu các nhân vật trường Bưởi không trừ một ai. Nguyễn phúc Lâm làm thơ tây, Bùi Lão Kiều làm thơ ta (về sau Bùi Lão Kiều lấy bút hiệu là Huyền Kiêu).
Quản lý Nguyễn văn Phúc bỏ cả tiền túi mua phần thưởng tặng độc giả trúng giải do nhà báo tổ chức (Hình như về sau anh sang làm việc tại Pháp, đóng góp rất nhiều trong việc chế tạo máy bay Caravelle).
Ngày phát hành báo là ngày báo đình bản.

Báo làm xong ai cũng tranh nhau coi, phải thoả thuận để anh Sơn-nít là học sinh nhỏ người nhất coi trước, rồi luân phiên theo vòng kim đồng hồ. Sơn-nít vừa coi vừa cười một mình khiến thày giám thị để ý. Sơn-nít dấu báo vào hộc bàn, ngồi ngây mặt nhìn thầy. Sau đó cái lọ mực trước mặt anh cứ nhảy lên từng chập. Lạch cạch... lạch cạch. Ngưng một lúc lại lạch cạch ... lạch cạch. Lọ mực như tự động đụng đậy nhảy lên. Thày giám thị nhìn chừng chừng, Sơn-nít thản nhiên ngồi ngây người, hai tay để trên bàn, không chê trách vào đâu được. Thày giám thị không dám đứng một chỗ, nếu thày sục sạo chỗ này thì chỗ khác làm ầm ĩ, nên thày cứ phải đi đi lại lại, mắt liếc về phiá lọ mực tai quái. Về sau thày đứng ở phiá cuối lớp nhìn lên, thày mới rõ anh Sơn cho một chân vào hộc bàn, lấy ngón chân cái đẩy cái lọ mực cho lọ mực nhảy lên nhảy xuống khỏi lỗ, lên xuống kêu lạch cạch. ( Chú thích : bàn học trường Bưởi có một cái hộc dưới mặt bàn để để cặp, sách vở, có một lỗ tròn ở trước mặt học sinh, để đặt cái lọ mực bằng sứ trắng tròn vào lỗ đó. Thời xưa viết bằng bút có ngòi chấm mực, chứ không viết bằng bút bi như bây giờ ). Thầy rón rén đi lên, chộp cái cẳng bé nhỏ của Sơn. Sơn-nít không kịp rút cẵng ra, thày lục hộc bàn của Sơn thấy tờ Báo của Học Sinh, thày doạ trình ông"Censeur". Khi tan "étude", thày cho báo vào túi "pardessus", mang lên dortoir, ý chừng để coi chơì, sáng mai mới làm giấy phạt.
Đêm hôm đó, trên "dortoir troisìème", học trò tức vì đứa "Con Tinh Thần" bị bắt cóc, nên bàn nhau đánh cắp tang vật. Toàn ban biên tập cầu cứu anh Nguyễn quý Trọng là người bạn tài hoa nhất lớp, lười học cũng nhất và tinh nghịch thì cũng nhất lớp.
Anh Trọng nhận lời giúp. Anh đi tìm Nguyễn thế Tấn, Nguyễn duy Uông, Uông nâu, Hiền bò, ngủ ở phòng bên cạnh, rồi các anh áp dụng cả một chiến thuật du kích.
Hồi đó phòng nhỏ của giám thị ở giữa, có hai cửa thông sang hai phòng ngủ hai bên, cùng một từng lầu. Khi thày giám thị rửa mặt xong đi vào buồng ngủ của thày, thì phòng phía sân đá banh nổi lên một hồi gà gáy. Thày giám thị rón rén ra phiá phòng bàn giấy ông Proviseur (Hiệu trưởng) thì lại nổi lên tiếng cúc cù cu. Tiếng gà gáy rồn rập, thầy mò sang phiá gà gáy thì đắng sau thày lại nổi tiếng cúc cù cu, gà lại vươn cổ gáy. Thày lên tiếng nài nỉ " Các anh ngủ đỉ", học sinh cũng mặc. Thày doạ cấm "privation de sortie cả étude", cũng mặc. Gà vẫn gáy. Thầy nổi quạu, quyết bắt cho kỳ được đích danh thủ phạm, nên cứ hết chạy sang đông lại chạy sang tây, về giường nằm một lúc lại bị dựng dạy. Trò chơi ấy kéo dài thật khuya. Thày vốn người vạm vỡ, cả ngày hò hét lui tới, không một lúc nào được ngả lưng nghỉ, nên lúc thày chợp mắt được một chút là thày ngáy như sấm. Anh Trọng bò vào phòng thày, đánh cắp tờ báo quý báu, tu hết ấm nước trà rồi trở ra.
Sau khi lấy lại được tờ báo, anh em sinh táo bạo, tố thêm việc phải trừng phạt người đã làm anh em cả buổi lo lắng. Hồi đó làm báo trong lớp có thể bị đuổi, chưa biết khi các thày dịch cho Hiệu Trưởng Proviseur những tên cúng cơm của các thày như Dồn, Phệ, Cuốc, Phè, họ sẽ bị hành hạ đến đâu.
Lúc này tang vật đã bị tiêu, anh em có cớ cãi biến, nên sinh ra mạnh bạo.
Anh Trọng nhiều mưu lược đề nghị một trò diễu thày trước mặt mọi người. Anh bò vào phòng thày ngủ lấy ra một chiếy giày của thày và cả"dortoir" lần lượt tiểu tiện vào đó. Anh lại bò vào cất giày vào chổ cũ.
Sáng hôm sau, cả hai "étude" xếp hàng dưới sân trước lầu ba chính giữa bốn, năm ông giám thị và ngót hai trăm học sinh nội trú, mọi người bật cười ồ: thày Lung đi giày một chiếc trắng, một chiếc xanh. Số là thày ở quê, giày trắng đánh phấn để lơ nhiều, một chiếc gặp nước nên xanh lè, chiếc kia khô ráo nên trắng bốp. Thày phải điều đình nhờ ông giám thị khác thay thế, về nhà thay giày.
Và cuối tháng đó anh Nguyễn quý Trọng lại dem va-li ra khỏi ký túc xá. Nhưng anh vẫn lưu luyến với anh em, chiều nào anh cũng ở lại điều khiển anh em tập thể thao. Về sau anh học "nghề chữa răng" và mở phòng mạch trên toà nhà Địa ốc ngân hàng, anh em đến chữa răng, anh sửa chữa rất tận tình và nhất định không lấy tiền thù lao khám, chữa. Ba mươi năm qua không được gặp anh lại, nếu anh ở nơi đây chắc nội san sẽ có nhiều chuyện vui và có quảng cáo của anh " cựu học sinh trường Bưởi chữa răng không phải trả tiền". (Trần thúc Linh)

Kỷ niệm Ba : "Tiếng Việt Miền Nam", thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân cựu học sinh Bưởi

Ôi ! Tiếng Việt miền Nam !
Nghe sao mà âu yếm,
Giọng ngân dài lưu luyến
Cho lòng ta thương vương.
Ôi, thương ai em thương thiệt là thương !
Em, cô gái Đồng Nai tình cởi mở
Từ quen em nắng vàng thêm rực rỡ,
Dừa thêm xanh và vú sữa thêm ngon.
Lời em thơm như măng-cụt no tròn
Giọng em ngọt như xoài vừa chín tới.
Những chữ S ngân dài như gió thổi,
Chữ C, G nghe đọc lỗi mà yêu.
Giọng TR trong trẻo đúng bao nhiêu,
Và "anh" nữa, ôi tiếng "anh" nũng nịu :
"Mong ăn mãi ! Nhớ ăn hoài ! Ăn có hiểu ?
Em thương ăn quá xá là thương ! "
Lời em ngon như có mật có đường,
Ta sung sướng gần em nghe giọng nnói.
- " Hãy nói nữa ! Nói nhiều đi em hỡi !
Qua không cần hiểu ý chỉ cần nghe
Giọng nói du dương, âu yếm, đê mê
Như nhạc sóng của Đồng Nai, sông Cửu ! "
Nhưng em bỗng ngừng im. Em nũng nịu :
- " Nói đi ăn, nghe giọng Bắc em thương! "
Cầm tay em say ngắm cặp môi hường
Lòng tràn ngập niềm mến thương đằm thắm.
Ôi, Nam Bắc dù xa nhau vạn dặm
Vẫn cùng chung tiếng mẹ, vẫn quê cha.
Gặp nhau đây trong nắng lửa chan hoà
Hai giọng nói cùng đồng ca hợp tấu.
Hai huyết quản vẫn cùng chung giọt máu
Hai tâm hồn hoà hợp cảm thông nhau
Tiếng Việt miền Nam, giọng nói nhiệm mầu.
Có phép lạ khiến tình ta lưu luyến.
Em ! cô gái miền Nam ta thương mến !
Muốn gần em, gần mãi, để nghe em !

Bàng Bá Lân
(Vào Thu, 1962)

Khi viết đến đoạn này thì Tô Vũ nhận dược một bài thơ của Hoàng Nguyễn gửi mail đến, một bài thơ ca ngợi giọng Sài-gòn, một giọng mà TV rất thích nghe cũng như thích nghe giọng Huế. Tô Vũ là người Bắc, nhưng thấy giọng Huế và giọng miền Nam nói thật là êm dịu, nên TV xin đưa bài thơ này lên để bạn đọc thưởng thức. Xin nói là tác giả bài thơ không phải là cựu học sinh trường Bưởi Chu văn An. Tác giả Hoàng Nguyễn đã rào trước đón sau rằng " Đọc mà không thích thì đừng cười anh nhé, amateur mà ! "
Tô Vũ không những không cười mà còn đăng lên để quý độc giả cùng thưởng thức một bài thơ hay.

Giọng Sài gòn

Giọng Sài gòn ngọt lịm
Sóng sánh nước dừa xiêm
Chùm chôm chôm toả nắng
Gió thoảng hương sầu riêng.

Về Lái thiêu nhà nội
Xoài cắt chín tay mềm
Mùa măng này em hái
Tím cả chiều chông chênh.

Hỏi cây điều cây mận
Còn nhớ ngày ấu thơ
Kỷ niệm đầy mộng mị
Kín trang vở học trò.

Xá lỵ mùa ổi ấy
Anh dấu hái tặng nàng
No tròn tay vú sữa
Hỏi anh còn nhớ không ?

Mít đầu mùa Tố nữ
Thơm từng múi vàng ươm
Cam tươi đầy trĩu gánh
Dáng ai quẩy trên đường.

Nồng nàn mùi nhỡn chín
Hạt tròn mắt nhung em
Trái Thanh long dịu mát
Cho má thắm môi mềm.

Hoa bưởi vườn ai đó
Ngoài ngõ vắng hẹn hò
Bồng bềnh nơi suối tóc
Để cho anh làm thơ.

Những lá cành huyền hoặc
Ôm ấp trái đợi chờ
Dệt từng ngày mộng đẹp
Cho tròn những ước mơ.

Giọng Sài gòn ngọt lịm
Gơi nhớ những mùa qua
Nơi xa xôi quê cũ
Yêu dấu mấy không vừa.

Ôi những mùa quả ấy
Ta nâng niu trong hồn
Giọng Sài gòn ngọt lịm
Lòng ngập tràn nhớ thương.

Hoàng Nguyễn

Tô Vũ hoàn toàn đồng ý với thi sĩ Bàng Bá Lân :
Tiếng Việt miền Nam, giọng nói nhiệm mầu.
Có phép lạ khiến tình ta lưu luyến.
Em ! cô gái miền Nam ta thương mến !
Muốn gần em, gần mãi, để nghe em !

và TV cũng hoàn toàn đồng ý với Hoàng Nguyễn
Giọng Sàigòn ngọt lịm
Lòng ngập tràn nhớ thương

Tô Vũ thỉnh thoảng mở đài Radio RFI ở Paris, hôm nào được nghe cô xướng ngôn viên nói giọng Sè- gòòng chính cống thì TV thích thú lắm, nghe tuyệt hay ! Nghe giọng cô nói làm Tô Vũ tưởng nhớ lại biết bao nhiêu là kỷ niệm đẹp của những ngày êm dịu sống ở Sài gòn hồi trước, cũng như những ngày sóng gió Mậu Thân, những đêm hoả tiễn bắn vào nổ cạnh nhà, hai nhà hàng xóm bị trúng đạn, nổ tung.
Có người nói rằng giọng nói của các xuớng ngôn viên rất quan trọng cho tương lai một đài truyền thanh đại chúng, nếu được ưa thích thì đài có nhiều thính giả, còn không ưa thích, giọng nói "nhấm nhẳng" thì thính giả tắt máy ngay không muốn nghe, Tô Vũ cũng đã có kinh nghiệm phụ trách chương trình việt ngữ một đài phát thanh ở Paris, thỉnh thoảng có ông bà thính giả nào nghe Tô Vũ nói trên đài mà bỗng gặp mặt Tô Vũ , thường là câu nói "Nghe tiếng nói từ lâu rồi bây giờ mới biết mặt", có ông còn xổ nho "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình" làm Tô Vũ cũng vui mừng có được sự mến mộ.

4) Kỷ niệm Bốn : Ái Hữu cựu học sinh trường Bưởi

Hội "Ái Hữu cựu Học sinh Trường Bưởi" được chính thức thành lập và hoạt động trụ sở đặt tại 36 đường Hiền Vương Sàigòn, theo nghị định số 1299/BNV/do Bộ trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh ký ngày 2 tháng 10-1959
Hội trưỏng đầu tiên cho niên khoá 1960-1961 là ông Phạm Gia Thịnh
Hội trưởng thứ hai cho niên khoá 1962-1963 là ông Nguyễn Phúc Sa ( hiện nay, 2007, ông Nguyễn Phúc Sa ở Paris). Năm 1962 hội có 452 hội viên.
Hội có xuất bản một tờ Nội san lấy tên là Trường Bưởi, mỗi năm hai lần, có nhiều bài viết thật xuất sắc, nhiều bài thơ, nhiều bài khảo luận của các cựu học sinh viết.
Hiện nay Hội Cựu Học sinh Chu văn An ở bên Hoa Kỳ có nhiều sinh hoạt hàng năm.

5) Kỷ niệm Năm : Niên khoá 1943-1944 của Vân Nguyên

(...) 1943-1944 - Một niên học đầy hiểm nghèo. Nhà ga Nghĩa Trang suýt thành mồ chôn chúng tôi.
Niên học 1943-44 là một niên học đầy hiểm nghèo với chúng tôi vì các buổi học luôn lưôn bị cắt quãng vì các cuôc báo động phi cơ đến thả bom. Cũng vì vậy nhà trường phải đóng cửa một thời gian và sau đó chia làm hai, một phần chuyển vào Thanh Hóa, một phần chuyển vào Ninh Bình. Chúng tôi thuộc toán học sinh được chuyển vào Thanh Hoá.
Việc đi lại trong thời gian ấy bằng xe lửa là cả một sự khó khăn, một phần vì chỉ chạy đêm, phần vì phải chuyển tàu vì đường bị ném bom hư chưa kịp sửa chữa. tuy khó khăn như vậy nhưng gặp ngày nghỉ lễ Phục sinh chúng tôi cũng về ngoài Bắc nghỉ và khi hết ngày nghỉ chúng tôi lại đi xe lửa vàoThanh Hoá.
Từ Hà nội vào Thanh Hoá tàu phải chạy cả đêm và ngày. Khi chúng tôi đến ga Nghĩa Trang, cách Thanh Hoá ước chừng 14 cây số, vào khoảng quá trưa xe lửa phải ngừng chạy vì có phi cơ đến thả bom. Không hiểu tên ga này có phải là một điềm gở không, nhưng vì trên tàu có cả lính Nhật, mà bọn này lại bắn lên phi cơ nên cuộc thả bom kéo dài khá lâu và số người chết bị thương cũng khá nhiều. Sau khi máy bay đi nơi khác chuyến xe lửa cũng không thể chạy tiếp tục được vì tràu bị bom và đạn hư đầu máy.
Từ tất cả các chỗ có thể ẩn nấp, bọn học sinh chúng tôi kéo ra tụ họp trên đường nhựa và điều may mắn là không co ai bị thương hay thiệt mạng. Sau đấy chúng tôi lại tay sách nách mang kéo nhau đi bộ về tận Thanh Hoá, con đường cũng khá dài.
Cuối niên học chúng tôi được thi ngay tại Thanh Hoá và thi xong là chúng tôi xếp hành lý về Bắc. Lúc xe lửa qua ga Nghĩa Trang trong đêm tối, chúng tôi không khỏi rùng mình nghĩ lại giờ phút sợ hãi đã qua ở nơi đây và để quên, chúng tôi đồng thanh hát bài của trường :
Ta là thanh niên nào ta sánh vai
Tuổi còn xanh cùng nhau đua sức anh tài...
để cùng nhớ lại trường học trước khi chia tay nhau lặn lội vào cuộc đời.
Vân Nguyên

6) Kỷ niệm sáu : Bài thơ IF của Rudyard Kipling

Tập san Trường Bưởi năm 1962. đăng bài thơ IF một bài thơ mà lâu nay nhiều học sinh vẫn ưa thích và nhớ tới, bài thơ nguyên văn chữ Anh của Rudyard Kipling, bản dịch chữ Pháp cũa văn sĩ André Maurois, Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Académie Française), và bản dịch ra chữ Việt của cụ Lãng Nhân cựu học sinh trường Bưởi.
Cụ Lãng Nhân là bậc đàn anh của Tô Vũ. Cụ đã xuất bản nhiều sách : Trước Đèn, Chơi Chữ v.v... và nhất là cuốn Chuyện Cà Kê mà TV có dịp đọc và rất phục tài cụ. Lâu rồi không được biết tin của cụ, hồi thập niên 80 có gặp cụ ở Paris một lần, hồi đó cụ ở Londres với các con.

IF, là một bài thơ viết bằng tiếng Anh của thi-văn sĩ Anh-cát-lợi, Rudyard Kipling.
Hồi còn là học trò, TV và các bạn mê đọc Histoire de la Jungle (Truyện trong Rừng) của R. Kipling lắm. Mowgli là một đứa trẻ sơ sinh được thú rừng nuôi dưỡng, lớn lên trong môi trường thiên nhiên rừng núi, sống như dã thú, ngẫu nhiên tiếp xúc được với thế giới loài người.
Ông còn viết nhiều văn thơ khác, truyện Kim, truyện Les capitaines courageux, những Tập Thơ v.v...Ông nổi tiếng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Năm 1907 ông được giải thưởng Nobel về văn chương. Ông bị phê bình là đề cao chính sách thuộc địa đế quốc Anh. (Rudyard Kipling 1865-1936).

Bài IF của ông có 8 đoạn, 32 câu :
Đây là nguyên văn bài thơ bằng tiếng Anh :

If
1) If you can keep your head when all about you
Are loosing theirs and blaming it on you ;
If you trust yourself when all men doubt you,
But make allowance for their doubting too ;

2) If you can wait and not be tired by waiting,
Or, being lied about, don’t deal in lies,
Or, being hated, don’t give way to hating,
And yet, don’t look too good, not talk too wise ;

3) If you can dream - and not make dreams your master,
If you can think - and not make thougts your aim,
If you can meet with thriumph and disaster
And treat these two imposters just the same ;

4) If you can bear to hear the truth you’ve have spoken
Twisted by knaves to make a trap for fools,
Or watch the things you gave your life to broken,
And stoop and build ’em up with wornout tools ;

5) If you can make one heap of all your winnings
And risk it on one turn of pitch-and-toss
And lost, and start again at your beginnings
And never breathe a word about your loss ;

6) If you can force your heart and nerve and sinew
To serve your turn long after they are gone
And so hold on when there is nothing in you
Except the Will which said to them : 'Hold on' ;

7) If you can talk with crowds and keep your virtue,
Or walk with kings - nor lose the common touch ;
If neither foes nor loving friends can hurt you,
If all men count with you, but none too much ;

8) If you can fill the forgiving minute
With sixty seconds worth of distance run
Yours is the Earth and everything that’s in it,
And - which is more - you’ll be a Man, my son !
Rudyard Kipling

Theo cụ Lãng Nhân, thì Văn sĩ André Maurois (năm1938 nhập Hàn lâm viện Pháp, Académie Française) có dịch bản IF này ra chữ Pháp.
Cụ Lãng Nhân kể rằng ông André Maurois gửi bản dịch đến cho tác giả đọc. Rudyard Kipling lấy làm hài lòng, cho rằng bản dịch hay hơn sáng tác của ông, nên ông tuyên bố lấy bản dịch cũa André Maurois làm bản chính.

Đây là bản dịch của ông André Maurois có 8 đoạn 32 câu

SI
1) Si tu peux voir détruit l‘ouvrage de ta vie
Et sans dire un seul mot te mettre à rebâtir
Ou perdre en un seul coup le gain de cent parties
Sans un geste et sans un soupir ;
2) Si tu peux être amant sans être fou d’amour
Si tu peux être fort sans cesser d’être tendre
Et, te sentant haï, sans haïr à ton tour,
Pourtant lutter et te défendre.
3) Si tu peux supporter d’entendre tes paroles
Travesties par des gueux pour exciter des sots,
Et d’entendre mentir sur toi leurs bouches folles
Sans mentir toi-même d’un mot ;
4) Si tu peux rester digne en étant populaire,
Si tu peux rester peuple en conseillant les rois,
Et si tu peux aimer tous tes amis en frère
Sans qu’aucun d’eux soit tout pour toi ;
5) Si tu sais méditer, observer et connaître,
Sans jamais devenir sceptique ou destructeur,
Rêver, mais sans laisser ton rêve être ton maître
Penser, sans n’être qu’un penseur ;
6) Si tu peux être dur sans jamais être en rage,
Si tu peux être brave et jamais imprudent
Si tu peux être bon, si tu sais être sage
Sans être moral ni pédant ;
7) Si tu peux rencontrer Triomphe après Défaite
Et recevoir ces deux menteurs d’un même front
Si tu peux conserver ton courage et ta tête
Quand tous les autres les perdront ;
8) Alors les Rois, les Dieux, la Chance et la Victoire
Seront à tous jamais tes esclaves soumis ;
Et, ce qui vaut mieux que les Rois et la Gloire
Tu seras un Homme, mon fils.

André Maurois

Cụ Lãng Nhân căn cứ vào bản dịch chữ Pháp của nhà văn André Maurois để chuyển ngữ.
Đây là bản dịch của cụ Lãng Nhân


1) Ví con đã trăm lần thủ thắng
Một keo thua tay trắng về không,
Mà lòng lại biết nhủ lòng
Cơ đồ gây lại oán không một lời ;

2) Ví đường tình, tránh nơi dồ dại
Biết nên cương mà lại nên nhu
Chẳng ưa con cũng chẳng thù
Bền lòng tranh đấu, miễn lo việc mình ;

3) Ví có kẻ lòng manh ở ác
Đem lời con xuyên tạc ra ngoài
Mặc cho những miệng dông dài
Riêng con, con chẳng một lời thị phi ;

4) Ví giữ được quần nhi bất đảng
Đứng làm dân khuyên gián chí tôn
Anh em bốn biển cho tròn
Tình riêng, chẳng để thiệt hơn một người ;

4) Ví con biết xét coi, học hỏi
Giọng hoài nghi, phá hoại đừng nghe
Ước mơ mà chẳng sa mê
Nghĩ cho nên việc, chớ hề viển vông

5) Ví con biết uy song chẳng mãnh
Biết gan liền, nhưng tính tới lui
Biết ngay thảo với mọi người
Mà không lên mặt dạy đời : ta đây !

6) Ví con biết vinh thôi lại nhục
Cũng chẳng qua là cuộc hí trường
Biết đem can đảm làm gương
Giữ lòng bình thản, sốn sang mặc người ;

7) Ví theo được như lời căn dặn
Thì đế vương hiển thánh không tầy
Vinh quang hạnh phúc trong tay
Lại hơn được cả điều này, con ơi :

8) Là con biết đạo làm người.

Lãng Nhân lược dịch

Đây là bản dịch của Tô Vũ
Múa rìu qua mắt thợ, TV tôi cố gắng dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt bài thơ đó, dịch để thoả lòng mong ước từ lâu, dịch thoát nghĩa thôi, nhưng cũng đã đổ mồ hôi hột vì vốn liếng Anh văn cũa TV chỉ có một dúm nhỏ từ hồi đi học lại bị rỉ sét từ lâu rồi ! Lại còn khổ nữa là phải tìm vần để làm thành một bài thơ ! Chao ôi ! bài thơ chỉ có 3 chục dòng thôi mà thật là vất vả khó nhọc, mất nhìều thì giờ lắm, khác hẳn với một bài văn suôi hay một bài văn vần sáng tác, thật dễ dàng thoải mái !
Nhưng cũng may là phỏng dịch (chứ không phải là dịch) trót lọt tới hết không đến nỗi bỏ giở, mặc dầu có đoạn bị bí, chào thua tác giả, chào thua không dịch nổi vì các ông thi sĩ thì cứ như ở trên mây mà mình là nguời trần mắt thịt làm sao hiểu hết ý các ông ấy được.

NẾU
1) Nếu giữ được tinh thần sáng suốt ,
Giữa những người hoảng hốt ghét con.
Nếu giữ được lòng son bền vững,
Mặc những người nghi hoặc lòng con.

2) Nếu chờ đợi lâu dài không nhụt chí
Dù miệng đời ác độc, cũng không sờn.
Nếu bị đời ghen ghét, chẳng thiệt hơn
Chẳng khoe mẽ, khoe khôn khoe khéo

3) Cứ mơ ước, đừng để Giấc Mơ níu kéo
Cứ xét suy, đừng viễn vọng tư duy
Khi thành công, khi thất bại suy vi
Coi May Rủi là lẽ thường trong sự sống.

4) Lời thành thực con ngỏ cùng công chúng
Đứa xấu xa xuyên tạc để gạt người.
Nếu sản nghiệp một thời con xây dựng,
Bỗng vỡ tan,
Chẳng than van, con tái tạo cuộc đời.

5) Đặt tất cả cơ đồ sự nghiệp
Hy sinh vào thực hiện mục tiêu.
Gặp lúc thắng, hân hoan bày trận khác
Khi bị thua, nuốt hận ván cờ thua.

6) Nếu có dịp được gần nơi vua chúa,
Con chớ quên xuất xứ tầm thường.
Nếu có dịp ngỏ lời cùng đại chúng,
Chẳng nên quên đức tính khiêm nhường.

7) Và hơn nữa, hơn cả bạc tiền danh vọng
Hơn mọi điều quan trọng thế gian
Hơn Rủi May, phú quý giàu sang
Nếu con giữ dược tinh thần toàn mỹ
Nếu con giữ được can trường bền bỉ
Trái với phường ích kỷ tiểu nhân

8) Thì con ơi !
Con đã trở nên 'Người',
Trở nên người 'Thành nhân chi mỹ'
Tô Vũ phỏng dịch

7) Kỷ niệm bảy : thơ dịch Les Pas của Đái đức Tuấn



Trên đây là thủ bút của nhà văn Mai Nguyệt Đái Đức Tuấn (tức nhà văn Tchya), cựu học sinh trường Bưởi. Ông viết bằng chữ hán (viết lối thảo ) bốn câu cuối cùng ông dịch bài thơ Les Pas (Những Bước Chân) của Paul Valéry ra chữ Hán :
Ngã bình sinh dĩ hoạt
Miên miên trường đãi quân,
Quân bộ tự cửu hỹ
Chỉ thị ngã tâm thần
Xin quý độc giả đọc dòng phải trước, từ trên xuống dưới :
Dòng một (phải) : Ngã bình sinh dĩ hoạt, Miên miên trường
Dòng hai (giữa) : đãi quân, Quân bộ tự cửu hỹ
dòng ba (giữa) : Chỉ thị ngã tâm thần
dòng bốn (trái): Mai Nguyệt
Xin xem toàn bài dịch ra chữ Việt và chữ Hán ở sau đây :

Nguyên văn bản chữ Pháp của Paul Valéry

LES PAS

Tes pas, enfants de mon silence,
Saintement, lentement placés
Vers le lit de ma vigilance
Procèdent muets et glacés.

Personne pure, ombre divine
Qu ' ils sont doux tes pas retenus
Dieux ! tous les dons que je devine
Viennent à moi sur ces pieds nus.

Si, de tes lèvres avancées
Tu prépares pour l'apaiser
A l'habitant de mes pensées
La nourriture d'un baiser.

Ne hâte pas cet acte tendre
Douceur d'être et de n'être pas
Car j'ai vécu de vous attendre
Et mon coeur n'était que vos pas.
Paul Valéry (Charmes)

Đái đức Tuấn ( Mai Nguyệt ) dịch ra chữ Việt

NHỮNG BƯỚC CHÂN

Lãng đãng ... ta trầm mặc
Nở ra gót sen vàng
Thần diệu khoan thai bước
Lìm lịm tới bên giường.
Bên giường ý thoăn thoắt
Im lặng, lạnh lùng, buông...
Người ngọc, hỡi người ngọc
Bóng tiên nữ nhẹ nhàng.
Ôi ! êm ái, e lệ
Là bước chân của nàng.
Trời Phật ! ta mường tượng
Của vưu vật bốn phương
Đem lại cho ta cả
Trên bước chân mịn màng.
Cặp môi ai có muốn
Dâng lên cho sẵn sàng
Sửa soạn làm êm dịu
Người trong tư tưởng chàng.
Bằng phong vị nhựa sống
Của cái hôn cao lương.
Hoa ơi ! đừng vội vã
Ban bố sự yêu đương
Dù sắc không vô hữu
Đều êm ái dịu dàng
Đời ta từng đã sống
Bằng chờ đợi vấn vương
Tim ta từ thưở trước
Chỉ là bước chân nàng.
Tchya Đái đúc Tuấn dịch

Đái đức Tuấn ( Mai Nguyệt ) dịch chữ Hán
Dư tại thâm tĩnh xứ,
Sinh đắc quân kim liên,
Thần diệu nhàn nhã bộ
Tiến đáo ngã sàng biên.
Sàng biên thuỳ cấp ý,
Lãnh đạm trầm mặc nhiên.
Mỹ nhân hề mỹ nhân,
Quân ảnh kiều như tiên,
Nhu mì trì nghi tiến,
Quân bộ thái hư huyền.
Ta phù Thần Phật đẳng
Đô thị ngã thiên duyên
Ngô cảm đáo ngô xứ
Tòng quân xích túc tiền
Quân như dục cao hứng
Dự bị khai hoa thần
Ôn hoà ngã tư tưởng
Dĩ khấu nhi tương thân ,
Tiếp vật chi hương vị
Dưỡng ngã tâm trung nhân
Quân bất nghi thái cấp
Mạc bố thí ái ân
Sắc không dữ vô hữu
Ngã thú đồng tuyệt trần
Ngã bình sinh dĩ hoạt
Miên miên trường đãi quân,
Quân bộ tự cửu hỹ
Chỉ thị ngã tâm thần.
Đái Đức Tuấn (Mai Nguyệt

8) Kỷ niệm Tám : Hình chụp 4 giáo sư trường Bưởi


Chụp ở Sài gòn khoảng năm 1960,
nhân dịp các cựu học sinh đón tiếp quý Giáo sư.
Rất nhiều học sinh trong nhiều khoá đã thụ giáo các giáo sư quý mến này ở trường Bưởi.

9) Kỷ niệm Chín : Thơ Cung vĩnh Viễn, cựu học sinh Chu Văn An

GỬI CÁC CON

Ngày xưa bố mẹ thuộc lòng
những câu lục bát mênh mông nghĩa tình
tin rằng hương lửa ba sinh
sống là để trải lòng tin với đời
câu ca bà nội ru hoài
con chim có tổ con người có tông
ăn trái ngọt nhớ người trồng
uống dòng nước mát nhớ nguồn sạch trong.

Bao nhiêu biến cố chập chùng
cố đưa con thoát cơ cùng lầm than
thôi thì nước mất nhà tan
cái nông nỗi ấy đoạn trường mới hay
bao năm trôi dạt quê người
càng lâu càng thấm, ngậm ngùi càng sâu
tuổi già chợt nhớ tới câu
lá rơi về cội, cội đâu mà về?

Các con đang tuổi mải mê
cánh chim chưa mỏi lòng quê chưa màng
thốt nhiên bố thấy bàng hoàng
các con đâu biết quê hương thế nào
chẳng thuộc một câu ca dao
chưa ăn một bữa cơm rau muối cà
chưa hề tắm nước ao nhà
chưa nghe tiếng dế thiết tha đêm trường
làm sao hiểu kẻ tha hương
đêm nghe lá rụng cuối vườn nao nao?

Ôn thầm những câu ca dao
nghe như ruột thắt gan bào xót xa ...

CUNG VĨNH VIỄN, Oslo, Na Uy

10-) Kỷ niệm Mười : Thơ Phạm Tứ Lang, cựu học sinh Chu văn An

C- NHÂN
Vọng cố nhân hề thiên nhất phương (Cổ thi)

Tình cờ gặp bạn thuở thiếu thời
Lòng rộn ràng như tuổi đôi mươi
Cô gái Trưng Vương năm năm bốn (1954)
Vẫn giọng oanh vàng nụ cười tươi.

Tôi gặp lại người như giấc mộng
Liêu trai, tiên nữ thực hay mơ ?
Bao năm lê gót mòn tâm tưởng
Mỏi mắt nhìn đời cánh phù du.

Một buổi bình minh rạng đất trời
Trời trong, nắng sớm, mây ngừng trôi
Một thoáng hồng lên trong khoé mắt
Như lửa đốt bừng cháy tim côi.

Không gian lắng đọng
Thời gian ngừng trôi
Hơn bốn mươi năm vũ...
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.