Thụy Khuê
Thử tìm một lối tiếp cận văn sử học về
Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000
Hai mươi nhăm năm. Một phần tư thế kỷ. Khi nhìn lại chặng đường vừa qua của văn học Việt Nam, người ta nhận thấy do một tình cờ, một định mệnh hay một thần giao cách cảm nào đó, dòng văn học của người Việt sống ở nước ngoài có những lưu lượng ghềnh thác, chung nhịp với dòng văn học đổi mới ở trong nước.
Cùng chung thời kỳ phôi thai những năm 78-79, khi ở ngoài nước, những tờ Đất Mới của Thanh Nam, Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan, và Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiến, Lê Tất Điều bắt đầu khởi sắc những năm 77-78, thì ở trong nước, tháng 11/1978 trên báo Văn Nghệ Quân Đội có bài viết tựa đề Viết Về Chiến Tranh của Nguyễn Minh Châu, ngụ ý phê bình nền văn học miền Bắc trước 75 và Việt Nam sau 75, chưa có tiểu thuyết thực sự về chiến tranh. Rồi ngày 9/6/1979, trên tờ Văn Nghệ số 23, Hoàng Ngọc Hiến có bài triết luận tựa đề Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua, chứng minh tính cách phải đạo của nền văn học trong nước. Hai tiểu luận này được coi là những bài viết khai quang cho nền văn học đổi mới trong nước.
Cả hai dòng văn học hải ngoại và đổi mới cùng phát triển mạnh mẽ những năm 86-88, với số tác giả và tác phẩm cao nhất về phẩm cũng như về lượng. Rồi cùng trầm lắng xuống, từ năm 90 trở đi, với những lý do hoàn toàn khác nhau, nhưng ít nhiều, cả hai đã tìm cách giao lưu âm thầm với nhau, để hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài, trong sự cảm thông giữa những người cầm bút.
Tính chất giao lưu này đã khiến cho một số tác giả gặp khó khăn in ấn trong nước, có thể thấy tác phẩm của mình ra đời ở nước ngoài. Rồi những tác phẩm hải ngoại, cũng được chuyền "chui" về nước, theo một hệ thống đường ngầm mà chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát hết được. Người trong nước đã có thể lỗ mỗ tiếp nhận văn học hải ngoại như lời Nguyễn Huệ Chi. Từ sự tiếp nhận lỗ mỗ ấy, thoát thai những bài viết "nhận diện" văn học Việt Nam hải ngoại, khá nghiêm chỉnh, như bài của Lê Hoài Nguyên, tựa đề Một cái nhìn mười tám năm văn học Việt Nam ngoài nước, mô tả và đưa ra những nhận định khá sát với thực tế văn học Việt ngoài nước. Sáu tháng sau, Nguyễn Huệ Chi viết bài Vài cảm nhận văn học Việt Nam hải ngoại trong chiều hướng hòa hợp dân tộc, giới thiệu một số tác phẩm ngoài nước dưới nhãn quan đứng đắn của người nghiên cứu phê bình, không phân biệt lằn ranh địa lý, chính trị.
Ở Phạm Xuân Nguyên, sự giao lưu trở thành một đòi hỏi có tính quyết liệt để Hình dung một bức tranh hoàn chỉnh về văn học dân tộc. Phạm Xuân Nguyên chỉ trích quan niệm lỗi thời, đơn nhất về nền văn học cách mạng, văn học miền Bắc, và biện minh cho một cái nhìn toàn diện và đa hợp về văn học Việt Nam trong thế kỷ này.
Đó là thời điểm 93, 94, 95 một số nhà biên khảo đứng đắn đã có thể bầy tỏ công khai những nhận định của mình về văn học ngoài nước, về sự kết hợp một nền văn học Việt Nam hoàn chỉnh, có nhiều nhánh, không phân biệt ranh giới Bắc Nam, trong ngoài.
Những năm gần đây, nếu căn cứ vào một số bài viết trên các báo chính thức ở trong nước, tình hình có vẻ xấu đi. Bài viết Nhận diện văn học hải ngoại của Hoàng Huân, được giải thưởng phê bình văn học năm 98 của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, chứng minh cái nhìn phiến diện và hằn học đối với văn học hải ngoại của lăng kính chính thức ngày nay. Tất nhiên, những bài báo kém phẩm chất, tự nó sẽ bị đào thải, nhưng nó chứng tỏ một đường lối chính quy không tốt đối với văn nghệ mà ký ức văn học ít khi bỏ qua. Tất nhiên người ta có thể ghi nhận những tiến triển qua việc cho in một vài tác phẩm hiền lành của người viết ở hải ngoại như Ký sự đi Tây của Đỗ Khiêm, Tuyển tập những nhà văn nữ..., và mới đây, Sông Côn mùa lũ, bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử về anh em Tây Sơn của Nguyễn Mộng Giác. Nhưng điều đó không khỏa lấp câu hỏi: Tại sao, một phần tư thế kỷ sau ngày hợp nhất đất nước, những tờ báo có tính cách thuần túy văn học như Văn,VănHọc, Hợp Lưu, Tạp Chí Thơ, Việt, v.v... vẫn chưa được công khai có mặt trong nước? Tại sao những tác phẩm tiêu biểu của văn học hải ngoại vẫn chưa được lưu hành trong nước? Ví dụ trường hợp nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác phẩm chủ yếu của ông là bộ Mùa Biển Động. Bộ trường thiên này đã phản ảnh được xã hội và tâm trạng người miền Nam, ít nhất trong thành phần trung lưu, trí thức thành thị. Đây là một trong những tác phẩm có thể giúp người đọc trong nước, nhất là người đọc miền Bắc, hiểu được phần nào nếp sống tinh thần và vật chất của người miền Nam trong chiến tranh. Và có lẽ chỉ có sự tìm hiểu về nhau giữa đôi bên sau khi cuộc chiến chấm dứt, xuyên qua tác phẩm văn học, mới có thể đưa đến một sự hòa hợp sâu xa. Văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ sự thật, có khả năng hòa giải hữu hiệu hơn bất cứ bài thuyết luận nào.
*
Danh xưng
Có nhiều ý kiến khác nhau về danh xưng, nên gọi là văn học hải ngoại, ngoài nước hay lưu vong? Bùi Vĩnh Phúc đưa ra một phân tích đặc sắc, ông cho rằng: Hai chữ Hán Việt hải ngoại không sát nghĩa bằng hai chữ thuần Việt ngoài nước. Vì hải ngoại chỉ có nghĩa là ngoài biển, trong khi ngoài nước có nghĩa là ngoài nước Việt Nam.
Theo ông, chữ nước ở đây không phải là hải (là thủy) mà là quốc. Vậy muốn diễn tả đúng ý ngoài nước Việt Nam thì tiếng Hán Việt phải dùng là quốc ngoại chứ không phải là hải ngoại. Nhưng vẫn theo ông, âm vang của từ ngoài nước làm ta cảm thấy gần gũi với đất nước và người Việt hơn là khi dùng từ quốc ngoại..
Sự phân tích của Bùi Vĩnh Phúc khá cặn kẽ và sâu sắc, nhưng chúng tôi xin nêu thêm một ý khác: Chữ nước trong danh từ đất nước của chúng ta, có hàm nghĩa nước là thủy, như nước sông, nước biển, mà chữ quốc của người Trung Hoa không có. Và có lẽ ít ngôn ngữ nào trên thế giới diễn tả được hình ảnh đất nước với hai yếu tố xương thịt cơ bản tác thành nên nó: đất và nước như tiếng Việt. Nếu không có đất và không có nước thì không có sự sống, không có vật và người. Hai yếu tố cơ bản này, đất-nước gắn bó với xác thịt và linh hồn dân tộc, đã được Bình Nguyên Lộc trải, bầy, đúc, tả trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ngoài ra nước biển còn có liên hệ tử sinh với người vượt biển, thành phần chủ chốt của văn học Việt Nam hải ngoại.
Vậy nước trong chữ hải (biển) cũng là thành tố của đất nước. Và hải ngoại chỉ là một cách nói khác, để chỉ những gì ngoài đất nước. Do đó hải ngoại và ngoài nước là những từ tương đương.
Lưu vong vừa là một tình trạng (người bị xa nước), vừa là một tâm trạng (nhớ nước). Có người không xa nước nhưng vẫn nhớ nước như Bà Huyện Thanh Quan. Từ tâm trạng nhớ nước xẩy ra hành động hướng về đất nước dưới nhiều hình thức, trong đó có sinh hoạt văn chương: Viết bằng tiếng Việt. Như vậy, lưu vong là động cơ thúc đẩy con người hướng về nước, nhưng trong văn học tính chất lưu vong chỉ là một biệt cách của mỗi tác giả:
- Lưu vong, theo nghĩa đối kháng chính quyền xuất hiện trong những hồi ký chính trị, cải tạo. (Ở đây chúng tôi không bàn đến những tác phẩm ca tụng chính quyền vì đó không phải là văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ tự do và sự thật).
- Lưu vong, theo nghĩa nhớ nước: Sâu sắc trong thơ Phạm Tăng, trong văn Võ Đình, khơi động ở thời kỳ đầu, qua những tác phẩm như Đất Khách của Thanh Nam, Thơ Cao Tần, v.v... Càng về sau càng dịu đi, nhường chỗ cho tính chất hội nhập và hòa hợp.
Truyền thống văn học lưu vong, khởi sinh từ những năm đầu thế kỷ, khi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, từ hải ngoại gửi những tâm văn, huyết thư về nước. Tiếp nối truyền thống ái quốc lưu vong là dòng nghệ thuật thuần túy những năm 30, khi các họa sĩ đầu tiên của Việt Nam như Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Lê Thị Lựu... xuất dương và định cư tại Pháp.
Sau họ là lớp thứ nhì, với những tên tuổi như Lê Bá Đảng, Võ Đình, Phạm Tăng, v.v... cùng thời với những nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, Trương Đình Hòe v.v...
Tất cả những lớp người đi trước này là tiền thân của văn học nghệ thuật Việt Nam hải ngoại hôm nay. Cho nên khi gói trọn văn học Việt Nam hải ngoại trong phạm vi những tác phẩm của người Việt di tản, chúng ta dễ bị sa vào những lấn cấn, ngộ nghĩnh buồn cười: Ví dụ như việc cãi vã về Phạm Thị Hoài, có nên "cho" Phạm Thị Hoài vào văn học Việt Nam hải ngoại hay không?
Thật ra vấn đề rất đơn giản: Phạm Thị Hoài là nhà văn Việt Nam, với những tác phẩm viết và in trong nước và những tác phẩm viết và in ngoài nước, cũng như Võ Phiến, Mai Thảo, Nhật Tiến, v.v... Khi muốn phân chia theo địa lý văn học thì phần viết và in ở nước ngoài của họ thuộc về văn học hải ngoại.
Picasso, dù xây dựng toàn bộ sự nghiệp hội họa ở Paris, nhưng đối với quốc tế, ông vẫn là họa sĩ Tây Ban Nha. Xem như thế, nguồn gốc quan trọng nhường nào.
Nabokov đi lưu vong, mang theo linh hồn và văn hóa Nga trên đất Mỹ, Pháp, rồi Thụy Sĩ... nhưng ông không được ghi nhận như nhà văn Nga mà là nhà văn Mỹ, gốc Nga, bởi vì tác phẩm của ông, phần lớn viết bằng tiếng Mỹ. Do đó, ngôn ngữ thiết yếu đến đâu.
Nguồn gốc và ngôn ngữ là hai yếu tố xác định "quốc tịch" nghệ thuật, dù biết rằng nghệ thuật không có và không cần quốc tịch. Riêng đối với văn chương, thì ngôn ngữ là yếu tố xác định. Những phần tử như địa lý, chính trị,... chỉ là những tiết tố có thể có ảnh hưởng đến bản chất nghệ thuật và tư tưởng của tác giả.
Văn học Việt Nam hải ngoại được hình thành ở thời điểm nào?
Báo chí là khởi điểm cho sự đọc, sự viết, cho một đời sống tinh thần. Ngay từ khi còn ở đảo Guam hoặc mới bước chân lên những trại tỵ nạn đầu tiên trên đất Mỹ, người Việt đã có báo. Minh Đức Hoài Trinh, trên báo Hồn Việt Nam, số 1, phát hành tại Paris ngày 15/10/1975, nhắc đến chuyện đã "đọc báo Chân Trời Mới ở các trại như Pendleton, Guam, Asan vào giai đoạn đầu của cuộc ly hành mùa xuân Ất Mão", và bà còn cho biết "theo báo Đất Mới: Một nhóm các người làm báo ở Hoa Thịnh Đốn đang thành lập một ủy ban để giúp các người làm báo Việt Nam tìm người bảo trợ và công việc làm ăn tại Hoa Kỳ."
Võ Phiến, trong bài Xuất Trại nhắc nhở đến tờ "Đất Lành cuối tháng 8-75, liên tiếp mấy số liền, có những bài đăng ở trang nhất, cố gắng giải thích, khuyên nhủ, dỗ dành, mỉa mai, rồi... hăm dọa, nhằm thúc đẩy dân tỵ nạn mạnh dạn ra đi lập lại cuộc đời mới."
Từ những Chân Trời Mới, những Đất Lành, ... người Việt đã thành lập những tờ báo có tính chất văn học nghệ thuật. Nhìn lại giai đoạn tiên khởi này, những tờ báo có khuynh hướng văn học nghệ thuật xuất hiện sớm nhất ở hải ngoại có thể là:
- Nguyệt san Hồn Việt Nam của Minh Đức Hoài Trinh, số 1 ra ngày 15/10/1975 ở Paris, số chót Xuân Mậu Ngọ 1978.
- Báo Quê Mẹ của Võ Văn ÿi ở Paris, số 1 đầu năm 76, chuyên về văn học nghệ thuật. Sau đó ngừng. Tiếp theo là tạp chí Quê Mẹ, chuyên về thời sự, chính trị, đấu tranh, có thêm trang văn học.
- Báo Quê Hương của Du Tử Lê, Đinh Thạch Bích, Võ Văn Hà, Phạm Cao Dương ở Costa Mesa, đầu năm 76, ra được ba số thì đình bản. Sau đó Du Tử Lê chủ thương tờ Nhân Chứng. Nhân Chứng tồn tại được hai năm, ra khoảng 20 số.
- Báo Đất Mới với Huy Quang Vũ Đức Vinh, Nguyễn Văn Giang là một trong những tờ báo đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ từ tháng 7/75. Đến tháng 4/76, Thanh Nam được mời cộng tác. Rồi từ 79 đến 81 có thêm Mai Thảo.
- Báo Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan ở San Diego, ra đời đầu năm 76 mà số Xuân Đinh Tỵ (1977) đã có đầy đủ tư thế của một tờ văn học nghệ thuật với sự đóng góp bài vở của Lê Tất Điều, Võ Phiến, Thanh Nam, Tạ Ký, Nhất Tuấn, Cung Tiến, Nguyên Sa, Túy Hồng...
- Võ Phiến ở Santa Monica và Lê Tất Điều ở San Diego cho xuất bản nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật từ tháng 4 năm 1978, ra được 13 số thì đóng cửa vào tháng 9/1979. Tái bản bộ mới số 1, tháng 5/85 đến tháng 12/86 đình bản, trao lại cho Nguyễn Mộng Giác đổi thành Văn Học.
- Tờ Việt Chiến do Giang Hữu Tuyên, Hoàng Xuân Sơn và Ngô Vương Toại chủ trương ở Hoa Thịnh Đốn.
- Cùng thời điểm này, Đỗ Ngọc Yến sáng lập tờ Người Việt, số báo đầu tiên phát hành tháng 12/78 ở quận Cam, California. Người Việt là tờ thông tin nghị luận, mới đầu là báo hàng tuần, sau trở thành báo hàng ngày, có nhiều độc giả nhất trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và là cơ sở nuôi sống nhiều nhà văn, nhà báo.
Đó là sơ lược một số báo đã hiện diện trong những ngày đầu, cho phép người viết trụ lại để tạo thành bộ mặt văn học hải ngoại.
*
Những hướng đi đầu tiên: Báo Hồn Việt Nam và những biến chuyển từ 30/4/75 đến cuối năm 76
Trong con số ước lượng 130000 người Việt rời nước ở thời điểm 30/4, những văn nghệ sĩ ra đi sớm nhất có thể là nhóm Võ Phiến, Lê Tất Điều, Thanh Nam, Túy Hồng, Viên Linh, Vũ Huyến,... nhân viên của đài phát thanh Mẹ Việt Nam, được đưa ra Phú Quốc ngay từ 21/4/75 để chờ tầu Mỹ tới "bốc". Minh Đức Hoài Trinh cũng đi trước 30/4 để tham dự hội thảo ở Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân về đề tài gia tài văn hóa của Đông Nam ÿ. Ngoài ra, những tên tuổi như Phạm Duy, Hoài Trung, Nguyễn Khắc Ngữ, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Cao Văn Luận, Thái Văn Kiểm, Chu Tử, Du Tử Lê, Cao Tiêu, Duy Thanh, Đỗ Quý Toàn, Hà Huyền Chi, Trùng Dương, Phan Lạc Tiếp, Nhất Tuấn... cũng đều rời nước ở thời điểm 30/4.
Hồn Việt Nam, với tiêu đề chính "văn hóa và dân tộc" và với mục đích "cơ quan thông tin giữa người trong và ngoài nước", in ngay dưới tên tờ báo, nói rõ hướng đi của người chủ trương: Minh Đức Hoài Trinh. Tuy chỉ là tờ báo in ronéo, 3 số đầu có 17 trang, sau tăng lên 30 trang, và có lẽ ngày nay không mấy người biết đến; nhưng nội dung, tinh thần và những biến chuyển của Hồn Việt Nam, lại gần gụi với tâm trạng của người Việt hải ngoại lúc bấy giờ.
Sau ngày 30/4, tinh thần chống Cộng chưa xuất hiện mà ngược lại, tinh thần hòa giải Bắc Nam có phần ưu thế. Mọi người tiếp nhận biến cố 30/4 như một biến chuyển lớn lao, còn ngơ ngác, không biết nên vui hay nên buồn: Vui vì đất nước hết chiến tranh. Buồn vì phải chia lìa, ly tán. Minh Đức Hoài Trinh đã thể hiện khá chính xác, hiện tình ấy trong bài viết mở đầu:
"Trước những biến chuyển của đất nước, trước những vui buồn, những ngơ ngác, hân hoan của mỗi người, trước những đau khổ, nhục nhã của cuộc ly hành, chúng tôi có bổn phận phải làm gì để chia sẻ." Và Hồn Việt Nam muốn "trở thành mối liên lạc giữa kẻ ở với người đi".
Trong "bức thư" gửi độc giả Bách Khoa, hàng tháng, Minh Đức Hoài Trinh bày tỏ ước muốn tiếp tục công việc của "anh chị Châu", làm một thứ Bách Khoa thu nhỏ, với tất cả những khó khăn, giới hạn, nghèo nàn về người viết cũng như tìm tiền để in báo.
Nội dung, ngoài sáng tác, có bốn mục chính: Mỗi tháng đều có bài viết nhắn nhủ người Việt đừng để cho con em quên tiếng Việt. Một bài biên khảo đứng đắn về văn hóa của Hoằng Đạo. Một bài viết khá kỹ, giới thiệu các danh nhân Việt Nam do Giao Trinh phụ trách. và Mục thông tin, liên lạc tin tức giữa người Việt trong và ngoài nước. Tuy tờ báo do gia đình Minh Đức Hoài Trinh đảm nhiệm (với Triều Dương và Giao Trinh) nhưng dù dưới hình thức thô sơ, nghèo nàn, nội dung của nó vượt khỏi phạm vi gia đình, rộng hơn tính cách cộng đồng, để đến với "văn hóa và dân tộc".
Ở chính chỗ không ngờ nhất, mục Tin tức và Nhắn tin trên báo Hồn Việt Nam vừa phản ánh vừa tạo dựng những chuyển biến trong tâm cảm người Việt ở nước ngoài, ít ra là ở Pháp.
Sau ngày 30/4, những thông tin trong nước gửi ra rất hiếm. Và Paris là phần đất ưu tiên tiếp nhận những nguồn tin hiếm hoi từ Việt Nam. Rồi từ Paris, tin tức được chuyển đi Hoa Kỳ và khắp nơi.
Độc giả đọc được ngay trên số đầu của Hồn Việt Nam, tháng 10/75, những tin tức như:
"Thái Thanh, Mai Thảo, Hoài Bắc không đi, chỉ có Hoài Trung và gia đình Phạm Duy ở Hoa Kỳ."
"Nhà văn Lê Tất Điều gửi xin anh em có ai còn giữ được mấy quyển sách của Điều, xin gửi cho mượn để chép tay."
Trong số báo thứ nhì, có thư của một độc giả trả lời, giữ trọn bộ sách của Lê Tất Điều. Và trong Hồn Việt Nam, số 3, ngày 15/11/75, bài Thư bạn của Lê tất Điều gửi Minh Đức Hoài Trinh, có những câu:
"Ôi! Chữ Việt Nam ta bây giờ quý lắm, kể cả chữ nghĩa viết thư, không thể để chúng lưu lạc được. Bạn có tin gì về N.T. (Nhật Tiến) không? [..] Điều mình ước mong được biết là tin tức mọi người. Bây giờ thì không thể viết gì được nữa ngoài việc lâu lâu thảo vài hàng thư thăm bạn bè [...]
Đời sống hiện tại khá đầy đủ. Cái mà mình thiếu bây giờ là những khuôn mặt của bạn bè, những con đường cũ của mấy chục năm cũ. Lắm lúc nhớ nhà, nhớ Sàigòn, nhớ Đà Lạt muốn phát điên [...]
Rất mừng thấy bạn còn viết được, còn làm báo được. Đọc mục Nhắn tin của Hồn Việt Nam khi nào cũng cảm động [...]
Về phương diện văn nghệ, bạn hãy coi tôi như người bỏ đi. Bây giờ chỉ thèm được đọc."
Đó là tâm sự của Lê Tất Điều vào cuối tháng 10/75. Những "tin tức" ngắn ngủi ấy, chứa đựng những "nội dung" mà ít bài văn, bài thơ nào chuyên tải được.
Rồi tiếp nối tin: Ba trại Pennsylvania, Florida và California đóng cửa trong tháng 10/75. Tháng 12/75 có gần 3000 người tỵ nạn xin hồi hương. Trại tỵ nạn cuối cùng, Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, đóng cửa trước Giáng Sinh năm 75. Cuối năm 75, đường phố Sàigòn phải đổi tên. Đầu năm 76 "báo chí Việt Nam tại hải ngoại ra đời như bươm bướm". Giữa tháng 2/76: "Nghĩa trang quân đội có bảng ghi ở bên ngoài: Đây là nơi an nghỉ của những đứa con phản quốc." Tháng 3/76, xuất hiện những tin đầu tiên về người vượt biển: Tới cuối tháng 11/75 còn nhiều gia đình trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền nhỏ. Sau Tết Nguyên Đán 76: những công chức, quân nhân chế độ cũ đều chưa được thả về từ các trại cải huấn. Mặc dù họ được báo trước dự trù cải tạo một tuần hay một tháng.
Ngày 15/5/76, Hồn Việt Nam ra số kỷ niệm ngày đệ nhất chu niên ngày "Ly Hành". Đây là "số đặc biệt", "số kỷ niệm để đánh dấu một ngày, không biết nên gọi là gì? Buồn? Vui?" Nhưng dường như khát vọng hòa bình vẫn muốn quạt trôi những tin tức bi quan táp đến. Minh Đức Hoài Trinh cho in bài thơ "Chiến tranh hết rồi" làm tại Paris năm 74, với những tín hiệu khép kín vết thương chiến tranh, mở ra một trang hòa bình:
Và xác chết xác chết khỏi trừng trừng mở mắt
Nuối cuộc đời, tiếc kỷ niệm đau thương
Ngậm căm hờn nghe máu hòa trong đất
Thân vẹn toàn không từng mảnh thịt xương
......
Sông núi ơi! Vùng lên mà ca hát
Khúc thanh bình gào đến tận muôn phương
Hiền cỏ cây nghiêng đầu ru gió mát
Dưới mặt trời, gỗ đá cũng yêu đương.
Tháng7/76: Trong Hồn Việt Nam số 10, có bài viết về cái chết tự tuẫn của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Có tin Vũ Hoàng Chương phải đi học tập. Giọng văn của tờ báo, lần đầu tiên, có vẻ châm biếm nhà nước. Tháng 8 và 9/76 trở đi, tình hình trầm trọng hơn: Ủy Ban Vận Động Cứu Trợ Những Người Việt Nam Trên Đường Tỵ Nạn ra đời tại Hoa Thịnh Đốn, thông báo: Số người vượt biển ra đi chỉ sống sót khoảng 35%, vì tầu ngoại quốc không chịu vớt và láng giềng xua đuổi không cho lên bờ.
Những người vượt biển đầu tiên tới Pháp, cho biết hiện tình trong nước: "Họ có thể đột nhập vào bất cứ nhà ai, bất cứ nơi nào và lúc nào."
Theo tin BBC, mỗi tháng ước lượng có khoảng 200 người trốn khỏi Việt Nam. Tháng 10 năm 76: Doãn Quốc Sỹ bị bắt. Vũ Hoàng Chương từ trần. Tháng 11/76: Nhà xuất bản Lá Bối tái hiện ở Paris với bức tâm thư "Tiếng Chim Gọi Đàn" gửi các văn nghệ sĩ và học giả, yêu cầu gửi bản thảo, Lá Bối sẽ xuất bản. Đây là nhà xuất bản đầu tiên hoạt động tại hải ngoại theo đúng quy ước in sách mới, không sao chụp sách cũ như Đại Nam, Xuân Thu, Sóng Mới, v.v...
Tháng 11/76, trong Hồn Việt Nam số 14, Minh Đức Hoài Trinh "viết cho một người nằm xuống " là Vũ Hoàng Chương và mặc niệm cho tình hình trong nước: "Chưa thấy một ánh sáng nào mà chỉ thấy bóng tối càng ngày càng phủ dầy. Trên lãnh vực văn nghệ sĩ thật đáng thương [...] chỉ có văn bộc mới sống nổi, những kẻ chân chính đều bị tiêu diệt hoặc tự tiêu diệt."
Giữa năm 77, Hoà Thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo loan báo: Chính quyền bắt giam 6 vị thượng tọa, đại đức trong ban quản trị Viện Hóa Đạo. Việc đốt sách, đốt bản thảo... gia tăng. Tháng 10/77, Hồn Việt Nam ra bộ mới, chuyển hướng sang đấu tranh chính trị, với một ban biên tập mới, ngoài Minh Đức Hoài Trinh có Trần Tam Tiệp, Phạm Hữu, Vũ Phong. Trên báo xuất hiện những từ "phục quốc, nội công, ngoại kích, mất nước". Và lá thư tòa soạn có những câu:
"Quê hương Việt Nam đang sống trong đau khổ, uất hẹn, tủi nhục, người Việt tha hương không thể thụ động khoanh tay, cúi đầu."
Tờ báo chính trị cũng chỉ sống được 4 tháng rồi đình bản. Có thể nó đã không phù hợp với tinh thần văn hóa và dân tộc của người sáng lập. Nhưng cuộc đời ngắn ngủi của nó (từ tháng 10/75 đến tháng 10/77) trong 2 năm, đã báo động và phản ảnh những biến đổi tâm thức của người Việt hải ngoại: Từ ý hướng hòa hợp dân tộc, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, chuyển sang thái độ trực diện, đối đầu.
*
Tâm thức hòa hợp dân tộc và xây dựng đời sống mới.
Không chỉ ở Minh Đức Hoài Trinh mà có lẽ đó là tâm thức chung của người Việt sau 30/4: Tin tưởng ở người Việt. Miền Nam chấp nhận thua trận và có ý hướng cộng tác. Hồi ký Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo mô tả giai đoạn đầu tiên, sau ngày tiếp quản Sàigòn, chương trình "học tập cải tạo" được tiếp nhận một cách lạc quan và nhanh chóng như sự tiếp thu những từ mới: Mỹ Ngụy, cách mạng, giải phóng, hồ hỡi phấn khởi, đạt yêu cầu, đăng ký, thu hoạch, v.v... Người Việt miền Nam tự xưng mình là "ngụy" và nói về "cách mạng", về "giải phóng" như thật. Một người vừa vượt biển, trả lời phỏng vấn báo Hồn Việt Nam, dù đã tới Paris, vẫn còn lập đi lập lại: Ngày xưa ngụy nó... thế này, thế kia, v.v...
Sự thay đổi ngôn từ chứng tỏ tính chất mềm dẻo, lau sậy của người dân nhưng không phải là không ẩn dấu một hình thức chấp nhận và hội nhập, dù chỉ một chiều. Trong Đáy Địa Ngục, Tạ Tỵ kể chuyện một thương phế binh cụt chân, nhất quyết ghi tên đi học tập. Cán bộ trả lời:
"Thôi, cho anh về, chờ khóa sau. Anh tàn tật vậy, chúng tôi sẽ cấp giấy chứng nhận được hoãn.
- Dạ, xin cho tôi được đăng ký học khóa này. Trước, sau cũng phải học. Một lần cho xong, để yên tâm làm ăn."
Và Tạ Tỵ đưa ra lập luận của ông, và có lẽ cũng là lập luận chung của những người đi học tập lúc đầu: "Một khi đã phục tùng, chắc họ sẽ sẵn sàng theo đúng chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc để cùng xây dựng lại đất nước sau mấy chục năm dài chinh chiến." (trang 55)
Báo chí xuất hiện trong giai đoạn đầu, mang hai loại tên: Khuynh hướng tại ngoại tin tưởng với Chân Trời Mới, Đất Lành, Đất Mới... khuynh hướng vọng về đất nước như Hồn Việt Nam, Hồn Việt, Quê Hương, Quê Mẹ, Người Việt... Cả hai khuynh hướng đều có ít nhiều lạc quan: Báo Quê Mẹ ở Paris, số đầu, bài vở chuyên về văn học nghệ thuật trong chiều hướng chào mừng hòa bình và thống nhất đất nước. Võ Phiến nói đến tâm trạng "kẻ vui gượng ở ngoài nước chẳng nên dài lời mà chi đối với cái vui gượng của người ở trong nước" trong bài Vui Gượng, đăng trên Hồn Việt, Xuân Đinh Tỵ 1977.
Thanh Nam, để kỷ niệm một năm ngày 30/4 có những câu thơ:
Về đây chung phận chung đời
Chung tay tiếp lửa đẩy lùi bóng đêm
Thôi, chào quá khứ ngủ yên
Những đau thương cũ vùi quên cuối trời.
(Buổi Đầu, Seatle 30/4/76, trong tập Đất Khách)
Nhưng tâm thức hòa hợp hay niềm lạc quan xây dựng đời sống mới không được lâu bền. Lưu đầy Đất Khách và thực tại Quê Hương đã khiến Thanh Nam, 1982 -ba năm trước khi mất- đau đớn "xót thân vô dụng, một đời nín câm."
Rồi những biến cố không hay dồn dập đến: Chưa được một năm sau ngày thống nhất đất nước, sách vở miền Nam bị thiêu hủy, các văn nghệ sĩ hàng loạt đi tù. Vũ Hoàng Chương bị bắt ngày 13/4/76. Người đi cải tạo không về. Người vượt biển vong thân. Vũ Hoàng Chương mất ngày 17/9/76, năm ngày sau khi được thả. Cái tang cải tạo. Cái tang vượt biển: Tang chung. Cái tang văn học: Tang riêng. Nặng trên tâm thức người cầm bút.
Cái chết của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương vẫn được coi là một trong những khuôn mặt đại diện cho nền văn học Việt Nam trải hai thời kỳ: tiền chiến và chia đôi đất nước. Cùng với Đinh Hùng, là hai thiên tài tiền chiến không tắt lửa sáng tạo sau 45. Vũ Hoàng Chương: một nhà thơ và một kẻ sĩ, không khuất phục trước thế quyền trong Lửa Từ Bi.
Có thể vì đã cảm nhận được vị trí độc đáo của Vũ Hoàng Chương trong văn học sử và trong lòng người, cho nên trong thời gian đầu, chính quyền cộng sản không bắt Vũ Hoàng Chương.
Nhưng cũng có thể vì đã cảm nhận vị trí ấy, nên họ bắt ông sau đó. Thời điểm ấy Vũ Hoàng Chương đã yếu lắm, không biết sống chết lúc nào. Bốn tháng tù. Được thả. Năm ngày sau, ông mất. Dập tắt một nhà thơ lớn bằng lao tù. Đó là sự vụng về thê thảm nhất. Bởi khi thân thể nhà thơ nằm xuống là lúc tác phẩm của họ đứng lên. Nhập vào lòng người. Chỉ cần đọc những dòng Mai Thảo viết về Vũ Hoàng Chương cũng đủ thấy sức công phá của ngọn lửa Từ Bi hồi sinh, đưa Mai Thảo đến bờ xung kích.
Và chính Mai Thảo, trong niềm đau xót đứt lìa, tái sinh động lực chuyển tải chúc thư văn học, trở nên linh hồn của một thời kỳ văn học sau đó.
Cái chết của Vũ Hoàng Chương, ở trong nước, bị dấu diếm. Gia đình không được quyền đăng cáo phó. Hàng xóm không được quyền đến thăm. Bạn hữu như Mai Thảo còn đang bị truy lùng. Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng đã đi cải tạo lớp đầu. Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu... đã bị bắt. Vũ Hoàng Chương ra đi "trong giới nghiêm tăm tối, trong trống không vô cùng tận. Trên một mặt sàn gác xép hiu quạnh". Theo lời Mai Thảo.
Người trong nước không được biết tin.
Nhưng Paris biết ngay. Trong Hồn Việt Nam số tháng 9, Minh Đức Hoài Trinh khấp báo. Paris tổ chức lễ truy niệm nhà thơ.
Có thể ngọn Lửa Từ Bi đã là một trong những nguyên nhân sâu xa thúc đẩy người cầm bút di tản hình thành mau chóng một nền văn học. Vừa có tính cách bảo tồn tiếng Việt, vừa khơi đống tro tàn, in lại những tác phẩm văn học miền Nam đã bị hóa vàng, vừa có tính chất sử quan gắn liền với thân phận "lưu vong", với những khó khăn hội nhập đất khách.
Văn học Việt Nam hải ngoại, vì thế rất cách ly với những dòng văn học lưu vong khác trên thế giới. Sâu xa nhất là:
Người Việt viết tiếng Việt.
*
Người Việt viết tiếng Việt
Cung Trầm Tường, thời kỳ Tình Ca Paris những năm 55-60, dù người yêu là Pháp nhưng đã cảm thấy tôi cần phải làm thơ bằng tiếng Việt, bằng tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi có làm thơ tiếng Pháp nhưng xé hết. Đối với Minh Đức Hoài Trinh "văn hóa, ngôn ngữ quy định cả một kiếp người."
Võ Phiến viết: "Tiếng nói của một dân tộc nó sống như một cơ thể [...] Chúng ta yêu ngôn ngữ của cha ông, chúng ta đem nó theo trên từng bước ly hương; nhưng chúng ta sẽ không thể bồi bổ nuôi dưỡng nó, chúng ta sẽ làm cho nó héo hắt trên quê người [...] Chúng ta đưa nó đi, cố giữ nó, nhưng sẽ giữ nó như thể giữ gìn một cái xác ướp.
Trong chúng ta, những kẻ viết lách phải lấy làm lo hãi trước nhất. Vì văn chương là bộ môn nghệ thuật xây dựng trên ngôn ngữ. Cho nên từ ngày bỏ nước ra đi, tôi đâu còn nghĩ tới chuyện nghệ thuật văn chương nữa."
Từ cái lo hãi của Võ Phiến về một "xác ướp tiếng Việt", ông đã trở thành người khai quật "xác ướp", tiếp máu hồi sinh.
ÿ hướng "viết bằng tiếng Việt", giữ gìn tiếng Việt, che khuất ước muốn "để cho thế giới biết mặt biết tên", làm mờ nhạt tâm trạng "phô bầy với thế giới bộ mặt thực của chế độ cộng sản", giải thích sự kiện tại sao sau "một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây", tiếng Việt vẫn tồn tại. Và sau cùng làm sáng tỏ nhận thức về vị trí "nhược tiểu" của dân tộc Việt Nam.
Nhận thức này đã được thể nghiệm qua những người đi trước như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng... Nguyên Sa đã sớm nhận thấy: "sẽ không bao giờ một trí thức Tây phương, dù cởi mở như Sartre, có ý học tiếng Việt để đọc truyện Kiều trong nguyên bản." Bởi, theo ông, vị trí văn học một nước, tùy thuộc vị trí chính trị, kinh tế của nước đó. Nhưng Nguyên Sa không nhắc đến một khác biệt nữa: Đó là khác biệt Đông-Tây. Tây phương chưa bao giờ thực sự muốn tìm hiểu Đông phương. Do đó, văn hóa Đông phương, dù cao như văn hóa Tầu, cường như văn hóa Nhật... vẫn không có chỗ đứng đích thực trong xã hội phương Tây.
Cho nên sẽ không thể có một trường hợp Soljenitsyne Tàu, Việt, Miên... nếu như có một người Trung quốc, Việt Nam hay Cambodge quyết định "lột trần và quật ngã chế độ cộng sản" như một người Nga Soljenitsyne.
Sống ở Hoa Kỳ, Võ Phiến và Mai Thảo đã nhận thấy điều đó, rõ ràng và sâu sắc. Mai Thảo viết:
"Trên phương diện nghệ thuật. Trên phương diện văn chương. Đối với lưu vong Đông phương. Đối với ÿ Châu tị nạn. Ta với ta thôi, với họ, vô phương, mọi con đường đều chặn lấp, mọi cánh cửa đóng chặt, Võ Phiến nói. Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa tới đây đã mấy đời, còn đứng bên ngoài lề, làm gì có tiếp nhận và chỗ đứng nào cho Việt Nam mới tới. Chúng, Bình Định kêu Mỹ bằng chúng, giữ đất thật kỹ. Họa hoằn chỉ một vài thiên tài lỗi lạc lưu vong của Âu Châu lọt được vào và tạo được danh vọng được tên tuổi. Da vàng tuyệt đối không, dù bậc thầy, dù thiên tài. Như vậy cho hết thẩy mọi ngành, từ văn chương tới hội họa, từ sân khấu tới âm nhạc.
Nhận thức sáng suốt mà ở ngoài mọi ảo tưởng này, Võ Phiến đã có được và thật sớm. Trước chúng ta. [...]
Hoa Kỳ rộng rãi tiếp nhận tị nạn thế giới vào xứ sở mình. Đồng ý. Nhưng "nó" có tiếp nhận, mở đường, trải chiếu hoa, dâng đất đứng cho văn học nghệ thuật tị nạn hay không, đó lại là chuyện khác. Võ Phiến hiểu được rất rõ điều đó. Câu trả lời của ông là không. Cho những người làm văn học nghệ thuật ta tới đây, chưa tạo dựng nổi một tầm vóc với thiểu số mình đã vọng động vọng tưởng cho mình một tầm vóc quốc tế hư ảo lố bịch. [...] Là yếu tính của văn minh văn hóa Hoa Kỳ đã đặt định, bành trướng, tất cả được thi hành như một quốc sách Mỹ trước toàn cầu và trước mọi giòng văn hóa khác, in tuồng một sách lược chính trị, một kế hoạch kinh tế, vắn tắt một thế lực chinh phục. Chính sách ấy đã được tỏ hiện và khẳng định không che dấu, ngay từ lập quốc Mỹ. Bằng tinh thần nội dung bản hiến pháp Mỹ. Bằng tuyên cáo Jefferson. Bằng lập thuyết Roosevelt, bằng chủ thuyết Monroe. Bằng "lối sống" Mỹ, giá trị Mỹ trước sau được rao giảng truyền bá như mẫu mực cứu cánh của loài người, đang tiến chiếm thế giới như một ngọn triều ào ạt.
Tờ Văn Học Nghệ Thuật cho tới ngày đình bản cũng đã được Võ Phiến thực hiện từ nhận thức vừa nói."
Những dòng trên đây của Mai Thảo ghi nhận công lao của Võ Phiến đối với văn học Viện Nam hải ngoại có thể xem như một tuyên ngôn văn học chung của Võ Phiến và Mai Thảo.
Chỉ mình với mình thôi là một nhắn nhủ, tự nhủ âm thầm mà quyết liệt, không phải ai cũng nhận thức, ai cũng tiếp sóng, nhưng nó tiềm ẩn trong sáng tác như nét đặc thù của văn chương Việt ngoài nước: Niềm đau của họ không hoành tráng, khốc liệt như niềm đau phơi bầy của nhiều dân tộc khác, mặc dù cuộc đổi đời của họ không kém bi thiết, thương tang.
Về câu hỏi: Tại sao người Việt di tản không có "tác phẩm lớn" về cuộc vượt biển? Về tù cải tạo? Về việc thành lập cộng đồng lưu vong...? - Là có, nhưng cái "lớn lao" của người Việt không theo nghĩa thông thường: Họ đã xé nhỏ đau thương trong toàn bộ "cái viết": Từ cải tạo, đến vượt biên, vượt biển... nỗi đau của họ không bồng lên mưng mủ, nó tản mạn lưu vong khắp huyết quản, huyết cầu... Họ đã không bỏ qua một khía cạnh nhỏ nhoi nào, dưới nhiều hình thức viết: Từ nhật ký, thư riêng, đến hồi ký, tùy bút, thơ, phiếm luận, truyện ngắn, truyện dài... nếu ai có "can đảm" đọc lược qua toàn bộ tác phẩm của người Việt ở hải ngoại trong 25 năm nay, thì sẽ ghép được mảnh puzzle lớn lao về lịch sử, xã hội, chính trị Việt Nam trong cuộc dâu bể nửa thế kỷ này.
Cái lớn của họ là tích tiểu thành đại.
Tích tiểu mới là khó. Vì xưa nay, những "đại nạn" it khi trở thành một tác phẩm lớn.
Mỗi dân tộc có những niềm đau lớn khác nhau, do những nguyên do khác nhau. Không thể so sánh niềm đau diệt chủng của người Do Thái với niềm đau diệt chủng của người Khmer. Cũng không thể ví ngục tù Goulag Liên Xô với ngục tù cải tạo Việt Nam. Và cũng không thể đo thảm cảnh vượt biển của người Việt tỵ nạn với Exode khỏi Ai cập của người Do Thái cổ. Nhưng dường như ở mọi cực điểm của niềm đau, con người không có chữ để diễn tả: Niềm đau diệt chủng Do Thái và Khmer không có tác phẩm lớn. Exode Do Thái xưa và thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam nay: không có tác phẩm lớn, bởi đó là giới hạn của văn chương, thất bại của ngôn ngữ trước những tột độ trong cái sống và cái chết của con người.
*
Nói như vậy không có nghĩa là ở văn học hải ngoại, tất cả đều được. Tự bản chất nhược tiểu, nẩy sinh nhược điểm: làng xã. Dù thoát ra nước ngoài, người Việt vẫn không tẩy được bẩm sinh làng xã: Đọc nhau và viết cho hợp ý nhau. Từ đó thoát thai những tình trạng suy tôn cá nhân văn học không kém tai hại như sùng bái cá nhân chính trị. Bởi nó giới hạn tầm đọc tầm nhìn của độc giả trong một vài tên tuổi được tôn sùng trong quy tắc chính trị địa phương, khu vực. Ở khía cạnh này, văn học hải ngoại có những nét bảo thủ giống văn học chính thống trong nước: Ta đọc ta thôi. Người Việt hải ngoại không đọc hay không thích đọc những tác phẩm trong nước, nhất là...