Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Có một nền Văn Học Hải Ngoại?
oc huong
#1 Posted : Saturday, February 10, 2007 4:00:00 PM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Linh Vang:
Lại bàn chuyện viết lách. Anh bạn văn bảo, thế hệ sau anh, sau LV, ở hải ngoại, rồi sẽ chẳng còn ai đọc tiếng Việt nữa (chính tôi cũng thấy rõ là các em của tôi không nói và đọc tiếng Việt!). Người Việt viết văn, một là phải hòa nhập vào dòng văn học chính bản xứ, hay hai là phải quay lại mà hòa nhập vào dòng văn học ở trong nước. Có thể anh bi quan, nhưng sự thật là như thế. Sẽ không có một nền văn học hải ngoại. Trong nước, có 85 triệu dân, hải ngoại chỉ có 2 triệu dân. Chính những người trong nước mới là người viết văn học sử. Nhà văn, nhà thơ hải ngoại muốn được nhắc tới (trong văn học sử) thì phải viết cho người trong nước đọc.
Trái với anh, tôi tin là vẫn có một nền văn học hải ngoại, và không ai có thể chối bỏ điều này, nền văn học này sẽ đi song song với nền văn học trong nước. Độc giả trong nước rồi cũng có một ngày sẽ tò mò đọc văn của chúng ta. Chắc chắn đối với họ, sẽ khó hiểu lúc đầu, vì mình dùng từ miền Nam trước 75, lẫn pha trộn từ nước ngoài nơi miền đất mình đang sống, nhưng rồi họ sẽ quen. Như ngày trước, khi còn ở trong nưởc, ta đã thấy văn chương miền Lục Tỉnh thật lạ, hay người Huế viết văn Huế dùng những từ thật khó hiểu cho những độc giả không phải là người Huế. Nhưng những dòng văn này vẫn là sắc thái văn chương, vẫn là văn chương Việt Nam. Thế nên tôi vẫn lạc quan. Tôi vẫn tiếp tục viết bằng tíêng Việt. Ít ra viết cho chính thế hệ của tôi đọc, như thế cũng còn 20, 30 năm nữa chứ. Giả dụ mà đám con cháu tôi sẽ không đọc văn tôi.


Metamorgh:
Đừng bi quan. Tại sao ta phải viết để hội nhập với dòng văn học trong nước trong khi "sinh lý" của văn học là khi sung mãn, tự văn học phải phân thân, phải tách rời dòng mẹ để phát triển. Trong nước đang có những nỗ lực tìm những luồng sinh khí mới thổi vào cái bình lặng đến nhàm chán của một nền văn học đơn điệu, đầy tính công thức vì những áp đặt chính trị thì ta lại hoang mang rằng chúng ta hoài hơi làm cái công việc dã tràng.
Dĩ nhiên chúng ta đang cảm nhận có một sự kỳ thị văn học hải ngoại vì nó được chế độ nâng đỡ. Trong học đường, các em được nhồi sọ rằng chúng ta chỉ viết những thứ phản động. Trong nghệ thuật, có khuynh hướng cho rằng :
Họ, lớn lên nơi xứ người, không thể đại diện cho tâm lý người Việt trong nước. Cũng như chính công chúng của mình, họ phải chật vật lắm mới bảo tồn được ít vốn liếng tiếng Việt và số vốn cỏn con ấy khó mà đủ cho việc diễn đạt những ý tưởng nghệ thuật trong âm nhạc. Vì thế, nhạc của họ rất đơn giản, lời lẽ ít trau chuốt và thường chính ý tưởng cũng nghèo nàn. Khi nhập vai người xa xứ, họ cố dựng lên những tâm cảm thường là thiếu cơ sở và giả tạo. Đại thiên tài Quốc Bảo viết thế
Rồi đây, khi mỗi con người trong nước có được cái tư duy độc lập vì có nhiều dấu hiệu cho thấy như thế. Hậu thế sẽ đánh giá chúng ta không phải bằng những thành kiến do nhà nước xúi bẩy hay muốn đánh giá chúng ta, chúng phải đọc những lời lẽ chia rẽ nham hiểm, nông cạn của thiên tài Quốc Bảo, mà là nhìn chúng ta bằng cặp mắt tinh khôi của lòng yêu chuộng nghệ thuật, vốn có trong mỗi con người khi chưa bị ý thức hệ làm thui chột.
Đã có những công trình tìm hiểu về văn hóa cồng chiêng, về ca trù thì tại sao lại sợ văn học hải ngoại, đang dậy thì, chưa bước sang giai đoạn già lão, lại chìm vào quên lãng. Vững tin và hãy đóng góp bằng hết sức mình, nhiên hậu thế hệ sau sẽ dấn bước mạnh dạn nhờ vào cái hành trang chúng ta để lại. Một lão tùng cho dù bị đốn ngã, cũng có thể đẽo thành cái thuyền để qua sông. Một công trình nhỏ nhoi của chúng ta cho dù sẽ chìm vào quên lãng (điều này rất khó xẩy ra.), nó đã một thời là những sợi máu hồng li ti trên đôi má nàng văn học hải ngoại và là những hành lý, thực phẩm độ đường cho các thằng Andy, con Jenifer...trên con đường tri thức mai hậu.


Ốc Hương:
Có một điều chắc chắn là những cây viết hải ngọai viết vì yêu nghệ thuật, trân trọng chữ nghĩa, không biết bẻ ngòi bút để làm bước tiến thân hay kiếm lợi tức.
OH tin vào nền văn học hải ngọai và sự tiến hóa của nó. Nếu chúng ta đọc lại những tác phẩm ở hải ngọai trong giai đoạn 1975 - 1980, rồi 90, rồi 2000, rồi bây giờ, chúng ta sẽ nhận ra được diễn tiến tâm tư, nếp sống cũng như tầm nhìn người Việt hải ngọai.

OH không đặt nặng vấn đề hội nhập vào nền văn học quốc nội, nhưng tin chắc là trong tương lai, nhũng người viết tiếp trang văn học sử, những người có tư duy độc lập sẽ không bao giờ quên những công trình góp phần làm giàu cuốn sách văn học sử nước nhà của dòng văn chương hải ngoại.
OH


Phượng Các:
Hòa nhập nghĩa là sao? Các nhà văn viết tiếng Anh là do họ lớn lên ở Mỹ, họ quen thuộc với tiếng Anh và lối nghĩ của dân Mỹ, thị trường tiếng Anh ngon lành hơn nhiều! Nếu họ viết được là họ đã viết rồi, còn chọn lựa gì nữa!
Còn quay lại với dòng văn học trong nước là sao? Viết theo chế độ CS để được cái giấy phép xuất bản ở trong nước chăng? Nếu vậy là tự mình xác định vai trò của cây viết của mình rồi.... Tôi thấy con số ấn bản được xb ở VN chỉ trung bình là 1000 quyển, nghĩa là không hơn con số ở ngòai nước (trong một thị trường 80 triệu dân). Trừ phi là nhà xb họ ghi như vậy để trả tiền tác quyền ít hơn hay để qua mặt nhà nước, còn thì họ in chui thêm để kiếm lời, chớ nếu thị trường như vậy mà phải về nước để có sách được in ra thì liệu có đáng hay không.


Ốc Hương:
Đã có một số cây viết hải ngoại "khá lớn" chọn hướng đi này, sách họ được in ở Việt Nam. Họ không viết theo chế độ cộng sản nhưng họ tránh đụng chạm đến cộng đồng người Việt Hải Ngoại, cả tiêu cực lẫn tích cực. Họ xác định vai trò cuả ngòi viết mình ngay từ đầu. Người đọc nhận ra ngay. Nhưng đó vẫn là văn chương hải ngoại bởi ngôn từ và nội dung.
Theo OH nhận thấy, giới trẻ quốc nội (không nhiều) có xu hướng muốn tìm hiểu đời sống cộng đồng người Việt hải ngoại bằng cách tìm đọc các cây viết hải ngoại. Như vậy hy vọng đó là một cách tô đậm vai trò của dòng văn chương hải ngoại, sắc thái văn chương hải ngoại.

Còn như ai đó nói rằng ngôn từ của các cây viết hải ngoại khó hiểu đối với đồng bào trong nước thì OH không đồng ý vì như vậy là đánh giá thấp trình độ "tiêu thụ" của độc giả.
OH


Hoa Xương Rồng:
Theo tôi nghĩ sớm hay muộn văn học va giáo dục ở VN sè thay đổi rất nhiều nếu giới lãnh đạo có trình độ hoc vấn. Còn các nhà văn hải ngoại viết dươi nhiều thể loại, không nhất thiết phải liên quan đến chính trị. Đang nhiên văn chương hải ngoại quan trọng hơn bao giờ hết vì chưa bao giờ có một quốc gia như Viet Nam có hơn 2 triệu người sống trên toàn thế giới. Sự hiểu biết của chúng ta là một kho tàng cho con em ở Vietnam. Tự do viết, không lệ thuộc bất cứ ai, văn chương đó là tuyệt vời. Người Việt trong nước sớm hay muộn phải theo trào lưu văn học hải ngoại khi nền giáo dục đi đúng đường lối. Chiến tranh đã qua, Việt Cộng viết theo chiều hướng có tính cách quá khích, tuyên truyền, tẩm độc giớì trẻ bằng các thuật cũ kỹ như miệt thị, dè bửu chê bai Viêt Kiêu trong quá khứ nay đà thay đổi rất nhiều. Chúng ta nên nhớ, lý do nào các bạn sống ở xứ người. Nê'u có chút lương tâm người cầm bút không vì một lý do gì khòm lưng đối với Viet Cong. Nên nhớ Viet Nam bây giờ vẫn là một xã hội chủ nghĩa có nghĩa là VN vẫn là Cộng Sản và Đảng trị. Nếu người viết ham danh vọng quên những đau khổ của nửa triệu người chết vi vuợt biển họ có lỗi với các hồn ma yểu mệnh trên đường tìm tự do. Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách, đà cầm viết mà sợ khkông có người đọc phải lén lút, phải chối bỏ những gì muốn viết thật đáng ghê tởm. Tôi quan niệm người cầm bút cần viết hay viết giỏi và thật lòng với chữ nghĩa. Các nhà văn Mỹ hay các nước âu châu, viết đối với họ là một nhu cầu, một đam mê, một tấm lòng với các con chữ chứ họ không nghĩ đến người đoc vì mỗi tác phẩm chào đời có riệng định mệnh của nó. IHXR


oc huong
#2 Posted : Saturday, February 10, 2007 4:37:52 PM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Thụy Khuê

Thử tìm một lối tiếp cận văn sử học về

Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000




Hai mươi nhăm năm. Một phần tư thế kỷ. Khi nhìn lại chặng đường vừa qua của văn học Việt Nam, người ta nhận thấy do một tình cờ, một định mệnh hay một thần giao cách cảm nào đó, dòng văn học của người Việt sống ở nước ngoài có những lưu lượng ghềnh thác, chung nhịp với dòng văn học đổi mới ở trong nước.

Cùng chung thời kỳ phôi thai những năm 78-79, khi ở ngoài nước, những tờ Đất Mới của Thanh Nam, Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan, và Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiến, Lê Tất Điều bắt đầu khởi sắc những năm 77-78, thì ở trong nước, tháng 11/1978 trên báo Văn Nghệ Quân Đội có bài viết tựa đề Viết Về Chiến Tranh của Nguyễn Minh Châu, ngụ ý phê bình nền văn học miền Bắc trước 75 và Việt Nam sau 75, chưa có tiểu thuyết thực sự về chiến tranh. Rồi ngày 9/6/1979, trên tờ Văn Nghệ số 23, Hoàng Ngọc Hiến có bài triết luận tựa đề Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua, chứng minh tính cách phải đạo của nền văn học trong nước. Hai tiểu luận này được coi là những bài viết khai quang cho nền văn học đổi mới trong nước.

Cả hai dòng văn học hải ngoại và đổi mới cùng phát triển mạnh mẽ những năm 86-88, với số tác giả và tác phẩm cao nhất về phẩm cũng như về lượng. Rồi cùng trầm lắng xuống, từ năm 90 trở đi, với những lý do hoàn toàn khác nhau, nhưng ít nhiều, cả hai đã tìm cách giao lưu âm thầm với nhau, để hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài, trong sự cảm thông giữa những người cầm bút.
Tính chất giao lưu này đã khiến cho một số tác giả gặp khó khăn in ấn trong nước, có thể thấy tác phẩm của mình ra đời ở nước ngoài. Rồi những tác phẩm hải ngoại, cũng được chuyền "chui" về nước, theo một hệ thống đường ngầm mà chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát hết được. Người trong nước đã có thể lỗ mỗ tiếp nhận văn học hải ngoại như lời Nguyễn Huệ Chi. Từ sự tiếp nhận lỗ mỗ ấy, thoát thai những bài viết "nhận diện" văn học Việt Nam hải ngoại, khá nghiêm chỉnh, như bài của Lê Hoài Nguyên, tựa đề Một cái nhìn mười tám năm văn học Việt Nam ngoài nước, mô tả và đưa ra những nhận định khá sát với thực tế văn học Việt ngoài nước. Sáu tháng sau, Nguyễn Huệ Chi viết bài Vài cảm nhận văn học Việt Nam hải ngoại trong chiều hướng hòa hợp dân tộc, giới thiệu một số tác phẩm ngoài nước dưới nhãn quan đứng đắn của người nghiên cứu phê bình, không phân biệt lằn ranh địa lý, chính trị.
Ở Phạm Xuân Nguyên, sự giao lưu trở thành một đòi hỏi có tính quyết liệt để Hình dung một bức tranh hoàn chỉnh về văn học dân tộc. Phạm Xuân Nguyên chỉ trích quan niệm lỗi thời, đơn nhất về nền văn học cách mạng, văn học miền Bắc, và biện minh cho một cái nhìn toàn diện và đa hợp về văn học Việt Nam trong thế kỷ này.
Đó là thời điểm 93, 94, 95 một số nhà biên khảo đứng đắn đã có thể bầy tỏ công khai những nhận định của mình về văn học ngoài nước, về sự kết hợp một nền văn học Việt Nam hoàn chỉnh, có nhiều nhánh, không phân biệt ranh giới Bắc Nam, trong ngoài.
Những năm gần đây, nếu căn cứ vào một số bài viết trên các báo chính thức ở trong nước, tình hình có vẻ xấu đi. Bài viết Nhận diện văn học hải ngoại của Hoàng Huân, được giải thưởng phê bình văn học năm 98 của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, chứng minh cái nhìn phiến diện và hằn học đối với văn học hải ngoại của lăng kính chính thức ngày nay. Tất nhiên, những bài báo kém phẩm chất, tự nó sẽ bị đào thải, nhưng nó chứng tỏ một đường lối chính quy không tốt đối với văn nghệ mà ký ức văn học ít khi bỏ qua. Tất nhiên người ta có thể ghi nhận những tiến triển qua việc cho in một vài tác phẩm hiền lành của người viết ở hải ngoại như Ký sự đi Tây của Đỗ Khiêm, Tuyển tập những nhà văn nữ..., và mới đây, Sông Côn mùa lũ, bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử về anh em Tây Sơn của Nguyễn Mộng Giác. Nhưng điều đó không khỏa lấp câu hỏi: Tại sao, một phần tư thế kỷ sau ngày hợp nhất đất nước, những tờ báo có tính cách thuần túy văn học như Văn,VănHọc, Hợp Lưu, Tạp Chí Thơ, Việt, v.v... vẫn chưa được công khai có mặt trong nước? Tại sao những tác phẩm tiêu biểu của văn học hải ngoại vẫn chưa được lưu hành trong nước? Ví dụ trường hợp nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác phẩm chủ yếu của ông là bộ Mùa Biển Động. Bộ trường thiên này đã phản ảnh được xã hội và tâm trạng người miền Nam, ít nhất trong thành phần trung lưu, trí thức thành thị. Đây là một trong những tác phẩm có thể giúp người đọc trong nước, nhất là người đọc miền Bắc, hiểu được phần nào nếp sống tinh thần và vật chất của người miền Nam trong chiến tranh. Và có lẽ chỉ có sự tìm hiểu về nhau giữa đôi bên sau khi cuộc chiến chấm dứt, xuyên qua tác phẩm văn học, mới có thể đưa đến một sự hòa hợp sâu xa. Văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ sự thật, có khả năng hòa giải hữu hiệu hơn bất cứ bài thuyết luận nào.

*

Danh xưng

Có nhiều ý kiến khác nhau về danh xưng, nên gọi là văn học hải ngoại, ngoài nước hay lưu vong? Bùi Vĩnh Phúc đưa ra một phân tích đặc sắc, ông cho rằng: Hai chữ Hán Việt hải ngoại không sát nghĩa bằng hai chữ thuần Việt ngoài nước. Vì hải ngoại chỉ có nghĩa là ngoài biển, trong khi ngoài nước có nghĩa là ngoài nước Việt Nam.
Theo ông, chữ nước ở đây không phải là hải (là thủy) mà là quốc. Vậy muốn diễn tả đúng ý ngoài nước Việt Nam thì tiếng Hán Việt phải dùng là quốc ngoại chứ không phải là hải ngoại. Nhưng vẫn theo ông, âm vang của từ ngoài nước làm ta cảm thấy gần gũi với đất nước và người Việt hơn là khi dùng từ quốc ngoại..
Sự phân tích của Bùi Vĩnh Phúc khá cặn kẽ và sâu sắc, nhưng chúng tôi xin nêu thêm một ý khác: Chữ nước trong danh từ đất nước của chúng ta, có hàm nghĩa nước là thủy, như nước sông, nước biển, mà chữ quốc của người Trung Hoa không có. Và có lẽ ít ngôn ngữ nào trên thế giới diễn tả được hình ảnh đất nước với hai yếu tố xương thịt cơ bản tác thành nên nó: đất và nước như tiếng Việt. Nếu không có đất và không có nước thì không có sự sống, không có vật và người. Hai yếu tố cơ bản này, đất-nước gắn bó với xác thịt và linh hồn dân tộc, đã được Bình Nguyên Lộc trải, bầy, đúc, tả trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ngoài ra nước biển còn có liên hệ tử sinh với người vượt biển, thành phần chủ chốt của văn học Việt Nam hải ngoại.
Vậy nước trong chữ hải (biển) cũng là thành tố của đất nước. Và hải ngoại chỉ là một cách nói khác, để chỉ những gì ngoài đất nước. Do đó hải ngoại và ngoài nước là những từ tương đương.

Lưu vong vừa là một tình trạng (người bị xa nước), vừa là một tâm trạng (nhớ nước). Có người không xa nước nhưng vẫn nhớ nước như Bà Huyện Thanh Quan. Từ tâm trạng nhớ nước xẩy ra hành động hướng về đất nước dưới nhiều hình thức, trong đó có sinh hoạt văn chương: Viết bằng tiếng Việt. Như vậy, lưu vong là động cơ thúc đẩy con người hướng về nước, nhưng trong văn học tính chất lưu vong chỉ là một biệt cách của mỗi tác giả:
- Lưu vong, theo nghĩa đối kháng chính quyền xuất hiện trong những hồi ký chính trị, cải tạo. (Ở đây chúng tôi không bàn đến những tác phẩm ca tụng chính quyền vì đó không phải là văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ tự do và sự thật).
- Lưu vong, theo nghĩa nhớ nước: Sâu sắc trong thơ Phạm Tăng, trong văn Võ Đình, khơi động ở thời kỳ đầu, qua những tác phẩm như Đất Khách của Thanh Nam, Thơ Cao Tần, v.v... Càng về sau càng dịu đi, nhường chỗ cho tính chất hội nhập và hòa hợp.
Truyền thống văn học lưu vong, khởi sinh từ những năm đầu thế kỷ, khi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, từ hải ngoại gửi những tâm văn, huyết thư về nước. Tiếp nối truyền thống ái quốc lưu vong là dòng nghệ thuật thuần túy những năm 30, khi các họa sĩ đầu tiên của Việt Nam như Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Lê Thị Lựu... xuất dương và định cư tại Pháp.
Sau họ là lớp thứ nhì, với những tên tuổi như Lê Bá Đảng, Võ Đình, Phạm Tăng, v.v... cùng thời với những nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, Trương Đình Hòe v.v...
Tất cả những lớp người đi trước này là tiền thân của văn học nghệ thuật Việt Nam hải ngoại hôm nay. Cho nên khi gói trọn văn học Việt Nam hải ngoại trong phạm vi những tác phẩm của người Việt di tản, chúng ta dễ bị sa vào những lấn cấn, ngộ nghĩnh buồn cười: Ví dụ như việc cãi vã về Phạm Thị Hoài, có nên "cho" Phạm Thị Hoài vào văn học Việt Nam hải ngoại hay không?
Thật ra vấn đề rất đơn giản: Phạm Thị Hoài là nhà văn Việt Nam, với những tác phẩm viết và in trong nước và những tác phẩm viết và in ngoài nước, cũng như Võ Phiến, Mai Thảo, Nhật Tiến, v.v... Khi muốn phân chia theo địa lý văn học thì phần viết và in ở nước ngoài của họ thuộc về văn học hải ngoại.


Picasso, dù xây dựng toàn bộ sự nghiệp hội họa ở Paris, nhưng đối với quốc tế, ông vẫn là họa sĩ Tây Ban Nha. Xem như thế, nguồn gốc quan trọng nhường nào.
Nabokov đi lưu vong, mang theo linh hồn và văn hóa Nga trên đất Mỹ, Pháp, rồi Thụy Sĩ... nhưng ông không được ghi nhận như nhà văn Nga mà là nhà văn Mỹ, gốc Nga, bởi vì tác phẩm của ông, phần lớn viết bằng tiếng Mỹ. Do đó, ngôn ngữ thiết yếu đến đâu.
Nguồn gốc và ngôn ngữ là hai yếu tố xác định "quốc tịch" nghệ thuật, dù biết rằng nghệ thuật không có và không cần quốc tịch. Riêng đối với văn chương, thì ngôn ngữ là yếu tố xác định. Những phần tử như địa lý, chính trị,... chỉ là những tiết tố có thể có ảnh hưởng đến bản chất nghệ thuật và tư tưởng của tác giả.

Văn học Việt Nam hải ngoại được hình thành ở thời điểm nào?

Báo chí là khởi điểm cho sự đọc, sự viết, cho một đời sống tinh thần. Ngay từ khi còn ở đảo Guam hoặc mới bước chân lên những trại tỵ nạn đầu tiên trên đất Mỹ, người Việt đã có báo. Minh Đức Hoài Trinh, trên báo Hồn Việt Nam, số 1, phát hành tại Paris ngày 15/10/1975, nhắc đến chuyện đã "đọc báo Chân Trời Mới ở các trại như Pendleton, Guam, Asan vào giai đoạn đầu của cuộc ly hành mùa xuân Ất Mão", và bà còn cho biết "theo báo Đất Mới: Một nhóm các người làm báo ở Hoa Thịnh Đốn đang thành lập một ủy ban để giúp các người làm báo Việt Nam tìm người bảo trợ và công việc làm ăn tại Hoa Kỳ."
Võ Phiến, trong bài Xuất Trại nhắc nhở đến tờ "Đất Lành cuối tháng 8-75, liên tiếp mấy số liền, có những bài đăng ở trang nhất, cố gắng giải thích, khuyên nhủ, dỗ dành, mỉa mai, rồi... hăm dọa, nhằm thúc đẩy dân tỵ nạn mạnh dạn ra đi lập lại cuộc đời mới."
Từ những Chân Trời Mới, những Đất Lành, ... người Việt đã thành lập những tờ báo có tính chất văn học nghệ thuật. Nhìn lại giai đoạn tiên khởi này, những tờ báo có khuynh hướng văn học nghệ thuật xuất hiện sớm nhất ở hải ngoại có thể là:
- Nguyệt san Hồn Việt Nam của Minh Đức Hoài Trinh, số 1 ra ngày 15/10/1975 ở Paris, số chót Xuân Mậu Ngọ 1978.
- Báo Quê Mẹ của Võ Văn ÿi ở Paris, số 1 đầu năm 76, chuyên về văn học nghệ thuật. Sau đó ngừng. Tiếp theo là tạp chí Quê Mẹ, chuyên về thời sự, chính trị, đấu tranh, có thêm trang văn học.
- Báo Quê Hương của Du Tử Lê, Đinh Thạch Bích, Võ Văn Hà, Phạm Cao Dương ở Costa Mesa, đầu năm 76, ra được ba số thì đình bản. Sau đó Du Tử Lê chủ thương tờ Nhân Chứng. Nhân Chứng tồn tại được hai năm, ra khoảng 20 số.
- Báo Đất Mới với Huy Quang Vũ Đức Vinh, Nguyễn Văn Giang là một trong những tờ báo đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ từ tháng 7/75. Đến tháng 4/76, Thanh Nam được mời cộng tác. Rồi từ 79 đến 81 có thêm Mai Thảo.
- Báo Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan ở San Diego, ra đời đầu năm 76 mà số Xuân Đinh Tỵ (1977) đã có đầy đủ tư thế của một tờ văn học nghệ thuật với sự đóng góp bài vở của Lê Tất Điều, Võ Phiến, Thanh Nam, Tạ Ký, Nhất Tuấn, Cung Tiến, Nguyên Sa, Túy Hồng...
- Võ Phiến ở Santa Monica và Lê Tất Điều ở San Diego cho xuất bản nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật từ tháng 4 năm 1978, ra được 13 số thì đóng cửa vào tháng 9/1979. Tái bản bộ mới số 1, tháng 5/85 đến tháng 12/86 đình bản, trao lại cho Nguyễn Mộng Giác đổi thành Văn Học.
- Tờ Việt Chiến do Giang Hữu Tuyên, Hoàng Xuân Sơn và Ngô Vương Toại chủ trương ở Hoa Thịnh Đốn.
- Cùng thời điểm này, Đỗ Ngọc Yến sáng lập tờ Người Việt, số báo đầu tiên phát hành tháng 12/78 ở quận Cam, California. Người Việt là tờ thông tin nghị luận, mới đầu là báo hàng tuần, sau trở thành báo hàng ngày, có nhiều độc giả nhất trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và là cơ sở nuôi sống nhiều nhà văn, nhà báo.

Đó là sơ lược một số báo đã hiện diện trong những ngày đầu, cho phép người viết trụ lại để tạo thành bộ mặt văn học hải ngoại.

*
Những hướng đi đầu tiên: Báo Hồn Việt Nam và những biến chuyển từ 30/4/75 đến cuối năm 76

Trong con số ước lượng 130000 người Việt rời nước ở thời điểm 30/4, những văn nghệ sĩ ra đi sớm nhất có thể là nhóm Võ Phiến, Lê Tất Điều, Thanh Nam, Túy Hồng, Viên Linh, Vũ Huyến,... nhân viên của đài phát thanh Mẹ Việt Nam, được đưa ra Phú Quốc ngay từ 21/4/75 để chờ tầu Mỹ tới "bốc". Minh Đức Hoài Trinh cũng đi trước 30/4 để tham dự hội thảo ở Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân về đề tài gia tài văn hóa của Đông Nam ÿ. Ngoài ra, những tên tuổi như Phạm Duy, Hoài Trung, Nguyễn Khắc Ngữ, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Cao Văn Luận, Thái Văn Kiểm, Chu Tử, Du Tử Lê, Cao Tiêu, Duy Thanh, Đỗ Quý Toàn, Hà Huyền Chi, Trùng Dương, Phan Lạc Tiếp, Nhất Tuấn... cũng đều rời nước ở thời điểm 30/4.

Hồn Việt Nam, với tiêu đề chính "văn hóa và dân tộc" và với mục đích "cơ quan thông tin giữa người trong và ngoài nước", in ngay dưới tên tờ báo, nói rõ hướng đi của người chủ trương: Minh Đức Hoài Trinh. Tuy chỉ là tờ báo in ronéo, 3 số đầu có 17 trang, sau tăng lên 30 trang, và có lẽ ngày nay không mấy người biết đến; nhưng nội dung, tinh thần và những biến chuyển của Hồn Việt Nam, lại gần gụi với tâm trạng của người Việt hải ngoại lúc bấy giờ.
Sau ngày 30/4, tinh thần chống Cộng chưa xuất hiện mà ngược lại, tinh thần hòa giải Bắc Nam có phần ưu thế. Mọi người tiếp nhận biến cố 30/4 như một biến chuyển lớn lao, còn ngơ ngác, không biết nên vui hay nên buồn: Vui vì đất nước hết chiến tranh. Buồn vì phải chia lìa, ly tán. Minh Đức Hoài Trinh đã thể hiện khá chính xác, hiện tình ấy trong bài viết mở đầu:
"Trước những biến chuyển của đất nước, trước những vui buồn, những ngơ ngác, hân hoan của mỗi người, trước những đau khổ, nhục nhã của cuộc ly hành, chúng tôi có bổn phận phải làm gì để chia sẻ." Và Hồn Việt Nam muốn "trở thành mối liên lạc giữa kẻ ở với người đi".
Trong "bức thư" gửi độc giả Bách Khoa, hàng tháng, Minh Đức Hoài Trinh bày tỏ ước muốn tiếp tục công việc của "anh chị Châu", làm một thứ Bách Khoa thu nhỏ, với tất cả những khó khăn, giới hạn, nghèo nàn về người viết cũng như tìm tiền để in báo.
Nội dung, ngoài sáng tác, có bốn mục chính: Mỗi tháng đều có bài viết nhắn nhủ người Việt đừng để cho con em quên tiếng Việt. Một bài biên khảo đứng đắn về văn hóa của Hoằng Đạo. Một bài viết khá kỹ, giới thiệu các danh nhân Việt Nam do Giao Trinh phụ trách. và Mục thông tin, liên lạc tin tức giữa người Việt trong và ngoài nước. Tuy tờ báo do gia đình Minh Đức Hoài Trinh đảm nhiệm (với Triều Dương và Giao Trinh) nhưng dù dưới hình thức thô sơ, nghèo nàn, nội dung của nó vượt khỏi phạm vi gia đình, rộng hơn tính cách cộng đồng, để đến với "văn hóa và dân tộc".
Ở chính chỗ không ngờ nhất, mục Tin tức và Nhắn tin trên báo Hồn Việt Nam vừa phản ánh vừa tạo dựng những chuyển biến trong tâm cảm người Việt ở nước ngoài, ít ra là ở Pháp.
Sau ngày 30/4, những thông tin trong nước gửi ra rất hiếm. Và Paris là phần đất ưu tiên tiếp nhận những nguồn tin hiếm hoi từ Việt Nam. Rồi từ Paris, tin tức được chuyển đi Hoa Kỳ và khắp nơi.
Độc giả đọc được ngay trên số đầu của Hồn Việt Nam, tháng 10/75, những tin tức như:
"Thái Thanh, Mai Thảo, Hoài Bắc không đi, chỉ có Hoài Trung và gia đình Phạm Duy ở Hoa Kỳ."
"Nhà văn Lê Tất Điều gửi xin anh em có ai còn giữ được mấy quyển sách của Điều, xin gửi cho mượn để chép tay."
Trong số báo thứ nhì, có thư của một độc giả trả lời, giữ trọn bộ sách của Lê Tất Điều. Và trong Hồn Việt Nam, số 3, ngày 15/11/75, bài Thư bạn của Lê tất Điều gửi Minh Đức Hoài Trinh, có những câu:
"Ôi! Chữ Việt Nam ta bây giờ quý lắm, kể cả chữ nghĩa viết thư, không thể để chúng lưu lạc được. Bạn có tin gì về N.T. (Nhật Tiến) không? [..] Điều mình ước mong được biết là tin tức mọi người. Bây giờ thì không thể viết gì được nữa ngoài việc lâu lâu thảo vài hàng thư thăm bạn bè [...]
Đời sống hiện tại khá đầy đủ. Cái mà mình thiếu bây giờ là những khuôn mặt của bạn bè, những con đường cũ của mấy chục năm cũ. Lắm lúc nhớ nhà, nhớ Sàigòn, nhớ Đà Lạt muốn phát điên [...]
Rất mừng thấy bạn còn viết được, còn làm báo được. Đọc mục Nhắn tin của Hồn Việt Nam khi nào cũng cảm động [...]
Về phương diện văn nghệ, bạn hãy coi tôi như người bỏ đi. Bây giờ chỉ thèm được đọc."
Đó là tâm sự của Lê Tất Điều vào cuối tháng 10/75. Những "tin tức" ngắn ngủi ấy, chứa đựng những "nội dung" mà ít bài văn, bài thơ nào chuyên tải được.
Rồi tiếp nối tin: Ba trại Pennsylvania, Florida và California đóng cửa trong tháng 10/75. Tháng 12/75 có gần 3000 người tỵ nạn xin hồi hương. Trại tỵ nạn cuối cùng, Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, đóng cửa trước Giáng Sinh năm 75. Cuối năm 75, đường phố Sàigòn phải đổi tên. Đầu năm 76 "báo chí Việt Nam tại hải ngoại ra đời như bươm bướm". Giữa tháng 2/76: "Nghĩa trang quân đội có bảng ghi ở bên ngoài: Đây là nơi an nghỉ của những đứa con phản quốc." Tháng 3/76, xuất hiện những tin đầu tiên về người vượt biển: Tới cuối tháng 11/75 còn nhiều gia đình trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền nhỏ. Sau Tết Nguyên Đán 76: những công chức, quân nhân chế độ cũ đều chưa được thả về từ các trại cải huấn. Mặc dù họ được báo trước dự trù cải tạo một tuần hay một tháng.
Ngày 15/5/76, Hồn Việt Nam ra số kỷ niệm ngày đệ nhất chu niên ngày "Ly Hành". Đây là "số đặc biệt", "số kỷ niệm để đánh dấu một ngày, không biết nên gọi là gì? Buồn? Vui?" Nhưng dường như khát vọng hòa bình vẫn muốn quạt trôi những tin tức bi quan táp đến. Minh Đức Hoài Trinh cho in bài thơ "Chiến tranh hết rồi" làm tại Paris năm 74, với những tín hiệu khép kín vết thương chiến tranh, mở ra một trang hòa bình:

Và xác chết xác chết khỏi trừng trừng mở mắt
Nuối cuộc đời, tiếc kỷ niệm đau thương
Ngậm căm hờn nghe máu hòa trong đất
Thân vẹn toàn không từng mảnh thịt xương
......
Sông núi ơi! Vùng lên mà ca hát
Khúc thanh bình gào đến tận muôn phương
Hiền cỏ cây nghiêng đầu ru gió mát
Dưới mặt trời, gỗ đá cũng yêu đương.

Tháng7/76: Trong Hồn Việt Nam số 10, có bài viết về cái chết tự tuẫn của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Có tin Vũ Hoàng Chương phải đi học tập. Giọng văn của tờ báo, lần đầu tiên, có vẻ châm biếm nhà nước. Tháng 8 và 9/76 trở đi, tình hình trầm trọng hơn: Ủy Ban Vận Động Cứu Trợ Những Người Việt Nam Trên Đường Tỵ Nạn ra đời tại Hoa Thịnh Đốn, thông báo: Số người vượt biển ra đi chỉ sống sót khoảng 35%, vì tầu ngoại quốc không chịu vớt và láng giềng xua đuổi không cho lên bờ.

Những người vượt biển đầu tiên tới Pháp, cho biết hiện tình trong nước: "Họ có thể đột nhập vào bất cứ nhà ai, bất cứ nơi nào và lúc nào."
Theo tin BBC, mỗi tháng ước lượng có khoảng 200 người trốn khỏi Việt Nam. Tháng 10 năm 76: Doãn Quốc Sỹ bị bắt. Vũ Hoàng Chương từ trần. Tháng 11/76: Nhà xuất bản Lá Bối tái hiện ở Paris với bức tâm thư "Tiếng Chim Gọi Đàn" gửi các văn nghệ sĩ và học giả, yêu cầu gửi bản thảo, Lá Bối sẽ xuất bản. Đây là nhà xuất bản đầu tiên hoạt động tại hải ngoại theo đúng quy ước in sách mới, không sao chụp sách cũ như Đại Nam, Xuân Thu, Sóng Mới, v.v...

Tháng 11/76, trong Hồn Việt Nam số 14, Minh Đức Hoài Trinh "viết cho một người nằm xuống " là Vũ Hoàng Chương và mặc niệm cho tình hình trong nước: "Chưa thấy một ánh sáng nào mà chỉ thấy bóng tối càng ngày càng phủ dầy. Trên lãnh vực văn nghệ sĩ thật đáng thương [...] chỉ có văn bộc mới sống nổi, những kẻ chân chính đều bị tiêu diệt hoặc tự tiêu diệt."

Giữa năm 77, Hoà Thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo loan báo: Chính quyền bắt giam 6 vị thượng tọa, đại đức trong ban quản trị Viện Hóa Đạo. Việc đốt sách, đốt bản thảo... gia tăng. Tháng 10/77, Hồn Việt Nam ra bộ mới, chuyển hướng sang đấu tranh chính trị, với một ban biên tập mới, ngoài Minh Đức Hoài Trinh có Trần Tam Tiệp, Phạm Hữu, Vũ Phong. Trên báo xuất hiện những từ "phục quốc, nội công, ngoại kích, mất nước". Và lá thư tòa soạn có những câu:

"Quê hương Việt Nam đang sống trong đau khổ, uất hẹn, tủi nhục, người Việt tha hương không thể thụ động khoanh tay, cúi đầu."

Tờ báo chính trị cũng chỉ sống được 4 tháng rồi đình bản. Có thể nó đã không phù hợp với tinh thần văn hóa và dân tộc của người sáng lập. Nhưng cuộc đời ngắn ngủi của nó (từ tháng 10/75 đến tháng 10/77) trong 2 năm, đã báo động và phản ảnh những biến đổi tâm thức của người Việt hải ngoại: Từ ý hướng hòa hợp dân tộc, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, chuyển sang thái độ trực diện, đối đầu.

*
Tâm thức hòa hợp dân tộc và xây dựng đời sống mới.

Không chỉ ở Minh Đức Hoài Trinh mà có lẽ đó là tâm thức chung của người Việt sau 30/4: Tin tưởng ở người Việt. Miền Nam chấp nhận thua trận và có ý hướng cộng tác. Hồi ký Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo mô tả giai đoạn đầu tiên, sau ngày tiếp quản Sàigòn, chương trình "học tập cải tạo" được tiếp nhận một cách lạc quan và nhanh chóng như sự tiếp thu những từ mới: Mỹ Ngụy, cách mạng, giải phóng, hồ hỡi phấn khởi, đạt yêu cầu, đăng ký, thu hoạch, v.v... Người Việt miền Nam tự xưng mình là "ngụy" và nói về "cách mạng", về "giải phóng" như thật. Một người vừa vượt biển, trả lời phỏng vấn báo Hồn Việt Nam, dù đã tới Paris, vẫn còn lập đi lập lại: Ngày xưa ngụy nó... thế này, thế kia, v.v...
Sự thay đổi ngôn từ chứng tỏ tính chất mềm dẻo, lau sậy của người dân nhưng không phải là không ẩn dấu một hình thức chấp nhận và hội nhập, dù chỉ một chiều. Trong Đáy Địa Ngục, Tạ Tỵ kể chuyện một thương phế binh cụt chân, nhất quyết ghi tên đi học tập. Cán bộ trả lời:
"Thôi, cho anh về, chờ khóa sau. Anh tàn tật vậy, chúng tôi sẽ cấp giấy chứng nhận được hoãn.
- Dạ, xin cho tôi được đăng ký học khóa này. Trước, sau cũng phải học. Một lần cho xong, để yên tâm làm ăn."
Và Tạ Tỵ đưa ra lập luận của ông, và có lẽ cũng là lập luận chung của những người đi học tập lúc đầu: "Một khi đã phục tùng, chắc họ sẽ sẵn sàng theo đúng chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc để cùng xây dựng lại đất nước sau mấy chục năm dài chinh chiến." (trang 55)
Báo chí xuất hiện trong giai đoạn đầu, mang hai loại tên: Khuynh hướng tại ngoại tin tưởng với Chân Trời Mới, Đất Lành, Đất Mới... khuynh hướng vọng về đất nước như Hồn Việt Nam, Hồn Việt, Quê Hương, Quê Mẹ, Người Việt... Cả hai khuynh hướng đều có ít nhiều lạc quan: Báo Quê Mẹ ở Paris, số đầu, bài vở chuyên về văn học nghệ thuật trong chiều hướng chào mừng hòa bình và thống nhất đất nước. Võ Phiến nói đến tâm trạng "kẻ vui gượng ở ngoài nước chẳng nên dài lời mà chi đối với cái vui gượng của người ở trong nước" trong bài Vui Gượng, đăng trên Hồn Việt, Xuân Đinh Tỵ 1977.
Thanh Nam, để kỷ niệm một năm ngày 30/4 có những câu thơ:

Về đây chung phận chung đời
Chung tay tiếp lửa đẩy lùi bóng đêm
Thôi, chào quá khứ ngủ yên
Những đau thương cũ vùi quên cuối trời.
(Buổi Đầu, Seatle 30/4/76, trong tập Đất Khách)

Nhưng tâm thức hòa hợp hay niềm lạc quan xây dựng đời sống mới không được lâu bền. Lưu đầy Đất Khách và thực tại Quê Hương đã khiến Thanh Nam, 1982 -ba năm trước khi mất- đau đớn "xót thân vô dụng, một đời nín câm."
Rồi những biến cố không hay dồn dập đến: Chưa được một năm sau ngày thống nhất đất nước, sách vở miền Nam bị thiêu hủy, các văn nghệ sĩ hàng loạt đi tù. Vũ Hoàng Chương bị bắt ngày 13/4/76. Người đi cải tạo không về. Người vượt biển vong thân. Vũ Hoàng Chương mất ngày 17/9/76, năm ngày sau khi được thả. Cái tang cải tạo. Cái tang vượt biển: Tang chung. Cái tang văn học: Tang riêng. Nặng trên tâm thức người cầm bút.

Cái chết của Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương vẫn được coi là một trong những khuôn mặt đại diện cho nền văn học Việt Nam trải hai thời kỳ: tiền chiến và chia đôi đất nước. Cùng với Đinh Hùng, là hai thiên tài tiền chiến không tắt lửa sáng tạo sau 45. Vũ Hoàng Chương: một nhà thơ và một kẻ sĩ, không khuất phục trước thế quyền trong Lửa Từ Bi.

Có thể vì đã cảm nhận được vị trí độc đáo của Vũ Hoàng Chương trong văn học sử và trong lòng người, cho nên trong thời gian đầu, chính quyền cộng sản không bắt Vũ Hoàng Chương.

Nhưng cũng có thể vì đã cảm nhận vị trí ấy, nên họ bắt ông sau đó. Thời điểm ấy Vũ Hoàng Chương đã yếu lắm, không biết sống chết lúc nào. Bốn tháng tù. Được thả. Năm ngày sau, ông mất. Dập tắt một nhà thơ lớn bằng lao tù. Đó là sự vụng về thê thảm nhất. Bởi khi thân thể nhà thơ nằm xuống là lúc tác phẩm của họ đứng lên. Nhập vào lòng người. Chỉ cần đọc những dòng Mai Thảo viết về Vũ Hoàng Chương cũng đủ thấy sức công phá của ngọn lửa Từ Bi hồi sinh, đưa Mai Thảo đến bờ xung kích.

Và chính Mai Thảo, trong niềm đau xót đứt lìa, tái sinh động lực chuyển tải chúc thư văn học, trở nên linh hồn của một thời kỳ văn học sau đó.
Cái chết của Vũ Hoàng Chương, ở trong nước, bị dấu diếm. Gia đình không được quyền đăng cáo phó. Hàng xóm không được quyền đến thăm. Bạn hữu như Mai Thảo còn đang bị truy lùng. Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng đã đi cải tạo lớp đầu. Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu... đã bị bắt. Vũ Hoàng Chương ra đi "trong giới nghiêm tăm tối, trong trống không vô cùng tận. Trên một mặt sàn gác xép hiu quạnh". Theo lời Mai Thảo.

Người trong nước không được biết tin.
Nhưng Paris biết ngay. Trong Hồn Việt Nam số tháng 9, Minh Đức Hoài Trinh khấp báo. Paris tổ chức lễ truy niệm nhà thơ.
Có thể ngọn Lửa Từ Bi đã là một trong những nguyên nhân sâu xa thúc đẩy người cầm bút di tản hình thành mau chóng một nền văn học. Vừa có tính cách bảo tồn tiếng Việt, vừa khơi đống tro tàn, in lại những tác phẩm văn học miền Nam đã bị hóa vàng, vừa có tính chất sử quan gắn liền với thân phận "lưu vong", với những khó khăn hội nhập đất khách.
Văn học Việt Nam hải ngoại, vì thế rất cách ly với những dòng văn học lưu vong khác trên thế giới. Sâu xa nhất là:
Người Việt viết tiếng Việt.

*

Người Việt viết tiếng Việt

Cung Trầm Tường, thời kỳ Tình Ca Paris những năm 55-60, dù người yêu là Pháp nhưng đã cảm thấy tôi cần phải làm thơ bằng tiếng Việt, bằng tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi có làm thơ tiếng Pháp nhưng xé hết. Đối với Minh Đức Hoài Trinh "văn hóa, ngôn ngữ quy định cả một kiếp người."

Võ Phiến viết: "Tiếng nói của một dân tộc nó sống như một cơ thể [...] Chúng ta yêu ngôn ngữ của cha ông, chúng ta đem nó theo trên từng bước ly hương; nhưng chúng ta sẽ không thể bồi bổ nuôi dưỡng nó, chúng ta sẽ làm cho nó héo hắt trên quê người [...] Chúng ta đưa nó đi, cố giữ nó, nhưng sẽ giữ nó như thể giữ gìn một cái xác ướp.

Trong chúng ta, những kẻ viết lách phải lấy làm lo hãi trước nhất. Vì văn chương là bộ môn nghệ thuật xây dựng trên ngôn ngữ. Cho nên từ ngày bỏ nước ra đi, tôi đâu còn nghĩ tới chuyện nghệ thuật văn chương nữa."

Từ cái lo hãi của Võ Phiến về một "xác ướp tiếng Việt", ông đã trở thành người khai quật "xác ướp", tiếp máu hồi sinh.
ÿ hướng "viết bằng tiếng Việt", giữ gìn tiếng Việt, che khuất ước muốn "để cho thế giới biết mặt biết tên", làm mờ nhạt tâm trạng "phô bầy với thế giới bộ mặt thực của chế độ cộng sản", giải thích sự kiện tại sao sau "một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây", tiếng Việt vẫn tồn tại. Và sau cùng làm sáng tỏ nhận thức về vị trí "nhược tiểu" của dân tộc Việt Nam.

Nhận thức này đã được thể nghiệm qua những người đi trước như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng... Nguyên Sa đã sớm nhận thấy: "sẽ không bao giờ một trí thức Tây phương, dù cởi mở như Sartre, có ý học tiếng Việt để đọc truyện Kiều trong nguyên bản." Bởi, theo ông, vị trí văn học một nước, tùy thuộc vị trí chính trị, kinh tế của nước đó. Nhưng Nguyên Sa không nhắc đến một khác biệt nữa: Đó là khác biệt Đông-Tây. Tây phương chưa bao giờ thực sự muốn tìm hiểu Đông phương. Do đó, văn hóa Đông phương, dù cao như văn hóa Tầu, cường như văn hóa Nhật... vẫn không có chỗ đứng đích thực trong xã hội phương Tây.

Cho nên sẽ không thể có một trường hợp Soljenitsyne Tàu, Việt, Miên... nếu như có một người Trung quốc, Việt Nam hay Cambodge quyết định "lột trần và quật ngã chế độ cộng sản" như một người Nga Soljenitsyne.

Sống ở Hoa Kỳ, Võ Phiến và Mai Thảo đã nhận thấy điều đó, rõ ràng và sâu sắc. Mai Thảo viết:
"Trên phương diện nghệ thuật. Trên phương diện văn chương. Đối với lưu vong Đông phương. Đối với ÿ Châu tị nạn. Ta với ta thôi, với họ, vô phương, mọi con đường đều chặn lấp, mọi cánh cửa đóng chặt, Võ Phiến nói. Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa tới đây đã mấy đời, còn đứng bên ngoài lề, làm gì có tiếp nhận và chỗ đứng nào cho Việt Nam mới tới. Chúng, Bình Định kêu Mỹ bằng chúng, giữ đất thật kỹ. Họa hoằn chỉ một vài thiên tài lỗi lạc lưu vong của Âu Châu lọt được vào và tạo được danh vọng được tên tuổi. Da vàng tuyệt đối không, dù bậc thầy, dù thiên tài. Như vậy cho hết thẩy mọi ngành, từ văn chương tới hội họa, từ sân khấu tới âm nhạc.
Nhận thức sáng suốt mà ở ngoài mọi ảo tưởng này, Võ Phiến đã có được và thật sớm. Trước chúng ta. [...]

Hoa Kỳ rộng rãi tiếp nhận tị nạn thế giới vào xứ sở mình. Đồng ý. Nhưng "nó" có tiếp nhận, mở đường, trải chiếu hoa, dâng đất đứng cho văn học nghệ thuật tị nạn hay không, đó lại là chuyện khác. Võ Phiến hiểu được rất rõ điều đó. Câu trả lời của ông là không. Cho những người làm văn học nghệ thuật ta tới đây, chưa tạo dựng nổi một tầm vóc với thiểu số mình đã vọng động vọng tưởng cho mình một tầm vóc quốc tế hư ảo lố bịch. [...] Là yếu tính của văn minh văn hóa Hoa Kỳ đã đặt định, bành trướng, tất cả được thi hành như một quốc sách Mỹ trước toàn cầu và trước mọi giòng văn hóa khác, in tuồng một sách lược chính trị, một kế hoạch kinh tế, vắn tắt một thế lực chinh phục. Chính sách ấy đã được tỏ hiện và khẳng định không che dấu, ngay từ lập quốc Mỹ. Bằng tinh thần nội dung bản hiến pháp Mỹ. Bằng tuyên cáo Jefferson. Bằng lập thuyết Roosevelt, bằng chủ thuyết Monroe. Bằng "lối sống" Mỹ, giá trị Mỹ trước sau được rao giảng truyền bá như mẫu mực cứu cánh của loài người, đang tiến chiếm thế giới như một ngọn triều ào ạt.
Tờ Văn Học Nghệ Thuật cho tới ngày đình bản cũng đã được Võ Phiến thực hiện từ nhận thức vừa nói."

Những dòng trên đây của Mai Thảo ghi nhận công lao của Võ Phiến đối với văn học Viện Nam hải ngoại có thể xem như một tuyên ngôn văn học chung của Võ Phiến và Mai Thảo.

Chỉ mình với mình thôi là một nhắn nhủ, tự nhủ âm thầm mà quyết liệt, không phải ai cũng nhận thức, ai cũng tiếp sóng, nhưng nó tiềm ẩn trong sáng tác như nét đặc thù của văn chương Việt ngoài nước: Niềm đau của họ không hoành tráng, khốc liệt như niềm đau phơi bầy của nhiều dân tộc khác, mặc dù cuộc đổi đời của họ không kém bi thiết, thương tang.

Về câu hỏi: Tại sao người Việt di tản không có "tác phẩm lớn" về cuộc vượt biển? Về tù cải tạo? Về việc thành lập cộng đồng lưu vong...? - Là có, nhưng cái "lớn lao" của người Việt không theo nghĩa thông thường: Họ đã xé nhỏ đau thương trong toàn bộ "cái viết": Từ cải tạo, đến vượt biên, vượt biển... nỗi đau của họ không bồng lên mưng mủ, nó tản mạn lưu vong khắp huyết quản, huyết cầu... Họ đã không bỏ qua một khía cạnh nhỏ nhoi nào, dưới nhiều hình thức viết: Từ nhật ký, thư riêng, đến hồi ký, tùy bút, thơ, phiếm luận, truyện ngắn, truyện dài... nếu ai có "can đảm" đọc lược qua toàn bộ tác phẩm của người Việt ở hải ngoại trong 25 năm nay, thì sẽ ghép được mảnh puzzle lớn lao về lịch sử, xã hội, chính trị Việt Nam trong cuộc dâu bể nửa thế kỷ này.

Cái lớn của họ là tích tiểu thành đại.

Tích tiểu mới là khó. Vì xưa nay, những "đại nạn" it khi trở thành một tác phẩm lớn.
Mỗi dân tộc có những niềm đau lớn khác nhau, do những nguyên do khác nhau. Không thể so sánh niềm đau diệt chủng của người Do Thái với niềm đau diệt chủng của người Khmer. Cũng không thể ví ngục tù Goulag Liên Xô với ngục tù cải tạo Việt Nam. Và cũng không thể đo thảm cảnh vượt biển của người Việt tỵ nạn với Exode khỏi Ai cập của người Do Thái cổ. Nhưng dường như ở mọi cực điểm của niềm đau, con người không có chữ để diễn tả: Niềm đau diệt chủng Do Thái và Khmer không có tác phẩm lớn. Exode Do Thái xưa và thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam nay: không có tác phẩm lớn, bởi đó là giới hạn của văn chương, thất bại của ngôn ngữ trước những tột độ trong cái sống và cái chết của con người.

*
Nói như vậy không có nghĩa là ở văn học hải ngoại, tất cả đều được. Tự bản chất nhược tiểu, nẩy sinh nhược điểm: làng xã. Dù thoát ra nước ngoài, người Việt vẫn không tẩy được bẩm sinh làng xã: Đọc nhau và viết cho hợp ý nhau. Từ đó thoát thai những tình trạng suy tôn cá nhân văn học không kém tai hại như sùng bái cá nhân chính trị. Bởi nó giới hạn tầm đọc tầm nhìn của độc giả trong một vài tên tuổi được tôn sùng trong quy tắc chính trị địa phương, khu vực. Ở khía cạnh này, văn học hải ngoại có những nét bảo thủ giống văn học chính thống trong nước: Ta đọc ta thôi. Người Việt hải ngoại không đọc hay không thích đọc những tác phẩm trong nước, nhất là...
oc huong
#3 Posted : Saturday, February 10, 2007 4:54:12 PM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyễn Thiên Thụ

Các Chủ Đề Chính Trong Thi Ca Hải Ngoại


Hầu hết người vượt biên và gia đình đều là những người tị nạn, bỏ quê hương đi tìm tự do. Chỉ một số ít có mục đích kinh tế .Ta.i quốc gia của họ, họ bị cấm viết, nay ra ngoại quốc, họ liền thực hiện quyền tự do thiêng liêng này. Họ phải viết vì viết là sở thích, là nguồn sống, là lý tưởng của họ. Họ cần viết vì viết đã trở thành một bản năng.Nếu Pascal nói ‘Tôi suy nghĩ vậy tôi hiện hữu’’ thì các văn nghệ sĩ cũng có thể nói: Tôi viết, vậy tôi hiện hữu’’ hay ‘’tôi sáng tác, vậy tôi hiện hữu’’. Văn nghệ sĩ chỉ hiện hữu, chỉ thực sự là mình khi sáng tác. Còn mọi sự khác chỉ là tạm bợ. Muốn thực hiện điều này, văn nghệ sĩ phải vượt qua bao khó khăn về vật chất và tinh thần để đứng vững, và ngồi vững trong cuộc đời mà cầm bút. Họ cần viết để ghi nhớ lại cuộc đời họ và đất nước họ . Họ cần viết để tố cáo tội ác cộng sản trước dư luận thế giới. Họ lên tiếng để tranh đãu cho tự do, dân chủ và quyền làm người đang bị chà đạp tại quê nhà. Đồng bào quốc nội đang bị đàn áp, khủng bố, họ mong muốn những người đã đến bến bờ tự do, phải tranh đâu cho tự do, dân chủ ở quê nhà. Họ cũng mong muốn các văn nghệ sĩ khi ở trong nuớc không được viết, không đuợc phát biểu tư tưởng và tình cảm của mình, nay ra nước ngoài, phải hoạt động trở lại, phải làm một cái gì cho dân tộc và văn học.

Nói tóm lại, với các văn nghệ sĩ lưu vong, sáng tác là :

- phản kháng chính sách nô dịch văn hóa của cộng sản

-phản kháng sự ngăn chận tự do ngôn luận, tự do sáng tác của cộng sản.

-trình bày sự thật của lịch sử, chống lại chủ trương bóp méo và xuyên tạc sự thật của cộng sản.

-tranh đãu cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương.


Ở lời nói đầu trong tập truyện Miền Thương Uyển Xưa, Đặng Phùng Quân viết:

Hành trạng của viết phác lên tiếng thương đau cho những người cầm bút giờ đây còn đang bị đầy đọa trong cái thế giới ‘cơm,áo, gạo, tiền’ rất hiện thực, cũng rất phi nhân, giờ đây không thể biết đến viết là gì.

Nhân vật nữ trong Ngày Tháng Bồng Bềnh của Nguyễn Văn Sâm đã nói:

Ở đây có quá nhiều chuyện bất công, quá nhiều điều xấu. Qua được bên đó, anh hãy viết thế nào cho mọi người nhận chân được lẽ chính tà, khơi dậy được suy nghĩ về số phận bi thảm của dân tộc mình (11).

Nhiều thi sĩ đã xuất hiện, có khoảng 100 thi sĩ . Rất nhiều thi phẩm ra đời tại hải ngoại trong khoảng 1975-2003. Một số nhà thơ cũng là nhà văn. Những nhà thơ nổi tiếng trước 1975 nay sang Hoa Kỳ đã ngưng sáng tác hay ít sáng tác, hoặc chưa xuất bản. Kết quả chúng ta có khoảng một trăm nhà thơ với khoảng 150 tập thơ, trung bình mỗi nhà thơ có hơn một tập thơ. Một số thi sĩ có sức sáng tác rất mạnh.

Luân Hoán có lẽ là người có nhiều thi phẩm nhất. Từ thập niên 80 cho đến nay ông đã có 8 thi phẩm:

-Hơi Thở Việt Nam. Sông Thu, USA, 1986.

Đưa Nhau Về Đến Đâu, Sông Thu, USA, 1989.

-Ngơ Ngác Cõi Người. Nhân Văn, USA. 1989.

-Cảm Ơn Đất Đã Trổ Thơ. Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài. Kinh Đô.USA. 1991.

-Mời Em Lên Ngựa. Sông Thu. USA.1994.

-Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh. Thơ.Canada.1995.

-Cỏ Hoa Gối Đầu. Sóng Văn. USA, 1997.

-SôngNúi Cùng Người Thơm Ngát Thợ Thơ. Canada, 2002.


Dư thị Diễm Buồn có 6 thi phẩm:

-Nỗi lòng Người Em Nhỏ, 1991

- Một Thoáng Hương Xưa, 1996.

-Những Ngày Xưa Thân ÿi ,1997.

-Quê hương Ngày Em Lớn 2000.

-Một Thoáng Hương Xưă Cassette ngâm thơ)

-Nỗi Lòng NgườI Đi , 2001.


Hà BìnhTrung có 6 thi phẩm:

-Khói Lửa, USA, 1987

-Yêu Mãi Ngàn Năm, USA, 1990

Đãu Chân Viễn Khách, USA,1995.

-Cánh Thời Gian,USA, 1997.

-Ngàn Dặm Thương Yêu. USA, 1999.

-Vẫn Mãi Yêu Em, USA,2000.


Vân Nương đã đóng góp 4 thi phẩm :

-Con Đường Lý Tưởng , 1990

-Nhớ Một Người Đi, 1996.

-Mây Viễn Phố, 1996

-Trăng Viễn Phố, 2001.

Thời kỳ này các nhà thơ viết về nhiều chủ đề:



I- TÌNH YÊU

Trong thi ca hải ngoại, tình yêu vẫn là một đề tài quan trọng và chiếm nhiều giấy mực và thời giờ của thi sĩ.Phần đông các thi sĩ lúc này đã lớn tuổi nhưng trong tim của họ vẫn có những tình yêu, có thể là những hoài niệm quá khứ, mà cũng có thể là những thực tại đau khổ và dở dang.

Những người ra đi đã để lại đằng sau những mối tình, phần lớn là những mối tình dang dở, vỡ tan:

Tình đã theo em về dĩ vãng

Buồn tôi như lá thẩn thờ bay

Ví dù lá rụng đày thu ướt

Lá cũng xin đừng bận gót aị

( Nguyễn Tất Nhiên- Đông khúc)


Thỉnh thoảng thi nhân để hồn tưởng đến người yêu cũ. Tất cả đều héo úạ Quê hương tan nát và thân phận người phụ nữ miền nam cũng tối tăm như người tình ngày xưa của Cao Đông Khánh

Từ Suối Máu anh trở về xanh như lá cây

Những kẻ sống chết cho độc lập tự do

trở thành phản quốc.



Anh bỏ đi rồi em ở với ai

. . . . . . .

Em rớt thăm thẳm xuống vực sâu thời cuộc

Sương Sài gòn thấm lạnh áo mồ hôi

Mưa lất phất ngoài ngả năm, ngả bẩy

Gió lọt vào em từ ngả bảy, ngả ba. . .

( Uẩn tình kẻ xa xứ)


Kiêm Đạt hoài niệm người yêu nhưng đó chỉ là dĩ vãng rất xa xôi với tờ thư ngày trước:

Em nhé hẹn về chốn ấy

Hoa hồng hé nụ tình tạ

Buồn chết! Röi vào dĩ vãng

Tờ thư mực đọng chưa nhòạ

( Tám hướng )


Lê Huy Oanh buồn rầu nhớ đến mối tình sau ngày thất quốc:

Trái tim tái mét

Đã học được gì

-Những nỗi ê chề

Cuộc tình oan khuất

Trái tim khóc ngất

Đã học được gì

-Hai đứa chia ly

Vũ trụ sụp đổ

(Bài học trái tim )


Những người đàn ông thương nhớ những người đàn bà, tất nhiên những người đàn bà cũng thương nhớ những người đàn ông nơi xa xôi.


Có những mối tình bỏ lại sau lưng nhưng cũng có những mối tình nở thắm trên bước đường ly hương. Một số thi nhân ra đi mang một nỗi buồn trong tình yêu, nhưng một số rất hạnh phúc khi ở xứ người. Trong tập Dấu Ngọc Ngà, Vương Ngọc Long có nhiều bài thơ ca tụng tình yêu:

Xích lại gần nhau, lại gần nhau

Chuyền nhau hơi ấm thuở ban đầu

Nụ hôn thầm gửi tình yêu dấu

Tháng hai này - riêng kẻ yêu nhau

( Bài thơ Valentine)

Trong thơ Trần Hồng Châu, ta thấy Trần Hồng Châu mơ làm hiệp sĩ phóng ngựa từ biên cương trở về kinh thành để gặp giai nhân của chốn đế đô:

Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết

Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu

. . . . . . . . . .

Em vẫn ngồi đây vừng trăng cũ

Nửa mùa ly loạn nét đan thanh.

(Nhớ Đất Thương Trời- Em vẫn ngồi đâyvầng trăng khuyết)

Cũng có khi Trần Hồng Châu mơ làm một hoàng tử đa tình như trong các truyện thần thoại:

Anh muốn là Hoàng tử đam mê

Từ muôn trùng biển khơi

Về vớI em bên cửa động tiền thân

Của những người tình héo hon niềm mắt biếc.

(Nửa Khuya Giấy Trắng - ÿo mộng đào hoa)



II- QUÊ HƯƠNG

Đa số thi nhân hướng đến chủ đề này bởi vì các thi nhân phần lớn là thuyền nhân đã bỏ quê hương mà đi,. Dù xa cách quê hương, tình quê hương bao giờ cũng sáng trong lòng thi nhân. Nhớ quê hương là một chủ đề chính trong thi ca người tị nạn lưu vong.

Trong Viên Sỏi của Quê Hương, Hàn Song Tường đã cầu khẩn:

Tặng cho tôi viên sỏi quê nhà

Viên sỏi buồn, viên sỏi biết phong ba
Tôi kiêu hãnh dùng làm bia tưởng niệm.

Cao Tiêu viết:

Ta thả nhớ về trời

Quê hương xưa cách trở

Thơ có vần thơ lơi

Tình vẫn tình trăng tỏ

(Thả)

Hồ Trường An nhớ muà hè quê mẹ:

Quê mẹ bên kia hè đến sớm

Rực hoa phưộng thắm, rực soan hồng

Ở đây xuân muộn bao la gió

Đợi mãi gặp ngày đẹp nắng trong

( Một ngày thong thả)

Mỗi thi sĩ đều có một vùng trời để nhớ. Nguyễn Mạnh Trinh nhớ Thành Nội Huế, nhớ áo vàng tôn nữ:

Nghe thoang thoảng từng bài thơ anh viết

Hương một người nồng nặc thân quen.

Nhớ man mác rong rêu Thành Nội

Mùi hoa quỳnh trong nỗi nhớ lênh đênh.

( Thấp thoáng bóng một người )

Nguyễn Bá Trạc cũng quay cuồng vì nỗi nhớ thương Huế:

Năm mười tám tuổi pha ngây ngất

Yêu một dòng sông những chuyến đò

Trưa trên Văn Thánh thơm mùi gỗ

Anh chẳng cho lòng phút đắn đo



Em, xóm Bao Vinh đường lót gạch

Hương chiều thoang thoảng mấy hàng cau

Anh theo gió thẳng lên An Cựu

Anh chẳng cho lòng phút đắn đo

(Quê Mẹ)

Hoàng Ngọc Ẩn nhớ Sài gòn :

Chiều Sài gòn người có đi qua

Nhớ chiều xưa dáng nhỏ mong chờ

Những con đường chừ đây cúi mặt

Mắt nai buồn hồn bỗng bơ vợ

( Sài gòn vĩnh biệt)

Bà Sương Mai thương nhớ Cần Thơ:

Mai về đến bến Cần Thơ

Làm chim Phụng Hiệp đău bờ Cái Răng

Chiều Phan Thanh Giản mưa giăng

Sáng Đoàn Thị Điểm băn khoan nhớ người

Đàn chim dang cánh tung trời

Sao ta mỏi cánh về xuôi nỗi buồn

(Võ ĐứcTrung, Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VIệt Nam Hải Ngoại I, Cần thơ ngày về , 203)

Những hình ảnh Vàm Cống, Tiền Giang luôn hiện trong tim Nguyễn Mạnh Trinh:

Cảm ơn hoa đã nở vì ta

Mười ba năm thoảng đã vô cùng

Đời theo triều nước Tiền giang vỗ

Lòng ta Vàm Cống cũng mịt mùng

( Tâm hoa)

Ở bên này đại dương nhìn sang bên kia đại dương, Lê Văn Phúc than thở:

Nước ngăn tình đôi ngả

Nước khơi mối thảm sầụ

Cố hương vời vợi quá

Nhớ nhưng gửi về đâủ

( Sương khuya)

Xuân về tết đến là lúc mọi người nhớ quê. Như Lý Bạch ngày xưa, bây giờ Trần Ngân Tiêu nhìn trăng nhớ quê:
Ngước mắt nhìn trăng chợt nhớ quê

Nỗi buồn lay động cả sao khuya

Tình quê cứ mãi còn trong nhớ

Rượu uống mừng xuân vẫn não nề.

( Vọng nguyệt tư cố hương)



III- LƯU ĐÀY

Nỗi đau khổ vì mất nước phải đem thân lưu vong là một ám ảnh lớn trong hồn người Việt. Dù ở đâu và đi đâu, chúng ta vẫn thấy cô đơn, lạc lỏng ở nơi quê ngườị

Thẩn thờ trên phố lạ

Về đâu chiều tha hương

Dừng đây buồn muốn khóc

Cho phần đời ly hương.

( Tưởng Năng Tiến, Chiều Vọng Các)

Phan Lạc Giang Đông cũng mang sầu lữ thứ như Tưởng Năng Tiến:

Tôi vẫn người xứ lạ

Đếm từng bước lưu dân

Quê tôi giờ xa lắm

Trong trái đời lặng câm

( Chiều xuân ở Queen Anne)

Trần Mộng Tú nhắc đến nguồn gốc lưu đày của chúng ta là ngày 30-4-1975:

Ta ngồi một mình

Ly cà phê cạn

Lòng như tháng tư

Dứt ra từng đoạn

Quán trưa không người

Phố trưa không gió

Ta với nỗi không

Chảy thành lệ nhỏ

Bốn năm quê người

Đời, con nước cạn

Hồn như lá khô

Vướng giòng mục nát. . .

( Lòng như tháng tư )

Cái ý tưởng mình là người khách lạ đã xâm chiếm tâm hồn người xa xứ. Thật vậy, chúng ta là kẻ bị lưu đày, chúng ta là người khách lạ lúc ở trong nước và khi ra ngoài nước.

Sao ta mãi làm loài cây không rể

Thân xanh xao hoa trái chết trong hồn.

Tim vẫn đập nhưng dấu từng hơi thở

Nhịp đời lên là những tiếng cô đơn

( Phùng Minh Liên - Khách lạ)

Thi nhân cảm thấy mình là một kẻ bị lưu đày, sống trong uất hận đau đớn như tâm sự Kiêm Thêm:

roi đời quất mạnh tay

thịt xương tôi mưng mủ

cơn thịnh nộ của trời

lưu đày tôi bảy kiếp



tôi và chiếc cùm gông

trái tim ôm vác nặng

lưu đày chốn đất người

ngàn năm nghe lệ mặn

(Lượng cả dương gian)

Cùng chia xẻ nỗi niềm này, Lê Phú Hải viết:

Đời một thuở đem thân làm lưu lạc

Để từng đêm gió gọi ở trên đầụ

Ta cúi mặt nghe trăm chiều tủi hổ

Quê hương ơi ngàn sóng vẫn kêu gàọ

( Sóng vẫn vỗ vào eo biển quê hương tôi)

Hoàng Minh Hương cũng nói đến sầu viễn xứ:

Cất bước lang thang trời viễn xứ

Lãy mưa làm bạn, nắng thay nhà

Biết đến bao giờ nguôi hận cũ

Ta khóc người hay khóc cho tả

( Kiếp sống thừa)

Nhất Tuấn không những mang sầu biệt xứ mà còn mang tủi nhục người thất trận. Hai nỗi buồn hòa nhập làm một day đứt đời ông:

Làm thân cây bật gốc

Trong kiếp đời lưu vong

Tan hàng trong tủi nhục

Sống đây mà như không

(Mò kim đáy biển )

Cuộc sống lưu đày nơi xứ lạ quê người đã làm cho thi nhân băng giá. Phặm Tăng kêu lên:
Lạnh đâu thấm nhập vào phòng

-Không đâu ! Lạnh ở trong lòng lạnh ra!

Bên ngoài chỉ có sương sa

Bên trong giá buốt hơn là tuyết băng!

( Nửa đêm)

Thi nhân đã dùng rượu để quên sầu nhưng lúc nào nỗi cô đơn vẫn bám chặt tâm hồn thi nhân:

Rượu mời ta rót cho ta,

bạn gần không tới, bạn xa chưa về

rót nghiêng năm tháng vào ly

mắt nheo bóng xế tay che nỗi buồn

rót đầy băng giá cô đơn

rót thao thức nhớ rót hờn giận quên

(Thanh Nam - Đêm cuối năm uống rượu một mình)

Cuộc sống xứ người đôi khi rất khó khăn. Một số dân Việt Nam cảm thấy không thoải mái vì không qua được cơn chấn động văn hóa (cultural shock) . Cao Tần viết bằng một giọng khôi hài như sau:
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi

Mày qua bên Mỹ học đuợc củ gì?

Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi

Nói mày hay ông thượng đẳng cu lỵ

( Thơ Cao Tần)

Trần Hoàng Anh vượt biên khi còn trẻ, thân gái một mình lưu lạc nơi xứ người. Có lần cô đã cảm thấy cô đơn, mình tự thương mình:

Thương mình lưu lạc phương trời

Không ngày hạnh phúc không người tri âm.

Một mình một bóng âm thầm

Cười cười nói nói trong lòng đớn đau. . .

( Mộng đời tan hoang )



4. GIA ĐÌNH

Có một số người ra đi mang theo gia đình, nhưng một số ra đi bỏ lại mẹ già em dại, vợ yếu con thơ. Nỗi thương nhớ dó được các thi nhân giẵi bày trong thơ. Hình ảnh mẹ già được thi nhân đề cập nhiều nhất.

Sống hạnh phúc ở xứ người, Hữu Phương nhớ mẹ già đói khổ ở quê hương:

Khi con thừa cơm gạo

Có nghĩ mẹ đói nghèo

Sáng rau khoai, chiều cháo

Ngày qua ngày chắt chiu

. . . . . . . .

Khi con thừa lãng khuây

Con nghĩ mẹ ốm gầy

Sớm hôm chiều lao động

Đêm nào đươc giấc say. . .

( Tiếng thầm của mẹ)

Nơi quê người, Minh Viên lại thấy càng cần tình thương của mẹ:

Con vẫn âm thầm thương nhớ mẹ

Hồn thơ không soi nắng thêu hoa

Hồn thơ đã ngập tràn băng tuyết

Và mất mùa đông làm gió mưa



Thiếu mẹ đời con như lá úa

Xuân về con ngỡ xuân chưa sang

Xuân về xuân của riêng thiên hạ

Con mất xuân rồi đâu biết xuân

( Thư xuân gửi mẹ)

Ngày xuân là lúc người ta nhớ đến quê hương, đến mẹ già nhiều nhất. Minh Viên gửi về mẹ những vần thơ tha thiết:

Muời mấy xuân rồi xa cách mẹ,

Nhớ thương trĩu nặng những vần thơ

Mùa đông rét mướt hồn con trẻ

Thôi hết rồi hoa bướm, mộng mợ

( Thơ xuân gửi mẹ)

Trong ngày Tết, Nguyễn Thế Hà đã khóc hết nước mắt:

Thư mẹ đến giữa chiều 30 tết

Quê hương người con khóc trắng đêm thâụ

Mẹ chỉ mong có một ngày sum họp

Nhưng bây giò thì mãi mãi xa nhaụ

( Bao nhiêu rồi mơ ước cũng pha phôi)

Thái Tú Hạp thương nhớ vợ con xa:

Biết thế nào đưộc em

Qua từng giấc mơ thật đẹp

Thấy em cười và thấy đôi mắt con thơ

Ngời sáng như sao

Mà cũng lấp lánh buồn như sao!

(Hại bụi nào bay qua)

Du Tử Lê [/color]bỏ lại các con trên quê hương Việt Nam. Ông chưa bao giờ trở về để gặp lại gia đình. Ông chỉ mong mỏi gặp lại những đứa con yêu quý sau khi đã nhắm mắt:

Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển

Cho tôi về gặp lại các con tôị

Cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi

Từ những mắt đã buồn hơn bóng tốị

( Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển)



IV- TỐ CÁO CỘNG SẢN

Trước kia một số người chưa thấy bộ mặt cộng sản nên chưa căm thù cộng sản. Sau 30-4-1975, nỗi căm thù, uất hận đã thành hình, thành khối. Vì cộng sản đã gây ra nhiều đau khổ, chết chóc cho dân chúng, nên dân chúng đã phải bỏ nước ra đi. Trần Hoàng Anh nói đến vấn đề đi kinh tế mới:
Bé lên hai tuổi

Tập nói bi bô

Đôi mắt tròn vo

Bàn tay mũm mĩm

Mẹ bồng trên tay

Mẹ cõng trên lưng

Lội suối băng rừng

Mang bé về nhà

Ở vùng kinh tế

Bé nhớ ông bà

Nơi thành phố xa

Bé khóc nức nở. . .

( Đi kinh tế mới)

Cộng sản đã bỏ tù binh sĩ, viên chức miền nam và bỏ tù những ai chúng muốn. Ngô Minh Hằng đã nói đến việc cộng sản giam giữ vô cớ và bỏ đói tù nhân:

Nhìn con xiêu gầy da bủng xám

Mắt mẹ sâu, hai giọt lệ lăn tròn.

‘Trong trại tù khổ lắm phải không con?’

Con cúi mặt nghẹn ngào:’ Không mẹ ạ!’



Con giấu mẹ những đêm dài đói lả

Ngày nhục nhằn mà lao động vinh quang!

Vì mẹ ơi , con thương mẹ vô vàn

Nên chẳng muốn lệ đày thêm mắt mẹ!

(Gọi Đàn- Cơn mộng dữ)

Linh mục Phan Văn Lợi tố cáo tội ác cộng sản bắn vào dân Quảng Trị trong Mùa hè đỏ lửa 1972:

Hôm ấy cũng một ngày nắng đẹp

Nhưng từ bên kia Thạch Hãn đạn réo gầm.

Đồng bào tôi nơi Quảng Trị, tất tả cuống cuồng

Vứt hết cửa nhà liều thân chạy thục mạng

Miệng thét thất thanh, mặt mày hoảng loạn

. . . . . . . . . . . .

Bỗng dưng pháo đạn chuyển sang thế chận đầu

Đồng bào vô tội của tôi nơi cây cầu

Cây cầu dài khét tiếng ‘ Kinh hoàng đại lộ’!

Cối 61, B40 thản nhiên trực xạ

Nam nữ, trẻ già, hết thảy trở thành bia!. . . .

(Tuyển Tập Thơ Văn ÿi Quốc Mùa Xuân Khởi NghĩaĐDại lộ kinh hoàng )

Tô Thùy Yên kể lại kể lại chuyện xưa để nói chuyện nay:
Nhớ xưa thiên địa dấy binh lửa

Xứ xứ rần lên người giết người

Thú loạn rừng kêu rú nhật nguyệt

Ruộng hoang, thành trống ai tìm aỉ

Núi đổ lấp sông, sao chổi hiện

Nhãn tiền sống chết, chuyện như chơi

Đêm trước đại quân vừa hạ trại

Chiều nay lều cháy xác thây phơị . .

(Tuyển Tập Thơ Văn ÿi Quốc - Lão trượng )

Những cảnh tang thương chết chóc do cộng sản gây ra luôn hiện đến trong giấc mơ của Xuân Hiến::

Thây co quắp theo anh trong giấc ngủ

Xác ngổn ngang trên những lối anh đi

Đại lộ kinh hoàng trên nẻo anh về

Cuộc chiếm Mậu thân hiện hình nơi anh đến

(Gửi Julie)

Vân Nương viết về ngày 30-4 và bức tượng người chiến sĩ tại nghĩa trang Biên Hòa:

Nói sao hết những bạo tàn reo rắc

Dân miền Nam gánh chịu những ê chề

Tôi căm hận bọn người như dã thú

Anh ngồi tâm lắng đã từ lâụ . .

( Pho tượng bên đồi)

Thơ Nguyễn Chí Thiện là thơ chiến đãu,có một phong cách rất độc đáo Ông là người can đảm. Thơ của ông công kích thẳng vào cộng sản:

Nó đứng không yên, tất bật điên đầu

Lúc rụt vào Tàu, lúc rúc vào Nga

Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó

Và tình nguyện làm con chó nhỏ

Xông xáo giữ nhà, gác ngõ cho cha anh

( Tự do, 258)

. . . . bọn cướp tự do

Đạo mạo, thung dung trên trên tàn tro xương sọ

Tôi không nhớ hết tên bọn nó

Duẩn, Giáp, Hồ Hề, Chinh Xu gì đó!

(Đất nước tôi, 1971)

Hang Pác Bó thành hang ác thú

Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ Ly

( Đồng lầy, 30)

Giai đoạn này là giai đoạn thơ chống cộng bộc phát mạnh mẽ. Người người lên tiếng, nhà nhà lên tiếng tố cáo tội ác cộng sản. Bây giờ kết thúc cuộc chiến tranh bằng vũ lực và tiếp tục cuộc chiến tranh ý thức hệ. Bây giờ là lúc ngưòi quốc gia chân chính tự mình điều hành cuộc chiến đãu chống cộng sản, không cần sự viện trợ của quốc gia nào, không cần vũ khí, không lệ thuộc vào chính sách ngoại giao và quân sự của ai. Sau một thời gian, một số thi sĩ đã tìm cảm hứng ở nhiều đề tài khác, nhưng ở những thi sĩ chân chính với lập trường quốc gia chân chính, vấn đề cộng sản vẫn là một đề tài quan trọng trong việc mưu cầu tự do và hạnh phúc cho nhân dân VIệt Nam. Lúc này, nhiều tập thơ chống cộng ra đờị


V- CHIẾN TRANH


Chiến tranh là một phần của cuộc đời người Việt Nam. Chiến tranh là một đề tài luôn hiện lên trong tâm hồn người Việt Nam, nhất là những chiến sĩ cộng hòa. Diên Nghị đã suy nghĩ về chiến tranh và ngày 30-4-1975. Đó là nỗi đau khổ luôn dày vò người cựu chiến binh:

Nuối tiếc, buồn thương đâu dễ nguôỉ

Chua cay lần khóc lẫn khi cười

Tay ôm vững súng đành buông súng

Đồng đội tang thương- cuộc đổi đời

(Nửa đêm đọc thơ lệ)

Nhất Tuất không trách ai, ông trách ông là ‘tên đào binh’. Trong thư gửi cho con, ông viết:

Bỏ đơn vị, gia đình

Thoát thân bố chạy trước

Tên trung tá đào binh

Cắm đầu giông khỏi nước

(Mò kim đáy biển )

Duy Năng cũng có những ý tưởng giống Diên Nghị:

Ôi những trầm luân, những nổi trôi

Cánh chim tan tác bốn phương trờị

Sa cơ đồng đội, ta chung chịu

Nghé lạc , đàn tan, giữa nẻo đờị

(Đã từ chinh chiến điêu linh)

Tùy Anh viết về ngày 30-4:

Quê người chợt nhớ chợt mong

Tháng tư lòng lại chạnh lòng nưóc non.

( Mai rồi, tháng tư)

Theo Nhất Sơn Vũ Quang Hán, kết thúc cuộc chiến đã đem lại bao xáo trộn cho dân chúng miền nam vốn sống’ cuộc sống rất người và rất hồn nhiên’:

Trời êm ả như con thuyền xuôi nước

Bỗng một phút cuồng phong làm đảo ngược

Kẻ ra đi người sống cảnh lưu đày. . .

(Mất gì?)



VI- VƯỢT BIÊN

Một số người Việt hải ngoại là thuyền nhân. Họ không bao giờ quên những ngày tháng hãi hùng đó. Hình ảnh con tàu vượt biển bao giờ cũng nằm sâu trong tiềm thức ngườI Việt. Hà Huyền Chi nhắc đến hải tặc và những xác người:

Vẫn còn đó những con thuyền mục nát

Như con người bầm dập vỡ niềm tin

Vẫn còn đó biển vô tình tàn ác

Nhiều xác người tan tác, giữa trời quên



Vẫn còn đó nụ cười điên hải tắc

Những mũi da đâm lút thịt da tươi

Những thô bạo ê chề trên thể xác

Bao hồn trinh thảm thiết khóc thương đờị

(Vẫn còn đó)

Mai Thảo đã kể cho chúng nghe chi tiết cuộc hải trình của ông:

Suốt bảy ngày đêm theo sóng nước trôi đi

Lúc báo động xuống hầm tàu đóng kín

Báo động qua, lại thảnh thơi hơi thuốc nhìn trời

Trong đêm dài bó gối nhìn lên

Biển sao sáng xuống lòng tối thẳm. . . .

( Hõi mình giữa biển)

Trong khi đó một số thuyền nhân lại bày tỏ lòng can đảm, và óc mạo hiểm trong nhữnmg ngày tháng lênh đênh trên sóng nước:

Một sớm thuyền ta ra giữa biển

Ôi trời lồng lộng nắng thênh thang

Những khi cười mỉm khinh nguy hiểm

Là lúc trong ta vỗ cánh bằng. . .

( Hoài Điệp tử- Hành 40)

Dư thị Diễm Buồn viết về cuộc vượt biển của bà:

Đoàn tàu vẫn kiên trì không lùi bước

Tiến âm thầm trong biển nổi cơn điên

Thủu thủ vững tay ghìm tàu tới trước

Nên sá gì biển vật vã triền miên.

(Tại sao tôi yêu biển)



VII- TÙ ĐÀY

Một số văn thi sĩ hải ngoại đã là tù nhân của chế độ cộng sản. Họ không bao giờ quên những ngày tháng hãi hùng đó. Song Nhị viết:

Tôi đi dưới bóng thời nô lệ

Ngọn núi đè lên cả kiếp người

Đủ ngón đòn thù ân huệ lắm

Quất len da thịt đã chai sần

Lưỡi dao sỉ nhục xuyên tim óc

Vết chém khoan hồng tươm xác thân

(Tôi đi giữa đoàn tù vác đá )

Thy Lan Thảo luôn nhớ lại những ngày tháng ngục tù:

Tám năm ta sống trong tù ngục

Vẫn biết ngày về cuộc bể dâu

Thực cảnh chỉ làm nuôi ý sống

Miền Nam rồi sẽ phải về đâủ

(ÿ của ngày về )

Tháng chín giặc về, thân chiến bại

Đời tù mưa gió lại buồn thêm.

(Đầu thu Houston)

Hoàng Anh Tuấn ghi lại những ngày tháng biệt giam:

Hẹp vuông khung cửa biệt giam

Thờ ơ mấy ngón tay đàn chấn song

Khúc này hờn tủi vuốt cong

Xin dâng lên mắt lưng tròng ngọc trai

Khúc này lộc nở nụ gai

Xin môi thêu nét mỉa mai mấy cành. . .

(Những khúc biệt giam)

Hạ Quốc Uy không quên những ngày bị giam giữ trong rừng xanh. Rừng đem lại cho ông những hình ảnh buồn:

Rừng rất lạ với người tù còn trẻ

Bởi cùng dường nên từng bước có hoang mang.

Ta đứng lại xem đời sau thăm thẳm

Tiếng lạ vỗ cành nghe cũng gian nan

( Biến thành con vượn hú)

Nguyễn Bá Trạc ghi lại nỗi đau đớn của ông khi thấy tấm thân tàn của người tù từ trại tập trung của cộng sản trở về:

Xót quá anh ơi, người bạc mệnh

Thân gầy ngâm nước độc rừng thiêng

Những củ sắn trụi trơ chiếc rễ

Trong bụng giun to tướng của thằng em

( Tiếng biển khơi)



VIII- CÁI CHẾT

Những nhà thơ tị nạn phần lớn đã lớn tuổi cho nên trong một lúc nào đó của chuỗi ngày tàn, họ đã nghĩa về giây phút cuối cùng của họ. Với Du Tử Lê, chết là một phương tiện để trở về lại quê hương đã mất. Du Tử Lê đã viết bản chúc thư trong đó có đoạn:

Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển

Cho tôi về gặp lại các con tôi.. .

Mai Thảo là một nhà văn nhưng ông cũng làm thơ. Thơ của ông là giấc mơ về cuộc đời của ông sau khi ông chết. Ông đã nghĩ đến đền đài, danh vọng và hư không:.:

Ta thấy tên ta những bảng đường

Đời ta, sử chép cả ngàn chương

Sao không, hỏi cát sông Hằng ấy

Còn chứa trong lòng cả đại dương

Ta thẵy hình ta những miếu đền

Tượng thờ nghìn bệ những công viên

Sao không, khói với hưong sùng kính

Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên

Nói chung, các thi nhân không cho chết là hết mà linh hồn còn hiện hữu sau khi thân xác đã ngưng hoạt động và tan rữa. Sau khi chết đa số muốn về lại quê hương, và một số cho rằng cuộc đời là hư không trống rỗng.



IX- ƯỚC MƠ

Con người ai cũng có ước mơ. Những thi sĩ Việt Nam ở hải ngoại cũng có những ước mơ. Họ không ước mơ hạnh phúc cho riêng họ. Họ ước mơ cho hạnh phúc cả dân tộc. Phan Lạc Giang Đông mơ một ngày Việt Nam trở thành một nước dân chủ thật sự:

Nỗi thôi thúc tóc em bay phơi phới

Mùa vui tin dân chủ ấm lời nhaụ

( Cánh bay của ngôn ngữ mới)

Trần Thúc Vũ cũng như đa số dân Việt hải ngoại luôn mơ một ngày giải phóng quê hương:

Núi vươn muôn đỉnh xa

Âm vang lời Sát Thát

Thấu chăng lời gió đưa

. . . . . .

Mai này anh trở về

Đó anh, trời dựng sáng

( Muôn Trùng )

Mạc Trần Lan nung nấu ý chí khôi phục quê hương:

Giữa phồn hoa, quê hương xứ lạ

Xin được thề: cùng trở về

xây dựng lại Việt Nam.

(Xin giữ trọn lời thề )

Nguyễn Đức Vinh đã dùng hình ảnh rất mạnh và rất đẹp khi viết về sông Đồng Nai và thác Trị An để bày tỏ chí hướng của mình:

Mai bốn phương về thác Trị An

Ngàn thiêng mưa lũ nước sông gầm

Dẹp phăng gai góc cùng rơm rác

Như chúng ta về quét loạn quân

(Tuyển Tập Thơ Văn 90 tác Giả, 96)

Một số mơ ngày trở lại quê hương . Linh Linh Ngọc ước đước cùng người yêu trở về quê hương thanh bình, nghĩa là sẽ trở về khi quê hương không còn màu cờ đỏ, khi không còn cộng sản tham tàn, độc ác:

Tôi ước ao một lần

Dù chỉ một lần thôi

Được cùng anh trở về quê cũ

Trong trái tim héo khô tàn rữa

Ta sẽ tưởng như đời vừa được tưới mưa xuân

Mình sẽ cùng đi từ Bắc Lạng, Cao Nguyên

Dần xuống đồng bằng, về Thăng Long cũ. . . .

( Tôi ao ước một lần)

Một số tác phẩm đã mang nhiều chủ để, có thể là hai, ba hay bốn chủ đề đã trình bày trên.

Viết Cho Quê Hương của Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn ấn hành năm 1982. Võ Đại Tã viết những bài thơ này sau ngày 30-4-1975.Ông luôn cảm thấy thương nhớ quê hương, một quê hương đã xa vời trong trí tưởng:
Chim sầu ngưng đập cánh

Mỏi mắt tìm quê hương

Nơi đây chiều buông lạnh

Mây che mọi nẻo đường. . .



Xa chim, chiều đứng lặng

Không nhà, chim tha phương

Cánh đeo sầu trĩu nặng

Bay hoài : đâu quê hương? (26)

Ông mang nổi sầu lữ thứ, mang nỗi cô đớn và đau khổ của người mất nước:

Xung quanh tôi chẳng có một người thân,

Tên thành phố cũng là tên xa la..

Nơi đây có trăm đường vạn ngả

Nẻo nào đâu dẫn tới quê tôỉ

Gớc công viên thành tượng đá tôi ngồi

Ai có hỏi, xin trả lời mất nước (66)!

Rất nhiều thi sĩ thương nhớ quê hương bằng tâm tư, riêng Võ Đại Tôn lại yêu quê hương bằng hành động. Ông đã mơ ước trở về và ông đã trở về giải phóng quê hương cho dù ông đã thất bại:

Chờ ngày mai ứ đọng dâng đầy

Thành thủy lưu theo về sông, về biển

Theo đường trăng, theo ánh sao hiển hiện

Chảy về quê- tìm lại tháng năm xưa (6!

Ngô Minh Hằng nổi danh về những bài thơ chống cộng của bà. Bà đã xuất bản bốn thi phẩm và thơ của bà đã được đăng trên nhiều tạp chí VIệt ngữ hải ngoại. Lời thơ của bà đanh thép hùng mạnh và điêu luyện.

Đọc các tập thơ của bà, chúng ta nhận thấy có nhiều chủ đề. Chủ đề thông thường của Ngô Minh Hằng và của người Việt xa xứ là thương nhớ quê hương. Tâm hồn của luôn hướng về Sài gòn với những địa danh quen thuộc và mến thương:

Chao ôi nhớ quá Sài gòn!

Nhớ đường Thống Nhất, Tháp chuôngĐức Bà
Nhớ lòng Nguyễn Huệ đầy hoa,

Bạch Đằng nhớ bóng con phà Thủ Thiêm

Tam Đa xanh đỏ nhớ đèn,

Bến Thành bốn cửa, nhớ chen chân người!. . . ( Nhớ Sài gòn- Gọi Đàn)



Phần lớn thơ của Ngô Minh Hằng mang tính cách tố cáo cộng sản. Bà đã viết về thân phận người quốc gia trong nhà tù cộng sản:

Đoàn người lặng lẽ cuốc đào, khiêng

Lũ ngợm súng ghìm, đứng kế bên.

Trăm ngọn roi thù vun vút xuống

Ngàn lời nói độc chất chồng lên.

Mồ hôi pha với niềm cay oán,

Nước mắt hoà chung nỗi hận phiền.

Chẳng mội ai mà không biết họ

Ấy người buông súng nhận oan khiên!

(Người cải tạo- Gọi Đàn)

Ba gian mái rạ, vách bùn rơm,

Tám chục tù nhân chẳng chiếu giường.

Nền đất cỏn con, người một khoảng

Màn trời lồng lộng, gió mười phương.

No nê dạ tiệc bầy muỗi, rệp,

Vui vẻ hòa ca, lũ nhái ương.

Chỉ có người tù là khốn khổ

Đêm dài, bụng rỗng, lạnh da xưong !

( Đêm tù của người cải tạo- Gọi Đàn)

Bài thơ Đám ma tù của Ngô Minh Hằng là một bức tranh đậm nét thê lương:

Vài tên cầm súng bước đi đầu,

Tên nửa ẠK tiếp phía sau

Một xác bó tròn đôi manh chiếu

Hai đầu buộc tréo bốn dây lau

Không kèn, không trống, không đưa tiễn

Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu

Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ

Vùi nông một khối hận thù sâu!

( Gọi Đàn)

Cũng như đa số người tị nạn, Ngô Minh Hằng mang cái sầu vong quốc. Trong những bài thơ Tết, Ngô Minh Hằng thường bày tỏ cái cô...
oc huong
#4 Posted : Saturday, February 10, 2007 5:01:29 PM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Văn Học Việt Nam Hải Ngoại

Thời Văn... về Văn Chương Việt Nam



"...Viết về văn học Việt Nam ở hải ngoại là điều khó. Thứ nhất là vì các nhà văn tản mác khắp nơi, định cư ở nhiều quốc gia khác nhau, nhiều lục địa khác nhau, cách nhau xa lơ xa lắc, do đó sách báo cũng tản mác theo, hiếm có ai, kể cả các nhà phê bình cần cù nhất, có đủ tài liệu để an tâm theo đuổi một công trình khảo cứu nghiêm túc. Thứ hai là vì dòng văn học ấy không phải là một cái gì liên tục và nhất quán: nó không ngừng được bổ sung bằng những cây bút mới, phần lớn là từ Việt Nam sang, hoặc bằng cách vượt biển hoặc bằng con đường đoàn tụ gia đình, những người từ kiến thức đến kinh nghiệm và cả phong cách văn học đều được định hình từ trong nước, trước hoặc sau năm 1975, chứ không hề chịu ảnh hưởng của thơ Cao Tần, thơ Mai Thảo, thơ Đỗ Kh. hoặc truyện dài, truyện ngắn của Võ Phiến, của Nguyễn Mộng Giác, của Trần Vũ ở hải ngoại. Những tìm tòi, những phát kiến của lớp nhà văn nhà thơ lưu vong đi trước, bởi vậy, ít khi được kế tục. Lửa thỉnh thoảng được nhóm lên, chưa thành đám cháy, chỉ hiu hắt rồi lại lụi tàn. Thứ ba, ngay cả cái tên gọi của nó, văn học lưu vong hay văn học hải ngoại, đều là những khái niệm khá mơ hồ, không phải ai cũng chấp nhận...."
Bạn vừa đọc những giòng chữ đầu tiên của Nguyễn Hưng Quốc được trích từ tuyển tập "20 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995". Biết thế, nhưng trong sự cố gắng, nhà xuất bản Thời Văn vẫn thực hiện một trang "Văn Học Việt Nam Hải Ngoại" trên mạng với hy vọng nhỏ là giới thiệu đến bạn đọc một cái nhìn khái quát về quá trình sinh hoạt văn học trong vòng hơn hai mươi năm của chúng ta qua tác phẩm của một số tác giả chúng tôi thâu nhặt được.
Thật tình, trên trang này, khó lòng hình thành một sơ đồ chính xác cho nền văn học Việt Nam hải ngoại. Chúng tôi đã ngồi lại để bàn về việc này nhưng các câu trả lời chỉ có tính cách tượng trưng. Theo thời gian? Cũng được, nhưng sẽ đánh dấu vào nhưng năm nào để thành các giai đoạn? Theo địa bàn định cư? Cũng được, nhưng đời sống tỵ nạn mấy ai định cư mãi một nơi, nay chỗ này, mai chỗ khác, rồi sẽ biết đặt vào nhóm nào? Theo khuynh hướng sáng tác? Lại càng khó hơn, bởi các tác giả hầu như trộn lẫn giữa ba khuynh hướng chính: Đấu Tranh, Hoài Cổ và Hội Nhập... Những câu hỏi được đặt ra, những câu trả lời được bàn lại và bế tắc. Cuối cùng, đành tạm chia các tác giả, tác phẩm một các tương đối trong cac phần chính: văn, thơ, biên khảo, v.v.. và không theo thứ tự thời gian xuất hiện hay địa bàn.
Như thế, bạn sẽ gặp cac phần chính của văn học hải ngoại với từng nhóm tác giả được sắp xếp theo thứ tự abc... Và, tất nhiên công việc này sẽ mang nhiều thiếu sót bởi địa bàn văn chương Việt Nam hải ngoại quá rộng cũng như sự xuất hiện ào ạt của những người viết nhưng, như đã nói, bằng sự cố gắng trong khả năng hạn hẹp, chúng tôi chỉ mong hy vọng được hình thành hoài bão.
Bạn hãy nghĩ Thời Văn chỉ là một nơi chốn để lưu trữ những góp nhặt của tất cả chúng ta. Chúng ta, vâng, đó là mọi người và cả bạn. Chúng tôi chỉ là những người đứng ra tạo một sân chơi chung. Và sự tiếp tay của bạn là điều cần thiết lớn để công việc thâu nhặt quá trình văn học Việt Nam của chúng ta được hình thành tốt đẹp. Rất mong, và rất cần bạn phụ tay cùng đóng góp.
Trân trọng.
Thời Văn

hoa xuong rong
#5 Posted : Sunday, February 11, 2007 2:57:25 AM(UTC)
hoa xuong rong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 265
Points: 0

Van hoc hai ngoai.
Ngày tôi học trung học và đại học, thèm đọc sách ngoại quốc quá trời, mà tiếng Anh thì bằng lá mít, tiếng Pháp cua tôi bằng cái lá tre, lúc đó tôi ước sao có đũa thần để vung tay một cái, mắt đọc cái mà VN minh khong có. Ngay nay tre VN hoc tieng Anh, tieng Phap ngay tu lop vo long( nhưng con nha giau) con con nha nghèo dươi vùng que hẻo lánh xa xôi thì sao.
Có một số nhỏ muốn giúp con em VN có trình độ học vấn tốt, nên hy sinh làm tại VN. Chung ta hằng năm gưi bao nhieu tien ve VN khong ngoai mục tieu giúp cha me anh em, giup nguoi nghèo.

Chúng ta cần nhìn văn chương với cái nhìn trung thực và vấn nạn của nó.

Nhà văn trong nước: muốn viết nhưng bị hạn chế tư tưởng. Nhiều người tuy viết khá nhưng trình độ tri thức và kiê'n thức tổng quát còn cần học hỏi nhiều. Học hỏi có nghĩa là họ cần có tầm nhình bao quát, thông hiểu ngoại ngữ để đưa con em đến điều họ muốn( rât it'). Còn viết theo cái nhìn thiển cận sẽ bị mai một theo thời gian. Hơn tám mươi triệu, in 2000 cuon mà còn ế. Tệ trạng đó cũng thường thôi bởi vì người VN còn kiếm ăn và hưởng thụ. Văn chương chưa là quan trọng. Số người viết chắc thua người viết hải ngoại rất xa: ngoài vấn đề sex và dùng con chữ với sự hạn hẹp của ho.

Chữ Việt cần thăng hoa theo thời gian, từ Phạm Quỳnh, cho đến Tư Lực Van Đoan, cho dến các nhóm người viết trong Nam. Nền văn học này là văn học chính thống vì tất cả các người viết, viết với tâm hồn và tự do. Còn các nhà văn vào đảng Cộng Sản phải gọi là bồi bút bởi vì họ dùng ngòi vút viết lên cái không tưởng đưa VN vào tương tàn. Tôn vinh lãnh tụ mù quáng- văn chương đó không tòn tại và sè thay đổi rất mau. Một cái ao, nước tù, cá phải chê't, văn chương cũng thế.

Vấn đề con chữ cũng thế, phải có nhiều chữ mới, nhưng phải hợp lý và dùng đúng cách. Con em phải được học từ vờ lòng trong bài ngừ vựng. Nhiều chừ dùng sai sẽ bị đào thải. Văn chương quốc tế cho con em VN một chân trời mới thay vì như cha ông chỉ biết giêt nhau.

Tôi về VN vào ăn các nhà hàng ngoại quốc mói thâ'y cái đau của giới trẻ VN, họ ghét cái chế đọ đang có ở VN đến độ không tưởng. Có một cô nói, VN như một cái nhà sơn phết đủ màu sắc mà bên trong trống rỗng. Có bằng 4 năm đi bán bánh bao để sống, có bằng báo chí đi khuân đồ để kiê'm ăn như những người không có học. Người trẻ thèm biết về nước ngoài kinh khủng. Tôi có nói truyện với một nhóm ngưòi ngọai quốc trong nhà hàng được mời về VN và hoạch định các kế hoạch cho chính phủ làm, và nghe đâu người Mỳ viết luật kinh thế thị trường, người Pháp viết luật trong nước. Bây giờ người Anh giúp về chương trình học. Không có lý do gì để con em không kỳ vọng ở sự hiểu biê't của con em chúng ta trên khăp hoàn cầu. Nói thế có nghĩa là trẻ Việt đang chiêm ngưỡng, đang ao ước, đang thèm muốn những cái gì liên quan đến dân tộc khác hơn cái nhàm chán hàng ngày. Tôi chưa bao giờ thấy đám trể yêu mến thê' giới tây phương như một con chiên đang tìm về đất thánh. 7 tuần lề ởVN năm 2004, tôi thấy lòng ham học hỏi của họ về chúng ta rất nhiều. Tôi không thích chính trị, nhưng khẳng định một điều, Việt cộng đào thải văn hoá VN đê'n tận cồi rễ, cần nhiều năm nữa người VN sẽ là người VN theo đúng nghĩa của nó.

Vấn đề hải ngoại: chúng ta có rất nhiều người viết nhưng ít người đọc. Người hải ngoại quá mệt nhọc với đời sống hàng ngày, nhiều người đầu họ chết từ 1975 rồi, không đọc không học, cần nhà lớn nhà nhỏ, xe đẹp xe xấu còn thi giờ đâu để đọc.
Có nhiê`u ngưòi cảm thấy không muốn đọc để bị đau đớn trong tâm hồn, không đủ can đảm đọc. Hơn thế nữa không phải ai cũng thích đọc như người viết hằng ao ươc. Nhưng số người đọc ở hải ngoại hơn số người đọc ở VN đó quí vị.

Có lẽ sau thê hệ tôi, các con tôi không đọc chữ Việt. Có gì đâu để đau lòng. Mình sống với đúng nghìa của nó đã la quá tuyệt vời, may mắn hơn nửa triệu chê't trên biển, không có dịp để nghĩ con họ có đọc chữ Việt hay không.

Các con các cháu nêu chúng viết bằng ngoại ngữ rất tốt, đọc giả không hạn hẹp chỉ có VN và nếu tác phẩm hay sẽ dịch sang Viet ngữ. Vấn đề là người viết có còn đam mê để viê't hay không. Viết như một nhu cầu hơn là vì thị hiếu và muốn nổi danh. Ý nghĩ về cái nhìn Van hai ngoai -Van quốc nội...It doesn't matter any more.

Ba tháng trước tôi đón ông anh ngoài tám mươi qua chơi. Anh là một nhạc sĩ nổi danh khi anh 18 tuổi. Anh vào đảng Cộng Sản như nhiều người. Tuy bị đào thải ra khỏi đảng anh vẫn mù mịt trong cái VieT Nam của anh. Thành thứ hay có cáccãi nhau rất lớn. Anh cho là Mỹ không có dân chủ, thằng em tôi làm boeing hờn 20 năm là do chính phủ cho làm, con cháu tôi làm bác sĩ luật sư, banking là do chính phủ cũng giống như đảng vậy. Tư tưởng của anh chê't từ năm anh 18 tuổi. Anh nghĩ cái gì trong nhà tôi cùng chính phủ cho cả, ngay cả khi cho anh tiền anh cũng nghĩ chính phủ thành thử tụi tôi dẹp cái chính phủ của anh. It doesn't matter. Anh dốt thì chịu thôi. Anh không biê't có được căn nhà, công việc, miếng cơm manh áo như ngày nay, chúng tôi đã từng bầm gan tím ruột, từng có những cơn đau đến tận cùng trong nồi niềm cô đơn và muốn sống. Có bao nhiêu người dân ở VN biết thế nào là đời sống hải ngoại. cho nên các bạn văn ơi hãy viê't cho người mình biê't thế nào là tự do. Tự do là khí trời ta thở, là cái cười tự nhiên, là muốn nói muốn chửi cứ làm và không phải thì thầm to nhỏ. Ừ tự do cả cái chuyện chửi thằng mắt xanh hàng xóm, chửi thằng chủ kỳ thị, chửi con cashier không cười với mình. Và chửi cả Bush. Người VN quốc nội còn đang trong giâ'c ngủ với các cơn ác mộng. Cộng Sản còn hơn God vì có Cộng Sản mới có mấy thằng cha tố cha mẹ đến chết, thay tên đổi họ, nô lệ rồi quên luôn mình là ai vì miê'ng đỉnh chung, làm lớn ăn hối lộ cũng là cách trả thù Đảng và nhà nước đã giết bố má họ. Cái điều đau lòng là, con cháu họ sẽ chẳng bao giờ họcđượcđiều nhân hậu hay can đảm. HXR
Users browsing this topic
Guest (3)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.