Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Nguyên Nhung
oc huong
#1 Posted : Thursday, January 25, 2007 4:00:00 PM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung






Hiện đang sống ở Houston, TX, USA
Thú vui là được tự do làm thơ, viết văn.

Cộng tác với các tạp chí:
Văn Hóa Việt Nam (Houston), Thời Đại (Houston), Luật Pháp Và Đời Sống (Houston), Dấn Thân (Houston), Việt báo (Carolina), Việt Nam Nhật Báo(San Jose)

Chuyên mục:
- Giới thiệu tác phẩm và tác giả
- Đọc truyện Nguyên Nhung trên làn sóng 900 AM Saigon Houston Radio

Tác phẩm đã xuất bản:
- Viết giữa mênh mông (gồm 18 truyện ngắn) - 2000
- Cõi Vô Cùng (truyện dài) - 2002
- Tuyển truyện Nguyên Nhung (gồm 22 truyện ngắn)
- Trời Vẫn Còn Xanh (gồm 22 truyện ngắn) - 2005

Sẽ in:
- Cõi Mù Sương (truyện dài)


Một số tác phẩm của Nguyên Nhung được đăng ở đây:

http://www.thienlybuutoa.../ThiVan/NguyenNhung.htm











oc huong
#2 Posted : Friday, January 26, 2007 1:03:11 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

TÌNH NGHĨA CASINO


Cánh cửa tự động của khu " shopping center" vừa mở ra, đẩy cái nóng mùa hè lui lại phía sau, một làn hơi mát lạnh quyến rũ ùa tới phả vào mặt thật dễ chịu. Nắng như thế này, không ai ngu gì mà đi vãn cảnh ở ngoài trời, thiên hạ đồ xô vào khu thương mại để vừa ngắm nghía thời trang, vừa " exercise" mát mẻ rồi thơ thới đi ra, chả phải cứ mang tiếng đi " shopping" là đã phải có tiền trong túi.

Những chiếc băng dài để dọc theo lối đi đã đầy những người ngồi nghỉ chân, thoáng nhìn, tôi bỗng giựt mình nhận ra bà ta ngồi lẫn lộn trong đám người trắng trắng, nhuôm nhuôm, vàng vàng ấy. Lạ thật, vừa thấy bà ta tôi đã tưởng mình nhìn lầm, vì hôm ấy sắc diện bà khác hẳn người phụ nữ yêu đời , son phấn thơm lừng tôi gặp trên một chuyến xe " bus " đi thăm Thần Đổ Bác cách đây đã lâu.

Chuyến đi cũng chỉ vì tò mò, tham quan cho biết sự tình, chẳng vì nhìn trên TV, xem phim ảnh, giữa đồng không mông quạnh, sa mạc nắng cháy như xứ Nevada mà mọi người từ các nơi trên thế giới vẫn đổ xô tới để chiêm ngưỡng, há không phải là một kỳ quan của thế giới? Với lại cũng đi tìm một đề tài mới lạ cho bạn đọc, mà biết đâu " thánh nhân đãi kẻ khù khờ", có khi chỉ bấm một cái vào máy, tiền đã hiện ra hằng trăm. Chả bù cho nghề viết lách, tiền nhuận bút đã chả có, in được cuốn sách chỉ mong lấy lại vốn cũng thật vất vả.

Hóa cho nên tôi gặp bà ta trên chuyến xe ấy cũng là duyên kỳ ngộ, vì chỉ một lần gặp gỡ, bao nhiêu chuyện buồn vui trong nghề " đánh đấm" để làm tài liệu, hầu như bà ta đã cung cấp đủ. Nhưng lần này gặp bà ngồi rầu rĩ, " mặt hoa da phấn" năm xưa đã héo úa đi nhiều, những nếp nhăn hồi xưa được căng kéo nhiều lần, nay không được tái sửa chửa hai má đã xệ xuống, kéo theo những đường nhăn dọc theo khóe miệng.

Nhưng chuyện ấy chỉ là chuyện thường, trời sinh tới một tuổi nào thì con người cũng phải thực tế mà hiểu ra điều ấy. Cái lạ là giờ này bà ta ngồi đây, lẫn lộn trong đám người nhàn rỗi tránh nắng vào ngồi trong khu thương mại. Lúc tôi tiến đến chào bà ta, bà nhìn tôi ngờ ngợ, rồi chừng như nhận được bạn đồng hành " tri âm, tri kỷ" trong chuyến xe bus năm xưa, bà nở nụ cười méo mó trông thật thương hại. Tôi hỏi:

" Thế nào? vẫn hành quân " ta thắng địch thua" như thuở nào chứ?"

Tôi thật tình không biết bà ta tên gì, mà một lần gặp gỡ tình nghĩa đâu đậm đà lắm để hỏi tên. Bà ta nhếch mép cười, đúng là một nụ cười buồn mà lại chua chát như một kẻ đang yêu mà lại bị tình phụ. Nhưng hình như nhận được vẻ cởi mở của tôi, bà ân cần nắm lấy tay tôi, lắc đầu:
" Đánh đấm con mẹ gì, nhẵn hết rồi, còn cóc gì đâu mà đánh."

Tôi ngạc nhiên nhìn bà, đùa một chút cho vui:
" Thế không phải " trăm trận trăm thắng" à?"

Bà ta lắc cái đầu bù xù, tóc loăn xoăn như cái rế để đặt nồi trong những căn bếp ở Việt Nam ngày xưa, cũng đùa lại:
" Địch luôn luôn thua, ta luôn luôn thắng, nhưng xe hồng thập tự chạy dài dài. Tôi chừa rồi cô ạ, sau mấy lần vét hết tiền bạc định " còn nước còn tát", nhưng càng tát thì càng cạn, bây giờ hết sạch sống nhờ vào nhà nước. Nhà cửa bán sạch sành sanh, chồng đi đằng chồng, vợ đi đằng vợ, bây giờ ở "housing", ăn " food-stamp", con cái cho được đồng nào hay đồng đó.

Tôi làm bộ ngạc nhiên:
" Thế mà vẫn có tiền đi " shop"..."

Bà ta cười bẽn lẽn:
" Shop" xiếc con mẹ gì, vào đây ngồi trốn nóng đấy. Ở nhà, cóc đủ tiền trả tiền điện, chỉ mở quạt nóng nó bốc lên tới cổ. Nhớ hồi xưa nhằm nhòi gì ba cái bạc lẻ ấy, vậy mà bây giờ bói một xu không ra..."

* * *

Buổi gặp gỡ tình cờ này khiến tôi không khỏi nhớ đến người đàn bà vui tính kia, đúng là khi có tiền bạc, nhất là những đồng tiền dễ kiếm không bằng mồ hôi nước mắt, tính tình người ta cũng hào xảng khác thường.

Chuyến xe bus hôm ấy là một chuyến mang nhiều tính chất Hợp Chủng Quốc, màn kỳ thị không thấy ở nơi này. Ông tài xế hình như đã khá quen với không khí cởi mở của đám hành khách, như đoàn quân sửa soạn đi ra mặt trận chỉ toàn hình ảnh chiến thắng và vinh quang. Lúc ấy, giá bóc được lòng mỗi người ra như bóc bánh, thì hẳn sẽ thấy những tính toán đầy lạc quan cho một chuyến xuất quân. Nét vui vẻ, phấn khởi hiện rõ trên khuôn mặt mỗi người, ai cũng thương yêu chia xẻ với bạn đồng hành , trao đổi kinh nghiệm để làm thế nào " ta luôn luôn thắng, địch luôn luôn thua", mà quên mất rằng sao đèn đuốc nó quanh năm sáng choang như thế, kẻ ra người vào tấp nập như vậy.

Cái may là tôi được ngồi gần đến hai nhân vật, bà ta và một người đàn ông đã lớn tuổi, tóc bạc nhưng vẻ mặt lại quắc thước, rất trí thức , có đôi mắt sắc sảo của một người đã từng làm chính trị. Nhưng với người đàn bà tôi thấy có vẻ gần gũi hơn, vì bà ta đi ngay vào vấn đề và cũng thật giản dị khi nghĩ về cái lẽ thắng bại trong cuộc đời. Còn ông kia ngồi im, chỉ đến khi nghe người đàn bà nói huyên thuyên về nghệ thuật đánh đấm, ông ấy mới xen vào.

Chuyện trò một lát để làm quen, bà ta liền lục lọi trong túi xách, lôi ra mấy cuốn " album" cho tôi xem. Cứ nghe bà thuyết minh về những tấm ảnh bà chụp, những địạ danh nổi tiếng trên thế giới tôi đã thèm nhỏ giãi. Không biết tiền bạc ở đâu mà bà ta đi du lịch gần như vòng quanh thế giới, từ Aâu sang Á, từ Aán Độ đến Roma, chưa kể chụp những cảnh bà đang bố thí cho người nghèo ở ba miền Trung Nam Bắc bên Việt Nam, đám trẻ mồ côi vây quanh lấy bà như vây quanh bà tiên từ trên trời hiện xuống. Bà chỉ vào tấm ảnh đứng bên thác Niagara ở Toronto, Gia Nã Đại, rồi mỉm cười bảo tôi:
" Cái thác đẹp nhất thế giới đó, nước đổ từ bên Mỹ sang phẳng lì như một tấm gương, tới vách đá này thì đổ xuống, đẹp tuyệt trần đi. Nước cứ xanh như ngọc, mùa hè đi gần bụi nước bay ra mát rượi."

Tôi trầm trồ khen:
" Thích nhỉ, mai mốt có tiền tôi cũng đi sang đấy xem cho biết."

Bà bĩu môi:
" Thác thiếc chả hấp dẫn bằng cái Casino ở đó, đúng là nước người ta giàu có hùng cường, đi đâu cũng có chỗ cho dân cờ bạc. Tôi chỉ xem sơ sơ cái thác rồi đi, đứng mãi thì cũng chỉ có bấy nhiêu nước , cái xứ ấy mới tuyệt, thành phố nào cũng có xòng bài, dân mười tám tuổi đã cho chơi thả cửa."

Tôi như gần té ngửa;
" Như thế thì trẻ con học hành làm sao?"

Bà ta bĩu môi:
" Đứa nào học thì cứ học, đứa nào đánh thì cứ đánh, như nước có dân với quân vậy mà, dân thì ở hậu phương sản xuất, lính đi ra chiến trường uýnh giặc"

Nghe bà ví von tôi phát bật cười, bà này có cái máu trào phúng tuy bình dân mà lại xít sao với thời đại. Bà ta lại chỉ cho tôi một tấm hình khác:
" Ở Connecticut đấy, chỗ này là đất làm ăn của mọi Da Đỏ."

Tôi hỏi thật ngớ ngẩn:
" Họ trồng trọt cày cấy ở đây à, thấy những cây là cây, rừng với rừng..."

Bà ta rũ ra cười cho sự ngớ ngẩn của tôi:
" Này cô em, tôi chỉ đi du lịch những chỗ cờ bạc thôi. Chả là dân da đỏ bị dân tứ xứ chiếm hết cả chỗ để trồng trọt, săn bắn, họ bèn đòi có chỗ riêng để tạo công ăn việc làm , thế là chính phủ cho họ mở xòng bài để kiếm lợi tức, đỡ phải trợ cấp lôi thôi. Chỗ ấy tuy rừng rú quanh quanh quẹo quẹo vậy, nhưng có tới đó mới thấy được cái kỳ quan của những lâu đài cờ bạc, mình cứ tưởng như lạc vào cung điện vua chúa nào ấy chứ!"

Tôi le lưỡi thán phục cho sự hiểu biết rộng rãi của bà. Mỗi tấm hình lại là một kỷ niệm một chuyến đi, trông bà cứ tươi như hoa. Tấm này bà đứng ở đền thờ Thánh Phêrô bên Ý, nhân một " tour " du lịch các xứ Châu Aâu. Có tấm chụp bà nhỏ tý ty bên cạnh tháp Eùiffel của kinh đô hoa lệ Paris, rồi những hàng cây con đường bên bờ sông Seine thơ mộng. Bà thao thao tả cảnh Paris cho tôi nghe:
" Trông thế mà bẩn lắm, mấy bà đầm dẫn chó đi dạo cho đúng điệu dân " Parisien" rồi cứ để phóng uế bừa bãi, lơ đãng là lãnh đủ. Còn đường ở quận Mười Ba ý à, dân Việt mình ở đấy đông lắm, cửa hàng ăn cứ đầy tràn ra, nhưng mà cũng bẩn, chó " ị" đầy đường y như mấy cái ngõ ở Sài gòn ngày xưa thôi."

Tôi chỉ biết gật gù tán thưởng, lòng vẫn thầm hỏi không biết tiền ở đâu mà chỗ nào bà ta cũng tới được. Đến những tấm ảnh cuối cùng thì tôi nhận ra đôi nét của quê hương, bãi biển Vũng Tàu, bà phong phanh trong bộ đồ tắm mát mẻ hơn tuổi của bà nhiều. Rồi những cảnh đền này miếu kia, chỗ đang ủy lạo người nghèo khổ, chỗ đang phát quà cho trẻ mồ côi, chỗ lại chụp cảnh bà đang chắp tay cầu nguyện. Không nén được sự tò mò, tôi hỏi:
" Hỏi thật bà, đi như thế này thì tốn tiền lắm, vậy bà làm gì mà có nhiều tiền như vậy?"

Bà cười khoái chí, nhe cả răng lẫn lợi:
" Thì tiền đấy chứ tiền đâu, tôi làm được nhiều việc cũng nhờ ở Casino, cứ biết cách đánh đấm là mang khối tiền về, còn không, chỉ có nước cúng cho nó để nó trả tiền điện . Thế đã ăn thua gì, chả những có tiền giúp cho người sống mà lại còn cầu cho người chết, mai sau tôi có qua đời, đã có sẵn người đón ở bên kia Cõi Vô Cùng trả ơn."

Hấp dẫn quá, như thế này thì bằng vạn lần viết lách, báo đăng đã chả được tiền mà in sách để chờ người ta mua cứ dài cả cổ ra vẫn chưa đủ vốn. Chỉ trừ những nhà văn nổi tiếng thì không biết sao, chứ thực tình tôi chưa sống được bằng nghề cầm bút. Tôi tò mò hỏi thêm:
" Nguyên nhân nào bà lại tìm đến Casino?"

Một câu hỏi quan trọng và nghiêm chỉnh như đang phỏng vấn một nhân vật thành công trong xã hội, khiến bà thích chí toét ra cười:
" Tôi thích nó vì nó tình nghĩa hơn nhiều người trong cuộc đời này. Snh nhật tôi nó cũng nhớ, cũng gửi thư chúc mừng, cũng mời mọc tới tặng quà cáp, lại còn " cadeau " tý tiền lẻ để kéo máy. Cả nhà tôi, từ ông chồng cho tới lũ con, chả ai nhớ ngày sinh nhật của mình, thế mà nó lại nhớ, tôi hỏi cô như vậy mà không cảm động sao được."

Lạy Chúa, quả là những người thân của bà vô tâm thật, tôi cứ trố mắt ra nhìn bà như nhìn một kỳ quan sống động của nhân loại, nhất là lời nói của bà rất tự nhiên , không gượng ép kịch cỡm gì cả. Bà có vẻ thật tình thích tôi vì nét ngây thơ đó, nên đã vui vẻ nói:
" Để lát nữa tôi chỉ cho cô cách kéo máy, nhưng cần là phải có vốn, chứ đánh cò con vài chục bạc bõ bèn gì. Những người vừa ra quân vẫn hay chết nhát, phải can đảm lên mới dành được thắng lợi."

Đúng là giọng nói của người đã từng trải chiến trường cờ bạc. Đến lúc này thì ông đầu bạc ngồi ở hàng ghế bên kia mới xen vào, ăn nói rõ là người " có gang có thép":
" Bà ấy nói đúng đấy. Thứ nhất là phải có tiền, thứ nhì là phải có gan, có súng có đạn mà không dám bắn thì cũng hỏng..."

Tôi lại lé mắt nhìn ông thán phục, ông ta đúng là nhà quân sự đại tài, nếu là nhà binh thì phải ở cấp chỉ huy, mà nhà khoa bảng thì bét ra cũng luật sư, tiến sĩ. Bà bạn mới rỉ tai tôi:
" Ông ấy ngày xưa làm lớn lắm, chứ không như ông nhà tôi, cấp bậc chỉ gần gần trung sĩ."

Tôi đưa mắt liếc qua ông đầu bạc, bụng băn khoăn nghĩ mãi không biết là ai, nếu là tổng thống hay thủ tướng thì tôi đã biết, vì nhìn nhẵn mặt họ trên báo. Nhưng không phải băn khoăn lâu, bà đã nói toang lên:
" Oâi dào, có làm ông gỉ ông gì, đến đây cứ gọi là bình đẳng hết. Chả ai cần biết ai làm gì, hơi sức đâu mà để ý cho mệt. Lắm lúc tôi thấy không chỗ nào con người lại đắc đạo như ở đây, sân si cuộc đời rũ đi hết, phiền não tâm can, ốm đau bịnh tật , gia đạo bất hòa, cha chết chồng bỏ gì cũng chả " care", thế mới là tu tâm giữa chợ đời chứ!

Cha mẹ ơi! Chưa có nhà thuyết giảng nào nói hay như bà ta lúc ấy. Rồi bà xoay qua chuyện làm cách nào để luôn luôn mang tiền về nhà, lại được " free" nhiều thứ như ăn "free", uống "free", đi xe bus cũng" free" nữa. Ông đầu bạc có vẻ khi dể cái kiến thức hạn hẹp của bà, nên ngứa miệng nói tiếp:
" Cái cách bà ấy chơi chỉ là cờ bạc non, chứ có chút đầu óc tính toán thì "trăm trận trăm thắng."

Câu nói này đúng là đụng vào tự ái của bà, bà bèn cong cớn lên:
" Ơ hay nhà cái ông này, ông tính giỏi thế sao cũng thua bét tĩ ra."
Oâng bạn già cũng chả vừa, nhắc lại:
" Chứ không à, chả hơn bà thua quá mắt mũi tối xầm lại, rồi đâm đầu vào "rest-room" của đàn ông , tý nữa không có tôi thì lôi thôi..."

Bà tẽn tò ngồi im, rồi nhoẻn cười thuật lại chuyện cũ, hóa ra họ quen nhau vì vậy:
" Ừ, tý nữa ông ấy không đứng lại đẩy tôi ra thì vỡ nợ. Hôm ấy thần tài đi vắng, đánh thua tới mờ cả mắt lại, cũng chỉ vì ham ăn chứ giá lúc được phải ngưng ngay đi chỗ khác thì ngon ăn rồi, thế mới tổ trác. Lúc thua bạc, mới nghĩ đến chuyện đi xả xui, đâm xầm vào cái nhà "xí" của đàn ông, may là bác ấy trông thấy bèn đẩy ra hộ. Cảm ơn bác, lúc hoạn nạn có nhau mới là tình anh em, nghĩa đồng bào chứ!

Ui da! Bà này văn chương chữ nghĩa gớm, đúng là những tay " trai anh hùng, gái thuyền quyên" gặp nhau. Tất cả cùng phá lên cười như nắc nẻ, ồn ào như chợ vỡ. Ông già chưa quên bài huấn ca về cờ bạc, lại tiếp tục nói tiếp:
" Tôi đã bỏ công nghiên cứu mãi mới biết được cái cách ăn thua của chúng nó, cái gì mình cũng phải cần điều nghiên cẩn thận, đường đi nước bước của nó rồi cũng phải có vốn để đầu tư, người ta gọi làm kinh tế là như thế."

Bà ta lại vui vẻ bốc thơm ông bạn già đầu bạc:
" Ngày xưa chắc bác làm tổng trưởng kinh tế? Gớm, cờ bạc mà cũng tính toán như chuyện quốc gia đại sự."

Ông già hãnh diện nói:
" Chứ sao, người ta hơn nhau ở cái đầu. Bà đem quân đi đánh, nhưng bom đạn không có thì đánh bằng mồm à? Bây giờ cứ nhìn bọn Tư Bản đánh nhau là biết, bom đạn trút xuống cơ man không biết bao nhiêu mà kể, ngày xưa mà nó giúp mình hết lòng như thế thì làm gì nên nỗi. Hễ có tiền mà đánh lớn, đánh mạnh cuối cùng thế nào cũng thắng, tiếc là bây giờ " lực bất tòng tâm", chứ chuyện này so với những cái kia chỉ là chuyện nhỏ."

Nghe ông ta nói, đúng là con người có chí lớn, nhưng mộng không thành cũng còn do " thiên thời địa lợi". Thấy hay hay, tôi trêu ông:
" Thế bây giờ chí nhớn không thành thì mình làm chí nhỏ vậy. Thế bác đã tìm được cách nào để " địch thua ta thắng" thì cũng nên chỉ dạy cho bà con nhờ."

Bà bạn đồng hành cười khì khì, phát ngôn nhanh như gió:
" Chí nhớn với chí nhỏ không bằng có gan đánh chí tử. Người mình có câu : " Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn" , có phải không bác giáo?"

Bây giờ bà lại gọi ông đầu bạc là ông giáo, có lẽ vì những bài hướng dẫn " binh thư cờ bạc" đầy hơi hướng chính trị của ông đã làm bà tôn ông lên hàng " sư phụ". Thấy tôi vặn vẹo vì mỏi lưng sau mấy tiếng đồng hồ ngồi xe bus đường xa, bà thương hại:
" Chưa quen đấy, cứ nghe lời tôi đi vài bận là " bách bệnh tiêu tan", chả phải đi đốc tờ xương với mắt, thiếu gì đốc tờ cũng phải tới đây để chữa bệnh."

Thiếu điều tôi muốn phì cười vì câu nói của bà ta. Bà ta lại tỉnh bơ nói tiếp:
" Thật đấy, tiền nhiều nhưng chửa chắc đời đã vui, không nhờ "casino" nó chữa cho thì có mà đau tâm thần. "

Oái giời ơi! Cứ lập luận theo kiểu bà này thì rõ rằng đời chẳng có gì để băn khoăn cả. Tôi bật hỏi:
" Thế sao người ta bảo " thấy tiền là mắt tối lại".

Bà ta như thương hại cho sự chậm tiêu của tôi:
" Thấy tiền mà tối mắt là xưa rồi, ở đây, hễ có tiền là mắt sáng lên ngay. Học nhiều, đọc nhiều mới mờ mắt, chứ cứ đứng kéo máy, tiền tuôn ra ào ào thì mắt cứ sáng lên bằng mấy lần ăn cà rốt với lại uống dầu cá. "

Bà ta thuyết hay đến nỗi ông già bên kia phát ngượng, mà cũng thú vị về cái tài đối đáp của người phụ nữ bình dân này. Câu chuyện cứ rôm rả nuốt dần quãng đường dài, chẳng mấy chốc mà tới nơi. Hành khách như những cái máy đứng bật dậy hối hả rời khỏi xe, lúc này đúng là " thì giờ là hột xoàn", không đi mau, đánh mau , đời càng lúc càng ngắn, ngày hết rồi chiều tàn, màn đêm buông xuống là thấy đời đã bớt đi một ngày trong cuộc đời ngắn ngủi.

Xuống xe, quay đi quay lại đã thấy ông già đầu bạc biến dạng, ông xuống xe lúc nào chả biết. Tôi thắc mắc thì bà ta giải thích:
" Bác ấy già rồi đời lại càng ngắn, không vội sao được. Với lại, mỗi tuần, bác ấy chỉ đi có một lần, mỗi lần chơi có vài ngày, nên bác ấy phải vội. Mà này, mấy tay nhiều chữ nghĩa họ thâm lắm, đừng hòng họ chỉ cho mình mánh khóe của họ, họ nói hay nhưng chả làm được bao nhiêu, hễ ăn thì khoe nhắng lên, còn thua thì im thin thít..."

Hôm ấy, dù bà ta chỉ dẫn tận tình mà tôi vẫn thua ráo trọi, có bao nhiêu đóng tiền điện cho Casino mở đèn sáng choang như ban ngày. Thế nhưng bà Thầy của tôi cũng chả hơn gì, lúc gặp nhau ở ngoài hành lang , bà ta sờ tay vào túi hỏi tôi:
" Còn đồng nào không hử"
" Làm gì vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi, vì nghĩ bà ta sắp lợi dụng mượn tiền đây. Bà ta chép miệng:
" Tớ có hai cái vé ăn "free", nhưng cóc có tiền " tip", mặt mũi mình thế này mà không " tip" cho mấy con bồi Mỹ nó ẹ lắm."

Đúng là tư cách của dân dám ăn dám chịu. Lúc ngồi vào bàn ăn, tôi hỏi:
" Thế sao bà bảo" trăm trận trăm thắng", bây giờ lại nhẵn túi không còn một đồng là sao?"

Bà ta tỉnh bơ trả lời:
" Đánh đấm thì cũng phải có thắng có thua, chứ chỉ ăn không thì tiền đâu nó thắp điện cho mình chơi. Hôm nay ra ngõ gặp trai, xui bỏ mẹ..."
" Hử? Bà nói gì mà ra ngõ gặp trai, chứ không phải ..."

Bà phá lên cười:
" Cứ nói thế cho nó đỡ hận". Rồi gạ gẫm:
" Đằng ý còn tý nào không cho tớ mượn vào gỡ lại, hễ ăn tớ trả ngay, còn không thì hẹn lần sau tái ngộ."

Tôi hoảng lên cho cái táo tợn tự nhiên của bà:
" Tôi làm gì có tiền, chỉ có mấy chục đã thua sạch , còn dư mấy đồng tiền " tip" cho bữa ăn rồi."

Bà nhìn tôi ngao ngán, rồi nhìn quanh xem có chớp được tay nào quen thì mượn đỡ . Rồi khinh khỉnh nhìn tôi, bà hỏi:
" Đằng ấy làm nghề gì vậy"
" Không, tôi chỉ viết lách vớ vẩn, nhưng chỉ đăng báo " chùa" , không có nhuận bút."
" Thế viết làm mẹ gì cho mệt óc?"

Tôi lắc đầu cười:
" Nó là " nghiệp" bà ơi, nhưng mà nó không giống như " nghiệp" cờ bạc của bà đâu."

Bà nhìn tôi thương hại:
" Ừ nhỉ, nhà văn thì làm cóc gì có tiền mà đánh bạc".

* * *

Đó là một câu chuyện , hay là một phóng sự về chuyến đi Casino của tôi với bà bạn bất đắc dĩ trên chuyến xe bus ngày hôm đó. Lâu lắm rồi, tôi không đủ can đảm để trở lại cái hồi hộp của thế giới cờ bạc. Mãi cho tới lúc gặp lại bà ta trong khu " shopping" này, thì lần lượt những chuyện cũ lại hiện về trong trí nhớ.

Khi từ trong cửa tiệm ra, tôi vẫn thấy bà ta ngồi thoải mái trên chiếc băng dài , đang cạp một chiếc bắp nấu, chắc là đem từ nhà đến để ăn cho đỡ buồn miệng. Thấy tôi, bà toét miệng cười, nụ cười của một người hình như không quan tâm đến thế giới loài người xung quanh:
" Có mua được gì không?"

Tôi gật đầu:
" Thì cũng vớ vẩn vài món " on sale" ý mà. Tôi nghèo thấy mồ đi, tiền đâu mà mua sắm.,"

Bà cười, hình như quần áo đối với bà chỉ là thứ xa xỉ không đáng quan tâm. Chợt nghĩ tới ông già đầu bạc ngồi chung chuyến xe bus năm xưa, tôi hỏi:
" Lâu rồi, bà có gặp lại bác gì đầu bạc ấy không?"

Miệng đang cười toe toét, chợt mặt bà ta chùng xuống đầy sự thương tiếc:
" Bác ấy chết rồi còn đâu, cứ đi mãi nó cũng rạc người ra, nhưng mà sướng. Mỹ nó bảo " Life short, Play hot " mà," chí lớn" không thành nên bác ấy phải đi tìm "chí nhỏ", cuối cùng thì chỉ có " chí chết". Mà này, không biết ở cái Cõi Vô Cùng kia có Casino không nhỉ, nếu có, tôi cũng mừng cho bác ấy."

Đúng là bà ta vẫn vấn vương không khí một thời ở những Casino đã lấy hết của bà tiền bạc và hạnh phúc gia đình, cái đam mê nào nếu không biết xử dụng, cũng đều là những con dao hai lưỡi là thế. Trước khi chia tay, chắc là khó có lần gặp lại, tôi bảo bà:
" Tôi về viết truyện bà cho mọi người đọc nhé!"

Bà ta nắm tay tôi , thật tha thiết:
" Ừ, viết cho hay vào để người ta biết mà tránh. Nhưng này, nếu được trả tiền nhuận bút thì nhớ ra đây dẫn tớ đi ăn phở."

Nguyên Nhung


oc huong
#3 Posted : Friday, January 26, 2007 1:04:58 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

NGƯỜI BẠN BÊN ĐƯỜNG



Từ lâu rồi tôi đã quen xem nó là người bạn thầm lặng của tôi, ở góc đường nơi gần đó có một trạm xe bus, mỗi tuần lễ tôi có 5 ngày, mỗi ngày có ít nhất 10 phút để gửi cho nó những tâm sự vẩn vơ của mình, khi không dễ tìm được ai đó biết nghe những điều mình muốn kể. Mỗi buổi sáng bất cứ thời tiết nào, trạm xe bus này luôn luôn có một đám hành khách quen thuộc chờ xe đi làm, gần như đều biết mặt nhau và câu chào ngắn nhất là "say: Hi!" mỗi lần gặp.

Theo thói quen, tôi thích ra khỏi nhà sớm hơn mười phút, đứng chờ xe mà cũng để tựa người vào gốc thông ven đường, gửi cho người bạn thầm lặng dễ thương vài điều suy nghĩ của mình trước những đổi thay của thời tiết, một biến động nào đó trong tâm hồn, hay những gì tôi bắt gặp trong đời sống xung quanh. Ngay trong đám hành khách đi cùng chuyến xe mỗi buổi sáng, cũng đã có biết bao nhiêu điều để kể , bà Mary đã về hưu mà vẫn chưa chịu nằm nhà, bà đi làm không phải vì tiền, nhưng để được hòa mình vào xã hội nhộn nhịp xung quanh. Cô gái người Mễ Tây Cơ tên Isabel, luôn nhanh nhẩu kéo sợi dây chuông để người tài xế da đen ngừng xe lại cho tôi xuống. Mới đầu không để ý tôi cứ tưởng chỉ là sự trùng hợp khi cô ta xuống cùng một trạm, nhưng sau thấy cô ngồi lại trong xe, tôi tò mò hỏi thì cô hồn nhiên trả lời là biết tôi ngày nào cũng xuống ở trạm xe này, nên kéo dây cho người tài xế biết.

Chuyến xe bus mỗi ngày trên lộ trình của tôi tới sở làm, mà những khuôn mặt hành khách thường xuyên gặp gỡ nhau trên một đoạn đường nào đó, bỗng làm cho con người gần gũi với nhau, hôm nào vắng cũng cảm thấy hơi thắc mắc. Người ta có thể làm bạn với nhau từ những chuyện nhỏ nhặt như vậy, Isabel sau này là bạn đồng hành với tôi trên một quãng đường, và ngay cả Bob, ông tài xế da đen tôi tưởng là rất khó thương kia cũng có một tâm hồn dễ thương hơn màu da của ông nhiều lắm. Tôi có thói quen đêm nào cũng đọc sách trước khi đi ngủ, hôm ấy khi mò đến cái kính thì không biết là mình đã đánh rơi ở đâu. Tôi nghĩ đến chuyện hôm sau phải đi mua cặp kính khác, nhưng sáng hôm ấy khi lên xe, ông tài xế sau khi bấm thẻ, đã giơ ra trước mặt tôi cái bao kính màu nâu. Thật ngạc nhiên, thì ra ông tuy có vẻ lầm lì như không thèm biết những khách quen đi xe mỗi ngày, vẫn chưa hẳn là người không tử tế. Đứa bé gái chưa đầy năm rất bụ bẫm được mẹ bế tới nhà trẻ trước khi đi làm, ngày nào cũng nhoẻn miệng cười có những chiếc răng sữa trắng nõn với những người hành khách ngồi gần mẹ nó, nụ cười trẻ thơ rất hồn nhiên như ly cà phê nóng, như chiếc "donut" tươm đầy mật gửi cho những người xung quanh một chút vui tươi, an bình của một ngày chật vật vì sinh kế.

Tối qua trời lạnh, gió rền rĩ trong những vòm cây trong vườn, gió gào thét trên mái nhà rồi luồn vào mái hiên , khiến tôi nghĩ đến cái tổ chim sẻ bằng cỏ khô, vẫn liếp chiếp mượn mái hiên nhà tôi làm tổ ấm. Trời rét, gió thổi rung bần bật những thân cây trong vườn, chắc người bạn thầm lặng bên đường của tôi cũng quằn quại chống trả với những cơn gió mùa đông khắc nghiệt. Sáng nay gió đã rủ nhau đi xa, trời lại yên tĩnh với cái rét ngọt luồn vào xương tủy. Đứng nép sau gốc thông là ông già râu bạc, người khách quen của chuyến xe bus, mỉm cười chào tôi, cả khuôn mặt trốn kỹ trong chiếc mũ len chỉ thò ra đôi mắt và chòm râu bạc. Ngày nào ông cũng đợi chuyến xe đi vào "down town", chẳng biết ông làm gì nhưng rồi có một ngày tôi cũng biết, khi bắt gặp ông với tấm bảng giấy đứng bên lề đường, giữa dòng xe cộ qua lại đông đúc. Hóa ra ông là một người " homeless" sống ở dưới cái gầm cầu nằm trong khu ngoại ô ít xe qua lại, tôi đã nhìn thấy ông ở một góc đường trong " down town", với mảnh giấy carton viết xiên xẹo mấy dòng chữ.

Hình như ông già ấy không thể nhập cuộc với đám người vô gia cư nằm, ngồi hỗn độn trong khu công viên ở down town, ông tìm một nơi trú ẩn bình yên để sống nốt những ngày còn lại. Mỗi sáng ông chịu khó đón xe đi vào một nơi không ai biết ông là ai, để trốn tránh một hiện tại đau khổ. Không một mái nhà, hình như có hôm đi dạo quanh khu mình ở, tôi đã nhìn thấy một người homless sống dưới gầm cầu, che chắn kỹ lưỡng chỗ ngủ của mình bằng những mảnh thùng cứng chất xung quanh một cái xe lấy ở khu chợ nào đó. Không hiểu có phải ông già râu bạc đã chui từ dưới gầm cầu lên để nhập vào đám hành khách mỗi ngày trên chuyến xe lúc bảy giờ sáng. Ông thường ngồi ở hàng ghế phía sau con bé con chưa đầy năm, để được nhìn ánh mắt trong veo và cái miệng toe toét cười của nó dành cho ông mỗi buổi sáng. Con bé thỉnh thoảng nhoai người xuống để cười với ông, giơ bàn tay bụ bẫm bé xíu ra như muốn nắm lấy ngón tay thô kệch của người đàn ông nghèo khổ đang ngoắc ngoắc nó, nhưng ông không bao giờ dám chạm vào bàn tay non nớt của đứa bé thiên thần, chỉ vì đâu đó có một khoảng cách mà ông tự cảm thấy toát ra trong đôi mắt của mọi người xung quanh.

Năm nào tôi cũng nhận được nhiều tấm thiệp Giáng Sinh, hình ảnh và màu sắc tươi vui từ bằng hữu xa gần gửi đến, kèm theo những lời chúc tuyệt vời cho mùa Lễ đẹp nhất trong năm. Tôi nghĩ đến ông già râu bạc , đến người con gái Mễ Tây Cơ hay bấm chuông cho tôi xuống khi xe sắp đến trạm, người mẹ bế đứa con thơ , bà Mary hay ngồi ở hàng ghế đầu cạnh cửa đi lên đi xuống, hay người tài xế da đen quen thuộc trên chuyến xe quen mỗi ngày. Sáng hôm đó trước khi lên xe, tôi đã hỏi thầm điều đó với người bạn thầm lặng của mình, nghe tiếng reo vi vu trong gió, chắc chắn là sự đồng cảm về dự định của tôi trong mùa Giáng Sinh năm nay, đó là chuyện sao không gửi cho những người bạn mỗi ngày của mình một tấm thiệp Giáng Sinh đơn sơ mua ở một tiệm 99 cents phía bên kia đường. Chỉ một tấm thiệp nhỏ thôi, tôi có thể gửi hết thông điệp của tình yêu mà không cần dài dòng diễn đạt, đến với những người tôi gặp gỡ. Riêng ông già râu bạc, trên tấm carton ông ôm trước ngực, tôi thấy loáng thoáng hàng chữ " VN Veteran", vậy sao không gửi cho người lính già chút quà nhỏ nằm trong tấm thiệp ghi đầy những lời hoa mỹ. .

Vài ngày trước lễ Giáng Sinh, những tấm thiệp đã được tôi gửi đến từng người bạn đồng hành với tôi trên chuyến xe buổi sáng, tôi nhận thấy nét hân hoan cảm động trên khuôn mặt mỗi người, và nụ cười với hàm rắng trắng bóng của người tài xế da đen bỗng dễ thương hơn, ông ta đang huýt sáo một bản nhạc giáng sinh có âm điệu vui tươi. Ông già râu bạc vẫn nháy mắt cười với đứa bé nằm trong nôi, con bé hôm ấy được mẹ quấn thêm lớp chăn mới rất ấm. Ông có vẻ xúc động khi nhận tấm thiệp giáng sinh của tôi, hàm râu bạc rung rung khi đôi môi muốn nhếch một nụ cười mà lại méo xệch đi vì cảm động, rồi khi nhìn thấy tờ giấy mười đồng tôi gấp nhỏ trong lòng tấm thiệp, dường như đôi mắt ông mờ đi dưới màn lệ mỏng. Dù không nói ra nhưng chắc ông đã hiểu hết tâm tình của tôi khi gửi đến ông món quà nhỏ bé ấy, như cây thông bên đường, người bạn thầm lặng của tôi, tôi chỉ âm thầm kể cho nó nghe những gì ấp ủ trong lòng mình, rồi khi gió reo vi vu những cung đàn êm ái từ ngọn thông xanh, đấy có phải là câu trả lời dịu dàng nhất mà tôi nhận được.

Buổi chiều trước tuần lễ Giáng Sinh, tôi trở về nhà với một nỗi buồn ngổn ngang nặng trĩu trong lòng. Bao giờ cũng thế, những buổi chiều đông nhạt nhòa ẩm lạnh cũng làm tâm hồn gây gây một nỗi buồn không duyên cớ. Đi ngang ngôi nhà thờ nhỏ đã thấy người ta giăng đèn sáng trưng, chỉ một màu trắng lung linh trên cây thánh giá. Vẳng trong chiều tà là tiếng chuông trong trẻo vang lên trong ngôi giáo đường thơm mùi gỗ thông, gợi cho tôi nhớ đến những mùa Giáng Sinh thời trẻ tuổi. Bên này đường người bạn dễ thương của tôi vẫn lặng lẽ trong bóng tối của buổi chiều tà, khi đi qua tôi không bao giờ quên sờ vào thân gỗ xần xùi của nó, một mảnh vỏ bé xíu rơi vào tay tôi để lại một mùi thơm hăng hắc mà dễ chịu vô cùng. Tôi nhìn lên ngọn thông, chào nó và đi về nhà với mùi hương của miếng vỏ thông còn vương trên những ngón tay, như ngày xưa thời hoa mộng, mùi hương của buổi hẹn hò vẫn còn vương vấn trong lòng người thiếu nữ.

Trong đám hành khách của chuyến xe mỗi ngày, chuyến đi và về thường bớt đi hay thêm vào những khuôn mặt quen thuộc, tùy theo giờ làm việc của họ. Bà già Mary ngồi ở cửa trước í ới kêu người tài xế ngừng chuyển bánh, khi thấy có một người phụ nữ ì ạch với cái bụng bầu đang chạy cố theo chuyến xe cuối ngày, người tài xế da đen làu bàu một chút nhưng cũng ngừng xe chờ người khách mệt nhọc leo lên xe với cái bụng to. Anh chàng đeo kính trắng, quần áo chỉnh tề thường ngồi ở hàng ghế giữa, đã leo lên xe rồi lại vội vã tuột xuống trước con mắt ngạc nhiên của nhiều bạn đồng hành, anh ta chỉ kịp nói là sáng nay vội quá nên đã lái xe đi làm, nhưng theo thói quen buổi chiều tan sở lại đi một mạch leo lên xe bus, mới chợt nhớ ra cái xe của mình đang nằm ở bãi đậu. Mọi người cười ồ lên vui vẻ, chuyến xe bus mỗi ngày có nhiều chuyện vui như thế, nhưng cũng không thiếu chuyện buồn khi một người khách tự nhiên chào tạm biệt mọi người, vì ông ta mới bị " lay off".

Sáng nay, trước khi lên xe tôi đã đứng chờ khá lâu nơi gốc thông ven đường, không thấy ông già cựu chiến binh râu bạc chờ xe như thường lệ, tự nhiên tôi lại băn khoăn chờ đợi. Bà Mary đã nghỉ sớm để sửa soạn nhà cửa mừng lễ Giáng Sinh với đứa con ở xa về, chuyến xe hôm đó chỉ có cô bé Mễ Tây Cơ luôn miệng kể chuyện, người phụ nữ trẻ vẫn bế đứa bé gái lên xe đúng giờ, rồi khi xe sắp chạy mà vẫn chưa thấy bóng ông già râu bạc. Isabel nhanh miệng tỏ ý thắc mắc về người bạn đồng hành già nhất đã vắng mặt trong chuyến xe bus , rồi lại quên ngay khi quay sang hỏi tôi về cách nấu món "soup" phở mà cô đã thưởng thức một lần ở quán ăn Việt Nam. Chỉ cách nấu một món ăn lách cách như Phở cho một người có vẻ không thông thạo chuyện bếp núc như Isabel không phải dễ, tôi đề nghị Isabel chỉ cần đến tiệm Phở, "To Go" một, hai là có một món soup ngon lành với người yêu bữa ăn tối đêm giáng sinh, lại không cần nấu nướng. Cô nhe hàm răng trắng bóng với đôi môi tươi khúc khích cười, thán phục cách ăn uống thông minh mà cũng rất tiện lợi của tôi.

Buổi tối về nhà trong căn phòng ấm áp, cây thông nhỏ ở góc bàn vẫn thi nhau chớp lên những tia sáng nhiều màu thật đẹp, hắt lên khuôn mặt xinh xắn của con búp bê tật nguyền đứng trong tủ sách một vẻ đẹp huyền ảo. Con búp bê tật nguyền mà tôi luôn mang theo đời mình từng chặng đường đời, vẫn là một kỷ niệm Tình yêu Giáng Sinh đẹp nhất trong đời tôi. Mỗi năm, gần bốn mươi năm rồi nhỉ, năm nào tôi có lúc như một đứa trẻ con , say sưa may cho con búp bê tật nguyền một cái váy đẹp, thắt một cái nơ cùng màu áo lên mái tóc xác xơ của nó. Ngày xưa con búp bê xinh đẹp như một thiếu nữ tuổi mười lăm, lành lặn và duyên dáng trong bàn tay của tôi ở tuổi hai mươi, đã bị mấy đứa trẻ con nghịch ngợm dành giựt đến nỗi một chân của nó bị kéo lìa ra và không còn trở lại được tình trạng cũ. Nó vẫn đứng đó với khuôn mặt kiều diễm không bao giờ thay đổi, đôi mắt to và hàng mi cong nhìn tôi như thuở ban đầu .Con búp bê vẫn thế, chỉ khác là cái chân bị tật nguyền nên dáng đứng hơi lệch lạc, còn tôi, tôi không phải tôi của những năm tháng cũ . . .

Oâi kỷ niệm! Dường như con người hay mang theo trong đời mình những kỷ niệm, mặc dù kỷ niệm đẹp nhưng với thời gian bao giờ cũng trở thành kỷ niệm buồn. Tôi cũng không vượt qua được điều đó dù tiếng chuông trong trẻo mùa Giáng Sinh của hiện tại, vẫn gieo vào lòng tôi nỗi khắc khoải sầu muộn. Tôi vẫn chỉ kể cho người bạn thầm lặng bên đường toàn những nỗi buồn vu vơ, để rồi nghe tiếng lá reo trên khoảng trời mênh mông, tôi nhận lại làm niềm vui mỗi ngày của đời mình. Dưới gốc thông ấy có bao nhiêu người dừng chân ở đó, họ có bao giờ nghĩ nó như một người bạn thầm lặng bên đường? Ông già cựu chiến binh râu bạc vào mùa Đông cũng hay nép vào đó trốn gió, có khi nào ông cảm nhận được sự chia xẻ của nó qua tiếng lá reo trên khoảng không bát ngát?

Đêm đã khuya mà tôi vẫn trằn trọc khó ngủ, cảm thấy thiêu thiếu một điều gì trong khoảng không gian quạnh vắng. Tôi nghĩ đến những bản nhạc Giáng Sinh qua tiếng đàn của Clayderman, trong cái CD người bạn gửi tặng. Tiếng đàn dương cầm của người nhạc sĩ tài ba lan lan, bồng bềnh theo giấc ngủ, ở đó có một mùa Giáng Sinh và những bức tượng Thánh trong ngôi giáo đường xa tít tắp, lâu lắm rồi tôi đã bỏ quên trong ký ức. Tôi còn hình dung ra khuôn mặt say sưa của người nhạc sĩ và đôi tay của ông đang lướt trên phím đàn, đêm trôi đi như một dòng sông. Hình như tôi khóc, lâu lắm rồi tôi đã nhủ lòng dấu kín những giọt nước mắt vào đôi mắt ráo hoảnh của mình, nhưng tiếng dương cầm của Clayderman dìu dặt đưa những cung bậc của âm nhạc làm tim tôi chảy ra những giọt lệ . . .

Buổi sáng tôi dậy sớm, dù đêm ngủ không ngon giấc, lại nghĩ đến người đàn ông râu bạc hôm qua không thấy đón xe đi về down town, làm người hành khất đứng bên lề đường với tấm carton viết lộn xộn những hàng chữ. Ông ta có đau ốm gì không, cuộn mình trong cái túi ngủ dưới gầm cầu có đủ ấm trong mùa đông, những mảnh thùng giấy có đủ sức che được những hạt mưa và gió lạnh lùa vào tấm thân khốn khổ của kiếp không nhà? Bao nhiêu câu hỏi cứ chờn vờn trong óc tôi với một sự so sánh đơn giản thế nào là hạnh phúc và không hạnh phúc. Tôi định rằng sáng nay, một buổi sáng áp lễ Giáng Sinh, tôi sẽ đón xe sớm hơn bình thường để thủ thỉ với người bạn bên đường nỗi trăn trở của mình , và cũng muốn biết hôm nay ông già râu bạc có đến trốn gió sau cây thông để đi "down town" như mọi ngày không?

Buổi sáng áp lễ Giáng Sinh năm nay tự nhiên trời ấm áp và ít gió, thật là một điều may mắn hạnh phúc cho ông già râu bạc ở gầm cầu. Tôi linh tính như ngày hôm nay mọi điều đều tốt đẹp hơn cho mình, kể cả cây thông bên góc đường gần trạm xe bus. Đúng như tôi nghĩ, ông già râu bạc đã lấp ló đứng sau gốc thông, thấy tôi đi tới ông toe miệng còn vài chiếc răng sún ra cười, và điều ngạc nhiên hơn cả là nơi gốc thông, có một vòng nơ quấn quanh gốc cây, lại thêm chùm trái châu lóng lánh bạc gắn lên chiếc nơ đỏ. Món quà Giáng Sinh mà ông già râu bạc nghèo khổ đã mang đến cho người bạn bên đường, cây thông của chúng tôi, tôi bỗng chợt nhận ra hạnh phúc là niềm vui mà mọi loài có thể chia cho nhau lại từ những nhỏ nhoi nhất.

Nguyên Nhung, Giáng Sinh 2006.

oc huong
#4 Posted : Friday, January 26, 2007 1:07:55 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN


Đôi lời của người viết:
Một mùa Xuân , tôi có ý định đem vứt đi cây Quất già trồng trước cửa, nhưng lần lữa nửa muốn nửa không. Tôi nói điều đó với chị tôi, chị bảo : " Hoa không phụ người sao người lại phụ hoa". Vì câu nói ấy tôi vẫn giữ cây lại. Lạ lùng thay, buổi sáng mùng một Tết, tôi bước ra hiên và xung quanh tôi thoang thoảng mùi hương thơm từ những chiếc hoa xinh xinh màu trắng, với những chiếc lộc non trên cành quất xác xơ. Đó là lý do tại sao tôi đã viết câu chuyện " Giấc Mộng Đêm Xuân".
Nguyên Nhung.



Năm nay Xuân về, Tết đến muộn, đã bước qua tháng hai Dương lịch nên tiết trời thật là ấm áp. MùaXuân đã trải những vạt nắng hồng trên sân cỏ còn ướt sương, bầy chim cũng thức dậy hót líu lo trước hiên nhà mỗi buổi bình minh.

Trước Tết độ nửa tháng, Nguyễn, chủ nhân căn chung cư hai phòng ngủ, nhưng hàng hiên rất thoáng và rộng, đã dọn dẹp mớ cây cảnh trong những chiếc chậu sành tráng men trước cửa nhà. Tuy chưa đến tuổi điền viên, nhưng mỗi ngày đi làm về, chăm chút mấy cây kiểng cũng là thú vui của Nguyễn, đỡ phải nghĩ ngợi chuyện đời vốn vui ít, buồn nhiều.

Sống cảnh đời cô độc, không vợ không con, không họ hàng thân thích, Nguyễn đã quen dần với cái cô độc, tĩnh mịch của tâm hồn. Có lúc chàng cũng nghĩ đến chuyện ở chung với một người bạn nào đó, chia nhau chút tiền điện, tiền nước hằng tháng, nhưng chàng lại vội thôi ngay, vì chỉ sợ sẽ đánh mất cái tự do được yên tĩnh sống một mình. Có khi chàng tự chế giễu mình, " lòng mình còn không hiểu nổi huống chi lòng người". Đây chỉ là lối an ủi của người sống mà không biết rằng mình đang sống, đau mà cố quên rằng lòng mình đang đau.

Năm nay tự nhiên Nguyễn có ý định cần phải thay đổi một cái gì, khi nhìn những chậu cây chàng trồng trước cửa. Hai cây thông đất khỏe mạnh tươi tốt, bất chấp sự thay đổi của thời tiết, mấy giò phong lan đang trổ hoa rất đẹp dù không được tưới tắm bao nhiêu. Giống này rất lạ, không ưa nước, Nguyễn tưởng sự chăm sóc sơ sài của mình thì chẳng hoa nào sống được, vậy mà giờ này nó vẫn đơm hoa. Riêng cây quất nom có vẻ cỗi, cách đây bốn năm cũng vào dịp Xuân về, vợ chồng người bạn đã mang tặng chàng, với nhã ý đem cái sung túc , xum xuê, tươi thắm của cây cỏ để chàng khỏa lấp phần nào nỗi hiu quạnh. Hai năm đầu chàng còn chăm tưới bón, nhưng đến mùa Xuân thứ ba chỉ còn lác đác dăm quả vàng óng trên cành cây xơ xác cằn cỗi, nhìn rõ mà phát chán. Nắng hè hừng hực rồi mùa đông giá rét đã cướp dần sinh lực của cây, như người con gái chỉ vui có một mùa cưới, rồi thì cũng quắt quay với những tất bật của đời.

Dạo này tự nhiên Nguyễn hay có những nỗi buồn vô cớ, đến nỗi chểnh mảng cả việc săn sóc cây cỏ. Mỗi độ Xuân về, Nguyễn lại nghe lòng mình chìm ngập trong một nỗi buồn không đâu. Lắm khi chàng nhìn đăm đăm vào một chiếc lá xanh, nhìn để mà nhìn chứ hồn chàng dường như đã gửi vào một nơi chốn rất xa xăm, có thể là một khoảnh đời trong dĩ vãng. Ở đấy biết bao kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, muốn thoát ra rồi lại muốn quay về, khi con người đến lúc sống bằng những hồi tưởng dĩ vãng. Nhìn hoa, nhìn lá, lắm khi Nguyễn đã ngậm ngùi nhìn rõ mối tương quan giữa con người và cây cỏ, mới ngày nào tóc còn xanh mà nay đã sợi đen sợi trắng, mắt đã bớt phần tinh anh, đuôi mắt thì hệt như một chiếc lá héo. Không có gì chống chỏi nổi với thời gian, sự luân chuyển của vũ trụ vẫn quay đều, Nguyễn nghe như đời dần dần ngắn lại.

Đêm nay, đêm cuối năm. Dù chỉ có một mình, Nguyễn vẫn có thói quen bày biện chút bánh trái để cúng Ông Bà. Trên chiếc bàn con là tấm ảnh của cha mẹ chàng đã ố vàng với thời gian, tấm hình duy nhất còn lại mà chàng nâng niu gìn giữ, từ khi gom góp mớ hành trang xuống tàu quyết thoát ra miền quê hương khốn khổ. Trong cái đêm ngày cùng tháng tận, mùi nhang khói lãng đãng trong không gian , lòng chàng lại chập chùng với biết bao kỷ niệm buồn vui, rất nhiều lần Nguyễn nghe như có tiếng sụt sùi của những giọt nước mắt, chảy ngược vào tim khiến chàng xúc động đến run rẩy.

Nguyễn mở hé cánh cửa kính, một làn hơi mát lạnh từ bên ngoài ùa vào căn phòng vắng, không phải thứ gió lạnh giữa đêm Xuân, mà nếu nghĩ ngợi thêm chàng cứ ngỡ đó là cái dịu dàng của dáng Xuân, đang rón rén bước vào, quấn lấy chàng trong một cảm giác kỳ thú. Đêm dịu dàng vô cùng, dưới sân cây hoa đào cũng đang rung rinh những nụ hoa mới nở dưới đêm sương, Nguyễn hình dung ra cây cỏ cũng đang nín thở để tận hưởng chút êm ái của đêm giao mùa.

Tự nhiên Nguyễn lại muốn nghe một vài bản nhạc Xuân quen thuộc trong một đêm tuyệt vời như đêm nay. Lâu lắm rồi, năm nào cũng đón Tết một mình, chàng có bao giờ lại có được cái êm ả như vậy. Chàng mở nhạc rồi lười biếng thả mình trên chiếc " sofa" ngoài phòng khách, nhắm mắt lại để tận hưởng những âm thanh dặt dìu trong đêm vắng. Trong lúc mơ màng thả hồn với suối nhạc êm đềm , Nguyễn mơ hồ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng lá hoa rì rào từ mấy chậu hoa, rồi giọng ngọt ngào của ai đó gọi tên mình, ngay khi ấy bóng một phụ nữ đã xuất hiện trước khung cửa. . .

Nàng mặc chiếc áo vàng, màu vàng tươi thắm làm cho khuôn mặt ửng hồng, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi phơn phớt hồng và từ nơi nàng toát ra mùi hương của hoa cỏ, rất thanh khiết. Chưa bao giờ Nguyễn thấy một vẻ đẹp nào thanh lịch hơn, không phải nét ngây thơ nũng nịu của một cô gái mới lớn, cũng không son phấn lả lơi mời gọi của một ả giang hồ. Từ nơi nàng toát ra một vẻ là lạ khiến chàng phải kính nể. Nàng lên tiếng, âm thanh cao và trong trẻo:

" Đêm Xuân, đến thăm chủ nhân lúc này thật là đường đột, mong ông vui lòng thứ lỗi. Gần gũi đây mà mấy độ Xuân về, không chia xẻ được nỗi niềm với người cùng quê lòng thật là áy náy. Thôi thì mỗi năm có một mùa, một mùa có một ngày như đêm nay, ông cho phép thì tôi xin được vào đàm đạo mấy lời."

Nguyễn thấy thật là lạ lùng, tuy vậy chàng cũng vẫn giơ tay lịch sự mời khách, cố moi óc để nhớ xem quanh đây có ai giống nàng, mà nếu có thì chàng cũng chẳng biết, vì ngày nào cũng đi làm từ sáng tinh mơ, chiều về tưới cây qua quýt rồi lại chúi đầu vào đọc sách. Khu chung cư lẫn lộn dân tứ xứ, lâu nay cũng thấy có nhiều người Việt dọn đến rồi dọn đi, Nguyễn cũng chẳng quan tâm. Sự xuất hiện của người thiếu phụ áo vàng trong đêm nay làm chàng ngạc nhiên, vừa ngạc nhiên lại vừa thích thú. Hay nàng chỉ là một hồn ma, sự gặp gỡ một bóng ma đẹp trong đêm nay chẳng thích thú lắm sao!

Nguyễn rót trà mời khách, bình trà cúng giao thừa vẫn còn ấm, chủ khách nhìn nhau bỡ ngỡ. Chàng khách sáo mở lời:

" Thật quý hóa quá! Mấy năm nhà cửa vắng vẻ vì chỉ có một mình, nay có khách đến thăm, lại là một giai nhân, năm nay chắc may nhiều hơn rủi."

Thiếu phụ cũng cười, trông nàng thật có duyên, sắc áo vàng như rạng rỡ theo nụ cười của giai nhân, khiến nàng bội phần kiều diễm, tuy vậy người đối diện lại vẫn không dám buông lời bất nhã.

" Cám ơn ông đã quá khen. Trong phòng này ấm quá, nào nhang thơm, nào trà ngon, chủ nhân thật là tươm tất. Mùa Đông đã qua, năm nay Xuân về tiết trời ấm áp, người người cây cỏ cùng rạo rực đón Xuân sang. Riêng chủ nhân, sang năm mới phải tìm một bóng hồng cho vui nhà, vui cửa."

Nói xong, nàng nhìn Nguyễn ý nhị khiến chàng bỗng dưng nghe lòng mình xao xuyến. Chàng thở nhẹ:

" Không dấu gì cô, từ ngày sang đây đời sất bất xang bang nên chưa dám nghĩ đến chuyện vợ con. Bây giờ đã qua đi tuổi ấy, ngoảnh lại thấy mình đã già lại càng không dám nghĩ. Thôi thì " lần lữa ngày qua tháng lại qua", riêng tôi lại có nỗi niềm riêng, biết ai là người tri kỷ?"

Thiếu phụ nâng tách trà nhấp giọng, thanh âm lắng xuống bùi ngùi:

" Biết ông đã mấy năm mà không chia xẻ được thật là đáng tiếc. Chúng ta cùng gốc gác trời Nam, vì " tai trời ách nước" mà phải bỏ nước ra đi, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau nhưng cũng đồng cảnh ngộ, lưu lạc nơi xứ lạ quê người. Qua xứ này, khác biệt từ văn hóa cho tới phong thổ, cây cỏ còn héo hắt huống chi con người. Sẵn đây cũng kể ông nghe, tôi được một người Việt Nam bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi, mang theo làm bạn cho đỡ nhớ quê cha đất tổ. Tưởng đã bỏ thây nơi lòng đại dương, ngờ đâu lại được đến nơi này. Đất nước quê người khác đất nước quê mình, chí lớn không thành, sống một đời cô quạnh, chủ nhân tôi buồn rầu sinh ốm đau, bịnh tật rồi chết, thân tôi lưu lạc bốn phương. Dù sao, vì vận nước mà phải nổi trôi đến nơi này, nhưng có sao chăng nữa thì vẫn giữ nguyên cái tình chung thủy với nước non, cốt cho xứng là người dân nước Việt."

Nguyễn nghe lòng dạt dào xúc cảm. Tâm sự của người phụ nữ áo vàng cũng giống như tâm sự của chàng, ngoài chuyện tình cảm riêng tư thì vẫn mang một nỗi niềm chung, mang kiếp sống tha hương nới xứ lạ. Nguyễn thổ lộ, tự nhiên sao đêm nay chàng lại đem nỗi lòng của mình kể cho người khác nghe, trong khi tính chàng vô cùng kín đáo:

" Cũng chẳng ai muốn bỏ quê hương mà đi, thưa cô, dù có phải vất vả vì miếng cơm manh áo. Sang bên này, tuy có được hít thở không khí tự do, nhưng đổi lại cũng mất mát khá nhiều. Tuổi thanh xuân và tình yêu của tôi đã mất theo những tháng năm tù tội, rồi sau đó dù ở trong hay ngoài vòng tù tội, tôi vẫn bị ngột ngạt trong cái không khí nặng nề của sự nghi kỵ. Hơn nữa vợ tôi. . .

Nguyễn im lặng thở dài. Chàng tự hỏi không biết có nên nói ra những điều này không? Người phụ nữ vẫn im lặng nhìn chàng chờ đợi. Nguyễn tiếp:

" Nàng gần giống như cô, cũng hay mặc màu áo lụa vàng mỗi độ Xuân về. Xin lỗi cô nhé! Đây chỉ là sự trùng hợp khi đêm nay cô đến đây với màu áo vàng của nàng năm xưa, thuở tôi còn là một người lính. Nay coi như đã hết, có lẽ nàng đã thay mấy lần áo như hoa nở mấy lần hoa, nàng còn trẻ quá làm sao chờ đợi được. Tôi không hề trách nàng dù từ đấy đời tôi không còn có mùa Xuân, sống lêu bêu như cây cỏ, có lẽ cái số của mình đã vậy, không thay đổi được. Đời lại không lối thoát, tôi muốn hòa nhập vào xã hội để sống như một người bình thường, nhưng xã hội lại không chấp nhận mình, vì thế chỉ co ùmột cách là thoát ra thôi cô ạ."

Thiếu phụ cúi đầu lặng lẽ, nhưng trong mắt nàng đã rưng rưng hai hạt lệ:

" Tội nghiệp ông, sao đời buồn thế ông nhỉ? Bao nhiêu năm nhìn ông thui thủi trong căn nhà này, tôi cũng nghĩ ông có tâm sự gì đó nhưng không tiện hỏi. . ."

Nguyễn gật đầu. Chàng rót thêm trà vào tách để nén xúc động:

" Thế là tôi vượt biên. Bao nhiêu ngày sóng gió, đói khát trên biển, cuối cùng cũng đến được nơi đây. Xã hội này mở cửa cho tôi bước vào, mười năm qua mà cũng chẳng làm được gì. Cuộc đời thì vẫn những con người bon chen, đố kỵ, tâm hồn nhiều mất mát khiến tôi chả thiết tha gì nữa, co rút lại trong cái vỏ ốc cô đơn của mình, mãi rồi không muốn hòa nhập với bên ngoài, dù biết là mình vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở. Đêm nay cô đến đây, có lòng chia xẻ cái vui của ngày đầu Xuân, tôi vô cùng cảm kích. Sẵn đây cũng xin được hỏi, chắc là cô cũng ở gần đâu đây?"

Thiếu phụ áo vàng nở nụ cười kín đáo, vẻ bí mật:

" Vâng, thưa ông, rất gần nữa là khác. Ông có biết mà dường như không biết, vì tâm hồn ông đã gửi tận đâu đâu. Tôi có cảm tưởng ông nhìn mà không nhìn, thờ ơ với tất cả, ông làm cho có chuyện chứ chẳng thiết tha gì, bởi vậy dù có muốn chia xẻ điều gì cũng ngại ngần không tỏ được."

Giọng nàng ra chiều hờn giỗi, còn Nguyễn lại ngạc nhiên quá sức:

" Thực thế hở cô? Lâu nay tôi cứ tưởng chẳng ai chú ý đến mình nữa, không ngờ đã phụ một tấm lòng, cô bỏ qua nhé!"

Giọng nàng thật dịu dàng, nửa như trách móc, nửa như ủi an:

" Bởi vậy có những việc ông làm cho người khác ông cũng không để ý làm như thế để làm gì, ông không lắng nghe lời thì thầm giao cảm giữa đôi bên, thì làm sao thấy được niềm vui giữa người cho kẻ nhận. Lắm khi ông lại tạo cho mình rất nhiều ngộ nhận, ích kỷ, vô tình, lãnh đạm, hay có khi ngườita cho ông là một kẻ kiêu căng, khối người đã nghĩ về ông như thế. Riêng tôi thì tôi hiểu, bản thân ông là thiện, không hề làm hại ai, nhưng sao không mở tấm lòng mình ra cho đời bớt khổ, cứ phong tỏa lấy mình để rồi chán ngán một mình, cửa cứ đóng thì làm sao ai mở được."

Nghe những lời nàng nói, những nhận xét của nàng chính xác đến nỗi Nguyễn phải giật mình. Quái lạ! Người đàn bà này là ai sao có thể hiểu chàng thấu đáo, cặn kẽ đến thế. Tự nhiên chàng ao ước, giá mình có một người bạn đường đáng yêu như vậy thì dẫu chết cũng cam lòng. Có tới hai mươi năm rồi, từ lúc vợ chàng bỏ đi, mới đầu Nguyễn thấy lòng đau đớn, tái tê rồi lạnh lẽo hẳn, đối với chàng từ lúc ấy, đàn bà chỉ là sự đùa cợt, thoáng chút vui cho đời bớt phần tẻ lạnh, không thể biểu hiện cho điều gì cao cả. Sự xuất hiện đột ngột của người thiếu phụ áo vàng đêm nay, khiến chàng hiểu mình đã khép kín lòng mình trong hoang tàn, đổ nát, tối tăm. Thiếu phụ lại nói:

" Ông Nguyễn ạ, có lẽ ông phải dẹp bỏ mọi thành kiến với phụ nữ và cả với cuộc đời nữa. Tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, mỗi người là một đơn vị trong muôn ngàn đơn vị mà Thượng Đế đã tạo nên, ta chẳng nên tự tôn mặc cảm hay tự ty mặc cảm. Nếu không có số 0 làm sao 1 lại trở nên 10, cái này bổ khuyết cho cái kia là vậy. Ông Nguyễn nghĩ xem, nếu không có người đổ rác, làm gì có sự sạch sẽ để có một môi sinh tốt đẹp cho người khác hưởng. Ngay cả các triết thuyết của các bậc cao nhân, cũng trở thành số 0 nếu nó không được cái đám đông của số 0 kia hưởng ứng. Chúng ta cứ lòng vòng ở những cái tầm thường nhất, để thấy rằng chẳng có gì là tầm thường cả, phải không ông Nguyễn?"

Nguyễn chỉ im lặng lắng nghe, khẽ liếc nhìn nàng chờ đợi. Dáng vẻ của nàng trang trọng tuyệt vời, mà mỗi lời nói lại vô cùng khúc triết:

" Tôi hiểu ông vì giữa ông và tôi có những cảm nhận giống nhau, tâm cảm thì dường như đồng nhất, nhưng quan niệm sống của mỗi người lại hơi khác. Cây cỏ mọc ở phương Nam đem trồng trên đất Bắc, làm sao mà tươi tốt cho được. Con người cũng thế, nhưng nếu biết thích nghi với hoàn cảnh, biết vượt qua những khó khăn nhất thời, giản dị tìm cái tương đối của nó thì cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa. Chúng ta vẫn phải làm một điều gì có thể, dâng hiến cho đời , chia cái Ta có cho Người thì mới hoàn toàn hạnh phúc, ông có đồng ý vậy không?"

Nguyễn ngạc nhiên đến thán phục. Những lời người phụ nữ vừa nói ra có một sức thuyết phục mạnh mẽ, khiến chàng cũng thấy mình cần thay đổi cái nhìn , cũng như những tư duy về cuộc sống xung quanh . Chàng tỏ vẻ bối rối:

" Vậy mà bấy lâu nay tôi đã khổ sở với nỗi cô đơn của mình, nếu không có cuộc gặp gỡ đêm nay, biết bao giờ tôi mới tìm lại được niềm vui của tâm hồn. Không biết thì thôi, biết rồi thỉnh thoảng mời cô tới đây cùng đàm đạo chuyện văn chương, sách vở. . . "

Nguyễn nói với tất cả tấm lòng thành thật của mình khiến người phụ nữ áo vàng cũng bùi ngùi xúc động:

" Tôi không biết nó với ông thế nào, nếu cơ duyên còn gặp lại thì đó là một điều vui, nhưng nếu không còn gặp nhau nữa thì tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ông. Còn phải cảm ơn ông nữa là khác, như mặc chiếc áo đẹp phải cảm ơn người thợ dệt, người này mang hạnh phúc đến cho người kia, đó là chân lý của lẽ sống. Ngày nào mình còn làm được điều gì tốt đẹp ta cứ làm, không mặc cảm mình là người hèn kém hay thừa thãi trong xã hội. Giống như đêm nay, coi như chúng ta chưa biết nhau, vậy mà tôi vẫn đến đây, để chúng ta cùng có một đêm Xuân đầy ý nghĩa."

Nguyễn chỉ thấy ngỡ ngàng mà không hiểu nàng nói gì. Người thiếu phụ áo vàng đứng dậy, khoát một cử chỉ tạ từ, giọng nàng lại cất lên trong vắt, âm thanh tươi vui như tiếng hót của một loài chim:

" Xuân về, mong ông tìm được niềm vui cho tâm hồn, nhớ chia lại niềm vui ấy cho mọi người và mọi loài ông Nguyễn nhé!"

Nguyễn chư a kịp nói gì thì bóng nàng đã thoắt ra cửa, tan dần trong màn sương trắng đục như sữa. Trời đã ưng ửng sáng, tiếng chim hót líu lo ngoài hiên làm chàng tỉnh giấc, thì ra chàng vừa trảiqua một giấc mộng. Nguyễn thấy tiếc ngẩn ngơ, dường như hương thơm của người phụ nữ áo vàng còn vướng vít đâu đây.

Nguyễn pha một bình trà ngon cho buổi sáng đầu Xuân, tách trà thơm như càng ý vị với hình ảnh giai nhân trong giấc chiêm bao. Chàng mở cửa bước ra hiên , cây cỏ sau một đêm Xuân bừng bừng sức sống, nắng vàng đã lóng lánh trên những giọt sương đêm. Lạ thay! Nguyễn chợt nhìn thấy những lộc non đơm đầy trên cành quất xác xơ, bao nhiêu nụ trắng đang nở hoa, tỏa mùi thơm bát ngát. Chàng nâng nhẹ một nhánh cây, trên ấy còn sót lại một quả quất vàng từ mùa năm trước. Bỗng một làngió Xuân làm run nhẹ những chiếc lá non trên tay chàng, trong một thoáng bâng khuâng, Nguyễn có cảm tưởng người thiếu phụ áo vàng chính là hồn cây quất trời Nam, đã đến với chàng trong giấc mộng đêm Xuân.

NGUYÊN NHUNG



oc huong
#5 Posted : Friday, January 26, 2007 1:11:07 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

HOÀNG MAI


Chuyện xảy ra đã lâu rồi, có đến mười mấy năm trước. Thế mà cho tới bây giờ mỗi khi nhớ lại, Định vẫn tưởng như một giấc chiêm bao. Cứ cho là hôm ấy chuyếnh choáng chút hơi men, chàng có thể lẫn lộn giữa thực và ảo giác, nhưng câu chuyện về Hoàng Mai thì chắc chắn là một điều bí ẩn không giải thích được.

Hôm ấy là một buổi chiều cuối năm, trời lại lất phất mưa, bóng dáng cuả muà Đông dường như vẫn còn quanh quẩn đâu đây, khiến thời tiết rất ẩm và lạnh. Định vừa đến ăn bữa cơm cúng Ông bà với gia đình một người bạn, lúc về, đi ngang qua một ngôi chuà, buổi chiều nhưng có mưa phùn và gió bấc, bầu trời âm u, giăng giăng những cụm mây màu xám nhạt. Thấy có nhiều bóng người qua lại, chàng ghé vào mới biết đó là ngày cuối cùng cuả buổi Chợ Tết. Càng về chiều người càng thưa thớt , mấy gian hàng bán cây cảnh, bánh trái bày trong những chiếc lều vải, người ta đang lo thu dọn. Riêng một hai cái lều ở xa hơn, vẫn còn vang lên tiếng cười rộn rã, hoá ra chỗ ấy có văn nghệ, chỗ thì thả thơ, chỗ lại đang ca hát. . .

Năm nào cũng thế, người Việt tha hương mỗi năm Tết đến, vẫn nhớ muà Xuân ở quê nhà, thường tụ họp lại những buổi chợ Tết ở chuà hay nhà thờ, người người quần là áo lượt đi tìm lại chút hương vị những muà Xuân cũ. Cũng chợ hoa tươi đầy cúc vàng và hoa thược dược đủ màu, những cành đào hồng thắm, chỉ thiếu hoa mai vì rất hiếm. Cũng bánh chưng xanh, cũng dưa hấu đỏ, chả thiếu thức gì mà Xuân thì vẫn như thiêu thiếu. Đã sang một năm mới Dương lịch, những ngày lễ lộc kéo dài trong muà Đông đã hết, lớp người lớn tuổi dường như vẫn chờ đợi với chút bâng khuâng khi nhìn những cây hoa đào đã bắt đầu đơm hoa, từng đàn chim én ở đâu bay về nghiêng cánh trên bầu trời xanh biếc.

Hơi men còn ngà ngà, Định thấy lòng lâng lâng khi đi ngang qua một căn lều còn vang lên những tràng cười rộn rã. Chàng tò mò ghé vào, trong ấy dưới ánh đèn, có đến dăm, bảy người già có , trẻ có đang chúi đầu vào chơi thả thơ. Họ đứng vây xung quanh một người đàn ông và một cô gái, không ai chú ý đến Định vì họ đang mê mải tìm chữ để điền cho thích hợp với câu thơ được đố. Định thấy vui vui, đúng là một trò chơi rất tao nhã cuả nền văn hoá Việt.

Cứ một tấm giấy màu hồng điều được ghi lại bốn câu thơ đủ loại, từ truyện Kiều cho tới thơ mới cuả những nhà thơ nổi tiếng những thập niên sau này, và họ chưà lại một khoảng trống trong một câu thơ, cho mấy chữ có cùng một vận như nhau nhưng khác nghiã, rồi người thả thơ phải thả sao cho đúng với chữ cuả tác giả. Mỗi lần có người đoán trúng, bài thơ lại được ngâm lên cho mọi người nghe, và mỗi lần như thế người thả thơ được thưởng một món quà tượng trưng như một cuốn sách, một tập thơ tùy theo ý mình chọn lựa, với những tiếng vỗ tay cười nói rộn rã cuả đám người đứng xung quanh.

Đã có một vài người bỏ cuộc đi về, vì trời chiều dưới cơn mưa bụi hình như tối nhanh hơn, cái giá buốt cuả ngày cuối Đông vẫn khiến người ta co ro trong những lớp áo ấm dầy cộm. Bầu trời như được giăng những sợi tơ rất nhẹ, bởi những hạt mưa lấm tấm đậu trên những chiếc áo măng tô đủ màu, óng ánh như thuỷ tinh. Dăm đứa bé chạy tung tăng theo cha mẹ đi chợ Tết, má đỏ hây hây.Trong lều thả thơ, phảng phất mùi hương dìu dịu cuả những bông thủy tiên nở sớm, cánh hoa trắng muốt phơn phớt nhuỵ vàng, ngươì ta cố ý dùng ánh đèn mờ cho khung cảnh thêm phần kín đáo và ấm áp, thơ và cảnh dường như quyến luyến lấy nhau để thú thả thơ càng thêm phần tao nhã.

Đứng ngắm nghiá một lát, Định thú vị mua liền một lúc nhiều lá thơ, vì mỗi khi đoán trúng, đều được ngâm lại bằng giọng ngâm rất mượt mà cuả người phụ nữ mặc áo xanh đứng trong quầy, rồi tiếng tấm tắc cuả người thả thơ như thấm thiá từng ý, từng lời trong mỗi câu thơ vưà được thả.

Cầm trong tay chiếc lá thơ với bốn câu thơ cuả Thế Lữ, đọc đi đọc lại mà Định vẫn chưa đoán được phải dùng chữ gì cho đúng với câu thơ cuả tác giả:
" Tiếng sáo diều nao nao trong vắt
Trời quang mây, xanh ngắt màu lơ
Thuyền trôi nuớc ( ...) hững hờ
Hàng cây lặng đứng trên bờ trông mong."

Trong câu thứ ba có một chỗ được để trống, kèm theo những chữ như " chảy, đẩy, vẫn, biếc " để Định chỉ có quyền chọn một chữ chính xác nhất đúng với bài thơ cuả tác giả. Thú thả thơ coi vậy mà khó, vì thả chữ vào câu nào nghe cũng có nghiã, đọc vẫn êm tai, nhưng đúng hay sai thì chưa biết.

Đang băn khoăn chọn lựa, lại còn phải nghĩ ngợi sao cho đúng với ý cuả thơ, bỗng Định thấy một ngón tay trỏ rất xinh từ phiá sau thò vào trang giấy trên tay chàng, thoảng một mùi hương rất quen khiến chàng ngây ngất. Như bị cuốn hút vì mùi hương dịu dàng ấy, Định thở ra rồi reo lên với người đứng ở phiá trong đang chờ đợi. Chàng đọc nguyên câu thứ ba, chỗ chữ được bỏ trống:
" Thuyền trôi nước "đẩy" hững hờ
Hàng cây lặng đứng trên bờ trông mong..."

Có tiếng vỗ tay cuả hai người đứng phiá trong, và câu thơ được người phụ nữ ngâm lên như để tán thưởng tài thả thơ cuả chàng. Lần lượt, những lá thơ sau, mỗi lần mở ra chàng đều cố ý chờ người đẹp đứng phiá sau chỉ hộ, và hầu như không có một câu thơ nào bị sai chữ cả. Ai cũng khen chàng giỏi thơ, khiến Định vưà vui vưà liếc nhìn lại phiá sau, và chàng bỗng ngây ngất vì khuôn mặt rất xinh cuả người phụ nữ. Mái tóc huyền thả xuống đôi bờ vai, nàng mặc chiếc áo dài lụa vàng, khoác một chiếc áo măng tô màu xanh non, đang mỉm cười với chàng.

Chàng chưa kịp mỉm cười với người đẹp, thoắt một cái, nàng đã bước ra khỏi lều, Định cũng vội vã rảo bước theo quên cả lấy quà khiến hai người đứng trong quầy trố mắt nhìn ngạc nhiên. Hơi Xuân bừng bừng trong huyết quản, trời lại hơi nhá nhem, bóng cô gái lướt đi lẫn vào hàng thông men lối đi ra phiá cổng chuà, khiến Định phải bước nhanh như bị ma đuổi.

Mưa chỉ hơi lất phất, nhẹ như sương, trong khuôn viên chuà vài căn lều vẫn còn vang lên tiếng nhạc Xuân dìu dặt. Cô con gái chợt đứng lại ngay chiếc ghế đá cạnh một cây thông, chỗ ấy đất cao mà lại tối, chênh vênh một chiếc bóng trên nền trời nưả sáng nửa tối, dáng nàng thật thanh như một cành mai trong gió.

Định đã theo kịp nàng với những tiếng đập rộn ràng cuả con tim trong lồng ngực. Lòng chàng nôn nao với ý nghĩ trời xui đất khiến chi đây, giữa những ngày năm cùng tháng tận, nơi đất khách quê người, lại vì thơ mà được gặp gỡ một giai nhân, chắc là duyên tiền định. Từ ngày bỏ nước ra đi, sống kiếp tha hương một thân cô quạnh, người tình năm xưa vì hoàn cảnh phải đi lấy chồng, Định vẫn có ý tìm kiếm một người mà chàng mơ tưởng như ý muốn, nhưng khó lòng tìm gặp. Vì những người phụ nữ như vậy rất hiếm, thản có thì cũng đã có người nhanh tay rước mất, chàng chỉ có cơ hội gặp gỡ những người phụ nữ tầm thường, tuy có chút nhan sắc nhưng tâm hồn hoàn toàn trống rỗng, họ chỉ chạy theo nhu cầu cuả vật chất nhiều hơn mà thôi.

Luống cuống như hồi còn đôi mươi, mới biết yêu lần đầu, Định dừng lại vưà một khoảng ngắn trước mặt cô gái. Vuốt những giọt nước mưa trên mái tóc, chàng nói mà giọng vẫn còn run vì xúc động:

" Thành thật cảm tạ, nếu không có cô giúp hộ tôi hoàn toàn không làm sao đoán được hết những chữ cho buổi thả thơ ngày hôm nay. Hiếm có người giỏi thơ đến như vậy?"

Đó là lời khen ngợi khéo léo, khiến vì thế mà cô con gái mặc áo vàng mặt đỏ bừng lên trông rất xinh, mỉm cười với chàng lần nữa. Định không để lỡ cơ hội, chàng tiếp luôn:
" Tôi tên Định. Cô có thể cho tôi biết quý danh để tiện việc xưng hô?"
Điều khiến chàng ngạc nhiên và phấn khởi, với một vẻ rất tự nhiên, nàng nhoẻn miệng cười rồi nói khẽ:
" Chào ông Định, tôi tên là Hoàng Mai, tên cuả một loại hoa muà Xuân. Đáng lẽ ngày xưa ông cụ tôi đặt tên tôi là Lãnh Hương, có lẽ vì mai nở vào tiết đông phong, và cũng vì mai phảng phất chút hương lạnh lẽo. Nhưng sau cụ đổi ý, vì chữ " lãnh hương" tuy thanh cao nhưng lại có phần cô quạnh, bởi thế Hoàng Mai nghe vẫn dễ thương hơn."
Định reo lên với vẻ thán phục:
" Đúng là người thơ bao giờ cũng văn vẻ, mỗi câu nói ra đều đủ ý đủ lời. Tiếc là tôi ghé vào đây quá trễ, chứ sớm hơn, có lẽ gian thả thơ ấy đã hết quà tặng từ lâu."
Hoàng Mai cũng vui vẻ nói:
" Có đến sớm thì mình cũng không gặp nhau, vì tôi cũng chỉ mới đến, đang đi loanh quanh thì tạt vào chiếc lều thơ, gặp ông đang chơi thả thơ thì cũng ghé vào để chơi chung. Đời thường vẫn từ những ngẫu nhiên mà có, hễ có cơ duyên thì tự nhiên mà gặp. . . "
Nói đến đây, thấy Định chăm chăm nhìn mình như bị mất hồn, Hoàng Mai cũng bẽn lẽn cúi đầu, nhan sắc càng thêm phần kiều mị. Định mê mẩn nhìn vào đôi môi nàng, giọng nói êm đềm khiến tâm trí chàng lúc ấy vì hơi men, lại càng thêm ngây ngất. Định lúc ấy đã lấy được tự chủ, chàng cảm thấy bạo dạn, bèn mời nàng ngồi xuống chiếc băng đá ngắm cảnh chiều xuống, nghiêng nghiêng những sợi mưa Xuân thật mỏng như tơ:
" Chắc Hoàng Mai thích thơ văn lắm phải không?"
Cô gái bẽn lẽn gật đầu:
" Tôi thích cả thơ lẫn nhạc, nhưng tính sợ đám đông, nên đợi chiều vắng vẻ, ít người, mới thả bộ ra chuà để nghe người ta hát, và để xem người ta thả thơ. Lâu lắm rồi mới nghe lại những bản nhạc Xuân, âm hưởng đã tha thiết lại êm đềm làm sao. Tình cờ thấy ông đang băn khoăn vì mấy chữ cuả bài thơ, tôi mạn phép được chung vui trong chốc lát, ai ngờ, lại vì thế mà thành quen nhau."
Định reo lên thích thú:
" Nói theo sách thì là duyên " tiền định", có khi mình đã có biết nhau từ kiếp trước. Có phải như Hoàng Mai đã nói, đời chỉ từ những ngẫu nhiên, đưa đẩy mà thành cơ duyên. Tôi có biết thơ thẩn gì đâu, nhưng cứ lấy bừa một chữ mà thả vào biết đâu may lại trúng."
Hoàng Mai ngắt lời chàng:
" Nói như thế thì tôi không hoàn toàn đồng ý với ông, vì thơ văn dẫu là khiếu trời cho , nhưng nó cũng đòi hỏi sự yêu thích văn chương, sách vở. Sở dĩ tôi võ vẽ chút thơ văn, cũng nhờ hồi còn nhỏ, được nghe ông cụ tôi bình văn với các bằng hữu thích thơ văn như cụ, nên nhớ được ít nhiều. "
Định thấy nàng cởi mở, nên cũng dạn dĩ hơn:
" Cô Hoàng Mai, nếu không có gì ngại, xin đừng gọi tôi bằng ông cho khách sáo. Có lẽ tuổi tác không cách biệt bao nhiêu, mình lại là đồng hương với nhau..."
Định liếc thấy Hoàng Mai có vẻ nghiêm sắc mặt, nhưng rồi nàng lại nhoẻn cười :
" Chuyện xưng hô không quan trọng, tuổi tác cũng thế, hễ cảm thấy lòng mình không động ý xấu là đủ rồi. Ông... anh Định sang đây đã lâu chưa?"
Nghe câu hỏi cuả Hoàng Mai , Định như cởi tấc lòng:
" Cũng lâu rồi cô ạ, sau năm 75, tôi theo đoàn tầu Hải Quân vượt ra biển Đông rồi lênh đênh từ đấy đến nay. Tôi là một người lính biển, mới đươc ba năm lính, nhưng cả ba năm chỉ ăn Tết trên sông nước ở những làng mạc ven sông. Chỉ nhớ mài mại rằng muà Xuân năm nào cũng cùng với anh em đồng đội đón Xuân trên một chiếc tàu sông, ghé vào một làng quê xơ xác vì bom đạn. Bây giờ gặp Hoàng Mai, bỗng dưng tôi chạnh nhớ tới những cây mai vàng trong những làng quê heo hút ở miền quê, dọc theo bờ sông là nhà dân rải rác, nhà nào cũng trồng một, hai cây mai trước cưả. Cảnh thì buồn, người lại khổ, đất nước triền miên trong binh lửa, nhưng hễ cứ Xuân về là hoa mai nở vàng rực rỡ, như món quà cuả thiên nhiên tặng cho con người để biết rằng Xuân đã tới."

Hoàng Mai dường như cũng ngậm ngùi với nỗi nhớ cuả Định, tự nhiên cũng đổi cách xưng hô, có lẽ khi nghe chàng thật thà thổ lộ cho mình nghe những kỷ niệm cũ trong đời lính. Dường như dĩ vãng cuả nàng cũng đã có nhiều kỷ niệm với một người lính nào đó:
" Nghe anh nhắc tới hoa mai ngày Tết, Hoàng Mai lại chạnh nhớ tới căn nhà xưa cuả mình, cũng nằm ven một dòng sông. Năm nào cũng vậy, hễ Xuân về là con đường ấy bừng lên một màu vàng tươi thắm. Không biết anh có nhận ra rằng, những cánh hoa mai rụng tả tơi trong gió, nó vẫn mang theo một chút ngậm ngùi khiến lòng người rưng rưng cảm xúc. Nhất là, mỗi một muà xuân qua lại vắng dần đi những khuôn mặt thân yêu trong cuộc đời, khiến Hoàng Mai vẫn hay nghĩ tới hai câu thơ cuả Vũ Đình Liên:
"... Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"

Định cũng gật đầu, giọng chàng buồn buồn khi nhớ lại những muà Xuân cũ:
" Đúng rồi Hoàng Mai ạ, nhất là khi mình đã không còn trẻ nữa, thì sự mất mát ấy lại càng nhiều hơn. Suốt ba năm đón Xuân nơi vùng sông nước, nỗi vui lớn nhất cuả tôi là Xuân về mà không nghe tiếng súng. Những cái Tết trên sông vào đêm Giao Thừa cũng lạnh vì gió và hơi nước, sương mù trắng như sữa giăng giăng trên mặt sông, khiến lòng người lính nào cũng bâng khuâng nhớ gia đình những lúc năm cùng tháng tận. Sáng mùng một, ghé vào một thôn làng nào đó, thấy dân làng được hưởng một cái Tết an bình , trẻ con mặc quần áo mới theo cha mẹ chèo ghe đi lễ Chuà, lòng mình lại cảm thấy vui vui. Cảnh thanh bình đó hiếm hoi lắm, cho nên cũng không thiếu những ngày Xuân nhìn những xác người, theo giề lục bình trôi lên trôi xuống trên dòng sông, chẳng biết khi thân xác nằm đó, linh hồn họ đi đâu? Họ có về với mẹ với cha mẹ vợ con, hay là linh hồn họ cứ thơ thẩn đi theo cái xác trôi lên trôi xuống, để chờ lúc được vớt lên, chôn vội vàng xuống một chỗ hẻo hút nào đó, làm bạn với giun dế."

Nghe Định kể, bỗng dưng Hoàng Mai cũng cảm thấy bùi ngùi, nàng lên tiếng hỏi:
" Những lúc ấy, thường thường anh nghĩ gì? Anh có nghĩ mình sẽ tiếp tục nhiệm vụ và tạo được nhiều chiến công oanh liệt không?"
Định chép miệng trong một nỗi ngao ngán, chàng trả lời:
" Dẫu biết rằng cần phải có một lý tưởng để chiến đấu, nhưng lòng tôi lúc ấy, lại hoàn toàn khao khát hoà bình trở về cho quê hương xứ sở. Những người dân quê mình họ khổ lắm, chiến tranh như một con quái vật chỉ đem tới những đau khổ và chết chóc. Tôi vẫn ao ước làm sao chiến tranh chấm dứt, để thực sự có được những muà Xuân thanh bình và tiếng cười vui trên khắp các nẻo đường đất nước. Nhưng thôi Hoàng Mai ạ, chuyện cũ có nhắc mãi thì vẫn không vơi đi được nỗi buồn, tôi vẫn đang nghĩ phải cảm ơn Hoàng Mai về cuộc gặp gỡ bất ngờ cuả chúng ta trong buổi chiều hôm nay đây."

Hoàng Mai cũng nhìn chàng với ánh mắt tha thiết đầy bí ẩn:
" Nếu cho rằng tất cả những cuộc gặp gỡ hay quen biết ngắn hay dài, một khoảnh khắc hay nhiều năm tháng, đều do sự sắp xếp cuả định mệnh, thì chưa biết ai phải cảm ơn ai. Huống gì giờ đây, những câu chuyện cuả chúng ta ngày xưa lại rất dễ cảm thông, Hoàng Mai vẫn thích những tình bạn chân thật."

Họ cứ tiếp tục chuyện trò, những câu chuyện xưa lần lượt được hai người kể lể cho nhau nghe, bóng chiều đã nhập nhoà khắp nơi, khiến chiều Xuân càng thêm lạnh. Nhiều chiếc xe rời bãi đậu, chiếu những vệt đèn sáng trên mặt đường. Đèn trong mấy chiếc lều bán hoa cảnh đã tắt, người lác đác đi về, chỉ còn vọng lại bản nhạc mừng Xuân vang vang trong buổi chiều cuối năm. Chiều ba mươi trời tối nhanh hơn, và cũng buồn hơn những buổi chiều khác. Bên Hoàng Mai, bóng tối đã ập xuống khiến hai người nhìn không rõ mặt nhau, Định cảm thấy buổi chiều đi rất vội, khiến chàng lại nhớ tới bài thơ " Chiều" cuả Hồ Dzếnh được phổ nhạc. Chàng tự nhiên hát khẽ:
" Trên đường về nhớ đầy,
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây,
Tiếng buồn vang trong mây.
. . . . . . . . . . .
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây..."

Có lẽ vì hơi men còn ngất ngây , có lẽ vì buổi chiều lấm tấm mưa Xuân, lại ngồi bên cạnh một người đẹp như Hoàng Mai, khiến Định cứ ước chi thời gian ngừng lại , để hai tâm hồn đồng cảm cứ nhắc lại cho nhau nghe những muà Xuân cũ cuả mỗi người ở quê nhà năm xưa.
Thấy Hoàng Mai đứng dậy, có vẻ sắp cáo từ, Định vội hỏi:
" Hoàng Mai chắc ở gần đây, để tôi xin phép được đưa cô về, vì Chùa cũng sắp tới giờ đóng cửa."
Tiếng cười cuả Hoàng Mai trong vắt như pha lê, Định còn nhớ cả câu nói vui rất duyên dáng cuả nàng:
" Mô Phật! Cổng chuà chẳng bao giờ đóng, chỉ có lòng người mới đóng hay mở thôi. Nhưng thôi, Hoàng Mai cũng phải về vì trời đã tối, các cụ khó tính cứ chập tối là cửa đóng then gài, không dễ gì lang thang mãi , nhất là trời lạnh như thế này."

Định cũng bật cười vì câu pha trò duyên dáng cuả nàng, chàng cố nhớ lấy khuôn mặt xinh xắn và rất có duyên ấy, nhưng sương chiều xuống vội đã làm mờ mịt đi. Hai người đi ra bãi đậu xe, chiếc xe lăn bánh ra khỏi cổng chuà, Hoàng Mai chỉ đường cho Định rồi ngồi im lặng, chỉ riêng Định vẫn chất ngất niềm vui trong dạ. Lúc bước xuống xe, Hoàng Mai chỉ chào chàng rất khẽ, rồi bóng nàng lướt đi như sương, chỉ thấy lờ mờ tà áo dài màu vàng cuả nàng lất phất bay trong gió, khuất nhanh vào chiếc cổng gỗ.

* * *

Sau buổi chiều cuối năm đó, Định ra về lòng ngất ngây một nỗi nhớ mông mênh. Chàng nhớ rất rõ con đường có căn nhà cuả Hoàng Mai, nằm trong một con đường khá yên tĩnh, cách ngôi chuà vài đoạn đường ngắn, có lẽ buổi chiều nàng đã đi bộ ra đấy, và đã gặp chàng trong chiếc lều thả thơ.

Định không sao quên được, màu áo vàng và chiếc áo khoác màu xanh non, như một bông hoa mai vàng óng ả trong cái đài hoa màu xanh nõn. Những ngày sau đó Định cứ như người mất hồn, cho tới hôm Rằm tháng Giêng thì Định cương quyết đi tìm nàng, chàng len lỏi trong đám thiện nam tín nữ đi lễ chuà , nhưng vẫn không thấy bóng Hoàng Mai đâu cả.

Từ chuà tới khu nhà nàng ở, Định nhớ là không xa, căn nhà ấy cũ kỹ, ngoài sân trồng nhiều cây cảnh. Định bỏ xe trên sân chuà, rồi như một người nhàn rỗi đi du Xuân , chàng lững thững đi mà lòng thì hồi hộp vô tả. Chàng nghĩ tới lúc được gặp lại Hoàng Mai, được nàng mời vào chơi căn nhà xinh xắn ấy, trong cái ấm áp cuả ngày đầu Xuân, thật thú vị biết bao.

Chàng đi đi, lại lại thong thả nhiều lần trước căn nhà cuả Hoàng Mai, thỉnh thoảng dừng lại giả vờ chăm chú nhìn một cây hoa muà Xuân, làm như mình đang say mê với cái đẹp cuả cây cỏ, lòng thầm mong được gặp lại nàng lần nữa. Bỗng mắt Định như sáng lên, khi nhìn thấy bên hiên nhà nàng lẫn trong những thứ hoa muà Xuân, một chậu mai nở bung ra những đoá mai vàng óng thật đẹp. Ở quê người mà có được một chậu mai quý như thế này thật hiếm, chắc hẳn người trồng phải săn sóc thật kỹ lưỡng để hoa nở đúng vào dịp Xuân về.

Đang băn khoăn vì chưa biết sẽ làm sao để gặp được người mộng buổi chiều Xuân, may quá chàng nhác thấy có người mở cưả. Đó là một bà cụ già đầu đã bạc, mặc chiếc áo nhung màu huyết dụ, dẫn một con chó con ra sân. Con chó thấy chàng thì suả lên như tiếng kêu cuả trẻ con báo nhà có khách, bà cụ vội ngửng lên nhìn. Rồi khi thấy Định đứng ngoài hàng rào chăm chú nhìn vào chậu mai trước hiên, cụ vui vẻ nói:
" Cậu cũng là người Việt phải không? Hoa mai cuả quê mình đấy, ở đây mà thấy hoa mai là lại nhớ Tết quê nhà."

Định xuýt xoa khen hoa đẹp, chứ thật ra bụng chàng chẳng thiết gì hoa, chỉ mong sao Hoàng Mai ở trong nhà, nghe tiếng người quen sẽ chạy ra mừng mà thôi. Nhưng tuyệt nhiên không có ai, chỉ bà lão khi thấy chàng khen chậu mai đẹp, liền thao thao kể cho Định nghe về loại hoa quý muà Xuân mà ít ai trồng được:
" Hoa này người ta gọi là Hoàng Mai đó cậu à, hương chỉ phảng phất trong gió, nghe rất nhẹ, cho nên có người còn gọi là Lãnh Hương. . . "

Định giật mình. Đúng là lối nói chuyện cuả Hoàng Mai , người con gái chàng gặp chiều cuối năm trong buổi chợ Tết, không hiểu giữa người và hoa có liên quan gì với nhau. Bà cụ dường như không chú ý tới nỗi băn khoăn cuả chàng, lại tiếp tục kể:
" Trồng được cây mai này, chúng tôi thật là " nâng như trứng, hứng như hoa". Phong thổ quê người khác phong thổ quê mình, hễ nắng nhiều cũng phải đem vào chỗ mát, mà đông lạnh cũng phải che, nâng niu mãi cũng chỉ vì nỗi nhớ con mà trồng..."

Không dằn được sự tò mò, Định lên tiếng hỏi:
" Thường thì ngày Tết ai cũng về xum họp với gia đình, chỉ trừ những người " tứ cố vô thân" như cháu đây. Nhưng còn cô Hoàng Mai..."
Định hỏi thật khéo, khiến bà cụ đang kể chuyện nhíu mày lại nhìn chàng ngạc nhiên:
" Cạâu hỏi ai? Làm sao cậu lại biết con Hoàng Mai nhà tôi?"

Định vui mừng vì biết bà cụ là mẹ cuả Hoàng Mai, như vậy sớm muộn gì chàng cũng được gặp nàng. Chàng nói dối:
" Cháu là bạn cuả Hoàng Mai, nhưng lâu rồi không gặp. Hôm trước Tết, đi chợ Xuân, tình cờ mới gặp lại nhau, Hoàng Mai có chỉ nhà cho cháu biết. Hôm nay ngày Rằm, đi chuà tiện cháu ghé thăm. Xin phép hỏi cụ, cô Hoàng Mai có ở nhà không?"

Mặt bà cụ tự nhiên đổi sắc, khiến Định cũng bối rối. Bà cụ đứng lặng nghe chàng nói, có lẽ cụ không tin vào lỗ tai cuả mình. Rồi cụ mở cánh cổng cho Định bước vào, lắp bắp hỏi:
" Cậu là bạn cuả Hoàng Mai, nhưng cậu gặp em nó bao giờ vậy?"

Định ngỡ ngàng, chàng sợ bà cụ hiểu lầm mình, vội lên tiếng:
" Thưa cụ, nếu Hoàng Mai không có nhà thì thôi cháu xin kiếu, để dịp khác cháu sẽ tới thăm. Biết nhà rồi thì sớm muộn gì cháu cũng gặp lại cô ấy."

Bà cụ nhìn chàng chăm chăm, vẻ cầu khẩn:
" Cậu ơi, không phải ngẫu nhiên mà gặp. Cậu vào nhà uống ly nước, nhà tôi tuy đông con cháu nhưng mỗi đứa ở mỗi nhà, thành thử gặp người đồng hương tôi quý lắm. Tôi mua nhà ở gần chuà cũng vì vậy, hễ khi nào thích lại lên chuà cầu Phật, không phải phiền con cái đưa đón. Nhưng mà, cậu kể lại tôi nghe, cậu gặp Hoàng Mai bao giờ?"

Nghe cách nói cuả cụ, Định không cảm thấy e ngại nữa, có khi cơ duyên đưa đẩy, chàng lại có dịp may để được đến nhà nàng thăm viếng thoải mái hơn. Theo bà cụ vào nhà, phảng phất mùi trầm nhang và hoa thơm trên bàn thờ Phật. Định quan sát nhanh những tấm hình bà cụ treo trên tường, mắt chàng như sáng lên khi nhìn thấy bức ảnh chân dung Hoàng Mai được treo trang trọng trên một góc tường , bên dưới là một chậu mai giả rất đẹp. Chàng thấy vui trong lòng, đúng là cô gái chàng gặp chiều hôm ấy, nét cười, khoé mắt, chiếc áo màu vàng tươi như những cánh hoa mai muà Xuân.

Bà cụ không quên gọi cụ ông ra tiếp chàng, rồi chỉ về bức chân dung cuả cô con gái, cụ hỏi:
" Có thật là cậu đã gặp nó phải không?"

Định gật đầu quả quyết. Chàng lại còn thành thật xin lỗi cụ vì lời nói dối lúc nãy, bởi vì chàng chỉ mới quen Hoàng Mai vào buổi chợ Xuân hôm cuối năm mà thôi. Nghe kể đến chuyện thả thơ, ông cụ gật gù bảo chàng:
" Thế là chuyện thật rồi. Con bé này hồi nhỏ đã có khiếu thi văn, hễ nghe tôi đọc bài thơ nào là thuộc luôn bài thơ ấy. Nhưng thú thật với cậu, chúng tôi lâu lắm rồi không biết tin cuả cháu, kể từ ngày nó ra đi..."

Đang vui câu chuyện, Định gần như ngồi xững lại vì câu nói cuả ông cụ. Chàng hấp tấp ngắt lời :
" Thưa cụ, vậy đã bao lâu rồi, các cụ không gặp lại Hoàng Mai?"

Chàng nghe ông cụ thở dài:
" Cũng đến chục năm rồi cậu ạ, kể từ khi con bé đi vượt biển rồi không nghe tin tức gì nữa. Ngày ấy chúng tôi còn ở quê nhà, sau mới được mấy người con bảo lãnh sang đây vài năm thôi, chúng tôi đành phải đem gửi em nó vào chuà để hương linh có chỗ ấm áp. Chừng ấy năm vẫn nghe ngóng mà không có tin tức gì cuả em, thành thử nghe cậu kể, chúng tôi cho là chuyện lạ, vì nếu em nó còn sống, cũng làm sao biết được nhà cha mẹ ở đây mà về. "

Định nghe lạnh cả sống lưng, dù trong căn nhà nhỏ này rất ấm, phảng phất mùi trầm hương và hoa thơm. Trong tấm hình treo trên tường, Hoàng Mai như đang mỉm cười với chàng, một nụ cười cuả lòng biết ơn. Có phải chăng cuộc gặp gỡ kỳ lạ trong buổi chợ Tết, lại có thể dẫn tới những chuyện kỳ thú sau này trong cuộc đời chàng. Ông cụ lại kể tiếp câu chuyện còn dang dở:
" Gia đình tôi đăng báo, nhắn tin, hỏi thăm mãi mà không thấy ai cho biết về tin tức cuả Hoàng Mai cả, cho nên đành xem ngày con ra đi mà làm giỗ cho con, cũng vào tháng giêng muà Xuân độ hoa mai nở là con chúng tôi từ giã cha mẹ ra đi. Bà nhà tôi nhớ con cho nên cốâ ương lấy giống hoàng mai để nhớ đến đứa con gái xinh đẹp, nết na bất hạnh đã bỏ đi trước cha mẹ, để mỗi độ Xuân về, chúng tôi nhìn mai nở mà thắt cả ruột gan."

Nói tới đây, ông cụ như rũ xuống, không còn sức để kể thêm về cô con gái bất hạnh đã bỏ xác ngoài biển khơi. Riêng Định, lòng chàng cũng rưng rưng cảm động, không hiểu nổi cơ duyên nào mà linh hồn Hoàng Mai lại chọn chàng để tìm về với cha mẹ, chia với chàng nỗi buồn xa xứ trong độ Xuân về trên đất khách.

Bà cụ ân cần mời Định ở lại dùng bữa cơm chay với gia đình, cụ nói mà như muốn khóc:
" Cứ tính ngày em nó ra đi năm xưa, thì có lẽ hôm nay cũng là ngày giỗ cuả nó. Bữa cơm hôm nay may lại thêm có cậu tới chơi với vợ chồng tôi, chắc là linh hồn con gái tôi đã ngậm cười nơi chín suối. Thôi thì từ nay cũng vì em, cậu xem chúng tôi như chỗ thân tình, thỉnh thoảng ghé vào thăm, xem như vì duyên lành mà gặp."

Từ đấy, Định vẫn hay đi chuà với nỗi mong ước được gặp lại Hoàng Mai lần nữa, thỉnh thoảng lại ghé thăm bố mẹ cuả Hoàng Mai, nhất là dịp Xuân về, chàng có cái thú ngồi nhìn những nụ mai vàng e ấp nở, y như nụ cười cuả Hoàng Mai trong buổi chiều Xuân năm nào. Định không cảm thấy sợ hãi, vì với một ý lành, dù người hay là ma, thế giới cuả loài người hay thế giới cuả linh hồn, vẫn có người tốt kẻ xấu. Huống gì, chàng cứ nghĩ là Hoàng Mai đã phù hôï cho chàng gặp nhiều may mắn tốt đẹp trong những ngày sau đó. Năm sau, chính mẹ cuả Hoàng Mai đã giới thiệu cho Định một người cháu gái có họ xa với bà. Cũng vì thế, khi lấy vợ, vì chỉ có một mình đơn độc, Định được cha mẹ Hoàng Mai đứng ra làm chủ hôn cho ngày đám cưới, chàng xem họ như cha mẹ nuôi. Rồi khi có đưá con đầu lòng, bà cụ đã tới thăm nom, săn sóc vợ chàng như con gái. Chẳng ai biết gì về sợi giây liên kết giữa ba người với nhau, chỉ biết là từ đấy họ quý nhau còn hơn người trong thân tộc.

Đứa con gái đầu lòng cuả Định thật xinh và thật ngoan, mềm mỏng dễ thương với nụ cười y hệt nụ cười cuả cô Hoàng Mai trong tấm ảnh. Có đôi khi chàng giật mình nghĩ ngợi : " Không biết có phải Hoàng Mai đã trở lại kiếp người, để trả ơn chàng đã vì nàng mà tới lui thăm viếng cha mẹ mình lúc tuổi già bóng xế."

NGUYÊN NHUNG


oc huong
#6 Posted : Friday, January 26, 2007 1:15:16 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

CÁNH HOA PENSÉE



" Đời như giấc mộng, tình như ảo
Nào biết gì đâu, để đợi chờ".


Không biết tại sao tôi vẫn nhớ anh, dù thời gian trôi đi đã gần bốn mươi năm, mỗi lần hồi tưởng lại những kỷ niệm thời đi học, tôi lại nghe trong lòng rưng rưng một nỗi buồn dìu dịu. Mỗi năm khi mùa Xuân trở lại, nhìn những đóa hoa pensée trước sân nhà, rung rinh những cánh hoa màu nâu, tím, vàng rực rỡ, dưới ánh nắng dịu dàng một sáng mùa Xuân nơi xứ người, lòng tôi lại nao nao nhớ về những đóa pensée ngày trẻ tuổi.

Tôi gọi anh là "người anh đồng môn", chỉ vì khi tôi đang học năm cuối Trung học đệ nhất cấp, anh đã sắp sửa ra trường để lên Đại Học. Anh học cùng lớp với người chị kế của tôi, cho nên vì thế hai người khá thân nhau, thành ra tôi không bao giờ nghĩ thứ tình cảm đầu đời dễ thương ấy anh lại dành cho tôi, cô bé nghịch ngợm và chỉ tìm dịp để trêu ghẹo anh mỗi lần gặp.

Anh hiền, hiền lắm, dáng dấp thư sinh, trông chững chạc vì tính ít nói, lại thêm đôi mắt hơi buồn nên lúc nào trông cũng như chìm trong mộng. Mỗi lần đến thăm chị em tôi, bao giờ anh cũng mang theo cuốn sách mới. Sách vừa xuất bản còn nóng hổi, chị em tôi chuyền tay nhau đọc trước, sau mới tới lượt anh. Đó là mấy cuốn tiểu thuyết của các nhà văn nổi tiếng thời ấy, viết về chiến tranh và những câu chuyện tình tiền tuyến hậu phương đẫm đầy nước mắt. Tâm hồn chị em tôi thật đa cảm, dễ khóc dễ cười , dành nhau những cuốn tiểu thuyết anh đem tới trong khi anh chỉ cười với đôi mắt hiền khô. Để không thể ngờ, mấy chục năm sau tôi có dịp hồi tưởng những kỷ niệm xưa thời đi học, anh lại là nhân vật chính cho câu chuyện " Đóa hoa Pensée" của tôi.

Khi mùa Xuân đến, anh và người bạn cùng lớp đến rủ chị em tôi đi chợ Tết, tôi thường kéo theo một, hai đứa bạn nữa. Lúc bị vây quanh bởi một lũ con gái nghịch ngợm, tự nhiên các chàng bắt đầu khớp, vốn ít nói anh càng ít nói hơn, vẫn chỉ hay cười. Chợ hoa nằm gần bờ sông, mỗi năm người ở trong quê chở vào thành phố những chuyến đò đầy hoa, không biết bao nhiêu loại hoa đẹp. Những chậu mai vàng đầy nụ, đứng chen chân với các loài hoa cúc, thược dược, hoa mẫu đơn nhiều màu sắc, khiến khu chợ hoa càng hấp dẫn hơn nhờ bóng dáng của các cô thiếu nữ xinh tươi, với những tà áo màu vờn bay trong gió.

Thuở ấy tâm hồn chúng tôi còn tràn ngập một màu xanh của tuổi học trò, hình ảnh của chiến tranh như mờ nhạt nơi những chiến trường xa, sự mất mát của người lính ngoài tiền tuyến chưa làm quặn lòng người hậu phương bao nhiêu, nhất là ở tuổi " ăn chưa no, lo chưa tới" của đám trẻ thành phố. Chỉ vài năm sau, khi người bạn của mình lên đường nhập ngũ, rồi vĩnh viễn đi vào lòng đất mẹ, khi ấy chúng tôi mới đủ lớn khôn để nghĩ về sự mất mát quá lớn lao ấy thì tất cả đã muộn màng.

Năm nào cũng vậy, mỗi khi Xuân về, anh không quên tặng cho tôi một tấm thiệp Xuân. Bên ngoài bao giờ cũng có hình con én ngậm thiếp chúc Xuân, bên trong dưới tấm giấy kính mờ mờ, một cành hoa pensée vàng, tím được ép khô, màu sắc vẫn tươi tắn. Tôi có cái thú từ hồi còn bé, hay để dành những tấm thiệp chúc Xuân làm kỷ niệm, nhìn những tấm thiệp to nhỏ bày đầy trên bàn học, tôi có cảm tưởng mùa Xuân lúc nào cũng rộn rã quanh mình.



Tấm thiệp chúc Xuân của anh rất đặc biệt, năm nào cũng gửi ngày tháng giống nhau, dù ngày Tết hằng năm có thay đổi. Mãi sau này anh không còn nữa, khi lật lại chồng thư cũ thuở còn đi học, vô tình tôi đã nhận ra điều đó. Cánh hoa pensée như một tín hiệu của tình yêu được lập đi lập lại nhiều lần, tiếc thay, tôi đã không hiểu hay không muốn hiểu, và khi ngồi lật lại chồng thư cũ, nhìn những tấm thiệp của người anh đồng môn năm cũ, tôi thực sự đã rơi những giọt nước mắt muộn màng cho một người đã ra đi.

Tấm thiệp Xuân năm xưa cũng kín đáo như tâm hồn anh, có lẽ vì khi anh nhập ngũ, tôi còn quá non nớt để bước chân vào cuộc đời của một người lính, nên vì thế mà anh im lặng. Năm nào trong tấm thiệp Xuân cũng chỉ làhàng chữ nắn nót rất đẹp: " Gửi người một đóa pensée", chỉ thế thôi, ngày tháng của mùa Xuân và tên người gửi. Thuở ấy, khi nhận tấm thiệp chúc Xuân của anh, tôi thích lắm, vì nó là một trong những tấm thiệp đẹp nhất trong nhiều tấm thiệp của bạn bè, tôi thích vẻ đẹp rực rỡ của hoa pensée, nâng niu nó vì thích tấm thiệp, chứ chưa hiểu hết nỗi lòng của người tặng.

Sau này có dịp tôi đọc được bài của ai đó viết về hoa Pensée, với câu chuyện tình thật đẹp và nhiều nước mắt của một đôi tình nhân. Tôi không nhớ rõ vì hoàn cảnh nào mà người con trai phải ra đi , vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, để rồi cuối cùng một chiều kia, anh ta đã không bao giờ trở lại. Xác thân anh được vùi chôn nơi rừng sâu, bên một bờ suối vắng. Từ đó trên nấm mộ của người thanh niên si tình kia, mọc lên những bụi cây thấp nhỏ, nở ra nhiều đóa hoa đầy màu sắc tươi thắm, người ta đặt tên cho nó là hoa Pensée, có nghĩa là Thương Nhớ.

Năm ấy chiến trường cần những người trai trẻ, chiến tranh bùng nổ khắp nơi, lệnh tổng động viên được ban hành cho nên anh cũng phải xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Một số bạn cùng trường cũng phải ra đi, không khí của những buỗi tiễn đưa đã gieo một nỗi buồn mênh mang vào tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Chúng tôi bắt đầu cảm nhận được nỗi buồn của sự biệt ly, có những cặp tình nhân tuổi học trò đã thổn thức với nhau trước cảnh người đi kẻ ở:

" Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn"

( Chinh Phụ Ngâm Khúc)

Trước ngày anh ra đi, chúng tôi có một buổi tiệc tiễn đưa, bạn bè anh dăm người, lũ con gái loi nhoi hay ríu rít nói chuyện, hôm ấy bỗng dưng cũng buồn ngơ ngẩn. Đêm ấy trời mưa, một đám bạn trẻ quây quần bên nhau trong căn phòng khách nhà anh, khói thuốc mờ với những ly cà phê đắng. Khuôn mặt ai cũng đăm chiêu lặng lẽ, nghe tiếng mưa rơi rả rích ngoài hiên, thoảng vào căn phòng ấm chút gió khuya lành lạnh. Trong không khí buồn buồn của ngày cuối cùng bên nhau, người bạn anh ôm cây đàn " guitar", đệm theo tiếng hát mượt mà của cô bạn gái:

" Chỉ còn một đêm nay nữa thôi, mai chúng ta mỗi người một nơi. . . Nhìn hành trang lệ rưng cuối mi, cố nén trong tim một điều gì. . . "

Tiếng hát ngân lên những âm điệu buồn buồn trước giờ ly biệt, tôi thấy anh ngồi im lặng trong góc tối, ngó mông lung vào một nơi nào đó rất xa xăm. Đôi lần ánh mắt ấy nhìn tôi thật lặng lẽ rồi quay đi, hình như có tiếng thở dài rất nhẹ khiến tôi trở nên lúng túng, cố tránh tia nhìn đằm thắm của anh.

Đêm đã khuya, mọi người phải từ giã nhau để mai anh lên đường sớm. Trên mặt bàn còn lại những mẩu thuốc cháy dở, những chiếc ly không, lúc ấy tôi mới rùng mình vì cái lạnh của cơn mưa đêm, luồn vào tâm tư nỗi buồn của sự chia biệt. Ngày mai, chúng tôi đã có hai cuộc sống khác hẳn nhau, những người còn lại vẫn cắp sách đến trường, những người sắp đi vào miền gió cát. Chẳng biết những gì sẽ xảy đến với những người trai thời ly loạn, khi chiến tranh vẫn giăng bủa trên mọi miền của đất nước.

Giây phút chia tay, các bạn đều lần lượt nắm lấy tay anh nói những lời chúc an lành, bởi vì từ nay anh đã thực sự rời ngưỡng cửa học đường, giã từ sách vở, giã từ mái nhà thân yêu để bước vào con đường chiến chinh gian khổ, sẽ đối mặt sống chết với hiểm nguy của chiến trường. Tôi là người cuối cùng từ biệt anh, lúc nắm lấy tay tôi, anh xiết nhẹ, bàn tay anh nóng ấm như chuyển gửi vào đó bao yêu thương mà anh chưa dám ngỏ. Đôi mắt anh quyến luyến một tình cảm tha thiết, anh dặn tôi chăm học, khi nào được về phép anh sẽ đến thăm chị em tôi. Tự nhiên tôi lúng túng rụt tay về, trong bóng tối tôi nhìn thấy tia nhìn nồng nàn trong đôi mắt anh. Đôi mắt của người anh "đồng môn", sau này khi anh không còn nữa, mỗi lần nhớ đến anh, tôi vẫn nghe lòng thổn thức. . . .

Anh đi xa, nhưng mùa Xuân đầu tiên ở quân trường, anh vẫn không quên gửi về tặng tôi tấm thiệp và bản nhạc " Cánh hoa Pensée", với những lời ca mà tôi chỉ còn nhớ rất mù mờ:

" Ngày nao xa em anh gửi lại. Gửi trao cho em một cành hoa. Hoa Pensée là màu hoa yêu thương. . . ."

Lần về phép đầu tiên trong đời lính, anh ghé vào thăm chị em tôi. Trong màu áo trận, anh chững chạc hẳn ra vì nắng gió quân trường, mái tóc hớt ngắn, nước da đậm đà khỏe mạnh, nhưng đôi mắt thì vẫn buồn làm sao! Anh kể cho chị em tôi nghe về thời gian huấn nhục ở quân trường, biết bao cực nhọc với phương châm " thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Ngày anh ra đơn vị, mỗi lần về phép anh lại đến thăm, lại kể chuyện chiến trường, anh nói mạng mình " lớn" lắm nên bao nhiêu lần đụng trận mà đạn không dám đụng vào anh. Tôi hết còn dám chọc ghẹo anh như ngày xưa, còn anh thì dày dạn phong trần, có làm mấy câu thơ tặng tôi trước ngày trở ra đơn vị:

" Mai về thăm lại ngôi trường cũ

Thăm bạn bè xưa tuổi học trò

Nhìn ai, chưa nói lời thương nhớ

Để lại ra đi chẳng hẹn hò."


Sau này tôi ít được gặp anh, chiến tranh đã đẩy anh đi những bước thật dài để người lính ấy càng ngày càng trưởng thành trong binh lửa. Mỗi lần nhận thư anh từ một nơi xa xôi nào đó, những địa danh xa lạ, đọc những dòng chữ thân thương của anh tôi lại nhớ đôi mắt anh trong buổi tối chia tay nhau trước ngày nhập ngũ. Sao mắt anh buồn ơi là buồn, hình như đó là dấu hiệu báo trước cuộc sống ngắn ngủi của anh trên cõi đời này, người lính trẻ tội tình của thế kỷ hai mươi, khi anh ra trường , lao vào cuộc chiến để đối đầu với lằn tên mũi đạn.

Tôi vẫn là cô nữ sinh bé bỏng, lòng cũng biết xôn xao với những rung cảm đầu đời, nhưng tình yêu của anh tôi vẫn thấy xa vời lắm. Có lẽ tôi chưa yêu anh, tình cảm có một lúc nào đó cũng để lại trong tôi chút bâng khuâng, nhưng để đáp lại tiếng lòng của những đóa pensée, tôi ngại ngần lắm. Những đêm dài bất chợt nhìn ánh hỏa châu bừng sáng ở một góc trời, tiếng bom đạn rền rền ở vùng xa vọng về thành phố, tôi có đôi lần nghĩ đến anh, thầm cầu nguyện cho anh được trở về bình yên.

Đã gần bốn mươi năm rồi, một khoảnh khắc của thời gian nhưng cũng là một đoạn đường dài để con người trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, đau khổ. Lần lượt những hình ảnh thân quen trong quá khứ có giây phút trở về, tôi lại nhớ đến anh, nhớ đến những đóa pensée rung rinh mỉm môi cười mỗi mùa Xuân tới. Tôi vẫn muốn gọi anh bằng mấy chữ dễ thương: "người anh đồng môn", vì hình ảnh anh vẫn hiển hiện trước mắt tôi. Tôi nói "hiển hiện" là vì anh đã không về nữa, chỉ còn hình ảnh người trai trẻ năm xưa trong lòng tôi, đôi mắt dễ thương, nụ cười dễ thương, cái xiết tay ấm áp trong buổi chia tay lúc anh lên đường nhập ngũ.

Đời lính đưa anh đi xa rồi lại về gần, cuối cùng, anh đã bỏ mình trong một trận đánh, bên dòng sông quê mẹ. Hôm ấy hai cánh cửa sắt nhà anh mở toang, tôi đi lại nhiều lần nhìn vào chiếc quan tài phủ cờ với những vòng hoa tang, ngọn nến bập bùng hắt lên di ảnh " người anh đồng môn " của tôi, người lính trẻ đã nằm xuống khi tuổi còn thanh xuân.

Tôi vẫn không đủ can đảm bước vào để nói lời từ biệt "người anh đồng môn " dễ thương ấy, vì tôi biết rằng thế nào mình cũng khóc, hoặc để người khác biết được nỗi buồn đã chớm nở trong trái tim, như lần đã rụt tay về vì sợ anh ngỏ với tôi nỗi niềm thương nhớ của những đóa pensée. Không biết ở bên dòng sông nơi anh nằm xuống, dòng máu đỏ của người lính đã loang chảy vào lòng đất, có mọc lên những bông hoa pensée đầy thương nhớ không nhỉ?

Lần cuối cùng anh về với cha mẹ, anh em, với bạn bè rồi ra đi mãi mãi. Lần cuối cùng tôi cũng muốn nói với anh một điều: " Bây giờ thì em đã hiểu về những đóa Pensée của anh mỗi mùa Xuân tới."



CỐ NHÂN

Đôi khi nhìn mãi lên trời
Tìm trong mây ảo bóng người năm xưa
Nghe vườn rung lá thu mưa
Lao xao trong nắng lời xưa thầm thì
Kể từ gió cuốn mây đi
Đời xa, xa mãi mong gì thấy nhau
Người về đâu? Ta về đâu?
Trần gian rồi cũng nát nhầu tuổi tên
Thôi đành đợi gió trăng lên
Chút mây phiêu bạt sẽ quên ít nhiều
Những chiều gió thổi hiu hiu
Màu hoa năm ấy là màu mến thương
Người giờ như gió như sương
Đời là hai chữ " vô thường" thế thôi!

NGUYÊN NHUNG
oc huong
#7 Posted : Friday, January 26, 2007 1:19:02 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

Nguyên Nhung

CHIẾC ÁO MÀU THIÊN THANH



Khi cánh cửa gỗ bên hông nhà thờ mở ra, người đàn bà khoảng trung niên dìu một cụ già ngót nghét tám mươi bước vào. Ngọc bỗng nhìn ra nét gì rất quen thuộc trên khuôn mặt dịu hiền cuả bà cụ, và nàng thảng thốt nhận ra bà cụ chính là mẹ Khôi. Hơn hai mươi năm qua, sau ngày miền Nam bị thất trận, đã nhiều lần Ngọc tìm đến căn nhà quen thuộc cuả Khôi để hỏi thăm, nhưng căn nhà ấy đã không còn ai quen biết. Dường như trong những ngày hỗn độn ấy, cả gia đình Khôi đã chạy thoát sang bên kia, từ đấy, không một lần nào nữa, Ngọc còn được bước vào căn nhà ấy , căn nhà mà đã có một thời, Khôi đưa Ngọc về thăm mẹ, với tư cách nàng dâu tương lai cuả cụ.

Sau buổi lễ, hình như suốt buổi lễ Ngọc đã không rời mắt nhìn bà cụ, và khi mọi người lục tục ra về, thì Ngọc vội vã chạy đến hàng ghế quỳ phía trước. Bà cụ vẫn ngồi nhắm mắt cầu nguyện, vẫn vẻ im lìm chịu đựng cố hữu năm xưa. Ngọc không thể nào quên được dáng ngồi cuả bà mẹ Khôi cách đây ba mươi năm, trước di ảnh cuả đưá con yêu dấu, khi Khôi hy sinh sau một phi vụ tiếp tế cho chiến trường vùng cao.

Người phụ nữ ngồi bên cụ chờ đợi, có chút ngạc nhiên khi thấy hàng ghế quỳ phiá sau, hình như có người đang đợi hỏi điều gì . Khi bà cụ mở mắt ra, bàn tay nhăn nheo chỉ còn gân xương cầm xâu chuỗi nhét vào túi áo trong, và người con dìu mẹ đứng dậy thì Ngọc bước tới. Giọng nàng run run:
" Thưa bác, bác có phải là mẹ cuả anh Khôi?"
Bà cụ gật gật đầu, đôi mắt hấp háy và ngỡ ngàng vì lâu lắm rồi cụ lại nghe có người nhắc tới anh con trai đã tử trận hồi còn trẻ:
" Phải, phải, nhưng cô là ai, nghe giọng thì rất quen, có phải Ngọc không?"
Ngọc nắm chặt lấy tay bà cụ, áp vào ngực mình:
" Vâng, thưa bác, con là Ngọc, Ngọc cuả Khôi đây."
Trong giây phút xúc động đó, không hiểu tại sao Ngọc lại nói như thế, hình như ba mươi năm qua, đối với Ngọc phút giây này, kỷ niệm đau xót và thân thiết cuả những ngày xưa vẫn còn y nguyên, và nước mắt nàng đã rươm rướm trên hàng mi. Bà cụ cũng xiết chặt lấy tay nàng, như sợ sẽ không còn bao nhiêu thời gian để tìm gặp lại những hình ảnh thân quen trong quá khứ. Cụ hướng về người đàn bà có nét mặt giống Khôi, đang đứng im lặng bên cạnh, nói với Ngọc:
" Chị Khanh, chị của Khôi đấy"- rồi hỏi con gái- "Chị còn nhớ Ngọc, bạn Khôi ngày xưa không? Tội nghiệp quá, bác không ngờ hôm nay còn gặp lại con..."

Giọng cụ hơi nghèn nghẹn, có lẽ cụ bị xú c động khi gặp lại người con gái năm xưa cuả con cụ, nếu người con trai cụ còn, giờ này nàng đã là con dâu cuả cụ. Aâu tất cả là sự sắp xếp cuả định mệnh, chiến tranh lúc nào cũng chờ chực đổ xuống sự bất hạnh cho mọi người, mà Khôi , đưá con yêu dấu cuả cụ đã mất đi trong lúc tuổi thanh niên đẹp đẽ nhất.
Những ngày sau tháng Tư năm bảy mươi lăm, khi Ngọc trở lại căn nhà cũ để tìm thì cụ đã không còn ở đó nữa. Một vài năm sau, Ngọc lập gia đình, rồi vượt biển tìm tự do với chồng con, may sao sang được bếân bờ tự do. Chuyện bình thường như mọi câu chuyện vẫn thường xảy ra trong cuộc đời, cái chết xảy ra mỗi con ngươì thì trước hay sau cũng phải đến, nhưng dù sao, đã hơn hai mươi năm qua, những lúc ngồi nhớ lại chuyện cũ, Ngọc thấy trong tâm khảm nàng, hình ảnh Khôi dường như vẫn ẩn hiện đâu đó. Và dẫu biết là Khôi không bao giờ còn hiện hữu trong cuộc đời, chỉ là chiếc bóng mờ trong tâm khảm cuả người thân hay bè bạn, nhưng riêng Ngọc, dường như mối tình và hình ảnh cuả chàng, vẫn mơ hồ là một kỷ niệm sâu sắc mà dẫu muốn quên Ngọc vẫn không quên nổi.

Khi ba người chia tay trước sân nhà thờ, Ngọc cẩn thận ghi lại điện thoại và địa chỉ cuả mẹ Khôi, vì Ngọc cảm thấy bà cụ rất cần sự thăm hỏi cuả mình sau bao nhiêu năm không gặp. Hình như với cụ, hình ảnh Ngọc hôm nay, tuy không còn là hình ảnh cuả người con gái hay mặc chiếc áo màu thiên thanh năm xưa mà con trai cụ đã thương yêu, nhưng trong lòng người mẹ, dường như có chút ủi an là con mình vẫn có người nhớ tới. Khi về, Ngọc nghe cụ nói, giọng vẫn chân tình như năm xưa:
" Sắp đến ngày giỗ cuả Khôi, con đến nhé, đến cầu nguyện cho anh. Bao nhiêu năm qua bác vẫn nhớ màu áo thiên thanh cuả con."
Ngọc nghẹn ngào, nhìn vào đôi mắt hiền từ trên khuôn mặt nhăn nheo cuả mẹ Khôi, giọng xúc động:
" Vâng, con sẽ tới, sẽ mặc màu áo thiên thanh mà anh ấy thích."

* * *

Ngọc gặp Khôi trong một chuyến bay từ Cần Thơ về Sài Gòn, khi nàng xuống thăm người anh họ có gia đình đang trú đóng ở phi trường Trà Nóc. Đúng ra thì máy bay cuả Khôi không phải là máy bay chở hành khách, vì C 123 chỉ để vận chuyển hàng hoá, hoặc súng đạn, lương thực cho quân đội từ nơi này đến nơi khác. Nhưng đặc biệt hôm đó, ngoài một số hàng hoá quân đội, máy bay còn chở thêm một số thương bính bị thương nặng về Tổng Y viện Cộng Hoà, có một người hành khách bất đắc dĩ đi trên chuyến bay đó là Ngọc, ông anh họ nhờ người bạn cùng khoá cho quá giang và đưa về tận nhà cho ăn chắc.

Khôi là một trong hai phi công điều khiển chiếc C123 hôm đó, Ngọc vẫn không quên đôi mắt nheo nheo nghịch ngợm cuả chàng khi gặp Ngọc lần đầu tiên. Hôm đó Ngọc mặc chiếc áo dài màu thiên thanh, mái tóc đen xoã xuống đôi bờ vai, hình ảnh nàng rạng rỡ và tươi thắm trên sân bay, có chiếc C123 kềnh càng nằm chờ trên phi đạo. Hôm ấy khoảng xế trưa, nhưng vì có cơn bão rớt nên đất trời như đã sang thu, mưa bay nhè nhẹ , gió hơi lành lạnh, không gian buồn buồn khiến Ngọc nhớ mãi không bao giờ quên được, chuyến bay bắt đầu cho một mối tình đằm thắm nhưng dở dang của thời chinh chiến, đã khắc sâu trong tâm trí Ngọc, mãi mãi về sau.

Ngọc còn đang ngơ ngác , lạc lõng khi ngồi trong lòng chiếc phi cơ khổng lồ, chở đầy những kiện hàng cho quân đội. Khi chiếc cửa sau phi cơ đóng lại, Ngọc ngỡ ngàng thấy từ phía cưả hông mở ra, mấy chiếc xe Hồng Thập Tự chạy tới, vài người lính quân y đang lăng xăng, vội vã đẩy những người thương binh nằm trên chiếc băng ca, nồng nặc muì ê te và bông băng trắng toát. Ngọc nghe những tiếng rên la đau đớn cuả mấy người thương binh, có người đầu quấn băng trắng toát, có người trên bụng còn chằng chịt những bông băng và thuốc sát trùng, có ngươì lủng lẳng chai nước biển, và người vợ ngồi bên cạnh hình như đang âu lo chờ giành giật mạng sống cuả chồng trên tay tử thần.

Giữa một trời bão mưa ảm đạm, với một khung cảnh đầy chết chóc và đau đớn, Ngọc sợ hãi ngồi nép mình trên chiếc ghế vải đặt sát phòng lái. Chưa bao giờ Ngọc nhìn thấy chiến tranh rõ ràng bằng lúc đó, tự nhiên nước mắt Ngọc cứ ứa ra, khi nghe tiếng rên la đau đớn cuả những người lính mang đầy thương tích, từ chiến trường trở về, đang thoi thóp cầm cự trước cái chết, đang chống chỏi từng giây từng phút với tử thần. Khôi từ trong phòng lái bước ra, kiểm soát một lần chót trước khi phi cơ cất cánh, nhác thấy vẻ sợ hãi trên khuôn mặt tái mét cuả Ngọc, chàng cúi xuống nói nhỏ:
" Chịu nổi không cô bé? Tụi này phải chuyển anh em thương bệnh binh về Tổng Y Viện Cộng Hoà, vận chuyển bằng xe e không kịp. Chiến tranh là vậy đó cô bé ạ, nhìn mãi cũng quen đi, chỉ hai mươi phút là tới Sài Gòn, chẳng biết ai còn ai mất."

Ngọc im lặng nhìn Khôi với cái nhìn biết ơn mà không nói được lời nào. Chưa bao giờ Ngọc nhìn thấy chiến tranh và sự tàn phá cuả nó bằng lúc này, trên thân thể đầy thương tích cuả những người lính trở về từ chiến trường, và đôi mắt bất lực cuả người vợ đi theo chồng trên chuyến bay hôm đó. Thỉnh thoảng, lại có tiếng kêu rú lên trong những thân người nằm trên chiếc băng ca đặt dọc theo thân phi cơ, khiến Ngọc càng hãi hùng nhắm chặt đôi mắt lại, để dấu nỗi xúc động. Đúng là chuyến bay đau khổ nhất cho một cô bé học trò, lần đầu tiên được nhìn rõ sự tàn phá của bom đạn trên thân xác người lính, mà hằng ngày đọc báo, xem truyền hình Ngọc vẫn không hề tưởng tượng nổi.

Khi máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, trời vẫn mưa tầm tã, mưa xối xả, sân bay như mờ mịt trong màn mưa trắng xoá. Cửa phi cơ lại mở ra, những chiếc xe Hồng thập tự vội vã chạy tới, những người lính quân y lại hối hả chuyển những thương binh từ phi cơ sang xe cứu thương dưới màn mưa, hụ còi inh ỏi chạy ra khỏi phi trường. Lúc lên lúc xuống, Ngọc vẫn nghe tiếng rên xiết đau đớn cuả những người lính bị thương nặng, có khi chỉ là sự im lìm cuả một thân xác nằm bất động, để Ngọc có cảm tưởng rằng có người đã trút hơi thở cuối cùng trong chuyến bay ngày hôm đó.

Oâi chiến tranh! Từ đấy trong tâm hồn Ngọc vốn đa cảm và hay buồn vu vơ, vẫn thỉnh thoảng nhìn thấy nỗi bất hạnh và hạnh phúc luôn kề cận bên nhau, để sau này khi trở thành người yêu cuả Khôi, Ngọc vẫn mơ hồ thấy số mệnh đã gắn bó với nàng vào sự đau khổ, bằng sự ra đi cuả Khôi quá bất ngờ mà dẫu có lo sợ, Ngọc vẫn không sao giữ lại được.
Trời vẫn mưa, hình như Ngọc vẫn bàng hoàng khi lần đầu giáp mặt với bộ mặt thật cuả chiến tranh, nhìn thấy sự hy sinh cuả người lính và nỗi bất hạnh cuả con người khi phải đối đầu với những đau đớn cuả thể xác. Nàng lạnh run lên, và khi Khôi mỉm cười thật dịu dàng, tế nhị khoác chiếc áo mưa màu xanh Không Quân lên vai Ngọc, tự nhiên nàng cảm thấy ấm áp, thẹn thùng nhoẻn một nụ cười thay một lời cảm ơn. Sau này, khi hai đứa yêu nhau, Khôi vẫn hay trêu Ngọc bằng câu ca dao thật dễ thương:
" Yêu nhau cởi áo...khoác cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu áo bay..."
Những nụ cười đầu tiên của tình yêu , sau này Khôi nói với Ngọc là nụ cười cuả nàng hôm ấy, sao có sức thu hút chàng thật lạ lùng, nụ cười như chia xẻ được nỗi bất an mà hàng ngày chàng phải đối mặt.

Chiều hôm đó, Khôi đưa Ngọc về, trên chiếc xe Vespa cuả chàng phi công độc thân, nay có thêm một tà áo xanh bay phấp phới . Trước khi về, Khôi ghé qua Câu Lạc Bộ, gặp vài người bạn trẻ, Ngọc nhìn thấy những đôi mắt nghịch ngợm cuả mấy chàng phi công trẻ đang hướng về phiá Khôi và Ngọc, có tiếng huýt sáo, có câu đuà cợt khiến Ngọc đỏ bừng đôi má. Hình như trong khoảnh khắc quý hiếm cuả cuộc sống, và sau những chuyến bay vào vùng lửa đạn, những người trẻ tuổi đã tìm cho mình được những giây phút thật hồn nhiên, vui tươi với bạn bè, hầu quên đi những khổ đau, mất mát trong đời lính.

Ngọc yêu không khí cuả những người lính, cho nên khi chấp nhận làm người yêu cuả Khôi là nàng cũng chấp nhận luôn những thắc thỏm lo âu, những mất mát có thể xảy đến cho những người trai thời ly loạn. Cũng như Khôi vẫn yêu thích màu áo xanh cuả nàng, màu áo thiên thanh mà chàng nói là màu áo cuả định mệnh, màu cuả bầu trời và sự hy vọng . Bởi vậy, mỗi lần hai đứa đi chơi với nhau, Ngọc luôn luôn mặc chiếc áo màu thiên thanh, dù cuộc đời có bao nhiêu màu sắc đẹp đẽ, rực rỡ hơn.

* * *

Cuộc tình cuả Khôi và Ngọc kéo dài suốt hai năm, chưa một lần hờn giận. Sau những giờ phút bay bổng, Khôi dành trọn vẹn cho Ngọc những giây phút còn lại. Hai đứa đi bát phố, xem ciné, đi chơi với bạn bè và nhất là, Khôi hay đưa Ngọc đi lễ chiều thứ bảy, nếu hôm đó chàng không bận công tác. Ngọc vẫn nhớ những chiều hai đứa ngồi bên nhau trong ngôi giáo đường , đấy là những phút giây đầm ấm và thánh thiện nhất cuả đôi lứa yêu nhau, khi Khôi thì thầm nói với Ngọc về đám cưới cuả hai đứa. Khôi bảo Ngọc là chàng vẫn muốn Ngọc mặc màu áo xanh trong ngày cưới, dẫu cô dâu nào cũng muốn mặc màu áo hồng hạnh phúc. Ngọc hiểu rằng chiếc áo màu thiên thanh trong ngày gặp gỡ đầu tiên, đã khắc một dấu ấn sâu đậm trong lòng Khôi. Nó cũng tạo cho Ngọc một niềm tin, viø dẫu cuộc đời có nhiều thay đổi, có bao nhiêu màu sắc thì tâm hồn Khôi vẫn mãi trong sáng như màu áo xanh chàng yêu thích.

Khôi hay đưa Ngọc về thăm mẹ mình. Bà mẹ hiền lành cũng thương mến cô con gái hay mặc chiếc áo dài màu thiên thanh mà con trai cụ đã thương yêu và chọn lựa.Nếu định mệnh không đẩy Khôi phải rời xa Ngọc, nếu chuyến bay tiếp tế cho chiến trường ngày hôm ấy không bị bắn rơi trong núi rừng vùng Lai Khê, thì Khôi và Ngọc đã thành hôn vào mùa Đông năm đó, khi Khôi bước vào tuổi hai mươi sáu. Ngọc không thể ngờ lần gặp nhau cuối cùng cuả hai đứa, cũng một chiều thứ bảy, Khôi đưa Ngọc đi nhà thờ về rồi vội vã đi ngay, với câu dặn dò " nhớ cầu nguyện cho anh nghe bé!"

Ngọc nhớ mãi nụ cười rạng rỡ cuả Khôi, tuy vội vã chàng vẫn giơ ngón tay lên môi, gửi cho nàng một nụ hôn gió, trước khi chiếc xe Vespa khuất ngoài đầu ngõ. Lần cuối cùng hai người nhìn thấy nhau, bởi vì chuyến bay đó là phi vụ cuối cùng, Khôi đã mãi mãi không bao giờ trở về, khiến nhiều tháng ngày sau đó, mỗi lần nhớ đến Khôi, Ngọc vẫn thảng thốt như nhìn thấy nụ cười, ánh mắt và nụ hôn gió kia chưa hề tan biến trong lòng Ngọc. Lòng nàng chìm ngập trong một nỗi buồn và một câu hỏi về cái có cái không trong cuộc đời, vừa thấy đó mà mất đó, như ảo ảnh, Khôi như chưa hề đi hẳn ra khỏi đời nàng, vẫn thấp thoáng ẩn hiện với biết bao kỷ niệm. Ngay cả nhiều năm sau , Ngọc lấy chồng, đâu phải nàng không yêu thương người bạn đời, nhưng trong sâu thẳm cuả tâm hồn, dường như dĩ vãng vẫn giữ lại hình ảnh Khôi, trong một khoảnh khắc nào đó mà nàng nghĩ tới.

Khôi mất tích mãi đến bảy ngày sau người ta mới mang về cho gia đình một nhúm thịt xương rã rời, không biết trong chiếc quan tài phủ cờ ấy còn lại gì, vì không ai có đủ can đảm để mở nắp áo quan cho gia đình xem. Ngọc đã khóc ngất đi khi gặp mẹ Khôi bên chiếc quan tài cuả con, ôi tro bụi lại trở về tro bụi, người mẹ can đảm ấy đã chịu đựng nỗi đau đớn khi mất con như khi chịu nỗi đau đớùn ngày con chào đời. Ngọc vẫn không quên nổi khung cảnh ảm đạm cuả buổi sáng hôm vĩnh biệt Khôi lần cuối cùng . Trời mưa lưa thưa, dường như định mệnh cứ đeo đuổi hai người với những cơn mưa, ngày đầu gặp nhau cho đến ngày cuối cùng chia biệt, vẫn là những giọt mưa, như những giọt nước mắt cuả định mệnh .

Bạn bè Khôi đứng nghiêm chào lần cuối người bạn cùng phi đoàn, trong ấy có vài bạn thân cuả chàng cùng đi du học hồi trước. Ngọc biết có những giọt nước mắt không chảy ra , chỉ là những con mắt hoe đỏ, và sự im lặng còn bằng vạn lời nói, chỉ có tiếng thổn thức nho nhỏ cuả chị em Khôi và cuả Ngọc. Hình dáng bé nhỏ gầy gò của mẹ Khôi, im lặng câm nín đứng bên bờ huyệt nhìn thân xác đứa con yêu lần cuối cùng, vẫn là nỗi đau ray rứt ám ảnh Ngọc nhiều năm tháng. Bất ngờ trong phút ấy, một người bạn thân cuả Khôi gỡ chiếc cánh bay trên ngực, ném xuống lòng huyệt thay một cánh hoa vĩnh biệt. Đúng một tháng sau, Ngọc nghe tin anh ấy cũng tử trận, máy bay bị rớt trong một phi vụ tiếp tế cho chiến trường. Phải chăng giữa hai người đã có một hẹn hò nơi cõi bên kia, hay số mệnh cuả con người đã chỉ là hạt cát phù du trong muôn vàn hạt cát?

Những ngày sau cái chết cuả Khôi, Ngọc vẫn lui tới thăm viếng mẹ chàng, tưởng như thế là sẽ ủi an được nỗi lòng cuả một người mẹ. Trong thời gian này, Ngọc mới biết rằng nàng còn yếu đuối hơn người mẹ quả cảm ấy, vì nỗi buồn lúc nào cũng sũng ướt như nước mưa, và Ngọc ít khi dấu được sự xúc động. Chính khi đó mẹ Khôi lại là người an ủi nàng, dẫu rằng có lần Ngọc len lén nhìn thế ngồi bất động cuả bà mẹ lặng hàng giờ trước di ảnh người con trai, mắt nhắm nghiền, đôi vai gầy guộc và những tiếng thì thầm như đang nói nốt một câu chuyện dở dang. Nỗi đau xót ấy chắc chỉ có ở những người mẹ bỗng nhiên mất đi đưá con , núm ruột cuả mình, máu mủ cuả mình, nhất là đưá con đã trưởng thành trong binh lửa, mới cảm thấy sự mất mát ấy đau xót như thế nào.

* * *

" Anh dễ thương cuả em,

Chắc không ai nỡ trách em khi dùng lại mấy chữ " dễ thương" năm xưa để dành cho một ngươì nằm xuống. Và cũng không còn chữ nào ý nghiã hơn để bày tỏ sự thương tiếc triền miên, dẫu nay đã ba mươi năm, chúng ta không thuộc về nhau, nhưng trong quá khứ, trong một khoảng không gian và thời gian cuả tuổi trẻ, em đã có anh.

Em mặc chiếc áo màu thiên thanh vì biết ngày xưa anh yêu màu áo xanh, chiếc áo màu thiên thanh em đã mặc vào ngày đầu chúng mình gặp nhau. Cho nên em vẫn muốn, màu áo xanh hôm nay tuy không còn thích hợp với tuổi tác cuả em hiện tại, nhưng ngày giỗ anh, để chỉ ở một chỗ nào rất riêng trong cuộc sống đời thường, em vẫn tưởng như tình yêu ấy còn mãi vượt cả không gian và thời gian. Để tưởng nhớ anh, để cảm ơn mẹ anh đã cam chịu nỗi mất mát đớn đau ấy suốt bao nhiêu năm đằng đẵng.


Hôm nay ngày giỗ anh. Nơi đất khách quê người, một lần nữa chúng mình gặp lại nhau, dù âm dương cách trở, dù định mệnh tàn nhẫn đã đẩy anh ra khỏi đời em vào chuyến bay cuối cùng hôm ấy. Em vẫn không thể nào quên, khi gặp lại mẹ anh, có lẽ nỗi đau cuả em cũng phần nào nguôi ngoai và mờ nhạt đi trong cuộc sống hiện tại, vì người ta không thể sống mãi cho dĩ vãng. Nhưng khi gặp lại mẹ anh, em hiểu, với mẹ anh thì chắc hẳn không bao giờ sự vắng mặt cuả anh, lại có thể làm bà quên rằng mình đã có một đứa con đã mất đi vào tuổi thanh xuân, đã hy sinh cho tổ quốc, và trong lòng người mẹ, vẫn trọn vẹn còn ôm mang hình ảnh đứa con cuả mình.

Anh dễ thương,

Hãy ngủ đi một giấc thật dài trong sự luyến nhớ cuả mọi người. Chiến tranh đã tước đoạt anh từ tay một người tình, một người mẹ nhưng chắc hẳn, anh sẽ không bị lãng quên trong lòng người còn ở lại, với bạn bè, với người tình năm xưa, và nhất là với người mẹ yêu quý cuả mình. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi tháng năm, dù giờ đây đã héo hắt vì tuổi già sức yếu, với mẹ anh, anh vẫn là người con trai yêu quý mà không bao giờ bà quên được cho đến ngày nhắm mắt, xuôi tay

Hôm nay ngày giỗ anh, trong thánh lễ cầu nguyện em vẫn mơ hồ có cảm giác như ngày xưa chúng mình ngồi bên nhau trong ngôi thánh đường ở quê nhà. Những chiều thứ bảy nhìn ra khoảng sân giáo đường, nơi góc sân ngát mùi hoa sứ , có những con chim sẻ ríu rít trên mái tối nhà thờ, có anh thì thầm với em bao ước vọng tương lai. Không có gì hết. Em ngỡ ngàng khi nhìn ra cuộc đời không có gì hết sau cái chết cuả anh. Chỉ còn lại những ngôi sao nhấp nháy mỗi đêm dài, dường như bao nhiêu tháng năm vẫn còn đó. Những áng mây trắng lướt thướt vắt ngang mảnh trăng khuyết vẫn còn đó, anh vẫn chưa mang về cho em, như lời hò hẹn trước giờ ly biệt, ở những tháng năm mình còn rất trẻ.

Cuộc chiến đã qua đi ba mươi năm , người ta có còn nhớ đến nhau như em đang nhớ về anh không anh nhỉ? Nếu người chết hiểu được những gì dành lại cho mình sau khi nằm xuống, thì anh hãy thênh thang đi về cõi hư vô với một tấm lòng thanh thản, anh nhé! Dĩ vãng chỉ còn là những hình ảnh mịt mờ trong lòng mỗi người, cuộc sống hôm nay dù không là trọn vẹn những gì mơ ước, nhưng tình yêu cuả chúng ta đã trở thành bất tử, ở một góc riêng mà không ai có quyền đạp chân lên nóù. Lạy Chuá, xin hãy cho linh hồn anh được ủ ấm trong tình yêu cuả Chuá, như ngày xưa lúc ra đi, anh đã mang theo một mối tình và hình ảnh chiếc áo màu thiên thanh về bên kia thế giới."

Viết cho những mối tình dở dang thời ly loạn.
Chút riêng gửi bác Phạm bích Huệ,
có một người con đã hy sinh cho " TQKG"
Nguyên Nhung.
oc huong
#8 Posted : Thursday, November 15, 2007 2:51:59 AM(UTC)
oc huong

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 1,180
Points: 0

viethoaiphuong
#9 Posted : Monday, January 19, 2009 12:51:27 AM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
quote:
Gởi bởi oc huong

Trang nhà NGUYÊN NHUNG

http://thotruyennguyennhung.googlepages.com/




OH ơi, link trên bấm vào bị hack rồi.
Nhưng VHP có link dưới nầy -- từ trên trời rơi xuống giữa cõi mây-gió riêng VHP.


Trang nhà NGUYÊN NHUNG

TRỜI VẪN CÒN XANH

heartRose


nguoitutramnam
#10 Posted : Thursday, September 9, 2010 12:06:27 PM(UTC)
nguoitutramnam

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 222
Points: 12
Woman

Thanks: 4 times

Nguyên Nhung

Thiên Đàng Địa Ngục Hai Bên


Ông Tũn sinh quán ở đâu không rõ, gia phả mịt mờ, tổ tiên vì sinh kế phải " tha phương cầu thực" đã lâu, nhưng căn cứ theo giọng nói, người ta đoán ông sinh trưởng chỗ cái eo trên bản đồ nước Việt. Vùng đất ấy núi non hiểm trở, chuyên sản sinh ra những gương mặt cách mạng , đó là do ông Tũn nói, sau này mỗi khi nhắc về quê quán, ông nhớ mù mờ về ngôi đình làng, cây đa cao ngất từng xanh, con đường lát gạch đỏ đã phai màu dẫn vào những mái tranh, mái rạ. Chung chung là thời thơ ấu của ông chỉ có vậy, sau này ở miền Nam, lúc ăn nên làm ra, mỗi khi "trà dư tửu hậu" ông Tũn đều khoe với thiên hạ là cha mẹ ông ruộng cả ao liền, nhà ngói năm gian, vườn ngang bảy mẫu. . .

Ông Tũn học hành không bao nhiêu nhưng lại thông minh,láu cá hơn nhiều người có học, vì thế chưa chắc người có bằng cấp đã ăn đứt ông. Hồi Mỹ đưa quân qua Việt Nam, ông đi làm sở Mỹ, chỉ lãnh phần thu dọn rác rến mà tiền vô như nước. Bà Tũn cũng học sách của chồng, khi còn trẻ bà là chân phụ bếp nấu nướng cho lính Mỹ trong căn cứ, bà biết cách ăn cắp trứng gà, thịt bò sống đem ra cổng qua mặt tụi M.P. của Mỹ ào ào. Cách ăn cắp trứng của bà rất thiện nghệ, chả mấy ai biết được. Bà lấy ít vỉ trứng tốt bỏ ra ngoài tủ lạnh một, hai hôm, gặp trời nóng trứng bị vữa, bà để vào chỗ cũ, tên đầu bếp sáng ra đập vài quả trứng , thấy hư bèn đem đổ đi hết một tủ lạnh, bà chỉ việc xếp vào giỏ đem về bán rẻ cho bà con lối xóm.
Nhưng thành tích ăn cắp thịt bò của bà Tũn mới ghê. Bà lấy nguyên tảng thịt bò đông lạnh đeo vào bụng, rồi lấy khăn vải cột chặt giả như người có bầu đi nghễu nghện qua mặt mấy chú lính Mỹ ngây thơ. Chẳng may hôm ấy có chuyện lộn xộn, người ta đồn rằng có đặc công VC đột nhập vào căn cứ, người ra kẻ vào phải lũ lượt xếp hàng chờ khám xét. Trời nắng chang chang, chú G.I. mồ hôi nhễ nhại nhìn xuống đất, bỗng phát hiện người đàn bà bụng mang dạ chửa mà tại sao từ hai ống quần lại ròng ròng chảy ra một thứ nước đỏ như máu. Thôi chết rồi, chú hoảng hốt gọi "emergency" tức tốc chở người đàn bà bụng chửa vào nhà thương Quân đội của Mỹ, kỳ ấy bà Tũn đẻ ra được chục ký thịt bò còn tươi roi rói. Phát hiện ra vụ này, bà Tũn được nghỉ việc, nhưng chuyện đổ rác của ông Tũn thì vẫn cứ một ngày một phát đạt. . .
Cho đến năm bảy mươi lăm, gia đình ông Tũn cũng may mắn lọt xuống tàu Hải Quân đi tọt qua Mỹ, lúc hỗn quân hỗn quan, ông Tũn nhờ có chút tiếng Anh ba rọi, lại bạo mồm bạo miệng nên chỗ nào cũng chen lấn được, nhà ông vì thế đâm lại "phất" hơn nhà nhiều quan lớn, quan bé. Cả nhà được định cư ở một thành phố ven biển, thành phố nhỏ buồn thiu buồn chảy, chỉ thấy có nhiều nhà thờ san sát . Quan sát nhà cửa khu vực thì sự kỳ thị đã thấy rõ, ông Tũn nhờ có số vốn mang theo, dành dụm đặt cọc mua được một cái nhà cây trong khu hỗn hợp đủ màu da, chứ không dám leo trèo vào khu riêng biệt của dân bản xứ. Hôm đi xem nhà lần đầu, ông mới thấy rõ điều đó, đi vào đâu ông cũng chỉ là người lạ, chỗ thì đen quá, chỗ lại trắng quá, chỉ có mấy chỗ Hợp Chủng Quốc tuy hơi mất an ninh, nhưng có thể ở được. Sau này khi khấm khá, khu ông ở có nhiều người đồng hương từ nơi khác tới mua nhà, bà Tũn đã vội vã bảo chồng bán quách ngôi nhà cũ, chỉ vì bà sợ ở chung với những người cùng xứ sở của mình.
Ai ngờ, sau này " đất lành chim đậu", người mình dần dần đến đó lập nghiệp cũng đông, ông Tũn là người đến trước, lại khôn ngoan có máu buôn bán, nên lần hồi được coi như người có máu mặt trong vùng. Chả gì cũng hai, ba tiệm trong khu da màu, trông coi không xuể ông lại mướn ngay người mới sang làm công cho ông, giờ nào nguy hiểm đã có người làm bia đỡ đạn. Tuy vậy, nhà ông phòng thủ còn hơn công sự chiến đấu thời chiến tranh, ông khoét một lỗ như lỗ châu mai, thủ sẵn khẩu đại liên trong căn nhà phía sau, nhắm đúng vào chỗ kẻ gian hay trổ mòi cướp bóc, để hễ có gì là nhả đạn ngay chóc. Cũng may, chưa có máu đổ thịt rơi trong tiệm của ông lần nào, chỉ có mấy vụ ăn cắp vặt không đáng để phí đạn vào những việc như thế, nhất là ngó cái mặt lầm lì của ông bọn trộm cũng rét, vì thế mà ông bà Tũn cứ thảnh thơi hốt bạc.
Khi có tiền tự nhiên đời cũng sinh lễ nghĩa, đi đến đâu ông bà Tũn cũng được kính trọng nhờ những món “donation” thật hào sảng hơn cả những nhà có máu mặt ở địa phương, chả những cộng đồng ta kính nể, mà cộng đồng bạn cũng biết tiếng. Ông Tũn bây giờ mặt mũi phương phi, đỏ hồng như những đại phú gia gốc Chợ lớn, còn bà Tũn trắng trẻo, đi đứng ục ịch, ngúng ngoảy cái mông để khoe của. Bà lại còn sửa sắc đẹp, những người quen bà mười mấy năm trước bây giờ không ai còn nhận ra con mẹ Tũn ăn cắp thịt bò năm xưa. Cái gì ở bà cũng giống Tây, mắt sâu, mũi cao, cằm chẻ, má lúm đồng tiền, chỉ trừ có tướng đi là không sửa được, nhưng đã có quần áo giày dép hàng hiệu và TIỀN che lấp vào cái khoản quê mùa đó. Mà đã sao đâu, gì chứ có tiền mua tiên cũng đươc, đồng tiền có mãnh lực kinh người ở chỗ đó, những vị tai to mặt lớn, những nơi tổ chức từ thiện, những hội hè nhăng nhít ông bà Tũn cứ đưa tiền ra là được thiên hạ bốc thơm ngay. Cũng vì thế mà họ cứ xúi khôn xúi dại ông Tũn ra tranh cử chức nghị viên thành phố, dù sao bây giờ ông cũng là công dân nước cờ hoa, với cái tên rất Mỹ là Mr. Tun.
Đối với cộng đồng Việt Nam, ông Tũn chẳng sợ ai, vì tiền ông nhiều mua gì . . chẳng được, nhưng đối với cộng đồng bạn tại địa phương, Mr. Tun cũng vẫn hơi khớp. Tiếng Anh để cãi nhau với mấy thằng ăn cắp vặt hay mấy ông bà già đồng hương thì ông ăn đứt, nhưng đứng trước cử tọa đông người, hay với đám trẻ lớn lên đi học ở xứ này, ông tự nhiên rét run như cầy sấy, nói năng lập cà lập cập. Mấy tay "quân sư" khích ông Tũn rằng, giờ đây tiền bạc đã rủng rỉnh, cũng đến lúc "phải có danh gì...với núi sông" chứ! Ông bà Tũn nghe thiên hạ bốc thơm, thấy vừa hăng tiết vịt mà cũng thèm thuồng tý công danh, nên vì thế đã mạnh dạn ra ứng cử, tranh đua với các liên danh trắng như Hamburger, đen có liên danh Chicken Wings, Mễ có liên danh Taco, còn ông Tũn, cùng bộ tham mưu làm việc ngày đêm, chọn mãi mới được tên liên danh Bát Cơm Quả Trứng.
Ngay trong đợt tranh cử đầu tiên, ông Tũn đã đánh trúng vào tâm lý quần chúng, áp dụng bài bản "All you can eat" để vận động tranh cử, nhiều buổi " gặp gỡ" cử tri được mời đến ăn uống rất hậu hĩnh, thức ăn đầy chất béo và chất ngọt, mỗi buổi nói chuyện đến hằng ngìn người tham dự, có ca nhạc phụ diễn mua vui và vỗ tay khi ông Tũn xuất hiện. Bây giờ thì ông Tũn được rất nhiều sự ủng hộ của các hãng bảo hiểm, bác sĩ và nhà quàn ở cái địa phương khỉ ho cò gáy này, ở chỗ họ trông đợi vào những cử tri thích ăn đồ ăn ngọt và béo của ông Tũn, tương lai sẽ phải đi bác sĩ để chữa những chứng bệnh như tiểu đường, cao mỡ trong máu, nhồi máu cơ tim và xa hơn một chút thì đến nhà quàn khi " tiêu diêu miền cực lạc".
Những ngày tranh cử là giai đoạn làm việc mệt mỏi căng thẳng nhất trong đời ông Tũn, vợ ông suốt ngày cũng bận bịu trà nước đãi khách vãng lai, khi dấm dúi tý bạc lẻ cho những khách không mời mà đến, để sau này hy vọng kiếm được lá phiếu của họ. Lúc nào đầu óc ông Tũn cũng lơ mơ vì cái ghế danh vọng, như ngày xưa có lúc ông đã mơ ước được làm người Mỹ, bây giờ lại sắp sửa bước vào dòng chính của đất nước này, ông Tũn đem theo cả niềm hân hoan ấy vào giấc mơ của mình. Đêm hôm đó, trong một giấc ngủ mê mệt, ông Tũn nằm mơ thấy mình quy tiên, về thế giới bên kia để được đi vào một cuộc tranh cử "vô tiền khoáng hậu" giữa Thiên Đàng và Địa Ngục.
* * *
Khi vừa xuất hồn ra khỏi xác, ông Tũn thấy mình bay một lèo đến một vùng không gian kỳ lạ, không phân định rõ ràng ánh sáng và sự tối, ở đấy có một bức tường ngăn làm đôi, cảnh vật hai bên có vẻ khác biệt nhau, lăng xăng nhiều người đi tới đi lui trong hai cánh cổng khác nhau, nhưng rõ ràng họ đang "welcome" ông. Ông Tũn thấy có nhiều áp phích dán hai bên tường, nhíu mày đánh vần mãi ông mới hiểu lờ mờ rằng nhà Trời cũng đang có cuộc tranh cử, mà hai nhân vật đại diện cho hai phái rất quen tên với thiên hạ cả triệu triệu năm, từ hồi khai thiên lập địa.
Nhác nhìn lên bức tường dựng đứng, ông Tũn đọc tiểu sử của hai đại diện cho hai phái khác nhau. Trước tiên huy hiệu cái lò lửa đỏ trên nền cờ đen kịt đập vào mắt ông, bên cạnh là một bảng tiểu sử dài dằng dặc có "full name" là Luxifer, " nick name" là ông Lu. Đúng lúc ấy thì ông Lu xuất hiện, dáng cao cao, mặc bộ xì-mốc-king màu đen, tóc hoe vàng ám khói, có vẻ như người gần gũi với củi lửa, cặp mắt sâu và hơi đỏ, toát ra một vẻ lôi cuốn đầy ma quái. Trông ông Lu có vẻ như rất già mà cũng rất trẻ, rất bản lĩnh , thêm chút đe dọa người yếu bóng vía. Ông Lu có nụ cười với hàm răng trắng bóng, đôi môi quá đỏ khiến nụ cười trông có tươi mà rất rùng rợn, khiến một kẻ cứng bóng vía như ông Tũn cũng nhũn ra vì e ngại. Nhưng ông Lu đã thân thiện giơ tay bắt lấy tay ông Tũn mà xiết chặt, lúc này ông Tũn mới để ý bàn tay ông Lu có những móng tay dài và nhọn, khiến ông liên tưởng đến những cái vuốt của diều hâu.
Đọc quảng cáo, ông Tũn còn biết ông Lu vốn trước kia từng đạo diễn hãng Satan Productions, chuyên sản xuất nhiều phim kinh dị, khủng bố, giết người, mất mùa, lụt lội . Ông cũng có viết văn, vẫn chỉ là loại " fiction" không tin được, lấy bút hiệu là Xích Quỷ Đại Vương. Hồi còn trẻ, ông xuất thân là một thiên thần thông minh và tài giỏi, có đẳng cấp cao trong chín Đẳng Thiên Thần, được Thượng Đế thương cách riêng và đặt tên cho ông là Luxifer, người mang Aùnh sáng (Bearer of Light). Trong một lúc bốc đồng, ông Lu đã tuyên bố mình là "number one", chẳng coi Trời là cái “đinh” gì cả. Vì thế mà ông đã bị trừng phạt, bằng cách đẩy ra khỏi cổng Trời, làm bạn với bóng tối và sự ác. Ông bèn lập ra Phái tả, gọi là Địa Ngục, ông Lu có số làm lãnh tụ, nên được tụi ma quỷ bầu làm chưởng môn phái Hắc Đạo
Ông Tũn lúc ấy như bị nụ cười của ông Lu mê hoặc, có khác gì nỗi đam mê tiền bạc trên trần thế , ông cứ thẳng bước vào cánh cổng của liên danh Luxifer, có lá cờ đen với lò lửa đỏ. Một bầy con gái má đỏ môi hồng, đít cong vêu vểu ra nhảy múa choàng vòng hoa cho Mr. Tun, lẫn trong tiếng nhạc dâm dật và gào rú là những tiếng thở hổn hển rất khêu gợi. Đất hỏa ngục nóng rẫy lên bởi tiếng cười sặc men rượu, tiếng tiền rơi leng keng trong những máy đánh bạc vang lên xủng xoẻng rất vui tai, đàn bà con gái quần áo mỏng manh lượn qua lượn lại trông ướt át quá sức lẽ mình, có lẽ từ hồi bé đến giờ, ông Tũn chả bao giờ được thấy như vậy vì lúc nào mụ Tũn cũng kè kè một bên, có hở ra được phút nào đâu mà đi tìm của lạ.
Ối giời ôi! Ông Tũn thầm gọi tên Trời trong cơn đê mê thống khoái, người ta cứ tả hỏa ngục thế này thế nọ, chỗ ấy chỉ toàn vạc dầu, lửa nóng và ma quỷ. Lầm, lầm hết, ông Tũn nhíu mày nhìn rồi rú lên khi thấy cũng có các vị tu sĩ , bác sĩ, luật sư, quan tòa, thẩm phán, báo chí truyền thông, chính khách, lãnh tụ cũng đang chen chân đi đi, lại lại, đúng là "hội chợ phù hoa" mỗi người mỗi vẻ. Ở đây ông Tũn cũng gặp rất nhiều hội hè tiêu biểu cho cả hai phe chính tà, hội Vịt Kìu yêu nước, hội trí thức yêu nước hơn yêu mình, hội phụ nữ quần xanh, hội lão ông chống gậy, hội cao niên vái nhau, hội trẻ con vô gia đình, sư hổ mang, cha rắn rít gì cũng có đủ mặt trong mùa tranh cử. . . Hình như ông Lu có phép ảo thuật, hễ ông Tũn nghĩ gì thì trước mắt ông hiện ra như vậy, mà những điều ông Tũn nghĩ thì ông Lu đều biết cả, hèn gì tám phần mười loài người trên trần thế, ông Lu nắm vững trong tầm tay. Xa hơn một chút cũng có sân chơi thể thao, hai nhô con của Sát Đam là U Xay và U Day đang đánh tennis với nhau, quần áo trắng lốp, tay cầm vợt bằng vàng, đầu trọc tếu, hóa ra ông Lu vẫn ưu đãi dành riêng cho những người lắm tội, chứ có nhà tù hay vạc dầu nào ở chỗ này.
Ông Tũn cứ lầm lũi đi như bị ma đuổi, cảnh vật xung quanh thu hút khiến mắt ông không rời ra được. Chỗ nào cũng lôi cuốn thế kia, một bọn đang ngồi nhậu món tái Dê và tiết canh chó, rượu tràn cả ra bên thành ly, ngồi xen vào đó là những em thơm phức, mắt đong dưa, môi ướt nhẫy. Ông Tũn có gặp lại một số bạn cũ , tay bắt mặt mừng, tình nghĩa ân cần vì " đồng hội đồng thuyền" năm xưa, họ thì thầm vào tai ông Tũn dặn dò nhớ bỏ phiếu cho Luxifer, nhớ chọn liên danh cái cờ đen với lò lửa đỏ. Chả mấy khi Thượng Đế cho tự do dân chủ sau khi chết, dù rằng khi con người còn tại thế, Ngài rất tôn trọng quyền tự do dân chủ của con người. Tuy vậy, cũng có người lấy tình quen biết tri kỷ, rút kinh nghiệm bản thân, khuyên ông Tũn trước khi chọn lựa, cũng nên ghé qua cửa Thiên Đàng tham quan cho biết sự tình, rồi quyết định cũng không muộn gì.
* * *
Ông Tũn bước ra khỏi cánh cổng Địa ngục với niềm tiếc nuối không nguôi, nhưng chả lẽ đã đến đây lại không vào Thiên Đàng cho biết sự tình. Cũng ngay cánh cổng sơn màu trắng, tấm áp phích nhà Trời đập vào mắt ông Tũn, liên danh ông Pierre( tên Tây), Peter (tên Mỹ), và tên Việt Nam là ông Phê Rô đang nhìn ông mỉm cười, nụ cười thật là hiền hậu , nhân ái. Khẩu hiệu " Cánh buồm trắng trên nền biển xanh " trông rất mát mắt, y như cái " nick name" cụ Phê mà người ta đã gọi Cụ. Cụ Phê chính gốc dân thuyền chài, vùng Trung Đông, khuôn mặt hiền hòa, râu tóc bạc phơ, ăn mặc đơn giản, áo nâu sồng, chân đi dép da dê. Đường vào Thiên Đàng cảnh vật thanh nhã, bãi cỏ rộng lấp lánh những hạt mưa bụi, hai bên đường hoa thơm nở đủ màu, mùi thơm phả lên bát ngát hằng chục dặm. Phía trên mây, bầu trời cũng xanh biếc, những vì sao nhấp nháy như hằng hà sa số ngọc châu dát trên nền trời, nhạc êm dịu và người đi lại tuy vắng vẻ, nhưng trông ai cũng điềm đạm, hiền hòa, chỉ mỉm cười với ông Tũn mà không mời chào, lôi kéo như phía bên kia.
Đọc tiểu sử cụ Phê, nghe đâu trước cụ cũng có gia đình, sau theo một vị chân tu, giác ngộ và đi tìm con đường cứu nhân, độ thế. Cụ không đóng phim viết lách gì, nhưng một hãng phim ở Hollywood có làm một phim đặc biệt về Cụ, có tên là " the Shoes of the Fisherman", ngụ ý nói lên trách nhiệm nặng nề của Cụ, khi được Thượng Đế giao cho chìa khóa cổng Thiên Đàng. Tính Cụ hiền lành, có lòng nhân nên vì thế lắm khi Cụ cũng bị mấy tên quỷ sứ đánh lừa để lọt vào cổng Trời, nhờ những " mác" rất kêu như nắm đầu những cơ quan từ thiện hay tôn giáo. Nhưng đời vốn " ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" , chúng nó cũng không chịu được cảnh thánh thiện của Thiên đàng, lại tìm cách chui qua cửa địa ngục. Với lại, nguyên một dàn thiên thần "security" bay rải rác khắp nơi kiểm soát, mặt nào ra mặt nấy, bọn kia lại phải tìm cách chuồn về cố hương sống với bè lũ của chúng nó.
So về lực lượng giữa hai bên Thiên Đàng và Địa Ngục trong ngày tranh cử thì phe ông Lu có vẻ hùng hậu hơn, từ những "ô-pạc-lưa" gắn trên đường phố rống lên ông ổng quảng cáo ba mươi sáu món ăn chơi nơi Địa ngục, chưa kể những món ăn thật nóng hổi xôi sèo sèo trên bếp lửa ( sau này ông Tũn mới biết đó là món "ba-bơ-kiu" thịt người), nào bò bảy món ( bò lăn, bò trườn, bò lê, bò la, bò sát, bò lúc lắc, bò xơi tái), kèm theo đủ thứ rượu Tàu rượu Tây. Một lũ người ngợm như ông Lu, áo quần rặt một màu đen, thắt cà-la-vát đỏ, đang đi rải truyền đơn dụ khị đám người từ dương trần vừa ngơ ngác bước qua lằn ranh sinh, tử. Những hứa hẹn đầu môi chót lưỡi, những kế hoạch lớn nhỏ đang được truyền đi khắp chốn, ông Tũn thấy hoang mang quá sức. Phía cụ Phê yên lặng hơn, cũng "welcome" mọi người nhưng không ồn ào, níu kéo, vốn từ xưa là nơi thanh tịnh, người muốn vào nhà Cụ khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Từ tạo thiên lập địa đến bây giờ, Thượng Đế mới có ban cho một lần chọn lựa sau khi chết, bởi thế mới có chuyện hai bên thông thương, để mọi người có dịp phân biệt tỏ tường đâu là chính nghĩa.
Tuy chỉ cách nhau có một bức tường mà Thiên Đàng và Địa ngục đã có một lằn ranh bất khả xâm phạm, hai bên đã có một lần găng nhau vì bức tường đổ, làm cụ Phê giận lắm mà không làm gì được ông Lu. Chính, Tà có một bức tường chắn giữa, một bên bạt ngàn trùng trùng mây trắng, một bên mù mịt khói đen, chẳng may tường bị xụp, cụ Phê bèn "imeo" cho ông Lu, đề nghị hai bên cùng sửa chữa. Ông Lu cứ ì ra, hắn có " reply" lại cho cụ Phê biết rằng, hằng ngày có nhiều tay không chịu được nóng đã đào tẩu sang bên Cụ, chứ bên Cụ ít ai dám nhảy qua bên hắn. Những tài khoản chi cho quỷ sứ công an chặn đường dân vượt tường cũng nhiều, hắn đào đâu ra "budget" để sửa tường bây giờ. Cụ Phê tức lắm, bèn đích thân gọi phôn bảo ông Lu là cụ sẽ đưa việc này lên Ba tòa quan nhớn để Ngài xét xử. Nhưng ông Lu thật đáo để, hắn cười rất đểu mà bảo cụ rằng: "Cụ có muốn "sue" thì cứ việc, nhà cháu chỉ xin hỏi cụ một câu là, phía cụ thì đào đâu ra đủ số luật sư để tranh tụng". Thế là từ đấy, hai bên tuy bằng mặt mà không bằng lòng, nhà nhà kín cửa cao tường, bên này nhã nhạc du dương, bên kia tiếng gầm gừ, gào thét kinh động bốn phương. . .
* * *
Ông Tũn sau khi được một thiên thần đưa đi tham quan đất Thiên Đàng, cảnh trí thật đẹp nhưng yên tịnh, người người chắp tay mắt ngước mắt nhìn Trời, khuôn mặt ngất ngây thánh thiện. Từ mỗi người là một sự bình an không tả được, không thấy có sự hận thù, đố kỵ ở đây, không thấy ai tranh dành chỗ cao chỗ thấp, đúng là Đất Thiên Đường nhưng mà với ông Tũn thì " boring" lắm. Ông đang so sánh sự khác biệt giữa Thiên Đàng và Địa Ngục, rõ ràng thì bên kia đông hơn, vui hơn, khác gì Sài Gòn thời đổi mới. Hình như ở Thiên Đàng người ta không thiết gì ăn, mà ông Tũn vốn lại thích ăn ngon, trong khi ấy mùi thịt nướng từ bên kia bay qua thơm lừng làm ông thèm nhỏ dãi. Ông cứ dùng dằng trước ngưỡng cửa Thiên Đàng và Địa Ngục, xem ra nếu ở Thiên Đàng, ông khó lòng có được một chỗ đứng cao hơn người khác. Lúc đưa mắt nhìn, ông đã thấy ông Lu mỉm cười, hiện ngay cho ông Tũn xem hình ảnh lúc ông ngất nghểu ngồi trên chỗ danh dự, dưới kia là một đám đông đang hoan hô, cổ võ.
Nhìn cụ Phê , ông Tũn chỉ thấy cụ đang lim rim đôi mắt hiền từ nhìn ông , cụ chẳng nói lời nào nhưng ý cụ cho ông biết ông phải khôn ngoan để chọn lựa, vì chỉ lần cuối này thôi là có thể "sảy một ly đi một dặm". Ông Tũn phân vân nhìn cụ Phê, nhưng xem ra cái nhìn yên lặng của cụ không "effet" bao nhiêu, chưa bao giờ Thiện và Ác gần gũi nhau như vậy, chưa bao giờ nền công chính và bất chính dằng xé nhau như vậy, lòng tham lam, sự ham muốn quyền lực vô độ, ông Tũn nghiêng hẳn người về phía ông Lu, như ngày xưa ông không làm sao từ chối được những đồng tiền nhơ bẩn.
Không nghĩ ngợi gì nữa, ông Tũn thò tay lấy cái phiếu có tên Luxifer bỏ vào cái thùng đặt trước ngưỡng cửa Thiên Đàng và Địa Ngục, ông nghe hắn ta rú lên cười như điên dại, chưa bao giờ ông nghe được tiếng cười quái dị như thế. Lập tức ông Lu biến mất, trước mặt ông là hai thằng quỷ sứ đen ngòm lôi ông đi, ông Tũn cầu cứu nhìn cụ Phê, nhưng đã muộn rồi, ông nhìn thấy đôi mắt hiền từ kia dân dấn hai hàng nước mắt.
Nhanh như chớp, hai thằng quỷ lôi ông Tũn đi trên một con đường đầy cỏ sắc và gai nhọn, hai bàn chân ông đau điếng. Đi hết con đường cỏ gai,lại tới một con đường lầy nhầy bùn đất, kinh khủng hơn là mùi hôi thối nồng nặc bốc lên, ông nghe có tiếng khóc than vang vọng , tiếng chửi rủa lẫn nhau, hàng hàng lớp lớp người đứng trong chấn song sắt nhìn ông đi ngang cười lên the thé, họ chào đón một kẻ dại khờ như ông Tũn đã dại dột nghe lời Luxifer phỉnh phờ để chọn địa ngục làm quê hương.
Ông Tũn hiểu ra, kinh hãi trong tuyệt vọng, cố trì lại để thoát khỏi hai cánh tay cứng và sắc như gọng kìm của hai tên qủy sứ , dãy dụa mãi mà không ăn thua, ông nức nở khóc, rồi bật ra hỏi:
" Sao hôm qua địa ngục khác cơ, bây giờ, ơ hơ, lại như thế này?"
Tên quỷ mặt vằn mặc áo đen lưỡi đỏ nhe răng cười đểu, bảo ông:
" Hê, hê! Hôm qua là ngày "campaign" của chúng tớ, ngày vận động bầu cử kiếm phiếu thì làm gì mà lại chả...vui."
Ông Tũn lắp bắp hỏi:
" Thế tôi còn phải ở đây bao lâu ?"
Tay quỷ sứ cười ré lên, kéo cái hàng rào được nung đỏ đưa ông Tũn vào đấy, hắn nói như hát:
" Biết đến bao giờ!"
Hắn chỉ cho ông Tũn cái đồng hồ màu đỏ như lửa, cái đồng hồ không có kim chỉ giờ, phút, giây gì ráo, chỉ có cái chuông đánh rền rền hai chữ " đời đời" suốt ngày và suốt đêm.
Ông Tũn khóc rống lên gọi Trời, nhưng cửa Thiên Đàng đã mịt mờ cuối nẻo chân mây. Hai tên quỷ sứ cột chặt ông lại, người ông nặng như đá đeo, ông lại la hét rầm trời, nhưng chỉ là những tiếng hét hãi hùng, tuyệt vọng.
* * *
Ông Tũn bừng tỉnh giấc Nam Kha, không nhấc mình lên được vì cái đùi béo tròn của bà Tũn vắt ngang trên mình ông, khiến ông ê ẩm cả người. Sau giấc mơ kinh khủng ấy, ông Tũn bàng hoàng nghĩ ngợi suốt ngày, hễ phải đi ngủ là ông sợ, người ta đồn rằng vì quá lo lắng cho cuộc tranh cử, ông bị mát dây thần kinh, đâm ngớ ngẩn, nhìn đâu cũng thấy quỷ sứ.
Vì thế, liên danh "Bát Cơm Quả Trứng" phải rút lui chỉ còn lại ba liên danh Hamburger, Chicken Wings và Taco đấm đá xâu xé nhau, họ bôi bẩn nhau không tiếc lời, còn hơn hỏa ngục. Bà Tũn vẫn tiếc giấc mộng làm bà Nghị, cứ dằn vặt ông sao ốm không lựa ngày, và vì buồn cho giấc mộng vàng dang dở, bà đi tân trang sắc đẹp cho đẹp thêm, nhưng vì co kéo nhiều lần nên mỗi khi cười miệng bà trông như mếu.
Riêng ông Tũn, sau giấc mơ mùa tranh cử, ông ốm một trận lâu lắm mới tỉnh hồn. Từ đấy Mr. Tun ít nói năng, chỉ thích ngồi một mình thinh lặng, ông nhìn cuộc đời táp nham, phản ảnh đầy đủ những khía cạnh của Thiện và Ác, chẳng ai chui vào được đầu ông để biết ông đang nghĩ gì. Lâu lâu, ông Tũn lại rùng mình nhớ đến khuôn mặt quỷ quyệt của ông Lu, rồi lòng ông ấm áp ngay bởi hai hàng nước mắt dân dấn đầy thương sót của cụ Phê trong giấc mơ ngày tranh cử.
NGUYÊN NHUNG


Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.