Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
Vài Ghi Nhận Về Văn Học Miền Nam Lục Tỉnh 1954-1975
Nguyễn Vy -Khanh
1. Sinh Hoạt Văn Nghệ:
Hiệp định Genève 7-1954 chia đôi nước Việt Nam, chính thức công nhận sự thành công của chủ nghĩa cộng sản quốc tế ở nửa phần đất nước, vô tình bắt buộc chính phủ và người dân miền Nam nghĩ đến chủ quyền và xây dựng một miền Nam hùng mạnh và độc lập. Củng cố cái còn lại, xác định chỗ đứng với quốc tế và dân tộc. Trong hoàn cảnh mới đó của đất nước, biên giới địa lý thay đổi, sự di cư và tập hợp của người Việt đủ nguồn gốc, Nam Trung Bắc đã mất đi nhưng không mất hẳn ý nghĩa phân rẽ của thời thực dân, văn học miền Nam cũng sẽ có những biến đổi quan trọng. Cá tính "miền Nam lục tỉnh" và "Sài Gòn" sẽ phải chịu những phân thân, hóa thân và hội nhập để dần biến dạng trong biển văn nghệ "miền Nam cộng hòa". Ngược lại, các tác giả Bắc và Trung đã nhận phần nào ảnh hưởng của tiếng nói và tâm tính người vùng đất mới qua các tác phẩm của họ. Trong bài này, chúng tôi thử tìm và xác định lại những nét tiêu biểu và giới thiệu một số tác giả của miền Nam lục tỉnh của giai đoạn 1954-1975.
Viết về giai đoạn văn học miền Nam 1954-1975, các nhà phê bình và biên khảo thường theo một cách nhìn theo đó nền văn học này là tiếp nối tự nhiên của văn học miền Bắc trước đó hoặc vai trò của miền Nam không được đánh giá đúng mức (1). Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tạ Tỵ, Mai Thảo, v.v. trong các bài đăng báo hoặc in trong các tuyển tập, đã nhìn giai đoạn này như có đó và như thế với từng ấy người mà không đi sâu vào những khúc mắc hình thành nền văn chương đó. Cao Huy Khanh trong loạt bài biên khảo về 20 năm tiểu thuyết miền Nam (1954-1973) đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thời Tập trước 1975 đã phân tích nền văn học đó như sự lớn dậy của một con người từ mới sinh đến khi khôn lớn. Họ Cao là người đầu tiên viết về giai đoạn văn học 1954-1973 (ông dùng thời điểm hiệp định Paris) nhưng chỉ mới được 4,5 bài dẫn nhập đã xảy ra biến cố 30-4-75, sau đó không thấy ông xuất hiện trên báo chí! (2). Nhà văn Võ Phiến, trong Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (1986) (3), đã có cái nhìn tổng hợp hơn và đã công bình dành cho miền Nam "lục tỉnh" một vai trò hình thành và xuất phát cho nền văn học 1954-1975. Tuy nhiên, Võ Phiến đã không đáng giá đúng mức tác phẩm của các nhà văn miền Nam thời kháng Pháp ngay trước đó là thời Sài Gòn rất sôi động về chính trị và cách mạng trong khi Hà Nội sôi nỗi về quân sự. Khuynh hướng văn nghệ đấu tranh này đã lớn mạnh và đa dạng ở Sài Gòn trong khi văn nghệ kháng chiến ở phía Bắc đã phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp của đảng cộng sản ngay từ những ngày đầu; một khuynh hướng nẩy mầm từ những Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu, Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử,... của những thập niên 20 và 30 là thời văn học miền Bắc đang lãng mạn đến đẩm lệ và tự tử với những Cành Hoa Ðiểm Tuyết, Tuyết Hồng Lệ Sử, Tố Tâm, v.v. Viết về 20 năm văn học đó mà cứ nói đến các nhóm Sáng Tạo, Quan Ðiểm, Văn Hóa Ngày Nay, v.v. mà quên các nhóm "bản xứ" khác là một thiếu sót lớn! Văn học miền Nam đã có từ 1865, vẫn tiếp tục phát triển song hành hoặc hoà nhập nền văn học Việt Nam nói chung, hay từ năm 1954, miền Nam có văn học khác, mới? Theo thiển ý nên phân biệt ba dòng văn học tại miền Nam từ 1954 đến 1975 mà nếu công bằng ta có thể ghi nhận:
- một thuần Nam, từ Petrus Ký qua Hồ Biểu Chánh đến Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vương Hồng Sển,... bình dân hoặc trưởng giả trí thức với những đòi hỏi thông thường những giá trị dân chũ của Cách mạng Pháp 1789;
- một dòng giữa gồm miền Nam cộng với Trung và một ít Bắc đã khởi từ trước 1954, thiên chính trị cách mạng và công bằng xã hội;
- và dòng cuối là dòng nước mới từ miền Bắc di cư vào từ 1954, dòng trí thức tiểu tư sản và chính trị lý thuyết.
Trong hơn 20 năm, ba dòng văn học đó đã sống chung, đã nhập làm một dưới biểu tượng dân chủ và cộng hòa.
Về định nghĩa hai chữ "miền Nam" cũng đã hiếm có đồng thuận. Từ ngữ "miền Nam" có thể để chỉ "Ðàng Trong" từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, từ vĩ tuyến 17 trở vào từ hiệp định Genève 20-4-1954 mà cũng còn có nghĩa là "xứ Ðồng Nai", "Gia Ðịnh thành" thời Gia Long về sau trở thành "lục tỉnh". Từ năm 1956, chính quyền Sài Gòn chính thức đổi thành Nam phần để phân biệt với Trung phần và cả hai cùng thuộc về miền Nam. Trong bài này chúng tôi bàn về miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào nhưng mục đích ghi nhận những đặc điểm "lục tỉnh" của văn nghệ miền Nam, tạm gọi là "Nam-tính", Nam viết hoa.
Miền Nam của những năm đầu sau 1954 trước hết có nghĩa là tự do. Tự do trong chính trị, tự do của hết chiến tranh. Tự do của tái dựng cuộc đời, của thiên cư dù trong đổi thay đã có những bi kịch cho tập thể và cá nhân. Và tự do trong văn nghệ! Tuy nhiên cái tự do này sẽ bị hoàn cảnh mới về chính trị giảm thiểu đi phần nào, dù vậy vẫn giúp phát triễn những cái mới trong văn nghệ như nhóm Sáng Tạo, thơ tự do, thơ lục bát mới, thơ văn xuôi, vv. Ðể đối phó với đấu tranh chính trị mà miền Bắc vẫn tiếp tục, dù sao thì tổng tuyển cử mà hiệp định đình chiến đã quy định vẫn như lưỡi kiếm Damoclès lơ lững trên sự sống còn của cả miền Nam. Người dân miền đất mới đã phải bắt tay xây nền móng. Một văn nghệ tâm lý chiến phục vụ giai đoạn sẽ nằm trong nỗ lực vô hiệu hóa mũi dùi của cộng sản Hà Nội, nỗ lực sẽ thành công chỉ mấy năm đầu 1954-1959, khiến cho miền Bắc tức tối sẽ thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam và gây chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Không khí tự do nói trên sẽ khiến một số nhà văn nghệ phải xét lại những nền tảng văn nghệ theo đuổi như thuyết đệ tứ quốc tế, thuyết giải phóng dân tộc, thuyết quốc dân và chống ngoại xâm, thực dân mới cũ. Dĩ nhiên có nhiều người sẽ tiếp tục "công tác" như trước 1954, sẽ vào tù hoặc vô bưng, tập kết, hay sẽ bị bắn chết khi vượt ngục như Dương Tử Giang. Những nhà đệ tứ Thiên Giang, Thê Húc sẽ đi vào con đường thuần giáo dục, Tam Ích sẽ pha Phật giáo nhưng vẫn bế tắc đến phải tự kết liễu cuộc đời, Hồ Hữu Tường xét lại thuyết của mình sau khi bị tù vì làm quân sư cho tướng Bảy Viễn nhưng sẽ vẫn không thuyết phục được nhiều người, Phú Ðức Nguyễn Ðức Nhuận, Tô Nguyệt Ðình Nguyễn Bảo Hóa, Quốc Ấn, Phi Vân,... sẽ hoạt động báo chí, Thẩm Thệ Hà sẽ chuyên hơn về giáo khoa, Sơn Khanh,.. sẽ bỏ viết, làm luật sư và thủ tướng, vv. Vũ Anh Khanh sẽ tập kết và vượt tuyến trở lại và sẽ bị bắn chết nơi đất nước bị qua phân. Lý Văn Sâm sẽ vô bưng khi đã lộ, riêng Thái Bạch, Sơn Nam, Trang Thế Hy,... sẽ nằm vùng vững vàng!
Trong bầu không khí đó, các nhà văn thuần lục tỉnh và Sài Gòn sẽ làm gì? Trước hết, họ tụ tập hoạt động báo chí và xuất bản. Các nhà xuất bản Phạm Văn Tươi, Phù Sa, Bến Nghé, Nam Cường,..., các nhật báo Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Sài Gòn Mai, Tia Sáng,... và các tạp chí Nhân Loại, Ðời Mới, Mới, Sinh Lực, Ðông Phương,... sẽ là đất văn nghệ chính của các nhà văn miền Nam này trước khi họ sẽ hội nhập vào dòng văn học "miền Nam cộng hòa" với các tạp chí Phổ Thông, Văn Học, Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật, vv. Tạp chí Nhân Loại ra đời năm 1956 (có thời do Ðông Hồ làm giám đốc) chuyên về văn nghệ và ít về nghị luận chính trị. Ðời Mới của nhóm Trần Văn Ân, sẽ đóng cửa khi ông Ân bị bắt ở Rừng Sát, là tạp chí có nhiều ảnh hưởng về chính trị cũng như văn học nghệ thuật t rong khi tờ Ðông Phương của Hồ Hữu Tường chỉ chuyên về chính trị, cổ võ thuyết trung lập. Về sau có thêm báo chí Phật giáo như Giữ Thơm Quê Mẹ, Hải Triều Âm, Vạn Hạnh. Giai đoạn sau tiêu biểu có tờ Hoà Ðồng do Hồ Hữu Tường chủ trương tổng hợp văn minh mới và Cấp Tiến của nhóm Nguyễn Văn Bông với chủ trương như một thay thế những thế lực chính trị cổ truyền đã "mỏi mệt"!
2. Các Nhà Văn:
Một cách tổng quát, tạm có thể phân biệt một số khuynh hướng chính:
- phong tục và đời sống nơi vùng đất mới khai hoang và phù sa: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên, Vương Hồng Sển, Mộng-Tuyết thất tiểu -muội,...
- xã hội và đời sống thị tứ: Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Hoài Ðiệp Tử,...
- chính trị, đấu tranh: Phạm Thái, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy,...
- tình cảm, lãng mạn, diễm tình bình dân: Ngọc Linh, Sĩ Trung, Dương Hà, Phú Ðức, bà Tùng Long, Phi Long, Dương Trữ La, Thanh Thủy, Trọng Nguyên...
- luận đề, triết lý và tôn giáo: Hồ Hữu Tường, Phạm Công Thiện,...
* PHẠM THÁI, tên thật Lê Phùng Thời, thuộc nhóm Tự Quyết, tác giả tập Truyện Năm Người Thanh Niên (1954) và truyện dài Nhà Lá đăng dở dang trên báo Tự Quyết bị đình bản năm 1955. TNNTN, một tiểu thuyết luận đề trình bày dưới hình thức trên ba mươi lá thư và trích hồi ký, là chuyện của Hữu, Lưu, Phương, Ngọc, Trang, năm thanh niên thanh nữ sống buổi giao thời mà cách mạng như là giấc mơ. Thanh niên đầy nhiệt huyết sẽ làm gì? Làm nhiều tiền, hay đi tu, hay làm cách mạng? Chính Thu người yêu của Phương sau là vợ Hữu tuy chỉ là nhân vật được nói đến nhưng lại đóng vai chính giúp người đọc hiểu các nhân vật chính. Ðoạn thư Trang gửi Phương:
"Thì ra chỉ có sự hy sinh của thằng chiến sĩ như mầy mới hoàn toàn cao quí vì nó không hề tơ vương, ích kỷ, không bao giờ hóa thành khô khan và vô bổ được. Người ta có thể thành nghệ sĩ vì bản tính thiên nhiên, vì tình yêu, vì tự ái, vì bị đời khinh bạc. Người ta thường đi tu vì bị một mối thất vọng lớn, vì không đủ nghị lực gánh chịu phần đau khổ của kiếp người. Nghệ sĩ như kẻ tu hành đã chọn con đường nghệ thuật vào đạo lý để tìm chốn dung thân. Riêng người chiến sĩ lấy dân tộc làm lẽ sống, lấy cách mạng làm nguồn vui, chiến sĩ đã can đảm nhìn vào sự thật nhận lấy thử thách, tình nguyện hiến thân mình làm chất vun bón đóa hoa Sinh Tồn cho nòi giống. Lặn lội nơi rừng sâu, núi thẳm, tàn phế... mòn mỏi... phơi xương nơi hoang đảo, chiến sĩ có bao giờ đòi hỏi chút gì bù lại đâu, họ chỉ thấy cần phải làm bổn phận...".
Một đoạn trích khác về Sài Gòn đầu thập niên 1950:
"Trời đất ơi! Bỏ xe ngoài đường đi thăm lòng vòng xóm lao động Bàn Cờ một hồi lâu mới đến cái ổ chuột của tụi nó. Trang mò mãi trong bóng tối mới mở được cánh cửa đánh diêm đốt đèn cho thằng Chương mở tủ lấy xấp tranh ra cho tao xem. Ðèn dầu lửa tù mù, nhà thấp xùm xụp, bít bưng, nóng tháo mồ hôi. Tao xem chẳng thấy hay đẹp gì ráo trọi nhưng cũng khen bừa rồi bỏ hai trăm bạc mua bức tranh, vẽ cô thiếu nữ mơ màng trước rèm trúc..." (Thư Hữu gửi Ngọc).
Vào thời sùng sục kháng chiến và đấu tranh của đầu thập niên 1950, truyện TNNTN của Phạm Thái đã là một biến cố quan trọng, một văn nghệ mới và đi lên, một văn nghệ cho tiến bộ và cải cách xã hội, tiếp nối con đường của Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Anh Khanh,...
Nhưng ba nhà văn trội bật của dòng văn chương lục tỉnh thời này là Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Hồ Hữu Tường. Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc về sau lại có khuynh hướng viết biên khảo và hai ông đều đã có những đóng góp đáng kể: Sơn Nam viết Văn Minh Miệt Vườn, Bến Nghé Xưa, Cá Tính Của Miền Nam,...; Bình Nguyên Lộc còn là tác giả Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ.
* BÌNH NGUYÊN LỘC từng theo kháng chiến, bỏ về thành, "kháng chiến thành" - bỏ không trở lại làm công chức Kho Bạc cho Pháp, làm báo, ra tuần báo Vui Sống và viết truyện. Sinh trưỡng ở làng Tân Uyên (Biên Hòa), "lục tỉnh" từ bút hiệu và tên nhà xuất bản của ông, Bến Nghé, ông có bài đăng báo từ năm 1943 (truyện Câu Dầm, tuần báo Thanh Niên, Sài Gòn, 1943) và đã nỗi tiếng trước thời 1954 với tập truyện ngắn Nhốt Gió xuất bản năm 1950. Tập truyện và tùy bút đầu tay Hương Gió Ðồng Nai viết xong năm 1942 nay chỉ còn dấu vết một vài bài đã đăng báo và tập truyện dài Phù Sa viết dở dang là những gửi gấm tâm sự của ông - ông muốn làm sống lại cuộc Nam tiến vĩ đại của đồng bào Nam Ngãi để mở mang bờ cõi miền lục tỉnh, qua chuyện những người tiên phuông đã khai phá làng Tân Uyên bên bờ sông Ðồng Nai cũng là quê hương của ông. Ông nỗi tiếng vì truyện ngắn hơn là tiểu thuyết và vì tác phẩm của ông gợi lại cảnh vật quê hương, đất nước như ông đã có lần xác nhận: "Văn tôi bắt nguồn từ những cảnh đẹp của quê hương và lòng nhớ nhung tha thiết của tôi với nó, chớ không phải vì ái tình, vì yêu đương tác động..." (4). Chỉ lên Sài Gòn sinh sống, làng Tân Uyên của ông không xa xôi gì mà đã khiến ông nhung nhớ! Thời 1954-1975, ông đã xuất bản các tập truyện Ký Thác (1960), Tâm Trạng Hồng (truyện vui, 1963), Mưa Thu Nhớ Tằm (1965), Tình Ddất (1966). Phần còn lại là các tập tiểu thuyết có tính cách bình dân vì phần lớn viết đăng từng kỳ trên các báo, riêng các tựa đề cũng đã nói rõ: Gieo Gió Gặt Bão, Ái Ân Thâu Ngắn Cho Dài Nhớ Thương, Nửa Ðêm... Trảng Sụp, Xô Ngã Bức Tường Rêu, v.v.
Truyện dài nỗi tiếng nhất của ông là cuốn Ðò Dọc đã được giải thưởng văn chương năm 1960. Ðò Dọc là bức tranh xã hội miền Ðông Nam phần giữa thập niên 1950, những cảnh sống sẽ sớm mất sau đó. Ông bà Nam Thành buôn bán va -li sống nhờ đám lính Tây thuộc địa, nay Tây thua phải rút khỏi Việt Nam, buôn bán bắt đầu khó thì Sài Gòn lại có giao tranh giữa các giáo phái. Ông bà bèn tính bỏ Sài Gòn dọn về trang trại ở Thủ Ðức gần suối Lồ Ồ. Họ không có lựa chọn khác dù nhà có bốn cô con gái tuổi từ 22 đến 28 đều chưa chồng. Bốn chị em hay đi dạo xóm, dĩ nhiên sẽ có những nhân vật địa phương xuất hiện tán tỉnh làm quen. Những đụng chạm giữa quê và tỉnh:
"Quờn là một công tử nhà quê, hạng người mẫu. Vì ở gần thành phố quá, mặc dầu thành phố ấy chỉ là một quận lỵ, công tử Quờn lại mang thêm một cố tật dĩ nhiên là muốn thành người thành thị. Thành không được, Quờn lai căn một cách dị hợm với những bộ bi - da - ma màu hường, màu xanh lá cây mà cậu mặc mãi từ sáng đến tối, từ trong buồng ra đến quận lỵ. (...) Từ ngày xóm tiếp nhận nữ khách mới thì cậu xức nước hoa chế tạo ở Chợlớn và nhét mù xoa nhỏ có thêu chéo xanh xanh đo đỏ trên miệng túi bi - da - ma. Cậu diện thêm một cây đàn băng cầm, cứ chiều chiều xách nó ra đường, không khảy vì chưa biết chơi, nhưng cắt nghĩa lu bù về nhạc cụ ấy, với đám trẻ con bu quanh cậu. (...) Trong cái lần đầu ấy, thấy Quờn liếc lén mấy chị em, Hoa tấn công ngay:
- Chào cậu hai. Ði dạo mát với chị em tôi chơi, cậu. (...) Quờn đứng chết sững và ngậm câm, còn hai cô Hoa và Quá thì rũ ra cười; cô Quá cười no rồi nói:
- Hay là cậu mặc áo hường rồi chê áo đen của chị em tôi mà không muốn đi chăng? (...)
Một bữa khác, được nói chuyện với mấy chị em Hoa, Quờn sẽ để lộ cái "dốt":
"Quờn mặc bi - da - ma bằng vải ú màu xanh lá cây, đầu chải brillantine Chợlớn sực nức mùi chanh, cổ đeo giây chuyền vàng khè, tay nặng trịu nào lắc vàng, cà rá vàng và đồng hồ cũng bằng vàng. (...)
- Ðộ rày cậu làm gì, cậu hai? Hoa lại hỏi.
- Cũng hổng cần làm gì. À tôi có tự túc một bầy gà Huê -kỳ, coi bộ tương lai quá khứ?
Cả bốn chị em đều ngạc nhiên, không hiểu cậu ta nói cái gì mà lại tự túc và có tương lai quá khứ?
- Tự túc là gì cậu? Hương hỏi thật tình.
- Tự túc là nuôi, chớ là gì.
- Vậy hà, còn tương lai quá khứ?
- Tương lai là tương lai, còn quá khứ là quá sá. Tiếng mới mà. Tôi nghe họ nói hay quá, nên tôi bắt chước dùng theo. Ðời bây giờ họ bày ra nhiều tiếng mới hay lắm. Thí dụ phạm tội, họ nói phạm vi. Thù vặt họ nói cá nhân, nghe hay quá khứ. Hoa và Quả núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt. (...) (XT tb, tr. 72-75).
Vì ở gần đường thiên lý nên hay xảy ra những tai nạn xe cộ và ba trong bốn cô con gái Thái huyên trang sẽ gặp được người ưng ý trong số những thanh niên bị tai nạn xe.
Tập Ký Thác (1960) gồm nhiều truyện ngắn đặc sắc của Bình Nguyên Lộc. Rừng Mắm đưa người đọc trở lại thời khai khẩn miền đất mới. Hồn Ma Cũ, Rung Cây Dừa, Người Tài Xế Ðiên, vẽ những cảnh đời và nơi chốn đã dần biến mất. Hồn Ma Cũ, Ba Con Cáo, Ba Sao Giữa Trời là những tuyệt tác đầy ngạc nhiên thích thú. "... Hình ảnh uống cà phê bằng dĩa này, như bấm vào nút điện, và cả bộ máy được huy động. Những người của dĩ vãng như hồn ma, lũ lượt kéo qua trước mặt chàng. Hồn ma cũ ấy chỉ hiện về được trong cảnh náo nhiệt này là vì có cuộc trùng phùng cơ hội như hôm nay: thời gian, nơi chốn, màu sắc, hình ảnh, mùi vị, tiếng động, âm thanh; tất cả những thứ ấy đủ mặt, họp nhau để huy động ký ức của chàng" (Hồn Ma Cũ).
Mưa Thu Nhớ Tằm (1965) gồm 16 truyện và một kịch ngắn. Những mảnh đời và lòng người trước những nghịch cảnh và đổi thay của thời gian. Miền Nam sống động qua một số phong tục địa phương và dấu chân thời gian, nhất là qua truyện tuổi già Tre Phải Tàn và Quyển Gia Phổ. Tập truyện Quán Bên Ðường có truyện Quán Tai Heo viết về nhà thơ Minh Phẩm trong đó có một bài thơ của nhà thơ sau được Phạm Duy phổ nhạc và nhiều người vẫn nghĩ là của Bình Nguyên Lộc. Toàn bộ tác phẩm của ông gồm trên 1000 truyện ngắn và gần 50 truyện dài nhưng xuất bản chỉ được một phần nhỏ. Những truyện ngắn cuối đời ông viết thiên về khám phá nhân chủng và ngôn ngữ (Trong khi trước đó đôi bận ông đã để lộ sự lưu tâm thường trực này của ông, như một đoạn lạc lõng trong tiểu thuyết Ðò Dọc: "Chỉ có vào ở vài ngày trong một làng dựa sông Ðồng Nai trên Biên Hòa, cảnh đẹp hơn dưới mình, người rất văn vật, và lòng người, chí rất Việt Nam chớ không phải là tao loạn tâm hồn Cao Miên, Ấn Ðộ, Trung Hoa như ở vài làng dưới ta là cái ngã ba văn hóa Hoa Ấn" (tr. 65).
Nhìn chung, Bình Nguyên Lộc thiên về phân tích tâm lý, về đời sống con người ở miền Ðông và ở thị thành. Ông vẫn thiên vị cho rằng con người miền Ðông "văn minh" hơn con người ở miền dưới, miền Tây. Các nhân vật nam của ông hơi dễ dãi, không rõ nét "nam" như các người nam trong tiểu thuyết của Sơn Nam. Chuyện tình Bình Nguyên Lộc ít éo le, thường là đôn hậu, nhẹ nhàng! Không khí tiểu thuyết của ông vui, lạc quan và ông nhiều khi lạm dụng nhiều đối thoại hoặc sa đà đi vào lãnh vực nghiên cứu, lý luận. Bình Nguyên Lộc còn là một nhà thơ; ông có tập Thơ Tay Trái và một cuốn tiểu thuyết bằng thơ, Thơ Ba Mén. Ðoạn khai từ Thơ Ba Mén như sau:
"Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác, Quán bên hè, uống tách cà phê. Nhìn ghe bồng chạnh tình quê, Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng. Bến Ông-Lãnh màn mưa bao phủ, Ghe thương hồ ủ rũ dưới kia Ghe ơi, vài bữa ghe về, Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không? Mùi đất nước ruộng bùn phảng phất Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu Năm năm, bao cuộc bể dâu? Phút giây ôn lại như hầu hôm qua (...)"
Tập truyện ngắn Tình Ðất mở đầu với bài thơ "Dâng Má Thương":
"Từ đáy thời gian, dậy tiếng ru Ù ơ lời má, giọng trầm phù, Má ơi, hồn đất bao năm thiếp, Bỗng chốc trưa nay vắng, tít mù... Kẽo kẹc xà nhà tiếng võng đưa, Ðâu đây đồng vọng cõi xa xưa; Thổ ngơi thơm phức; hồn ma cũ. Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ (...)
Cá tính miền Nam lục tỉnh đã rõ rệt trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, qua ngôn ngữ, nhân vật và một tình yêu đất đậm đà của tác giả. Rõ rệt, vì Bình Nguyên Lộc ý thức sứ mạng văn chương của mình. Cá tính này, ngoài Bình Nguyên Lộc, còn lộ rõ hơn nữa với nhà văn Sơn Nam.
* SƠN NAM nỗi tiếng về những truyện ngắn về miền Nam thời khai phá, ở lưu vực sông Cửu Long mà ông coi là vùng đất linh thiêng, lòng người ngay thẳng nhưng cương trực, dứt khoát và trọng chữ tín. Có thể nói toàn bộ tác phẩm ông như một thiên anh hùng ca về những con người đã khai phá vùng đất mới, đầy hào hùng và có khi có tính cách huyền thoại. Văn ông hồn nhiên như kể chuyện. Ông từng được giải văn chương Cửu Long của kháng chiến với Bên Rừng Cù Lao Dung. Cộng tác với nhiều tạp chí và nhật báo, ông cùng Ngọc Linh lập nhà xuất bản Phù Sa. Sau 1975, mọi người biết ông đã "nằm vùng" cho Việt cộng. Tác phẩm của ông: Hương Rừng Cà Mau (1962), Chim Quyên Xuống Ðất (1963), Hình Bóng Cũ (1964), Hai Cõi U Minh (1965), Vọc Nước Giỡn Trăng, Vạch Một Chân Trời (1968), Bà Chúa Hòn (1969), v.v.
Hương Rừng Cà Mau là một thiên anh hùng ca gồm 18 truyện đề cao những kẻ "tiên phuông" khai phá miền đất mới, xa lạ, nhiều cạm bẫy nhưng cũng đầy thử thách cho những người chân phải cứng. Ðề cao tình quê hương, tình yêu đất, ghi lại những hình ảnh xinh đẹp trước khi biến mất với thời gian.
Chuyện người dân ở hòn Cổ Tron, ở rừng U Minh Hạ, vùng Xẻo Bần, rạch Bình Thủy, chuyện Phật thầy Tây An núi Sam, chuyện miễu bà Chúa Xứ, v.v. Hương rừng như một khám phá thích thú nơi vùng đất hãy còn hoang sơ: "... Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu. Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt. Nó buột miệng:
- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
Tư Lập day lại, cười vang:
- Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hủ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay..." (Hương Rừng)
Nơi vùng đất mới đó, đời sống sẽ khó khăn như khi nước sông Hậu dâng. Thằng Nhi trong Mùa "Len" Trâu phải dẫn trâu tới núi Ba Thê để tránh mùa nước lên. Khi "nước giựt xuống", thằng con về nhưng ăn nói đã học đòi dân anh chị: "Ð.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Ð.m, không lẽ bỏ luôn". Nó còn biết thêm hút thuốc rê, nhâm nhi rượu đế và tay cùng bụng xâm đầy những chữ "ngũ hồ tứ giải giai huynh đệ", "ái tình vạn tuế". Tâm tính con người thay đổi vì cuộc sống khó khăn.
Nhưng cũng có những cảnh trai gái tình tứ: "Con Lài nhìn dòng nước uốn khúc qua voi, qua vịnh như con rắn bò, thứ rắn có khoang màu vàng, con rắn hổ sơn. Nó bụm mặt lại để che cái hình ảnh đó. Nhưng nào được! Kìa chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt nước lốm đốm trắng như con bạch hoa xà... Lập tức nó xuống bến, bơi theo, mãi đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đìa, kế gốc cây bình bát. Thằng Lợi day lại cười:
- Ði đâu vậy cô Hai... rắn bông súng?
Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. - Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài. Con Lài rút tay ra cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngã vào lòng thằng Lợi.
- Anh à!
- Cái gì đó, hở rắn!
- Thiên hạ thấy, họ cười chết.
- Ai thấy mà cười? chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia...
Con Lài gật đầu:
- Phải, dây choại, dây bòng bong giống như rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám cỏ bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá... Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không anh Lợi?..." (Cây Huê Xà).
Về phần các tập tiểu thuyết, Vạch Một Chân Trời viết về lịch sử vùng đất Cái Tàu với những chuyến săn vàng đẫm máu, Bà Chúa Hòn kể chuyện âu mưu soán đoạt ngôi vị chúa tể ở một vùng đất mới. Nhưng Chim Quyên Xuống Ðất là một thất bại về xây dựng tiểu thuyết và đề tài cũng... lộ tẩy vì ông muốn đề cao giới thanh niên và trí thức miền Nam thời kháng Pháp - kín đáo khiêu gợi những giới đó thời ông vốn chợt có những băn khoăn ở vào cuối chế độ đệ nhất cộng hoà! Nói chung, văn chương Sơn Nam nặng nề nam-tính, cần thiết cho các nhân vật sống vào thời khai phá miền Tây, những "anh hùng hảo hán lục lâm giang hồ", những tay "tứ chiến" xâm đây mình, thời chống Pháp,... Trong khung cảnh đấu tranh đó, vẫn có những đoạn văn cảm hoài nhẹ nhàng: "Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho những cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng gay gắt. Còn đâu hơi gió cũ? Còn đâu ánh trăng xưa? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người? Còn đâu bên sông "nhánh bần gie con đóm đậu"? (HRCM).
* HỒ HỮU TƯỜNG một thời vẫy vùng với nhóm đệ tứ quốc tế, sau đình chiến, ông ra báo Phương Ðông (1954) cổ võ cho thuyết trung lập và làm cố vấn cho nhóm Bảy Viễn nhưng ông bị quân đội dẹp loạn bắt tại Rừng Sát và bị tù ở Côn Ðảo đến sau đảo chánh 1-11-1963. Ra tù, ông lại ra báo, tờ Hòa Ðồng, mở nhà xuất bản Huệ Minh chủ yếu in sách của ông và viết rất nhiều bộ tiểu thuyết, lúc thì kể chuyện thời thơ ấu, lúc dựng lại không khí đấu tranh ở trong Nam phần trước và sau thời kháng chiến chống Pháp, lúc thì lập thuyết để cứu rỗi nhân loại và thường cứu rỗi nước nhà. Ông đưa ra thuyết tổng hợp mới, hợp ba nền văn minh mà ông gọi là kỹ sư (khoa học), chánh ủy (chính trị) và tu sĩ (triết lý, tôn giáo). Sau cùng ông lại đề nghị bỏ thuyết trung lập chế và đưa ra giải pháp "siêu lập", Việt Nam thành lãnh thổ Liên Hiệp quốc.
Ông để dấu văn nghệ qua Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (1953, in trong Nợ Tinh Thần, 1965) và cuốn Thằng Thuộc Con Nhà Nông (1966). Truyện CCTLCN được nhiều độc giả và nhà văn chọn là một trong những truyện ngắn hay nhất trong cuộc phỏng vấn của Nguiễn Ngu Í trên tạp chí Bách Khoa đầu thập niên 1960. Còn Thằng Thuộc Con Nhà Nông là cuốn đầu được xuất bản của bộ Một Kinh Nghiệm Sống, truyện tự thuật kể kinh nghiệm sống và thời thơ ấu của tác giả ở làng Thường Thạnh (Cái Răng, Cần Thơ) dưới thời Pháp thuộc. Các bộ truyện Phi Lạc, Hồn Bướm Mơ Hoa và Thuốc Trường Sanh, v.v. sẽ đưa người đọc vô những mê hồn trận lý thuyết và nhiều khi thần bí hơn là những cuộc đời thú vị và bình dị của con người miền Nam! Ðó cũng là khuyết điểm chung trong toàn bộ tác phẩm của nhà "lập thuyết" họ Hồ tự cho là dòng dõi Quang Trung Nguyễn Huệ!
Ngoài ra Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Dương Hà, Phi Long, bà Tùng Long,... cũng sáng tác mạnh dù các nhà văn này ít làm văn chương hơn là viết tiểu thuyết.
* LÊ XUYÊN viết nhiều về đời sống phong phú của người đồng quê miền Nam: những mối tình thắm thiết, những gay cấn ly kỳ của cuộc đời, những kinh rạch chằng chịch, những ẩm ướt của thời tiết và dục vọng con người,.... Viết về đồng quê những vùng Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ,... nhưng ông nỗi tiếng vì các nhân vật trong Chú Tư Cầu, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu sống bồng bột tự nhiên đến độ buông thả theo bản năng. Dù sao cũng phải nhìn nhận ông đã có công ghi lại văn nói đặc biệt của người nhà quê, nhất là ở thành phần thanh niên thiếu nữ. Nói như Mai Thảo, Lê Xuyên "có thôn quê trong tâm hồn" (Lời tựa Chú Tư Cầu). Văn đối thoại tự nhiên, trong sáng, có ý vị duyên dáng đặc "lục tỉnh". Xuyên qua các tiểu thuyết của Lê Xuyên, người tinh ý sẽ nhận ra ông còn muốn vẽ lại chân dung người dân quê sống thời Pháp thuộc và Nhật thuộc, lúc nào họ cũng chân chất, đôn hậu ngay cả khi tức giận cũng như khi tỏ lòng yêu nước, họ cũng chừng mực, chậm chạp - khiến dễ bị hiểu lầm họ cam chịu dễ dàng! Hoặc một vài "anh hùng" kháng chiến, họ chống Pháp cho "sướng" hơn là cho "được"! Kinh Cầu Muống, Nguyệt Ðồng Xoài, Người Chờ Góa,... viết sau, có liên hệ nhiều hơn đến cuộc chiến lúc bấy giờ, những con người bất đắc dĩ phải tham gia cuộc chiến! Lê Xuyên có một số truyện ngắn đăng trên các tạp chí Khởi Hành, Nghệ Thuật, như Cuối Giờ Hưu Chiến,... có giá trị nghệ thuật.
* NGỌC LINH: dịch giả và tác giả trên 60 xuất bản phẩm trong đó 20 ký Ngọc Linh. Ông bắt đầu viết bằng truyện ngắn từ năm 1957 (Chị Hà) và có nhiều tiểu thuyết được quay thành phim và cải thành tuồng cải lương: Trên Sông Hoàng Hôn, Ngã Rẽ Tâm Tình,... nhưng với Ðôi Mắt Người Xưa, ông đã cố gắng "làm văn chương" dù bị hệ lụy "feuilleton" đăng báo. Tiểu thuyết của Ngọc Linh có hai đặc điểm: đề cao tâm hồn phụ nữ Việt Nam, sự hy sinh và chịu đựng của họ, và thứ nữa, chuyện thường gây cấn, bi đát nhưng kết cục luôn có hậu, dù là chuyện thời chiến có những bất ngờ. Tiểu thuyết ông khai thác những khúc mắc tình cảm: hai vợ, hai chồng, hai chị em cùng yêu một người, anh rễ và em gái vợ, những ngộ nhận và hy sinh. Kết có hậu theo luân lý bình dân miền lục tỉnh, mà lạc quan, vì "thiện ác đáo đầu chung hữu báo", những nhân vật biết phục thiện: "Xin cha cứ yên lòng, con sẽ không bao giờ sa chân như trước nữa đâu. Con sẽ ra sức làm việc và sẽ vươn lên trong cuộc đời, như bao nhiêu người khác" (ÐMNX). Tiểu thuyết của ông dù vậy đã có công cho thấy những tâm hồn trữ tình hồn nhiên của con người lục tỉnh: "Dòng sông này buồn quá phải không cô? Nhất là trong những buổi hoàng hôn như chiều nay (...) tôi lại nghĩ đến những ngày vui rồi hết, những cuộc gặp gỡ rồi ly tan, những người yêu nhau rồi chia cách..." (TSHH).
* Bà TÙNG LONG tác giả nhiều tiểu thuyết "feuilleton" đăng nhiều kỳ ở các nhật báo như Sài Gòn Mới sau một số in thành sách như Lầu Tỉnh Mộng, Chúa Tiền Chúa Bạc, Hoa Tỉ Muội, Tình Và Tiền, Những Kẻ Có Lòng,... Truyện của bà không nặng về phân tích tâm lý và không tình tiết phức tạp. Ngược lại truyện của bà có tính cách luân lý và tình tiết hợp tâm lý thông thường của đại chúng. Ðối với những người chia chiếu văn nghệ thì bà không được coi là nhà văn, càng khó là nhà văn lớn. Tuy nhiên nếu muốn nghiên cứu tâm tình, nếp sống con người miền Nam những thập niên 1940, 1950 và cả 1960, không thể bỏ qua các truyện của bà. Hơn nữa bà vẫn được nhắc nhở đến như tiêu biểu cho một khuynh hướng văn nghệ ở miền Nam, khuynh hướng viết như nói, viết như nghĩ, không uốn cong nếp suy nghĩ và cả lời nói của nhân vật như các nhà văn khác nhận ảnh hưởng ngoại quốc. Chính nhà văn Duyên Anh đã nhiều lần đề cao bà như tiêu biểu cho khuynh hướng này. Tuy nhiên các truyện của bà thường dùng lại truyện của Pháp; cái đóng góp nếu có của bà chỉ ở những đối thoại, văn nói.
Nếu Sơn Nam, Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh và Hồ Hữu Tường đưa vào văn chương tiếng nói và đời sống của người miền Tây và Bình Nguyên Lộc miền Ðông, thì Nguyễn Thị Thuỵ Vũ thuộc thế hệ mới đã bị đô thị hóa, sẽ đưa vào văn chương lời ăn tiếng nói của người Sài Gòn. Miền Nam trong văn chương bà là một Sài Gòn thị tứ với những cuộc sống tân thời và những vấn đề của thời mới, chuyện các cô gái lỡ thời, gái bán bar, me Mỹ và làm sở Mỹ (Mèo Ðêm, Thú Hoang, Lao Vào Lữa,...) Sau 1972, bà đã đưa đời sống "miệt vườn" vào tiểu thuyết, phần lớn nói về giới giàu có.
3. Các Nhà tHơ:
Trên tuần báo Ðời Mới năm 1953, Ðại Mạch, người giữ mục Tin Thơ, đã tiếp ý nhà văn vắn số Triều Sơn của Con Ðường Văn Nghệ (1949) cổ động cho một loại thơ gọi là tự do. Tuy nhiên thơ tự do chỉ thật sự có hình dạng vì được nhiều nhà thơ dùng để sáng tác khi tạp chí Sáng Tạo ra đời tháng 10-1956. Sáng Tạo sẽ là diễn đàn của những người văn nghệ từ đất văn vật vào, nhưng cũng sẽ là đất nảy mầm của những văn nghệ sĩ miền Nam như Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt,...
* TÔ THÙY YÊN sẽ là một ngoại lệ mỗi khi xếp khuynh hướng. Ông sinh trưỡng ở Gia Ðịnh nhưng là nhà thơ tự do đặc sắc của nhóm Sáng Tạo. Dù chỉ xuất bản tập thơ đầu tay năm 1996, nhưng trước 1975, ông đã có một chỗ đứng đặc biệt. Ông từng đăng thơ trên nhật báo Tiếng Chuông và tạp chí Ðời Mới, Người Việt nhưng từ khi ông đăng thơ trên các tạp chí Sáng Tạo, Nghệ Thuật,... thơ ông đã cung cấp cho nền văn nghệ mới những khai phá mới của một lục tỉnh hội nhập dòng nước chung. Tương lai cũng sẽ trả lời rằng những lai láng, kể lể, pha loảng sau này ở hải ngoại sẽ không thể so sánh với những thu gọn, kín đáo, thâm trầm sáng giá của thơ ông trước 1975. Tinh tế của chữ dùng, của tâm hồn gói ghém trong lời, những hình ảnh xử dụng và nhạc điệu đã là của riêng ông. Khắc khoải của phận người và bi đát của cuộc sống là ý chính mà ông muốn giãi tỏ qua thơ sau khi đã vận dụng lý trí. Dù gì trong thơ họ Tô, miền Nam lục tỉnh vẫn đầy dẫy, qua một lăng kính!.
"Anh buông ghềnh ưu tư thoát theo giấc ngủ Con nước quánh đen cuồng bạo của đêm khuya Ðể lại phù sa lấp bằng dăm khoảng trống Nơi niềm vui như tràm xú mọc vươn lên... ... Anh uống cà phê trong tiệm Tàu cuối chợ Hồi tưởng những chiều động bão ở Kiên Giang Trời biển mịt mù mình anh trên mỏm đá Cái chết kinh...
|