Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

11 Pages«<91011
Ái Ưu Du &gt; Văn &gt;&gt; Những Truyện Tình Dài . . .
Ái Ưu Du
#201 Posted : Thursday, April 17, 2008 5:47:11 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 40


CHIẾC MẶT NẠ







Hương về Việt Nam trong ngày 23 tháng Chạp, 2005. Ngày đưa ông Táo về trời xui hết biết. Thảo nào người xưa thường nói: “Mồng năm, mười bốn hăm ba. Đi chơi cũng lỗ, huống là đi buôn”, chả sai tí nào.
Chuyến đi nầy ghi lại những “ấn tượng” hãi hùng, việt kiều về đông hơn kiến. Hương bị chen lấn, bị xô ngã gãy tay. Đau đớn kinh dị không thể nào tả nỗi. Cộng với sự buồn phiền lên tột đỉnh, vì chuyện các anh chị ở Việt Nam, đã mất lòng xâu xé nhau, (do ba đồng tiền đồng bánh chia chác mà ra). Hương càng buồn đau cơn bệnh trầm kha vì chuyện tình riêng.
Vài ngày sau, Hương muốn đến thăm Hoàng, chứ chả phải là đến để đòi lại món nợ máu. Hương biết món nợ nầy là bảng án chung thân dày vò anh suốt kiếp, thì còn… “máu mặt” đâu mà trả dứt hử! Vì, Hương đã nói trước mặt các con: Khi nào anh bán được nhà, thì món tiền anh đã vay em từ trước, anh hãy đưa cho các con. Em cho các con món tiền nợ ấy. Chả như dự tưởng, Hoàng không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, hay mừng rỡ như mọi lần hạnh ngộ. Mà anh xanh mặt lấm lấm lét lét. Anh ngập ngừng cúi cúi liếc liếc, trông thật là “quá gian”. Anh vội vàng nói:
- Em ở đây chơi với các con nhe. Từ nay, cho đến ra Giêng, anh bận đi với mấy bạn Hậu, Hạnh, Bé, Lợi, Vũ Hùng, Thịnh... Thịnh sẽ giao tiền, mà các bạn bên Mỹ đã quyên góp, gửi về cho anh.
- Dạ vâng. Anh cứ đi vui vẻ với bạn, lâu lâu họ mới về. Em ở nhà một mình cũng được mà. Chúc anh đi chơi an vui.
Ngày ngày Hoàng hấp tấp vội vàng ra đi, từ tám giờ sáng, đến mười một giờ khuya, anh mới khật khà khật khưỡng về nhà. Trong lúc Hương ở nhà với các con. Hương đã nghe và biết hết tất cả sự thật: Hoàng không hề bị ốm đau nan y ung nhọt, u nan cấp tính cổ họng gì sớt. Tất cả số tiền Hương dành dụm gửi về cho Hoàng, anh đã mặc nhiên tiêu pha hoang phí hết sạch trơn. Lại còn nợ nần tùm lum. Tóm lại, Hoàng sinh tật nói láo khủng khiếp. Anh lừa dối các con, Hương, và rất nhiều người bạn của anh ở hải ngoại.
Mấy mẹ con lên lầu mở e-mail ra xem: Nhiều thư từ e-mail các nơi gửi về “ủy lạo” Hoàng – {Hoàng: Một người sống phây phây sung túc ở Việt Nam, mập mạnh như cụ trâu, trắng hồng béo phì nộn, to hơn việt kiều thứ thiệt. Anh dư ăn dư mặc; một phần do tiền chi lương tháng đều đặn của con (con gái ở Việt Nam, có công ty kinh doanh đồ sộ) lo cho cha rất đầy đủ). Một phần lớn là tiền cuả Hương gửi về, (do Hoàng khẩn khoản yêu cầu Hương cho anh mượn), để anh chi phí:
Vào những việc dịch vụ hoàn tất hoá giá nhà cửa - Chi phí các vấn đề đời sống. - Dịch vụ do Hương bỏ tiền ra, lo bảo lãnh du lịch cho anh. Hương đã hoàn tất các thủ tục bên Mỹ, và gửi anh một đợt tiền 10.000 usd, để anh mua vé máy bay, sắm sửa tất cả đồ dùng cần thiết riêng anh. Dịch vụ làm hồ sơ xin tị nạn chính trị, nộp hồ sơ hồi anh đi không quân, thành thương phế binh, anh làm cho sở Mỹ, vân vân, và vân vân...
Nhưng sau đó, theo Hương biết thì anh không hội đủ điều kiện để ra đi theo chương trình “vớt vát HO muộn”. Vì Hoàng không đi tù “cải tạo” ngày nào.
Hoàng xoay qua “báo láo với bạn bè” là anh đang mắc phải chứng bệnh nan y, u bứu di căn, di kiết trầm trọng ở cổ họng, anh phải đi điều trị bác sĩ, nằm bệnh viện mà không có tiền mỗ, nói đủ điều chi chi đó. Láo toét. Quả tình mấy mẹ con không hề tìm thấy một tấm giấy báo cuả một bệnh viện chẩn đoán định bệnh nào. Anh chẳng hề có hồ sơ bệnh án, y chẩn cho cục u nan ung cổ, ung kiết gì sớt. Tuyệt nhiên không hề có một viên thuốc điều trị “lấy thảo”. Anh vẫn khoẻ mạnh cùi cụi.
Mấy mẹ con có hỏi Hoàng, thì nay anh ấp úng nói láo là anh đi bệnh viện Pháp. Mai anh đi bác sĩ ở trung Tâm Hoàn Mỹ. Rồi anh nói là anh đi bác sĩ tư nhân. Hôm khác anh nói:
- Việc nầy tự anh lo, việc kia anh nhờ bạn lo!! Em và các con khỏi phiền lo tới.
Nhìn nhau biểu lộ sự kinh khi anh ra mặt. Hoàng làm như chúng tôi là đứa trẻ lên năm lên ba không bằng. Hoàng vẫn chua ngoa nói láo ngọt xớt, mà anh không biết ngượng mồm. Riêng bạn anh ở xa thì cứ tưởng thật, nào là bạn học cũ ở Tabert, ở đại học Đà Lạt, ở Không-quân, rồi mấy cô nhẹ dạ (như Hương): Bích Hà, Hồng Hoàng Anh, Trân Thu v.v... tới tấp gửi thư về Hoàng. Cuả ít người nhiều, họ lo tom góp mỗi người năm ba chục, gửi về anh nhiều đợt. Có đợt một ngàn tư. Có đợt hai ngàn dollars. (họ gửi trong vòng nửa tháng).
Có tiền, Hoàng lại dẫn con Kìm đi tối ngày sáng đêm, ăn và ở khách sạn xã láng, anh phung phí tiền mồ hôi cuả người khác không do dự. Anh dẫn nó đi nhảy đầm nhảy đực, lại bòn rút lừa gạt đám bạn việt kiều các nơi mới về ăn Tết. Tết năm nay Hoàng được dịp “làm ăn khấm khá” rồi cũng tung toé phủi sạch tay, bay đi cái vèo.
Hương và các con cảm thấy thật nhục nhã xấu hổ thay! Anh quên là anh đã hứa với Hương và các con anh bỏ rơi con Kim. Thì ra anh tiếp tục gục mặt, cúi xuống đất liếm lại bãi nước đờm, mà anh tự hào đã nhiều lần nói với chúng tôi là:
- Anh đã nhổ xuống đất rồi.
Ngày xưa, Hương yêu Hoàng không hề do dự, không tính toán. Hương nâng bi anh lên tới mức cao vời. Hương xem anh như một hoàng tử, như một thần tượng siêu sao tuyệt đối. Hương là con bướm xanh trắng vàng nhởn nhơ khoe sắc thắm, trong vườn cây ngập nắng tươi. Nàng không so đo, không lựa chọn, không do dự tính toán, khi Hương đậu trên cây mù u tiết nhựa tình đắm đuối si mê! Bây giờ… chán ngán rụng rời nhất là Hương đọc những lá thư cuả Hoàng viết, và của ân nhân hồi âm cho anh.
Trong số đó, anh đã trắng trợn lợi dụng tinh yêu xưa cũ, anh lừa dối viết cho Thu những lá thư tình tứ hò hẹn. Mà, nực cười và xấu hổ thay: Những lời lẽ trong thư, nếu đem ra so sánh, thì không khác gì: Một bản copy thư Hoàng gửi cho Hương bấy lâu nay. Mới nhất là chỉ vài ngày, trước khi Hương về Việt Nam. Tựu trung có những câu duy nhất. Chẳng hạng như:
1.- Hương ơi! Em không chỉ là người yêu dấu nhất đời cuả anh. Mà, Hương chính là tình yêu duy nhất và cuối cùng cuả anh.
2.- Ngoài em ra, không ai có thể yêu anh, rộng lượng bao dung, tha thứ, và hiểu anh trọn vẹn như em.
3.- Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai.
4.- Anh không hề yêu ai. Hương ơi! Vì,
- Thứ nhất: Em chính là người yêu tuyệt vời, trọn vẹn cuả anh.
- Thứ nhì: Em ví như là người chị, người mẹ đầy bao dung, rộng lượng thật khoan thứ.
- Thứ ba: Em vưà là người bạn đời, và cũng là người bạn đường cuả anh.
- Thứ Tư: Anh chỉ có thể mất em, khi anh đã nhắm mắt xuôi tay trên đời.
- Thứ năm: Bởi vì, Hương ơi! Em chính là tình yêu duy nhất cuả anh. Chỉ có em xứng đáng (trong tình yêu thương tuyệt vời nầy).



_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du



Ái Ưu Du
#202 Posted : Sunday, April 27, 2008 2:56:34 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

quote:
Gởi bởi Ái Ưu Du

Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 40


CHIẾC MẶT NẠ







Hương về Việt Nam trong ngày 23 tháng Chạp, 2005. Ngày đưa ông Táo về trời xui hết biết. Thảo nào người xưa thường nói: “Mồng năm, mười bốn hăm ba. Đi chơi cũng lỗ, huống là đi buôn”, chả sai tí nào.
Chuyến đi nầy ghi lại những “ấn tượng” hãi hùng, việt kiều về đông hơn kiến. Hương bị chen lấn, bị xô ngã gãy tay. Đau đớn kinh dị không thể nào tả nỗi. Cộng với sự buồn phiền lên tột đỉnh, vì chuyện các anh chị ở Việt Nam, đã mất lòng xâu xé nhau, (do ba đồng tiền đồng bánh chia chác mà ra). Hương càng buồn đau cơn bệnh trầm kha vì chuyện tình riêng.
Vài ngày sau, Hương muốn đến thăm Hoàng, chứ chả phải là đến để đòi lại món nợ máu. Hương biết món nợ nầy là bảng án chung thân dày vò anh suốt kiếp, thì còn… “máu mặt” đâu mà trả dứt hử! Vì, Hương đã nói trước mặt các con: Khi nào anh bán được nhà, thì món tiền anh đã vay em từ trước, anh hãy đưa cho các con. Em cho các con món tiền nợ ấy. Chả như dự tưởng, Hoàng không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, hay mừng rỡ như mọi lần hạnh ngộ. Mà anh xanh mặt lấm lấm lét lét. Anh ngập ngừng cúi cúi liếc liếc, trông thật là “quá gian”. Anh vội vàng nói:
- Em ở đây chơi với các con nhe. Từ nay, cho đến ra Giêng, anh bận đi với mấy bạn Hậu, Hạnh, Bé, Lợi, Vũ Hùng, Thịnh... Thịnh sẽ giao tiền, mà các bạn bên Mỹ đã quyên góp, gửi về cho anh.
- Dạ vâng. Anh cứ đi vui vẻ với bạn, lâu lâu họ mới về. Em ở nhà một mình cũng được mà. Chúc anh đi chơi an vui.
Ngày ngày Hoàng hấp tấp vội vàng ra đi, từ tám giờ sáng, đến mười một giờ khuya, anh mới khật khà khật khưỡng về nhà. Trong lúc Hương ở nhà với các con. Hương đã nghe và biết hết tất cả sự thật: Hoàng không hề bị ốm đau nan y ung nhọt, u nan cấp tính cổ họng gì sớt. Tất cả số tiền Hương dành dụm gửi về cho Hoàng, anh đã mặc nhiên tiêu pha hoang phí hết sạch trơn. Lại còn nợ nần tùm lum. Tóm lại, Hoàng sinh tật nói láo khủng khiếp. Anh lừa dối các con, Hương, và rất nhiều người bạn của anh ở hải ngoại.
Mấy mẹ con lên lầu mở e-mail ra xem: Nhiều thư từ e-mail các nơi gửi về “ủy lạo” Hoàng – {Hoàng: Một người sống phây phây sung túc ở Việt Nam, mập mạnh như cụ trâu, trắng hồng béo phì nộn, to hơn việt kiều thứ thiệt. Anh dư ăn dư mặc; một phần do tiền chi lương tháng đều đặn của con (con gái ở Việt Nam, có công ty kinh doanh đồ sộ) lo cho cha rất đầy đủ). Một phần lớn là tiền cuả Hương gửi về, (do Hoàng khẩn khoản yêu cầu Hương cho anh mượn), để anh chi phí:
Vào những việc dịch vụ hoàn tất hoá giá nhà cửa - Chi phí các vấn đề đời sống. - Dịch vụ do Hương bỏ tiền ra, lo bảo lãnh du lịch cho anh. Hương đã hoàn tất các thủ tục bên Mỹ, và gửi anh một đợt tiền 10.000 usd, để anh mua vé máy bay, sắm sửa tất cả đồ dùng cần thiết riêng anh. Dịch vụ làm hồ sơ xin tị nạn chính trị, nộp hồ sơ hồi anh đi không quân, thành thương phế binh, anh làm cho sở Mỹ, vân vân, và vân vân...
Nhưng sau đó, theo Hương biết thì anh không hội đủ điều kiện để ra đi theo chương trình “vớt vát HO muộn”. Vì Hoàng không đi tù “cải tạo” ngày nào.
Hoàng xoay qua “báo láo với bạn bè” là anh đang mắc phải chứng bệnh nan y, u bứu di căn, di kiết trầm trọng ở cổ họng, anh phải đi điều trị bác sĩ, nằm bệnh viện mà không có tiền mỗ, nói đủ điều chi chi đó. Láo toét. Quả tình mấy mẹ con không hề tìm thấy một tấm giấy báo cuả một bệnh viện chẩn đoán định bệnh nào. Anh chẳng hề có hồ sơ bệnh án, y chẩn cho cục u nan ung cổ, ung kiết gì sớt. Tuyệt nhiên không hề có một viên thuốc điều trị “lấy thảo”. Anh vẫn khoẻ mạnh cùi cụi.
Mấy mẹ con có hỏi Hoàng, thì nay anh ấp úng nói láo là anh đi bệnh viện Pháp. Mai anh đi bác sĩ ở trung Tâm Hoàn Mỹ. Rồi anh nói là anh đi bác sĩ tư nhân. Hôm khác anh nói:
- Việc nầy tự anh lo, việc kia anh nhờ bạn lo!! Em và các con khỏi phiền lo tới.
Nhìn nhau biểu lộ sự kinh khi anh ra mặt. Hoàng làm như chúng tôi là đứa trẻ lên năm lên ba không bằng. Hoàng vẫn chua ngoa nói láo ngọt xớt, mà anh không biết ngượng mồm. Riêng bạn anh ở xa thì cứ tưởng thật, nào là bạn học cũ ở Tabert, ở đại học Đà Lạt, ở Không-quân, rồi mấy cô nhẹ dạ (như Hương): Bích Hà, Hồng Hoàng Anh, Trân Thu v.v... tới tấp gửi thư về Hoàng. Cuả ít người nhiều, họ lo tom góp mỗi người năm ba chục, gửi về anh nhiều đợt. Có đợt một ngàn tư. Có đợt hai ngàn dollars. (họ gửi trong vòng nửa tháng).
Có tiền, Hoàng lại dẫn con Kìm đi tối ngày sáng đêm, ăn và ở khách sạn xã láng, anh phung phí tiền mồ hôi cuả người khác không do dự. Anh dẫn nó đi nhảy đầm nhảy đực, lại bòn rút lừa gạt đám bạn việt kiều các nơi mới về ăn Tết. Tết năm nay Hoàng được dịp “làm ăn khấm khá” rồi cũng tung toé phủi sạch tay, bay đi cái vèo.
Hương và các con cảm thấy thật nhục nhã xấu hổ thay! Anh quên là anh đã hứa với Hương và các con anh bỏ rơi con Kim. Thì ra anh tiếp tục gục mặt, cúi xuống đất liếm lại bãi nước đờm, mà anh tự hào đã nhiều lần nói với chúng tôi là:
- Anh đã nhổ xuống đất rồi.
Ngày xưa, Hương yêu Hoàng không hề do dự, không tính toán. Hương nâng bi anh lên tới mức cao vời. Hương xem anh như một hoàng tử, như một thần tượng siêu sao tuyệt đối. Hương là con bướm xanh trắng vàng nhởn nhơ khoe sắc thắm, trong vườn cây ngập nắng tươi. Nàng không so đo, không lựa chọn, không do dự tính toán, khi Hương đậu trên cây mù u tiết nhựa tình đắm đuối si mê! Bây giờ… chán ngán rụng rời nhất là Hương đọc những lá thư cuả Hoàng viết, và của ân nhân hồi âm cho anh.
Trong số đó, anh đã trắng trợn lợi dụng tinh yêu xưa cũ, anh lừa dối viết cho Thu những lá thư tình tứ hò hẹn. Mà, nực cười và xấu hổ thay: Những lời lẽ trong thư, nếu đem ra so sánh, thì không khác gì: Một bản copy thư Hoàng gửi cho Hương bấy lâu nay. Mới nhất là chỉ vài ngày, trước khi Hương về Việt Nam. Tựu trung có những câu duy nhất. Chẳng hạng như:
1.- Hương ơi! Em không chỉ là người yêu dấu nhất đời cuả anh. Mà, Hương chính là tình yêu duy nhất và cuối cùng cuả anh.
2.- Ngoài em ra, không ai có thể yêu anh, rộng lượng bao dung, tha thứ, và hiểu anh trọn vẹn như em.
3.- Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai.
4.- Anh không hề yêu ai. Hương ơi! Vì,
- Thứ nhất: Em chính là người yêu tuyệt vời, trọn vẹn cuả anh.
- Thứ nhì: Em ví như là người chị, người mẹ đầy bao dung, rộng lượng thật khoan thứ.
- Thứ ba: Em vưà là người bạn đời, và cũng là người bạn đường cuả anh.
- Thứ Tư: Anh chỉ có thể mất em, khi anh đã nhắm mắt xuôi tay trên đời.
- Thứ năm: Bởi vì, Hương ơi! Em chính là tình yêu duy nhất cuả anh. Chỉ có em xứng đáng (trong tình yêu thương tuyệt vời nầy).



_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du





Ái Ưu Du
#203 Posted : Sunday, April 27, 2008 2:57:36 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 41


THỘN





Một hôm Hương mời Hoàng, anh Vươn, và anh Vượng. (anh Thế Vươn là bạn cuả anh Ngọc Vượng), bốn người đi ăn thịt cá sấu, ở một nhà hàng thơ mộng, tại vùng quê Bình Thới.
Ban đầu mọi người vừa ăn vừa nói chuyện nhẹ nhàng vui vui. Sau khi ba người đàn ông nầy, mỗi người đã uống qua sáu lon bia hộp ngoại, vỏ bia lon để ngổn ngang dưới chân bàn. {(Có lẽ do ngà ngà say, hay do hai anh kia có ý nói cho Hương biết chuyện về “Hoàng và con Kìm”, cũng nên) (!?)}:
Vươn tóc đen khơi chuyện:
- Hẳn Hoàng biết con Kìm, là tình nhân cuả ông Vượng từ chín năm nay ha?
- Biết chứ.
- Hẳn là ông biết chắc con Kìm làm gái ca va, có bốn đời chồng không chính thức, hai dòng con riêng. Nay nó vẫn có một số tình hờ. Ông biết rõ nó đục khoét cuả anh Vượng, không biết bao nhiêu là của chìm của nổi, kể sao cho hết? Và, ông là bạn già U-70 cuả anh Vượng ha?
- Dĩ nhiên.
- Nay ông đang cặp bồ với con Kìm hử?
- Nghe anh Vượng không còn bao con Kìm, xù độ rồi mà? Thì tôi cũng vui chơi thôi...
- Tôi thật lấy làm tiếc, khi ông đã làm một chuyện, mà tôi thấy một người luôn tự hào trí thức, có tư cách như ông, đều không ai dám làm. Ông là bạn cuả anh Vượng. Biết con Kìm là tình nhân ruột cuả anh Vượng; Anh Vượng coi như nó là vợ. Mà ông vẫn lao vào giật vợ bạn. Là sao?
Ngừng một lát, Vươn nhìn trừng trừng vào mặt Hoàng:
- Nhất là, ông không làm gì ra tiền, ông ăn bám vào con gái của ông. Ông bu vào người đàn bà ở hải ngoại. Ông dùng tiền của, hay đục khoét tiền mồ hôi nước mắt, của những người bạn khác, để làm những chuyện ác ôn. Ông táng tận lương tâm, đem tiền của người ta đi ăn chơi, hầu thoả mãn dục vọng, và tự ái của thằng đàn ông sa đoạ. Nói thật với ông nhe: Tôi nhục nhã khi biết ông. Ông không xứng đáng làm bạn với chúng tôi.
Anh Vươn trợn mắt, xỉ ngón tay thẳng vào mặt Hoàng:
- Chỉ có loài thú mới ung dung trơ ra mặt dày mày dạn. Con chó nó có nghiã, nó cũng không làm cái chuyện đi lấy bậy. Đừng nói ông là con người. Vì ông bạn thân cuả tôi đây, hôm nay tôi đến đây, là lần đầu tiên tôi gặp ông, và cũng là lần cuối cùng.
“Nạn nhân Ngọc Vượng” nhìn Hương lắc lắc đầu tóc bạc phơ, như muốn rũ bỏ cơn say, hay sợ ác chiến xảy ra? Tuy nhiên Hương nghĩ:
- “Rất có thể anh Vượng khó nói, không thể “giải” oan nỗi sầu đắng. Nay anh muốn nhờ ông bạn mạnh miệng nói thay mình, nói như tát vào mặt Hoàng, để thay anh nỗi đau. Và giờ đây hai anh thật hả hê trong lòng”.
Anh Vượng tóc bạc chiã năm ngón tay vào đầu, xới xới hất hất ngược mái tóc trắng phơ lên. Nhưng gịọng anh từ tốn, nhẹ nhàng can ngăn bạn thân:
- Thôi ông ơi! Ông xĩn rồi. Để tôi đưa ông đi gấp.
Hai ông bạn già đứng dậy, ung dung tự tại đi ra bãi xe cúp. Anh tóc bạc chở anh tóc hoa râm đi, với tràng cười ha ha ha lướt thướt lùa trong gió, rớt lại sau tấm lưng Hoàng lộng gió. Trong khi Hoàng cúi gục đầu, bất ngờ kinh khủng nhận gáo nước sôi tạt vô mặt. Mặt mày anh thộn ra, sượng sung, tái nhợt rồi bừng bừng đỏ au lên.
Hương hốt hoảng tột độ và đờ đẫn cả người, ngồi chết trân không kịp phản ứng. Tình bạn già và tình yêu tưởng là thần tượng, lý tưởng cao vời, đã lố bịch sụp đỗ, rơi tỏm xuống vũng bùn. Buồn lòng và cay đắng nghẹn ngào, đau xót nhất, là từ bây giờ Hương mới bừng tỉnh, khi lắng tai nghe, mắt mở thấy những điều sống sượng quá trơ trẽn. Hương nhận chân được giá trị thật sự mỉa mai và đau xót khôn lường: Hoàng chỉ là một kẻ hèn mọn, tên lường gạt lố bịch, quá tầm thường.
Thì ra... Từ ngày xưa đến nay Hương chỉ: “Tri nhân tri diện, bất tri tâm. Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cốt” (thấy người thấy mặt, không thấy lòng. Vẽ hổ vẽ da, không thể vẽ xương) Càng về lâu về dài thì Hương mới biết: Hoàng chỉ ích kỷ vô song, thoải mãn tình yêu cho chính bản thân, mà quên đi đạo đức tất yếu của con người biết tự trọng. Lòng tự trọng không ngăn nỗi tính già còn háo thắng và tội lừa phỉnh ùa về. Anh yêu bản thân riêng anh, đến độ hèn hạ mất thể diện và vô liêm sĩ. Tính nào tật nấy. Ngựa cũ quen đường xưa.
Đồng thời anh là kẻ lợi dụng người khác và lạm dụng trắng trợn đầy bất nhân: Từ thời xuân trẻ trai tráng, cho đến bây giờ, không khác gì nhau: >Anh từng đi với nhiều hạng người: Từ bà chủ chứa lấy guốc sắt đánh trên đầu Hoàng, tới ca sĩ, “ca lon” (kể cả con bé ăn sương mù loà trước 2005, tối tối nó đứng bên hẽm Hai Bà Trưng đón khách đưa lon xin tiền. Anh dám khoe với Hương điều ghê tởm đó, như là một sự hào hoa bay bướm!).
- Từ hồi xa lắc, xưa cũ rích anh với mụ già khú Tư Rậm, ở gần nhà, hơn tuổi anh gần hai con giáp. Rồi; Từ con nhỏ bên sát hông nhà anh (vợ chồng nó mua cái nhà nầy của Toma), anh dám cả gan tò te với con nhỏ xồn xồn qua nhà anh, anh đè nó ra trên gác xép và lấy nó. Nhiều lần sau, thì chuyện tồi tệ bị đổ bể, khi Hoàng chở con xồn xồn về ngang gần ngỏ nhà, bị thằng chồng rình rập bắt gặp, nó dzợt Hoàng một tăng, nó cầm dao bầu, đòi lụi anh. Hoàng đã quỳ xuống giữa lề đường, lạy lục mà xin nó tha mạng. Thằng chồng sợ thằng hàng xóm quá, nó bán nhà, dọn đi mất biệt!
- Cả bà Nga nghèo khổ buôn mồ hôi bán nước mắt, bưng thúng xôi vò ở đầu ngỏ. Ngày ngày anh ghé xe qua góc đường lấy vài ba vắt xôi. Bà ta dúi cho anh chút tiền com cóp nhặt nhạnh trong thời kỳ mới hoàn tất cuộc cách mạng 75.
- Đến bà Lan bạn nhậu bù khú tu rượu như uống nước lạnh. Rồi bà Dung chết chồng có con. Cả bà Dâu làm trong công ty dệt. Từ cô sinh viên gia giáo đến cô gái con nhà lành, lớn, bé, già, trẻ, anh không tha. Kể cả con Nguyệt tuổi xấp xỉ bằng con gái anh. Con Kìm mặt ngựa thô thiển, cũng xấu xí ốm nhom ốm nhách, giơ ra cặp “trường túc bất chi lao” khẳng khiu, giọng nói nó lơ lớ, nghe càng đanh đá và hung dữ bặm trợn hết biết. Nó chả giống con giáp nào! (như anh đã tả chân về nó, cho cả nhà nghe). Ấy thế mà… Anh dùng lời lẽ ngon ngọt đúng “một tông y khuôn đúc” đem ra sao chép phỉnh lừa họ. Chỉ vì anh dùng những người đàn bà kia, để thoả mãn tự ái là anh vẫn còn sức chinh phục đàn bà, để trả thù đàn bà. Anh muốn che đậy niềm đau đớn đã bị người yêu bỏ rơi, và bị vợ ly dị.
Than ôi!

_ * _


Kính mời quý độc giả đón xem chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du


Ái Ưu Du
#204 Posted : Friday, May 9, 2008 3:17:20 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Hoài Hương Xưa

Phần Thứ Ba

Chương 41


KHI CUỘC TÌNH TÀN
(TRAO ĐỔI PHONE ĐƯỜNG DÀI)





1e.- Allo! Chào Hoàng. Em đang ở Đà Lạt. Anh có khoẻ không?
2a.- Ah! Chào Hương. Cám ơn em. Dạo nầy anh không được khoẻ lắm. Buồn và đau nhiều là đằng khác.
1e.- Em đã nói với anh hằng trăm lần rồi: Bi giờ mình cũng đã có tuổi, chứ nào phải còn trẻ mỏ như hồi xuân xanh đâu. Mà anh nay cặp bồ bà Kim. Mai bà Nguyệt. Em nói đứt lưỡi, không được à.
2a.- Tự nó phone đến anh hò hẹn, rủ rê. Chứ anh nào muốn.
1e.- Không có lửa, làm sao có khói. Chỉ từ ba bốn tháng nay thôi, khi anh bắt đầu quen với Kìm, thì anh mới cấm Nguyệt không được gọi phone đến nhà. Anh sợ các con nghe được, sẽ méc lại em. Anh đâu biết là Nguyệt đã gọi phone tới khóc lóc, kể lể với bé Tư đủ điều: Nó kể về anh và con Kìm đó sao?
2a.- Thì... anh đã ngăn cấm Nguyệt thật. Nếu nó thật lòng sợ anh, thì phải nghe lời anh. Tiếc thay. Nên anh từ bỏ nó rồi. Em.
1e.- Có thể nó không thương yêu anh, mà sợ mất anh như món hồi môn béo bở. Không tin, anh cứ hỏi các con gái. Đúng là nó đã gọi phone đến nhà mình kể tội anh.
2a.- Anh biết cách xử sự. Đừng dạy khôn anh nha. Anh sẽ không viết thư cho em nữa. Đọc chưa hết thư kia, thì lòng đùng đùng nổi giận, chẳng thèm viết thư! Em muốn làm gì thì làm. Em cứ quyết định theo ý em. Nghe rõ chưa? Đây là lần nghi ngờ thứ bao nhiêu rồi? (Trừ khi em không còn hấp tấp, nóng nảy, nghĩ là anh còn đam mê chúng).
1e.- Ủa!? Thì ra ngắn gọn là thế... Giống hồi năm 1989 ấy. Khi em nói đúng tim đen cuả anh. Anh đùng đùng kiếm cớ nổi giận. Rồi anh nói vì giận em, anh đã sa vào vũng lầy, phung phí bao nhiêu tiền vào tay chúng nó ha? Bao nhiêu lần rồi, anh vẫn chừa một kẽ hở hoãn binh, là tạm thời úp úp mở mở, lẫn trốn chúng thôi.
Anh không dám dùng biện pháp mạnh là: Nhìn thẳng vào mặt chúng. Nói lời chia tay vĩnh biệt. Nên sau khi chúng “mè nheo” khóc lóc, năn nỉ, thoả mãn rồi, thì đâu vẫn hoàn đấy. Anh tiếp tục nói láo với em và các con. Thưa anh! Em không thể chịu đựng hơn.
Tình yêu em trọn vẹn chân chính. Em chưa bao giờ lợi dụng anh một đồng xu. Nên; Tuyệt nhiên em không bao chấp nhận anh, về sự anh lừa gạt em trắng trợn từ tiền bạc, lẫn tình cảm. Sự việc đã rõ rành rành. Anh nên quay về phủ phục dưới chân chúng, cầu mong chúng gia ân tha tội cho anh. Anh liếm lại mấy bãi đờm anh đã trót nhổ ra. Đó chính là lời anh nói, nếu anh mà quen lại mấy con đó, thì anh cúi xuống liếm bãi nước miếng anh đã nhổ xuông đất. Em sẽ không thèm quấy rầy anh. Em hứa như thế.
2a.- Hừ hừ! Sao em đánh giá anh thấp thế. Em cứ nghĩ như vậy, anh sẽ rất buồn và nổi giận kinh khủng. Đã nghi ngờ nhau hoài, thì còn gì là tình yêu nữa. Bây giờ, anh sẽ im lặng. Cứ nói đi.
1e.- Vậy chứ, từ sáng thứ Hai, 24-01-05 lúc 9:49, anh nói anh đi Đà Lạt với ông Ba, và ở một tuần. Để anh lo về việc mua đất đai, bán kiếm lời gì đó. Thật ra, anh không hề đi với ai, mà anh đi với con Kìm, lên Đà Lạt ở tại Hotei Dream. Trong khoảng thời gian đó, anh không có một giờ rảnh rỗi tách rời nó, để lẽn đi e-mail về em. Mặc dù đi chơi, nhưng anh vẫn mất tự do ha. Chứ nào em có cấm cản anh mất tự do. Đâý, chính là lúc anh bị kềm kẹp. Bị ra lệnh, bị bám sát từng bước. Nhất là bị tước đoạt tiền bạc cuả chúng ta, một cách dã man và thô bỉ, ô trọc nhất. Vậy, anh tự sa chân vào vũng lầy sa đoạ, thì đừng đỗ tội cho em nha. Em không thể nói gì hơn, khi anh tính nào vẫn tật ấy. Em chán hết biết. Không vì lý do gì, em cần níu kéo cuộc tình đã mất nữa.
2a.- Em đừng có tối ngày đi rình mò anh, như tên trộm vậy. OK. Anh có lỗi trong việc nói dối em. Chẳng qua sợ em buồn. Sorry. Em hãy rộng lượng thứ tha và bao dung. Anh xin hứa là thôi. Anh không muốn nói gì nưã. Anh im.
1e.- Chỉ cần một tiếng sorry trơn tru từ cưả miệng dẽo mồm dai mép, tràn môi trên mà trề môi dưới cuả anh; Là sẽ xí xoá bao điều bất nhân gian ác hoài mãi sao? Vậy thì, anh đừng bao giờ mở miệng ra nói câu:
- “Em và các con không tôn trọng anh” nhe.
Anh muốn cho các con tôn trọng anh? Trước tiên, anh phải làm thế nào tỏ ra xứng đáng, và tự tôn trọng mình. Sau đó các con và em mới cảm thấy anh xứng đáng được em và các con >Không những là tôn trọng anh, mà anh sẽ được sự trìu mến và kính trọng hơn<.
Để khỏi làm phiền nhau vô ích, em sẽ về Việt Nam: -* Trong đó, sẽ giải quyết chuyện tình cảm & tiền bạc anh vay mượn em từ xưa. Em sẽ đưa ra ánh sáng cho minh bạch vụ nầy. Bởi tự vì, do anh đi rao réc với các em cuả anh là:
- Em gian ác, đã lấy tất cả đồ đạc trong nhà, không chừa lại cho anh cái gì cả.
- Thưa anh Hoàng, sao anh mở miệng ra nói láo kinh khủng, mà không biết mắc cỡ vậy? Vậy chứ, anh có muốn em nhắc lại cho anh nhớ rõ không? Tiền bạc phủ phê dưới ba chục ngàn usd. Đó là cuả chìm. Nào là cho anh bao nhiêu đồng hồ, máy ảnh, cả lượng dây chuyền vàng, nhẫn vàng, cà rá, giày sports, quần jeans, áo len, những bộ áo veston đắt tiền, vô số chuyện…
Còn của nổi to chình ình như: tủ đựng quần áo đáng giá vài triệu, tất cả máy móc trong nhà, tivi, microwaue. Cho anh tiền mua tủ kính úp chén bát, đồ dùng son nồi. Một giàn tủ tuyệt đẹp mới toanh (do em gửi thêm 2.000 usd đế anh thuê thợ đóng ở trên bếp, đựng những thứ cần thiết) vân vân... và vân vân… vẫn còn nằm lì ở nhà đó. Cả cái máy lạnh mới cáu cạnh ở đâu ra, để ngày đêm cho anh mát mẻ? Chả lẽ em sắm ra tất cả, rồi leo lên gỡ xuống, đem đi Mỹ hết?
Mấy lần rồi anh làm mất hết, em hỏi tới nào vàng, đồng hồ, vân vân… khi thì anh nói láo là anh túng tiền, có bán xài, cầm cố. Hay đi chơi đã bị mất, bị giựt. Úi Trời! Cáo già mà cũng bị giựt ha! Vậy thì gần 30 chục ngàn usd? Chắc cũng bị con nào giựt béng mất toi hết?
-* Này anh; Anh đừng có dựng đứng lên em đã lấy lại dồ đạc hết, rồi anh đi bêu rếu, vu oan giáng hoạ những chuyện không, anh nói có à nha. Việc nầy, các con đều biết, đều thấy rất rõ. Anh đừng tiếp tục bôi tro trác trấu lên mặt. Anh nói láo để con cái càng khinh anh. Cái tội của anh to ngập đầu ngập cổ đó. Anh đem… tóm lại, tất cả mọi thứ, anh đem đi dâng cúng bất lương vào những cuộc truy hoan. Anh nói láo và lường gạt mọi chuyện. Kể cả chuyện anh dám đến nhà con gái anh, để lấy danh nghĩa tên em, mà anh nói với con gái:
- Con ơi! Cô Hương rất cần tiền. Con cho cô Hương mượn 5.000usd. Nhưng con đưa cho ba - để ba gửi gấp qua Mỹ cho cô Hương.
-* Con gái tin anh nói thật, con đã đưa tiền cho anh, và anh đem đi phung phí hết. Mà anh không hề nói cho em biết, là sao? Mãi đến một năm sau, khi em về thăm anh, thì bé X Tư hỏi em:
- Vậy chứ cô đã mượn tiền của chị Hai, khi nào cô mới trả lại?
Em đã giật mình hỏi con cho ra lẽ: Thì con gái kể lại đầu đuôi như thế. Anh có nhớ là khi đó em giận quá, gọi anh chở em đến nhà bé Hai để đối chứng ba mặt một lời. Thì lúc đó, anh đã cúi đầu trước mặt em và con gái mà thú tội. Nói thật với anh, vì em thương bé Hai, con gái không dám cho chồng biết việc tồi tệ nầy, nên em không nở làm to chuyện, tự em bỏ tiền túi ra, để trả nợ đậy giúp anh, anh nói láo mượn danh em, dung tiền mượn ấy để làm gì hử?
Có dôn dốt như em, cũng thấy và biết rất rõ chân tướng anh mà. Vì sao? Khi xưa em yêu anh, em chưa hề có những ngày cận kề bên anh. Chúng ta không có môi trường thuận tiện sống chung dưới một mái nhà. Tình yêu ấy được em sơn phết lên một lớp mạ vàng quá lý tưởng, thần thánh ảo tưởng, mà người Mỹ gọi là “American Idol” và thi vị hoá cuộc tình. Anh bưng bít, che đậy cố tật tài tình. Nay em và các con đã biết được những hành động, những suy nghĩ cuả anh.
-* Đã trải qua mấy chục năm yêu và biết nhau. Thì bản chất con người anh đã lộ rõ nguyên hình.
Ngày xưa, anh nói vì anh buồn chị Tư cấm mình yêu nhau, nên anh sa đoạ? Vậy chứ bây giờ anh tóc bạc già gần U-70 rồi, anh vẫn nhúng chân vào vũng lầy! Bởi tại ai? Anh chỉ là một chàng trai “ảo” hèn mọn quá tầm thường. Đúng là em tô màu phóng đại, nâng bi anh là siêu sao thần tượng, em đã nắn nót công dã tràng xe cát trên biển. Sụp đỗ. Bây giờ anh đừng đỗ lỗi tại ai. Nha. Anh nói láo tàn bạo, phản bội tình, lừa gạt tiền, lì lợm trắng trợn nhất đời.
-* Em không thể rộng lượng tha thứ cho anh thêm; Lần thứ mấy chục rồi? Em cương quyết dứt tình với anh. Em đã cho anh rât nhiều với sự bao dung, chịu đựng, hy sinh quá đáng. Hậu quả là không đúng chỗ và thua thiệt.
-* Tuy nhiên, một điều cuối cùng em yêu cầu anh: Kinh qua cuộc tình dai dẵng 45 năm nầy. Em biết rõ anh hơn ai cả. Mong anh thức tỉnh. Không nên nhẫn tâm để mưu toan đi lường gạt tình cảm, tiền bạc những người nhẹ dạ khác nữa; Nhất là bà Thu, Bích Hà, Hồng Hoàng Anh, và những bạn trai ở hải ngoại vô tội.
Ai ai cũng phải làm việc vất vã. Chứ họ không như anh, được em và bé Hai nuôi anh sung túc, no đầy. Anh không làm việc gì cả, ngồi không an hưởng, nên anh không thấy giá trị cao quý từ tình bạn, tình yêu, qua đồng tiền người khác dành dụm, chắt chiu gửi về anh đâu. Ở hải ngoại bạn bè thân nhân của anh cứ tin anh bị đau. Anh đã nói láo, lừa dối họ là anh có di chứng ung thư cổ, để họ lo quyên góp tiền về cho anh.
Đồng tiền kiếm được qúy lắm, họ hy sinh để giúp những người thực sự nghèo đói, đau khổ. Và khao khát sự sống trong lành. Những đồng tiền bạn quyên góp ở hải ngoại, lẽ ra nên đến tận tay các em bé mồ côi đáng thương, ốm yếu, bệnh tật khốn cùng, nghèo khổ ở vùng quê xa xôi.
– Trong khi đó, anh nhận tiền của người khác, lại tiếp tục sống phây phây, phè phỡn đi ăn chơi trác táng với con Kìm. Em “nói có sách, mách có chứng” rõ ràng.
-* Riêng em, bây giờ thật bình an, hờ hững nghe tình tàn phai. Em mở nhạc đây: Anh hãy nghe Vicky cho thật kỹ nha:

APRÈS TOI
Vicky Leandros

*
Tu t’en vas
L’amour a pour toi.
Le sourire d’une autre
Je voudrais mains ne peux t ’en vouloir
Désormais
Tu vas m’oublier.
Ce n’est pas de la faute
Et pourtant tu dois savoir
Qu’ après toi,
Je ne pourrai plus vivre, non plus vivre
Qu’en souvenir de toi
Après toi
J’aurai les yeux humides
Les mains vides, le coeur sans joie
Avec toi
J’aurai appris a rire
Et mes rires ne viennent que par toi
Après toi
Je ne serai que l’ombre
De ton ombre - Après toi ...

*

Đầu dây bên kia giằng mạnh phone cái cộp, dội lại rất to trên máy.
Thì ra... giận dữ nghe!
Sợi dây đã dứt lià đường nối.

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#205 Posted : Friday, May 9, 2008 4:36:09 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


MẸ TỪ NHÂN DẤU YÊU

(Kính dâng về mẹ một đoá hoa hồng màu trắng)





Bầu trời sau khi tráng nước mưa, trong suốt như pha lê. Cành cây ngọn cỏ tươi màu xanh thắm loáng nước. Lưng trời sáng bạc ngất ngây đầy rung cảm, điễm vài hoa mây phớt hồng thấp thoáng, trôi nhè nhẹ như bong bóng mây, bay lơ lửng giữa bầu trời rộng thênh thang. Các mái nhà dường như kỳ cọ gội rửa sạch bon.
Tôi rất mừng khi mẹ ở Tùng Nghĩa đến thăm, có mẹ ở lại giúp con, chăm nom các cháu, là tôi rất an tâm. Mỗi lần đến thăm, mẹ mang rất nhiều quà bánh, khệ nệ bưng hết giỏ nầy, đến giỏ khác, thậm chí cả gạo, rau, cá, thịt, tôm, vân vân… Có bao nhiêu tiền dành dụm, mẹ trút hết cho con, nhất là bà cưng các cháu ngoại hết sức, dù chúng rất quậy, khiến ngoại mệt phờ người. Mẹ cầm cái quạt, quạt cho mình và quạt cho con, cháu. Trời Đà Lạt khá mát. Mẹ dùng quạt, đủ biết mẹ mệt đến đâu. Tôi muốn khóc hết sức, khi ngồi cạnh mẹ. “Lên non, mới biết non cao. Nuôi con, mới biết công lao mẹ hiền” là thế.
Mẹ rất thích xức dầu Nhị Thiên Đường. Nhìn vẽ già nua hiện lên từng đường nét rõ ràng, khuôn mặt già và mỏi mệt, mái tóc điểm muối tiêu, vành miệng móm mém. Mẹ ưa nhai trầu dập từ cối đồng nhỏ xíu, cầm lọt trong lòng bàn tay. Đôi mắt mẹ thoáng mầu nâu, hấp háy sau làn mi dài lưa thưa, có cái nhìn ấm áp, chuyển thành niềm vui dạt dào, bộc phát mừng rỡ:
- Đói lắm hử? Mẹ cháu về rồi. Ù ơ... tham ăn y như mạ mi hồi nhỏ hè.
Bỗng dưng tôi nhớ lại thời niên thiếu, quá đỗi xa xôi, thuở tôi như con chim non vàng mỏ tham ăn kia. Ngày ấy, gia đình tôi sống tại ngôi biệt thự La Rose ở số 5 đường Quang Trung, gần nhà Ga xe lửa Đà Lạt. Tôi diện quần sa tanh trắng, áo dài nhung đỏ, do mẹ tự cắt may. Tôi mang hài cườm cùng màu với áo, đầu đội nón lá mười hai vành, do mẹ chằm. Cổ đeo kiềng vàng chạm trổ thẫm mỹ, vai tôi đeo chiếc bóp đầm đỏ. Hai mẹ con ngồi xe kéo, đi chợ Đà Lạt mua sắm đồ Tết suốt ngày. Trước khi mua sắm, mẹ cho tôi ăn bánh bèo xong, tôi lại lết qua hàng mì quảng ăn no nê. Sau đó hai mẹ con chen lấn vào chợ vải và quần áo, giày dép.
Tôi bị người lớn chen lấn nên tụt lại đằng sau, kẹt giữa làn sóng người đông như kiến. Hốt hoảng, tôi vừa khóc vừa kêu:
- "Mạ ơi! Mạ".
Tay tôi nắm chặt lấy tà áo dài của mẹ, tôi kéo mạnh lại. Dù rách toạt mất một thân áo, mẹ tôi không hề la rầy, hay giận dữ. Mẹ đằm thắm bế con lên, cùng với hai giỏ xách quà đầy móc vào khuỷu tay.
Lúc về, mẹ mua cho tôi mấy bịch bánh thuẩn, nải chuối cau, chén chè đậu xanh đánh, và mấy cái bánh cam. Ngồi trên xe ngựa, tôi gặp hai mẹ con Mai, (Mai thường gọi ở nhà là Bê, bây giờ Mai đã có chồng con, mở tiệm ảnh trên phố).
Tôi sung sướng chia sẻ cùng bạn chút quà, và chuyện trò huyên thuyên. Mai cho tôi một món đồ chơi xinh đẹp. Nhưng, về nhà đồ chơi cũng không quyến rũ con bé, mập tròn giống hột mít như tôi (vì háu ăn), tôi quanh quẩn bên chân mẹ, líu lo hỏi chuyện:
- Mạ nấu phở, cho cả nhà ăn ha mạ?
- Ừ. Ra ngoài sân chơi đi. Ây. Coi chừng bị phỏng lửa.
- Chín chưa mạ?
- Chưa được. Coi chừng phỏng nước sôi.
- Được chưa mạ?
Sốt ruột, do cái tật mê ăn của con, nên mẹ đã làm trước cho tôi một tô. Tôi nhón chân, bốc nhúm hành ngò trong dĩa ở trên bàn. Tôi chạy theo mẹ, đến bên góc đi văng, tôi bỏ đầy hành ngò vào tô. Tay cầm đủa tay cầm muỗng, tôi cúi xuống thổi tô phở phù phù. Nước miếng ứa ra miệng, bụng tôi sôi lọc ọc. Tôi cảm thấy đói cồn cào vì mùi thơm ngạt ngào:
- Mẹ cho con căn thiệt no. Nghen. Con đói.
- Để nguội đã. Ăn từ từ thôi. Ngán tới con mắt chừ. Chớ tham ăn chi he.
- Con ăn từ từ, cho đến khi nào, no tới con mắt, thì thôi. Nghen mạ.
Mẹ phì cười, nguýt yêu con gái tham ăn. Qua nửa tô phở, tôi buông đũa, hét to:
- Chết con rồi! Ơ hơ! Cay quá! Mẹ ơi. Mẹ.
Tôi đã gọi tiếng “mẹ” thay “mạ” từ lúc đó. Cay thật. Cay đến nỗi hai lổ tai tôi lùng bùng, môi miệng đỏ chót, phồng rộp lên. Mắt tôi thấy sao bay trong màng lệ, đầu lưỡi nhứt nhối, rát bỏng. Tôi hoảng hốt chạy quanh nhà, vừa kêu vừa khóc. Tôi bức tóc bức tai, rồi chui xuống gầm bàn, nằm lăn lộn trên nền gạch hoa. Tôi lại bò ra chui mấy vòng qua hai ống quần mẹ. Tay tôi thọc vào miệng, cào cào lưỡi, phun nước miếng phì phì. Hai cánh tay tôi quệt nước mắt.
Khổ nỗi, ớt dính mấy đầu ngón tay, càng cay mắt hơn. Tôi kêu khóc inh ỏi, mũi dãi lòng thòng. Chỉ vì mắt nhắm mắt mở, tham ăn quá, tôi không thấy trái ớt xiêm xanh lẫn trong hành ngò. (dù mẹ tôi có ý để ớt qua một bên dĩa to). Mồ hôi vã ra trên trán tôi như tắm, mặc dù trời khá lạnh.
Mẹ vội lấy nước lạnh khuấy chanh đường, bế con vào lòng, cho con súc miệng nhiều lần, nhổ ra. Mẹ xổ tóc ra, lấy đuôi tóc lau trên đôi mắt con. Mẹ lấy khăn ướt lau mặt mũi, vạch vú da của mẹ cho con mút, mặc dù con khá lớn khôn. Có bầu vú mẹ, tôi dịu cơn đau. Khiếp quá. Cay kinh khủng!
Ôi! Lần ăn phở, muôn đời ghi nhớ ấy, nó ớn lên tới con mắt thật. Mà mẹ yêu dấu, là người họa sĩ tài ba đầu tiên, đã âm thầm vẽ nét ngây thơ, hồn nhiên duyên dáng vào trong tâm hồn con tươi trẻ hình ảnh bất diệt, nên thơ, trong sáng thân thương ấy, từng ấp ủ nơi con đây, thời xuân trẻ luôn khát khao niềm tin yêu, chưa làm quặn thắt lòng con. Một tình mẫu tử bất diệt và bao la, co xiết thành khối mật, vừa dịu êm ngọt ngào, vừa nồng nàn men say say, trào dâng lên bờ môi ngọt lịm, từ bầu sữa mẹ tinh tuyền ngát hương.
Trái tim con thèm khát nhịp đập cuồng quay, trong lồng ngực phập phồng, bồng bềnh chơi vơi, trên con sóng biển yêu thương, mệt nhoài rong chơi. Mẹ thân yêu! Mẹ nâng niu giữ gìn cho con bao kỷ niệm yêu thương, đậm sâu, dạt dào ân tình mặn mà thuở thiếu thời. Đôi mắt con lẫn vào lòng mắt mẹ, ẩn chứa tất cả niềm vui, tuổi thơ trong sáng ấp ủ thầm lặng. Nó vừa hiền, vừa lành, vừa vui, và trọng lượng tình yêu trong lòng mắt mẹ dành cho con, muốn vỡ thành muôn hạt nước tròn trịa, li ti lăn tăn trĩu nặng bờ mi, trôi đến tận cùng tơ rung suy nghĩ, làm gợn sóng lăn tăn, lung linh, chơi vơi trong từng tế bào con run rẩy.
Hạnh phúc vô ngần, khi con trở về trên dáng xưa yêu kiều, đầy hoa mộng đó. Chao! Dòng đời xuôi ngược nhiều ước mơ, hoài bão, hy vọng dạt dào, tràn đầy mộng đẹp, vụt tan biến quá đỗi là nhanh. Và, con không khỏi kinh ngạc, khi nghe mẹ nhắc khéo chuyện con tham ăn, (đã lẫn vào lòng thời gian lúc nào chẳng rõ). Hẳn là mẹ đang nghĩ đến:
- "Cho con ăn phở, đến khi nào con no, lên tới con mắt thì thôi"?!
Vui tột độ, khiến tôi dại người đi giây lát, bỗng quay qua nheo nheo mắt nhìn mẹ đăm đăm, và tôi toét miệng cười ngất. Mẹ nhìn con gái mỉm miệng cười đôn hậu, hòa ái. Thật đáng yêu xiết đỗi đôi mắt đầy bao dung, thông cảm và thấu hiểu của mẹ biết ngần nào!


_ * _
Ái Ưu Du
#206 Posted : Tuesday, May 13, 2008 10:09:23 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Ái Ưu Du tài hèn sức mọn, không bao giờ dám mơ mình là nhà văn, nhà thơ cả.
- Rất cảm kích và chân thành cảm ơn một số qúy độc giả, bạn hữu, đã ưu ái gửi e-mail về khích lệ Ái Ưu Du nên viết văn.
- Dạ xin vâng! Xin sẽ cố gắng. Tôi ước mong được học hỏi cùng quý vi, hầu:
Trau dồi tư tưởng. Mở rộng kiến thức. Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông. ÁƯD biết ơn.
Tiếp sau đây là truyện dài mới.
Kính mời quý độc giả kính mến đón xem.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

***



Đường Thiên Lý
Phần Thứ Nhất

Chương 1


THUỞ THIẾU THỜI





Mấy con chim lạ không một tiếng hót, vụt bay lên không trung, như lằn tên vút. Bỗng chốc nơi xa xa nó hoác mỏ, hót rời rạc dưới bầu trời phớt màu xanh lam. Giống như thoáng hơi thở hạnh phúc thoảng trong gió, dưới con đường mòn loáng nước ngày mưa thu năm cũ.
Hai bên đường hàng cây anh đào trụi lá, khẳng khiu, ủ ê, trông tội nghiệp biết chừng nào! Dưới gốc cây đầy lá thông rụng cuốn theo chiều gió rì rào, lao xao lướt qua khóm lá dồn thành một cụm, run lập cập trên đống sình. Nóc giáo đường con gà uy nghi, chọc thủng bầu trời nặng trịch giăng đầy mây xám, vang lên tiếng chuông thánh thót ngân nga. Đồi cỏ ướt đẫm nước sau cơn mưa nặng hạt vừa tạnh.
Tôi là Tí Nị, líu ríu mang cơm đùm nước xách, theo anh trai đi học tại trường Nazarethe. Sáng, anh trai chở em đi bằng xe đạp, chiều anh đèo em về nhà. Tôi học chung với đám trẻ nội trú, ngoại trú, và trẻ con mồ côi, họ có dì phước nuôi.
Học sinh nội ngoại trú, được dì cưng hơn đám mồ côi. Đám mồ côi ăn ở dưới dãy nhà gạch gần khu Lục Lộ. Đời sống tẻ nhạt không thua tôi mấy. Có vài đứa, đêm ngủ sợ ma, không dám ra phòng vệ sinh xa nhà ngủ vài trăm mét. Chúng nó đã tiểu tiện hay iả đùn ra trong quần.
Thế là tửng bưng sáng hôm sau, dì phước bắt nó treo cái quần khai nước đái, cứt, sau lưng, nó gục đầu lủi thủi lên lớp qùy gối trong góc phòng học, tray trét ra lớp. Mặc mùi hôi nồng nặc xông lên, thối um kinh khủng. Cả lớp bụm miệng bịt mũi la ó, xô đẩy nhau ù chạy ra sân.
Học sinh không thuộc bài mà còn nói chuyện, dì phước lấy băng keo to dán kín miệng, bắt tụi nó qùy gối lên ghế học bài, khi nào thuộc bài mới tha. Đôi khi không thuộc bài, tôi cũng bị phạt. Nói chung tôi vẫn khá hơn đám trẻ mồ côi.
Thỉnh thoảng anh Thụ bận đi trực đêm không đón em về, tôi đành ở lại nhà anh chị Kim. Có lần con trai chị Kim đứng trong giường ngủ, nơi có thanh chắn cao làm củi nhốt cháu ở trong. Cháu trèo lên thanh giường, đu cả người vào chấn song, cháu rung lách cách. Sút ốc vít, cháu bị té nhào, “ông tướng con” khóc thét lên.
Chị Kim giặt ngoài máy nước công cọng nghe con trai khóc, chị chạy vào thấy mặt mũi con tèm lem, nước mắt nước dãi lòng thong và u đầu, chảy chút máu. Chị Kim tát tôi mấy cái thật mạnh. Tôi chúi nhủi đầu va vào tường. Chị Kim ôm con vào lòng vạch vú cho con bú. Cháu Bảo giẫy nẩy lên, thút thít mếu máo nấc từng hồi mới chịu ngậm vú mẹ.
Anh Tự đi làm về thấy mặt con trai sưng vù, anh bắt tôi qùy bên garage nhìn ra bờ hồ. Tiếng con Ó Ma Lai rền rú trên những tàng cây cổ thụ, khi trời vừa nhá nhem tối, khiến tôi sợ con ma muốn đứng tim. Người ta kể nhiều giai thoại rùng rợn về loài ó ma lai huyền thoại, mà không mấy ai đã từng ở miền núi rừng nầy, không biết như thế nầy:
- Ban ngày nó sinh hoạt giống người bình thường, tuy nhìn kỹ thấy chót mũi luôn đỏ, cổ có vài ngấn đỏ nhỏ, dài như sợi dây chỉ, ban đêm rút đầu và bộ đồ lòng đi ăn phân. Lại có chuyện truyền khẩu người lấy ma, đẻ ra con suốt mấy năm trường. Một hôm, đang ngủ ngon, chồng bị đánh thức bởi do con khóc, anh ta trở dậy mò tìm. Thấy vợ bị mất đầu, tá hoả tam tinh, anh ta kinh hãi đánh thùng rỗng la hét cùng làng. Xóm giềng liền đốt đuốc chạy đến.
- Có người khuyên anh ta lật úp thân thể vợ lại, và tắt hết đèn đóm, tất cả ngồi chờ trong bóng tối. Canh tư, từ đằng xa tiếng ó rít lên từng tràng dài nghe não nuột, thê lương rợn tóc gáy. Nó đậu trên cây cao van khóc xin chồng tha tội. Chồng ra điều kiện:
- Nếu lật xác lại để bà vợ chui vào nguyên hình, thì bà vợ phải đi biệt tích.
Bà vợ khóc thảm thiết, đồng ý bồng con đi khuất dạng. Còn ông chồng quá kinh tởm, ghê sợ, ốm dần ốm mòn mà chết sau đó ít lâu. Người ta bắn giàn ná, lấy đá ném khi ó ma lai xuất hiện. Sau nầy đông người ở, con ó bay vào rừng thẳm, thỉnh thoảng lạc nó về kêu hú từng tràng, rùng rợn kinh khủng!
Năm sau cha mẹ tôi dọn nhà ở dưới Quang Trung về khu Pasteur. Tôi học ở Thánh Mẫu (bây giờ là Trí Đức) với thầy Đăng. Tôi thân với Võ Vân, Kim Chung, Cúc, Kim Lê. Nhà Lê rất nghèo, tính Lê hiền lành dễ chịu. Một hôm Lê lỡ làm văng vài giọt mực tím trên mép tà áo dài của Dung. Dù Lê hết lời xin lỗi, Dung và Vượng là hai đứa lớn tuổi nhất lớp không chịu tha, chúng xông lại đánh đấm Lê túi bụi, buộc Lê dẫn về nhà. Má Lê xin lỗi, lấy áo giặt tẩy vết mực còn mờ mờ. Dung vẫn không chịu, nó bắt bà mẹ đền áo mới. Lê đi học bị Dung luôn đánh đấm, nó nói:
- Khi mô mi đền áo mới cho tau, thì mi mới yên.
Trưởng lớp là Châu thấy vậy, kêu gọi bạn bè hảo tâm quyên góp tiền, để mua vải và tiền may áo mới đền Dung. Thấy Dung còn nhỏ mà ác vậy, bạn bè trong lớp dần dần xa lánh hai đứa đó.
Giờ chơi tôi ưa rủ các bạn đi xem người Bắc mới di cư, họ đang tạm trú ở một nửa góc trường, trong các lớp học. Họ chờ chính phủ phân bổ đi các nơi định cư trong thị xã. Họ làm việc vặt, nấu ăn nói chuyện rôm rả. Các cụ bà đa số mặc đồ nâu, đồ đen, váy đen dài bạc phếch. Các cô trẻ hơn mặc áo màu lam, tím, hồng nhạt, màu mơ chín, xanh nỏn chuối, áo nâu non tứ thân, họ mang yếm trắng, thắc giải lụa đủ màu. Mái tóc mượt mà óng ả dài chấm gót, vấn tóc, chít khăn mõ quạ to hó, đi guốc mộc, miệng bỏm bẻm nhai trầu.
Trẻ con nhiều lứa tuổi tụm năm, tụm bảy chơi nhảy cò cò, nhảy dây, đánh vụ. Đa số trẻ gầy ốm, da ngăm đen xám vì sớm chịu cảnh cơ cực theo gia đình bước thấp bước cao, đi trên những đoạn đường dài lao khó xuôi Nam.
Các ông ngồi xếp bằng quây quầng hút thuốc lào, kêu oọc oọc trong cái bát điếu đen, dọc tẩu cong cong như sợi râu của con xén tóc. Họ chuyền bát điếu đi đủ lượt, chuyện trò rôm rả, oang oang. Họ phà khói thuốc lào bay mù mịt. Khi "đã điếu" quá, họ bật ngửa người, khoái chí gải sồn sột trong bụng, trong nách, giọng cười sang khoái.
Bình thường giọng nói người phụ nữ ấy trong trẻo lanh lãnh vút cao, êm đềm đầm ấm. Nhưng khi chửi mắng con cái, giọng chanh chua, the thé. Tôi thích nghe các bà mẹ ru con ngủ qua các vần thơ ca dao giàu tình luyến nhớ quê xưa, lời đồng dao đượm nét u hoài, điệu dân ca quan họ quyện nước mắt đắng cay, ngậm ngùi, xót xa thân phận, bềnh bồng trôi nổi qua những chặng đường ly hương, biệt xứ.

_ * _

Kính mời qúy độc giả xem tiếp Chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#207 Posted : Monday, May 26, 2008 8:20:00 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Đường Thiên Lý

Phần Thứ Nhất

Chương 2


TU THÂN





Ngày xa xưa ấy, ba tôi quyết định thật nhanh, bao chiếc xe đò của chú Trung, chạy tốc hành từ Đà Lạt về Huế suốt bốn ngày ba đêm. Trên xe chất đủ mọi thứ gia dụng lỉnh kỉnh. Tha hết gia tài chớp nhoáng của một đời người, cần cù lao khó sớm tối, cuốn trọn đầy nhóc trên xe. Dù dĩ vãng đầy ắp vui buồn, nhớ nhung cay đắng, muộn phiền tiếc thương tràn đầy, đang nghiêng mình trong hiện tại. Vẫn chưa đủ nặng gói hành trang, trên bước đường vàng phai lưu lạc, bấy lâu nay.
Sau năm năm mài đủng quần ở bậc tiểu học. Bây giờ gia đình dời về Huế, tôi đã lên học lớp Đệ Thất. Anh Thụ trưởng nam, từ khi có vợ, anh không biết đến gia đình cha mẹ em út. Anh ở bên nhà vợ, như chó chui gầm chạn và chịu mọi sự kềm tỏa bên họ vợ. Chỉ có anh Bảy lo nhiều việc cho mấy em. Vài ba lần anh Bảy Quyên làm hồ sơ thăng trật, nên anh đưa tiền lương về quá trễ. Ở nhà chị Hạc, anh Tuyên và tôi đói meo. Anh Tuyên mò vào nhà ông bác ruột, ở sau nhà thờ Cầu Kho. Tuyên hái trộm rau xà lách, rau dền, cải bẹ xanh, ớt, cà chua. Hoặc anh Tuyên xuống khu cầu Thanh Long hái trộm su su nhà ông Ngữ. Chuyện trộm cắp nầy tuyệt đối anh Bảy không biết. Tiền lương công chức của anh chi nặng cho cha mẹ khai hoang lập ấp, cho các em ăn học, anh chỉ chừa lại "tí đỉnh gọi là". Anh Quyên khuyên các em ráng chịu khổ một chút, khi anh lên chánh ngạch, lương sẽ khá hơn.
Mỗi lần ăn cơm với rau dền luộc, anh tươi cười, giã vờ khua động dao thớt ầm ỉ, anh cố nói to cho cô ca sĩ Ái Thanh cạnh nhà nghe, cô ngỡ là nhà mình ăn toàn cao lương mỹ vị:
- Ngày mai, em đừng mua thịt nữa nghe. Cứ ăn thịt gà, thịt vịt hoài. Ngán quá!
Mấy anh em bụm miệng dấu tiếng cười không cho thoát ra từ cổ họng khô cháy muối mè. Cô hàng xóm không hiểu vô tình hay cố ý, thường bưng cho mấy chị em, khi thì một thố bún bò giò heo. Khi bánh mì cà ry. Có lúc tô cháo banh canh, vân vân... Có lẽ cô không nghe mùi thơm nấu nướng bay qua nhà cô thì phải.
Anh Quyên mượn trong Ty cây súng bắn chim, sau khi đi học về, Tuyên lúi húi đúc chì thành đạn. Tôi ngồi gần bên, phụ anh chín Tuyên mấy việc vặt. Hai anh em ra đồng bắn chim, cò, le le, vịt trời. Chim trời giúp ba chị em có món ăn ngon lành. Từ đó anh Tuyên không đi ăn trộm nữa.
Anh Quyên bỏ làm việc một ngày, anh chu đáo lo cho em từ tập sách, cặp vở, áo dài áo ngắn, quần trắng guốc vông, nón lá bài thơ. Anh đưa em đến tận cổng trường. Lần đầu tiên tôi mặc áo dài tha thướt, mái tóc vừa chấm ngang vai, soi bóng mình trong gương, tôi thật ngỡ ngàng, lạ hoắt. Lòng tôi không kém niềm vui rộn ràng, được mặc áo mới. Mình đã là một nữ sinh lớp Đệ Thất rồi đây ha.
Có một lần tôi tập xe đạp chưa vững tay lái, bị té xuống cống. Thân thể bầm dập, gãy mất hai chiếc răng cửa, xấu xí quá, hết dám hé miệng cười duyên, tôi không lo, nhưng sợ vô cùng, vì chiếc xe đạp đầm trắng mới toanh của anh bị cong niềng, hư hại mấy nơi. Thấy em khiêng xe về, mặt mày xanh lè, không còn tí máu, anh Quyên cười to:
- Coi Tí Nị kià! Te tua vậy? Trầy trật ở đâu, đi xoa dầu đi.
Anh cười khà khà, cúi xuống xem xét chiếc xe rồi khiêng đi sữa. Lòng em dạt dào niềm yêu mến kính phục, đối với người anh thứ Bảy tên Trần Công Quyên, đã chịu thương chịu khó, tần tảo lo cho cả gia đình, không hề than vãn trách móc ai, bất cứ điều gì.
Nhân một mùa hè, khi về quê thăm cha mẹ, Tí Nị tôi mười hai tuổi vào ở tu viện: Không vì buồn, không vì chán. Chỉ vì tôi rất mến thích cuộc sống êm đềm trầm mặc an hoà, có thể ở đó tôi không bon chen với đời?
Tu viện Trí Bưu tại Quảng Trị bao bọc bởi bốn bức tường gạch xây cao, hai cánh cửa sắt màu xanh rêu to lớn, sát bốn bờ tường trồng tre, trúc, hầu che khuất những đôi mắt tò mò bên ngoài. Ba ngôi nhà xây lợp ngói đồ sộ, mỗi nhà mười hai căn rộng rãi, nối thành hình chữ U. Ba toà nhà to lớn và nguyện đường, bao bọc quanh sân gạch đỏ rất rộng, sân dùng đi dạo sau những buổi ăn, phơi luá, ngũ cốc linh tinh.
Phía trái là giếng lớn dùng nấu nướng. Phiá bên phải nguyện đường có hai hồ xây bằng gạch râm mát, chuyên nuôi cá phi, cá rô, cá chép, hầu cung cấp thức ăn cho dòng. Hồ sâu rộng thả đầy sen, cây súng lênh đênh trên mặt nước. Những cánh bèo lớn nhỏ li ti trôi chung quanh hòn non bộ, giữa hồ là tượng Đức Mẹ tuyệt đẹp ẩn trong hang đá thật lớn.
Bên cạnh hai ao cá nầy, là dãy nhà giải trí, phòng học, phòng ngủ của đệ tử. Trước cửa phòng học và sau lưng phòng ngủ có thêm hai ao lớn hơn hai hồ gạch men ở phía trước, hai ao nầy nuôi cá lóc, cá trê, lươn. Ao đầy rau muống, cần nước, hoa sen, hoa súng, lục bình. Lục bình là loại bèo cánh lá to như trầu bà, có bầu sữa xôm xốp mềm mềm, hoa tím nhạt nở từng chùm, lúc sống cũng như chết, nó trôi nổi trên mặt nước. Tôi tinh nghịch nhận chìm nó xuống nước, có lẽ vì bầu sữa và thân xốp, là chiếc phao gia bảo, loài bèo không biết khuất phục, khi tôi thả tay ra, nó ương ngạnh phóng mình trồi lên cao.
Chiều chưa sụp bóng, bốn ao hồ nầy là nơi chứa nhiều muỗi nhất. Từ mọi xó xỉnh muỗi bay ra kêu như ong, con nào bụng cũng đầy máu, vuốt một cái vào chân là tay mình, là nhơm nhớp, chân tay bị muỗi đốt ngứa rần, đệ tử luôn bị lấm tấm mụn đỏ do muỗi đốt.
Hai giếng tắm giặt ở sân sau, có mười phòng tắm và mười phòng vệ sinh. Về hướng tây là nhà bếp khá rộng, nhà ăn. Trại chăn nuôi gia cầm. Vườn trồng đủ các loại rau cải, đậu mè, bầu bí, vân vân… ở cuối góc vườn, cách khá xa tu viện. Một góc cuối tường là trung tâm dưỡng lão, nơi mà các dì phước “quá đát” (quá già) lão thành, hay mang bệnh trầm kha đang tịnh dưỡng. Đời sống nơi xó góc tu viện nầy, quả thật rất buồn bã, đơn độc. Họ yên ổn chờ ngày trở về chầu Chúa. Mỗi ngày đều có các nữ tu trực ban đến phục vụ cơm nước, thuốc men, làm vệ sinh.
Tôi tu như bức tượng đoan trang biết đi, không nhìn ngang liếc dọc, không nói leo trèo với cấp đàn chị, không thèo lẽo hay đùa cợt hô hố "nhố nhăng, nham nhở". Sống khắc khổ, nhẫn nhục, ép mình hy sinh. Đức vâng lời là điều tiên quyết. Giúp đỡ qúy mến mọi người giống nhau trong tình yêu Chúa, và thương người. Không bầu bạn kết thân riêng với bất kỳ ai. Không được rù rì nói chuyện khi chỉ có hai người.
Dòng không ghi một nguyên tắc quy luật rõ rệt, mãi sau nầy khi gần “ra trường”, tôi mới biết là: Luật dòng tu cần có ba điều cốt lõi: Vâng Lời. Trong Sạch. Khó Nghèo. Nếu ai phạm tội vài ba lần, họ tỏ ý không sửa đổi, là bà dòng cho về, như đạp cứt là phải chặt chân. Người lớn là các chị trên mười tám tuổi (soeur) làm công việc riêng của từng nhóm: Người lo dạy học, đi may, đi dệt cửi, đi chợ nấu ăn, làm vườn. Đệ tử nhỏ lí tí chúng tôi mới vào dòng, hầu hết đều đi học. Đa số thì giờ là tất cả mọi người trong dòng xem lễ mỗi sáng, chiều, tối, lo đọc kinh, hội họp khuyên bảo nhau, cầu nguyện. Làm việc. Hy sinh và hãm mình.
Mỗi ngày có một nhóm nữ tu thay đổi luân phiên trực ban, để lo việc: Tiếp tân trên phòng khách: Thì cần một soeur và một đệ tử. Dưới phòng ẩm thực lo nấu bếp gồm: Hai bà “soeur hậu cần chính”, lo đi chợ mua sắm mỗi ngày. Ở nhà có thêm một soeur hoả đầu quân quản gia, một chị trong phòng tập, một chị trong phòng thử, và năm nữ đệ tử loi choi. Vị chi là mười hai người đều luân phiên dậy sớm từ lúc tửng bưng bốn giờ sáng. Cúi đầu làm việc nhẹ việc nặng, cho tới khi tắt đèn chưa đi ngủ. Người lo việc nấu cơm, nấu nước, làm hầu hết công việc cần thiết. Năm đệ tử nhỏ được phân chia các việc lặt vặt phụ, ai sai bảo gì, thì họ làm cái đó như: Lặt rửa rau, xắt bầu, bí. Họ múc nước từ hai cái giếng sâu, khiêng đi đổ đầy vào các chum vại to tướng. Dọn dĩa, dao, nĩa lên bàn ăn. Múc sẵn những chén nước mắm hay rau dưa, cà muối đặt trên bàn. Tôi là “lính mới”, lớ ngớ không biết làm việc, thì đã có mấy chị vào tu trước “kềm kẹp” hướng dẫn chu đáo.
Cứ mỗi lần nghe chuông hiệu rung lên, là tất cả nữ dòng từ các phòng, tụ tập trước hành lang, họ xếp hàng im lặng từ từ đi vào nhà ăn. Trước cửa phòng, có đặt hai cái lọ to. Một lọ đựng đầy hột đậu rằn. Một lọ trống không. Mỗi người bốc một hột đậu rằn, bỏ qua bên lọ trống không kia.
Bình thường mỗi ngày ba bữa, nhà dòng cho tất cả ăn uống thanh đạm, buổi sáng khi ăn cháo với trứng vịt muối, khi ăn khoai, sắn, hoặc ăn bánh mì. Buổi trưa, buổi tối đều ăn cơm no đủ. Có ba món chính là: Canh, thức ăn mặn, rau xào, hoặc luộc. Kèm thêm một chén mắm nêm, và dĩa dưa, dĩa cà, là không lúc nào quên.
Nghe chuông hiệu nhỏ trong phòng ăn của bà Nhất rung, nữ tu đứng tại chỗ ấn định đọc kinh, rồi mọi người tuần tự ngồi xuống bàn. Trong lúc ăn cơm, có một nữ tu trực phòng ngồi trên ghế, có bục gỗ cao, và cái bàn nhỏ để đọc kinh thánh. Sau khi ăn uống xong, bà Nhất lại rung chuông hiệu, nữ tu đứng dậy đọc kinh cám ơn. Lúc đó, cả dòng ra khỏi phòng ăn, được phép nói chuyện mười lăm phút.
Tất cả đồ dùng như dao, dĩa, nĩa, tô múc canh, (đều bằng nhôm) có một nhóm mười lăm nữ đệ tự trực phòng ăn của ngày hôm đó, lo thu dọn, rửa ráy sạch sẽ, và úp lên các khuôn kệ, ngay cạnh bồn rửa chén. Xong công việc, ai lo việc người ấy, trở về với bổn phận của mình.
Khi có các lễ kỷ niệm như: Ngày thành lập Dòng, Noel, Phục-sinh, Tết Nguyên Đán, Trung Thu, hay lễ mừng vua chúa như Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, hay các thánh bổn mạng, sinh nhật “các bà lớn” quản trị dòng, thì bà Nhất, bà Nhì cho giết trâu, khi thì giết bò, hay heo, gà, vịt, cho mọi người ăn đã đời. Còn dư thịt bò, thịt heo, thì lớp ướp muối gừng sả, mè trắng, ớt bột, rồi đem sấy khô. Lớp ngâm nước mắm đường, chờ mùa đông tháng giá lụt lội, không có chợ đò, lại đem ra dùng.
Cuối tháng Dòng chiếu những phim hay, đa số là phim lịch sử danh nhân trong đạo. Coi văn nghệ do chị em đệ tử tự biên tự diễn "thoái mái". Nói chung cuộc sống trong tu viện thật êm đềm. Mỗi buổi tối khi học xong lúc chín giờ rưỡi, mọi người nghe chuông hiệu lớn phát xuất tại phòng trực, là tất cả nữ tu chuẩn bị thu xếp học cụ cất vào ngăn tủ.
Từ giờ phút nầy tất cả dòng tuyệt đối im lặng, chỉ nghe chuông hiệu. Khi các đệ tử họp mặt đông đủ tại phòng ngủ, soeur quản lý rung cái chuông nhỏ của bà. Các đệ tử quỳ xuống nền gạch đọc kinh. Cuối kinh là phần ăn năn tội, mọi người giăng tay ra, đọc tiếp những kinh sám hối và tự đấm vào ngực mình. Chuông rung lần thứ ba, là đệ tử đi làm vệ sinh cá nhân, thay quần áo ngủ và lên giường lúc mười giờ đúng.
Vào những chiều thứ bảy, ngày chủ nhật, hay các ngày lễ nghỉ ở nhà, không biết làm gì cho hết ngày, bà quản gia hoả đầu quân thường kêu các chị em trong nhà thử, nhà tập, xuống kho lương thực, bưng lúa trong vựa ra xay, giã, sàng sảy. Có hai cái cối giã gạo đạp chân, và ba cái cối dùng chày tay. Đệ tử chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm mười người chuyên lo việc giả gạo. Hai chị nhà tập, hai chị nhà thử thì sàng sảy trấu, cám, thành gạo.
Làm việc nhịp nhàng xong thứ nào ra thứ đó rồi, các đệ tử banh bao bố ra mà trút vào. Trấu thì đem vào nhà bếp. Tấm, cám, đem xuống khu chuồng heo, khu gia súc. Gạo đem lên nhà kho chứa thực phẩm khô. Những giờ nầy thì tự do, ai muốn hát hò, kể chuyện, nói chuyện, đều được như ý. Làm việc cực nhọc, nhưng rất vui và nhờ có số đông, mỗi người góp một chân một tay, nên thoáng chốc mọi công việc đều xong ngay.
Có nhiều lần giã ớt bột thì thật là gay. Dù nữ dòng dùng khăn để bịt mặt, che miệng, nhưng ai nấy đều hách xì nhảy mũi, nước mắt chảy ròng ròng, ho sặc sụa. Cả thân thể cay và nóng như phải bỏng. Tôi cũng như các nữ tu đều rất sợ giả món ớt bột nầy.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp. chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#208 Posted : Monday, June 9, 2008 8:40:32 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Đường Thiên Lý

Phần Thứ Nhất

Chương 3


CHỊU ĐÈN






Thơ vào tu trước tôi hai năm. Tôi sợ, bực mình và ghét Thơ, vì Thơ ưa ăn hiếp tôi hoài, như Dung ngày xưa ăn hiếp Lê. Thơ gọi tôi là "con khỉ đen". Vã lại, tôi đen nhất sau Thơ thật. Thổ âm của Thơ nghe rất lạ, nên tôi không mấy hiểu Thơ muốn nói gì với mình:
- Ưng đập chắt với tui khôn? Ra ngoài cươi, thì dì quạn lý nỏ chộ mô.
Hoặc là Thơ hằn học:
- Ngó chi? Tui có lẻ củi săn, lẻ nè, tui chấp chị cấy rạ nì. Tui ưng cắm một cấy nơi trắp bả chị ghê hè.
Thấy “nhỏ tôi” im lặng, Thơ tìm cách gây chuyện khác:
- Có ưng tui chọi trại ội một cấy, lủng cấy trốt, nỏ thậy cái trọ mô bi chừ khôn? Có thửa tui nọi chi với chị cại chi khôn. Hỉ? Răn mà tui ghẹt chị chi lạ rứa hè. Con khị đen.
Ngẩn ngơ không hiểu bạn nói gì, tôi hỏi nhỏ mấy người ngồi gần bên:
- Chị Thơ nói em cái gì vậy? Mấy chị!?
Các bạn ngồi học gần tôi, bò lăn ra cười. Họ giải thích câu Thơ đã nói. Họ cũng ưa trêu chọc, lêu lêu âm ngữ giọng Đà Lạt của tôi mà. Mặt tôi bừng đỏ vì giận. Cũng may nhiều lần Thơ nói tiếng "Tây đen", tôi không hiểu, nên chẳng có gì gay cấn đáng tiếc xảy ra.
Thời gian dài một năm trôi qua, áo quần giặt hoài cũ đi, da dẽ trắng trẻo hồng hào, biến tôi thành cô gái xinh đẹp nhất trong dòng, thì Thơ đã… “chịu đèn” tình cảm Thơ thay đổi. Ba tuần qua, mỗi chiều tôi đi học trên Tỉnh về, thấy áo quần dơ của mình, ai đã giặt giũ và xếp gọn ở trên góc giường. Tôi ngạc nhiên không hiểu ai đã làm? Đồ đạc của ai, người đó tự lo. Chỉ lúc nào ốm đau nặng, cực chặng đã, mình mới nhờ chị em giúp. Sự bất bình thường nầy, khiến tôi cảm thấy bất an, phân vân, lo lắng và ray rứt bực dọc.
Một hôm, trong phòng học, bỗng dưng có người tinh nghịch tắt điện. Đệ tử sợ ma, kêu la, nhốn nháo, họ xô đẩy nhau té ngã uỳnh uỵch. Bỗng có một người ôm tôi, hôn vào má tôi mấy cái, rồi buông ra ngay. Con nhỏ nào đó vụt chạy đi ra ngoài sân cùng bạn. Tôi lo sợ kinh khủng, trống ngực nhảy điên cuồng, toát mồ hôi, rồi bừng nóng. Tôi hét to, run rẩy xô ghế, cũng chạy vụt ra ngoài đêm tối. Ai trêu ghẹo cái kiểu gì ác ôn vậy không biết?
Dù Thơ lớn hơn tôi ba tuổi, quê nhà ba má là dân Đông Hà, mà Thơ ở tít “trong bưng”, không có trường học, nên khi vào tu, Thơ học tại trong nhà dòng nầy, học lớp Nhì. Trong dòng chỉ có bậc tiểu học. Tôi học lớp Đệ Lục, phải đi học ở trên thành phố Quảng Trị, tại trường đạo Phước Môn.
Hai tuần sau tôi bị cúm, không đi học tôi nằm nghỉ ở nhà. Phòng ngủ của đệ tử có bảy mươi giường chiếc, phủ đều sheet trắng gọn gàng sạch sẽ. Đắp mền lên tận cổ, nhức đầu như búa bổ, cổ họng khô đắng, tôi cảm thấy thật buồn, nằm thiêm thiếp trên giường.
Ngoài muôn ngàn chim én làm tổ dưới mái ngói, ríu rít đủ mọi giọng hót líu lo trầm bổng liên tục. Đàn chim tự do sống thoải mái vùng vẫy ngoài trời, tiếng hót thật truyền cảm. Nếu chim bị nhốt trong lồng, thì tự nhiên sẽ ủ rũ, đôi khi tiếng hót thật não nề, như cặp chim sáo treo trước cửa văn phòng tu viện vậy. Tiếng dệt cửi quay tơ, tiếng đọc kinh đều đều văng vẵng ở phòng bên cạnh, thì phòng ngủ hoàn toàn im lặng. Không gian tĩnh mịch và thời gian hầu như lắng đọng im lắng, mênh mông, u buồn trải dài ra bất tận.
Luật dòng cấm tuyệt đối: Không cho phép một đệ tử nào vào phòng ngủ -nếu không đúng giờ nghỉ trưa, hoặc vào giờ ngủ tối- Choàng mở mắt giật mình, lặng người, tôi không thốt nên lời, hồn vía bay lên mây, khi Thơ len lén vào phòng, Thơ đi nhẹ tới giường, đến nỗi tôi không hề hay biết. Thơ bạo dạn ôm chầm lấy tôi, Thơ hôn tới tấp vào mặt mũi tôi, rồi cô vụt chạy biến ra ngoài.
Một lần nữa sau đó ít lâu, tôi lui cui xếp dọn áo quần trong phòng treo áo, Thơ đi ngang qua, cô ta ôm hôn tôi thật nhanh, rồi lẫn đi ra ngoài. Tôi bàng hoàng lo sợ không dám la, sợ người khác biết thì chết. Tôi cũng biết điều nầy xấu xa và tội lỗi, do không giữ trong sạch, dị hợm vô duyên lắm! Hình ảnh Thơ lúc ẩn lúc hiện, bắt tôi suy nghĩ nhức nhối buồn phiền. Thú thật là tôi rất sợ "chuyện tình éo le bậy bạ” đổ bể. Tôi sợ bị đuổi ra khỏi dòng, thì xấu hổ mất mặt lắm. Nhưng tôi không biết làm sao xa lánh lẫn trốn Thơ. Tôi không dám “thố lộ nỗi lòng éo le” với ai. Tôi thật sợ mọi người chung quanh, chỉ riêng ôm mối lo trong lòng.
Thấy tôi không “đáp tình” Thơ bực tức, làm đủ mọi cách, cho tôi chú ý đến mình, Thơ chọc quê:
- Em lậy cại rạ chặt cậy cụi khô, thui vô bệp lã, náng vô tóc chị, chị khôn còn tóc thì chị sẹ ốt dột, hỗ ngươi, chợ chi mà lo hè.
Tôi nhìn Thơ cười ra nước mắt. Một buổi trưa mùa hạ nhiều nắng oi nòng, các chị: Sen, Bình, Tịnh, Quy, Cúc, Hồng, tôi, xin phép chị (soeur hiệu trưởng Dưỡng) đi chụp ảnh làm thẻ học sinh. Sau khi chụp hình riêng xong, chúng tôi trẻ người non dạ nghe bà chủ tiệm hình dụ dỗ ngon ngọt, và cũng thật sự là chúng tôi không biết luật dòng nghiêm cấm.
Chúng tôi chụp chung một tấm ảnh mặc áo dòng, nhưng chúng tôi xỏa tóc dài ra, thay vì đệ tử phải bịt khăn trắng trên đầu, kẹp tóc sau gáy. Tục lệ bịt một cái khăn trắng nhỏ trên đầu nầy, là để làm gì? Tượng trưng cho cái gì? Thì thú thật là tất cả đệ tử không thể hiểu, để làm gì? Phân biệt điều chi?
Dì quản lý có quyền lục lọi đồ đạt đệ tử, dì đã bắt gặp tấm hình chụp chung nầy. Thế là dòng liệt chúng tôi vào danh sách "kẻ có tội", họ cho chúng tôi ra rìa ở một xó góc. Bây giờ những người còn được tu ở đây, không có quyền lai vãng nhìn ngó, hay chuyện trò với “kẻ phạm tội”. Làm như chúng tôi là ma qủy hiện hồn, hay đang mắc phải bịnh thống phong cùi hủi, phải chia cách biệt lập ra một nơi gớm ghiết.
Suốt ba ngày hai đêm, tôi núp lén trong một góc phòng chơi, chờ thân nhân đến đón về. Tôi không được đi xem lễ chung, tôi xấu hổ không dám ngẩng mặt nhìn ai. Một chị phước nhà thử, mặc áo quần dài giống như đệ tử, nhưng đã đội cái lúp vải trắng trên đầu, đầu cạo trọc. Các bà soeur đã khấn hứa thì đội lúp vải đen.
Chị nữ tu Hạnh bưng đến mâm cơm sơ sài và bình nước lọc, chị để trên bàn. Rồi chị mỉm cười lặng lẽ bỏ đi. Không ai dám nói với ai lời nào. Vì dòng cấm, chứ không phải chị Hạnh không có chuyện cần trao đổi, hay khuyên lơn vỗ về an ủi những kẻ “không trong sạch” như chúng tôi.
Bị gọi lên phòng họp sau chót, tôi qùy lết dưới chân hai bà Nhất, bà Nhì mập ú, họ phơi hai cái đầu trọc ra. (Trong nữ dòng khi đã vào lớp tập, lớp thử, trở thành “dì phước” (soeur) thì các bà, các chị, đều cạo đầu tóc trọc lóc, ở trong phòng ngủ, họ có quyền cỡi bỏ khăn đội đầu, khi trời nóng hầm hập thế nầy). Họ là hai người quyền cao chức trọng trong dòng, có uy quyền “sinh sát, tha phạt, hay tưởng thưởng” nữ tu. Tất cả mọi người ở đây sợ họ xép re!
Tôi quỳ dưới nền gạch, đặt hai bàn tay bé xíu lên hai bắp đùi to bự của bà Nhất, bà Nhì. Họ đang an toạ trên chiếc ghế dựa bọc nệm. Tôi năn nỉ khóc lóc, van xin “hai bà” tha tội cho “con” ở lại tu. Vì thật tình em mười ba tuổi ao ước thích thành nữ tu trong sáng.
Bà Nhất nói:
- Con tạm về lánh nạn ít tháng, rồi bà sẽ tìm cách cho con vô dòng tu lại. Quả thật con quá dại khờ. Theo bà nghĩ thì con có lòng ước muốn đi tu lắm. Nhưng nếu bà đuổi các chị em kia về, mà không cho con đi về luôn, thì không công bằng. Nên buộc lòng bà phải cho con về trú tạm ở phần sở An Đôn. Còn chờ Bề trên Giám Tỉnh là cha Lê Hữu Huệ, chánh xứ Trí Bưu, và là bề trên hạt Đinh Cát, quyết định sau. Con về đi.
Tôi khóc rống lên hụ hụ hụ… như trời tru đất diệt tận thế tới nơi. Hai bà nhìn nhau, to nhỏ điều gì, và lắc đầu. Lau nước mắt, tôi về lại xó cũ, tôi càng ngạc nhiên thấy Thơ đã có mặt. Thơ đang chuẩn bị xếp hành trang về nhà.
Tôi ở phần sở An Đôn được ba tháng. Mỗi tuần tôi có thể gặp gia đình ba má, anh chị Uyển, chị Hạt và anh Tuyên ở nhà thờ. Họ đều đi xem lễ tại đây. Hai anh chị Hạt và Tuyên thường “quyến rũ rù quến” tôi:
- Thôi em ạ, như vậy là “cái số” em không được Chúa chọn. Đi về nhà mình ở cho rồi. Chớ tội gì đi tu cho khổ rứa không biết.
- Ở nhà sung sướng, cha mẹ giàu có, của ăn của để không hết. Em ở đây quá buồn tủi, luôn ăn uống kham khổ. Coi ốm o xanh xao vàng vọt kìa. Về nhà ở đi.
Thế là ngẫm nghĩ thân phận buồn thảm “quần vải áo sô” hèn mọn, mà tủi. Tôi nghe lời anh chị nói, thấm thía bùi tai và chí lý, tôi lên lại dòng chính nơi đã từng “tu thân”, tôi xách va ly dọn dẹp hết các thứ, về nhà ba má và anh chị của tôi. Nhà ba má ở giữa hai ngọn đồi Cấm, tại làng Thượng Phước.


_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp. chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du

Ái Ưu Du
#209 Posted : Tuesday, June 24, 2008 1:43:59 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Đường Thiên Lý

Phần Thứ Nhất

Chương 4


OAN GIA





*.- Chị ba Lan sanh năm 1924 - chị có chồng tên Thanh. Họ có bốn đứa con, ba gái một trai (không tính đã chết một đứa con trai đầu lòng). Có nhiều chuyện thật đau lòng khôn tả xiết về anh chị Thanh & Lan, dù trăm ngàn lần đại gia đình tôi đã gia ân xí xóa tội lỗi của họ. Thì chúng tôi vẫn chán họ kinh khủng! Không thể nào tả nỗi sự “khốn nạn” kể từ khi chị rước “đức ông chồng vô gia cư” về nhà cha mẹ.
Mặc dù chị Lan đã có vị hôn phu là anh Lê văn Tá, anh có tư cách, lịch sự và học thức cao. Anh Tá nhập ngũ, đóng quân ở miệt Chợ Quán, vùng dã ngoại. Thỉnh thoảng anh Tá mới về thăm chị Lan. Lần về thăm cuối cùng, anh Tá thất vọng xiết bao, khi chị ba Lan đã ôm cầm sang thuyền khác.
Hai anh chị Thanh Lan (anh ta còn có tên tự là Được) a tòng nhau “phá nhà”, phá của cha mẹ tôi xấc bất xang bang. Cách đối xử của họ với đại gia đình tôi, không bút mực thật sự nào tả hết. Tôi xin đơn cử ra đây vài ba chuyện nhỏ, trong mươi lăm chuyện ác ôn kinh khủng khác:
Vào thời 1942 đói kém, do quyền “sinh sát” trong tay Nhật, thế mà ba má tôi có năm ba tạ gạo trong nhà. Mỗi ngày hai lần, má tôi lo nấu nồi cháo to bằng vòng tay hai người ôm. Buổi xế trưa má lại đánh rửa ba cái nồi, má lo nấu cháo cho buổi tối. Má rang muối mè, làm tương chao. Khi má làm mắm thính, mắm nêm, cho những người cùng đinh, đói khát, nghèo khó, không nhà cửa, ở Đà Lạt ăn tạm qua ngày. Họ đã ngồi chờ ăn trước sân nhà tôi, đông thật đông. Ăn mỗi người một chén cháo xong, mỗi gia đình có lon gạo, đem về nấu cháo húp qua ngày hôm sau.
Dạo năm 1943 mặc dù đa số thiên hạ đói kém, nhưng nhờ ba tôi biết chút chút tiếng Nhật, nên ông quan Nhật cho ba tôi vào coi sóc đàn ngựa, và quét dọn kho lương thực tại thị xã Đà Lạt. Ba làm công cho Nhật liêm chính, cần cù, siêng năng, lại biết tiếng Nhật. Ba không dám gian tham một đồng, một xu. Vã chăng ba sợ họ bắt được người ăn cắp, là bị chặt tay, như bạn của ba đã bị.
Khi ấy ông Tự đói quá, ông vào chuồng ngựa ăn vụng cháo đậu xanh. Nhật sai ông Tự nấu cháo đậu xanh cho bầy ngựa ăn, để ngựa có sức khỏe chạy đua, cho quan dân Nhật xem. Mấy lần ông Tự bị chủ bắt được. Không ngần ngại tên Nhật ác ôn tụ họp dân chúng lại xem. Tên Nhật mổ ruột con ngựa ra, bắt trói ông Tự, nhét vào bụng ngựa, may lại, rồi chôn cả ngựa và người. Dã man vô cùng. Kinh khủng hết sức. Nên cư dân dù đói rã ruột, vẫn không dám làm bậy.
Sớm ba đi tối ba về nhà, lo làm ăn chăm chỉ siêng năng. Khi họ biết ba giỏi về lương y, họ càng trọng dụng ba tôi, quan đầu chủ người Nhật tin và thương mến ba tôi. Tuy vậy, không phải là họ triệt để tin tưởng, và cất nhắc ba tôi vào làm trong phòng thuốc đâu. Mà họ chỉ cho ba tôi vào quét dọn trong văn phòng, kho gạo, hay săn sóc thuốc men cho bầy ngựa mà thôi. Cứ mỗi ngày, sau khi ba tôi làm việc xong, ông quan đầu chủ cho ba tôi một kí lô gạo, đậu, bắp, một con cá khô. Ông ta nói:
- Hãy mang về cho vợ con đông đúc ăn đi.
Ba tôi cám ơn ông ta, mang những thứ đó về nhà, cho gia đình tích lũy lương thực. Có tiền lương tháng của ba, má tôi nhờ ba xin giấy phép, cho má tự do ra vào khỏi vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ Đà Lạt. Một tuần hai lần, má ngồi xe lửa đi về các vùng biển buôn cá, mắm, muối, đồ khô, má buôn về bỏ mối cho bạn hàng, hay bán lẽ tại các phiên chợ.
Lâu ngày, được nhiều tạ gạo ông quan Nhật đầu Tỉnh cho, ba má cất vào kho lương thực của nhà. Ba má đi làm khỏi thì phân định cho chị Lan, (khi ấy chị đã khá lớn nhưng vẫn ở nhà nhông nhống, chị lười biếng lắm, không theo má bán buôn gì). Còn các chị em kế của chị, thì đều đi làm việc xa.
Ở nhà, mỗi ngày chị Lan chỉ nấu hai nồi cháo trắng đặc, rất to, (buổi sáng một nồi, buổi chiều một nồi) để bố thí cho những người nghèo khổ đói khát, vào xin ăn đỡ lòng. Thuở ấy một hột gạo đúng là hạt ngọc Trời ban. Bây giờ, (chị Cả và anh Hai đã chết) ở nhà chỉ có chị Lan là “chị Hai” đầy đủ quyền uy, chị là “xếp lớn” của bầy em nhỏ “xép re” rồi. Chị tha hồ cùng anh bồ thao túng lộng hành.
- Buồn buồn, chị gọi một gánh phở rong đến đứng trước sân nhà, anh chị ăn xã láng từ sáng tới chiều, bao thầu hết. Ông bán phở dạo cứ vài ba ngày đến thăm anh chị Thanh Lan một lần, ông bán phở không lấy tiền, chỉ “ngây ngô” đổi lấy một bịch gạo to tướng.
Chị Lan cho mấy đứa em nhỏ ăn một tô phở buổi sáng, một tô phở buổi tối. Còn bao nhiêu phở, anh chị bao cho bọn trai trẻ (bạn của anh Thanh ăn). Mấy đứa em, hôm nào lỡ dại về khoe với ba má, thì hôm sau khi ba má đi làm khỏi, ở nhà thế nào các em cũng bị chị cho ăn đòn xứng đáng, vì cái tội thèo lẻo!
- Trong chuồng sau nhà, má nuôi heo, gà, vịt để bán. Chị Lan ở nhà cứ rủ rê Thanh tới, thế là hai anh chị làm thịt gà mái tơ, thịt vịt bầu ăn với nhau. Những lần sau thì anh Quy, anh Tuyên, chị Hạc, và tôi (lúc đó rất bé nhỏ), thì ra rìa. Gà vịt mất, ba má có hỏi tới, thì chị Lan nói dối là chồn cáo ngoài rừng vô bắt ăn hết. Ba má tôi tin, vì thời đó có chồn, cáo, cọp, về ngồi quanh nhà rình rập, tru hú là thường.
- Không còn gà vịt, chị dám cả gan kêu anh Thanh vô nhà làm cả con heo thịt còn non. Bầy heo mười hai con ủn ỉn, mà ngày mưa tháng gió má khổ công đi từng trại lính, gánh nước cơm hổ lốn đem về, đêm đêm má ra vườn mò hái rau lang, má thức khuya vằm nấu cho bầy heo ăn. Thì, cứ năm ba ngày mất toi một con không chứng cớ tang tích. Trong nhà, các em đều biết chuyện, nhưng không ai dám hé môi, vì chị đánh đòn thì như hung thần tra tấn. Các em đều sợ quá!
Dĩ nhiên là cả con heo thịt đang độ vừa lớn, ăn làm sao hết, nên chị Lan sai anh Quy trèo lên cây thông, có nhánh chạc ba, anh Quy thòng dây dừa xuống. Dưới nầy Thanh cột nồi thịt to, để vào cái thúng gióng, anh Quy treo lên, (khi thì nguyên cả nồi thịt luộc, thịt kho, thịt quay), lên trên cây thông.
Chờ ba má đi khỏi, anh Quy lại phải trèo lên, thòng dây vô thúng gióng bỏ xuống. Thế là anh chị Thanh Lan nhà ta cứ việc… nhậu! Có một lần hai anh chị sai em Quy tha nửa con heo lên cây, vì heo nặng và trời nhá nhem tối, nên anh Quy hỏng chân, bị té gãy tay.
Tối, ba tôi đi làm về, thấy con trai bị băng bó tay, ba lấy roi mây ra, bắt mấy đứa nhỏ khai. Anh Tuyên sợ bị đòn, nên khai thật, anh đem ba đi chỉ chỗ treo gióng thịt heo. Ba đánh chị Lan một trận nên thân.
- Lại hết heo, chị lan nhừ đòn, ấy vậy mà chị không sợ. Chị nghe anh Thanh xíu dại, quay qua bắt chó của nhà làm thịt ăn, vài ba ngày làm thịt một con.Bây giờ ở nhà có sinh ra trộm, cướp cũng dễ dàng, có tiếng chó sủa nữa đâu mà trộm sợ bị phát giác! Hết chó của nhà, vài ba ngày họ đi đánh bẫy chó hàng xóm. Kể cả Thanh Lan dám bẫy bắt chó của nhà ông quan Nhật nữa! Thật là gan cùng mình, lì hết biết. Điếc, đói hay thèm thịt, anh Thanh làm tuốt hết. Không sợ súng mà!?
Anh chị Thanh Lan bắt các em nhỏ vô rừng nhặt sẵn củi khô đem về chất đống sau bìa rừng, cạnh nhà. Sai các em đứa đi xách nước giếng, đứa đem dao thớt, son nồi ra. Cứ thế mà anh chị thịt đủ mọi thứ con vật từ hai chân, đến bốn chân. Thậm chí con vật không có chân nào, như con rắn, cũng không thể chui trốn vào hang hốc thoát thân.
Ba giận dữ đánh chị Lan một trận nên thân. Ba cấm chị không được hành hạ em út. Ba tôi nói:
- Mi có biết là cái tội ăn cắp, ăn trộm của hắn, (Nhật) nó mà bắt được, hắn thương mi, thì mi sẽ bị chặt tay, là nhẹ đó nghe chưa? Mi không nhớ là hồi năm ngoái có người ăn cắp con ngựa quí của hắn. Bị phát giác, thì hắn cho đội cẩm vệ tới bắt thằng ăn cắp, và khiêng con ngựa ra ngoài chợ, hắn mỗ bụng con ngựa, nhéc thằng ăn trộm bị trói tay chân vô bụng con ngựa, và may bụng con ngựa lại. Rồi đem đi cả người ngựa đi chôn. Chuyện rung động đó, mi có nhớ không, mà cả gan dám đi ăn cắp, ăn trộm hỉ?
Hôm sau, chờ ba đi làm vắng, chị Lan lôi Tuyên ra bìa rừng, chị cột em vào gốc cây thông, rồi bắt Quy trùm cái mền làm con cọp, để hù doạ em. Khiến Tuyên sợ quá mà hét đựng lên và ngất xỉu.
Sau nầy, khi chị Lan đã chính thức lấy anh Thanh, thì có quá nhiều chuyện động trời hơn nữa. Tuy anh chị đã ra ở riêng, nhưng họ luôn về nhà ba má tôi ở dưới Ga, họ quậy phá kinh khủng! Có một lần trong nhà vắng người, anh chị Lan ở bên khu Địa Dư, qua nhà ba má tôi ở chơi mấy ngày.
Buổi tối đầu tiên, anh Thanh mò vào trong phòng riêng của má và tôi ngủ, anh nằm trên giường nói chuyện với tôi (tôi mới sáu tuổi, có trí khôn và tôi nhớ rõ). Sau đó, anh giả vờ ốm sốt, nằm trùm anh mền rên hừ hừ. Họ ở lì trong phòng với hai đứa con ngủ lại đêm. Họ không chịu qua ngủ bên phòng khách, mặc dù nhà chúng tôi ở trong một villa rất rộng. Ba và anh Tuyên ngủ chung một phòng. Anh Thụ, Quy một phòng, còn dư ba phòng khách bỏ trống. Buộc lòng má, chị Hạnh, và tôi phải “dời đô” qua ngủ bên phòng khách trên lầu.
Ngay hôm sau, vừa tửng bưng sáng, anh chị Thanh Lan cuốn gói đi về, lúc nào không thấy tăm hơi. Qua tuần lễ đó, má lấy chìa khoá mở tủ, định lấy tiền đưa ba đi trả tiền thợ làm trại cưa cây, thì má kêu thất thanh, bật ngửa ra, mặt má xanh như tàu lá. Má ôm tôi vào lòng khóc ngất! (Từ đó má tôi bị chứng bệnh đau tim, ưa ngất xỉu, má bị té bể đầu chảy máu là thường).
Vì đằng sau lưng tủ đã bị thằng con rể ác ôn cạy tấm ván ra, và quơ hết tất cả tiền bạc. Nguyên một hộp vàng lá mấy chục lượng, kể cả vòng xuyến, dây chuyền, bông tai, nhẫn, của má, chị Hạc, tôi, đều mất toi với mười chín ngàn đồng bạc tiền đông dương!
Đúng là cõng rắn cắn gà nhà! Gia đình tôi suy sụp tan nát từ bấy giờ! Ấy thế mà sau một năm họ mất biệt, khuất dạng chẳng hề bước chân vô nhà, anh chị Thanh Lan không thèm ghé qua nhà ba má. Mặc dù nhà họ và nhà chúng tôi chỉ cách nhau một con suối và nửa quả đồi thưa.
Thì đùng một cái hôm nay, họ lại tay bồng tay bế ôm nhau về nhà “thăm” ba má và anh chị em tôi. Họ “vờ” nói đủ thứ chuyện làm quà. Chúng tôi nhìn nhau chưng hửng! Có thể nói là chúng tôi ngạc nhiên hơn vui mừng gặp lại anh chị và các cháu. Chúng tôi lo sợ không biết điềm gì sẽ xảy ra nữa đây. Thì quả đúng những điều còn kinh khủng hơn thế thật.
Anh Thanh trắng trẻo to con mập mạp, tóc quăn gợn sóng, mũi cao, tuy miệng hơi loa, nhưng không đến nỗi nào xấu. Duy có điều anh là “nhất voi một ngà, nhì người ta một mắt”. Anh bị khuyết tật đó, có lẽ anh đâm ra dữ dằn hung ác ngầm. Nhưng lúc nào anh cũng khôn ngoan tỏ vẻ nhút nhát hiền lành kiễu gượng gập e dè nhút nhát kiễu bồ câu. Anh buông lời cợt nhã và bốc hốt tứ tung! Phải nói Thanh có bản tính dê xồm, không buông tha ai, dù đã có vợ con. Ấy thế mà từ mấy cô bà hàng xóm lân cận, đến gái bán quán chuyên ăn sương. Thậm chí anh còn “khoèo khoẹt” cả mấy cô em vợ xinh đẹp!
Các chị em kế chị Lan của tôi khinh bỉ Thanh, chửi Thanh như tát vô mặt, đến tôi là đứa con nít mà cũng phải nhục. Tôi (lúc chớm lớn khôn) có nhiều lần tôi xông lại bên anh rể, ngắt nhéo khi Thanh vờ vịt quơ tay đụng phải cặp vú mớm mơn mởn của chị Hạc. Tôi “dám hỗn”! Tôi hung dữ vừa la mắng vừa đấm, vừa cú đầu, ngắt nhéo anh ta. Ấy thế mà Thanh ù lì cười hề hề cúi đầu “chịu đấm ăn xôi??” Tôi rất xấu hổ vì có “tên anh rể” nhập du vào gia đình oan gia nầy. Thật ra, tuyệt nhiên Thanh không bao giờ có xôi thừa đậu cháy mà ăn đâu!
Có lẽ chương nầy, tôi chỉ kể rất vắn tắt vài ba tội oan gia, nói sơ sơ đến “anh chị Thanh, Lan” không thôi, tưởng cũng dài lắm rồi. Và, tôi không àon mặt mũi nào để ghi lại hết những điều ác ôn côn đồ, từ người được mang tên rất đẹp là Dương Kim Thanh. Mà mỗi lần chỉ cần nhớ lại, là tôi sợ rợn nổi gai ốc trâu.
Oan gia! Ơi! Nghiệt ngã oan gia.

_ * _


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#210 Posted : Tuesday, July 15, 2008 9:12:28 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0

Đường Thiên Lý

Phần Thứ Nhất

Chương 5


Anh Trung, Chị Năm Uyển






Chị Uyển nấu ăn ngon cỡ nhà hàng Hồng Kông. Tính tình chị nhẫn nha, ung dung từ tốn điềm đạm, hoá ra thành chậm chạp. Chị không nghiêm khắt như chị Kim. Duy có điều chị nói chuyện dai như đỉa. Một chuyện vui buồn nào, chị nhắc đi nhắc lại hoài. Tôi vui lây hoặc buồn lây vì chuyện của chị.
Chị Uyển luôn trách cha mẹ, đã nài ép duyên, khiến đời chị trôi nổi rày đây mai đó, khi chị lên voi lúc xuống chó. Bây giờ chị Uyển đang lên voi, vòng vàng xuyến nhẫn, chị đeo trên người năm bảy lượng, của chìm của tư không kể. Nhưng trách, thì chị vẫn cứ trách, chị vô cùng tiếc nuối về mối tình đầu:
Chị và anh Cư yêu nhau âm thầm kín đáo, không ai biết suốt bốn năm trời. Bỗng một hôm cha mẹ biết, nên ngăn cản chị Uyển quyết liệt. (Bởi vì, trước khi yêu chị Uyển, anh Cư đã đi hỏi vợ là chị Hồng. Anh Cư làm rể với gia đình cậu ruột, anh của mẹ tôi. Sau đó, cả gia đình cậu tôi từ hôn. Vì anh Cư rất cà tửng, cà chớn, bốc đồng không ai chịu nỗi. Anh Cư có dòng máu điên thiệt là khùng điên).
Buồn tình và thất vọng tràn trề, anh Cư rời thôn làng nơi đã chém nhát dao đầu tiên vào bờ ngực phải tươi vết máu. Anh Cư đi Đà Lạt lập nghiệp, ban đầu anh làm công cho ông Đội Có giàu nhất. Anh Cư trồng hoa tươi, theo xe đò đem hoa về Sài Gòn, anh bỏ mối bán cho các sạp hoa ở đường Charner.
Anh Cư săn sóc cẩn thận mấy con chó bẹc rê, theo chủ đi khắp nơi bán giá rất cao cho khách xộp. Thỉnh thoảng anh Cư diện bộ complet tân thời, áo popeline trắng, quần polyester trắng, veston trắng, giày trắng, đầu chải tóc "tăng gô Si Noa" hai mái rẽ giữa, với dầu brillantine láng cón, anh xức dầu hiệu Charlie thơm phức, coi anh thật “đĩ trai”.
Anh Cư đến thăm gia đình o dượng (Bộ Lại Thượng Thư là em ruột của cô vợ hụt ra rìa của ảnh). Gia đình tôi ân cần tiếp đón anh, như qúy khách. Do đi đây đi đó, tin tức nóng bỏng từ làng quê xa xôi, ra tỉnh thành, được anh Cư chuyển đạt đến gia đình tôi đầy hứng khởi. Từ khóm trúc bụi tre, cây đa đầu đình đến ruộng lúa nương khoai, bà con làng trên thôn dưới. Từ ông A đến bà Z, anh Cư đều kể vanh vách, rành mạch, đúng sự thật, không mảy may thiếu sót điều gì. Câu chuyện vui nổ dòn như bắp ran mỗi chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Anh Cư ăn ở trong nhà như con cháu ruột.
Cha mẹ tôi yêu thương anh, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất và tinh thần gia tộc. Ngoại trừ việc anh Cư yêu chị Uyển, cha mẹ tôi nói:
- Dù Cư không thành chồng của cháu Hồng, cũng xem thằng Cư như con rể nhà cậu rồi. Không lý chi thành duyên với con mình.
Cha mẹ tôi quyết liệt ngăn cản, không chấp nhận cho họ yêu nhau, dù bất cứ giá nào. Trong gia đình họp khẩn, thông báo cho anh Cư biết. Yêu cầu anh Cư đoạn giao với chị Uyển. Đồng thời cha mẹ ngăn cấm chị Uyển tối đa.
Một lần nữa thêm nhát dao chém trên bờ ngực trái của anh Cư, lần nầy xoáy sâu vào con tim dại khờ vì yêu. Buồn tình đau khổ và thất vọng, khiến anh Cư như cái xác không hồn, anh bỏ ăn bỏ ngủ, anh đi lang thang cầu bơ thất thểu ca hát. Anh rong chơi, như kẻ mộng du bất cần đời. Một anh Cư duyên dáng thị dân, với bộ áo quần tây trắng nõn, là ủi thẳng nếp cao sang ngày xưa. Nay anh trở thành một ông hề, ca hát dạo không tiền, lố bịch, khiến người khác sợ, với bộ đồ cháo lòng nhàu nát, hôi hám và tơi tả.
Cha mẹ tôi đi tìm anh về cho anh ở trên lầu ba ở số 5 Quang Trung, săn sóc thuốc men chu đáo. Thế mà, không hiểu sao, một hôm anh Cư nhẹ nhàng lẽn xuống lầu, tỉnh táo thu dọn ít đồ đạc cá nhân, anh chuồn đi biệt tích giang hồ lúc nào, không rõ. Gia đình tôi khổ công tìm kiếm anh, khắp mọi nơi. Nghe đồn anh Cư bỏ vào chiến khu, không biết sống chết thiệt hư ra sao.
Chả hiểu chị Uyển có tiêm nhiễm dòng máu điên khùng của anh Cư không? Mà từ khi anh Cư biệt dạng, thì chị trở nên cáu gắt, lầm lì ít nói ít cười. Có người muốn đi bỏ trầu cau, dạm hỏi chị. Chị Uyển tự ý đi Sài Gòn tìm kiếm anh Cư. Sài Gòn rộng mênh mông như biển cả, làm sao chị tìm anh cho ra? Chị chưa biết Sài Gòn ở đâu, lại dám bạo gan bạo phổi quá chừng. Sau vài tháng, chú Lý gửi thư cho ba má tôi, cho biết là chị tôi đang ở nhà chú. Ba tôi tức tốc đi tìm chị Uyển về.
Đôi ba lần, chị Uyển làm lỗi hoặc cải lời cha mẹ, ba bắt chị nằm xuống ghế dài, lấy roi mây đánh chị. Chị gan lì, không hề khóc hay kêu rên, mặc dù tươm máu đít. Lần sau cùng cha đánh chị, tôi đã biết chút ít. Là gần kề ngày cưới, anh chị Trung Uyển dắt nhau lên nhà thờ, thì chị Uyển giở quẻ không chịu. Ba giận vì chị Uyển không muốn, sao chị không nói trước. Đến nay, thiệp mời đã gửi đi, tiệc tùng bày biện ra xong. Cha mẹ biết ăn nói sao với họ hàng, làng nước? Ngày cưới chị, là ngày chị đưa tang khối tình sầu, chôn sâu xuống tuyền đài. Mọi người bắt chị “nghỉ tu” mà.
Anh Trung khổ sở vô cùng, không hiểu vì sao chị không ưa anh, trong khi anh vô tư, hiền lành, chuyên cần chăm chỉ, nhờ vẻ ngăm ngăm đen, anh đẹp trai, mũi cao, miệng rộng, răng trắng, nhất là nụ cười tươi, tính tình anh vui vẻ hoạt bát. Anh được lòng tất cả mọi người. Chỉ có tội anh ít học. Tuy vậy, anh chịu khó đi học thêm Bình Dân Học Vụ. Có mấy cô ở lứa tuổi chị Uyển, mê anh Trung tít thò lò. Thế mà chị tôi bị đòn, vì không ưa anh Trung. Thế mới biết trái tim có lý lẽ riêng.
Cuộc sống của anh chị Uyển bấp bênh trôi nổi, vì anh là quân nhân, làm việc tại Sư-đoàn 2, Tiểu-đoàn 52 Công-binh Kiến-tạo. Chị theo chồng đồn trú qua hầu hết các nơi anh làm việc. Gia đình anh chị luôn di chuyển rày đây mai đó, nên các con của họ bị thất học là thường.
Anh Trung hầu như suốt đời chẳng làm mất lòng ai. Anh cư xử với cha mẹ, họ hàng anh em đâu ra đó. Tính tình anh vui vẻ, siêng năng, hiếu động, cần cù sáng tạo. Mặc dù anh ít học thật, nhưng về việc làm thì anh lại rất giỏi. Anh có trí thông minh và có hoa tay kỳ lạ! Anh chỉ nhìn vào hình vẽ rồi tự anh suy nghĩ, nhân chia trừ cộng sao đó, anh tự trở thành thợ mộc, không qua trường lớp do một ông thầy hướng dẫn nào. Điều đáng nói là anh đóng những bộ bàn ghế, những bộ sofa, những cái tủ quần áo, tủ thờ, vân vân… đều có hình phượng hình rồng chạm trổ, điêu khác khá tỉ mỹ công phu, tinh xảo, giống như anh đã học qua lớp nghệ nhân, điêu khắc vậy! Thế nên, anh luôn được những vị cấp lớn xin cho anh biệt phái, mời anh Trung đi đóng đồ đạc ở tư gia, hay trong các dinh thự của chính phủ tận miệt Sài Gòn. Một mình anh làm ra tiền nuôi vợ con ở nhà.
Chị năm Uyển hơi khó tính, kỹ lưỡng và tỉ mỹ đến độ chậm chạp. Tính chị đa nghi, và nhớ dai khỏi chê. Chị rộng rãi không biết cần kiệm, khi có tiền chị xài sang lắm, cho chồng con ăn uống ngon lành. Chị cưng chiều con rất mực. Chị Uyển luôn sống xa nhà biệt lập với cha mẹ. Lúc chị giàu có sung túc thì biệt tăm, không một lá thư. Cha mẹ anh chị em không nghe tin tức của chị ở đâu. Nhưng lúc nào chị Uyển bồng con mò về thăm, ấy là ở trong gia đình chị có điều cầu cạnh, mượn tiền, xin xỏ. Hay chị lo lắng thiếu thốn về tiền bạc (do tính xài hoang của chị mà ra).
Chị nói do thiếu tiền là toàn những chuyện “động trời” không hà. Như ông chồng đau liệt giường sắp chết, không tiền thuốc! Con trai làm thủ kho, vô ý bị thất lạc mất hàng mấy tấn dây kẽm gai, nếu không có tiền đền trả, thì nó sẽ bị tù tội đày đi biệt xứ!? Đứa con khác đem cả bao tiền ra tiền tuyến phát lương, bị chiến tranh cháy hết!? Vân vân và vân vân… Quả thực cả chục lần chị Uyển về “thăm” nhà, đều “có chuyện giật gân” khác nhau (chị Uyển gần giống như chị ba Lan, nhưng có phần đỡ hơn).
Khi đó thì chị Uyển tha hồ mà nhớ dai và nói hoài chuyện xưa. Chị khóc lóc kể tội ba má đã ép duyên chị, bây giờ chị mới khổ thân! Chị ít giúp đỡ cha mẹ anh chị em khi hữu sự. Nhỡ lúc nào gặp sự bối rối, nếu trong gia đình không thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của chị, thì chị luôn than vãn dai như đỉa. Đến nỗi người khác phải động lòng, anh chị em hùn nhau cố xoay xở những khoảng tiền khổng lồ, để đưa cho chị mượn. Mang tiếng là nói cho chị mượn, rồi khi nào có tiền, chị sẽ mang về trả. Kỳ thực là chị Uyển chỉ mượn, mà không bao giờ nhớ trả. Hiện giờ chị vẫn nợ của má hai lượng vàng 999, và mượn của tôi một chiếc lắc vàng năm chỉ, đã mấy chục năm qua, vẫn chưa có mà trả!? Ngược lại chị năm Uyển là “chủ nợ” mà bổn phận trong đại gia đình từ cha mẹ, anh, chị, em, đều mắc phải trả. Ôi thôi hết nói!

_ * _

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng,
Ái Ưu Du


Ái Ưu Du
#211 Posted : Thursday, January 22, 2009 1:16:16 PM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


Tình Nhẹ Như Mây




Cuộn mây trắng gợn nơi lưng trời sáng bạc thêm óng ánh, mây lững lờ trôi về chân núi Lâm Viên. Từng đàn chim én thoăn thoắt chao liệng trên không trung. Chúng bay bướm vẽ những đường cong khá lả lướt, ngoạn mục; ríu rít rũ gọi nhau về mở hội ngày đầu một năm mới ở hiên ngoài. Nắng ươm hồng trên những cánh lá nhung lam mông mốc mươn mướt, rung rinh từng chùm phấn mimosa vàng e ấp run run sau vườn nhà, hoa tỏa mùi hương thoảng nhẹ dù hăng hắc; nhưng tôi lại ưa thích.
Cảnh đến thăm tôi vào trưa chủ nhật đầu năm mới. Chàng thản nhiên gỏ cửa phòng riêng, khi tôi đang ngủ trưa. Chàng cởi tấm áo quân-phục Sinh-viên Sĩ Quan Võ Bị mùa xuân ra, anh máng lên lưng ghế dựa; quần tây thẳng nếp ly, giày đen bóng loáng. Cảnh đeo cà vạt đen lủng lẵng trước ngực áo sơ mi trắng ngần, thẳng nếp hồ ủi. Gương mặt Cảnh toát lên một vẽ gì độ lượng mực thước, chững chạc dịu hiền. Ân cần mời gọi mà lại thẳng thắng và oai dũng trang nghiêm.
Thắng Cảnh: Dáng người to to, cao cao. Mái tóc quăn quăn cắt ngắn, ép sát vào gáy, tạo cho anh thêm phần hiên ngang, đỉnh đạt. Dưới vầng trán rộng và cao, là cặp lông mày rậm nhưng đôi mắt không dữ dằn. Trái lại an hoà, rất to và đẹp, hàng mi cong cong, miệng rộng, nụ cười tươi với hàm răng trắng bóng khá đều. Mũi lân to bè khoan khoái, làn da nhuốm phong trần, làm cộm lên trong tôi niềm thương thương, dạt dào trìu mến hay hay sao sao ấy.
Cảnh cười cười:
- Hồi tối em đi ăn trộm ở đâu, bi giờ ngủ say quá vậy. Em?
Vào toilet rửa mặt, tôi khúc khích cười, nói vọng ra:
- Ấy! Em “dừa” mới “dô” trong “Dõ” Bị, “z…rinh” anh “dìa” nè. Anh hổng thấy sao!
- Khỏi cần rinh anh. Anh cũng phải đến. Vì Ngân Thụy đó.
- Ơ! Vì em?
- Chúc mừng ngày đầu năm mới và… happy birthday em đúng mười chín tuổi, nửa tháng và ba ngày.
- Trời! Anh còn tính kỹ hơn cả em nữa.
- Có những điều… chính mình chưa nghĩ đến. Có thể người khác đã nghĩ thay cho rồi.
Đến bên cạnh nâng tay tôi lên, Cảnh đặt hộp quà to tướng vào lòng bàn tay tôi mát lạnh. Tôi ngỏ lời cảm ơn chàng, và khệ nệ bưng tới bàn từ tốn mở ra. Quyển “Đắc Nhân Tâm” của Dale Carnegic. “Cách Mạng Con Người” của Kirishnamuti. “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” của Alexandre Dumas. Hộp kẹo dâu thơm ngon. Nhưng còn bức tranh lụa của Tạ Tỵ, như gợi lên lòng tôi bao nhớ nhung. Mỉm cười chỉ bức tranh, tôi hỏi:
- Sao anh thích bức tranh nầy?
- Hôm trước đi xem triển lãm, anh thấy em đứng ngẩn người, biến thân vào cả cái nhìn. Anh cho rằng: em thích bức tranh hoàng hôn bên suối, mà hoạ sĩ đã ghi lại rất thần bút. Phải không nào!?
Quả thật bức tranh quá sinh động, tuyệt vời. Phong cảnh hoàng hôn chiếu trên bãi cát ươm vàng bên suối mơ màng, trông rất đẹp. Trải tranh lên bàn rộng, thuận tay Cảnh ghi lại hai câu thơ của V.S. Yeats:
Dưới chân nhau, ước mơ ta dàn trải
Hãy êm đềm nhẹ bước, kẽo mơ phai.
Cảnh xuống lấy đinh búa dưới garage lên, anh lúi húi đóng đinh, rồi treo bức tranh trên tường:
- Treo thêm bức tranh nầy, trong phòng của em có vẽ sinh động lên đôi chút. Chứ không thì coi căn phòng của em quả là buồn. Ha em.
- Anh chu đáo lắm. Cảm ơn anh.
Cảnh cười, ngồi lên mép chiếc bàn vừa trải tấm tranh. Chân phải chàng gác lên ghế dựa, một tay chống ngang hông, một tay cầm điếu thuốc lá. Chỉ khung ảnh bỏ trống và lọ hoa hồng héo tàn từ lâu quá lâu. Cảnh tỏ ý ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi:
- Hư vô trong khung ảnh nầy ư!?
- Vô duyên như Thụy, thì làm gì có “ảnh” đối diện chứ.
- “Ảnh” có hai nghĩa chính: “Ảnh” có nghĩa là tấm hình, tấm ảnh. Và, theo tiếng nói của người miền Nam, thì còn có nghĩa là “anh ấy”. “Nhà tôi” hay “ông xã” đó Thụy à. Còn khung ảnh ở trên bàn nầy, chưa có hình. Có nghĩa là em chưa chọn một “ảnh” tâm đầu ý hợp, để lộng kiến mà ngắm nhìn. Phải không em?
- Dạ. Anh muốn hiểu sao thì hiểu.
Sau cơn bão lòng hấp hối gần kề vực sâu, tôi thường có trạng thái vật vờ, trôi từ hiện tại về quá khứ và lơ lửng vào hư vô. Tôi đã im lặng đóng khung đời mình mấy chục tháng câm nín không cùng. Vết rạn lớn nhất làm hỏng đời mình, đó là: Đam mê duy nhất một mối tình, mà tôi nghĩ và tôn “người ấy” lên là siêu sao thần tượng, là lý tưởng cao vời nhất. Nhưng khi biết ra, thì "hoàng tử ấy" giống như cục đá, giống như con heo đất, nếu có chăng chỉ đáng vài đồng bạc nằm trên một mặt ngửa. Thật quá thất vọng.
- Thụy có nghĩ rằng: Nếu em có vài tấm ảnh “chàng trai tập sự làm “Lính của trường Võ Bị” trong tập album của em. Là một thời trang cho mỗi thiếu nữ, làm thi vị hoá cuộc sống hiện tại không? Em?!
- Anh có ý tưởng ngộ nghĩnh ghê à nha.
- Nếu anh có nhã ý tặng em…
- Em nghiêng đầu nói: Rất hân hạnh.
- Không khách sáo chứ.
- Cũng tùy.
Cảnh hồn nhiên lồng tấm ảnh trong khung hình trống để trên bàn. Rồi ra vườn tự tay chàng cắt mấy đoá hồng nhung, Cảnh đem vô cắm vào cái lọ, (mà anh vừa mới rửa sạch và thay nước mới). Anh đến gần bên tôi, tự nhiên đến nỗi tôi cảm thấy như việc anh quen biết tôi coi như thân thiết rồi. Cảnh nhìn tôi mỉm cười, nhẹ đá hàng lông mi dày và cong cong, chàng tình tứ quàng tay qua vai tôi. Tay kia chỉ bức ảnh và lọ hoa:
- Em thấy thế nào?
- Thanh lịch lắm. Anh biết cách cắm hoa.
- Không. Em hãy quan sát anh chứ. Thấy anh thế nào kìa?
- À. Lính oai hùng và khá dễ coi.
- Dễ thương không?
- Không biết nữa.
- Không biết là phải.
- Sao cơ?
- Vì… khi anh đã yêu, thì “Lính Võ Bị ” rất dễ thương.
- À ra vậy.
- Anh muốn xin cùng em, cho “Lính ấy” ở lại mãi trong ngôi nhà nầy. Em chịu không?
- Anh không sợ chứ.
- Sợ gì? Em!
- Đau khổ và nỗi tuyệt vọng.
- Không có gì cản được, khi tình yêu chân thật đến.
- Anh tin như vậy à?
- Hẳn nhiên rồi.
Câu chuyện “tình Lính Võ Bị” chợt đến, làm ngây ngất lòng nhau từ hai phía chúng tôi đã dừng lại ở đấy. Không thân thiết hơn qua vòng tay anh buông hờ trên bờ vai áo len mầu tím hoa sim. Cũng là lần đầu tiên Cảnh mời tôi đi ăn tối ngoài tiệm; trước khi tôi tiễn chàng lên xe taxi vào quân trường.
Tôi đi bên Cảnh kèm theo nhiều vui thích và cảm thấy thật hãnh diện. Đôi má tôi ửng hồng, e lệ nép hờ bên cánh tay chàng. Tôi liếc nhìn thấy người người đi dạo phố, hầu như ai ai cũng quay đầu lại nhìn một kiều nữ thẹn thùng, ăn mặc model, sánh bước cùng một Sinh-viên Sĩ quan Võ Bị tốt tướng. Họ không ngại xuýt xoa khen chúng tôi đẹp đôi.
Từ nay, như đã ước hẹn, thỉnh thoảng Cảnh mới vào nhà (lúc nào bất ngờ, không thể hẹn trước với nhau). Vì cả hai chúng tôi đều e ngại anh chị Tuế la. Ngoài ra, khi nào Cảnh thấy cửa sổ phòng riêng của tôi trên lầu mở; ấy là tôi có ở nhà. Cảnh sẽ dùng “cái còi tu huýt của hướng đạo” thổi lên ba tiếng báo hiệu. (Vì, khuôn viên đất ngôi biệt thự nầy, nằm ngay ở đầu góc của đại lộ Yersin và Pasteur, từ trong nhà ra ngoài sân quá rộng, khá xa. Người ở trong nhà không thể nào nghe tiếng gọi, nếu họ không bấm chuông ở ngoài cổng lớn).
Khi nghe tiếng tu huýt, tôi sẽ hiện ra bên khung cửa vẫy chào chàng. Nhìn thấy nhau rồi. Cảnh sẽ tà tà đi xuống đường Phạm Phú Thứ, và chàng chờ tôi nơi đó. Cái trò chơi “cút bắt” nầy khiến tôi thích thích, vui vui hẳn lên. Thật ra, tôi đã lớn khôn, sắp ra trường và đã đi làm việc, nên tôi có chút tự do, độc lập cho chính thân hay quyết định tình yêu đời mình. Ấy vậy mà… Khi sống chung dưới mái nhà anh chị Tuế. Tôi không muốn Cảnh đến nhà nầy nhiều, dù anh chị Tuế ưa hay không ưa ai, thì có mắc mớ gì! Họ không hề tìm hiểu về tâm tư, tình cảm hay lối sống của người tôi quen biết ra sao.
Vã lại, cá tính của anh rể buồn vui bất chợt. Có khi anh rể quá vui vẻ nồng nhiệt chào hỏi bạn của tôi. Khi nào “trái gió trở trời” ủ dột giông tố, anh Tuế nổi cơn tam bành lục tặc lên. Thì nếu ai đến nhà, có là quan tướng đi chăng nữa, anh rể cũng la, cũng mắng và xua đuổi, anh bất lịch sự chửi như tát nước vô mặt khách. Thì tôi bị quê và người bạn ê mặt quá chừng. Thật xấu hổ!
Còn ý của tôi đã nghiêng về Cảnh hơn vài ba bạn trai khác (bạn đúng nguyên nghĩa). Một cảm tình dành cho Cảnh khá đặc biệt, sâu thẳm từ từ vươn lên trong tâm hồn tôi. Quả thật tình nhẹ như mây, đằm thắm như tơ trời vương trên đỉnh Lâm Viên… Và, Cảnh là người “dễ thương nhất” mà tôi muốn chọn, để bầu bạn. Tâm sự. Chia sẻ hầu xoa dịu nỗi niềm.
Cảnh đọc cho tôi nghe mấy câu sau:
I have bean waiting for you to return.
To this home of yours and hear the enchanting heart,
From spring through summer to chilling autumn.
I have been consistent in keeping my thoughts for you only…

_ * _


Ái Ưu Du
Ái Ưu Du
#212 Posted : Friday, March 19, 2010 2:55:25 AM(UTC)
Ái Ưu Du

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 333
Points: 0


heartRoseheart

Chàng Mạc A Kíu Dễ Thương Chi Lạ!




Trong phòng làm việc Tâm Lý Chiến có anh Mạc A Kíu là người hiền lương chân thật, đến mức thật thà ngây ngô, mà rất dễ thương, chịu không nỗi. A Kíu thích uống nước đá thật lạnh, nhai nước đá cục rốp rốp. Trong lúc Kíu ăn cơm nóng sốt vừa thổi phù phù vừa húp rột rột rột. Kíu lại vừa uống ừng ực nước đá lạnh ngắt. “Răng của ảnh” chịu không thấu bỗng dưng ấm ức dỗi hờn, đau đớn sưng vếu lên một cái, nó xìu xìu ễn ễn lạnh lùng bỏ chàng mà đi.
A Kíu tức mình quá chừng khi thấy bộ dạng mình coi vếu váo xấu xí, nên chàng hăng hái đi bọc một chiếc răng vàng, để trám vô ở lỗ trống. Thế là hai hàm răng cũ thấy cái răng… “dzàng giàu có, đẹp gziai” kia, so với mình sao mà xa lạ quá, chúng càng bực bội dỗi hờn thêm, bèn rù rì to nhỏ... từ từ rủ nhau xa lánh “anh răng dzàng”, mà a dua... hè nhau tiến lên a chu, khiến răng của A Kíu rụng đi gần hết cả hàm dưới. Răng hở thì môi lạnh, môi buồn, môi chán, môi đau... càng nhức bưng tới óc; nên mỗi lần ăn cơm ăn cháo gì, A Kíu cố cho hàm răng trên thấn ái đi gặp hàm niếu dưới, ngỏ hầu thăm hỏi xã giao nhau tí chút. Nhưng chúng nó đã thất lạc trong cuộc đời “răng với riết” mất toi rùi. Một chiếc răng vàng cô đơn độc mã không hiểu tiếng nói của nhau, thì còn răng mô mà dám cười! Hỉ!?
Hàm răng mệt, cái mồm mệt, chàng không thể nhai thức ăn; cơ thể mệt, bộ óc chàng cũng dần dà mệt lã theo. Thiệt là phiền toái đa! Cả hàm răng tất nhiên là có nhiều hơn hai “cái bờ môi”, nên “cái bè đảng răng” nó rủ nhau biểu tình, biểu tọt, cùng xông pha... lang thang đi tìm trẻ lạc mất răng. Hàm răng của chàng bây giờ thì cái sún, cái bọc vàng, cái lổn chổn. Coi thật dị hợm, khó coi, khó chịu quá chừng chừng à. A Kíu không nhớ gì hơn ngoài việc lo lắng cho "cái bộ gió" của mình. Vì “cái răng cái tóc, là gốc con người” mà! Vì... và vì... Kíu còn phải lo “canh tân o bế” hầu dợt le cho “răng với riết” ; để:
Rượu nào là rượu chẳng nồng.
Trai nào chẳng khoái: Lan, Hồng, Cúc, Mai... (cd)
* * *

Một hôm, được trưởng đoàn phân công, A Kíu là âm thoại viên cùng bạn công tác tại xóm Nghĩa Hành. Bạn Bé, và Châu đi nhanh quá. Còn A Kíu có phần bệ vệ, vì cái bụng lỡ mang thùng nước lèo khá lớn, (so với chiều cao). A Kíu ì à ì ạch leo lên dốc. Chàng che tay nhìn ngang nhìn dọc không thấy hai bạn đâu. Mất hồn mất vía, chàng ngồi phịch xuống trên gò mối, nghỉ mệt. Đã lo sợ lạc đường, tự dưng cái bụng phệ của A Kíu sôi ọc ọc... ục ục, như muốn biểu tình, phản đối giờ cơm đến trễ.
A Kíu lom khom đứng lên, bỗng máy PRC-25 phát tín hiệu. A Kíu lại ngồi vật ra, duỗi hai chân chụp lấy máy, mở tầng số liên lạc. Nghe xong, “anh ta ca”:
- Cái lày ngộ xin “lại ý dui loòng” chỉ cho. À, ló lại tẩy chay ngộ, bạn ló li lâu mắc dồi, bỏ em lứng dứi gót cay phựng. Bạn ló hỗng biéc liều a. Em hỏn biéc chỗ lào, lễ li dề à. Lần lầu tiên mới dề qua lay. Hỏn béc dớ cái đừng đi dề a.
Thọ, Đan, và Nhã phì cười. Nhã trêu chọc:
- Đi mau mau mới kịp bạn. Phải biết "giác ngộ" cho tiêu bụng mỡ chứ.
- Ngộ béc dát ngộ mờ. Có gì ngộ ngộ, thì ngộ dát dề cho a.
Có trời biết làm cách nào A Kíu trở về an toàn, khi lưng đeo máy truyền tin, vai đeo ba lô cá nhân, vai kia vát thêm lưỡi cày, chả biết chàng nhặt ở đâu. A Kíu nói:
- Nó “giác ngộ” quá, thì “ngộ dát” dề a.
Thọ vừa tức, vừa vui cười hóm hỉnh kêu trên loa phóng thanh:
- Có ai mất lưỡi cày, xin cho biết. Phòng mang trả lại ngay.
Một lần khác trong phòng đang ăn cơm, thì Chỉ-Huy-trưởng gọi máy dã chiến xuống, bắt anh em nộp bảng: "Dự trù Kế Hoạch A. Tối cần".
A Kíu quên chưa cúp máy, anh ta láu táu báo trình với Đan:
- Xin báo với “thựng” cấp là tối cần, “bạng” dự trù kế hạch A, chớ sáng thì “hỏn” cần.
Ngờ đâu Chỉ-huy-trưởng đã nghe được. Trời ơi! Hậu quả ăn với nói lầm lẫn và hiểu sai nghiã. A Kíu bị “an nghỉ” năm ngày trong chuồng cọp. A Kíu “được” muỗi đốt thỏa thích. Chàng nằm co rúm chèo queo vỗ bụng đau bình bịch, để chờ Phòng Nhì điều tra.
Toàn Phòng 5 đều gửi “thỉnh nguyện thư” lên Chỉ-huy-trưởng, họ bảo đảm hạnh kiểm, hành vi của A Kíu. Sau khi A Kíu làm mọi thủ tục tường trình, chàng được tha khỏi chuồng cọp. Từ đó, chàng câm như hến, không dám thèo lẻo bép xép cái miệng ăn mắm, ăn muối nữa. A Kíu tình nguyện “xuống cấp” để làm hoả đầu quân ở trong Sư-đoàn, cho chắc cú. A Kíu nấu ăn thì ngon tuyệt, y như Tàu Hồng Kông vậy. A Kíu ưa vỗ vỗ vào cái bụng phệ mà cười ha ha ha:
- Giàu chủ kho. No nhà bếp rồi thì… chóng chết là vì quản voi he!
***

A Kíu kể chuyện tình của anh ta với cô bồ ruột ở Chợ Lớn, vui và cũng buồn hết biết, chuyện như sau:
A Kíu đã “phải lòng” một cô trông kha khá ở gần nhà. Chàng đã:
Năm canh ngớ ngẩn buồn rầu.
Nhớ người nhân nghĩa gan sầu ruột đau. (cd)
Sau khi A Kíu đã vào nha sĩ bọc thêm những chiếc răng vàng oai vệ đáng bậc “răng nhi”, thế là chàng lân la đi la cà làm quen nàng Đào. Ai ngờ “ẻm” cũng “chịu đèn” mình quá sá cỡ thợ rèn! Thiệt là mừng húm!
Nắm tay em tròn như ống chỉ.
Lòng dạ anh đây phỉ chí muốn kết duyên.
Ngày nay hỏi thiệt bạn hiền: “thương không”.
Anh ăn ở có lòng, em phải gắng công.
Một trăm năm em cũng để phòng không, đợi chờ... (cd)
Thế là nhân một ngày "mùa thu lá bay", để kỷ niệm ngày đầu tiên “Anh và Em” yêu nhau say đắm, hai anh chị vui vẻ hẹn hò nhau đi ăn ở nhà hàng Arc Enciel. A Kíu bảo nàng:
Ai đi đợi với tôi cùng.
Tôi còn dỡ mối tơ hồng chưa xe.
Có nghe nín lặng mà nghe.
Những lời em nói như xe vào lòng. (cd)
- Em ui, em là Ba Chệt, thì em cứ hiên ngang, can đảm vui vẻ nhận mình là Ba Chệt. Sợ gì ai mà ba má giữ rịt em ru rú ở trong nhà he? Hay em sợ mắc cỡ sẽ ló cái đuôi sam ra ha!? Em hãy mặc áo Thượng Hải, hở ngực, hở nách, xẻ hai bên đùi, lên sát bắp vế, thì coi em càng khêu gợi chớ sao! Cho anh sung sướng dẫn em đi dợt le. Anh muốn tụi mình nên đi cà nhỏng, cà nhãnh, cà rịch cà tàng chút xí. Mình lên mặt làm dáng, làm dóc, làm le, làm tàng nha. Em cứ giựt nổi, chơi trội đi khoe với đời. Em không nổi như cái rốn của vũ trụ. Thì đời mình mất vui, kém hạnh phúc đi. Nha.
A Kíu vui vẻ "phỉnh" nhẹ nàng thôi, chứ nếu chàng gallant trắng trợn, thì còn ra cái thể thống gì bậc mày râu! “Ẻm” nghe chàng miệng lưỡi ngọt xớt như mía lùi, thì ai mà không mê tít thò lò chớ́. Thế là nàng trẻ người non dạ, õng ẹo đi qua đi lại trước gương soi mà ngắm nghía, và toe toét cười. Đúng là coi mình cũng ngon lành ra phết, như miếng thịt mỡ treo trước mõm mèo. Ngu sao mình không chờ thời cơ, thiếu giống gì mấy chàng trai trẻ, sẽ nườm nượp liếc mắt đưa tình he!
Nàng lóc chóc hí hửng thích thú mặc xiêm y, thân hình chưa phì lũ lắm, chàng trông nàng ngon lành, coi cũng đẹp hết sẫy í chớ. A Kíu thì mặc bộ áo quần vía veston hồ ủi thẳng nếp li láng cón, đầu chàng chải brillantine bóng mướt, con ruồi đậu trên tóc cũng phải té trợt cà. Kíu mang đôi giày đen nhọn mũi hoắt cao. "Anh Em ta” leo lên taxi (“cho... tới luôn bác tài”). Hai người xuống xe, cầm tay nhau dung dăng dung dẽ, cười cười liếc liếc, lí lí lắc lắc… họ ung dung tà tà đi dạo coi “thái mái” lắm. Thì cái bóp đầm của nàng lủng la lủng lẳng đung đưa có đựng vài đồng bạc lẽ, bỗng bị "bàn tay anh tài” cướp giựt mất, lẹ như chớp.
Bị bất ngờ, nên nàng trợt chân té, chiếc giày cao gót, văng lông lốc tuốt dưới chân thang lầu. Đau quá là đau, nàng nghiến răng trèo trẹo. Nàng ngồi chò hỏ nơi bậc thang, mặt tái xanh không còn chút máu. Mồ hôi hột rịn vã ra ở hai bên thái dương, "ẻm" bủn rủn tay chân, thầm nghĩ:
- "Chắc là ma nó xô cho mình bong gân, lọi giò đây. Chứ cái thằng ma-cô cướp cạn, nó ốm nhom ốm nhách như đồ xì ke, đuổi ruồi còn không bay. Nó làm gì mà xô mình lọi giò được ha?".
Vô tình nàng "để quên sự đời em ra". Thây kệ mặc khách tao nhân, đi lên, đi xuống cầu thang, họ cứ quay lại nhìn, cười hi hí, và ngó sững "chỗ nớ" đã đời.
Chàng thanh niên non đời lóc chóc đã nén giận, A Kíu cắn môi chạy xuống chân cầu thang lượm giúp nàng chiếc giày. A Kíu đứng xớ rớ dưới chân thang, chàng vô tình chờ mặc khách tao nhân chen lấn đi lại đông đúc nhìn lên.
Bỗng A Kíu thấy em oăặ… oằn người, và “chỗ nớ” coi tổn hổn, rõ mồn một. A Kíu giật mình xấu hổ, mặt anh chàng đỏ tía, tai nóng rần rần, hai bên thái dương chàng giật tưng tưng, trái tim co xiết túi bụi. Mắc cỡ muốn độn thổ, A Kíu cầm chiếc giày cao gót sút đế, chàng vụt nhảy lên một lần hai ba bậc cấp. A Kíu ném chiếc giày vào bụng nàng, kêu cái "biịcch"… Chàng trợn mắt nghiến răng trèo trẹo, cằn nhằn:
- Đứng lên mau! Con gái, con nai gì không có ý tứ, lại mặc cái "xì níp" nhỏ xí, rách háng trơ trẽn quá. Có thấy thiên hạ đang dòm ngó em không? Hứ! Lại còn ngồi thộn ra… xí xọn, nhí nha nhí nhảnh ghê ta.
Nàng tức giận lên cực điểm, đến tím mặt, bầm gan. Đã không dỗ dành khi người ta đau điếng, thì thôi. Chàng còn lên mặt la mắng tui cái nỗi gì, giữa chỗ ba quân hử? Nàng nghiến răng trèo trẹo, liền xổ một tràng tiếng "Háng" văng cả nước bọt khiếm nhã ra:
- Ai biểu, tại nị nói: nị thít ngộ đi “phe” với đời mờ. Ngộ không bét. Ba trợn á. Ay da dà! Cái đồ dóc tổ a... Tô chè a.
Tự ái dồn dập mà! Tuy nhiên, thấy nàng xù ra như lông nhím, Kíu cũng biết điều, chàng nâng cánh tay nàng lên, liền hạ mình hạ giọng, năn nỉ ỉ ôi.
Nàng được trớn, càng lên mặt vênh váo, lì lợm, làm le, làm dóc, làm tới, làm tàng không thèm hòa. Nàng xù bộ mặt rất ư dễ ghét ra, chàng trông nàng thiệt ngứa mắt quá chừng chừng! Xách chiếc giày sút đế lủng lẳng, nàng vung cùi chỏ hất mạnh tay “người iêu”. Nàng cà niễng cà giật cà thọt một chân cao chân thấp, nàng nhoi nhoi cái đít vịt đi điệu “bì bộp, xô-lô-rốc” chấm phẩy. “Ẻm” leo lên taxi... cho tới luôn bác tài. Bác ta rồ máy chạy cái vù. Giữa đám thị dân đang kinh ngạc nhìn theo.
Thế là Kíu nổi máu anh hùng lên, bỏ đi một nước, giang hồ biệt tích. A Kíu leo lên xe “đi quân dịch là thương nòi giống”:
Năm xưa em bảo đợi chờ.
Năm nay em lại hững hờ với anh (cd)
Thời gian trôi qua, chàng đã nguôi ngoai nỗi “sầu đời”, đã vui vẻ hát điệu… tẩu mã rất linh hoạt của dân ca Huế.
Bây giờ tình nghĩa làm sao.
Cho chuông chẳng bén bồ lao chẳng bền?! (cd)
Thôi! Hãy thả tình trôi theo giòng thời gian... Chả còn gì cho “Anh và Em”. Thật chả còn gì cho mối tình mà chàng nghĩ từ nay đúng là: Thứ cà tửng, cà tàng, cà khịa, cà ná, cà chớn, cà pháo, cà chua... Khi nàng ù té chạy làng, lê bước chân què leo lên con đò, ca bài “Sang Ngang” của Đỗ Lễ, cho mối tình xưa đi đứt theo đuôi con nòng nọc, mất toi.
Năm nay em phải lấy chồng.
Không vui thì cũng bằng lòng mẹ cha. (cd)
A Kíu dứt khoát mọi điều khẳng định là phải quên. Như đinh đóng cột vào vách. Như ngôi nhà quay mặt về núi. Muôn đời không thèm đối diện với biển cả.
* * *

Nghe tin Lính Phòng 5 được về hậu cứ sớm hơn dự định, A Kíu nổi tiếng là trùm sò, chuyên môn cho anh em "ăn mắm mút dòi". Nay chàng là người hào phóng, trước tiên A Kíu vát cái bụng phệ, đi quăng mùng mền quần áo cá nhân. A Kíu cần cho ba lô cá nhân nhẹ bớt ký mà. Rồi chàng lấy ly, tô, chén, son, chảo, nồi… ở trong thùng của đoàn dân vận ra, chàng đập bể hết. Trả thù tình và trả thù đời! A Kíu xán cho bằng thích hai bàn tay mập ú. Các anh khác cũng bắt chước làm theo, họ lôi tô chén trong ba lô cá nhân ra, xán bôm bốp xuống nền gạch. Nghe “đã” thiệt ta!
Đùng một cái Trưởng-phòng đi họp về báo tin Phòng 5 phải ở lại thêm bốn ngày. A Kíu ngồi thộn ra nhăn nhúm, méo mặt như cái nồi son. Lấy cái gì xào nấu cho anh em ăn đây hở Trời! Thật chán mớ đời. Mấy ngày đó, anh em chịu trận giữa cơn rét rừng luồn vào tủy sống. Các anh chẳng dám mở miệng kêu than nửa lời.
Ngày ngày A Kíu xin phép Trưởng-phòng 5 cho ra nấu ăn nhờ ở nhà dân, chàng đi bắt ốc mò cua, bẻ măng, rau núi, hái rau sam, rau dền, rau đắng mọc hoang, luộc cho anh em ăn tạm đỡ lòng, với thịt hộp xin của đồng đội bạn. Thật may vừa có lệnh trên ban hành cho anh em Phòng 5 leo lên xe về nhà. Mấy anh mừng húm.
Tất cả câu chuyện về bạn bè thân thiết, cùng hoàn cảnh, không gian và thời gian, thoáng hiện ra trong tư tưởng Đan, dưới ánh sáng màu thiên thanh kỳ diệu. Đan mỉm cười về vài mẫu chuyện vui vui, tương tự như thế; hầu quên đi nỗi nhọc nhằn trong đời lính chiến phong sương. Tạm quên bao khổ đau cuộc sống đùn lên trong đời Đan và tất cả quân nhân khác.

(*) ca = ca dao

_ * _

Ái Ưu Du


Users browsing this topic
Guest
11 Pages«<91011
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.