Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
TÌM HIỂU KÝ HIỆU Y KHOA
Bác sĩ Phan G. Sang
Trong đời sống hằng ngày, nhiều khi rất khó cho mình trình bày ra hết tất cả chi tiết. Giới y khoa nhiều khi rất khổ tâm đương đầu với sự thật, mà sự thật thì mất lòng! Chính vì vậy mà giới y khoa thường dùng ký hiệu TB, bịnh lao nhưng nếu làm ám hiệu (theta: j) nầy thì người bịnh nhìn thấy mà không biết họ viết gì, họ định bịnh gì? Tuy nhiên cũng có những ký hiệu thông thường mà ai ai cũng biết là nó tượng trương cho cái gì nhưng không hiểu tại sao họ dùng nó.
Để giúp quí vị hiểu rõ, chúng tôi xin đơn cử ra đây vài dấu: Ó, O, K , Dx, Px, Rx, TB (j) và CA (K).
Vòng tròn có mũi tên O->, ám chỉ phái nam, male. (Chữ Latin = musculus).
Dấu O-> thì ai cũng biết còn □ ít có ai biết được vì nó chỉ dùng trong di truyền học như định luật Mendel mà thôi như:
O-> x O+ hay □ --+--O.
Nhưng tại sao dấu vẽ O có mũi tên O-> nầy lại biểu tượng cho nam tính? Nó phát nguồn từ đâu?
Từ cổ chí kim, hễ nói tới phái nam là người ta nghĩ ngay tới những bắp thịt vạm vỡ, phải có thân hình tráng kiện hình chữ V như Vọi, trong tiểu thuyết “Trống Mái” của Khái Hưng. Tượng “David” của Michelangelo (1475-1564) đặt tại Florence, diễn tả một thân mình lực lưỡng, cân đối tuyệt mỹ. Hãy đến đó mà chiêm ngưỡng tuyệt tác trứ danh nầy mới được.
Theo Pháp, phái nam là phái trả tiền, phái “galant” hay “gentleman”. Theo quyển từ điển Y học trên thì phái nam là phái tạo ra tinh trùng.
Dầu ở thời thượng cổ, bán khai người đàn ông vẫn là con “voi đầu đàn” phải lo chịu đựng mọi gian nan đi săn tìm món ăn, thức uống cho gia đình và bảo vệ đoàn thê nhi. Họ dùng đủ thứ vũ khí, mà vũ khí lợi hại nhứt là cây lao hay giáo để phóng, đâm cá, đánh nhau hay dùng cung tên để đi săn, để bắn thú, bắn chim muông hay kẻ địch, vân vân. Trong các hang động từ Âu sang Á, còn lưu lại những hình vẽ mũi tên để nói tới đi săn. Các đồ mỹ nghệ cổ cũng có những hình ảnh người đàn ông trần trụi giương cung bắn như thần Apollo, thần Eros.
Từ xưa, người Đông phương có quan niệm là con trai phải hùng dũng, oai nghi với chí khí phấn đấu chớ không ủy mị như các “quần thoa thục nữ”. Làm trai phải cho xứng đáng với câu:
“Xuống đông, đông tĩnh,
Lên đoài, đoài tan”.
Sau khi Hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đánh đuổi tên Thái thú Tô Định bạo tàn lên làm vua (40-43), Nhà Đông Hán cho Mã Viện, Phục Ba tướng quân, một lão tướng 70 tuổi, sang đánh chiếm nước ta. Cùng đường Hai Bà phải nhảy xuống sông Hát mà tự tử.
Mã Viện tự đắc cho nước ta không thể nào đánh đuổi được họ, nên lập cột đồng trên đề giòng chữ “Đồng trụ chiết, giao chỉ diệt”. Câu nầy có nghĩa là: nếu cây trụ đồng mà ngã thì người Giao chỉ mất luôn. (Người Trung hoa thường ngạo nghễ khinh khi các dân tộc khác như gọi Pháp là bạch quỉ, người Anh là hồng mao. Theo nhân chủng học, anthropology, thì người mình có hai ngón chân cái giao nhau, nên họ gọi mình là giao chỉ).
Dân mình sợ quá mới mỗi người ném một hòn đá, cuối cùng lấp mất cột đồng luôn, nên mới có câu:
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy, Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương
Chính Mã Viện đã cho người con trai phải có chí lập nên sự nghiệp hiển hách ngoài trận mạc và coi cái chết nhẹ như (tơ) lông hồng. Là dân du mục, một người một ngựa họ chỉ lo chinh chiến liên miên nên mới nói: “Da ngựa bọc thây”, bởi vì: “Cổ kim chinh chiến kỷ nhân hồi?”
Cụ Nguyễn Công Trứ đã luận về cái chí khí của người con trai rất nhiều qua nhiều vần thơ tuyệt tác. Cụ đã trình bày một cách xuất sắc, tuy có chỗ không hợp với thời đại ngày nay như trong bài “Phận sự làm trai”:
Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân. Thượng vị đức, hạ vị dân, Sắp hai chữ “quân thân” mà gánh vác. Có trung hiếu, nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây. Phải hăm hở ra tài kinh tế. Người thế, trả nợ đời là thế, Của đồng lân, thiên hạ tiêu chung. Riêng (hơn) nhau hai chữ “anh hùng”.
Theo Việt Nam Văn Học
Người con trai phải tung hoành ngang dọc, chớ không phải ru rú ở nhà núp sau “bóng quần thoa” của mẹ. Cụ Trứ diễn đạt cái ý chí đó qua bài “Chí làm trai”:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc; Nợ tang bồng vay trả, trả vay. Chí làm trai nam, bắc, đông, tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh? Đã hẳn rằng ai nhục, ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. Cũng có lúc mưa dồn, sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi, lắp sông, Làm nên tiếng phi thường đâu đấy tỏ, Đường mây rộng thênh thang cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu. Theo Việt Nam Văn Học
Trong những bài khác cụ viết:
Đã mang tiếng ở trong giời đất, Phải có danh gì với núi sông. Trong lúc trần ai, ai dễ biết? Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Người con trai phải có trọng trách:
Đã (Dở) đem thân thế hẹn tang bồng.
hay:
Đã rắp điền viên vui tuế nguyệt, Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
thì phải làm xong trách nhiệm mới an hưởng tuổi già:
Sạch nợ tang bồng mới kể ngươi hay:
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơ, Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
Bà Hồ Xuân Hương cũng nói lên cái chí khí của đàn ông qua bài “Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường”:
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi! Cái nợ ba sinh đã trả rồi. Chôn chặt văn chương ba thước đất, Tung hê hồ thỉ bốn phương trời...
Khi làm lễ mãn khóa Trường Võ Bị Thủ Đức, người thủ khoa ra giương cung bắn tên tứ phương, để nói lên cái chí khí người sĩ quan sẽ tung hoành ngang dọc để lập công danh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tiền nhân để lại.
Đấy là lấy cổ tích bên Tàu hễ đẻ con trai thì dùng cung bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng bắn sáu phát ra bốn phương, lên trời và xuống đất. Nó có nghĩa, cha mẹ cầu cho con mình có chí lập công danh sự nghiệp hiển hách với đời.
Như vậy, mũi tên tượng trưng cho người con trai.
Còn cái vòng tròn từ đâu mà có?
Nói tới giao tranh thì phải có bên đánh, chém hay đâm bằng côn, gươm giáo hay cây nhọn như lao, thương hay mâu; còn bên kia bị tấn công tất phải đỡ. Muốn đỡ cho an toàn cần có cái gì che chở cho kín, đồ che chở đó không ngoài cái khiên bằng mây, mộc bằng cây hay cái thuẫn (shield).
Như vậy, ta thấy một tấn công và một vật chống trả, che chở cho an toàn, việc nầy phản ngược nhau gọi là “MÂU THUẪN”, câu chuyện “Bán mộc bán giáo” của Hàn Phi Tử trong Cổ Học Tinh Hoa.
Cái thuẫn hình tròn, còn cái mâu là vật dài nhọn. Nếu đem hai vật đó gần nhau ta sẽ thấy đúng là: hình tròn có mũi tên ở trên.
Theo thần thoại Hy Lạp, vòng tròn có mũi tên ở trên là cái khiên và cây thương và nó lại là biểu tượng của Thần Mars (1), (2), (4), ông thần chiến tranh, vì ông cũng tượng trương cho zodiac cho nên có người nghĩ mũi tên là cái hình của thằng “cu tí”. Như vậy ta thấy đông tây cũng có nền văn hóa tương tự nhau. Thế thì đông tây cũng có thể gặp nhau, phải vậy không quí vị?
Còn về vòng tròn có dấu cộng ở dưới O+ là cái gì mà nó lại tượng trưng cho phái nữ?
Phái nữ: Female = L = femella, F = femelle, femina là người đàn bà. Phụ nữ là người sản xuất trứng hay noãn.
Có người cho đàn bà sanh con đẻ cái nên có dấu cộng. Điều nầy không ổn.
Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, bổn phận của người đàn bà chăm lo việc nhà, nâng khăn sửa túi cho chồng và nuôi nấng con cái vì người đàn ông mắc lo việc bên ngoài và lo phấn đấu bảo vệ gia đình. Người phụ nữ lại ham thích làm dáng, nũng nịu và trang sức cho nó tăng vẻ đẹp và hấp dẫn, vân vân. Phụ nữ phải có Tứ đức: công, ngôn, dung và hạnh.
Dung là vẻ đẹp, có thể tự nhiên trời cho, mà cũng nhờ thuật trang điểm. Muốn trang điểm thì phải có đồ trang sức. Mà dầu có đồ trang sức để tô son điểm phấn, cũng không biết nó có đẹp không hay lại bôi phết như hề thì con ma nó coi chớ không ông nào dám nhìn cả. Muốn diện cho đẹp, muốn chải mái tóc cho xinh, người phụ nữ bắt buộc phải có cái gương để ngắm nghía. Cái gương đó phải có cái cán để cầm đưa qua, đưa đi, đưa lại để ngắm tới ngắm lui.
Theo cuốn từ điển Macquarie của Úc thì cái gương có khung trang hoàng và đặc biệt có cán chủ yếu để phụ nữ dùng (mirror: a reflecting surface set into an ornamental frame, esp. one with a handle, used chiefly by women). Cái gương đặc biệt nầy người Pháp gọi là: “kiếng thần Vệ nữ”, tức “miroir de Venus”, hay “kiếng chiếu yêu”.
Venus trượng trương cho vẻ đẹp phụ nữ. Theo thần thoại La mã: Venus là mỹ nhân, là thần Vệ nữ hay thần Ái tình và dục vọng. Venus cũng tượng trưng cho thần Hòa bình. Theo thiên văn thì Venus là sao Kim tinh, một vì sao sáng gần trái đất sau mặt Trời (4). Mount of Venus là đồi Vệ nữ.
Đông phương cũng tương tợ như Tây phương, bằng chứng là chính vua Tự Đức đã nói lên điều nầy trong mấy vần thơ “Khóc Bằng Phi”:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi.
Phải nói, đây là bịnh về tâm lý có tên là fetishism.
Cụ Ôn Như Hầu ghi:
Biếng cầm gương, biếng đưa thoi Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
Chinh phụ Ngâm
Nhà thơ Nguyễn Bính cũng có câu trong bài “Lỡ bước sang ngang”:
Một lần sẩy bước ra đi Em còn cho chị lược gương làm gì?
Dấu +O->, có mũi tên ở trên và dấu cộng ở dưới hay +OO-> thì sao?
Dấu hiệu nầy ám chỉ đứa trẻ sanh ra có bộ phận sinh dục không phân biệt được trai hay gái: ái nam ái nữ. Ngoài đời dấu nầy có nghĩa là bán nam bán nữ. Người miền Nam gọi là đồng bóng, lại cái.
Xưa kia người ta cho: có thể đàn ông từ Hỏa tinh và đàn bà từ Thủy tinh, nhưng khoa học mới lại có bằng chứng sinh học khác biệt giữa hai giống rất tế nhị không như người ta từng nghĩ (1).
Chữ k hay CA để tượng trương cho ung thư. Tại sao? Ung thư hay gọi là cancer, mà theo chữ Latin thì cancer lại có nghĩa là cua, mà cua tiếng Tây lại là crab. Con cua thì bò ngang bò dọc tứ tung, khó mà biết được. Ung thư cũng vậy, nó nhảy ra chỗ nầy chỗ khác khó lòng mà đoán trước được.
TB là bịnh lao phổi, nó là chữ tắt của Tubercle Bacillus. Tuberculosis: L: tuberculum, G: phthisis = pulmonary tuberculosis. Môn học bịnh lao, phthisiology. Vẽ ba phần tư vòng tròn rồi kéo thẳng xuống (j) là bắt chước chữ Greek. Dấu nầy chỉ có các bác sĩ Hồng Bàng mới biết vì ở đây Úc gọi trung tâm bài lao là chest clinic, không có dùng dấu nầy, họ chỉ dùng TB.
Còn các dấu khác rất dễ biết vì nó là chữ viết tắt như:
D x = diagnosis, chẩn đoán DDx = difference diagnosis, chẩn đoán phân biệt Px = prognosis, tiên lượng Mx = management, sự chăm sóc. Rx = treatment, điều trị I x = investigation, xét nghiệm tìm căn bịnh
Trên các toa thuốc, các bác sĩ thường viết dấu như: a.c, b.d hay b.i.d, p.r.n, và vân vân. Một lần nữa, chúng tôi xin giải ra để quí vị hiểu mà dùng thuốc cho đúng, nếu không có thể dùng sai rất nguy hiểm:
-a.c. ante cibum before meal trước bữa ăn -b.d,b.i.d bis die, bis in die twice a day một ngày hai lần -gtt gutta(ae) drop(s) giọt -h.s hora somni at bedtime khi lên giường ngủ -m mane in morning buổi sáng -n nocte at night buổi tối -n et m nocte et mane night and morning buổi tối và sáng -p.a.a parti affecti to be applied on thoa vào chỗ bịnh
applicandus affected parts
-p.r.n pro re nata when necessary khi thấy cần thiết -q.d.s, qid quat in die four times a day bốn lần một ngày -Rx recipe take dùng -t.d.s, tid ter die sumendus three times a day ba lần một ngày - vân vân.
Hiện nay có nhiều người lạm dụng các dấu hiệu chẳng hạn như chữ thập đỏ hay hồng thập tự để cho biết đây là phòng mạch hay trung tâm y tế, vân vân. Việc nầy không đúng vì chữ thập đỏ là dấu hiệu của “Hội Hồng Thập Tự”. Hội Hồng Thập Tự đã được lập ra theo Qui ước Geneva 1864, có nghĩa là hội cứu người, cấp cứu thương binh trên chiến trận: các quân y, xe cứu thương vân vân đều có dấu nầy để đối phương thấy và:
không được bắn [don’t shoot] nếu bắn sẽ phạm vào luật quốc tế : điều 38 Qui Ước Geneva 1949 để bảo vệ thương binh ngoài chiến trận, đoạn 15 Qui Ước Geneva (Khối Thịnh Vượng Chung) năm 1957.
Ở Trung đông, chữ thập đỏ được thay thế bằng: lưỡi liềm đỏ.
Như vậy chữ thập đỏ không có nghĩa gì là phòng mạch cả. Nhà thuốc tây chỉ dùng chữ thập trắng nền xanh lá cây hay lục huyền bạch thập tự. Bịnh viện thì dùng chữ thập trắng nền xanh da trời hay thanh thiên bạch thập tự.
Xin đừng xài lầm màu các chữ thập, coi chừng bị gặp khó khăn: phạm pháp hay có thể bị phạt tội đấy!
Hi vọng ngần ấy cũng giúp quí vị hiểu rõ các ký hiệu và dấu hiệu để khỏi bỡ ngỡ, thắc mắc tìm hiểu bịnh trạng và khi hữu sự muốn tìm nhà thuốc hay bịnh viện hoặc cơ quan cấp cứu một cách dễ dàng nhanh chóng.
Sách báo (tra) tham khảo: (1) Bob Beale, Male, female and other. (2) Collins, Dictionary of Medicine (3) Gould Medical Dictionary (4) The Macquarie Dictionary (5) Văn Học Việt Nam, Dương Quảng Hàm (6) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
|