Hát bội và Cải LươngTrình độ văn minh của dân tộc của một nước thường được đánh dấu qua nghệ thuật sân khấu của bản xứ. Từ xưa, sân khấu Việt Nam có 3 bộ môn: Hát bội, Cải Lương và Thoại Kịch.
Hát Bội hay về lối cổ điển, về mặt hình thức tuy có phần cổ lỗ nhưng về mặt tinh thần nó tượng trưng cho cái “nho phong sĩ khí” của dân tộc Việt Nam, nêu lên được những gương nghĩa sĩ trung thần, nghĩa phu tiết phụ, những cảnh bạn thiết, tớ trung và phụ từ, tử hiếu. Những trạng huống éo le gay cấn trong lịch sử Tàu hay lịch sử nước ta đều được Hát bội đem ra trình diễn để làm gương cho hậu thế. Nghệ thuật Hát bội rất sâu sắc, người xem phải chú ý rất nhiều và quan sát kỹ càng mới có thể thấu hiểu được chỗ sâu sắc của nó.
Trái lại điệu Cải Lương là một lối hát bình dân, ai xem cũng có thể hiểu được. Nó hấp dẫn một số đông khán giả nhờ tính cách bình dân của nó; cách bố cục, phân màn và dàn cảnh đều phỏng theo lối Âu châu nên dễ xem.
Về Thoại Kịch mới phát sanh sau nầy, còn trong thời kỳ phát khởi.
Hát Bội
1/ Lược sử: Trước khi điệu Hát bội từ Tàu sang Viêt. Nam, chắc dân ta đã có một điệu hát riêng biệt của dân tộc mình vì trong những cuộc lễ công cộng, thường khi dân chúng tụ họp lại ngoài ăn uống thể nào cũng có múa hát vui chơi, hiện nay chúng ta cũng thấy rằng các dân tộc thiểu số ở miền sơn cước đều có điệu múa hát riêng của họ. Qua đến đời Nguyên bên Tàu (1285), tướng Toa Ðô sang xâm chiếm nước ta bị Hưng Ðạo Vương đánh đuổi. Khi quân Tàu thua chạy, quân ta bắt được một số tàn quân, trong đó có tên Lý Nguyên Cát biết múa hát. Nhà Trần hậu đãi tên kép hát ấy để dạy cho người mình về hình thức của điệu Hát bội như: cách múa men, vẽ mặt, mặc xiêm giáp vv… còn về nội dung của các giọng hát thì người mình đã có sẵn từ trước. Nói như vậy vì âm nhạc Hát bội của Việt Nam ta khác với âm nhạc của Tàu nhiều lắm. Giọng hát là do âm nhạc phát sinh, mà tiền nhân ta đã biết dung hoà cái hình thức điệu bộ của Tàu với nội dung âm điệu của mình sẵn có để tạo nên một lối hát đặc biệt Việt Nam.
2/ Đặc điểm của Hát Bội: Hát Bội là một nghệ thuật Tượng Trưng, từ cách dàn dựng trên sân khấu đến các điệu bộ đều có tính cách tượng trưng
- Sân Khấu:
Cách dàn cảnh của Sân khấu Hát bội rất đơn giản. Sân khấu Hát bội không khác nào một trang giấy trắng, trên đó soạn giả muốn vẽ vời thế nào tùy ý ; chẳng cần đổi cảnh, phân màn. Khán giả nghe câu hát của vai tuồng rồi tưởng tượng trong trí, biết nơi ấy là nơi nào. Vả lại, hầu hết những người Việt đi xem Hát bội thường đã đọc truyện Tàu nên biết rõ các chi tiết trong tuồng nên không cần phải trưng bày cảnh thực. Về sau, Hát bội đã bắt đầu bày ra trang cảnh .
- Điệu Bộ:
Các điệu bộ của Hát bội đều theo những qui tắc nhứt định. Từ cách cầm thương lên ngựa cho đến cách vuốt râu đều có vẽ tượng trưng.
- Màu mè:
Về phương diện tâm lý; muốn khán giả theo cùng cảnh ngộ vui, buồn, giận, sợ vv… diễn viên thường làm những màu mè như vui thì nét mặt hân hoan hai mắt sáng ngời, giọng cười ròn rã; buồn thì người hát nói lối thương rồi nước mắt rưng rưng sau đó bắt qua giọng Nam Ai làm cho người nghe phải mũi lòng rơi lệ; giận thì tay chỉ, miệng la lớn ; sợ thì rạp mình xuống, cặp mắt láo liên, hai bàn tay chấp lại, chân bước nhẹ, bộ còm ròm v.v…..
- Các giọng Hát Bội:
Hát bội có nhiều giọng: nói lối, hát nam, hát khách, xướng, bạch, ngâm, than oán, quân bang, quân bài v.v….
· Tuy nói Lối nhưng cất giọng cao gần như hát. Có 4 cách: Lối Xuân (nói chậm rãi, nghiêm nghị, thường dùng khi xưng tên và đàm thoại; Lối Ai (nói lúc buồn để tả tâm sự đớn đau thê lương); Lối Xẳng (lối nầy nói mau hơn lối xuân và lối ai, dùng trong lúc giận hay khi tỏ lời khí khái, dùng văn vần); Lối Thường (dùng văn xuôi).
· Hát Nam: là một giọng đặc biệt của Việt Nạm Những câu văn dùng trong điệu hát nầy thường là Thượng Lục Hạ Bát, Song Thất Lục Bát hay Lục Bát Gián Thất. Hát Nam có 5 điệu tùy cảnh ngộ: Nam Xuân (hơi thư thái, có vẻ bi hùng, thường dùng để tả cảnh hoặc tả tình; Nam Dựng.( có hơi Xuân nhưng tiếng phát âm hơi dựng dừng để tỏ sự cứng rắn của tâm tư);Nam Ai (giọng buồn thảm ai bi để tả tâm sự đau thương của vai tuồng); Nam Chạy (lúc bị truy nã cấp bách hay bị lạc vào rừng, vai tuồng vừa chạy vừa hát nên goị là Nam Chạy); Nam Biệt (chỉ sự xa cách nhau, kẻ đi người ở . Văn Nam thường dùng câu song thất hay có khi dùng câu lục bát).
· Hát Khách: còn goị là Bắc xướng, là một giọng hát có đờn kèn đưa hơi. Giọng Hát Khách rất hùng hồn và dũng cảm. Hát Khách dùng khi tướng võ cầm thương lên ngưạ để ra trận hoặc để truy nã giặc hay sắp làm một việc gì quan trọng.
Hát Khách có 5 điệu: Khách Thi (là một bài Ðường luật –thất ngôn tứ tuyệt- soạn bằng Hán văn); Khách Phú (câu hát soạn trên 7 chữ, dùng văn Phú lục, có vấn đáp như khi 2 tướng gặp nhau hỏi nguyên do về việc giao chinh. ..); Khách Tử (dùng khi lâm chung); Khách Tẩu Mã (dùng khi lên ngưạ chạy mau để trốn giặc, trốn tình nhân hay đi phi báo việc gấp); Khách Tửu (dùng khi uống rươụ)
· Xướng: tức là nói lớn lên một cách chậm rãi cho moị người đều nghe. Một vai tuồng mới khi ra mắt khán giả thường xướng 4 câu để tỏ tâm sự hoặc hoàn cảnh của mình.
· Bạch: là bày tỏ rõ ràng cho moị người biết . Bạch thường dùng Hán văn 7 chữ. Dùng cho những vai tướng võ, thầy ruà, kép núi… để biểu thị cái chí hướng hoặc tài lực của mình.
· Ngâm: là điệu ngâm thi Ðường luật. Giọng Ngâm nghiêm nghị và tha thiết dùng để tỏ tình luyến ái khi vợ chồng hay tôi chúa sắp xa nhau.
· Thán: là thẩn thở. Thường vai tuồng tự thán 4 câu hoặc nhiều câu bằng chữ Hán.
· Oán: là ai oán, dùng khi khóc người quá cố, hoặc khi oán trách vận mạng.
· Quân bẩn: thường hát khi quân cầm cờ hiêụ đứng tại cửa buồng hay đi ít vòng trên sân khấu để thị oai (lúc kéo binh đi đánh giặc hoặc sắp về trào để vấn tội nghịch thần).
· Hát Bài: các mỹ nữ thường hát Bài để chúc thọ cho vua.
Ngoài ra còn có Tán (Ðường hát Nam, đệm thêm một câu chữ Hán); Hường (là những tiếng Việt đệm ở giữa 2 câu hát hoặc 2 câu Lối để phụ nghĩa); Vĩ (dùng để chuyển từ câu Lối bắt qua hát Nam, hát Khách, hay muốn Ngâm, Thán….); Láy (trong điệu Hát bội, đào kép thường phải thêm những tiếng a, ư, ý, a, ừ, hừ ở sau một câu hát để cho án theo đờn kèn); Giáo đầu và Chúc vãn (giáo đầu hát lúc khai điễn và chúc vãn hát lúc buổi hát chấm dứt).
Ngoài những giọng Hát Chánh (đã nêu ở trên ) của Hát bội, còn nhiều giọng Hát Phụ khác dùng vào các trường hợp đặc biệt như: Điệu Thiền hay Thoàn (của Sư tăng); Điệu Phù Thủy (của Pháp sư); Thài (đào cầm quạt, vừa múa vừa hát); Giao Duyên (lúc vợ chồng hiệp cẩn giao bôi); giọng Gian Nan(của các vai hề) v.v……
- Lối Vẽ mặt và Xiêm y:
Việc vẽ mặt để đóng trò của Hát Bội bắt nguồn từ thời xưa vì hồi trước các tướng khi ra trận thường dùng mặt nạ, mão và xiêm y đều là sắc phục của Vua ban cho các quân mặc để đi chầu. Từ Thiên tử đến các quân, mỗi phẩm cấp đều có riêng sắc phục của mình. Hát Bội cũng trang phục giống như các quân trong triều và cũng dùng mão, áo rộng, áo giáp, cân đai, hia, cờ xí, binh khí của các quân văn võ ngày xưa.
- Âm nhạc Hát Bội:
Trước nhứt phải nói đến Trống Chầu. Trống chầu là thứ trống lớn để trên cái giá 3 chân. Nó không thuộc về âm nhạc của Sân khấu mà thuộc quyền ‘xử dụng’ của khán giả. Người cầm chầu đại diện cho khán giả để thưởng phạt các diễn viên trên sân khấu (như hay vừa thì được thưởng một tiếng “Thùng” đánh ngay giữa mặt trăng của Trống, nếu hay khá hơn thì được thưởng hai tiếng goị là “chầu đôi”, nếu thật hay thì được thưởng ba tiếng goị là “chầu ba”. Còn phạt thì thay vì đánh dùi trống vào chính giữa mặt trống thì người cầm chầu đánh ngoài bìa trống nghe “Tẩn” để diễn viên biết mà sửa, nếu lỗi trọng đại hơn thì bị phạt bằng cách gõ vào vẩn trống nghe “Cắc” để cảnh cáo diễn viên). Trống chầu cũng còn dùng để giục Khách (trước khi ra tuồng, để khán giả biết mà chuẩn bị đến rạp.)
Âm nhạc Hát Bội gồm có: trống, chiêng, chập chỏa, đờn, kèn và ống sáo.
¨ Trống: có 5 thứ - trống chiến (dùng khi đánh giặc cùng lúc múa hát, thường dùng hơn các trống khác); trống cái (là thứ trống nhỏ để ra hiêụ trong 3 nhịp đờn đưa hơi cho diễn viên biết đặng bắt qua nói Lối hay bắt qua hát Nam); trống cơm (thứ trống đài dùng khi hát Nam Xuân hay Nam Ai để đưa hơi phụ với đờn); trống bắc cấu(dùng với chập chõa khi các quân lâm triều hoặc khi vãn hát); trống linh (có 2 cái treo trong buồng dùng khi vua ra đại triều hoặc lúc mới ra tuồng khởi diễn.
¨ Chiêng: treo dưới cái giá để phụ hoạ với trống chiến. Người đánh chiêng dùng hai miếng tre hoặc hai miếng cây goị là cặp “sang” để đánh.
¨ Chập chõa: dùng với trống bắc cấu.
¨ Đờn: chánh trong điệu Hát Bội là cây đờn Cò (đờn nhị). Kế đó là đờn Gáo, đờn Kìm, đờn Tam, đờn Sến. Guitar mới dùng vào sau nầy nhưng nghe không hạp với điệu Hát bội nên có người dùng đờn Tranh thay vào.
¨ Kèn và ống Sáo: Kèn dùng khi hát Khách hoặc để gợi cảm giữa 2 câu hát Nạm ống Sáo dùng để phụ hoạ các cây đờn khi hát Nam hay hát Khách (cho nữ diễn viên). Nếu có hát giọng Hồ Quảng thì thêm cây “Cuổn” để đưa hơi Hồ Quảng.
...còn tiếp...
MCN
www.vietsuns.com Xin A C E mở xem thêm ở đây :http://www.vietsuns.com/...OPIC_ID=6211&whichpage=1