Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Đi thăm "Thành Phố Ma" ở Huế - Lê Văn Lân
Phượng Các
#1 Posted : Friday, July 14, 2006 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Đi thăm
“ THÀNH PHỐ MA” ở HUẾ
Lê văn Lân

Trở về với đất Huế tương phản thiên thu!
Sau hơn 30 năm xa cách quê hương, chúng tôi trở về đất Huế - nơi có lẽ duy nhất ở Việt Nam mà tôi nghĩ được xứng danh là vùng đất với nhiều tương phản.
Về thời tiết, Huế nóng cũng dữ và Huế mưa cũng hung! Nóng thì ngột ngạt với cơn gió Lào vào tháng 6 tháng 7 âm lịch thổi từ dãy Trường sơn. Còn mưa thì trời đang hè oi bức, bỗng trở thành lạnh lẽo vì ướt át và mưa lụt – gọi kiểu chữ nghĩa là nhất vũ tiện thành đông. Hằng năm, con sông Hương vốn dĩ hiền hòa thơ mộng có thể bất chợt vào một ngày trong thời gian từ tháng bẩy đến tháng chín trở nên hung dữ lạ thường! Vì với địa thế cận sơn và vũ lượng quá cao nhưng không thông thoát trong thời gian này, Nước sông Hương bỗng nhẩy lên bờ gây thành lũ lụt, - như lời tục ngữ của người dân - nước tràn dâng có lúc ngập đầu ngập cổ gần tới nóc mái, trôi phăng nhà cửa, đồng ruộng, trâu bò...
Còn về tâm tình dân xứ Huế thì cũng tương phản lạ lùng không kém. “Người Huế buồn trong lúc thế gian vui!” như lời thơ của một thi sĩ đất Thần kinh. Họ quen thở dài với đôi mắt buồn hiu dù trong lúc đang vui rạng rỡ khi nhớ nghĩ tới bao kỷ niệm về những nỗi thiên tai, loạn lạc can qua trên suốt giòng lịch sử.
Chưa hết, Huế còn được mệnh danh là thành phố của lăng tẩm. Bên cạnh những thành quách, phố phường phồn hoa của những người đang sống lại hiện diện một giang sơn thần bí dành riêng cho những người đã khuất:
Tứ bề núi phủ mây phong,
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên!
Tôi không biết có nên thi vị hóa ý văn đầy triết lý của ông Foulon –người Pháp từng sống ở Việt năm nhiều năm hồi đầu thế kỷ qua. Ông đã nói để đời với câu: Huế là nơi “ tang tóc ngậm cười và niềm vui não nuột”! (... le deuil sourit, la joie soupire)!:
Huế não nuột lúc vui tươi rạng rỡ
Huế mỉm cười khi tang tóc thê lương!
Nhưng ở Thành phố Ma : người chết reo cười!
Trong chuyến thăm lại Huế trong tháng ba vừa qua, vợ chồng người em chúng tôi nguyên là giáo sư Mỹ thuật đã thu xếp tổ chức cho chúng tôi viếng thăm một địa điểm mà tôi chưa từng nghe trước đây:“ Thành phố Ma”! Tôi bèn hỏi ngay: “ù Thành phố Ma” như kiểu những Ghost towns của vùng Viễn tây Hoa kỳ ngày xưa sao? ”. Với vẻ mặt không cười, người em rể của tôi liền đáp:” Ghost towns là thành phố hoang phế, không một bóng người. Còn nơi mà chúng ta tới thăm hôm nay – làng An Bằng mà người dân làng quen nói trại ra là An Bường vì kiêng cữ sao đó - có nhà của dân cư sống một cách bình thường. Họ sống đàng hoàng yên ổn hoàn toàn không bị hồn ma bóng quế hiện lên phiền nhiễu phá phách kiểu haunted houses! Sở dĩ nói thế vì nơi đây lăng mộ của người chết lấn đa số diện tích đất đai của nhà cửa người sống! Nơi đây linh hồn người chết không ngậm cười nơi chín suối như người ta thường nói, mà phải bảo rằng những hồn ma ở đây reo cười rạng rỡ, reo cười là đúng vì chốn này du khách sẽ bị choáng ngộp vì những kiến trúc mộ phần, lăng tẩm muôn mầu muôn vẻ tươi vui...
Câu nói của người em rể làm tôi liên tưởng nghịch lại ngay đến những cảnh mà tôi thấy ở Saigon, nơi mà người chết bị rõ ràng hắt hủi xua đuổi dành không gian cho người sống. Điển hình nhất là nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi, dù là cổ kính hiện diện lâu đời từ thủa mới tạo dựng hòn ngọc Viễn đông Sài gòn vào thế kỷ 19 đã bị chính quyền nhân dân đương quyền san bằng không nương tay để biến nó thành Công viên Lê văn Tám. Nơi này, hăøng ngày vào khoảng bốn rưỡi sáng, trời còn tối nhưng người ta bắt đầu kéo tới tập thể dục, đi bộ và múa thái cực quyền, múa gậy huyên náo, hồn ma nào còn dám hiện lên. Ngay cả khu Nghĩa địa Triều châu âm u nằm kín đáo ở cổng xe lửa số 10 Phú Nhuận gần nhà tôi ở cũ cũng bị san bằng để dành chỗ cho khu chợ Nguyễn đình Chiểu. Hầu như đa số những hài cốt cải táng ở đô thành đều bị dời xa tít lên khu Gò Dưa, nơi mà nhạc sĩ Trịnh công sơn mới được chôn! Nghĩ rốt ráo thì cũng do cảnh dân số gia tăng, mới hồi nào năm 1945, Việt Nam chỉ mới có ”25 triệu đồng bào”, mà nay đã tăng lên hơn 76 triệu người dù rằng đất nước chiến tranh bom đạn, bịnh tật đói rách! Phố phường chật hẹp người đông đúc, thậm chí người ta bất kể hiểm nghèo nước dâng cất vô số là nhà trên những bãi đất dọc sông Hồng ngoài bờ đê thành phố Hà nội... Đường sá lưu thông ở Saigon thì như là những giòng nước lũ của xe gắn máy, xe đạp, bụi mù lên, người đi đường đeo khẩu trang hay quấn khăn bịt mồm như những tên đạo chích xa lộ. Thậm chí trên vùng Cao Nguyên héo lánh núi rừng, dân Thượng thiểu số phải nổi loạn vì bị người Kinh dần dà di dân lên lấn át. Tuy có sự kiện giải tỏa nghĩa địa nhân dân và dời phá Nghĩa trang quân đội Ngụy, nhưng chính quyền cọng sản đã đặc biệt lưu tâm ưu đãi linh hồn chiến sĩ cách mạng của họ với nhiều đài liệt sĩ hơành tráng ở những góc đường hay với những bảng tên đường quê mùa lạ hoắc như Lê thị Riêng, N’ Trang Long...để một nhà thơ cách mạng nào đó lấy hứng viết thành câu: Một tấc khăn tang, một tấc đường!
Thành thử ra, cái làng chài lưới An Bằng nhỏ bé đầy lăng mộ nguy nga của những người thôn dân bỗng trở nên cõi thiên đường biểu kiến của người chết.

Thế là trên chiếc xe bao thuê Daihatsu nhỏ nhắn bẩy chỗ ngồi, chúng tôi đi thăm làng An Bằng với một niềm vui háo hức đầy tính chất nghịch lý này. Dựa trên những dữ kiện lịch sử, địa lý, nhân văn viết về làng này trên những báo chí địa phương, người em gái của tôi ngồi trên xe đã trò chuyện dẫn dắt chúng tôi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác: Nói là làng, chứ An bằng chỉ là một thôn nhỏ của những người chài lưới duyên hải. Thôn An bằng thuộc xã Vinh An, huyện Phú vang, tỉnh Thừa thiên Huế, nằm cách cửa biển Thuận An về phía nam khoảng 40 cây số.
Xe Daihatsu của chúng tôi đã vượt con đường liên thôn gập ghềnh đầy bụi đỏ dọc phá Tam giang, qua những xã Thuận An, Phú Thuận, Phú Hải trước khi tới xã Vinh An. Theo tài liệu cổ của triều Nguyễn, phường An Bằng đã có trên 400 năm. Vào triều Minh Mạng nó được qui vào tổng Diêm trường, huyện Phú vang. Diêm trường nghĩa chữ nho là “ruộng muối”, còn Phú vang viết theo chữ nho là Phú Vinh, nên chúng tôi dọc đường đi thấy toàn là những trụ cây số ghi những tên xã có chữ Vinh đứng đầu như Vinh lộc, Vinh Phước, Vinh Hưng, Vinh An... Thôn An bằng được mô tả cô lập như ốc đảo với biển cả và đầm phá bao quanh: biển ở phía đông, đầm phá Tam giang vây khắp phía còn lại, nên thôn làng nối với đất liền chỉ bằng con đường nhỏ trên bộ chạy dài từ Thuận An chạy qua con đập đắp qua cửa Hòa duân. Địa thế của làng An bằng khiến tôi nhớ đến bài thơ Quê hương của Tế Hanh:
Làng tôi ở, vốn làm nghề chài lưới,
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá...
Theo tài liệu địa bạ của tỉnh Thừa thiên dưới triều Nguyễn, diện tích thôn An Bằng có 1201 mẫu 4 sào nhưng 1201 mẫu 1 sào toàn là cát trắng! Vì là sống trên vùng toàn là cát trắng, nên dân làng chỉ sống chủ yếu về chài lưới. “Trước đây chúng tôi cực lắm _ một người dân An Bằng tiết lộ – Làm nghề cá khi gặp trời yên bể lặng thì đủ ăn. Còn không thì ăn cháo xương rồng. Bây giờ đời sống của chúng tôi tương đối sung túc nhưng không bao giờ quên những ngày cực khổ ấy” (phóng sự của Hồ Vĩnh: “Xa rồi Thành phố lăng” Tuyển tập Nhớ Huế số 5, Nhà Xuất bản Trẻ). Món xương rồng ăn đỡ dạ thì không sao, nhưng ăn nhiều thì mặt phù thũng. Cái cực khổ này còn bi đát hơn với sự kiện” đến chất đốt sử dụng để nấu nướng và sưởi ấm mùa đông cũng chỉ là những nhánh thông èo uột khẳng khiu mà trẻ mót lượm trên vùng cát trắng miền trung, vốn khô cằn lũ lụt hằng năm” (theo tài liệu của Tổng đội Xây lấp Thanh niên Đà Nẵng – tháng 11 năm 2000). Nhưng rồi bắt đầu vào khoảng năm 1990, qua sự cởi mở của nhà nước, thôn An Bằng nghèo khổ bỗng như nàng Lọ lem trở thành công chúa. Khi thăm thôn làng này với một tổng thể phong phú của những ngôi lăng mộ nguy nga cất bằng bê tông, nhà du lịch người Pháp tên André Crozeilles phải thốt lên kinh ngạc ” Một vùng cát trắng mà trở thành một đô thị người chết!”
Bàn tay ta làm nên tất cả?
Do đâu mà làng An Bằng đã thay hồn đổi xác? Câu trả lời là Tiền viết hoa! Vào giai đoạn sau 1975 trong đợt đánh tư sản, có tiền, có vàng là một cái tội bị tù, bị đi vùng Kinh tế mới. Nhưng sau đó thì hoàn toàn tương phản lại, nhất là giai đoạn mà Nhà nước cổi trói đổi mới:
Tiền là Tiên, là Phật
Tiền là sức bật của lò xo.
Tiền là thước đo lòng người,
Tiền là nụ cười của tuổi trẻ,
Tiền là sức khỏe của người già!
Tiền là cái đà danh vọng,
Tiền là cái lọng che thân,
Tiền là cán cân công lý,
Tiền là hết ý!
Mà tiền đây không phải là đồng tiền Việt Nam có in hình Bác Hồ mà là đồng US Dollars, một đồng ăn 14 ngàn 5 trăm đồng VN. Thậm chí, tiền vàng mã bán ở Việt Nam cũng phải in thành giấy Năm trăm đô la Mỹ mà đốt thì ông bà mới ngậm cười dưới suối vàng. Do đó, ở làng An Bằng cũng như nhiều làng xã vùng Thuận An trong vòng 10 năm trở lại đây nhà cửa và lăng mộ cất lên như nấm là do những Việt kiều ở hải ngoại, đa số từ Mỹ “ôm“ ngoại tệ về thăm quê hương. Theo ông Hồ Vĩnh, toàn xã Vinh An có 1.800 hộ dân, trong đó thôn An Bằng có khoảng 800 hộ nhưng có đến 75 % dân có người thân là Việt Kiều. Theo Nhật báo Lao Động ngày 13 tháng 10 năm 2000, tuy con số hộ dân An Bằng chỉ có khoảng 870 nhưng có đến hơn 1200 ngôi mộ, nhà thờ họ tộc, đình làng mới xây hoặc xây đi xây lại ba bốn lần, chen lẫn trong các khu gia cư . Theo tờ Thế giới mới 31 tháng 8, năm 2000, thì làng An Bằng có 43 tộc họ” nghĩa là có 43 từ đường được con cháu đóng góp để xây sao cho kềnh càng hoành tráng... Thấy từ đường họ H. bên cạnh liên tục tái thiết ba đợt, mỗi đợt thêm tốt đẹp, họ L. liền cho đập đi, xây lại từ đường của mình những bốn lần, mỗi lần cách nhau chỉ dăm tháng. Mà chi phí cho việc xây mới đâu ít ỏi gì, mỗi lần cả trăm ngàn đô!”
Do đó, ta có nên kết luận rằng đồng đô la Mỹ quả là có sức bật kinh khủng của Tiên, của Phật trong thế giới cọng sản, và riêng làng An Bằng và các làng kế cận, đô la là lăng mộ của người già. Với quan niệm “sống gửi thác về” và “ sống nhờ mồ nhờ mả, chứ không vô cả bát ăn”, trong số bao nhiêu lăng mộ đang xây cất ở làng An Bằng có rất nhiều ngôi sinh phần tráng lệ phá đi xây lại nhiều lần mà con cháu ở hải ngoại muốn chí tình ôm đô la về để đền đáp công ơn sinh thành của những bậc cha mẹ đang còn sống mặc dù gia cảnh rất khiêm tốn, hoàn toàn không cao sang phú quí chút nào. Trong bài Lễ hội Cầu ngư ở Thuận An,( trong tập Hỏi đáp về Triều Nguyễn và Huế xưa – nhà Xuất bản Trẻ), ông Nguyễn đắc Xuân không biết có bôi bác không đã ghi lại rằng: “ Các nhà hoạt động xã hội từ thiện thì không thể quên cách đây vài chục năm, vào những tháng mưa lạnh kéo dài, dân Thuận An không thể đi biển được, họ phải thường chống gậy lên Huế xin ăn” ( trang 104). Bấy lâu nay, nhà nước Việt Nam cố tình không muốn nhắc tới sự kiện người dân vượt biên! Vì vượt biên là chống đối cách mạng, là “ bỏ phiếu bằng chân “ tìm tự do mới bỏ xứ ra đi! Vượt biên là cái tội mà công anï nếu bắt được thì bỏ tù dù là trẻ con còn đang bú mẹ. Nhưng nay thì vì sức mạnh Tiên Phật của đô la làm người cọng sản phải gọi dân Việt kiều trở về là “ núm ruột ngoài ngàn dặm” với bó đô la đem về giúp nước. Cũng trong bài dẫn trên, ông NĐXuân viết: “ Các cơ quan an ninh, sau 1975, đã từng nhức đầu vì Thuận An có tỷ lệ vượt biên cao nhất ở Việt Nam. Có nhiều hộ có đến năm sáu người bỏ nước ra đi” (trang 104). Có nguồn dư luận như ông Hồ Vĩnh trong bài “Xa rồi Thành phố lăng” nhắc ở trên cho rằng dân Việt kiều An Bằng phung phí, “không biết tích cóp để giảm bớt kinh phí trong việc “ bê tông hóa” lăng mộ thì An Bằng sẽ có một trường học khang trang nằm cạnh ngôi đình mới xây dựng, nhằm giữ lại nét đẹp của truyền thống văn hóa”. Ý kiến này rất xây dựng nhưng không phải dân Việt kiều An Bằng không nghĩ tới như trong bài “ Một ngôi trường cho làng An Bằng’ của Nguyễn Bá Trác trên số Việt Mercury số 107 ngà 9 tháng 2, 2001 qua ý kiến của hai ông Văn Nhân Đạo và Lê Thanh Lâm gốc An Bằng trong chuyến về thăm Việt Nam đã tiếp xúc với Hội Khuyến khích và Hỗ trợ Phát triển Giáo dục Việt Nam để thăm dò dự án. Nhưng dự án của hai vị Việt kiều có tâm huyết có thực thi được hay không lại là một chuyện khác, tùy theo cái nhìn đa nghi Tào tháo của chính quyền địa phương đối với cái nhiệt tâm của hai ông. Bộ muốn dùng đô la mà “ diễn tiến hòa bình” sao đây! Vả lại, nói chí tình, lo việc công ích xây cầu, xây chợ, xây trường là bổn phận của chính quyền phải lo cho dân kia mà! Sao lại trông nhờ vào tiền mồ hôi nước mắt của dân Việt kiều làm việc lam lũ ở hải ngoại đem về! Hăm sáu năm sau khi thống nhất đất nước, nhà nước Việt Nam có xây dựng gấp năm, gấp mười như nguyện vọng mơ ước của ông Hồ trong bài “Thơ chúc Tết Mậu Thân – 1968” hay là vẫn còn đổ tội cho tàn dư của chiến tranh nên đành tụt hậu!
Còn về luận điệu trách cứ dân An Bằng nghèo khổ bỗng nẩy ý xây mộ kiểu vương giả để báo hiếu cho cha mẹ tổ tiên là quá đáng? Nếu vậy thì người ta nghĩ thế nào về chính quyền Huế vì ham kiếm chút ngoại tệ, đã tổ chức trò hề cho du khách ngoại quốc mặc áo hoàng đế, hoàng hậu ngồi trên ngai chụp ảnh ở nhà Hữu Vu sau điện Thái Hòa, hoặc dùng Ngự Thiện (ăn cơm vua) trong cung nội tôn nghiêm của Hoàng thành? Trên một khía cạnh nhìn, chuyện xây lăng mộ của người dân An Bằng và ở các làng ven biển Thuận An Huế là một dịp mà người dân giã, tuy là do động lực háo danh, đã vô tình phục chế lại những nét kiến trúc cổ truyền trong các kiểu lăng mộ vương giả gần như bị thất truyền từ hồi hết vua chúa năm 1945! Người Cọng sản Việt Nam thường ca tụng cái lý tưởng: Bàn tay ta làm nên tất cả, Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm! Không biết ta có nên sửa lại là Đồng đô la làm nên tất cả, Với đô la, dân giã cũng thành vua!
Nhớ ơn Tạo hóa xoay vần!
Trong chuyến trở lại đất Huế thân quen sau nhiều năm xa cách, tôi thấy quãng đường từ Huế về cửa Thuận An có khá nhiều thay đổi vì có nhiều xây cất mới, những ruộng nước mặn nuôi tôm cua mới mọc lên. Tuy nhiên những nét quê quen thuộc vẫn còn phảng phất. Nhưng từ Thuận An xuôi về nam dọc theo phá Tam giang cho đến địa danh An Bằng, tôi đã có nhiều ngạc nhiênvà cảm nhận đặc biệt. Xe mới chạy khỏi Thuận An 3 cây số, tôi phải la hoảng đòi dừng xe lại cho tôi chụng hình mấy kiến trúc đang xây dọc triền đồi dọc theo con đường liên lộ. Em tôi liền khuyên tôi bình tĩnh dành phim cho Thành Phố Ma hay Thị trấn Quá khứ của An Bằng. Có thể nói, dọc đường từ Thuận An đến An Bằng, mọi chùa chiền, am miếu,đình làng nhà thờ họ đều được xây cất trong vòng vài năm nay. Vùng trảng đồi cát bên kia con đường chạy dọc theo phá Tam giang xưa kia chỉ là những thôn chài nghèo nhà tranh vách lá với vùng mộ địa cát trắng mênh mông như sa mạc Sahara ở Phi châu. Cây cối không đủ sức mọc vì nước ở đây vừa lợ lợ vừa lắm phèn. Ngày nay , dài dài theo đường, tôi thấy phần nhiều nhà cửa bằng vật liệu nặng, lai rai có nhà hai tầng, không to lớn gì nhưng khang trang tuy có đôi chút “ kiểu cọ”. Không khí ở đây có nhiều nơi nặng mùi cá mắm. Con nít thường tụ họp chơi đông trên lòng đường, bất kể xe hơi bóp còi, dưới những khẩu hiệu Kế hoạch hóa Gia đình khuyên chỉ nên đẻ hai con để nuôi dưỡng chu đáo hơn ( nhiều hơn kế hoạch one-child policy của Trung quốc!). Con nít còn trèo vào những ngôi mộ khi tôi chụp ảnh. Điều làm tôi kinh ngạc là những cổng tam quan to lớn, những trụ biểu khổng lồ có rồng quấn của những nhà thờ họ. Tôi bị choáng ngợp trước một ngôi lăng có kiến trúc đặc biệt nằm xoay ra mặt đường: Mặt tiền là lưỡng sư triều đỉnh ( cặp sư tử chầu đỉnh đốt trầm), kế đó là bốn cột trụ tam quan lớn chạy rồng ôm không soát một vòng tay, trên đầu chóp trụ ( chapiteau) là hai tầng lồng đèn ( lanterne) với góc mái cong vút với motif ngọn lá, bốn đỉnh trụ là bốn con nghê ( kỳ lân). Sau bốn trụ tam quan, là bi đình ( nhà bia). Nhà này nền dưới vuông vức có bốn cột nâng một cái mái tròn có hai tầng, ý hẳn tượng trong hình ảnh vuông tròn của vũ trụ. Phần vuông dưới trang trí theo nét Trung Hoa có một bia đá bằng đá granito màu xám đội bởi con rùa vàng và diềm mái chạy hoa sen. Nhưng phần mái tròn ở trên trông có vẻ chịu ảnh hưởng đậm đà của mỹ thuật Ấn độ hay Batư, vòng cung của cửa vòm là một hình tròn bán nguyệt với hai đầu hơi cúp lại. Nóc vòm trông giống như cái lọng hay hình cái bảo bình chứa cốt Phật, nhưng cái lan can lại chạy hình hoa huệ của Tây phương thật khó phê phán. Kế đó là hai nhà thạch quách (sarcophage) còn gọi là tẩm chứa hai cái áo quan bên trong theo kiểu song táng trong quan ngoài quách kiểu như lăng vua Gia long theo ý niệm Càn khôn hiệp đức. Cuối cùng là một bức hậu bình phong đồ sộ tô điểm với hai hình cuốn thư. Trên bia granito, có khắc một bài thơ bằng chữ quốc ngữ thếp vàng nhũ như sau:

Thành tâm sáng lập năm 2000
KHIÊM VĂN BIA BÁO SONG THÂN
Ân cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như biển đại dương Thái bình.
Cháu con cùng một nguồn sinh,
Đời đời nối dõi chút tình báo ân
Nhớ ơn tạo hóa xoay vần
Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn
Diện tiền núi Ngự Trường sơn
Tam giang phẳng lặng châu thuyền vãng lai
Mặn bồi một dải đất dài
Thái bình lãnh hải an bài tôn lăng
Mùa hè Ất sửu khởi công
Khánh thành an vị đầu xuân Mậu dần
Hai ngàn năm Mão cuối đông,
Lòng thành con cháu vui mừng tạo bia
Được nhờ phúc ấm xưa kia,
Ngàn năm xây dựng lăng bia an lành.
Đàn con cháu nội ngoại nam nữ từ hải ngoại.
Tuy lời thơ lục bát nhiều câu gieo lạc vận, nhưng ý thơ chân thành cảm động, phản ảnh đúng thực tế trước mắt về địa thế của ngôi lăng xây trên dẻo đất dọc theo phá Tam giang: Mặn bồi một dải đất dài, Thái bình lãnh hải an bài tôn lăng.
Câu Nhớ ơn tạo hóa xoay vần, Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn ngẫm nghĩ lại mà nghe sao mà đúng thế.
Nếu tạo hóa đất trời không xoay vần đổi ngược, dân chài nghèo khó ven biển đâu có chuyện vượt biên, họ đâu có trôi dạt qua cái “xứ Hoa kỳ của cơ hội“ để con cái họ đâu có cơ duyên học hành thành kỹ sư, bác sĩ, và cuối cùng họ đâu có đem đô la về xây lăng báo hiếu nhỉ!
Trên đường đi đến làng An Bằng, chúng tôi vượt gập ghềnh qua nhiều khúc đường còn đang sửa chữa vì bị bão lụt bức phá. Có khúc còn là đường đất ghẻ lở, lỗ hang, có khúc trải nhựa có đèn đường, có khúc được trồng cây hai ven đường khá đẹp đẽ. Người ta giải thích rằng những khúc đường trải nhựa có đèn đường là những đoạn băng qua các “ làng anh hùng” có công với kháng chiến chống Mỹ cứu nước vì chúng tôi thấy gần đó có một đài liệt sĩ lớn. Nhưng những khúc đường khang trang, tô điểm với cây trồng hai ven lộ thì lại do những núm ruột ngàn dặm giàu có từng xuất thân từ các thôn xóm trong vùng đem tiền vè đóng góp giúp địa phương tu bổ nên. Tuy nhiên, lâu lâu chúng tôi lại thấy có vài người tạt từng thau nước lớn ra đường trước khi thấy xe chúng tôi qua để tránh bụi đỏ mù lên!
Thị trấn của Quá khứ là đây!
Cuối cùng chúng tôi đã tới An Bằng một địa điểm nhỏ với quá nhiều tên: Thành phố Ma, Đô thị của Người chết, Thành phố Lăng và Thị trấn của Quá khứ. Phải chăng đây là một thí dụ tiêu biểu điển hình nhất ở Việt Nam sau khi Đảng ta cho đổi mới cho phép nhân dân mặc sức tiêu xài thoải mái vì chuyện có tiền, có vàng, có đô la không phải bị làm tình, làm tội như trong quá khứ. Theo nhiều người nhận xét, cũng giống như mắt quan sát chúng tôi, nhà cửa trong vùng xây cất không xây cất bao nhiêu, có lẽ không có nhu cầu cho ít oi người ở lại, người cư trú cũng không muốn gánh thêm phiền hà, tốn kém lôi thôi. Thành ra chữ Hiếu của người tha phương được tập trung vào việc xây cất lại mồ mả tổ tiên cho thật khang trang, càng khang trang càng tốt, càng vinh dự. Nhưng cũng có người nhăn nhó vì một số đình miếu cũ đã dược thay đổi một cách oan uổng. Lắm ngôi mộ vì lỡ xây cất hơi sớm, kiểu cách không tân kỳ nên sau phải bị phá đi và xây cất lại cho bằng hay hơn người ta.
Nhưng cũng nhờ chữ Hiếu của khúc ruột ngàn dặm đã đem lại công ăn việc làm cho bao nhiêu người trong một thời gian dài. Nhờ đó mà đường sá từ Thuận An về lần hồi được chỉnh trang để chở vật liệu mọi thứ từ Huế về, kể cả cát vì ở Thuận An chỉ có cát trắng mịn chỉ đựng vào bình lư cắm nhang là tốt, còn xây cất thì dùng cát vét từ lòng sông Hương chở về. Nền đất ở ven biển là cát nên mọi xây cất phải dùng bê tông. Người ta nói rằng mộ chôn đất cát thì thây người chạy mất, cải táng không thấy xương. Thử nhìn vào báo cáo vật liệu đọc công khai ngày lễ khánh thành ngôi đình làng An Bằng cũng đủ khiếp: 22 tấn xi-măng, 14 sắt thép đủ loại... kinh phí tổng cọng hơn 1, 4 tỷ đồng bạc VN.
Nghề xây lăng mộ vương giả, cất đình cất chùa, xây từ đường hầu như không còn phát đạt như cái hồi còn vua chúa trước 1945. Lớp nghệ nhân cũ thợ ngõa, thợ nề, thợ mộc, thợ chạm theo đường hướng cổ truyền còn sót hiện nay cơ hồ lác đác như lá mùa thu sau bao nhiêu chiến tranh. Đi tìm lại những tay thợ lão làng – con cháu của lớp nghệ nhân thuộc Nê Ngõa Tượng Cụ của Triều đình Huế xưa - còn biết cẩn sành, cẩn sứ chạy rồng chạy phượng trên mái hay trên trụ biểu để truyền nghề cho lớp trẻ cũng thiên nan vạn nan, dù rằng đất Huế vốn là đất đông Phật tử nên có thể còn nhu cầu xây cất lắm chùa, lắm chiền! Người em rể tôi vốn là giáo sư dạy Đại học Mỹ thuật Huế chỉ cho tôi thấy loại sứ đã dùng để cẩn tường. Dân An Bằng chắc phải mua loại sứ từ ngoài Bắc thuộc xã Bát tràng gì đó, thứ đồng màu để làm vẩy rồng lông phượng cho thích hợp, công việc tốn kém đã đành nhưng không phải chóng vánh dễ dàng... [Theo giáo sư Phan Thuận An – chuyên viên Huế-học và nghiên cứu của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, từng qua Bắc kinh du khảo về di tích kiến trúc cung đình Trung quốc, nói rằng: “ Tôi không thấy bất cứ ở đâu bên Trung quốc có nghệ thuật ghép sành sứ như của ta ở lăng Khải Định” khi đáp cuộc phỏng vấn của Nguyễn Đắc Xuân trong cuốn Văn Hóa Cố đô –trang 126 – Thuận Hóa Huế – 1997.]
Mọi thứ vật liệu người dân phải tự lo liệu lấy, chính quyền không muốn hay không dám dây dưa chính thức vào “công việc xấu xa” vừa xa xỉ vừa theo nghệ thuật phong kiến. Nhìn công trình xây lăng mộ ở vùng Thuận An và làng An Bằng, nếu không quá đáng cho đó là một kỳ quan, thì người ta phải khen người dân ở đây đã tự động xuất công, xuất của để phục chế lại nghệ thuật cổ truyền, trong khi nhà nước Việt Nam đang vận động, năn nỉ cơ quan UNESCO tài trợ để phục chế xây dựng lại cung điện và lăng tẩm cho nhu cầu du lịch. Nghe nói tờ báo “ Tuổi trẻ” có đề nghị biến thành phố An Bằng làm khu du lịch... Nhưng chả bao lâu sau, báo chí khác trên đất Thần kinh đã mạnh mẽ mắng cái đám người muốn công khai hóa “ công việc xấu xa” đó` cho toàn thế giới biết sao khi người du khách hỏi do tiền đâu mà xây dựng ra.
An Bằng: ngọn lửa phục chế nghệ thuật bùng lên cho lịch sử sang trang.
Bước vào địa đầu của xã Vinh An, tầm mắt chúng tôi bỗng choáng ngợp như đứng trước một đám nấm kiến trúc khổng lồ đủ mầu, đủ cỡ mọc lên lố nhố trùng điệp sau trận mưa rào. Khác với cảnh dọc đường từ xã Thuận An, âm phần của người chết nơi đây không nằm riêng biệt trên những sườn đồi hay nương vườn xanh tốt mà là trải dài ra trên bình diện lẫn với gia cư dương cơ của người sống. Ở đây, du khách hoàn toàn không có cảm giác âm khí nặng nề, buồn hiu như cảnh nghĩa địa Tây phương với cảnh ngút ngàn của rừng thánh giá trắng toát. Trái lại, người ta có một cảm giác vui thú bừng lên như đang nhìn ngắm một bức tranh Tết dân gian vẽ với những màu sắc đầy Việt nam tính: đỏ cánh sen, đỏ cam, vàng hòe, lục và tím. Tác giả Pháp Jean Marquet thật lém lỉnh khi nhận định rằng đám táng Việt Nam”có cái gì vui thú” (L’enterrement annamite a quelque chose d’amusant!) như trong bài tập đọc Pháp văn Livre Unique của tôi hồi bé. Cái vui thú cho một tâm lý Đông phương về quan niệm “ sống gửi thác về” mà dương gian là cõi tạm, âm thế mới thật là nơi vĩnh phúc ngàn thu.
Phóng mắt nhìn bao quát, dựa vào những biểu tượng trên những lăng mộ, tôi thấy nơi đây Phật Chúa nằm chung: mộ Phật tử hay dân lương thì trang hoàng với hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp hay ít ra với hình chữ Phúc; còn con chiên Thiên Chúa thì nằm yên nghỉ dưới bóng Thánh giá hay cổng chữ M của Mẹ Maria. Vinh quang Chúa cả trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm! Thôn làng An Bằng (hay An Bình) quả đã mang cái tên theo định mệnh dành cho mối duyên tình thiện tâm cho con cái của Phật và Chúa nằm gần nhau.
Đứng trước một rừng gồm hơn cả ngàn lăng mộ trước, với một tâm tình khao khát muốn tìm hiểu, tôi bỗng ước ao có một kiến thức uyên thâm như linh mục Léopold Cadière, nguyên là bỉnh bút cho Tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế - viết tắt là BAVH) hồi đầu thế kỷ 20. Linh mục đã đặc biệt dựa vào sự khảo sát 317 ngôi mộ Việt Nam xây trong vòng chu vi đất Huế từ bực vương giả cho đến người dân mà viết ra bài Tombeaux annamites dans les environs de Hué (BAVH năm 1928). Ngài đã phân loại những hình thể, kiểu thức của các loại mộ xây (nấm tròn, nấm vuông, nấm trứng ngỗng, nhà thạch quách hay tẩm v.v...); những bờ vây quanh gọi là uynh thành ( enceinte) đủ cách tròn, thuẫn, vuông, chữ nhật...; những cổng vào có cột vuông, cột trôn ốc, cột hình giao long; những cổng tam quan vòm cong hay hay hai, ba tầng mái; những hình tay ngai mộ.Ngoài sự phân loại trên, cố Cadière còn mô tả những bức bình phong, những bái đình, những bàn long đình để tế mộ, những nhà bi đình, những miếu thổ thần bản địa vv... Muốn thưởng thức những họa tiết trang hoàng hoa lá, bức cuốn thư hay tranh tứ quí hoặc những kiểu sức trang trí biểu tượng cho tín ngưỡng Nho Phật Lão trên các lăng mộ ở đây, tôi thấy cần phải tìm đọc lại cuốn L’Art de l’Annam của H. Gourdon ( Paris – 1934) hay L’Art Vietnamien của L. Bezacier ( Paris – 1954). Nhưng muốn chuyên biệt hiểu về cố đô thần kinh, tôi phải dò lại từng chi tiết trong cuốn L’Art à Huế của linh mục L. Cadière viết năm 1919 để thẩm định sát về nghĩa địa của làng An Bằng, xã Vinh An. Tôi nghĩ nơi đây cơ hồ là một cứ điểm cuối cùng ở Việt Nam đã tạo cơ hội phục chế lại đa số những tàn tích nghệ thuật triều Nguyễn do những tay thợ - hậu duệ còn sống sót của những nghệ nhân Nê Ngoã tượng cục trong triều đình Huế ngày xưa.
Tôi bỗng dâng lên niềm cảm phục cho những tay thợ cuối mùa đã tạo dựng nên Thị trấn Quá khứ An Bằng này qua bàn tay đa diện đa năng: xây nề cũng họ, đúc chạm cũng họ, cẩn sành sứ cũng họ, và tô màu vẽ lá hoa cũng họ. Đúng như nhận xét của Dr. L. Gaide & H. Peyssonnaux trong bài khảo sát Tombeau de Kiên Thái Vương (BAVH 1925): Pour achever, nous dirons qu’en Annam, c’est le même ouvrier qui, tour à tour, se fait macon, sculpteur, mosaiste et peintre.
Và tôi cũng muốn tạ ơn Trời! Nếu không có hiện tượng Nhờ ơn tạo hóa xoay vần, Miếu lăng xây dựng chia phần đáp ơn của dân An Bằng rủng rỉnh đô la thì những người thợ trên đâu có dịp chót thi thố tài năng của họ trong cuối thế kỷ 20. Vì nhìn lại lịch sử nửa thế kỷ qua, tôi thấy đúng là Tạo hóa gây nên cuộc hí trường! Người Cọng sản V.N hồi nào đã chủ trương cực đoan đập phá mà họ gọi là “làm cách mạng”. Với chiến thuật tiêu thổ kháng chiến năm 1947 nên họ đã không ngần ngại chất rơm thiêu rụi Điện Cần Chánh, Đại Cung môn, Điện Khôn Thái, lầu Kiến Trung. Người ta nói rằng quân Pháp lúc tái chiếm Huế mà đổ bộ trễ hơn thì cửa Ngọ Môn và Điện Thái Hòa cũng bị tiêu hủy luôn. (Viên tướng Tư lệnh quân đội Đức lúc rút quân khỏi Paris đã không nỡ thiêu rụi thành phố lịch sử này cơ mà!). Người Cọng sản VN miệng thì nói Cách Mạng trước sau như một, nhưng hành động từ cực đoan này sang cực đoan kia. Họ đã chống Trời, chống tôn giáo tín ngưỡng, chống thờ cúng, chống vua chúa, chống phong kiên, chống tư sản,... Chống đủ thứ rồi lại sửa sai! Trong vòng thập niên qua, họ hô hào” cởi trói và đổi mới” nên dần dà họ cho phục chế trở lại như xưa. Nếu họ quả là thành thực “ hồi tâm” thì tôi nghĩ là lịch sử dân tộc sắp sang trang. Mong vậy thay! Công việc xây lăng mộ của làng An Bằng và các xã Thuận An, tuy là một hiện tượng địa phương, chính là một dữ kiện khiến chúng ta suy gẫm sâu xa về lịch sử.
Chúng tôi không có thì giờ thăm tỉ mỉ toàn khắp ngôi làng. Và cũng không đủ kiến thức nhận định về khía cạnh nghệ thuật của những lăng mộ ở đây. Trong các lăng mộ ở đây, tôi đặc biệt chú ý một vài ngôi lăng mô khá tiêu biểu ở đầu làng mà chụp hình kỹ lưỡng. Một ngôi mộ theo Phật giáo xây năm 1999 với những hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp luân đúc trên cổng tam quan, cột chạy rồng cẩn sứ xanh với những họa tiết tứ quí: mai lan cúc trúc. Muốn lên cổng tam quan này, du khách phải bước lên năm bậc cấp , hai bên trang trí cặp kỳ lân, ở chính giữa là một đỉnh trầm màu vàng hòe lớn cao nừa tầm người; đỉnh đứng trong một vòng cung chạy hình đúc mây khói. Sau cổng tam quan, là nhà bia hay bi đình có một tầng mái hình lục giác với góc cong lên, lợp ngói hoàng ly. Đặc biệt trên từng mái bi đình là một cái tháp tròn có tượng Phật ngồi có hai từng mái trông xa giống cái bảo bình đựng cốt Phật, riềm mái chạy hoa sen. Trên chót đỉnh bi đình cũng như trên chót bốn trụ cổng tam quan là hình năm quả bầu, tượng trưng cho bầu Thái cực.
Sau bi đình là những ngôi tẩm chứa những thạch quách tô diểm với họa tiết chữ Vạn và hoa sen. Cuối lăng là một cổng sau với ba tầng mái với lưỡng long triều nguyệt.
Nhưng điều làm tôi chú ý nhất và cho là có ý nghĩa minh giải nhất là đôi câu đối bằng chữ nho tô màu cánh sen trên hai cột cổng tam quan:
Tiền Tây Nam chiếu sa bồi Mỹ địa tân
Hậu Đông Bắc tiếp thủy hải Giang sơn cựu
Mặt Tây Nam trước mộ chiếu hướng về vùng cát bồi có nước Mỹ mới.
Phía Đông Bắc sau lăng tiếp giáp biển sông là Quê cũ Việt nam
Câu này tả vị trí của ngôi mộ nhưng đồng thời cũng gói ghém tâm tình của những người con cháu lập mộ tuy rằng trước mắt có một “quê Mỹ đẹp mới” ( Mỹ địa tân) nhưng vẫn không quên sau lưng tình nước non của quê Việt cũ ( giang sơn cựu). Phải chăng là nhờ Tạo hóa xoay vần! Nếu không thì người dân thôn chài nghèo khổ sao lại có hai quê hương như vậy. Nhưng họ đã cư xử đầy nghĩa tình đôn hậu: có mới nhưng không quên cũ, ưống nước nhớ nguồn. Những lăng mộ mà họ bỏ tiền mồ hôi nước mắt cho ông bà cha mẹ _ không những là một hình thức để báo đền ân nghĩa _ mà còn là một cơ hội để họ thực thi lại cái đẹp khuôn sáo ước lệ cổ kính của dân tộc mà bấy lâu bị cấm đoán hay mơ ước mà không thề thực hiện được vì thiếu tài chánh. Những kiểu thức, họa tiết đầy ước lệ trên những ngôi mộ trong mắt họ vẫn là những ký hiệu để người dân chất phác tìm thấy sức mạnh truyền đạt những ước mơ, khát vọng về một niềm hạnh phúc của người dân trong lòng một xã hội an lạc, đất nước thái bình, hơn là tin theo những khẩu hiệu tuyên truyền của Nhà nước về một lý tưởng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngôi lăng thứ hai tiêu biểu mà tôi chụp là của những người dân An Bằng theo Thiên Chúa. Cổng tam quan của lăng theo những người thợ đang xây nói kinh phí xây cũng khoảng 30 ngàn đôâ. Cổng này nhìn đại thể cũng giống bên lương với cột chạy rồng với hai tầng mái lợp ngói lưu ly vàng. Nếu con số 3 của cổng theo Phật giáo là Tam Bảo : Phật_ Pháp- Tăng, nhưng hiểu linh động với quan niệm Thiên chúa giáo là Chúa Ba Ngôi. Nhưng những điểm khác biệt mà tôi nhận xét trên cổng tam quan Thiên chúa giáo như sau:
_ trên cổng giữa hình vòng cung có chén Mình Thánh Chúa tỏa hào quang
_ những chót cột trụ hình nhọn hoắt theo kiểu Gothic vút lên cao
_ các họa tiết trên hai cột giữa hay các hộc vuông dưới diềm mái là hình thánh tâm, quả tim quấn vòng gai rướm máu và các hình ảnh trích từ Kinh thánh Tân ước với hình Chúa giảng trên núi về tám mối phúc thật , hình Chúa trên biển hồ Ga li lê ...
_ màu xanh của Đức mẹ Maria được dùng ưu thế để tô bốn cái cột tam quan hay tranh vẽ họa tiết.
Sau cổng tam quan là những tẩm chứa quan tài của những người quá cố. Cuối lăng là kiến trúc một bàn thờ với hình Thánh giá mầu xanh va hình chim bồ câu Thánh linh màu trắng.

Trên đường xe trở về thành phố Huế, sau khi thăm lăng mộ vùng Thuận An và làng An Bằng xã Vinh An, tuy rằng mệt nhoài nhưng riêng tôi cảm thấy lời của người em rể là ý vị: Người chết ở đây đang tươi cười dưới những mộ phần.

LÊ VĂN LÂN
Users browsing this topic
Guest (2)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.