DÂN CA VIỆT NAM
Ts Trần Quang Hải
Dân ca Việt Nam rất là phong phú. Tất cả những bài ca do dân quê sáng tác và không thuộc nhạc triều đình, nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo thì được xếp vào loại dân ca. Xứ Việt Nam với gần 80 triệu người Việt và 53 sắc tộc khác nhau thừa hưởng một truyền thống dân ca đa diện. Định nghĩa danh từ dân ca, theo tôi, là những bài ca không biết ai là tác giả, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của người dân quê, từ bài hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến các loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội thường niên. Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nhìn chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị của nó.
‘Người nhà quê khi làm việc hoặc khi vui chơi hay hát lắm. Đứa trẻ chăn trâu, buổi chiều cho trâu về, hoặc cỡi trên cổ, hoặc nằm trên lưng trâu, nhẹ nhàng cất tiếng hát rồi năm mười đứa khác cùng họa theo. Những đàn ông, đàn bà cấy lúa, cắt lúa, làm cỏ hay tát nước ở dươí trăng hoặc ban đêm đập lúa, giã gạo, cũng theo nhịp nhàng tay chân mà hát để quên mệt. Trên các sông, nhất là trên sông Hương ở Huế, giữa đêm khuya thường được nghe một chị lái đò ở xa xa cất tiếng lanh lảnh hò "mái nhì" hay hò "mái đẩy", giọng thực não nùng tê tái. Những người kéo gỗ trên sông, những lũ kéo chài dưới biển, cũng thường dùng tiếng "hò khoan", "dô ta" để làm cho rập tay chân. Ở Bắc Việt, những đêm sáng trăng, nhất là đêm rằm tháng tám, con trai, con gái trong làng thường họp nhau để hát đối hay hát trống quân....’ (Đào Duy Anh: Việt Nam Văn Hóa Sử Cương)
RU
Dân ca Việt Nam được trình bày theo trình tự một đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru em khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên, trưởng thành và chết đi, sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người. Tôi xin bàn về các bài hát ru em và các bài hát nghe trong lúc trẻ em vui chơi, nô đùa. Chúng ta thường nghe lúc còn ấu thơ, được chị, mẹ hay bà ngoại hoặc bà nội ru cho ngủ. Loại hát này được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung), hay hát đưa em, ầu ơ ví dầu (miền Nam). Âm giai dùng trong loại hát ru em được thay đổi tùy theo vùng. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang âm ngũ cung (do-ré-fa-sol-la-do). Miền Trung sử dụng âm giai tứ cung (do-fa-sol-sib-do), và miền Nam thì chọn âm giai ngũ cung (do-mib-fa-la-do). Tiết tấu nhẹ nhàng, thoải mái, theo nhịp điệu buông thả của chiếc võng, chiếc nôi, động tác mau chậm của mẹ trong khi làm việc hay đong đưa lúc cho con bú. Người mẹ thường bày tỏ nỗi lòng của mình, hay than van số phận hẩm hiu của mình qua bài ầu ơ ví dầu.
Ầu ơ.....Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Lời ca thường lấy trong ca dao và thể thơ là lục bát. Từ những cánh cò lặn lội bờ sông, những chiếc cầu ván long đinh, cầu tre lắt lẻo, những tiếng chim vịt kêu chiều, hay từ những cây đa, bến nước, con đò, đêm trăng, vv.. đã kết tụ lại thành những bài hát ru, ru con, âù ơ ví dầu của các bà mẹ. Năm tháng cứ trôi đi, thế hệ này sang thế hệ khác, thế kỷ này sang thế kỷ nọ, tiếng mẹ ru cứ tiếp tục vang mãi trong lòng trẻ thơ Việt Nam, vọng tới ngàn năm, ghi sâu đậm vào trong ký ức của tuổi ấu thơ. Giọng ru con của bà mẹ gợi lại hình ảnh quê hương, những lời khuyên dạy của mẹ
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Tiếng hát ru là cả một kho tàng văn chương bình dân, đúc kết từ những lơì thơ giản dị của tất cả những bà mẹ vô danh của Việt Nam, lưu truyền qua ký ức của hàng trăm triệu trẻ thơ qua các thời đại. Mẹ đã nuôi con bằng lời ru con hiền hòa. Những tiếng "Á á a à ời ! Á á a à ơi !" của miền Bắc, hay "Á á ơi...i...í....ì" của miền Trung hoặc "Ầu ơ ví dầu " của miền Nam. Đứa trẻ từ lúc mở mắt chào đời, đến lúc còn bồng ngữa trên tay mẹ, hay trên chiếc võng đòng đưa, những lời ru con êm ả ngọt ngào của mẹ đã thấm vào tâm não đứa trẻ. Nội dung của bài hát ru thường mang tâp sự của người đàn bà đối vơí người mình thương (cha mẹ,chồng, con). Thương con thì nhớ tới chồng đi xa hành quân, hay bận dồi mài kinh sử, hay có lúc tự than thân trách phận vì bị chồng phụ bạc. Lời lẽ hát ru còn để tự nói lên lòng chung thủy với chồng, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, lòng thương yêu bao la của mình đối với con, về cách dạy con phải xử thế với đời qua những kinh nghiệm sống của mình. Đó là bước đầu của việc giáo dục âm nhạc cho trẻ thơ. Chưa có bài hát nào làm xúc động người bằng bài hát ru. Có phải là một thiệt thòi mất mát cho một đứa trẻ sinh ra lớn lên ở hải ngoại không còn được nghe tiếng ru con của người mẹ ? Có phải là một thiếu sót đáng kể khi người mẹ Việt Nam ngày nay không còn biết ru con ngủ với bài hát ru ?
Đến khi đứa trẻ lớn lên, trong lúc chơi giỡn thường hay hát những bài mà đa số các giai điệu đều dựa trên thang âm tam cung (do-fa-sol). Chẳng hạn, khi chơi ú tìm, các trẻ em để ngón tay trỏ của mình vào trong lòng bàn tay của một em trong bọn.
Một đứa trẻ hát:
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết chương
Ba vương thượng hạ
Ba cạ đi tìm
Ú tim oà ập.
Khi nói tới tiếng "ập" thì bàn tay nắm được ngón tay người nào thì người đó nhắm mắt đếm để cho những người khác chạy đi trốn. Hay trò chơi Thả đỉa ba ba . Trò chơi này có một em làm đỉa, còn những em kia lội qua sông. Các em thường chơi ở sân đình, sân chùa, hay lúc chăn trâu ở một thửa ruộng. Hai bên bờ ruộng, hai bên mé sân được coi là bờ sông. Em làm đỉa đứng giữa sân hay giữa ruộng, còn những em khác chạy qua chạy lại. Đỉa phải rượt bắt người lội sông. Em nào bị đỉa bắt thì phải làm đỉa thay thế. Trước khi bắt đầu cuộc chơi, các em đứng quanh làm thành một vòng tròn. Một em hát bài thả đỉa ba ba. Mỗi tiếng chỉ vào một em. Em nào trúng vào tiếng chịu của cuối bài hát thì làm đỉa để rượt bắt các em khác.
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo thuyền như nước
Đổ mắm đổ muối
Đổ tưới hạt tiêu
Đổ niêu phân gà
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải...Chịu.
Ngoài ra còn có những trò chơi khác như đánh trõng, táng u, đánh dũa, hoặc là oánh tù tì (từ chữ Anh là one, two, three, nghĩa là một, hai, ba) giúp cho trẻ em Việt Nam giải trí trong khi nhàn rỗi, ngoài giờ học hỏi ở nhà trường.
HÒ
Hò từ chữ HÔ mà ra, có nghĩa là làm cho giọng mình manh hơn. Do đó, Hò thường đi đôi với việc làm nặng như kéo gỗ, chèo thuyền, đập đá. Trong lúc làm việc nặng nhọc, để quên cái mệt thể xác, ngươì dân quê thường dùng những câu hát để giải khuây. Mỗi việc làm đều có bài hát riêng, phù hợp với công việc làm. Nhưng tất cả các bài hát làm việc đều không có nhạc khí đệm theo. Nhưng hò cũng có thể hát lúc nghỉ ngơi, lúc hội hè, lúc đám tang như hò đưa linh, và có khi dính liền với một vùng nào đó như hò Nghệ An, hò Thanh Hóa, hò Sông Mã, hò Đồng Tháp. Có ba loại Hò chánh:
1. Hò trong lúc làm việc, tiết điệu ăn khớp với động tác, và thường dùng những chữ như dô ta, rố khoan, hụ là khoan,vv...
2. Hò trong lúc nghỉ xả hơi, thường là hò đối giữa trai gái có tính cách đùa giữn, chọc ghẹo hay tỏ tình.
3. Hò trong lúc lễ hội, thường là hò đối đáp để tranh giải.
Hò làm việc thường hò đông người với nhau. Một người hò trước và tất cả phụ họa theo sau. Người hò chánh gọi là hò cái và những người phụ họa gọi là hò con. Hò chia làm hai phần: lớp trống hay vế kể thì do một người hát, còn lớp mái hay vế xô thì do toàn thể phụ họa. Ở miền Nam, hò thường nghe trên sông, hay lúc làm việc ngoài ruộng. Mỗi tỉnh, mỗi vùng có những loại hò đặc biệt. Do đó có tên gọi như hò Bến Tre, hò Cần Thơ, hò Bạc Liêu, hò Sa Đéc, hò đối Gò Công, hò đối Mỹ Tho, hò Đồng Tháp.
Ở tỉnh Bến Tre, có thể có loại hò như sau:
Hò ớ ơ.... Xứ nào vui cho bằng xứ Cù Lao, ớ ơ... Hò ớ ơ.....
Tiếng muỗi kêu như ống sáo thổi
Bông mọc như hàng rào sương lý, ớ ơ...
Hoặc xuyên qua câu hò, chúng ta có thể biết người hò thuộc địa phương nào như:
Hò, ớ ơ... Ghe anh nhỏ mũi trắng lườn
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em, ớ ơ...
Tại tỉnh Bến Tre , có nhiều loại hò: hò cấy (Ba Tri, Bình Đại), hò lờ, hò công chúa, hò bản đờn (Bình Đại), hò mái đoản, hò mái trường, hò chèo ghe (dọc sông Hàm Luông). Thêm vào đó nhiều kiểu hò khác được tìm thấy ở Bến Tre như hò rơi (hò một mình), hò kết (hò đối đáp), hò môi, hò mép, hò bắt quàng (hò tùy hứng), hò văn ( hò dùng nhiều chữ Nho), hò thơ (Lục Vân Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Công Cúc Hoa), hò truyện (Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc), hò tuồng, hò tiểu thuyết, hò thầy chùa, hò quốc sự. Hàng trăm điệu hò được thu thập ở miền Nam (Kiên Giang, Hậu Giang, đồng bằng sông Cửu Long) với những điệu hò trên sông, hò trên cạn, hò huê tình (loại hò suông một mình không có phần xô phụ họa). Hò miền Nam gồm có hò ba lý xuất xứ từ bài Bá Lý Hề của cải lương rất được thông dụng giữa các ca sĩ chuyên nghiệp. Hò theo điệu ai oán dùng để kể chuyện. A li hò lờ xuất hiện khoảng 50 năm nay thôi, dùng thể thơ lục bát. Hò lô tô, hò cấy, vv... Các loại hò thường được ứng khẩu tùy hứng, nhạc thì chỉ có một giai điệu duy nhứ-, hay theo một thang âm đặc biệt miền Nam (do-mib-fa-sol-la-do). Miền Trung là nơi tập trung của nhiều loại hò và nhiều giai điệu hơn hai miền Bắc và Nam. Ngoài loại hò làm việc, hò đối, còn có hò đưa đám ma. Ở Thanh Hóa có hò sông Mã được chia làm năm loại hò tùy theo giai đoạn: hò rời bến, hò đò ngược, hò đò xuôi, hò mắc cạn, hò cập bến, với các đoạn kể, xô nhịp nhàng theo nhịp một, nhịp hai. Hát đò đưa là giọng hát của các cô lái đò lúc chở đò hát lên theo nhịp chèo khua trên mặt nước. Giọng đò đưa nghe dễ bị cám dỗ khi lòng yếu đuối. Cha mẹ thường cấm con gái nghe giọng hát đò đưa : Trai khôn tránh khỏi vợ thừa Gái khôn tránh giọng đò đưa mới là ! Hát đò đưa trở nên phong phú khi vào tới miền Trung. Vùng Nghệ Tĩnh có các cô cậu lái đò vừa chèo thuyền vừa hát hoặc một mình (gọi là hát buông ) hay có khi hát đối trai gái (gọi là hát cuộc). Trong hát cuộc, hai chiếc thuyền có thể đi song song với nhau, hoặc chiếc trước chiếc sau. Người hát ngoài trai gái lái đò, có khi là khách đi đò cũng tham gia vào cuộc hát cuộc. Qua những sinh hoạt như thế đã có biết bao mối tình chớm nở qua lời hứa hẹn, dặn dò:
Sông sâu sóng vỗ rập rình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Trong khi chèo thuyền, chúng ta còn được nghe các loại hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái đẩy. Có giả thuyết cho rằng mái có nghĩa là mái chèo, và còn có giả thuyết khác nữa cho rằng mái là đàn bà đối với trống là đàn ông. Còn xấp có nghĩa là mau hơn, nhì có nghĩa là đôi, là phải hát hai lần, còn đẩy có nghĩa là làm cho thuyền đi tới. Ở vùng Thừa Thiên, Quảng Trị , ngoaì hò mái nhì (hò nhịp hai, theo nhịp của mái chèo) và hò mái đẩy (nhịp điệu mạnh và mau hơn không cần phải theo mái chèo khua mau) còn nghe hò mái ba nghĩa là phải hát ba lần. Ở Quảng Bình có hò mái duỗi, hò lả. Lúc trên cạn thì có hò khoan (hò giã gạo), hò đâm vôi, hò mái ô (tức là hò lúc cắt cỏ, đi cày hay đạp nước). Các loại hò làm việc như hò đạp nước, hò tát nước, hò khiêng nước, hò xay lúa, hò giã gạo, hò giã đậu, hò giã vôi, hò mài dừa,vv... Các cô thiếu nữ dậy thì trong khi tát nước, thường hát những câu trữ tình. Trong câu hát, các cô bắt chước tiếng nước tát từ ao sang ruộng hay từ sông vào đồng.
Thì thuồm! Thì thuồm !
Tát nước ao chuôm
Bóng trăng soi xuống,
Trăng suông soi vào !
Thì thào ! Thì thào !
Nước chảy ào ào !
Cầu trời cho trận mưa rào tháng năm !
Tiếng gầu đụng trên mặt nước, tiếng nước được múc lên, tát vào ruộng, tạo thành một tiết điệu giúp cho điệu hò thêm nhịp nhàng. Khi leo giốc, thì có hò leo giốc. Khi đập đá thì có hò nện hay hò hụi. Tiết tấu rất nhanh, và theo nhịp đập đá. Người kể hát một đoạn, thì toàn thể hát "hụ là khoan" để làm tăng sức mạnh khi làm việc. Ở miền Bắc, hò đẩy xe, hò kéo gỗ rất được phổ thông. Đây là lối hò đặc biệt của những người làm việc nặng nhọc. Trong điệu hò kéo gỗ, bao giờ cũng có mấy tiếng hò dô ta . Câu hát có khi nô đùa chọc phá:
Dô ta kéo gỗ làm đình
Con gái vô tình thì để vú ra ! Hò dô ta !
Hoặc một câu về tình ái với nội dung vui nhộn cốt để cho những người làm việc phá lên cười quên đi cái mệt của việc làm. Một người hát một câu thì cả đám hát rố khoan, rố khoan rố khuầy hay hố khoan trong điệu bắt cái hố khoan hay bắt cá hò khoan do các người chài lưới hát. Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy điệu hò giã vôi và hò dứt chỉ ở miền Bắc nữa. Hầu hết các điệu hò ở Việt Nam đều dùng thể thơ lục bát với thể thức thêm những chữ không có nghĩa vào như "là hụ là khoan, rố khoan rố khuầy",vv... Với nghệ thuật ngắt câu khác nhau tùy theo từng điệu hò hoàn toàn khác biệt và phong phú qua tài sáng tác của các người dân quê, kho tàng dân ca do đó ngày càng to lớn hơn và xuyên qua các lời ca trong điệu hò, chúng ta thấy một nền văn chương bình dân phản ảnh trung thực ngôn ngữ của tiếng nói Việt Nam.
LÝ
Miền Nam có rất nhiều điệu hò và lý. Những bài nào không thuộc vào hò thì là lý. Có nhiều điệu Lý. Lý là những điệu hát dân gian từ vùng Bình Trị Thiên vào tới miền Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn 200 bài Lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu dựa trên thang âm ngũ cung miền Nam (Do- Mi- Fa - Sol- La- Do, dây oán) thêm vào những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho làn điệu thêm phong phú, và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4). Người dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật (Lý con mèo, Lý khỉ đột, Ly con nhái, Lý con cua, Lý con sáo, Lý con quạ, Lý con nhạn, Lý con kiến, Lý con thằn lằn, Lý chim khuyên, Lý con trâu, Lý con cúm núm,Lý chuồn chuồn, Lý ngựa ô, Lý quạ kêu,vv...),
tên cây cỏ (Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây chanh, Lý mù u),
tên các món ăn ( Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng - có lẽ người miền Nam thích ăn uống),
hay tên phong cảnh ( Lý cảnh chùa, Lý quán rượu).
Lời ca rất mộc mạc, chỉ hai câu thơ lục bát trong bài Lý chim khuyên như:
Chim khuyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
mà được hát thành:
Chim khuyên (quầy a) ăn trái (quây a) Nhãn lồng (à), nhãn lồng , ớ con bạn mình ơi !
Lia thia (quầy a) quen chậu (quây a) Vợ chồng (à), vợ chồng, ớ con bạn quen hơi.
Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lý và hò. Lý có nghĩa là hát của giai cấp dân quê (do chữ lý làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp vua chúa, quan liêu trí thức. Tất cả điệu lý được thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế, hát tuồng, và hát cải lương. Điệu lý giao duyên bốn mùa hay lý vọng phu được hát theo điệu Nam ai Trung chuyển sang Ai Oán Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lý bốn mùa hay lý ru con. Thể thơ được dùng là thất ngôn:
Thí dụ như:
Giãi sông Ngân mây rầu rầu chuyển
Một bước đường trời biển chia hai
Hởi nàng nàng ơi ! Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên.
Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên lại thành lý giao duyên 12 tháng
như:
Đầu tháng giêng mãn thiên xuân sắc
Ai nấy vui mưng thiếp bặt mắt trông
Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở
Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông, vv...
Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được dùng trong hát chèo.. Đến khi bài Lý giao duyên được sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ:
Ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay xa.
Thì lại được đổi lại là Lý con sáo. Điệu Lý con sáo rất được quãng bá ở ba miền Bắc, Trung , Nam. Mỗi miền với thang âm đặc thù đã tạo ra ba điệu lý khác nhau: Lý con sáo Bắc, Lý con sáo Trung, và Lý con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta còn biết thêm một điệu Lý con sáo nữa là Lý con sáo Quãng. Ở Thừa Thiên, khi hát bài lý con sáo, thay vì hát đoạn "ơi người ơi", lại hát "tang tình tang". Bài lý con sáo được gọi là Lý tình tang,và khi hát bài 10 thương thì được đổi thành lý mười thương. Các điệu lý đều dựa trên thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lý ba cô, lý lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lý bắt bướm hay lý cây đa. Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát của người Việt rất tài tình. Qua hai bài Lý con sáo Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa vào những tiếng đệm bằng cách lập lại những chữ trong câu chẳng hạn nhu "í a, ố tang tình tang", vv mà làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng. Dân ca do đó đi sâu vào lòng dân và đôi khi còn ảnh hưởng rất mạnh vào nhạc thính phòng Ca Huế hay Đàn Tài Tử miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương.
CÁC LỐI HÁT LàM VIệC
Hát ví vùng Nghệ Tĩnh là một loại hát đối nam nữ rất được phổ thông trong dân quê.Tục hát ví thinh hành nơi thôn quê, mà cả các nho sĩ cũng ham chuộng và đóng góp nhiều qua sự sáng tác lời. Có khi dùng lời cũ để hát. Có khi sáng tác lời mới. Những ai không biết hát cũng thích đi dự buổi hát ví để nghe người khác hát, theo dõi lời ca, thưởng thức giọng hát. Hát ví Nghệ Tĩnh , ngoài những câu hát trao tình, và những câu hát nói lên tâm trạng của trai gái, còn có những câu hát đố rất tế nhị và hóc búa, với những câu trả lời thật tài nói lên tài ứng khẩu nhạy bén của đôi bên nam nữ .
Cô Xuân đi chợ Hạ
Mua cá Thu về chợ hãy còn Đông,
Trai nam nhi đối được ,
gái má hồng xin theo.
Đối:
Anh ở bên Nam
Sang bán hàng thuốc Bắc,
Chữa con gái Đông phòng cảm bệnh miền Tây
Ông Tơ Hồng , bà Nguyệt Lão như anh sang đây kết nguyền.
Hát ví là thú giải trí của ngươì dân quê Nghệ Tĩnh sau một ngày mệt nhọc làm việc ngoài đồng. Có nhiều việc làm cũng có tục hát ví như hát phường vải ở Nam Đàn (Nghệ An), Hát phường chiếu ở Can Lộc (Hà Tĩnh), hát vá lươí ở các bờ biển, hát phương buôn ở các vùng kẻ chợ, hát phương cấy trong các vụ gặt cấy,vv..... Hát các phường là lối hát đặc biệt của vùng Nghệ Tĩnh, là một biến thể của hát ví và được ca hát trong khi làm việc thuộc các nghề thủ công và làm ruộng. Tại vùng Nghệ Tĩnh, các nghề nghiệp được tổ chức thành phường, và những phường này có những cuộc ca hát với nhau trong khi làm việc. Phường cấy và phường vải là có tổ chức nhứt trong việc ca hát có lề lối. Hát phường củi, hay đúng hơn là hát chặt củi vì người hát trong lúc đi chặt củi trong rừng. Nghệ Tĩnh là vùng rừng núi nhiều cây cối. Người dân quê thường rủ nhau vào rừng đốn củi sau mùa gặt. Vừa chặt củi, thỉnh thoảng có tiếng hát lên tả nỗi nhớ thương rừng núi nhưng tập trung nhiều hơn về yêu đương.
Tiếng ai nói với bên non
Muốn sang coi thử có dòn hay không?
Có hỏi thì có trả lời:
Một ngày hai bận trèo non
Lấy gì mà đẹp mà dòn hỡi anh !
Hát phường cấy có khắp vùng Nghệ Tĩnh. Khi đến mùa cấy, thợ cấy được mướn để cấy lúa. Họ đi thành phường, và trong phường cấy thường có đôi ba cô trông khá đẹp. Trai làng nghe có phường cấy tới, lại biết có mấy cô đẹp, thì buổi tối sau khi cơm nước xong, kéo nhau tơí nhà có phường cấy để xin phép chủ nhà để hát đối đáp với mấy cô. Lúc đầu là hát xã giao, tiếp đến là hát chào hỏi, mời mọc. Qua các bài hát, các cô hỏi các cậu tên tuổi, nguyên quán, nghề nghiệp. Các cậu cũng dọ hỏi tên họ các cô. Cuộc trao đổi diễn ra suốt cả đêm qua lời hát đầy ân tình
Vừa ra vừa gặp anh đây
Một là duyên kỳ ngộ, hai trời xây đất vần.
Đến khi phải từ giã nhau, hát những lời bịn rịn thương nhớ.
Vì cam nên quít đèo bồng
Vì anh cần mẫn nên lòng em mơ.
hay
Trăng khuya soi bóng anh đi
Thấy chân anh bước rọt (ruột) em thì quặn đau.
Hát phường vải là lối hát của những cô dệt vải. Nhiều xã thuộc huyện Nam Đàn , tỉnh Nghệ An có nghề dệt vải. Trong lúc đưa thoi, dệt vải, các cô thường hát với các cậu trong làng tới hát đối hoặc hát tỏ tình, hát đố, hát thử tài. Ngành dệt vải khá sung túc, nên các cô được đi học với các thầy đồ. Vì vậy trong vùng phường vải có nhiều thầy giáo và chính họ tham gia các buổi hát đối trong vai thông sự để nhắc lời cho mấy cô phá lại các cậu tới thử tài. Những đêm trăng sáng, tại nhà có sân rộng, hàng đôi ba chục xa quay đều theo tiếng hát của các cô, các bà làm thành một nhịp điệu nhẹ nhàng. Các thanh niên ngồi xung quanh thành từng nhóm, hút thuốc lào, nghe hát và tìm cách hát đối lại. Đề tài xung quanh tình yêu, hỏi thăm tên tuổi, thử tài kiến thức. Phần nhiều đều được kết thúc tốt đẹp. Đôi khi đi tới xích mích , chửi bới. Một cô dệt vải bị khinh bỉ, liền trả đũa ngay:
Thầy mẹ em còn chọn đá để gửi vàng
Không dư con gái , để gả cho chàng ngu si.
Khi đọ sức thử tài, gặp người từ xưng hay chữ, liền bị các cô thách:
Đất Đông Thành đồn rằng chàng : "Hay trự "
Vậy thiếp hỏi chàng: " thầy Mạnh Tử con ai ?"
Sách Nho thường nói thầy Mạnh Kha là con bà Mạnh Mẫu, người đã có công dạy con thành bậc thánh hiền, còn ông cha thì mất sớm, không ai để ý tới tên họ. Có người tức các thầy gà (thông sự) liền hát đáp:
Thầy Mạnh là do cụ Mạnh sanh ra
Tổ mẹ đứa hát, tổ cha đứa bày!
Hát phường vải có truyền thống lề lối đàng hoàng. Câu văn nghiêm chỉnh, đúng niêm luật, thơ lục bát phần đông nhưng có khi biến thể. Người hát phải làm cùng nghề kéo bông. Con trai khi đến hát phải đứng ở ngoài đường. Khi nào qua được chặng đầu (hát dạo, hát chào), và chặng nhì (hát đố ) thì mới được mời vào bên trong nhà tiếp tục hát xe kết trước khi hát tiễn . Ngày xưa Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu có tham dự với tính cách thông sự cuộc thi hát phường vải và đặt lời cho nhiều bài hát. Hát phường vải với mức sáng tác dồi dào mỗi lần có cuộc gặp gỡ đã mang lại cho nền văn chương bình dân nhiêù bài hát nhất . Rất tiếc là ngày nay hát phường vải đã đi vào quên lãng với ngành dệt vải đã "được" (hay "bị") kỹ nghệ hóa từ gần nửa thế kỷ.
Hát Xoan là một loại hát đối của tỉnh Phú Thọ. Ngày xưa thì hát ở cửa đình, trong các đám hội hè, vào dịp đầu xuân. Đáng lẽ phải gọi là Hát Xuân, nhưng chữ Xuân là tên các vị thánh mẫu, và theo phong tục Việt Nam phải kiêng tên nên dân chúng đọc trại ra là Hát Xoan. Hát Xoan có phong tục lập thành phường thành hội để gặp nhau tập hát những bài bản. Đôi khi có múa với sanh và phách phụ đệm pha lẫn với trò chơi đánh cá. Hệ thống phường gồm có phường trưởng (gọi là ông trùm), và một số đào và kép ( tức là những người hát trong phường). Tục lệ Hát Xoan có ba giai đoạn: hát chúc tụng, hát đố, đối đáp, và hát vặt cùng trò chơi "đánh cá ". Khi có điệu đánh cá thì có dân làng tham dự. Các thanh niên của làng và kép hát đứng vào trong vòng làm cá. Các đào hát của phường nắm tay nhau làm lưới, vừa hát vừa tìm cách bắt cá. Người nào bị mấy cô bắt thì phải trả một buồng cau hay một mâm xôi cho làng. Lời hát thường pha lẫn tiếng Hán Việt.
Hát Ghẹo là một lối hát đối đáp cũng ở tỉnh Phú Thọ. Lối hát này có phong tục kết bạn "nước nghĩa ". Khi nào hát phải gọi nhau bằng Anh, chị. Cho nên Hát Ghẹo còn gọi là Hát Anh Chị. Hát Ghẹo được tổ chức vào ngày được mùa hay ngày đầu năm. Người hát có thể là chuyên nghiệp hay tài tử. Làng nào đứng ra mời và tổ chức cuộc hát (thường là ở trong nhà) phải là phía nữ để mời làng có nam ca sĩ đến hát thi. Tục lệ không cho phép hai bên nam nữ của hai làng lấy nhau. Lời thơ theo thể lục bát và không dùng tiếng Hán. Hát Ghẹo ở Thanh Hóa giống như Hát Ví, một loại hát giao duyên, hát đối giữa trai gái. Hát ghẹo ở Thanh Hóa không có tục "nước nghĩa ". Trai gái gặp nhau, hát ghẹo nhau rồi chia tay. Cách hát này gọi là hát lẻ. Khi nào hát thi thì gọi là hát cuộc. Bài bản lấy từ các điệu Trống Quân, Sa Lệch, Bồng Mạc, Hát cách. Bên nào không đối lại được thì kể như thua cuộc. Thể thơ thuộc loại lục bát.
Hát Giặm ở Hà Nam là loại hát dân ca có từ thời nhà Lý. Mỗi năm đến ngày 1 tháng 2 âm lịch có mở hội tế lễ Thần nhân để hát và múa. Các cô gái từ 13 tuổi trở lên trong làng thích hát có thể hội lại lập thành phường tập hát dưới sự chỉ huy của bà trùm. Có lối 30 điệu hát khác nhau. Thể thơ thuộc lục bát.
HÁT HộI
Hát Hội là loại hát đối giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp thi tài cao thấp trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng. Tại các đám hội xuân miền Bắc, trai gái gặp nhau thường dùng miếng trầu mới hát để vui trong ngày hội, rồi dùng cơ hội này để hẹn nhau trong những cuộc hát đối khác trong năm. Hay có những trai gái đã quen nhau, lợi dụng các buổi hát hội để tỏ tình với nhau qua lời hát. Lễ giáo Việt Nam tuy khe khắt nhưng tục lệ trong làng lại rất rộng rãi trong các buổi hội xuân để cho trai gái được tự do tỏ tình nhưng không được đi quá mức
Hát ví là giọng hát thông thường nhất ở Trung Du và Trung châu miền Bắc. Ở nhiều nơi khác thuộc miền Đông hát ví còn được gọi là Hát Đúm. Hát Ví có đối có đáp, có hát để gắn bó, và hát chia tay, cho những ngươì mới gặp nhau để làm quen và thường dựa vào cảnh vật để nói lên tình ý của mình. Bài hát thường khởi sự bằng câu Bảo này để tạo sự chú ý tơí câu hát và chấm dứt bằng mấy tiếng Anh Cả anh Hai đó ơi,hay Chị Cả chị Hai đó ơi để báo cho người nghe là chấm dứt và cho người hát đối chuẩn bị đối lại.
Bảo này Hỡi người đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời
Đi đâu vội mấy anh ơi,
Công việc đã có chị tôi ở nhà.
Anh Cả anh Hai đó ơi !
Ngươì khách lữ hành đi trên đường, nghe giọng hát đầy quyến rũ, lời ca đầm ấm, đứng lại đáp để làm quen:
Bảo này: Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt n"a hay thôi
Để anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Cô Cả cô Hai đó ơi !
Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú Thọ,vv.. Hát hội hay hát đối đều mang những đặc điểm chung như sau:
1. Người hát, làng xã, phaỉ đối nhau chẳng hạn nhóm nam ca sĩ đối lại với nhóm nữ ca sĩ, và thuộc làng xã khác nhau
2. Hầu hết đều là tình ca để đưa đên hôn nhân.
3. Đặc tính đoàn thể rất được nhấn manh, như trong quan họ có tục kết bạn và phải thuộc vào gia đình quan họ. Truyền thống này được thấy ở hát ghẹo ở Thanh Hóa, và hát xoan ở Phú Thọ có tục lệ "nước nghĩa".
4. Thi đua là một trong những đặc tinh quan trọng. Trong một cuộc hát đối, các người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tuỳ cơ ưng biến, khi gặp khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có trình độ cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải
5. Đặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng.
6. Hát hội xảy ra trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp, nhứt là ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Phú Thọ miền Bắc xứ Việt Nam mà thôi.
7. Mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn:
a. Hát mời ăn trầu trong trống quân :
Hát giọng lề lối trong quan họ
Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải
Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát ghẹo
b. Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài hát khó vì phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng, giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát đố, hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong trống quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên nào không đối được thì kể như thua. Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc biệt là cây trống quân hay thổ cổ. Một cây mây dài bốn, năm thước căng vòng cầu bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.
c. Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh trong quan họ.
d. Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát thề, hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo.
Hò, lý, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường vải, Hát ghẹo, Hát xoan, cò lả,vv... rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả hình ảnh sống động của xã hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ.
HÁT VÈ / NÓI VÈ
Vè là một bài văn kể một chuyện đặc biệt xảy ra và ngụ ý khen chê. Bài văn làm theo thể thơ bốn chữ, năm chữ, lục bát, hay song thất lục bát hoặc các thể thoo biến thể. Hát những câu vè thường lấy giọng đọc lên, không có đệm trên, đệm giữa, hay đệm dươí như các lối hát dân ca khác, nhưng dựa trên nhịp 2/4 Ở miền Nam, nhửng câu vè về trái cây, các loại cá, các thứ bánh, vv... ngoài lối vè kể chuyện. Các câu vè thường bắt đầu bằng sáu chữ Nghe vẻ nghe ve Nghe vè..........
Thí dụ vè trái cây:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè trái cây
Dây ở trên mây
Là trái đậu rồng
Có vợ có chồng
Là trái đu đủ
Chặt ra nhiều mủ
Lá trái mít ướt
Hình tựa gà xước
Vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm
Đúng là bắp nâú
Hình thù xâu xấu
Trái cà dái dê
Ngứa mà gãi mê
Là trái mắt mèo vv......
Hát vè để tiêu khiển trong lúc làm việc, hát lúc nhàn rỗi một mình. Hát vè không có nhạc, nhưng có tiết điệu. Gần đây ở Việt Nam, có nhiêù nhóm nhạc trẻ đã chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được ưa thích. Dân ca Việt Nam rất phong phú, đa dạng, dính liền với bài ca hơn là với dàn nhạc, và nhạc khí. Dân ca đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò chơi trẻ em, đến các điệu hò, lý, các điệu hát trong khi làm việc, trong các lễ hội tạo cơ hội cho thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao duyên, qua tục "nước nghĩa", "kết bạn", "ngủ bọn ". Mức sáng tác bài bản mới vượt qua những thể loại nhạc cung đình, nhạc bác học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương bình dân những đóng góp đáng kể (hát quan họ, hát phường vải). Phần nhiều chỉ có tùy hứng lời trên một điệu nhạc (hát trống quân, cò lả). Chỉ có hát quan họ là vừa sáng tác lơì lẫn nhạc. Hiện có trên 700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát quan họ. Hiểu được dân ca Việt Nam sẽ mang lại một niềm tự hào cho chính mình, tạo một sự hãnh diện trong lòng khi xứ mình có một nền văn học dân gian phong phú. Ngoài dân tộc Việt hay Kinh, chúng ta còn có 53 sắc tộc anh em sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam với hàng trăm thể loại dân ca, nhạc khí hoàn toàn khác với dân tộc Việt. Đó là đề tài nghiên cứu trong tương lai.
Sách tham khảo
Bảo Vân 1979: Tục ngữ, ca dao và dân ca , nxb Quê Hương, 304 trang, Toronto, Canada.
Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý 1978: Quan Họ: nguồn gốc và quá trình phát triển , nhà xuất bản Khoa Học xã hội, 527 trang, Hà Nội.
Lê Giang, Lê Anh Trung 1991: Những bài hát ru, nxb Văn Nghệ, 180 trang, TP Hồ Chí Minh.
Lư Nhất Vũ 1981: Dân ca Bến Tre, Ty Văn Hóa và Thông Tin Bến Tre, 346 trang, Bến Tre.
Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa 1985: Dân ca Kiên Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Kiên Giang, 483 trang, Kiên Giang.
Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Thạch An 1986: Dân ca Cửu Long, Sở Văn Hóa và Thông tin Cửu Long, 391 trang, Cửu Long.
Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Minh Luân 1986: Dân ca Hậu Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Hậu Giang, 666 trang, Hậu Giang
Lư Nhất Vũ, Lê Giang (chủ biên) 1995: Dân ca Đồng Tháp, nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 520 trang, Đồng Tháp.
Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc 1962: Dân ca Quan Họ Bắc Ninh , nxb Văn Hóa, Viện Văn Học, 340 trang, Hà Nội.
Nguyễn Chung Anh 1958: Hát Ví Nghệ Tĩnh, 147 trang, Hà Nội.
Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao 1942: Hát Giặm, quyển 1, 348 trang, Hà Nội 1944: Hát Giặm, quyển 2, 340 trang, Hà Nội
Nguyễn Văn Huyên 1934: Les Chants Alternés des Garcons et des Filles en Annam , Paul Gueuthner, 224 trang, Paris, Pháp. 1997: "Hát đối của nam n" thanh niên ở Việt Nam", Nghiên Cứu Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam, tập 1, nhiêù tác giả, nxb Văn Hóa Dân Tộc,trang 11-216, Hà Nội.
Nhóm Lam Sơn 1965: Dân ca Thanh Hóa, nxb Văn Học, 286 trang, Hà Nội.
Phạm Duy 1975: Musics of Vietnam (Nhạc Việt Nam), Dale R. Whiteside
(xb) Southern Illinois University Press, Carbondale, Hoa Kỳ.
Toan Ánh 1970: Cầm Ca Việt Nam , nxb Lá Bối, 270 trang, Saigon.
Trần Quang Hải 1989: Âm Nhạc Việt Nam, biên khảo, nxb Bắc Đẩu, 361 trang, Paris, Pháp. Trần Văn Khê 1967:Vietnam (les traditions musicales) (Việt Nam, truyền thống âm nhạc), nxb Buchet/Chastel, 224 trang, Paris, Pháp (tái bản năm 1996)
Trần Việt Ngữ, Thành Duy 1976: Dân ca Bình Trị Thiên , nxb Văn Học, 342 trang, Hà Nội.
Tú Ngọc 1981: Bước đầu tìm hiểu hát Xoan Vĩnh Phú , Ty Văn Hóa Thông tin Vĩnh Phú. 1994: Dân ca người...