Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#1 Posted : Friday, December 17, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
tieu su
Phượng Các
#2 Posted : Saturday, December 18, 2004 1:56:47 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Chủ Nhật, 19/10/2003, 20:56 (GMT+7)

Nhà văn Võ Thị Hảo: Đôi khi viết văn như cầu nguyện...



Từ một cây bút truyện ngắn, nhà văn Võ Thị Hảo đã bất ngờ bước sang lĩnh vực tiểu thuyết - mà là tiểu thuyết lịch sử - một thể loại vốn không "mặn mà" với các nhà văn nữ nước ta. Giàn thiêu (NXB Phụ Nữ, tháng 10 - 2003) - tiểu thuyết đầu tay của chị vừa ra mắt độc giả, với nhân vật chính là Từ Đạo Hạnh.

* Tại sao lại là lựa chọn ấy, thưa chị?

- Từ Đạo Hạnh - Thần tông là một nhân vật đa diện, với rất nhiều lầm lạc và rất nhiều khát vọng. Khát vọng quyền lực, ham hố lạc thú và sự yếu đuối của ông ta trong việc trị nước đã làm khổ nhiều người và làm khổ chính mình. Một vài truyền thuyết xung quanh ông đã bộc bạch niềm thông thái của nhân gian với những hiện tượng linh thiêng huyền bí.
Ông là nhân vật có thực, nhưng không thực đến độ đóng khung làm nghèo nàn trí tưởng tượng. Tôi cần ông, vì ông có những khoảng trống mà tôi có thể bù đắp và đưa ông trở lại thế giới này, với những thiết tha bổi hổi của cõi người - của ngày hôm nay. Tôi lại còn cần ông hơn nữa, vì ông là thanh nam châm hút theo những nhân vật lịch sử nổi tiếng khác như Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành, Lý Trác...

* Chị đã dồn tâm huyết cho một thể loại không dễ hút bạn đọc hiện nay và không mấy có nhà văn nữ nào "ghi điểm" được với nó, lại trong sự bề bộn của công việc làm báo và cuộc sống của người phụ nữ nuôi con một mình...

- Tôi cũng tiếc: Nếu như tôi có thời gian và nghị lực hơn, cuốn tiểu thuyết này đã ra đời vào cuối năm 2001. Trong nhiều ngày nghỉ cuối tuần của năm 2001, mỗi ngày tôi đã viết được một... chương. Thân phận của tôi khiến tôi đôi khi viết văn như cầu nguyện.

* Sau nỗi đau "giữa đường đứt gánh", "Biển cứu rỗi" (tên một tập truyện ngắn đầu tay của Võ Thị Hảo), hiện tại của chị ?

- Hai con gái tôi đã "cứu rỗi" tôi khi nhờ con, tôi cảm nhận được thêm nhiều khía cạnh khác của tình yêu thương. Cảm giác làm mẹ là cảm giác đau thực thể trong ruột, nếu thấy con mình giẫm phải gai. Một trong hai cô con gái của tôi được khuyến khích theo nghiệp làm báo của mẹ, cũng vì tôi luôn quan niệm: Hãy yêu nghề báo, vì ngoài việc nó là một nghề nuôi sống ta, nó còn là một nghề có thể cứu được vài người bất hạnh nào đó và là nghề đem sự thật đến cho mọi người. Khi đó, nghề báo, và đương nhiên, nghề văn, cũng là một sự "cứu rỗi".

* Không lẽ chị chưa từng có lần nghe câu biếm: "Các nhà văn nữ xuất hiện chỉ làm cho lượng giấy vụn trên thế giới tăng lên" vì họ thường... "bịa rất dở"?

- Nếu quả thực có người viết và nghĩ như vậy thì đó là quyền của họ. Sự thẩm định văn chương xưa nay không phụ thuộc vào ý thích của một ai đó. Không ai qua mặt được vị trọng tài thời gian. Nhà phê bình nào đồng hành được với thời gian, người đó mới có được một chút hy vọng rằng mình có thể có một phần chân lý.

* Sau Giàn thiêu, liệu có là một sự trở lại với truyện ngắn để chờ "hồi sức"?

- Trái lại, lại tiếp tục là tiểu thuyết Dạ tiệc quỷ. Vài tập kịch bản phim và vài cuốn sách, có thể còn có một tập thơ nho nhỏ... Mơ dành nhiều thời gian hơn cho con và được yêu mình hơn một chút.

* Cảm ơn chị.


Theo Lao Động


Thứ Ba, 28/09/2004, 16:50 (GMT+7)


Võ Thị Hảo: "Làm báo hay làm văn đều phải hết mình"

* Theo chị, có phải phụ nữ làm văn chương thường nhạy cảm hơn những phụ nữ khác, và họ thường gặp trắc trở trong cuộc đời (nhất là trong đường tình duyên)?

- Hình như thế, hình như đã sinh ra làm nhà văn, mà gặp may nhiều quá thì mất duyên. Không gì vô duyên bằng một nhà văn mà nhẵn nhụi và trơn tuồn tuột.

* Trong khoảng thời gian gần đây, nhất là sau khi Giàn thiêu ra mắt độc giả, người ta ít được đọc truyện ngắn của chị, dường như Giàn thiêu đã khiến cho chị trở nên “kiệt sức”?

- Tôi đang dành thời gian và sức lực cho tiểu thuyết Dạ tiệc quỷ. Đó là một câu chuyện dài và nhọc nhằn. Vả lại, đôi khi tôi kiệt sức vì cái tội nhạy cảm quá như bạn nói, đã treo một chữ “nhẫn” to tướng trước mũi rồi mà thỉnh thoảng vẫn phải vẽ một cái biển nguệch ngoạc đeo vào cổ, nội dung đại loại như “Tôi, Võ Thị Hảo - một chú mèo chăm bắt chuột, không vồ gà con, nay đang định ra đi. Có ai mua sức lao động của tôi không?”.

* Chị đã mất bao nhiêu thời gian cho Giàn thiêu, cho Từ Đạo Hạnh lẫn Ỷ Lan? Nhân vật nào làm cho chị có cảm hứng nhất khi cầm bút?

- Tôi mất hai năm rưỡi cho “Giàn thiêu”, nhưng chỉ viết tranh thủ vào một số ngày cuối tuần. Nếu chỉ cộng những ngày ngồi vào bàn thì chưa đầy hai tháng, và tôi viết “Giàn thiêu” trước hết là cảm hứng từ số phận kỳ lạ của Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh.

* Ngoài văn chương ra, chị còn là một nhà báo có tiếng là thẳng tính và công bằng, vậy nơi nào, báo hay văn, là chỗ để chị “trút bỏ những nỗi muộn phiền”?

- Tôi viết không để trút bỏ muộn phiền. Nỗi muộn phiền của tôi trở thành quá nhỏ bé trước những đau khổ và những lòng yêu lớn của kiếp người, trước những đồng bào của chúng ta. Báo là tiếng nói trực diện, là trách nhiệm trực tiếp đối với đời sống hàng ngày. Văn là nơi thổ lộ những khát vọng, những nỗi đau lớn của kiếp người. Khi trách nhiệm, lòng yêu và nỗi đau đến thì nỗi muộn phiền tự ra đi.

* Người ta thường có ý nghĩ rằng, muốn văn chương “sống” được, phải có một nghề gì đó để “nuôi” nó. Vậy, nếu có một lời khuyên dành cho những người trẻ tuổi đang hàng ngày “lấy báo nuôi văn”, chị sẽ nói điều gì?

- Cứ việc lấy báo hoặc bất kỳ cái gì đó từ mồ hôi nước mắt của mình để nuôi văn, bởi vì trong khoảng hai mươi năm nữa, nguồn thu từ văn chương đích thực vẫn chưa cải thiện được đâu. Chỉ nên nhớ rằng, chớ lẫn lộn giữa hai thể loại, làm báo hay làm văn đều phải hết mình và “ tới bến”. Khi đã “tới bến”, báo và văn chẳng thể triệt tiêu nhau.

* Nếu được làm lại tất cả từ đầu, liệu sẽ có một “Võ Thị Hảo khác” không?

- Nếu được làm lại từ đầu, có hai cách: tốt nhất là không ra đời. Nếu phải ra đời, lại là Võ Thị Hảo, nhưng nên ngào thêm mật ong cho cuộc đời đỡ đắng.


Theo SGGP
Phượng Các
#3 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:18:36 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Bàn Tay Lạnh

Đàn bà gì mà lòng bàn tay lạnh buốt - anh bạn cùng phòng tôi xoa xuýt hai bàn tay vào nhau, thốt lên. Không ngẩng đầu, tôi nói cho có chuyện: "Nghe nói: Ai có bàn tay lạnh thì có trái tim nóng".

Anh ta cúi xuống gần tôi:

- Trông tôi có đến nỗi nào không?

Tôi ngước lên nhìn anh như thầm cân đo, rồi nói khá chân thành:

- Rất được! Đẹp trai là đằng khác!

Anh ta nhếch cười, thẳng người lên mãn nguyện, nhưng tôi bỗng lập tức cau mày:

- Thế mà ánh mắt cô ta nhìn tôi cũng lạnh, còn lạnh hơn cả bàn tay. Lẽ nào cô ta không coi tôi là đàn ông?

Vừa gỡ nới nút cà-vạt mầu xám đậm nơi cổ, anh vừa kết luận:

- Tôi ghét những loại đàn bà như thế, mặc cho cô ta đẹp!

Tôi nhướng mắt nhìn anh, ngạc nhiên:

- Can gì tới anh cơ chứ?

- Sao không? Bạn tưởng chỉ có đàn bà mới đo ảnh hưởng của mình trong ánh mắt người khác giới? Đàn ông còn quan tâm tới điều đó hơn nhiều.

- Thôi được! Tôi dàn hòa - nhưng anh đang nói tới ai vậy?

- Kia kìa, - người đàn bà ngồi quay lưng lại đây, trên chiếc ghế thứ hai của hàng thứ ba.

Tôi vươn cổ nhìn theo tay anh ta. Một đôi vai thon nhỏ được phủ mềm mại một lần áo mầu khói nhạt bằng vải sít lạnh. Những nếp áo rủ trông thật yêu kiều. Thế nhưng dáng ngồi thì quá thẳng, thẳng đáng ngờ, với cái đầu ngẩng cao. Ký ức tôi thảng thốt, bắt chợt một nét quen quen nào đó tự ngày xưa.

Chắc linh cảm thấy ai đó đang nhìn mình chằm chằm từ sau lưng, người đàn bà ấy giật mình quay lại:

Và chỉ chờ có thế, tôi vụt reo lên:

- Trời ơi! Chị Trang!

Mọi người nhìn tôi khó chịu. Nhưng chị đã rời ghế, mỉm cười và đi về phía tôi. Hai chị em nắm tay nhau, cùng bước ra ngoài phòng họp - hội nghị khoa học toàn quốc.

Và tôi cũng đã giật mình vì bàn tay chị thật lạnh. Quen biết chị từ nhiều năm trước đây, sao tôi không nhận ra điều ấy nhỉ?

Trong phòng họp, báo cáo viên đang đọc bài viết mang tên: "Thử bàn về hôn nhân ở các hành tinh ngoài trái đất".

° ° °

- Chị vẫn chưa lập gia đình ư? - Tôi nhìn bộ ngực cao của chị và hỏi.

"Không phải là chưa, mà là không bao giờ" - chị đính chính, giọng chắc nịch. Bàn tay với những ngón thon nhợt nhạt đưa lên vuốt ngược mái tóc. Tôi xót xa nhìn những nếp nhăn lờ mờ lượn quanh khóe môi thanh tú một thời quyến rũ của Người Đẹp trường tôi cách đây mười bảy năm. "Chị vẫn chưa quên được chuyện ngày xưa..." - Không dám nhìn vào mắt chị, tôi rụt rè hỏi.

"Nếu quên được, mình đã có thể lấy chồng..." - chị thở dài. Hỏng rồi em ạ. Có những loài cây chịu được sương, mưa bão và nắng. Nhưng có những loài cây bị gục từ những giọt sương muối đầu tiên và không bao giờ dậy được nữa. Không hiểu sao chị cứ đinh ninh rằng trái tim mình chỉ là một sợi dây tơ và dây ấy đã bị giằng đứt quá sớm".

Những giọt nước mắt của chị rơi xuống cốc ca-cao đang cầm trên tay. Tôi, một người đàn bà từng có một mặt con và gia đình chẳng chuộc, nên thương cho chị hay thương cho chính tôi đây?

° ° °

Ngày ấy, con gái lớp tôi có cả thảy bảy đứa, trong đó chị lớn tuổi hơn cả và đẹp hơn cả. ánh mắt bọn con trai dừng nơi chị bao giờ cũng lâu hơn so với cả lũ chúng tôi. Đáp lại những cái nhìn ấy, chị thường dửng dưng quay đi.

Vì thế, khi cả đến người xấu nhất trong đám chúng tôi đã có người yêu, mà chị vẫn chưa chịu nhận lời đi chơi với một người con trai nào, tôi ngập ngừng hỏi chị:

- Chị không thấy người con trai nào đáng yêu sao? Nhiều người đến với chị và giơ "cờ trắng" thất thểu quay về rồi đấy. Chà, giá mà em được như chị... Thôi thì em cũng đành quơ tạm một anh...

Chị cười:

- Không phải chị không muốn yêu đâu. Những tối thứ bảy, thấy từng đôi dập dìu, chị cũng buồn... Nhưng em biết không, đàn ông bay là là trên mặt đất. Còn chị thì bay trên cao. Bao giờ gặp một người con trai bay cùng tầng, thì lúc đó... Em tưởng chị không khao khát được một ai đó buộc mình phải quy hàng một cách ngọt ngào sao?

Ngày ấy, dù đã có người yêu, nhưng tôi không hiểu mấy về những tầng bay của chị. Và có lẽ chị đã kể về những tầng bay ấy không chỉ với tôi. Trong lớp và trong khoa tôi bắt đầu lan truyền những lời xì xầm về tính kiêu ngạo quá đáng của chị. Bọn con trai cảm thấy bị giễu cợt, bị xúc phạm. Chúng đố nhau: "Đứa nào tán đổ được Thùy Trang, đưa đi chơi và hôn được cô ta trước sự chứng kiến bí mật của cả bọn thì sẽ được thưởng một két bia và một tháng không phải đi quét nhà...". Đúng là "nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò".

Từ đó, trong lớp có một "chiến dịch" ngấm ngầm của đám con trai nói chung chống lại chị. Trừ chị ra, cả lũ con gái chúng tôi đều biết và theo dõi một cách hồi hộp và thú vị. Thực lòng, chúng tôi không đành khi thấy chị lẻ loi.

Nhưng đám con trai thử đã đủ cách mà vẫn không xong. Đã thế, càng cay cú. Cả bọn thề là sẽ "phục thù" bằng được. "Người nhà" không xong thì người ngoài vậy - một cậu láu lỉnh nhất lớp tuyên bố. "Nào, các đồng bào kém cỏi của tôi, chúng ta đã đầu hàng thì đừng có tiếc nhé. Tớ sẽ đưa một anh chàng ở ngoài vào. Anh này thì đảm bảo là chắc thắng: đẹp trai này, hào hoa phong nhã này, lại có gương mặt có vẻ cao quý này. Hắn vốn là một "Đông Joăng" đấy! Thế nào? Được chứ?". Cả bọn ngơ ngác: "Thế thì hắn nẫng tay trên của tất cả bọn ta rồi còn gì?". "Không lo, nỡm ạ? Chúng ta phải bắt hắn làm cam kết chứ. Công việc chỉ được dừng đến đó thôi, rồi hắn phải chuồn. Thú thật, tớ không muốn trao cô nàng vào tay một người như thế, vấn đề chỉ là làm cho nàng bớt kiêu đi mà thôi, để ta còn có cơ may... Thôi, nhất trí nhé!". Cả đám vỗ tay tán thưởng.

Thứ bảy tuần sau, trước hành lang phòng con gái chúng tôi xuất hiện "người hùng". Quả thật, trông anh ta rất hấp dẫn: cao lớn, da ngăm ngăm, gương mặt gần như cao quý. Để ý lắm mới thấy cái nhìn hơi cụp xuống. Phải nói rằng đó là một gương mặt gần như toàn bích. Thẩm - tên anh ta - gặp chị Trang với vẻ hơi giễu cợt, nhưng khi vừa nhìn thấy chị, anh ta bỗng thay đổi hẳn thái độ. Với linh cảm của một người con gái đã từng yêu, tôi biết rằng câu chuyện không phải chỉ là chuyện đùa nữa.

Cả lớp tôi lại hồi hộp theo dõi. Cả lớp biết mà riêng Trang không biết gì về lời thách đố. Khi mắt chị rực sáng những tia nhìn đầu tiên của tình yêu, tôi bỗng ân hận là mình cũng ngấm ngầm tham gia vào trò đùa ấy, liền nói xa nói gần với chị:

"Chị Trang ơi! Chị có nghĩ rằng anh Thẩm tốt không? Có chân thành với chị không?"

"Có chứ! Anh ấy rất chân thành và rất yêu chị. Chị cảm thấy bây giờ mới gặp được người cùng tầng bay: anh ấy trong sáng một cách kỳ lạ..."

"Thật ư? Em không tin..."

"Đúng đấy em ạ. Có lẽ số phận đã để dành anh ấy cho chị để đến bây giờ mới gặp. Mẹ chị không hạnh phúc. Chị gái của chị cũng đã không hạnh phúc. Người hàng xóm của chị cũng không hạnh phúc. Vì thế, chị phải hạnh phúc, chị không được phép sai lầm. Gia đình chị không thể thêm một người đàn bà bất hạnh thứ ba. Vì thế em thấy không chị rất thận trọng khi chọn người yêu"...

Và chị tiếp, khuôn mặt rạng ngời: "Chị cảm thấy chị nắm điều đó trong tay, em ạ. Nhà chị không thể thêm người đàn bà bất hạnh..." - Chị nhắc lại và đượm vẻ ưu tư như một bóng mây lướt qua làm tôi tối mắt. Tôi chỉ còn nước thở dài. Người ta nói "Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu" quả thật không ngoa. Mẹ tôi cũng từng nói: "Đàn ông nó không quyết chí lừa thì thôi. Chứ nó đã quyết chí, bền bỉ và tinh vi thì dù người đàn bà nào khôn ngoan đến mấy cũng phải mắc, con ạ."

Tôi chỉ còn cách chạy đến bảo bọn con trai trong lớp: "Lập tức thôi các trò đó đi. Quá đà rồi đấy! Khéo mà lại ân hận không kịp". Nhưng đám con trai xua tôi như xua muỗi: "Mặc kệ chúng tớ? Đừng can thiệp vào những chuyện không phải của mình. Và chúng tớ hứa với cậu là sẽ không để những hậu quả đáng tiếc xảy ra".

Cho đến một buổi tối.

Thẩm đã rủ được chị Trang đi chơi trên con đường rợp bóng cây báng súng gần trường. Tôi nhớ hôm ấy trăng sáng lắm. Đây là cuộc hẹn hò đầu tiên của chị, nên Trang mặc chiếc áo đẹp nhất. Má chị ửng hồng và mắt sáng ngời. Thẩm đến đón Trang. Sao lúc ấy tôi thấy khinh anh ta thế. Tôi chỉ muốn thét vào mặt Thẩm: "Hãy thôi cái trò đùa ngu ngốc của anh đi".Đáng lẽ thế, thì tôi lại chỉ đi qua khẽ nói: "Dừng lại đi! Quá đà rồi đấy!". "Không quá đà đâu! Yên tâm" - Thẩm buông một câu. Hai người ra đi. Và tôi linh cảm thấy cái giờ phút đáng sợ nhất đối với Trang sắp tới. Tôi bỏ cuộc hẹn với người yêu, lẳng lặng đi theo chị, lẩn sau những bóng cây.

Và tôi thấy dưới ánh trăng trong vắt như mật ong, người con trai ấy bỗng dừng bước quay người chắn ngang lối đi của chị. Một tay anh quàng vai, một tay nâng cằm chị, nói một điều gì đó có vẻ rất ngọt ngào, rồi cúi xuống, đặt lên môi chị một cái hôn. Và tôi cũng thấy Trang dịu dàng tựa đầu vào ngực anh.

Giây phút ấy, tôi bỗng quên tất cả. Tôi khấp khởi thầm hy vọng, rằng tất cả sẽ tốt đẹp, rằng Thẩm sẽ mãi mãi yêu Trang, rằng sẽ không có trò đùa ấy trên đời. Chao ôi! Khi người đàn bà tựa mái đầu mịn như nhung vào ngực một người con trai, tại sao những điều xấu, tại sao cái ác lại có thể vẫn cứ xảy ra được nhỉ? Khi mà một sinh vật yếu đuối đến nhường ấy, dễ thương đến nhường ấy, đến tìm nơi ngực anh một chỗ nương tựa, tin tưởng rằng anh là một người tốt nhất trên đời, cả quyết rằng nơi anh có phép lạ, rằng anh có thể biến một cuộc đời bất hạnh thành hạnh phúc, thì tại sao, tại sao tất cả những điều dối trá nỡ xảy ra?

Hai người đứng yên lặng trong vòng tay nhau giây lâu.

Tôi len lén ra về. Tôi gần như yên tâm, cảm thấy rằng Trang sẽ không làm những điều dại dột, ảnh hưởng đến thanh danh con gái.

Khoảng chín giờ, Trang về. Mặt chị vẫn ngời ngời hạnh phúc.

Đúng mười lăm phút sau, Trang nhận được một mảnh giấy liệng vào cửa sổ. Chị cầm lên đọc, sắc mặt đang hồng hào chuyển sang tái mét. Chị thẫn thờ tựa lưng vào tường, như hóa đá.

Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi bước tới bên chị, cầm mảnh giấy lên đọc. Chữ của một thằng trong đám con trai lớp tôi:

"Xin có lời chào cô em xinh đẹp và quá kiêu kỳ! Anh Thẩm vừa nhận được một két bia vì đã đạt được thành tích trong việc tán tỉnh cô em. Hắn ta đã có vợ rồi. Em ơi! Hắn lừa em đấy? Từ nay thì đừng kiêu với bọn anh nữa nhé!".

Trang không khóc. Sau một đêm không ngủ, sáng hôm sau, Trang dậy sớm, chải đầu và trang điểm kỹ lưỡng. Không ai nhận ra điều gì khác thường nơi chị, chỉ trừ ánh mắt bỗng nhiên trống hoang. Chị đi một ngày, không ai rõ đi đâu. Cả lớp nhốn nháo. Bọn con trai bồn chồn.

Tôi lên phòng nam, định cho chúng một "bài" và bàn cách đi tìm Trang về. Tôi sợ chị tự tử. Thì bỗng nghe trong phòng có tiếng cãi nhau. Tiếng Thẩm gay gắt:

"Các người quá đáng lắm! Tao mặc dù trước đây đã từng yêu đương lăng nhăng thật đấy. Nhưng lần này thì không. Tại sao chúng mày bảo tao đã có vợ rồi? "

"Thế mày quên hợp đồng rồi sao?"

"Thôi thôi, đừng nhắc đến cái trò ngu ngốc ấy nữa. Tao căm ghét chúng mày và căm ghét cả chính tao!...".

Cả phòng im lặng. Thẩm bước ra, suýt nữa anh ta đâm sầm vào tôi.

Tôi cũng lẳng lặng quay về phòng.

Tận chiều hôm sau, Trang mới trở về. Trông chị như già đi mấy tuổi. Chị rửa mặt qua loa rồi đi thẳng lên văn phòng khoa, xin chuyển trường. Nơi chị xin chuyển đến là một ngôi trường hẻo lánh, so với Hà Nội thì thật là một chốn "khỉ ho cò gáy". Sau một hồi trao đi đổi lại, thấy Trang lì quá, ban chủ nhiệm khoa đành đồng ý.

Tối hôm ấy, đám con trai lớp tôi đi thành một hàng dài, đến trước mặt Trang, và nói:

- Trang ơi! Hãy tha lỗi cho trò đùa dại dột của bọn mình!

- Bạn đừng giận, vì tất cả chúng tôi đều mến bạn. Xin bạn đừng chuyển trường!

Trang oà lên khóc. Lúc đó tôi mới thấy chị khóc. "Các người về đi! Điều này không liên quan đến các người". Đôi vai nhỏ nhắn của chị run bần bật trong tiếng nấc.

Sau khi đám con trai về rồi, Thẩm đến. Hôm nay trông anh thảm hại như gà gặp mưa. Lúc này Trang đã hết khóc và trở lại trạng thái hóa đá.

Thẩm nói: "Trang! Em tha lỗi cho anh! Anh không muốn thế.

Lúc đầu anh định chỉ là trò đùa. Nhưng bây giờ anh yêu em thật lòng. Anh xin em chấp nhận tình cảm của anh"...

Trang đứng vụt dậy. Lúc này tôi trông chị kiêu hãnh như nữ thần báo thù, mà Thẩm là một kẻ thảm hại đang quỳ dưới chân. Chị nói rất nhỏ, nhưng đủ cho anh ta nghe rõ:

"Cảm ơn! Các người tưởng rằng có thể đánh giá tình yêu của người con gái ngang một két bia được, thì các người cũng có thể đem danh dự ra mà đổi chác được. Có thể bây giờ anh đang nói thật, nhưng không bao giờ tôi có thể còn tin anh nữa. Anh có biết, anh vừa đập vỡ chiếc bình quý nhất mà người ta chỉ có một lần trong đời không?

Bây giờ, tôi đau khổ. Nhưng tôi cũng xin nói rằng, tôi thương hại cho chính anh, Thẩm ạ! Và đừng bao giờ để cho tôi trông thấy mặt anh".

Rồi chị ngẩng cao đầu, bước ra khỏi phòng, để mặc Thẩm đứng như trời trồng, mặt tái dại.

Hôm sau, chị xách va-li ra đi, mặc dù tôi đã gần như van xin chị ở lại. Chị ngậm ngùi:

"Cảm ơn em. Cưng ạ. Nhưng chị không thể ở lại được nữa. Thuyền đã nhổ neo, và cứ phải đi. Thế là người đàn bà thứ ba của gia đình chị cũng bất hạnh mất rồi. Thêm một người bất hạnh trong nhà thật kinh khủng, phải không em. à, mà chị nói điều này với em làm gì nhỉ".

Chị cúi xuống nhìn sâu vào mắt tôi.

"à cô bé, cô chưa bất hạnh bao giờ. Mắt cô còn trong hơn cả mắt tôi - Con người yêu đêm đầu tiên và thất tình ngay trong đêm đầu tiên. Em không hiểu được điều đó có ý nghĩa đến thế nào đâu.

Thôi chào nhé. Chị sẽ mãi nhớ đến em - cô bé đa cảm".

Và chị ra đi, chui vào lòng chiếc ô-tô buýt. Tôi nức nở nhìn hút hoắt chiếc xe mang chị đi. Trông xa, nó như một con bọ hung đỏ đang dũi đất trên rẻo đường đầy bụi.

° ° °

Từ ngày ấy đến nay đã mười bảy năm.

Chị đã kịp trở thành một người đàn bà cẩm thạch. Còn tôi, đã kịp khóc nhiều đêm, đã kịp viền đôi mắt trong, ngày xưa chị từng khen, bằng những quầng thâm.

Chị đã kịp làm giá băng đôi bàn tay và ánh mắt. Để cho bao nhiêu người đàn ông nào bực bội vì họ đã trôi qua không để lại gợn xao xuyến trong chị. Cũng đã kịp nhắc đi không cần thêm một người đàn bà bất hạnh. Thêm một người bất hạnh làm gì, em nhỉ!".

Hội nghị khoa học đã kết thúc. Phòng họp rộn rịch những tiếng chân. Tôi nhìn những bước chân đàn ông, và nghĩ: nhiều người đàn ông tô điểm cho mình bằng bộ sưu tập ngày một cộm lên những gương mặt đàn bà. Họ coi đó là chiến tích anh hùng để thỏa mãn và ngầm khoe với bè bạn. Chẳng lẽ cuộc sống này trống rỗng đến thế sao?

Những người đàn ông may mắn! Lúc nào rỗi rãi, hãy mở những bộ sưu tập của các ngài ra. Có dám đoán chắc với tôi rằng, trong đời mình đã không từng làm lạnh giá một bàn tay?!

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#4 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:19:39 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Biển Cứu Rỗi

Anh rùng rẩy toàn thân, thấy đôi chân mình đang veo dần, von veo dần, hóa ra cái đuôi nhọn hoắt của một con ốc mượn hồn và “òa… òa…” anh sẽ lẫn, lẫn trong muôn vàn con ốc, giữa tiếng sóng quét.

Thứ ốc mượn hồn đầy chặt đảo đèn. Mỗi sáng, trong bước chân đưa tang lượt thượt của gió, biển lại quật lên thềm đảo những ruột ốc nát bét - những ruột ốc câm lặng chẳng ai biết chúng từng sống cũng như từng chết.

Cách đây không lâu, anh chỉ mới hạ mình xuống địa vị của một con hạc biển, vì nhận ra rằng đôi đầu gối mốc xì của anh cũng giống đôi đầu gối xù xì mốc mác của chúng, và còn cảm được tầm vóc to lớn của mình trước đám đông đủ loài chim biển tẹp nhẹp kéo tới chí choé, lắm lời tranh nhau chỗ đậu, vào mỗi buổi chiều chạng vạng hay lúc trở trời. Đảo mang một màu trắng xỉn xo - màu phân chim biển vào ban ngày. Còn ban đêm, dưới ánh hải đăng lừ lừ không đổi, loài cua âm thầm bò lên. Ánh mắt tù đọng và lối đi ngang không một tiếng động của loài cua khiến trái tim anh càng tê dại trong tiếng rì rầm não ruột của sóng. Ở đâu anh cũng bị vây trong ánh mắt dò hỏi tù đọng của loài cua.

Một đôi lần như thế, khi vết thương cũ cắn nhức nhối, anh đã từng nổi điên, ngồi thu lu đầu gối quá tai, tay cầm gậy, rình đập nát bét dăm chục con cua mới lóp ngóp ló lên khỏi mặt nước trong một đêm cua động rồ, khiến cho đảo đèn tanh sặc mùi cua chết đến ba tháng ròng.

Anh từng lặng ngắt vì hoảng sợ, khi bất chợt mình truồng như nhộng qua một giấc mơ đêm, và cứ thế lừng lững đi. Anh đánh mất thói quen mặc quần áo do thiếu vắng đồng loại lâu ngày. Thiếu một đồng loại nhìn vào anh, khả dĩ giữ cho anh cảm giác xấu hổ, ranh giới cuối cùng nhằm phân biệt anh với một con cua hay một con bò.

Những khi ấy, anh xòa tay ôm mặt. Dòng nước rỉ qua hàng mi trắng xóa hơi muối biển, qua đám râu ria lồm xồm không cạo, và khi xuống đến môi, chúng đã mang màu đục nhờ nhờ của nước đá vôi.

“Ba năm thôi. Ba năm rồi sẽ có người thay”.

Người ta nói, tránh nhìn vào mắt anh khi lần đầu đặt chân lên đảo đèn.

Hồi ấy anh nhếch cười khinh thị. Từ giã đời lính anh trở về với một con mắt giả và thân hình tiểu tụy. Một con búp bê tóc vàng mắt xanh tòn ten đung đưa trên nắp ba lô. Con anh đã qua tuổi chơi búp bê từ lâu. Song búp bê là vật phẩm lộng lẫy nhất mà con người có thể tạo ra, dưới con mắt của những anh lính nhà quê chất phác ở rừng lần đầu tiên đặt chân vào thành phố.

Xuống tàu, anh khấp khởi chạy gần về ngôi nhà lá ba gian náu mình dưới lùm dây leo bên vệ đường, con đường động mạch của chiến tranh - ai cũng từng nói thế. Anh chạy gằn vì mường tượng thấy hai mẹ con - một cao một thấp như nàng Tô Thị sẽ giang tay ra: “Mình đấy ư?”… Và có thể vợ anh sẽ rơi nước mắt vì sung sướng.

Nhưng chẳng ai ra đón anh cả. Trong căn nhà lá tối mờ có đến ba đứa trẻ lít nhít trứng gà trứng vịt với ba khuôn mặt hoàn toàn khác nhau. Vợ anh hốc hác, nửa thân trên gần đổ về phía anh, nhưng chân cứ như bị chôn chặt trong xó nhà, ngó anh trân trân rồi sụn xuống đất, òa lên tức tưởi.

Không! Đó quyết không phải là những giọt nước mắt sung sướng dành cho ngày gặp mặt!

“Búp bê” một đứa thét lên. Và ba đứa trẻ chạy tới, vồ vào chế phẩm lộng lẫy trên nắp ba lô. Nhưng trước cái quắc mắt dữ dằn của anh, chúng chùn lại, len lét nép vào một xó.

Không phải con anh. Con anh ít nhất là lớn gấp ba thế này. Chúng không mang gương mặt anh.

“Con tao đâu? Đồ đĩ” anh rít lên thô bạo. Vừa lúc đó có tiếng lịch kịch ở ngoài sân. Anh ngoắt lại: một con bé trạc mười lăm tuổi, dáng đi õng ẹo bước vào: “Có lương khô không chú?”, nhoẻn cười. Nụ cười chưa hết hơi sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi chác.

Ra thế! Ngôi nhà bên đường chiến tranh! Động mạch của chiến tranh! Sau này, anh chua chát triết lý. Số phận không dành cho anh người đàn bà bạc tóc chờ chồng. Những đứa trẻ khác bố. Những cuộc giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần. Thù lao, sang nhất có lẽ là những phong lương khô và vài bộ quần áo Tô châu.

Lúc đó, hai bàn tay anh bỗng thèm máu. Anh muốn bóp chết tất cả - những đứa trẻ lạc loài đói khát, cả người vợ phụ bạc chỉ còn hai con mắt, cả nụ cười hơi sữa đổi chác kia.

Nhưng một nỗi gớm ghét từ đâu đến làm chân tay anh bải hoải. Anh rũ xuống nền nhà, nôn ẹo ra những bụm nước trong vắt, giũ tuột ba lô rồi thất thểu bỏ đi, để lại sau lưng tiếng khóc của người vợ, đứa con duy nhất của anh không biết rằng nó vừa có bố, trong thoáng chốc đã lại không có bố cùng tiếng reo à à giằng nhau con búp bê của lũ trẻ.

Anh tìm đến một chân gác đèn trong sự gớm ghét đàn bà và nhân thể gớm ghét luôn cả đồng loại. Anh nhìn thấy những bàn chân đồng đội đi dép lốp. Một rừng chân qua ngực anh, bị tiện gọn trước họng súng và để lại trên mặt đất những đứa trẻ vô thừa nhận đang giằng nhau mảnh áo búp bê. Anh dự định sẽ ở suốt đời trên đảo đèn - một đảo hiểm trở nhất, cổ lỗ nhất, nơi những phương tiện hiện đại khó bề vươn tới được, để tránh xa đồng loại nhẹ dạ, phản trắc và đầy tội lỗi đã tước đi của anh chút ham hố muốn sống trên đời.

Hả lòng nhất là những ngày đầu. Không phải nhìn mặt một ai. Được biến thành một kẻ vô cảm, mọi giác quan như đông lạnh trong tiếng gào thét của sóng và gió. Và anh yêu sự hù doạ cao cả của biển. Những bận tâm trên đất liền của loài người chỉ là mối lo toan nhỏ nhặt của đàn kiến so với một Trận Đại Hồng Thủy. Anh không nghi ngờ rằng, mình có thể ở đây, thậm chí cả trăm năm.

“Giọng ông khang khác thế nào ấy!”. Người lái tàu tiếp tế vừa lùi lại vừa nói, thoáng một chút kinh hãi trong mắt. “Làm sao?” - anh gắt “à… ờ… nghe như tiếng gió hú”. Và anh lặng nhìn xuống chân. Hai bàn chân trần. Anh đã mất thói quen đi dép. “Lần sau ra mày mang cho tao một cái gương to vào nhá…”. Anh nói thêm một lần nữa, lần này, anh nghe rõ giọng nói lạ hoắc của chính mình.

Chiếc gương được mang ra. Anh thường soi gương không phải để làm dáng, mà cốt để gây ảo giác rằng trên đảo luôn có hai người. Anh nhìn vào gương, nói chuyện một mình để luyện giọng: “Thằng cha kia! Sao mày vẩu thế?”. “À trước răng tớ đẹp lắm nhá. Đi lính lâu ngày, răng cũng phải theo chín sáu ba không ấy mà”. “Ồ được! Chú mày cũng hóm ra phết. Có nhai cá nướng không?”. Anh xé một miếng cá đưa lên mồm, thất kinh vì thấy thằng cha trong gương đang nhai nhồm nhoàm như một con thú. Khi đó anh lại rũ người xuống trong một cơn mệt không tên.

Anh đã phải viện đến đủ trò quái gở, chỉ sau nửa năm sống một mình trên đảo. Mùa hoan lạc của chim khiến anh da diết nhớ vị đàn bà. Và góc ký ức sâu thẳm nhất lâu nay quên lãng bỗng chuồi lên như một con cá mập. Hồi trong rừng, anh đã chụp hụp một nàng. Nếu dừng chân lâu có lẽ rồi anh đã kịp để lại trong lòng cô ta một đứa trẻ vô thừa nhận Anh và coo ta chưa kịp biết tên nhau. “Giữ làm gì em. Ngày mai chắc chết…”. Triết lý của lính chiến biến một gã trai mười bảy tuổi trong trắng nhất đời hôm nay thành một gã đàn ông sỡm sờ vào ngày mai, và ngày kia mười phần chắc tám anh ta thành tử sĩ. Trước khi chết, có thể anh ta đã kịp đón nhận hoặc một cái tát, hoặc một vòng tay ôm xiết vội vã. Anh nhớ một đôi trai gái vô danh ôm nhau chết trong loã thể. Miệng cô gái còn cắn chặt một nửa quả vải rừng. Cái hốc sâu hoắm của một viên đạn xuyên qua lưng hai người. Cán bộ đại đội phỉ nhổ hình ảnh ấy bằng những bài chỉnh huấn ứng khẩu. Nhưng anh biết chắc, có rất nhiều người lính thầm ao ước được chết trong tình trạng êm ái đó, miễn là không ai nhìn thấy.

Đến năm thứ hai, trong anh bỗng xuất hiện ý nghĩ phải trói chặt tay lái tàu tiếp tế vào cột đèn để giữ hắn ở lại. Giữ hắn lại, d ù chỉ để được nghe hắn chửi.

Anh vui sướng lắm được nghe hắn chửi. Nhưng anh đã kìm được vì sợ chết đói.

Đến hạn ba năm, anh hối thúc đất liền tìm người thay. Nhưng trước đây, anh đã chót khinh thị cái thời hạn ba năm, bây giờ tìm người thay đâu dễ.

Lâu ngày, những trò quái gở qua đi. Anh lầm lì trở về trạng thái vô hồn, hai tay buông xuôi. Để dỗ dành anh, thỉnh thoảng người ta gửi cho anh những chai bia màu xanh. Anh ngửa cổ dốc hết cả chai vào bụng, rồi vứt tọt ra ngoài xa. Những chai bia chưa chìm ngay, nhún nhẩy bập bềnh chốc lát, nhoai ra biển. Điều đó chợt đánh thức vài trang sách anh đọc từ thời còn nhỏ: những thuỷ thủ bị đắm tàu, bị số phận bỏ rơi đã tìm đến sự cứu giúp qua những chiếc chai.

Thế là anh bước vào một trò chơi mới. Anh viết vào những tờ lịch xé hàng ngày, cho vào túi ni lông rồi buộc chặt nhét vào vỏ chai bia, thả ra biển nhằm hướng Tây. “Người đàn bà nào nhặt được mảnh giấcy này xin hãy cứu giúp. Tôi đang sắp chết vì cô đơn. Nhưng ở đây tôi không thiếu cái ăn và tôi thề sẽ yêu quý, dù đó là người xấu xí nhất… Cách tìm tôi…”.

Thiên hạ ít ai điên rồ. Biết thế mà anh vẫn mong, mặc dù tự nhủ: đó chỉ là trò chơi thôi. Chỉ là trò chơi thôi mà!”. Người anh vẫn run bắn lên mỗi khi con tàu tiếp tế đến. Anh không dám mong một người đẹp. Có thể chị ta thiếu một tay hoặc một chân. Thế cũng tốt lắm rồi.

Một chiều nắng rải trên biển mang màu trẵng gở. Con tàu tiếp tế hiện rõ dần và anh thấy trên boong có đường cong của một cái eo lưng của người đàn bà cùng sự chớp sáng của một chiếc nón trắng. Không dám tin ở mắt mình, anh thở hắt ra quay đi hướng khác, nhổ nước bọt giận dữ để xua đi ảo ảnh. Nhưng tàu đã ghé tới cùng tiếng reo của người lái tàu. Trên boong là một người đàn bà thực. Người đó đang run rẩy cúi mặt, bò trên tấm gỗ mỏng manh nối thân tàu với đảo đèn.

“Kìa! Dắt chị ấy lên chứ. Sao lại cứ như bị ngộ gió thế kia?”. Anh sực tỉnh, vội vàng nhảy vút tới, khiến cho chiếc cầu chòng chành suýt nữa thì hắt người đàn bà xuống biển. Chị nằm mọp xuống bám lấy chiếc cầu. Bằng cái lẹ làng của một con sư tử, anh xốc nách chị, đặt lên đảo. Cú va chạm này làm anh rùng mình như điện giật.

Và lúc ấy, người đàn bà ngẩng lên.

Lạy Đức thánh mẫu! Người đã gửi đến cho con cái gì thế này! Khuôn mặt người đàn bà, có đủ hai mắt, mồm và mũi, nhưng là một khuôn mặt đặc trưng nhất của một con điếm. Điều này rõ đến nỗi, một kẻ dù khờ khạo đến đâu cũng sẽ nhận ra ngay lập tức.

Tã tượi mái tóc và hàng mi, trống huếch cái nhìn. Đôi môi thâm xì quẹn một lớp son dày màu máu trâu. Đôi môi này, giá có đặt ở ngã bảy, một gã nhặt rác có lẽ cũng chẳng thèm hôn. Một cô gái điếm đã thiu, bị liệng ra bãi thải, ốm nhách và vô phương sinh sống. à thì ra là thế. Vì thế nên thị mới tìm đến với anh. Điều này nằm ngoài cả những dự tính rủi ro!

Trước cái nhìn như chôn sống của anh, thị cố sửa một nụ cười rúm ró. Hai vai cũng rúm ró co lại. Nhưng nụ cười tắt ngay. Thị thấy nhục, và quờ tay tìm cái nón, che người một cách dớ dẩn, làm như cái mộc để che đạn vậy.

Lập cập, chiếc nón rơi xuống nền đá. Gió lật vài vòng rồi vục nó xuống nước. Chiếc nón cứ thế, chập chờn như người chết đuối đang “giã gạo” hồi lâu trên mặt biển trước khi chìm biệt.

Anh sấn tới, dứ nắm đấm vào mặt người lái tàu: “Mày mang cho tao cái của nợ gì thế này?”.

Người lái tàu sợ hãi lùi lại, lắp bắp: “Nào… nào tôi có biết. Chị ta đến tìm, và nói rằng… nhặt được cái chai”…

Anh khoát thõng tay, ngồi phệt xuống mỏm đá. Tàu rời đảo.

Bữa ăn chiều - bữa đầu tiên của hai người ăn cùng nhau, anh chỉ ngồi hút thuốc, hạ mi mắt ngắm cái vẻ ăn chộp choạp, bốc bải, khát thèm của thị và càng khẳng định cái việc mình xa lánh loài người là đúng. Anh tự nguyền rủa mình đã chơi một trò nguy hiểm. Anh tiếp thêm rất nhiều thức ăn cho thị và không thèm giấu cái vẻ ghê tởm. Có lẽ đã lâu lắm rồi thị không được ăn lấy một bữa no. Lòng ghê tởm trong anh che lấp cả tiếng gào của dục vọng. Anh còn nghĩ đến nỗi hãi hùng của bệnh lậu - thứ bệnh khiến cho nhiều kẻ đàn ông chùn chân quay gót trước cửa lầu xanh.

Nhưng đêm rồi xuống. ĐÊm từ bi che chở cho người đàn bà thoát khỏi vẻ bẩn tưởi bị phanh phui không thương tiếc trước ánh ngày. Anh tặc lưỡi vào lúc trăng lên trên biển, đem đến cho thị, cho đảo vào cho anh một ánh ướt át cứu rỗi. Như một con thú hoang, anh lì lợm chiếm đoạt thị không một lời nào, một cử chỉ nào khả dĩ chấp nhận rằng người đàn bà đang ân ái cùng anh không phải là một con bò. Trong đời hành nghề của thị, thị chưa bao giờ cảm thấy đau đớn như thế trước sự hạ nhục của trò chăn gối. Dường như thị đang bị cầm kìm rứt từng khúc ruột.

Mãi tận trưa hôm sau, anh mới tỉnh giấc với cảm giác nằng nặng. Hóa ra đó là chân của “bạn tình” đang gác lên bụng. Anh vội ghê tởm hất ra. Chiếc chân không còn chỗ dựa rơi huỵch xuống đá khiến thị tỉnh giấc. Thị ngơ ngác trở dậy rồi khóc. Tiếng khóc gở như gai.

Đêm ấy anh không ngủ cùng thị. Những ngày sau tình trạng giữa anh và thị bập bỗng. Những cơn gớm ghét cứ dâng lên. Lúc nào đó, át được dục vọng, anh xa lánh thị. Khi dục vọng chiếm ưu thế, anh lại đến, để cả ngày hôm sau lại trở về trạng thái buồn nôn, tự khinh mình. Phải hất mụ ta đi thôi! Anh tự nhủ, mặc dù trong lòng cũng hơi thấy tiêng tiếc. Nhưng một tiếng nói khác còn mạnh hơn bắt anh cả quyết: dù sao anh cũng là một người đàn ông. Và anh không thể xa lánh người đàn bà hư hỏng đã có với anh một mặt con, chỉ để đến với một con điếm đã bị thiên hạ hắt ra ngoài bãi thải.

“Hoặc bây giờ, hoặc không bao giờ nữa!”. Bảy ngày sau, có một con tàu đánh cá tình cờ đi qua. Anh rối rít vẫy họ vào, thuê chở người đàn bà vào đất liền. Cuộc mặc cả nhùng nhằng mãi: “Chở đàn bà rủi lắm!…” - Người chủ tàu lắc đầu, mặt nhăn như chuột kẹp. Nhưng rồi cuối cùng cũng xong.

Người đàn bà theo dõi cuộc mặc cả với vẻ của một con cá bị đưa lên thớt. Khi đã ngã ngũ, thị đến bên anh, khóc: “Xin anh đừng đuổi tôi! Tôi không còn gì để sống. Tôi đã xin lại mảnh giấy này từ tay bà nhặt rác. Bà ta đọc và cười sằng sặc: “Giấy của quỷ biển đấy”. Còn tôi thì nài xin bà ta cho tôi. Tôi bị bệnh hoại huyết. Cũng chẳng làm phiền anh lâu đâu…

Quả thật, lúc đó hình như lòng anh hơi se lại. Sâu thẳm trong tim có tiếng “Gật đi!”. Thế mà ngoài mặt anh vẫn lạnh băng, và anh lắc đầu. Nhiều khi người ta vẫn thế, không vượt qua được chút sĩ diện hoã cuối cùng.

Và thế là người đàn bà biết rằng hết, có nài xin cũng vô ích. Khuôn mặt chị ta chuyển sang tái xám, môi mím chặt lủi thủi bước lên tàu. Chiếc cầu tầu chầm chậm rút. Lúc đó, anh chợt thấy trong mình chút hẫng hụt, toan gọi.

Thế mà rốt cuộc vẫn không gọi.

Tàu lừ lừ rời đảo. Người đàn bà đứng trên đuôi tàu, nhìn anh bằng con mắt căm hờn: “Tao nguyền rủa mày! Tất thảy! Tất thảy lũ đàn ông các người đều độc ác! Độc ác!”. Mắt thị loé lên ánh khinh bỉ và kiêu hãnh bỗng đâu, rồi thị giang cao hai tay như thể sắp bay lên. Và trong một cái rướn mình như kiêu sang, thị buông người xuống biển, chìm êm ru dưới lớp sóng đang lừng lững quặn lên phía đuôi tàu.

Tất cả diễn ra trong một khoảnh khắc khiến anh không kịp hiểu điều gì đã xảy ra. Và thật đáng sợ là một sinh linh vừa hiện diện như thế đã chìm mất tăm dưới mặt biển như chưa hề có trên đời. Đàn cá chuồn vẫn vèo qua vọt lại dưới mặt nước. Và lúc đó vừa bình minh. Chân trời hừng hực ráng màu đỏ máu.

Khi nhận ra, anh hoảng hốt nhảy ào xuống biển cuống cuồng lặn ngụp, quờ quạng lung tung tuyệt vọng. Con tàu lúc đó vừa mới cảm ra sự thiếu vắng người khách bất đắc dĩ mà nó nhận chở, cũng đang vun vút quay lại. Tất cả sự quần đảo của họ đều đã muộn. Rất may là chủ tàu đã kịp ném cho anh chiếc phao. Anh bò được lên bờ, nằm vật ra hổn hển dưới ánh nắng đang dần bẳn gắt.

“Phải lập bàn thờ bà ấy thôi ông ạ. Người chết trôi là thiêng lắm đấy! Ít nhất bà ấy cũng phù hộ cho ông khỏi phát điên. Chứ cứ cung cách này…” Người lái tàu vừa nói vừa quay về hướng ấy, chắp hai tay vái lia lịa.

Ba ngày sau, xác người đàn bà nổi lên dạt vào chân đảo đèn. Lúc đó anh vừa tỉnh giấc, linh tính một điều khác thường. Và anh trông thấy người đàn bà mà anh từng gần gũi xác thịt, cũng từng ghê tởm, đang đung đưa, đung đưa dịu dàng bên chân đảo. Và anh kinh ngạc trước sự cứu rỗi của biển. Khuôn mặt tàn tạ trước đây của người đàn bà ấy bây giờ đã giãn ra, thơ thới và không thể tin được, mang vẻ kiêu hãnh với đường viền mi khép hờ. Tấm thân gầy ốm giờ đây như đầy đặn lên, đung đưa, đung đưa như cử động uyển chuyển của người sống, trên mình vương những mảnh vải xác xơ mà lại mang vẻ siêu phàm. “Ta tha thứ cho các người” - cái miệng hé mở của người đàn bà như nói.

Sau này, anh cứ tự hỏi, đó không biết là thật hay mơ. Tại sao người đàn bà ấy chưa bị phân làm trăm mảnh trong bụng cá? Tại sao cái chết lại trả cho con người vẻ vô tội và thánh thiện dường kia? Anh không trả lời nổi, và đã lập bàn thờ người đàn bà ấy. Người mà cách đây ba ngày thôi, anh đã nhờm tởm như nhờm tởm một con vật. Anh đã phải khóc chị ta - người đàn bà bị cuộc đời dồn vào chân tường không nơi bấu víu với những giọt nước mắt cay đắng tự đáy lòng. Anh là một kẻ câm điếc, vì đã không nhận ra tận cùng nơi hình hài tã tượi kia vẫn còn chút lòng tự tôn của giống người. Trò chơi của anh - một người khốn khổ, đã kéo một người đàn bà đang đi vật vờ bên lề cuộc sống chạy nhanh lên phía trước để hoàn tất số phận thê thảm của mình.

“Tất thảy lũ đàn ông các người đều độc ác! Tất thảy!”. Giờ đây anh đau đớn nghĩ lại lời nguyền rủa như làn roi của người đàn bà ấy trước khi chết. Chị ta là ai? Nông nỗi nào khiến chị ta sa cơ lỡ bước? Giờ đây lần đầu tiên trong đời anh mới nghĩ một cách nghiêm túc về người đàn bà. Bên bàn thờ nghi ngút khói nhang làm bằng rêu biển, anh nghĩ về kiếp người, các nẻo đường mờ mịt mà những số phận phải quờ quạng đi cho đến hết. Điểm lại những kiếp người anh biết, thực ra nỗi khổ của đàn ông so với đàn bà chẳng thấm vào đâu. Nếu không có chai bia của anh, chị ta sẽ sống nốt những ngày cuối trên vỉa hè. Và đến khi thở hơi cuối cùng, chị sẽ trở thành Nữ Thần Vỉa Hè chứ không phải trở thành Nữ Thần Trôi Dạt như anh vừa suy tôn.

Anh cũng nhất thiết rằng, Nữ Thần Biển nếu có, cũng không mang một khuôn mặt nào khác, mà mang chính khuôn mặt đau đớn, tuyệt vọng và kiêu hãnh của Nữ Thần Trôi Dạt, bởi vì Nữ Thần Biển cũng là đàn bà. Nếu không biển đã không nhiều sóng đến thế, và nhiều cua đến thế. Và có lẽ vì Nữ Thần Trôi Dạt cũng là đàn bà - Đàn bà bao giờ cũng bênh nhau. Nên từ đây, anh cứ phải nhớ lại người vợ mà bao nhiêu năm nay anh đã cố công xua đuổi trong ký ức. Anh nhớ lại gương mặt hốc hác của chị. Tiếng máy bay gầm rú dọc đường. Tiếng bom nổ thâu đêm. Cả làng trắng đàn ông, chỉ còn lại đâu đó những tay què cụt, trẻ con hỉ mũi chưa sạch, hoặc các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố bom và bị buộc phải trở thành đàn ông. Trong khi đàn bà được tạo hóa sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đại thụ: người đàn ông. Anh thấy lòng se sắt. Mỗi lần khóc, trái tim anh mềm đi một chút.

Hơn năm sau, người ta chở ra đảo đèn một ông già rắn chắc cùng một cậu bé cỡ tuổi mười hai. Cậu bé có đôi mắt nâu sẫm, tóc xoăn.

Đó là hai sinh linh đến thay gác đảo đèn. “Bố mẹ nó chết bom cả. Ra đây dù sao cũng không bị đói. Nếu không bị đói, chúng tôi sẽ ở đây cả đời”- ông lão giải thích.

Khi anh thu xếp đồ đạc lên tàu, cậu bé loay hoay bên anh, táy máy hỏi: “Bác ơi! Bàn thờ ai mà lạ thế?”.

“À, thờ Nữ Thần Trôi Dạt đấy”. “Hay quá bác nhỉ! Thế bác về đâu hở bác?”. “Ờ, có thể bác sẽ về quê. Địa chỉ thế này nhá…”.

° ° °

Bốn năm sau cậu bé của đảo đã có thể đi coi sóc đèn thay ông.

Một sáng bình minh nhuộm chân trời đỏ máu, cậu chạy vào hớt hải gọi người ông đang ngáy pho pho:

-Ông ơi! Ông! Ông nhìn kìa! Trên boong con tàu đang chạy phía này có cái gì đó cong cong như lưng đàn bà ý. Mà có phải người ấy mặc áo trắng không hả ông?

Người ông vùng dậy giụi mắt. Không thể định được thực hư vì con tàu xa lắm. Người ông lại làu bàu:

-Khéo mà mày nhầm rồi đấy cháu ạ. Bốn năm nay ông đã nhiều lần nhìn thấy eo lưng của Nữ Thần Trôi Dạt, nhất là trong những buổi sáng cứ rờ rỡ thế này. Thế mà rồi ra chẳng có gì đâu cả.

À mà thế là cậu đã lớn rồi đấy - Người ông quay sang ngắm cậu trai như mới trông thấy nó lần đầu.

Cậu con trai không nghe lời ông nói. Cậu đang mải mê nhìn ra xa.

Trong khi ấy, ven đường I, người gác đèn cũ đang tự hỏi, liệu những chai bia ngày xưa có còn lăn lăn trên sóng biển. Đêm hôm trước, anh vừa nằm mộng thấy Nữ Thần Trôi Dạt. Nàng bơi đứng, và trên năm đầu ngón tay nàng đỡ một chai bia màu xanh.

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#5 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:20:34 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Dây Neo Trần Gian

Nàng gục xuống những lá cháo, những lá gạo và muối bày la liệt trên mặt đất trong căn buồng tối mờ nghi ngút khói hương. Những muôi cháo lá đa. Cháo đổ vào lá để yên ủi những cô hồn váng vất.

Sao trước đây nàng chưa bao giờ để ý đến những mẹt lá đa đong đầy cháo nhỉ? Đựng vàop bát không xuể, người ta phải đong vào lá để đủ ban phát cho những hồn côi?

Dưới ánh đỏ vàng của nến được uốn vặn qua làn khói hương, lung linh của một người đàn bà áo xanh khăn đỏ đang ê a trong nhịp phách điệu Bỉ:

… Sống đã chịu một đời phiền (a)… não (chứ)… Thác lại nhờ (hờ)… hớp cháo lá đa…

Những câu hát não nùng kéo nước mắt nàng nhỏ xuống. Vị mặn của nước mắt tức khắc làm cháo vữa. Dòng nước cháo chảy tràn qua mép lá rồi thấm đất trong khi nàng chờ cho bà đồng ấy làm xong Lễ Chúng sinh.

Ngân thật dài những câu cuối, rồi người đàn bà quay lại mở chiếc khăn phủ diện. Không nhìn nàng, bà ta hỏi thản nhiên:

- Lần trước tôi dặn những gì, cô vẫn làm theo đấy chứ?

Nàng ấp úng:

- Dạ có… thưa… đây.

Nàng rụt rè đưa ra tấm ảnh của anh. Tấm ảnh màu to cỡ bàn tay mà phải mất bao công phu dụ dỗ và nói dối, nàng mới đưa anh đi chụp rồi lấy trộm được. Bà đồng dặn phải lấy không để cho người ấy biết mới thiêng.

Bà đồng đưa tấm ảnh đến gần ngọn nến, ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu:

- Đứt hết cả! Lâng châng lắm! Không còn một dây nào…

Nàng giật mình:

- Bà nói gì? Dây nào? Đứt gì? Tôi muốn nhờ bà…

Bà đồng cau mày:

- Im! Đừng lắm lời! Ta bảo rằng những sợi dây để níu anh ta ở lại chốn trần gian đều đã bị đứt. Trông con mắt nhìn mà không thấy này, ta biết.

Nàng rụt rè phản đối:

- Không! Anh ấy còn có cha mẹ vợ, vợ, bạn bè… Nhiều mối liên hệ lắm!

Bà đồng quắc mắt:

- Ta không hỏi cô. Cô tìm đến ta đã là nước cùng. Chứng tỏ cô đã làm đủ cách mà không xong. Có muốn nghe hay thôi?

Nàng len lét im lặng. Bà đồng nói đúng. Nàng đã làm đủ mọi cách. Thuyết phục đi thử máu, co kéo hàng chục buổi anh mới nhận lời. Nhưng đến cổng bệnh viện rồi trốn biệt, tha hồ cho nàng mắng mỏ. Nàng hỏi thăm hết cả hơi mới tìm được một ông thầy kê đơn bắt mạch nổi tiếng, lôi xềnh xệch anh đến. Anh nhăn nhó từ chối rồi nổi khùng. Anh dị ứng với tất cả những gì thuộc về bệnh viện và thuốc thang, cho rằng vô nghĩa hết. “Mười hai người, còn năm vào năm 1976, rồi còn bốn vào năm 1989, đến 1991, còn ba, 1992 còn hai. Và bây giờ đến lượt anh!”

Anh giấu tất cả người thân, chỉ còn thổ lộ bầu tâm sự với người duy nhất là nàng. Lấy vợ nhưng cũng không dám có con, sợ đẻ ra một quái thai không đầu hoặc không tay. Chẳng còn gì có thể làm cho gương mặt sầu thảm dìm trong rượu của anh sáng lên được một chút. Nàng cuống cuồng cầu đến những phép huyền bí. Một cô bạn rỉ tai rằng có bà đồng chuyên xem bói và chữa bệnh qua ảnh giỏi lắm, nàng vội vàng nhao đến, dù bản thân không tin gì mấy. Nàng hy vọng có thể có một liệu pháp tâm lý trong cách chữa bệnh của người đàn bà kỳ quặc này chăng.

Bà đồng khẽ lắc lư người, rồi phán tiếp:

- Vì không còn dây neo, anh ta trôi lơ lửng như con thuyền bị gió đưa đẩy. Cần phải níu anh ta lại. Ta từng chữa cho những người như thế.

Bà đồng lật sấp mặt tấm ảnh và soi qua ngọn nến. Một thứ ánh sáng đục lờ khó nhọc xuyên qua và hắt lên khuôn mặt người đàn bà một màu huyết nhũ huyền bí. Mũi bà như chợt gồ lên và mắt bỗng long lanh như mắt sói:

- Này, nhìn đây! Có một sợi xích đứt màu hồng đang bay dật dờ. Đó là dây neo với vợ. Còn sợi xích màu lam sẫm kia cũng đứt làm mấy đoạn. Đó là dây neo với những người ruột thịt… Bao nhiêu sợi xích đứt bay loã toã… Anh ta sống như một bóng ma. Cả nhà kính trọng anh ta, đi nhẹ nói khẽ, nhưng không ai hiểu anh ta cần gì. Mà trông đôi mắt và cái miệng này, biết rằng đây là kẻ yếu đuối… Mau mau níu anh ta lại bằng những dây neo trần gian, nếu không anh ta sẽ lừ lừ trôi về địa phủ.

- Nhưng bằng cách nào? Thưa bà?

Bà đồng quay phắt lại. Trông bà lúc này hệt một mụ điên, cũng giống hệt một á thánh:

- Cách nào à? Chỉ còn một cách. Đó là tóc. Tóc đàn bà. Nói đến đàn bà là nói đến tóc. Nói mãi về tóc đàn bà mà cũng không nhàm. Bởi vì tóc của đàn bà, chỉ tóc của đàn bà thôi nhé, có phép màu.

Bà đồng trả tấm ảnh cho nàng, rồi hạ giọng:

- Nhớ kỹ này: vào ban đêm, hãy nhổ tóc của chính cô. Bện chín sợi một thành từng bím rồi nối chúng lại với nhau, quấn chung quanh tấm ảnh này rồi đặt lên bàn thờ khấn. Xong đâu đó, mang tất cả đến cho anh ta. Anh ta sẽ lưu lại trần gian.

Nàng rợn cả tóc gáy, đứng bật dậy:

- Nhảm nhí! Không đời nào! Tôi không nghe bà! Nhổ tóc của tôi ư? Anh ta là cái gì của tôi mới được chứ? Tôi là gái chưa chồng…

Bà đồng thở dài, chỉ tay ra cửa, vẻ chán nản:

- Thì bước! Ai khiến cô đến đây làm gì mất thì giờ của ta. Xét cho cùng, cô cũng chỉ là một trong rất nhiều con bướm sặc sỡ lượn chơi trên đời này…

Nàng vội vàng níu tay bà:

- Có thật những sợi tóc của tôi sẽ giúp được anh ấy? Căn nguyên nào mà khuyên tôi như vậy? Nghe đâu, bà cũng đã từng mất một người yêu trong chiến tranh?

Mắt bà đồng bỗng long lên sòng sọc. Lúc này trông bà đích thực là một người điên. Một người điên trẻ trung chỉ hơn nàng dăm tuổi. Đôi mắt có hàng mi dài của bà vằn đỏ:

- Ta cấm! Ta cấm nhắc đến điềm gở! Ai cho… Ta đang cúng cô hồn…

Người đàn bà vùng vằng bỏ vào nhà. Nàng còn kịp nhìn thấy bộ ngực lép của bà vồng lên trong nhịp thở dồn trước khi ra về.

° ° °

Năm 1976. Anh cười đăng đắng:

- Tiểu đội anh mười hai tên. Đánh nhau rụng mất năm, còn bẩy mống. Mống mập nhất là anh…

Áo lính phanh ngực đỏ lên vì nắng. Anh tự cho phép mình cẩu thả một chút, lãng tử một chút đúng dáng người hùng sau chiến tranh trong lần đầu tiên gặp lại nàng.

Hồi đó nàng chưa yêu anh. Mắt nàng vụt sáng không phải vì yêu, mà do lòng mừng rỡ vì một người bạn đã sống sót. Chính nàng đã dự lễ truy điệu của những người bạn cùng lớp. Khi vực mẹ của người bạn thứ ba vào giường nàng bất chợt gục vào ngực người đàn bà đang nằm thiêm thiếp ấy khóc nức nở. Người ta đồn rằng nàng yêu con trai bà - nhân vật chính của lễ truy điệu. Đó là chàng trai học toán giỏi nhất trường và có bộ tóc xoăn dày rậm như tổ cú. Nhưng nàng không hề hé răng nói nửa lời về điều này.

Một năm sau, anh đã kịp nói lại với nàng:

- Bảy mống giờ chỉ còn năm. Một chết trên đường đi buôn hàng hàng Bắc Nam, do đánh nhau với đầu gấu đường trường. Còn một đứa, bỗng dưng ốm mòn dần rồi chết. Nghe nói chết do nhiễm chất độc. Người tóp như nắm xương khô, ăn hết của rồi chết…

Anh rùng mình. Con mắt như bị khoảng trống giữa anh và nàng hớp mất hồn. Những tia sáng chập choạng trôi dạt trong đáy mắt anh như lửa ma trơi.

Nàng se thắt cả lòng dạ khi từ anh phả ra hơi rượu. Bao nhiêu năm quen nhau, nàng chưa bao giờ bắt gặp anh phải vịn vào cánh tay lạnh buốt của ma men.

1989, anh đã lấy vợ từ lâu, nhưng vợ anh không phải là nàng. Khi ấy, nàng chưa yêu anh. Dạo này anh làm nhiều thơ. Những bài thơ như lửa đốt…

Những bài thơ như lời những kẻ đang nằm dưới mồ và kể vọng lên trần thế những cảm giác của cái thế giới bị chôn vùi ấy. Hình như anh chỉ còn hai việc: Làm thơ và chờ chết. Da anh xanh bủng và mặt hơi phù lên vì rượu. Anh cũng nổi tiếng vì những câu thơ thắt ruột ấy. Anh đã kịp làm cho người ta quen với ý nghĩ: Chẳng bao lâu nữa, nhà thơ kỳ dị này sẽ chết. Người đến chiêm ngưỡng anh ngày càng nhiều hơn. Anh đóng cửa, vờ đi vắng hoặc đề nghị ngoài cửa bằng phấn: “Không tiếp khách”.

- Anh uống ít rượu thôi! Em van anh! – Nàng cầu khẩn trong một lần anh ghé chơi.

- Tại sao?

- Bởi vì em không muốn thấy anh trở thành một kẻ nát rượu. Thảm lắm!

- Tương lai không xán lạn được đến thế đâu! tôi chết trước khi được trở thành một kẻ nát rượu.

Nàng tát khẽ vào miệng anh:

- Bậy nào! Dũng khí của đàn ông để dưới gót giày rồi sao?

Anh cười nhạt:

- Em cứ việc giễu cợt. Mười hai mống, đến bây giờ chỉ còn ba. Sắp đến lượt tôi rồi!

- Mỗi người mỗi số phận. Những cái chết ấy liên quan gì đến tính mạng của anh cơ chứ?

Nàng cố trấn an, nhưng trong lòng bỗng run rẩy vì một dự cảm. Bất giác nàng đưa tay vuốt tóc anh như xoa đầu một cậu bé. Đó là cái đụng chạm đầu tiên giữa hai người. Nhưng ngay cả sự kiện tày trời đó vẫn không thức tỉnh anh rời khỏi vực thẳm u hoài:

- Sao lại không? Ba đứa chúng tôi ở trong cùng một cánh rừng chiến tranh. Có một buổi sáng, một thằng thức dậy sớm và reo ầm lên: “Sương xuống! Có sương! Chúng mày ơi ra mà xem!”. Cả lũ sung sướng chạy ùa ra, bởi vì ở vùng ấy sương rất hiếm. Những giọt sương li ti rơi xuống ướt đẫm. Cả bọn hứng sương như tắm.

Anh chợt nắm lấy cổ áo mình mà kéo, mặt tái nhợt:

- Nhưng rồi, em có biết không? Một thằng trong bọn đi lấy nước. Vừa đi được một quãng, nó bỗng hét lên thất thanh. Bọn anh chạy vội đến, thấy nó há mồm nói không ra tiếng, tay chỉ lên ngọn cây. Tất cả những lá cây quanh đó khô cong. Mới biết mình vừa dầm mình trong màn phun chất hóa học…

Anh rút từ trong ngực ra một nắm những bài viết cắt ra từ các tờ báo đã nhàu nát. Đề bài: “Nghiên cứu về tác hại của chất độc hóa học trong chiến tranh, “Một cái chết thảm khốc vì chất độc”, “ảnh hưởng của chất màu da cam đến thai nhi”…

Nàng cố cười, phẩy tay:

- Lại chất độc màu da cam chứ gì? Nhàm quá rồi! Có phải ai cũng bị đâu. Còn tuỳ sức đề kháng của mỗi người chứ. Anh đừng tự ám thị mình thế!

Anh tóm lấy chỗ báo và nhét trả vào ngực:

- Đừng an ủi tôi làm gì vô ích. Sắp tới tôi sẽ tan biến như một hạt bụi – một trong số mười hai. Hay là em viết chút gì đi. Một chút về mười hai người lính chúng tôi. Nhnữg người đã trở về với hoà bình để rồi lần lượt nằm vào cái huyệt đã đào sẵn cho mình trong chiến tranh từ mười mấy năm về trước?

Nàng bỗng nức lên khóc và ôm choàng lấy mái đầu anh, như cách một người mẹ đang vòng tay che chở cho đứa con trai. Những ngón tay dài mềm mại của nàng viền quanh khuôn mặt xanh xao luôn ướp trong rượu của anh. Nàng ru khuôn mặt ấy trong lòng tay và cảm thấy tim như muốn vỡ vì thương xót. Cho đến khi những giọt nước mắt của anh cũng đã tìm cách tràn ra khỏi bờ mi và chảy dọc theo đường sinh mạng trên lòng bàn tay nàng, nàng vội đặt lên vầng trán mát lạnh dâm dấp mồ hôi của anh một nụ hôn. Anh rùng mình nhìn sững nàng. Mắt nàng chợt ngời lên trong thoáng chốc.

- Đừng tin! Anh đừng tin! Chỉ là chuyện nhảm nhí! Người ta nói đến chất độc ở một hành tinh khác. ở đó không có em và anh…

Nàng cuống cuồng ru anh bằng những lời vô nghĩa thế mong nuôi dài một chút ảo ảnh. Nhưng đáy mắt anh đã trở lại vô hồn. Những lời của nàng rơi tõm xuống một cái hồ lặng lờ không đáy. Anh đang mải mê đuổi theo những ảo cảnh của cõi Thái Hư.

° ° °

“Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não…”. Bà ngoại nàng lẩm bẩm nói một mình. Bàn chân có ngón cái chĩa ra ngoài như chân chim xoa xoa xát xát trên những sợi tóc vừa rụng xuống sàn nhà. Phút chốc, những sợi tóc bạc đã xoe tròn thành một búi nhỏ bằng đầu ngón tay út. Bà xuýt xoa giắt chỗ tóc ấy lên vách “để đánh cảm” Bà bảo thế! Thực ra, đó chỉ là một cách bà tự an ủi mình để khỏi tiếc chỗ tóc rụng mà thôi.

Nàng ngồi trên gác xép, chỗ của riêng nàng. ở đó có cái cửa sổ kiểu cổ hình bán nguyệt. Nàng ngắm bà và những ngón chân Giao Chỉ của bà. Nàng lẩm nhẩm “Mỗi sợi tóc là một sợi phiền não”… Tóc bạc rồi mà bà còn tiếc! Nàng xót xa nhìn mớ tóc mình đang sóng sánh toả xuống cái cổ ba ngấn và tuôn tràn xuống vai.

“Một kẻ có dăm ba chữ trong đầu mà lại đi nghe lời một con mụ điên ấy ư? Thế thì mình cũng điên rồ nốt!…” Nhưng chẳng lẽ ngồi bó tay nhìn anh một mình chới với rồi mất hút trong cõi chết. Thà làm một việc gì đó thật điên rồ, còn hơn là không làm gì. Hồi còn bé, nàng đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng nhà nọ. Người vợ đẻ khó rên la trong nhà. Còn ngoài sân, người chồng cứ cuống cuồng hết leo lên lại leo xuống cây cau như một con mèo khổng lồ và vụng về. “Cho vợ nó dễ đẻ” – Mấy bà hàng xóm già vừa móm mém nhai trầu vừa bảo thế. Giữa việc sinh đẻ của người vợ và leo cau của người chồng có liên quan gì đến nhau! Thế mà người ta vẫn làm. Phải chăng, trong những hoàn cảnh cùng quẫn, người ta cần phải tìm một việc làm điên rồ nào đó để tránh rơi vào sự điên rồ thực sự?!

Và nàng bắt đầu tết những bím tóc nhỏ xíu. Chín sợi tóc, Chín trăm chín mươi chín bím tóc! Những con số chín kỳ lạ!

° ° °

- Anh làm ơn làm phúc tha cho con gái tôi! Anh đã yên bề gia thất. Còn nó, tuổi đã lớn rồi mà chưa một lần… Anh dùng bùa phép gì ếm con tôi đây?

Mẹ nàng vừa khóc vừa kéo anh lên gác. Căn gác xép của nàng. Bà vứt tọt tấm ảnh được quấn trong những bím tóc li ti óng ánh sáng ra trước mắt anh:

Tôi không biết anh làm những trò gì. Chỉ biết rằng vì anh, nó đã trở thành lẩn thẩn rồi. Nó đã tự nhổ gần hết tóc để quấn quanh cái ảnh của anh. Ban đêm, nó thắp hương khấn khứa và lầm rầm gọi tên anh. Anh đã làm hại nó. Tôi căm ghét anh!

Anh sung sướng cầm lấy tấm ảnh của chính mình mà không hiểu bằng cách nào đã rơi vào tay nàng. Những bím tóc lóng lánh nhỏ li ti được nối với nhau kéo dài vô tận. Nàng đã gọi tên anh hằng đêm? Những bím tóc xổ ra cuộn chảy trên tay anh như những sợi dây xích mát rượi. Nàng đã làm gì thế này? Nàng vốn làm một cô gái chỉ quen làm theo lý trí cơ mà? Anh đang mải nghĩ và không để ý đến người mẹ đang gào bên tai anh những lời xỉ vả.

Có tiếng chân hối hả lên thang gác. Rồi nàng ùa vào:

- Trời ơi! Mẹ! Mẹ làm gì thế này!

° ° °

Khi mẹ nàng và anh phát hiện ra, nàng chưa tết đủ chín trăm chín mươi chín bím tóc để quấn quanh tấm ảnh.

Nhưng anh đã chịu đến bệnh viện để thử máu. Anh muốn đưa cho nàng xem một kết quả rõ ràng. Một cái chết không thể tránh khỏi. Để nàng thôi không dằn vặt về anh nữa. Và bây giờ, dù có chết, anh cũng sẽ chết với một nụ cười mãn nguyện – anh bảo nàng như thế – bởi vì, giờ đây anh biết rằng trên đời này có một người tha thiết níu anh trở lại trần gian đến thế.

Còn nàng, chạy đi chạy lại bệnh viện, làm quen với một ông bác sĩ,lo lót để bất kỳ trường hợp nào, họ cũng sẽ cấp cho anh một mảnh giấy ghi kết quả xét nghiệm âm tính. Nàng muốn anh vui vẻ một chút trong những ngày cuối đời. Kết quả thực sự, chỉ một mình nàng được phép biết mà thôi.

Khi anh từ phòng thử máu bước ra, tay cầm mảnh giấy và khuôn mặt rạng ngời, nàng vờ nói: “Đấy! Em đã bảo mà! Chỉ là bệnh tưởng đấy thôi!”. Anh cười, nắm tay nàng định nói một lời gì đó thật đặc biệt, xứng với trường hợp này. Nhưng nàng vờ cười thật tươi và nói rằng, trót để quên chiếc ví trong phòng xét nghiệm rồi chạy vụt trở vào, chỉ lo mình oà khóc.

Vào phòng, nàng chỉ đủ sức mở to mắt nhìn vào miệng người bác sĩ. Ông bác sĩ có chiếc mũi khoằm gỡ kính ra nhìn nàng:

- Thật không thể ngờ được, cô ạ. Trông người như hồn ma thế kia mà kết quả âm tính thực sự.

Tôi không phải làm chứng chỉ giả nữa. Máu của cậu ấy hoàn toàn bình thường, phải cái hơi ít hồng cầu. Chữa đơn giản thôi. Chúc mừng hạnh phúc của vợ chồng cô!

“Vợ chồng gì đâu! Anh ấy không thuộc về tôi!” Mặt giàn giụa nước, nàng chạy ra sân bệnh viện. Trời trưa hoe hiu nắng. Nàng ngửa mặt lên trời. Vầng mặt trời ban trưa nhỏ lại và chuyển màu trắng đang lấp láy nhìn nàng qua một mành lá trúc. Mặt trời hình như có biết nàng.

Theo thói quen, nàng đan những ngón tay vào tóc. Những ngón tay đi vào da đầu quá dễ dàng khiến nàng giật mình kinh hoàng. Nàng cắn chặt đôi môi.

Nhưng có tiếng chân bước. Anh đang đi về phía nàng. Đã lâu lắm rồi, nàng mới lại thấy anh với dáng người cẩu thả hơi pha chút lãng tử như vậy. Nàng quỳ sụp xuống đất như cách người ta ngã, vừa cười vừa khóc:

- Ơn trời! Ơn trời! Vậy là con đã neo được anh ấy vào chốn trần gian này!

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#6 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:21:26 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Đêm Bướm Ma

Riêng Thuận trông thấy nó. Đó là một con bướm to cỡ bàn tay. Đôi cánh đen điểm vằn nâu và xanh biếc của nó xoã im lìm trên bậc thềm mé lối đi. Đoàn người đi qua rầm rập. Vậy mà không bắt gặp con bướm. Thuận lại gần, ngần ngại chạm tay vào. Cánh bướm khẽ động đậy. Thuận lập tức rụt tay lại. Một luồng ớn lạnh người lên ngực. Từ bé Thuận vẫn vừa sợ vừa thích những bướm ma. Chúng đẹp một cách rầu rĩ, huyền bí thách đố. Và thông thường, chẳng bao giờ gặp chúng, trừ phi chúng sắp chết. Như hôm nay chẳng hạn. Con bướm ma này không biết từ đâu đến nằm xệ bên đường dưới gốc cây mộc lan trong biệt điện. Nơi đây, xưa kia đã in gót sen của các phi tần. Thuận ngước lên những vòm cây cổ thụ xanh thẫm tuyệt đẹp và tự hỏi: Ngày xưa, mỹ nhân nào đã được vua dìu trên cánh tay đưa về động phòng trong biệt điện thênh thang này? Bao năm đã trôi qua. Ông vua cuối cùng giờ đã sống nốt trong những ngày cuối đời tại một chung cư ở Pháp. Song biệt điện này vẫn phảng phất mùi đế vương. Trong vẻ hoang phí vẫn có chút gì đó thiêng liêng và thành kính. Lìa bỏ cõi đời trong một chung cư. Biết đâu hồn ông đã tìm về lơ lửng đêm nay trong biệt điện và phả vào buổi chiều sám sẫm này một nỗi buồn lạnh lẽo bể dâu?

Sợ run người lại xéo vào con bướm. Thuận cố nén sợ hãi, run run nâng cánh bướm ma để đặt vào tờ báo nàng vừa mua đang cầm trên tay, mang về phòng đặt bên cửa sổ. Nàng hé cửa. Cửa sổ được chắn bằng những song sắt uốn hoa lá màu xanh. Có lẽ đêm nay con bướm sẽ hồi lại. Và nếu hồi lại, nó sẽ bay đi. Nàng vẫn để con bướm trên bậu cửa, rồi quay ra bàn pha trà. Cảm thấy như có ai nhìn mình chằm chằm từ phía sau, nàng quay phắt lại. Nhưng không thấy gì khác. Trời đã tối. Cây ngoài vườn đứng lặng. Cánh bướm vẫn nằm im trên tờ báo. Nàng thở phào quay lại, rót nước ra cái chén sứ rẻ tiền trông thấy nhan nhản khắp hè phố, thong thả nhấm nháp thỏi kẹo mè xửng một người bạn ở Huế vừa cho.

Rồi Thuận buông rèm cửa sổ. Tấm rèm xanh thẫm nặng nề vung ra một làn bụi lưu cữu khiến nàng hắt hơi. Theo thói quen. Thụân trút bỏ quần áo, bước lên giường. Tấm gương lớn ngang dọc những đường rỉ đặt cuối phòng in mồn một thân thể nàng. Bộ ngực trĩu nặng với đầu vú màu nâu nhạt, ửng hồng hơi chúc xuống thuỳ mị dịu ngọt. Đôi vài dìu dịu chảy xuôi tôn cao chiếc cổ có ba nốt ruồi xếp thành chuỗi hạt đỏ luôn chuyển động theo hơi thở, làn da bụng qua ba lần sinh nở vẫn không gợn vết nhăn. Và xa xa dưới kia giữa hai đùi và một vòng hông nở nang hơi thái quá, bồn cỏ óng ánh màu hạt dẻ vẫn đầy vẻ thơ trẻ. Đôi chân duỗi dài với những đường lượn cong nhẹ nhàng phủ mơn man một lượt lông tơ ngắn mượt mà làm dịu bớt màu trắng muốt của làn da. Lâu lắm rồi nàng mới có dịp ngắm kỹ thân mình, thoáng buồn vì nhận ra rằng, theo tuổi tác, bộ ngực đã trĩu xuống hơn xưa kia. Rồi với tay tắt đèn, nàng chui vào chiếc chăn mà cô bồi thề sống thề chết rằng mới giặt. Vậy mà chăn vẫn sực ra mùi ẩm mốc. Mặc kệ, nàng định làm một giấc cho đã mấy ngày đi đường vất vả.

Nàng chìm rất nhanh vào giấc ngủ không mộng mị. Cỡ hai tiếng đồng hồ thốt nhiên nàng tỉnh giấc. Xung quanh vẫn im phắc không tiếng động. Nàng chợt nhận ra nhịp thở mình ngắn và gấp gáp hơn bình thường và chợt mơ hồ lo sợ. Nàng bật đèn tìm con bướm ma. Đôi cánh to lớn lạ thường của nó vẫn trải rộng trên bậu cửa sổ. Con bướm đôi mắt giương to nhìn nàng. Cái nhìn của con bướm ma bỗng khiến Thuận bối rối. Nàng cúi xuống, nhận ra mình hoàn toàn trần truồng. Nàng hối hả chui thật nhanh vào chiếc váy ngủ lùng thùng màu tím, nhảy đại lên giường, kéo chăn lên ngang cằm, cố nhắm mắt lại nhưng không dám tắt đèn.

Bỗng có tiếng sột soạt mơ hồ. Thuận khẽ hé mắt. Và cái nhìn đầu tiên nàng vẫn bị hút về bậu cửa sổ. Con bướm không còn ở đó. Nàng bỗng cảm thấy lo sợ liền bật dậy, nhẩy chồm tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Đêm vẫn sẫm tối, le lói vài ánh sao mờ. Hương hoa ngọc lan nồng nàn choàng lên biệt điện. Biệt điện hào hoa này đã biến thành khách sạn hạng xoàng đẫm mùi son phấn. Nhưng hương ngọc lan như hơi thở của một người đàn bà sang cả và nồng nhiệt phả dài dọc khắp khu vườn, trả lại cho biệt điện vẻ hào sáng thuở nào.

Làn hương nồng nàn ban đêm ấy quyến rũ nàng mở cửa phòng, bước dần dà theo mấy chục bậc tam cấp xuống vườn. Nàng đi nhanh tới đám cỏ tóc tiên trồng bên dưới chậu cửa sổ để tìm con bướm. Nàng xuống xem nó đã sống lại, bay đi hay đã rơi từ tầng hai xuống với một đôi cánh nát.

Nhưng đám cỏ với những bông hoa thiêm thiếp trắng đẫm sương vẫn ngủ yên. Con bướm đã biệt tăm.

Sương và cái lạnh dìu dịu ban đêm ở cao nguyên làm nàng run rẩy vì trên người chỉ có chiếc váy ngủ bằng lụa mỏng. Nàng rùng mình nhìn ra xung quanh. Những gốc cây với tán đen sẫm hình như đã bắt đầu cựa quậy. Một cơn gió lạnh buốt thổi đến tiếng than thê thiết. Nàng chợt nghĩ đến phim "Ma cây" của Mỹ nhớ đến hình ảnh cả rừng cây bỗng rùng rùng săn đuổi và nhập vào con người làm biến dạng khuôn mặt, nàng run bắn lên, tóc gáy dựng ngược. Cố trấn tĩnh mà không được, chân nàng khuỵu xuống, rồi nàng guc xuống bậc tam cấp.

Tất cả mọi cái sau đó diễn ra lờ mờ như trong sương. Hình như có ai đó bế nàng vào phòng. Hình như nàng được ẵm trên một cánh tay đàn ông rắn chắc trong nhịp bước đu đưa tình tứ. Hình như người đó mặc áo choàng lụa và những nếp nhàu, rêu lên êm ái dưới sức nặng thân hình nàng. Hình như có một bàn tay vuốt dài từ trán, xuống ngực qua bụng, qua bồn cỏ qua đùi và dừng lại ở gót chân đang tái nhợt của nàng khiến chúng ửng hồng. Hình như có ai đó đã nằm xuống cạnh nàng bên gối. Có mùi đàn ông mặn, đắng cuồng si pha lẫn mùi ngọc lan nồng nàn đang chảy ùa từ cánh cửa sổ rộng vào khiến nàng ngây ngất. Có một đôi mắt đàn ông đăm đăm nhìn nàng từ bên trên. Đôi mắt ấy lặng lờ, không nài xin, con người nửa nâu nửa đen. Nửa nâu rầu rĩ, nửa đen ngả xanh. Rồi đôi mắt nâng lên, cao dần, xa dần. Như bị hút theo, nàng từ từ nâng người lên khỏi gối và bừng tỉnh.

Quả thực trong phòng, cạnh giường nàng đang có một người đàn ông. Anh ta chằm chằm nhìn nàng một cách thèm khát. Đôi mắt cháy rừng rực dưới đôi mày rậm. Anh ta bước lại phía nàng tay vươn dài. Đôi cánh tay ôm thít lấy nàng như trăn quấn. Anh ta hộc lên một tiếng và đẩy nàng ngã xuống giường, chặn tấm thân lực lưỡng đang giật lên một cách kỳ cục xuống người nàng. Đôi môi anh ta mở rộng trong cơn thèm khát đang dịch lại gần mặt nàng. Nàng bị ngẹt thở, không cựa nổi, những tiếng gào rú tắc nghẹn trong cổ họng.

Bỗng có cái gì rơi rất êm, rất nhẹ trên mặt Thuận. Và hình như gã đàn ông lỏng người ra.

Đó là con bướm ma.

Con bướm ma từ đâu bay tới. Nó xoải dài đôi cánh to dị thường lên mặt Thuận, che khuất đôi môi và gương mặt nàng. Khi môi của gã đàn ông ham hỗ đập xuống, mồm hắn lập tức nghẹn phấn bướm.

Gã đàn ông cáu tiết gạt phắt con bướm ra khỏi mặt Thuận - Con bướm rụng xuống giường nhưng lại lập tức phủ ngay lên mặt nàng. Ba bốn lần như vậy, và nó giương đôi mắt nhìn chòng chọc vào gã đàn ông. Đôi cánh vẫy vẫy một cách ma quái. Đôi cánh như đôi tay như một tiếng rên dài ảo não.

Gã cảm thấy ở đây có cái gì quái đản. Dục vọng của gã chùng xuống, người bải hoải. Gã trân trân nhìn con bướm. Ngoài hành lang như có tiếng chân bước. Gã đi giật lùi, mắt không dám rời con bướm kì dị cho đến tận lúc gót chân đặt vào cửa. Gã co giò phóng vụt ra ngoài lẫn vào vườn cây.

Thuận đã hết ngẹt thở. Nàng gào lên một tiếng lớn như tiếng mèo hoang và lật người dậy, mồ hôi toát đầm đìa.

Bên gối, con bướm ma đã chết. Cánh nát vụn. Đôi mắt nó vẫn mở to lặng lẽ.

Nàng nhìn vào trong gương. Giật mình thấy má in hai quầng nâu nhạt. Hai quầng nâu đó hệt đôi cánh bướm.

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#7 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:22:19 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Làn Môi Đồng Trinh

Mưa rồi! Mẹ nói. Và Hằng chống gậy lần ra sân. Nàng ngửa mặt lên trời, để cho những giọt mưa lây phây nhẹ bỗng đậu xuống má.

Một vài giọt lớn vô tình đáp xuống làn môi hé mở, Hằng lại rùng mình bởi một cảm giác xao xuyến mơ hồ. Làn môi của nàng chưa một lần có được cảm giác ấy. Hằng thoáng nghĩ đến một thiên thần trong suốt vừa lướt qua và đặt lên môi nàng một chiếc hôn vô hình.

Mưa này sát vào Tết là đúng tiết lắm đây!

Mẹ lại nói vọng ra từ trong bếp. Hằng cứ ngước khuôn mặt nhỏ thoáng chút e lệ lên trời, mong những giọt mưa lại đậu xuống môi, để một lần nữa tìm lại cảm giác cái hôn của người trời. Nhưng những giọt mưa đã nặng, quất vào mặt Hằng những tia nước lạnh buốt. Hằng loạng choạng quờ gậy lùi vào hàng hiên.

- Con hứng mưa đấy ử Vào nhà đi khỏi ướt. Hồi nhỏ mẹ cũng chơi trò hứng mưa. Bà bảo rằng nếu ngửa bàn tay ra trong một trận mưa mà hứng ngay được đúng mười giọt, không phải chín hoặc mười một đâu nhé, thì sẽ lấy được chồng sang, sẽ suốt đời được yêu chiều, sung sướng. Mẹ đã xòe tay hứng mưa dễ đến trăm bận, mà chẳng lần nào được đúng mười giọt…

Hằng nghe tiếng thở dài từ trong bếp. Phải rồi, nếu mẹ xoè tay hứng ngay được mười giọt mưa, thì mẹ đã không phải có một đứa con như Hằng. Một đứa con hai mươi chín tuổi mà mỗi khi ra đường, mẹ vẫn phải dắt. Ăn cơm, cô gái hai mươi chín tuổi ấy còn có lúc đưa nhầm thức ăn vào mũi. Và, đã hai mươi chín tuổi rồi mà chưa hề biết đến một nụ hôn!

Nói thế không có nghĩa là Hằng chưa hề biết đến đàn ông. Một lần, cả nhà đi vắng. Buổi trưa nắng, Hằng đang ngồi hóng mát ngoài hiên nhà, bỗng nàng vươn thẳng người lên, cảnh giác vì một mùi lạ khen khét bỗng từ đâu xộc vào mũi khiến nàng rùng mình sợ hãi. Liền đó, nàng nghe tiếng thở hồng hộc bên cạnh. Và rồi một bàn tay thộp vào ngực nàng, bóp mạnh. Hằng hét lên, ngã lăn ra thềm, ngất đị Hàng xóm chạy sang chỉ còn kịp nghe thấy tiếng chân chạy thình thịch xa khuất sau hàng rào găng. Hằng tỉnh lại, nghe mọi người lao xao: “Thằng đàn ông nào lên cơn động rồ chắc! Khổ thân con bé!”.

Hằng nằm quay mặt vào tường khóc. Nhưng người mù khóc không ra nước mắt. Thế là lần đầu tiên trong đời, Hằng biết đến đàn ông. Biết rằng trên đời này không chỉ có những người như Hằng, mà còn có cả đàn ông. Bị mù từ lúc lên hai tuổi vì thiếu vitamin A ác tính, Hằng chưa bao giờ trông thấy mặt mình, cũng chưa bao giờ biết rằng trên đời này còn có một giống người khác nàng. Và giờ đây, nàng hình dung rằng đàn ông là một cái gì đó bậm bịch, khen khét và thô bỉ.

Sau này, bình tĩnh lại, Hằng hỏi mẹ:

- Mẹ ơi! Sao cái tay đàn ông đó lại định giết con? Con mù loà thế này, có làm gì ai bao giờ mà hắn thù con?

Mẹ lặng đi một lúc, rồi mới trả lời:

- Không đâu con! Không phải hắn định giết, mà hắn chỉ định làm nhục con thôi.

- Tại sao hắn lại làm nhục con? Làm nhục là như thế nào, hả mẹ?

Mẹ không trả lời. Hằng cứ hỏi mãi, cuối cùng, mẹ mới đáp, miễn cưỡng:

- Vì hắn là đàn ông, hắn coi chúng ta là trò chơi, là miếng mồi con ạ. Chẳng may cho con, con lại là đàn bà. Đã là đàn bà, lại không có cả đến một đôi mắt để biết chạy trốn. Thôi, đừng hỏi nữa. Cực lắm con ơi!
Chủ nhà vồn vã mời hai mẹ con uống nước. Rồi cùng xem phim. Hằng xấu hổ vì không trông thấy gì. Cô nép vào một xó.

Cô gái không hiểu mấy về nội dung phim. Nàng nghe tiếng cười trong trẻo rồi có tiếng xe chạy, mèo kêu, có cả tiếng khóc. Bỗng tai nàng như dựng ngược vì nghe một đoạn đối thoại có nhắc đến hai tiếng “đàn ông”. Người Hằng tự nhiên co rúm lại phòng thủ.

Hằng nghe thấy giọng nói trong veo như của cô:

- Đừng anh! Anh là đàn ông. Và em là đàn bà. Chúng ta quen nhau chưa lâu. Không nên!

Và một giọng trầm ngọt ngào sâu thẳm:

- Phải! Anh là đàn ông, và anh yêu em! Anh muốn che chở cho em, cô gái bé nhỏ. Anh sẽ bọc em trong chiếc chăn màu hồng và đưa em đi khắp thế gian trong đôi cánh tay này.

Giọng nói trong trẻo lại tiếp tục:

- Buông em ra đi, anh. Em chỉ là một cô gái tàn tật. Anh mang em đi bằng đôi cánh tay khoẻ mạnh, nhưng cuộc đời này thì dài rộng quá. Rồi anh sẽ mệt mỏi, em sẽ phải ngồi lại bên vệ đường với chiếc chăn màu hồng cũ rách.

- Không phải thế. Em nhầm. Chúa đã sinh ra anh và em, là đã sinh ra hai nửa ngọt ngào. Trò chơi của Chúa là tung hai nửa đó ra cuộc đời rộng lớn để chúng đi tìm nhau. Anh là một trong hai nửa ấy. Anh lang thang đã nhiều rồi, và cũng không ngờ cuối cùng lại tìm thấy nửa kia của mình ở cô gái bé nhỏ và cần sự che chở đến thế này. Dù em có xua đuổi, anh cũng chẳng bao giờ chịu buông nửa ngọt ngào kia của cuộc đời anh đâu. Đó là vì cả anh nữa đấy, không phải vì em đâu.

Hằng nghe tiếng khóc nghẹn ngào vui sướng của người con gái. Và tiếng nói:

- Em cảm ơn trò chơi của Chúa. Hôn em đi anh. Hãy hôn vào môi em!

Nhưng bị thôi miên, Hằng đặt ngón tay lên môi mình từ lúc nào. Lồng ngực nàng rung động trong tiếng khóc.

Cả nhà quay lại nhìn Hằng. Mọi người cùng bối rối không biết nói sao trong những trường hợp này. Mẹ lặng lẽ bước tới, vuốt tóc dỗ dành: “Thôi để mẹ đưa con về. Tội nghiệp con gái tôi!”. Mẹ cảm ơn cả nhà, rồi lặng lẽ dìu Hằng ra cổng.

Người chị nhìn theo hai mẹ con mà rơi nước mắt. Còn cậu em ngây người vì một cảm giác lạ đang xâm chiếm tâm hồn. Từ trước tới nay, cậu đã sống trong một thế giới hoàn toàn khác. Thế giới của cậu thừa thãi ánh sáng và thừa thãi tiếng cười. Thế mà cậu không hề biết đến một thế giới khác chỉ toàn một màu đen ở ngay bên cạnh. Cậu bỗng có cảm giác ân hận, có thể vì cậu và những người bạn của cậu, những người khác nữa trên cuộc đời này đã quá tham lam, đã nhìn thấy quá nhiều, đã lạm dụng ánh sáng để làm những điều xằng bậy, nên đã dồn đêm tối cho một người bất hạnh như cô hàng xóm mù xinh đẹp kia chăng. Cậu đã yêu nhiều, mặc dù mới ở tuổi hai mươi bạ

Và hương vị của những cái hôn cũng đượm màu bừa bãi, không còn thiêng liêng như những cái hôn của đôi trai gái trong cuộn phim kia, những chiếc hôn của chúa ban cho loài người. Cậu lẩm bẩm và thấy nao lòng khi nhớ lại vẻ mặt của Hằng, nhớ ngón tay đặt lên đôi môi nhạt màu và lồng ngực nàng rung chuyển trong tiếng khóc dồn nén. ôi! cuộn phim kia được làm từ năm 1956, thời kỳ huy hoàng của Hollywood. Bây giờ còn ai nữa không, dám cúi xuống bên một người tàn tật, và mang đi trên đôi cánh tay hữu hạn của mình tình yêu cũng như nỗi đau của một kiếp người khác? Có lẽ chẳng còn. Đối với thế hệ cậu, điều này là chuyện cổ tích đọc vào tối thứ bảy! Cậu lắc đầu, tắt đèn ngủ và cố quên đi cái hình ảnh Đức Mẹ Đồng trinh chịu nạn của Hằng.

Nhưng những ngày sau đó, cậu không thanh thản được. Mỗi lần xem phim, đi chơi hay nhìn thấy một cô gái đẹp, cậu đều có cảm giác gợn gợn, cảm giác của kẻ đã được ăn quá nhiều sơn hào hải vị, trong khi đó có một kẻ ăn mày lặng lẽ chìa bàn tay mong đợi được một vài hạt cơm rơi!

Cậu tự bắt gặp mình hay nhìn sang nhà cô gái mù lòa ấy. Và mỗi lần nghe mưa rơi, cậu thấy Hằng xuống bậc thềm, ngửa mặt xoè tay hứng mưa. Cậu nhìn thấy đôi môi hé mở khao khát hướng lên trời. Mẹ cậu hồi còn sống cũng đã kể chuyện hứng mưa câu chuyện do ba cậu truyền lại. ôi cái câu chuyện muôn thuở của đàn bà. Bao nhiêu kiếp đàn bà đã xoè tay hứng mưa dưới bầu trời nay, nhưng có ai đã hứng ngay được mười giọt mưa long lanh như ngọc rơi trọn vào lòng tay!

Từ hôm xem phim ở nhà hàng xóm. Hằng đổi khác. Nàng không còn sợ đàn ông như trước. Nàng nghĩ mãi về người đã đem tình yêu đến cho cô gái tàn tật. Nàng tin rằng người đàn ông đó là thiên thần.

Và mỗi lần mưa, nàng bước ra ngoài trời, mong mỏi một chút chạm nhẹ nơi làn môi, để có cảm giác là mình cũng được hôn những cái hôn của nửa kia cuộc đời như cô gái tàn tật trong phim ấy. Và nàng thầm cầu khẩn: “Người đàn ông thiên thần ơi! Hãy mang em đi ! Mang đi khỏi cuộc đời này, để mẹ em đỡ khổ vì em. Hãy mang em đi, ban cho em một lần hạnh phúc, rồi đừng quẳng em bên vệ đường, mà hãy giết em để em khỏi sống mù loà cả đời và trở thành gánh nặng cho mẹ…”.

Hằng gầy mòn đị Và một lần mưa. Hằng chợt buột miệng hỏi gọi mẹ:

- Mẹ ơi! Bao giờ thì người đàn ông thiên thần đến với con?

Nàng đứng giữa sân mà hỏi. Giọng nói trong veo của nàng ngân nga rõ mồn một. Người mù không nhìn thấy xung quanh, nên người mù không biết sợ ai nghe lỏm, không biết thì thầm khi hỏi han những điều sâu kín kiạ Mẹ Hằng tái mặt. Bà bịt miệng con:

- Đừng nói to thế con. Sẽ có ngày người ta đến. Nhưng con đừng tin chuyện trong phim nhé. Đó chỉ là câu chuyện người ta dựng lên cho hay mà thôi.

Hằng không nói gì. Nhưng nàng nghĩ đến cái chết. Nàng ao ước được chết đị

Trước đây, thế giới mù loà của nàng bàng bạc một màn sương. Còn bây giờ, có một tia nắng mặt trời mong manh yếu ớt chiếu quạ Và màn sương mù dày đặc bấy lâu vẫn đỡ nàng trôi bồng bềnh nay tụt hẫng, tuột mãi dưới đáy vực.

Hằng ốm. Mẹ nàng lo lắng, khóc lóc thở thanh với hàng xóm láng giềng.

Người con trai nhà bên mất ngủ. Cậu không thể an tâm được trước tình trạng của Hằng. Cậu mong mỏi tìm thấy trong tim một chút tình yêu đối với cô gái láng giềng mù lòa, dầu chỉ còn một chút, để cậu có thể làm được người đàn ông thiên thần của Hằng. Nhưng không có. Trong đáy lòng cậu chỉ có một chút của lòng trắc ẩn. Thế hệ cậu không tin và chối bỏ chuyện cổ tích từ quá lâu rồi.

Thế nhưng, một hôm, mẹ Hằng đi vắng. Hằng đang nằm một mình trong nhà bỗng nghe mưa rơi trên mái. Hằng chống gậy lần ra cửa, và đứng giữa sân. Nàng không ngửa mặt lên trời đón mưa như mọi lần. Hy vọng đã hết, chẳng qua chỉ là thói quen mà thôi.

Bỗng có một bàn chân nhẹ nhàng bước tới. Và có tiếng nói trầm trầm ngọt ngào cất lên:

- Vào đi Hằng ơi. Mưa đã nặng hạt rồi đấy.

Hằng giật nẩy người. Nàng vừa nghe tiếng của người đàn ông thiên thần, nàng lật bật:

- Có phải anh đấy không? Có phải anh đến để hôn vào môi em rồi mang em đi không?

Người đàn ông không nói gì. Hằng cuống quýt quờ tay, nắm được một bàn tay cũng đang đưa ra, dắt nàng trở lại thềm. Hằng sợ hãi nắm chặt lấy bàn tay ấy, không dám buông ra, sợ người đàn ông ấy bay đi:

- Anh đừng đi một mình, hãy hôn em rồi mang em đị Để em được chết xa nơi này.


Bàn tay ấy vẫn để yên trong tay Hằng. Và trong im lặng, Hằng cảm thấy rất rõ một bàn tay sẽ sàng đặt lên má nàng. Rồi bàn tay trong tay nàng khẽ khàng rút rạ Hai bàn tay đàn ông nhẹ nhàng nâng cằm nàng lên, và trên đôi môi nàng có cảm giác nóng bỏng của một nụ hôn. Hằng lả người xuống. Vậy là người đàn ông thiên thần đã đến.

Hằng thoả nguyện, và nàng sắp chết. Nàng sẽ chết trước khi người đàn ông ấy kịp bỏ lại nàng bên vệ đường bụi bặm. Môi nàng nở một nụ cười sung sướng siêu thoát.

Người đàn ông đó nói thì thầm bên tai:

- Hằng ơi! Em đừng đi! Chúng ta có cần phải đi đâu! Nhà em ở đây, và nhà anh cũng ở đây cơ mà.

Bàn tay ấy dìu Hằng lên giường, đắp chăn cho nàng xong, liền vội vã quay gót.

- Tất cả những cái đó nghĩ là thế nào? Liệu rồi sẽ được bao lâu đây? Cậu đang giết con gái người ta hay cậu đang cứu nó đây? Rồi cậu lại chỉ gây ra đủ trò rắc rối mà thôi.

Người em trai không trả lời. Cậu cũng chẳng biết tại sao mình lại làm như thế. Và điều đó sẽ kéo dài được bao lâu. Nhưng cậu chỉ biết rằng, khi đặt chiếc hôn lên môi người con gái mù loà ấy, cậu có cảm giác hoàn toàn thoát ly nhục thể, khác với những chiếc hôn trước đây mà cậu đã từng đặt lên môi những cô gái sành sỏi trong đám ăn chơi. Và khi nàng lả đi trong tay cậu, cậu bỗng có cảm giác muốn đem lồng ngực rộng của mình ra che chở cho nàng. Một cảm giác hoàn toàn mới dấy lên trong lòng cậu, mà trước đó cậu chưa hề biết đến.

Cậu không biết mình sẽ an ủi cô gái mù loà được bao lâu. Và điều đó, sẽ làm cho nàng thêm sung sướng hay thêm bất hạnh. Nhưng cậu thầm cảm ơn nàng.

Bởi vì, trên làn môi ấy, chính trên làn môi đồng trình nhạt màu ấy, cậu đã được nếm trải “Cái hôn của chúa ban cho loài người”.

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#8 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:23:47 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Người Gánh Nước Thuê

Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.

Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Đến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.

Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng, hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh "sĩ". Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một người gánh nước cho nhà họ. Một thời, chúng ta đã ghê tởm những từ "con ở", "đầy tớ", "gái điếm"... Nhưng giờ đây, những từ đó đã và đang lặng lẽ trở về nhắc nhở người ta rằng, chúng có mặt trên đời này.

Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê bà gánh nước. Còn đa số "người nhà nước" trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê gánh nước. Đành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.

Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết.

Nhưng có một sự kiện khuấy động mảnh đời âm thầm ấy. Đó là sự xuất hiện của ông Tiếu. Thực ra những người gánh nước thuê không nhiều ở thời nay. Nhưng sự xuất hiện của ông Tiếu gắn liền với việc mở rộng con đường quốc lộ thành đường hai chiều. Ga mới mở. Những khu nhà cao tầng mọc lên như nấm và người đi lại nườm nượp trên con đường ấy. Hàng xa xỉ phẩm, hàng bán đồ ăn đồ nhậu mọc lên nhanh và nhiều vô kể. Và cần thêm người gánh nước thuê.

Từ đó cạnh máy nước, đôi khi bên bà Diễm có một người đàn ông chống đòn gánh đứng chờ thùng nước đầy dần. Hiếm có một khuôn mặt khắc khổ đến thế. Có đến ngàn vạn nếp nhăn trên khuôn mặt đó. Đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến, như nó được tạo ra trên khuôn mặt ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ vậy cho đến lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là một nghịch lý, như là đang khóc với một nỗi đau xé ruột, mà có một kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi.

Việc hai con người khốn khổ đó bên nhau, cạnh máy nước làm bọn trẻ trai ngỗ ngược ở đây vô cùng khoái chí. Chúng gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm". Người lớn lúc đầu còn mắng, sau nghe quen cười xòa vì thấy cũng ngồ ngộ, và người ta không gọi ông Tiếu bằng tên nữa, chỉ gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".

Thực tình hai con người cô đơn đó cũng thật may mắn khi họ bỗng nhiên có mặt bên nhau, với những thùng nước trĩu nặng trên vai. Cũng có những lúc ông Tiếu nhấc hộ bà Diễm hai thùng nước đầy ra rồi đặt một khoảng cách vừa tầm để bà Diễm chỉ cần móc xích vào gánh. Trong chiếc túi áo rách của ông Tiếu luôn có những hạt lạc rang cháy khét. Thỉnh thoảng ông dúi cho bọn trẻ con và cho bà Diễm. Bọn trẻ con không ăn, còn bà Diễm thì nhận lấy và nhẫn nại nhấm nháp những hạt lạc đen nhờ nhờ, đăng đắng, tỏ vẻ cảm kích lắm.

Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối, ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm tôm.

Bà Diễm rưng rưng: "Vậy chứ nhà ông ở đâu?" Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: "ở góc chợ Cầu Giấy". "Vậy chứ lúc mưa gió ông làm sao?" "Thì nép dưới hiên của nhà nào đó cho qua".

Bà Diễm khóc ròng: "Thôi, ông về đây mà ở cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu đổ hơn".

Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao, có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm nhẩm một mình.

Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu đã se sắt lạnh bên bờ ao. "Làng" của ông Tiếu, đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy, lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng lại xem. Được thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau, vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên:

- A bồ bà Diễm. Đẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở ấy chúng mày ơi.

Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống. Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây thơ. Ông Tiếu thều thào:

- Con tôi đấy bà ạ... Nó bị mất tích trong một trận bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê con ơi...

Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng:

- Bà ơi, nếu... có... một ngày... nào... đó bà thấy có một người con gái... trạc hai mươi... mà giống con... bé trong ảnh này... bà nhớ gọi lại hỏi gốc gác... xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... không nhé. Và nếu phải... bà nói rằng bố nó vẫn chờ nó... cho đến chết... bà đưa cho nó một trăm đồng... bạc này...

Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn tắt trên đôi môi ông.

Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. ốm đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến, để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống...

Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì khấn:

- "Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. ờ, nếu nó còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và hỏi, giọng nó trong veo: "Có phải ông Tuyền cha cháu ở đây không?...".

Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình, trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Đằng sau tấm ảnh, một dòng chữ mới viết xiên xe.o đầy lỗi chính tả: "Đây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Đoài, xã Hoài Ân... một trăm đồng bạc lày nà của cháu!".

Võ Thị Hảo
Phượng Các
#9 Posted : Saturday, January 14, 2006 4:37:59 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Vũ Điệu Địa Ngục

Tôi ớn lạnh toàn thân khi nghĩ đến cầu vồng, ớn lạnh khi tưởng thấy những tia nắng vàng khé lao qua màn mưa. Khi đó, ngẩng nhìn thường đã thấy những chiếc cầu vồng bảy màu còng lưng trên trời.

Khi ấy, người đàn bà ở nhà đối diện bên kia đường sẽ chạy ra, mái tóc xổ bạc bời trong gió:

- Đỏ lên trời đó! Con ơi!

Và bà nhảy nhấp nhểnh trên đôi chân yếu như cẳng sậy. Hai cánh tay trắng nhợt dăn deo quào mười ngón lên trời, như hòng túm chặt lấy dải cầu vồng. Bà cố nhảy thật cao, rồi rớt xuống, rớt xuống lại nhảy lên.

Người qua đường dừng lại, hàng xóm đổ ra xem. Người điên xưa nay không hiếm. Nhưng điên chỉ muốn kéo cầu vồng thì quả thực chưa thấy bao giờ.

Khi ấy, tôi, một kẻ hèn, sẽ lủi vào nhà như một con chuột chũi và đổ ra giường.

Ngoài kia, người đàn bà tóc hoa râm vẫn nhảy lên kéo cầu vồng. Sẽ tiếp tục vũ điệu địa ngục ấy cho đến lúc bà kiệt sức, gục xuống như một tàu môn héo.

° ° °

Giờ đây, tôi phỉ báng sự học. Tôi đau khổ vì đã chót là một kẻ “có học” - như người ta thường nói.

Bởi vì sự học chỉ đưa đến cho người ta những trò xa xỉ và những đau khổ không cần thiết: tâm hồn rắc rối, thói tự ái và lòng ngạo mạn ngốc nghếch. Ai không mang phải cái đó trong mình, người đó sẽ bớt đi được một gánh nặng.

Ngày nàng chết, tôi đã đốt sách. May mà cha tôi kịp ngăn tôi lại. Đốt sách, ấy là tôi muốn chết theo nàng… Nhưng vốn là kẻ hèn, tôi hoãn chết, tôi tự nhủ: “Phải thi tốt nghiệp rồi mới chết!”. Thế là tôi đã tự thả tôi xổng ra khỏi cái chết của nàng.

° ° °

Nàng ra trường trước tôi bốn năm. Tôi nhớ ngày sắp mãn khóa, nàng tỏ ra hoang mang, như linh cảm một tai họa đang sắp ập tới. Mắt nàng nhìn như vô hồn, nhiều khi gặp tôi mà nàng không hề trông thấy tôi. Tôi không hiểu tại sao.

Tôi thường ít dám bắt chuyện cùng nàng, vì nàng đẹp quá lại nghèo. Cái thanh bần ở những người có học khiến họ trở thành bí ẩn, khó gần, xa vời như một dáng kiêu kỳ.

Lần ấy, tôi nhớ, tôi từng đánh bạo đi qua, đánh bạo nói một câu cho có chuyện, chỉ cốt để được đắm chút xíu trong luồng mắt sóng sánh của nàng:

- Thùy Châu sắp ra trường rồi, thích thật!

Một bóng mây sa làm sầm tối mắt nàng. Nàng thốt bâng quơ:

- Thích ư?!

° ° °

Ngày ngày tôi không trông thấy dáng nghiêng nghiêng mềm mại như lá tóc tiên trên chiếc xe đạp màu xám xỉn nữa.

Như thế, nghĩa là nàng đang ngồi nhà. Nàng nghỉ chờ việc sau khi ra trường. Tôi mường tượng, sau vài tháng nghỉ ngơi, da nàng sẽ càng trắng muốt và mỉm cười vu vơ.

Tôi thường đứng bên này hè phố, trộm trông sang và thêu dệt rất nhiều viễn ảnh. Dù nhút nhát, tôi vẫn nghĩ nàng sinh ra là để cho tôi. Gia đình tôi khá giả, không ưa tôi lấy vợ nghèo. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ đến ai ngoài nàng. Và không biết tự lúc nào, tôi cứ đóng đinh trong đầu ý nghĩ: chỉ cần bước một bước về phía nàng, nàng sẽ ở trọn vẹn trong vòng tay tôi.

Vì nàng nghèo mà. Đẹp trai như tôi, con nhà giàu. Yêu nàng, đó đã là một việc làm gần như từ thiện.

Mẹ tôi biết, ánh mắt tôi thường dừng lại trước cửa nhà nàng. Bà làm như vô tình, bảo: Con gái tốt nghiệp đại học ra bây giờ ế vô khối. Vô công rồi nghề, ối đứa đi làm những việc chẳng sạch sẽ gì! Muốn gì thì cũng phải chờ nó xin được việc đã nghe. Nhàn cư vi bất thiện. Còn bây giờ, thì tôi cấm”.

Không phải tôi sợ mẹ tôi đến thế. Nhưng tôi vẫn bước một bước về phía nàng, có lẽ bởi vì tôi còn quá trẻ: tôi mới mười chín tuổi.

° ° °

Một năm trôi qua, nàng vẫn ở nhà.

Đến năm thứ hai, mẹ nàng đã phải dọn ra vỉa hè một quán nước trông thật đìu hiu. Mẹ nàng không cho nàng ngồi bán mặc dù nàng vẫn chưa xin được việc làm. Mẹ nàng vốn thuộc dòng quý phái bị sa sút. Bà chỉ có một mình nàng và đặt tất cả hy vọng cũng như chút kiêu hãnh còn vương lại của dòng họ vào nàng. Vì thế, bà không cho phép nàng làm những việc mà theo bà, ảnh hưởng đến gia phong. Bà nhận chân chường mặt ra đường ngồi bán. Còn nàng ngồi trong nhà, gấp những chiếc hộp màu vàng. Quán của một bà già buồn bã và lãnh đạm thì bao giờ cũng vắng. Hai mẹ con nàng sống rất chật vật. Có hôm tôi thấy mẹ nàng đang nói gì đó và nhìn nàng giận dữ. Còn nàng thì ôm mặt khóc và cúi xuống đống vỏ hộp đang dán dở un lên nuốt chửng cả dáng người bé nhỏ của nàng.

° ° °

Đến năm thứ ba, nàng vẫn chưa xin được việc.

Sau một thời gian dài héo hắt, dạo này tôi thấy nàng ăn vận lộng lẫy. Bỗng nhiên ăn diện đẹp mà không có lời giải thích nào khả dĩ. Đáng ngờ lắm, khi người ta là con gái đẹp mà lại chưa có công ăn việc làm. Mỗi khi nàng vụt qua đường như có một ánh sao băng, hàng phố xì xào:

-Sao bỗng nhiên nó lại có nhiều tiền để ăn diện sang trọng thế kia nhỉ? Nhà ấy lâu nay vẫn nghèo xơ…

-á à, con gái thời nay thiếu gì cách, nhất là lại xinh đẹp thế kia… Một đêm của người ta biết đâu lại chả bằng một tháng bán hàng khô của bà!

Nói vậy rồi đám các bà các cô bấm nhau. Có người cười ré lên. Tôi thấy run lên vì giận dữ, như chính mình bị xúc phạm. Nhưng vẫn im lặng và trong lòng hoang mang.

Tôi còn nhớ rõ lắm. Có một linh cảm gì đó nhắc tôi rằng không được trì hoãn. Hôm ấy, tôi đánh bạo hẹn nàng:

- Ngày mai Thùy Châu có rỗi không? Tôi muốn mời Thùy Châu đi chơi, nói câu chuyện.

Có lẽ trông tôi hằn học lắm nên nàng ngần ngại. Nàng nói:

- Tuần sau nhé. Tuần tới tôi mới rỗi.

Tôi lập tức gằn giọng như một người yêu đang cơn ghen:

- Dạo này tôi thấy Thùy Châu khác quá rồi. Nên nghĩ đến chuyện “giữ lấy lề” đi thì hơn…

Tôi tưởng nàng sẽ co rúm lại trước làn roi quất. Được thế thì tôi hả hê lắm. Nhưng thật lạ. Mặt lạnh băng, nàng nhìn nghiêng sang tôi, bỏ đi, để lại một lời nói lãnh đạm:

- Rồi lề cũng chẳng còn đâu mà giữ…

Khi nàng quay nghiêng, tôi chợt lạnh người vì cái cổ của nàng sao như xanh trong.

Tôi sửng sốt nhìn theo nàng, rồi nghĩ lại: ô hay! Tôi đã ngỏ với nàng một lời nào đâu mà có quyền ghen kia chứ!

° ° °

Một tuần, rồi ba tuần qua đi. Vì hờn giận, tôi chưa sang gặp nàng.

Hôm ấy, mưa rơi, tôi bỗng thấy bên nhà nàng xôn xao. Người ta chạy ra chạy vào hớt hải.

Mẹ nàng bị đi cấp cứu ư? Hay bà đã chết? Có thể lắm chứ. Bà đã già yếu lắm rồi.

Tôi hối hả nhào sang. Đúng rồi. Mẹ nàng bị ngất. Bà nằm lặng phắc trên giường. Mấy bà mấy cô kẻ đang xoa ngực, người rối rít hú gọi hồn bà.

Nhưng ở trong nhà, phía bể nước, còn đông người hơn. Tôi thấy một ông bác sĩ to béo, mặt tái xanh từ trong nhà bước ra, khoát tay vẻ tuyệt vọng. Một luồng điện bỗng đâu như đập mạnh vào tri giác tôi, khiến tôi cảm thấy rợn người.

Tôi thận trọng bước vào phòng tắm kiểu cổ - vật còn lại duy nhất gợi nhớ rằng chủ nhân nó ngày xưa vốn là dòng quý phái. Ở đó đang đông người. Người ta đang chăm chăm nhìn cái gì đó. Và thật lạ, hoàn toàn im lặng, đến cả một tiếng thở mạnh cũng không nghe thấy.

Tôi thận trọng bước vào. Và suốt đời, tôi sẽ phải ngụp lặn trong cảm giác của giờ phút ấy.

Lạy chúa tôi! Trước mắt tôi hiện ra một bồn tắm lớn đỏ rực màu máu loãng.

Trên đó, một thân người con gái mặc áo dài trắng đang yêu kiều gục nghiêng, đổ nửa thân trên vào thành bồn tắm. Cánh tay trái của nàng xắn quá khuỷu, nổi lập lờ trong bồn máu.

Nửa thân áo dài bên trái nàng đỏ thẫm. Nửa thân bên phải vẫn giữ nguyên màu trắng muốt. Tấm lưng thon nghiêng khiến cho thân áo căng không gợn một nếp nhăn.

Và ánh tà hắt nghiêng qua cửa sổ có kính xanh trong thoáng chốc khiến cho bể máu mang màu ngọc thạch. Tôi thấy như lúc đó nàng thoáng rùng mình và trông giống hệt một con sứa trong xanh kiều diễm.

Không kêu được một tiếng. Nhưng tôi hiểu ngay đó là nàng. Nàng đã hẹn gặp tôi như thế sao?

Cắt động mạch ở khuỷu tay và cho máu mình hòa vào nước trong bồn tắm cho đến cạn kiệt. Một lối tự hủy kiểu La Mã cổ.

Khi đó, ngoài trời mưa tạnh. Mặt trời rớt lại phun ra những luồng vàng đỏ chiếu nghiêng. Và qua cánh cửa giờ đây ai đã mở rộng, tôi nhìn thấy

Một cầu vồng ngạo nghễ đổ bảy màu trên trời. Ánh đỏ lục của chiếc cầu vồng hắt xuống bồn tắm như một dải vòi oan nghiệt kéo dòng máu từ trong bồn tắm vụt lên trời.

Khi ấy, mẹ nàng cũng vừa hồi tỉnh, bà chồm dậy, chạy xổ vào chỗ nàng nằm. Cái màu đỏ lục choáng rợp ấy lập tức phủ ngợp người bà. Bà chùn lại.

Sững sờ giây lát, rồi, bằng cú nhảy của một con báo điên, bà mẹ vọt ra sân, mái tóc bạc sổ tung bã bời và mười ngón tay quào lên trời:

-Đỏ lên trời đó. Con ơi!

° ° °

Lá thư tuyệt mệnh:

“Mẹ yêu của con ơi!

Con ngàn lần rập đầu xin mẹ tha tội. Con đã cướp công mang nặng đẻ đau của mẹ. Tội này, con biết, ngày xưa, người ta cầm roi đánh lên mộ để trừng phạt đồ bất hiếu. Mẹ ơi!

Nhưng không bây giờ thì cũng chỉ vài tháng nữa thôi, con cũng lại cướp công mẹ. Con bị bệnh suy tuỷ, mẹ ạ. Bệnh ấy chết dần chết mòn và tốn kém, còn làm khổ mẹ gấp nhiều lần. Con biết mình là một người đẹp. Con cũng biết rằng mẹ tự hào vì con. Và con không muốn chết mòn mỏi, tiều tụy, đáng thương hại.

Mẹ ơi! Mẹ đã ngờ con. Mẹ ngờ đúng đấy, mẹ ạ.

Ba năm trời con đi xin việc. Sinh “bất phùng thời”, con lê chân đi gõ cửa khắp nơi bằng lòng trinh bạch và nắm tay rỗng không. Người ta trả lời: “Hết chỗ! Chính chúng tôi đây cũng chưa biết rằng sẽ ra sao!”.

Có người ghé tai con: “Phải có vấn đề đầu tiên”. Cô đi tay không như thế, một đời cũng không xin được việc.

Tiền ư? Tiền đâu! Mẹ con mình chỉ rau cháo thôi cũng chật vật lắm rồi. Mẹ thì ốm đau luôn.

Và thế là, cuối cùng, con tìm được một cách: bán máu. Máu đó thuộc về con. Còn cuộc đời này chẳng có gì là của con nữa, ngoài mẹ ra.

Bán máu cũng không đơn giản, mẹ ơi! Nhiều người muốn bán máu lắm. Đó là những kẻ lười biếng khỏe mạnh và những kẻ tuyệt vọng khỏe mạnh. Muốn bán máu suôn sẻ, phải qua đầu nậu máu. Mẹ không biết đâu.

Và con có tiền. Để mua vài bộ quần áo kha khá. Trích lại một ít để bồi dưỡng lại sức, chờ đến lần bán máu sau.

Nhưng mẹ ơi. Tiền bán máu của con vẫn còn quá ít so với hầu bao căng ních của thiên hạ. Con rút máu trong huyết quản mình nên thấy đau hơn so với những người rút ruột của người khác. Không phải ruột mình nên họ không đau. Con thì cứ tiếp tục bán máu mình. Đến kỳ hạn lại bán. Đã đến lúc cơ thể con quen sinh ra máu để bán. Đến kỳ hạn không bán không xong.

Mẹ ơi! Con biết những dòng đã viết và đang viết tiếp đây làm đau lòng mẹ. Nhưng mẹ ơi. Thế hệ của chúng con khác thế hệ e dè của mẹ. Chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn. Trước khi chết, con phải cất được lời sám hối, cho lòng thanh thản.

Mẹ ơi! Quà cáp cũng chẳng ăn thua. Người ta nói rằng con là một món hơn mọi quà cáp và nhìn vào ngực con. Con đi, ngày hôm nay khấp khởi hy vọng để rồi ngày mai thất vọng như một quả bóng xẹp. Vận rủi cứ đeo đuổi con mãi.

Nhiều lần người ta mặc cả thẳng với con. Lúc đầu con căm phẫn. Con thét vào mặt một trong những kẻ đó “Đồ vô lại”. Hắn ta nhăn ra cười. Khuôn mặt ấy thực ra khá đẹp, sung mãn. Hắn đứng đầu một cơ quan khá giả.

Nhưng sau đó, trong tuyệt vọng con nghĩ lại. Và, mẹ có nhớ cái đêm con về rất muộn và mẹ cằn nhằn mãi không? Con phải len lén đi vào giường để mẹ khỏi nhận ra cái dáng đi hơi oằn người của con gái mẹ: con đau.

Đêm đó con không khóc. Con ngước lên bàn thờ bố và tự hỏi: linh hồn người giờ phiêu diêu nơi đâu mà không phù hộ cho con, như người ta thường nói. Cũng ngước nhìn cánh quạt trần quay tít, nghĩ đến một người thắt cổ. Nhưng một viễn cảnh khác cũng mơn man con đôi chút: vài hôm sau, con sẽ có một công việc cho ra công việc, sẽ mặc áo dài trắng đến công sở như mình chưa hề thất tiết, sẽ đàng hoàng nuôi mẹ, vân vân và vân vân.

Nhưng mấy ngày sau, con quay lại. Hắn tiếp con lạnh băng: “Cơ quan không thể nhận ai. Chính tôi cũng đang bị đe dọa phải về đây”. Nhìn nét mặt hắn, con biết không phải thế. Hắn sợ nhận vào cơ quan một khối căm phẫn lúc nào cũng sẵn sàng nổ bùng như một quả bom.

Và đã đến lúc, máu con không dùng được vào việc gì nữa: bán nhiều lần quá con mắc bệnh suy tuỷ. Thế là hết.

Mẹ ơi! Con có dành dụm được một số tiền phòng khi mẹ ốm. Mẹ mở cái hộp trang điểm của con trong va li mẹ nhé. Hộp đó, mẹ đã tặng con trong lần sinh nhật thứ hai mươi ba.

Ngàn lần con xin mẹ tha thứ. Mẹ nhớ chôn con trong chiếc áo dài màu trắng mẹ nhé. Con tin rằng trong chiếc áo đó, dù không còn trinh trắng, con cũng sẽ có được đôi cánh để bay lên Thiên đàng!

Vĩnh biệt mẹ. Vĩnh biệt Hà Nội không phải của con.

Con gái trăm tội của mẹ ôm hôn mẹ.


Võ Thị Hảo
viethoaiphuong
#10 Posted : Monday, March 21, 2011 10:02:55 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

Nỗi đau oan nghiệt của người mẹ già 90 tuổi khi cảnh sát đánh chết con
Lời tác giả : Cho tôi gửi tặng những người dân Việt Nam đã oan, còn oan hoặc đã chết dưới cường quyền, bạo lực và bất công và vì những lý do ngụy biện. Nhà văn Võ Thị Hảo

Văn Tế Dân Oan

Thương thay
Một ngày
Người ra ngõ
Người xuống đường
Bước dân lành lụm cụm con sâu cái kiến.
Một ngày
Trong vô tội
Người bị đánh đập bỏ mạng nơi công đường
Cổ gẫy
Tứ chi liệt rũ
Đớn đau quặn mình tiếng nấc tắt thở
Một ngày chẳng như mọi ngày
Mẹ gần đất xa trời không kịp nhìn con lần cuối
Nhận xác con nơi công đường
Mẹ già đứt ruột.
Mẹ ơi!
Thôi đừng khóc
Nước mắt mẹ đã cạn
Con đâu phải người chết oan đầu tiên trên xứ sở này!
Kìa vợ, kìa con!
Tiếc thương cha
Thì cứ để xác cha nằm trong đá lạnh.
Xác thân ta lời chứng
Những vết chém từ trái tim lựu đạn.
Này mẹ này vợ này con
Hãy khum bàn tay cần lao
Che gió
Nến hắt hiu nhỏ giọt nước mắt trắng
Cha về!
Kìa mẹ!
Lưng còng mẹ úp mặt trên xác con
Mai này mẹ xuống suối vàng được không?
Hồn con quẩn quanh đời đời phố lạnh
Con gái ơi!
Cúng cơm cha ư?
Thôi này con,
Hãy nấu cháo lá đa
Con hãy vung tay ngang trời những trận mưa gạo và muối
Rắc khắp bốn phương trời nước Việt
Còn chưa đủ đâu !
Vì cha không thể ăn một mình
Cha đi nhập dòng hồn oan đông đàn dài lũ
Thiên hạ ơi! Hãy gửi cho những oan hồn chúng tôi mỗi người một hạt muối!
Đồng bào ơi!
Tôi ra đi nguyên lành với tiếng cười
Trở về chỉ còn linh hồn dật dờ đầu ngõ.
Tôi con ma mới
Nhập vào dòng ma oan cũ
Dài như sông.
Đồng loại ơi!
Chúng tôi đã tan nát xác thân
Chúng tôi chết oan bởi người ta, bởi ngàn vạn cớ
Như con sâu cái kiến bị dí nát dưới gót giầy
Không một lời kêu van nào không một giọt nước mắt nào không một công lý nào làm mềm nổi những trái tim lựu đạn.
Hồn chúng tôi dật dờ luẩn quẩn cổng công đường.
Đòi mạng.
Kìa, người Việt !
Chúng tôi chết tức tưởi bởi những kẻ bạo ngược
Những kẻ ăn lộc dân để hành hạ giết dân!
Kìa ngẩng lên xem
Nơi nào đục khoét tiệc tùng bán tước mua quan lễ hội tưng bừng trộm cướp
Cuộc hành lễ ma quái của những trái tim lựu đạn
Những tua lưỡi bạch tuộc.
Gục mặt xuống coi
Có thấy chúng ta đông đàn dài lũ
Từ miền xuôi miền ngược đến ngõ hẻm hang cùng
Dân oan đi thành rừng không còn nước mắt để khóc
Tiếng kêu tắc nghẹn cổ họng
Mỗi tiếng nói khạc ra từng ngụm máu
Trăm vạn lời vốc máu ai người đáp lại?!
Kẻ có lương tâm hãi sợ
Báo chí lặng câm với lưỡi hái trên đầu.
Ôi những mặt héo tim héo linh hồn rực rỡ
Những hồn oan những hồn oan hồn oan
Rạch trời tiếng kêu xé ruột!
Biết không? Biết không có biết không?
Hỡi dòng người vô cảm
Rùng rùng đi mê loạn
Đàn kiến khốn khổ quằn quại kiếm ăn
Câm lặng nhìn đồng bào mình chết
Dưới bàn tay bạo tàn
Hỡi ôi!
Này lễ cầu hồn
Ai kia
Người người
Xin đừng vờ ngủ
Đừng giả điếc
Rồi đến lượt mình
Một ngày tức tưởi nhập dòng oan.
Hãy gửi cho chúng tôi đông đàn dài lũ mỗi người một hạt muối
Đốt cháy triệu ngọn lửa
Trên lễ cầu hồn
Lúc rạng đông/.

VTH
Bài được gửi trực tiếp đến Vietinfo.eu

Cáo phó
[IMG]http://danlambao1.files.wordpress.com/2011/03/113.jpg?w=640&h=190[/IMG]
Lễ an táng bắt đầu từ 14 h ngày 23/3/2011.Đoàn xe tang sẽ đi từ BV Thanh Nhàn, qua nhà của oan hồn tại 525 Trần Khát Chân, qua đường Đại Cồ Việt – Giải Phóng, sẽ đi qua Giáp Bát, nơi oan hồn đã phải chịu cái chết đầy oan ức và đi về an táng tại quê nhà.
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.