Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Nguyễn Du và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
Phượng Các
#1 Posted : Tuesday, March 25, 2014 6:19:39 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Nguyễn Du và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

Thích Nguyên Hiền


Tôi đã đọc ở đâu đó một câu thơ Tiền chiến :

“Trong những cảnh rừng sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi …”

Đó là một câu thơ lạ, càng lạ hẳn đối với thơ Tiền chiến. Nhưng nếu ai biết được những uẩn khúc của Chế Lan Viên đối với dân tộc Chiêm Thành, thì bất quá cũng sẽ bảo họ Chế (*) có mối đồng cảm sâu sắc với giống dân Hời. Dẫu sao thì cũng không có nhiều nhà thơ có giàn Ăng-ten dễ bắt sóng với tần số cõi âm như thế. Nếu có, phải kể đến trước Chế Lan Viên hơn 100 năm, khoảng cách giữa hai thế kỷ, hai thời đại, hai tâm hồn và muôn trùng cảnh ngộ, ta dựng cả tóc gáy lên khi đọc mấy câu thơ :

“Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lần thẩn tìm ra
Lôi thôi ẳm trẻ dắt già…”

Vâng ! Thơ ở đây không còn là thơ nữa, mà là Văn tế, Văn chiêu hồn, đúng hơn là một bài kinh trong nghi lễ cúng thí, được bình dân hóa thành thể thơ song thất lục bát, một thể thơ rất gần với dân tộc Việt, qua tâm hồn bát ngát của Đại thi hào dân tộc : Nguyễn Du.

Hẳn không thừa khi nhắc lại nơi đây lời tán thán của Mộng Liên Đường chủ nhân đối với Tố Như Tử : “Tố Như Tử dụng tâm chi khổ, tự sự chi thần, tả cảnh chi công, đàm tình chi thiết, tự phi nhãn phù lục hợp, tâm quán thiên thu vị tất hữu thử bút lực dã …”.(*)

Tôi hạ bút viết bài này khi ngoài kia trời đang mưa sùi sụt. Tôi ngồi đây với những câu chữ của Nguyễn Du, những câu chữ có hồn (hiểu theo đúng nghĩa đen của nó), nhưng không phải là hồn đơn bóng chiếc, mà là :
“Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỷ không đầu van khóc đêm mưa”.
Hay :
“Trăm loài ma xắm nắm chung quanh”.

Tôi chợt nghĩ tới những trai đàn chẩn tế, trên cao là Tiêu Diện Đại Vương cầm linh kỳ trợn mắt, tiếng Kinh sư xướng cao cùng tang linh mỏ khánh, tiếng chiêng trống xập xèng, từng đoàn trẻ nhỏ nhào lên giật bánh, không biết những oan linh hồn xiêu phách lạc có vào được trai đàn … hưởng thọ hương hoa ? Nếu không, hãy chờ lúc hạ đàn, khi bốn bề lạnh vắng, đọc lại “Văn Chiêu Hồn” của Nguyễn Du, hẳn cũng có kẻ hưởng phần lợi lạc. Bởi chính Nguyễn Du đã viết :
“Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng “Vạn cảnh giai không”
Ai ai lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi …”

Chỉ có người “lấy Phật làm lòng” mới có được cái nhìn thấu thị với tất cả chúng sanh trong mười phương lục đạo bằng chính tấm lòng Từ bi bác ái như thế.
Nghĩ đến đây tôi chợt ngờ ngợ rằng “Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh” của Nguyễn Du là một tác phẩm diễn Nôm từ một khoa nghi của Phật giáo ?

ĐI TÌM NGUỒN GỐC VĂN CHIÊU HỒN

Chưa ai biết đích xác Nguyễn Du viết bài này trong thời gian nào. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, rằng Nguyễn Du trước tác bài này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn(*). Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết “Văn Chiêu Hồn” trước cả Truyện Kiều, khi ông làm Cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812) (Sđđ, tr.415). Không có tài liệu nào để chứng minh Nguyễn Du diễn Nôm “Văn Chiêu Hồn” này từ một tác phẩm của Phật giáo. Ngay cả xuất xứ của tác phẩm này, dù đã được minh định là của Nguyễn Du nhờ phong cách, tình điệu và nhất là nhờ hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều hay thơ chữ Hán, song các phát hiện về bản văn này cũng chỉ nhờ 2 bản Nôm, 1 bản khắc ván năm 1895, gọi là bản Chính Đại, được tàng trữ ở chùa Hưng Phú, xã Hạ Lôi, huyện Vũ Giàng, tỉnh Bắc Ninh; 1 bản do cụ Lê Thước phát hiện ở chùa Diệc (phía Bắc thành Nghệ An xưa), phiên âm và công bố năm 1924 (Sđđ, tr.409). Như vậy việc phát hiện tác phẩm này cách thời gian viết ra nó đến gần cả trăm năm. Từ đó người ta chỉ lo chú ý đến việc phân tích và chú giải, ít có ai nghĩ đến xuất xứ của bản văn, ngoại trừ một số vị sư am tường nghi lễ Phật giáo, song cũng chưa có một bài khảo cứu rạch ròi chuyện này.

Có thể ở thời đại Nguyễn Du, các khoa nghi cúng thí bằng Hán văn quá xa lạ với quần chúng, Nguyễn Du đã vì số đông người không hiểu chữ Hán nên diễn Nôm lại nghi thức này cho mọi người được hiểu, như đã từng diễn Nôm tiểu thuyết Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân thành Truyện Kiều vậy. Về giá trị nghệ thuật cũng như sự sáng tạo độc đáo của tác phẩm ta sẽ bàn ở một phần sau, vấn đề ở đây là làm sao chứng minh nhận định ở trên là đúng ?

Đọc lại Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du, tất cả gồm 184 câu thơ song thất lục bát, ta thấy tác phẩm gồm 3 phần chính : Phần đầu giới thiệu cảnh vật não nề thê thiết của “tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt”, hơi may lạnh buốt, lá thu rụng vàng … Một cảnh tượng dương gian đầy u ám ấy để giới thiệu một cõi âm nhập nhòa hồn thiêng phách lạc : “Cõi dương còn thế huống là cõi âm …”. Phần 2 cũng là phần chính của tác phẩm, tác giả cung chiêu tất cả 13 loại cô hồn từ anh hùng tướng soái đến những kẻ tiểu nhi tấm bé, rồi kể hết những trường hợp hoạnh tử oan khiên của những người đã khuất bằng tất cả sự cảm thông sâu sắc. Phần cuối của tác phẩm là những lời nhắn nhủ đối với người cõi âm, lấy Phật làm lòng, hướng về nẻo thiện, nương nhờ Phật lực để siêu sanh Tịnh độ. Một tác phẩm có bố cục chặt chẽ như thế mà nói rằng Nguyễn Du chỉ mượn cõi âm để nói chuyện cõi dương, mượn tâm sự để vẽ lên bức tranh đời sống hiện tại, đồng thời tố cáo những cường hào ác bá theo kiểu “chủ nghĩa hiện thực phê phán” như một vài người đã nhận định là hoàn toàn không hợp lý (*).

Để chứng minh rằng Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du là diễn Nôm từ một khoa nghi Phật giáo, không gì hơn là tìm hiểu chính những khoa nghi của Phật giáo, sau đó đối chiếu và tìm những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm. Hiện tại chúng ta cũng không biết chính xác thời điểm ra đời của tác phẩm, nên cũng không biết được Nguyễn Du đã sử dụng bản văn nào để diễn Nôm. Tuy nhiên, dạng văn học chiêu hồn trong nghi lễ Phật giáo đã xuất hiện rất sớm từ Trung Quốc, nghi thức cúng cô hồn đã có trước Nguyễn Du hàng ngàn năm, đồng thời cách trình bày các loại cô hồn trong Văn Chiêu Hồn cũng rất giống với khoa nghi, nên không thể xem văn chiêu hồn hoàn toàn là sáng tạo của Tiên sinh. Ở đây cần phải nói thêm rằng dù chứng minh đây là tác phẩm phóng tác thì cũng không hề làm giảm giá trị tuyệt vời của tác phẩm, giống như Truyện Kiều không hề kém giá trị khi nó được phóng tác từ một tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân.

Nghi thức cúng thí thực cô hồn vốn là một loại hành nghi của Mật giáo. Nghi thức này đầu tiên căn cứ vào Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà-la-ni do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, Trung Quốc. Kinh này thuật lại việc Đức Phật dạy ngài A-nan cách thức cúng thí để thoát khỏi khổ nạn ngạ quỷ, đồng thời tăng phước tăng thọ. Nguyên bản kinh này đầu tiên là do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch, ngài Bất Không chỉ dịch lại cùng với một số kinh điển liên quan khác như Kinh Du-già Tập Yếu Cứu A-nan Đà-la-ni Nghi Quỹ, Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp …

Đến đời Tống, các Danh tăng Trung Quốc lại hưng khởi pháp thí thực, phần nhiều các Ngài đưa thêm những kinh điển Hiển giáo có liên quan đến Mật giáo vào nghi thức để tác pháp cúng dường, trì tụng chân ngôn, rồi biên soạn ra nhiều nghi thức để lưu hành. Đến đời Nguyên, do Mật giáo chiếm địa vị trọng yếu ở Trung Quốc, các vua quan Nguyên triều tôn sùng Mật giáo nên pháp Du-già thí thực lại càng hưng thịnh. Đương thời cuốn Du-già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi, 1 quyển (không rõ dịch giả) là tác phẩm được lưu hành rộng rãi nhất. Nghi thức này chia làm 2 phần : Nửa phần đầu tụng 35 danh hiệu Phật, “Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Tụng” và bài cúng dường Tam bảo; nửa phần sau là Quán Âm Định, Phá Địa Ngục chân ngôn và bài Thí Ngạ Quỷ Thực. Hiện tại các nghi thức thí thực đều dựa theo tác phẩm này rồi thêm bớt mà thôi.

Đến đời Minh, các nghi quỹ thí thực được dùng trong các tông phái bất đồng. Về sau, Thiền sư Thiên Cơ dựa trên cơ sở “Du-già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi” san lược những phần phồn tạp, soạn thành “Tu Tập Du-già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi”, thường được gọi là “Thiên Cơ Diệm Khẩu”. Sau, Đại sư Vân Thê Châu Hoằng lại lượt bớt và hiệu đính, soạn thành “Du-già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ”, đồng thời có chú giải tỷ mỷ. Đến đời Thanh, ngài Đức Cơ ở núi Bảo Hoa lại biên tập tác phẩm này thành “Du-già Diệm Khẩu Thí Thực Yếu Tập, thường được gọi là “Hoa Sơn Diệm Khẩu”. “Thiên Cơ Diệm Khẩu” và “Hoa Sơn Diệm Khẩu” là 2 nghi thức được lưu hành rộng rãi vào đời Thanh. Tất cả các tác phẩm kể trên hiện đều được xếp vào Đại Chánh Tạng hoặc Vạn Tục Tạng Kinh.

Ở Việt Nam, không rõ nghi thức Thí thực này được truyền vào từ lúc nào. Nhưng theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang thì từ đời Trần, nghi thức cúng cô hồn cũng rất thịnh hành. Song song với các kinh sách của thiền phái Yên Tử, các nghi quỹ thí thực cũng được lưu hành rộng rãi. Câu chuyện Tam tổ Huyền Quang đăng đàn chẩn tế và có sự linh nghiệm trước mặt vua quan cũng đã chứng minh điều đó. Hiện chúng tôi đang có trong tay một bản “Mông Sơn Khoa” do hiệu Phúc Nguyên khắc bản (không rõ năm nào) mà tương truyền là tác phẩm này từng được Tam tổ Huyền Quang dự soạn(*). Không rõ Nguyễn Du đã được đọc tác phẩm này chưa ?

Nghi thức Chẩn Tế cô hồn ở Việt Nam hiện tại gồm có 3 loại : Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa nghi. Bản Đại khoa mà chúng tôi hiện có là “Diệm Khẩu Du-già Tập Yếu Thí Thực Khoa Nghi”, gọi là “Thiên Hòa Tự Tàng Bản” do Tỳ-kheo Tánh Tình phụng khắc vào mùa Phật đản năm Minh Mạng thứ 2 (tức năm Tân Tỵ, 1821). Nếu so với thời điểm Nguyễn Du viết văn Chiêu Hồn (khoảng 1808-1812 hoặc sau nữa) thì bản văn này khắc sau không lâu, điều đó chứng tỏ nghi quỹ này đã có ở Việt Nam cùng hoặc trước thời Nguyễn Du. Trong bản này có khắc lại lời tựa của chính ngài Vân Thê Châu Hoằng viết vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 (1607). Đối chiếu toàn văn tác phẩm này với tác phẩm của ngài Châu Hoằng trong Tục Tạng Kinh quyển 59 thì đúng là 1 bản. Chúng tôi còn có trong tay 2 bản Trung khoa, 1 là “Sắc Tứ Báo Quốc Tự Tàng Bản”, do công chúa An Thường cùng một số hoàng thân triều Nguyễn mộ khắc vào năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh, có sự chứng minh của Hòa thượng Hải Thuận Lương Duyên; bản thứ 2 là Giác Viên Tự Mộng Sơn tàng bản, được Giáo thọ Minh Khiêm Hoằng Ân (1856-1914) chứng minh khắc tại chùa Giác Viên (trong khuôn viên Đầm Sen). Trung khoa chỉ là phần lược của Đại khoa. Nội dung khoa nghi này đều có hai phần : Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; đàn hạ chính là phần thỉnh Thập loại cô hồn. Nói là Thập loại, kỳ thực thỉnh đến 13 loại và một số loại cô hồn được thỉnh chung. Nội dung văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du thì đại đồng tiểu dị với phần Đàn hạ này. Chúng ta thử đối chiếu sơ lược hai phần này để xem chúng giống và khác nhau như thế nào.

Về điểm giống nhau, khoa nghi thỉnh 13 loại cô hồn, tác phẩm của Nguyễn Du tuy nói “Văn tế thập loại cô hồn”, kỳ thực cũng kể đến 13 loại. Ngoài 13 loại được thỉnh riêng, cả hai tác phẩm còn thỉnh chung nhiều loại khác nữa. Khó mà có thể tin được sự sáng tác của Nguyễn Du lại ngẫu nhiên trùng hợp một cách khít khao với một tác phẩm khoa nghi đương thời đã lưu hành như thế. Còn sự khác nhau của 2 tác phẩm, có thể nói nằm ở thứ tự của các loại. Ta thử so sánh.

Mười ba loại của khoa nghi là :
1. Hoàng vương đế bá.
2. Anh hùng tướng soái.
3. Quan văn.
4. Văn nhân.
5. Người xuất gia.
6. Đạo sĩ.
7. Thương nhân.
8. Chiến sĩ.
9. Sản phụ.
10. Di địch.
11. Cung phi.
12. Cái bang.
13. Thập loại cô hồn.

Mười ba loại của văn tế là :
1. Vương giả.
2. Công nương.
3. Quan văn.
4. Quan võ.
5. Thương nhân.
6. Trí thức.
7. Ngư phủ.
8. Nông dân.
9. Chiến sĩ.
10. Kỷ nữ.
11. Hành khất.
12. Tù nhân.
13. Tiểu nhi.

So sánh hai tác phẩm thì chúng ta thấy rõ ràng 13 loại cô hồn có phần tương đồng, khác chăng là ở quan niệm sắp xếp trước sau. Đặc biệt là ở tác phẩm của Nguyễn Du, tác giả không kể đến người xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni) như ở trong khoa nghi, phải chăng Nguyễn Du cho rằng những người xuất trần thượng sĩ thì sau khi chết sẽ được tiêu dao thoát tục, không còn bị đọa làm cô hồn ? Đây cũng là một điều đặc biệt nói lên thái độ của Nguyễn Du dành cho hàng xuất gia. Theo chú giải của ngài Vân Thê Châu Hoằng thì hàng xuất gia nếu hiện đời không liễu sanh thoát tử vẫn có thể bị đọa làm cô hồn, nên vẫn được thỉnh trong khoa nghi. Còn Nguyễn Du, có lẽ tâm hồn ông dành cho những người đau khổ, quằn quại, cô đơn, kể cả hạng Hoàng vương đế bá, còn hàng xuất gia thì không. Có người cho rằng có thể khi Nguyễn Du đọc khoa nghi, ông không hiểu các thành ngữ dành cho hạng xuất gia như : “Hoàng hoa thúy trúc, không đàm bí mật chơn thuyên; Bạch cổ lê nô, đồ diễn khổ không diệu kệ” … nên đã bỏ qua không kể hạng này. Tôi e rằng như thế có phần võ đoán, bởi lẽ kiến thức uyên thâm về Phật học của Nguyễn Du mà không hiểu mấy câu trên là vô lý.
Điểm thứ hai, mà cũng là điều dễ hiểu, ngôn ngữ trong khoa nghi là ngôn ngữ cung đình, các tầng lớp được kể trong khoa nghi rất đặc trưng và ước lệ, còn trong tác phẩm của Nguyễn Du thì rất cụ thể và gần gũi, sát với thực tế, hiện trạng người Việt đương thời. Nguyễn Du đã Việt hóa khoa nghi bằng thái độ và tâm hồn của mình. Đây là điểm sáng tạo độc đáo.
Bằng sự so sánh và dẫn chứng ở trên, chúng tôi kết luận rằng Nguyễn Du đã diễn Nôm khoa nghi thí thực của Phật giáo thành văn Chiêu Hồn chứ không phải là một sáng tác.

GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG VĂN CHIÊU HỒN


Vì khuôn khổ của bài viết, chúng tôi sẽ không đề cập đến quan điểm tín ngưỡng cũng như tác dụng tôn giáo của tác phẩm. Chúng tôi chỉ xin sơ lược về nghệ thuật sáng tạo và chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm mà thôi.
Trước hết để độc giả tiện theo dõi phần đối chiếu, chúng tôi xin giới thiệu một tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng khoa nghi thí thực của Hòa thượng Bích Liên (Trí Hải, 1876 - 1950). Đây là một bản dịch rất hay, ngôn ngữ quý phái và rất sát với chánh văn. Từ đây về sau, chúng tôi sẽ dùng bản này để so sánh thay vì phải dùng chánh văn bằng chữ Hán khó hiểu.
Đầu tác phẩm này có bài tán, được xem như phần dẫn nhập :
“Dấu người thập loại biết là đâu
Hồn phách mơ màng trải mấy thu
Cồn biển nghinh ngang bầu thế giới
Những mồ vô chủ thấy mà đau”.
Thay vì nói thẳng vào cõi âm, văn chiêu hồn của Nguyễn Du bắt đầu bằng một buổi chiều thu ảm đạm ở cõi dương :
“Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô” …
Sau khi dẫn từ cõi dương vào cõi âm, kể về Thập loại chúng sanh … “Hồn đơn phách chiếc … không nơi nương tựa … Hồn mồ côi …”, tác giả cảm thán :
“Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu”.
Lời cảm thán vừa bi đát, vừa toát lên được cái ngậm ngùi tang thương của một kiếp người. Phải chăng đó cũng là lời cảnh tỉnh cho bất cứ ai còn tham danh đoạt lợi để phải gánh chịu những kết cuộc bi thảm như những oan hồn mà Tố Như Tử đã chiêu triệu phía sau.
Khi cảm thán những kẻ Hoàng vương đế bá, khoa nghi ghi : “Ôi thôi ! Đỗ quyên kêu trót tàn canh, máu hồng nhuộm mãi trên cành đào hoa. Trước sau vương bá những là, hồn hương xin chứng tiệc hoa sẵn sàng”. Đầy trang trọng với những điển cố xưa, khoa nghi nặng chất cung đình và chất Tàu, cái chất mà các nhà sư Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng nặng nề. Nguyễn Du thì cụ thể hơn :
“Bỗng phút đâu tro bay ngói dở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Cả giàu sang nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời”.
Hay thuyết giáo một cách đầy cả quyết :
“Cho hay thành bại là cơ
Ma oan hồn biết bao giờ cho tan”.
Khi triệu thỉnh anh hùng tướng soái, khoa nghi viết : “Ôi thôi ! Ngựa nhà chiến tướng vắng không, hoa hèn cỏ nội mấy vòng buồn thiu …”. Nguyễn Du viết :
“ … Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mờ mịt trước sau
Năm năm xương trắng dãi dầu
Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường” …
Tác giả có vẻ như thấu được nỗi khổ của oan hồn người chết, cảm được nỗi đau của họ như chính nỗi đau của mình. Khi nói về hạng trí phú hay kẻ rắp cầu chữ Quý, Nguyễn Du viết :
“Sống thì tiền chảy bạc dòng
Thác không đem được một đồng nào đi
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm …”
Hay :
“Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em : thiên hạ, láng giềng : người dưng”.
Hơn ai hết, Nguyễn Du đã ý thức rõ luật vô thường của nhà Phật. Có lẽ chứng kiến bao bi kịch thời Lê Mạt, tác giả đã đem từng khúc ruột quặn đau của mình làm bút, trích từng giọt lệ rớm máu của mình làm mực, viết nên một tình tự nồng nàn da diết, nỗi lòng Tố Như hay tiếng ngậm hờn thiên cổ kiếp sống phù du ? Ai đó trong cõi mang mang trường dạ hẳn đã nghe ra niềm cảm thông buốt lạnh tồn sinh, rưng rưng kiếp số và thổn thức nhân tình. Chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam lại ngậm ngùi đến thế.
Nói chi đến cảnh “chinh chinh biến loạn sông nghiêng, mờ mờ hồn bướm ly miền dương quan …” (khoa nghi), nói chi đến những “Lụa hồng bảy thước đề tên, đất vàng một cụm lấp nền văn chương”, hay “Mưa chiều khói lạnh thước reo, lá thu gió thổi dập dìu …(?) bay” … (khoa nghi); đã nói rằng “Còn chi ai khá ai hèn” rồi thì :
“Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm
Trăm loài ma xắm nắm xung quanh”.
Đã nói rằng “còn chi mà nói kẻ hiền người ngu” thì :
“Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương”.

Ở đây chúng ta gặp lại nghệ thuật sử dụng từ ngữ của thiên tài Nguyễn Du. Ông rất tinh xảo khi dùng từ láy cụ thể để đặc tả từng loại cô hồn. Kẻ tính đường kiêu hãnh thì “lạc loài nheo nhóc”, hàng cung phi thì “Hồn ngẩn ngơ bãi cói nghìn sim”, những kẻ mũ cao áo rộng thì “thất thểu dọc ngang”, những kẻ bày binh bố trận thì “bơ vơ góc bể chân trời” … Cũng như Truyện Kiều, ở đây Nguyễn Du đã dùng rất nhiều các loại tiểu đối để vẽ nên cái trùng điệp của nỗi khổ và cô đơn. Những cặp đối luôn làm câu thơ cứ triền miên chìm trong sự bi đát đến tận cùng : Ngàn lau nhuốm bạc / lá ngô rụng vàng; Máu tươi lai láng / xương khô rụng rời. Có khi dùng các cặp đối song song ngay trong một ý : “Hồn xiêu phách lạc”, “hồn đường phách sá”, “trâm gãy bình rơi”, “thịt nát máu trôi” … Tất cả nghệ thuật dùng chữ đã làm toàn thể tác phẩm toát lên một vẻ tang thương đến khốc liệt, ngậm ngùi đến thống thiết mà chỉ có người cảm được thế giới ấy một cách sâu sắc, đầy lòng từ bi mới viết nên được những vần điệu làm kinh động hồn ta đến thế, những câu chữ mà Xuân Diệu từng nói : “có thể làm gãy lưng các nhà nghiên cứu”. Thử đọc một câu Nguyễn Du viết về người lao động :
“Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai”.
Hai chữ “chín dạn” cho thấy Nguyễn Du có sức cảm thông với người lao động, chính tác giả cũng quặn đau, nát vai chín thịt như người gánh gánh mới dùng được một chữ đắc địa như thế.
Khác hẳn cách dùng chữ quý phái trong khoa nghi, một thứ văn học được hòa âm cùng tang linh mỏ khánh và giọng tán tụng đặc thù của Kinh sư thỉnh triệu, tác phẩm của Nguyễn Du có vẻ thích hợp hơn với lối đọc âm thầm lặng lẽ trước huyệt mộ thi phần hay giữa “bãi cói nghìn sim”. Tuy nói chiêu hồn người chết, mà cũng khóc than cho số phận những người đang sống bị khổ đau dằn vặt. Khi kể về hạng kỷ nữ, Nguyễn Du viết :
“Cũng có kẻ lỡ làng một tiết
Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con nấy biết là cậy ai”.
..............................................................
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo càng đêm càng dàu”. ….

So với khoa nghi, Nguyễn Du đã không thỉnh các bậc “xuất trần phi tích”, nhưng lại kể thêm một hạng cô hồn, mà theo chúng tôi, nội chừng ấy cũng đã nói hết lên chủ nghĩa nhân đạo hay nói khác hơn là lòng Từ bi của Tiên sinh họ Nguyễn, đó là những hài nhi yểu mạng. Trong thẩm cùng cõi mịt mờ tăm tối, Nguyễn Du đã nghe ra tiếng khóc u ơ của những bé thơ với nỗi lòng tha thiết. Thật là cảm động khi đọc những câu :
“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sanh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng”.
Vâng ! Bấy nhiêu cũng đủ nói lên giá trị của tác phẩm không tiền khoáng hậu này.

Trở lại vấn đề Văn bản học, như chúng tôi đã giới thiệu một bản khoa nghi miền Bắc, khoa nghi này văn thỉnh ngắn gọn nhưng đầy đủ, và văn thỉnh dù là Hán văn vẫn thoát khỏi cách dùng điển cố quá nhiều của người Trung Hoa. Phải chăng Nguyễn Du cũng đã từng được đọc tác phẩm này, rồi kết hợp với chính khoa nghi Trung Quốc để chiêu thỉnh những âm hồn của hoàn toàn người Việt ? Tôi không muốn nói đến tính tự chủ, độc lập trong tư duy văn hóa dân tộc của Tiên sinh, tôi chỉ muốn nói đến tính sáng tạo và hiện thực hóa tác phẩm, một kỷ năng bậc thầy của “linh hồn văn học Việt Nam”.
Đọc một tác phẩm viết về cô hồn, nhưng ta không hề thấy ma quái, rùng rợn như một số tác phẩm khác, mặc dù tác giả đã dùng nhiều hình tượng rất ma quái, đó cũng là chỗ lạ lùng của tác phẩm này. Có khi người ta cũng nói đến ma, nhưng nói ma để đặc tả một không gian, một cảnh vật, hay muốn nói đến một cái gì khác đằng sau cảnh ấy. Như khi Thúc Tề viết “Trăng mơ” :
“Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà”.
Mượn cái động để tả cái vô hình vô ảnh như thế quả là đạt, nhưng đọc hai câu tiếp thì ta lại quên mất bóng ma kia :
“Trăng tỉnh giấc mơ lười biếng dậy
Động lòng lệ liễu giọt sương sa”.
Có khi người ta viết về cảnh ma quái với trí tưởng tượng rùng rợn, chỉ làm cho ta sợ hãi chứ không thương :
“Rồi lấy ra một mảnh xương rợn trắng
Nuốt bao lòng huyết đẫm khí tanh hôi
Tìm những “miếng trần gian” trong tủy cạn
Rồi say sưa vang cất tiếng reo cười”.
(Chế Lan Viên).
Còn Nguyễn Du nói đến cảnh ma mà ta lại ngậm ngùi, thương cảm, có khi người đọc có thể nghe ra một triết lý nào đó. Giấc mộng hoàng vương đế bá hay khát vọng trường sinh rồi thì cũng tan tành sương khói, mọi bọt bèo ảo ảnh bồng bềnh trên mặt bể hiện tượng, rồi ra cũng sẽ bị đánh chìm trong quên lãng nghìn đời :
“Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”.
Hay :
“Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ” …

Tôi đã từng thấy vài nhà sư dùng Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh để thỉnh cô hồn trong khi cúng thí. Một tác phẩm văn học, một bài thơ mà được dùng như kinh điển, có thể nói là độc nhất vô nhị. Mùa Vu Lan lại đến, mùa báo hiếu của người con đất Việt. Hiếu từ không phải chỉ riêng đối với cha mẹ, mà là với tất cả chúng sanh. Đọc văn Chiêu hồn của Nguyễn Du, chúng ta đã cùng Tố Như Tử tụng đọc lại những lời chỉ dạy của Đức Phật với tất cả tâm hạnh của một Phật tử, lấy Tứ hoằng thệ nguyện làm mục đích bước đi trên lộ trình Bồ-tát đạo thiêng liêng.


(*) Kỳ thực Chế Lan Viên không phải là họ Chế.
(*) Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có cái con mắt trông thấu cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy … (Bùi Kỷ dịch).
(*) Xem phần khảo cứu và chú giải văn bản của Mai Quốc Liên, Nguyễn Du Toàn Tập, quyển 2, trang 415.
(*) Bản này được Thượng tọa Thích Lệ Trang tìm được ở miền Bắc. Nhân đây tôi xin chân thành cảm tạ Thượng tọa đã cho chúng tôi mượn tài liệu này cùng nhiều lời chỉ giáo quý báu.
.
xv05
#2 Posted : Tuesday, March 25, 2014 6:14:37 PM(UTC)
xv05

Rank: Advanced Member

Groups: Registered, Editors
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 5,044
Points: 3,390
Woman
Location: Lục điạ hình trái táo

Thanks: 340 times
Was thanked: 45 time(s) in 44 post(s)
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

(Nguyễn Du)


Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sing
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một dài.

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà khôngkẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng

Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre

Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hoà tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
./.
1 user thanked xv05 for this useful post.
Vũ Thị Thiên Thư on 3/25/2014(UTC)
Phượng Các
#3 Posted : Wednesday, March 26, 2014 7:57:33 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,689
Points: 20,007
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 654 time(s) in 614 post(s)
Cám ơn xv, chị thấy bài xv đưa lên có khác với bài của Thích Nguyên Hiền (dưạ vào mấy chữ ông trích dẫn).

Nói thiệt là nguồn gốc của bài này còn mù mờ, khiến mình không biết có đúng là của Nguyễn Du hay không.
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.