Rank: Advanced Member
Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC) Posts: 18,432 Points: 19,233 Location: Golden State, USA Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
|
A. Điều trị cấp cứu và thuốc thang hồi phục 1- Từ nước gừng hồi tỉnh qua Kim Sang tán đến những dược thảo chỉ huyết...
Trung Y chia những thương tích như sau: Chưởng trúng sang ( bị thương do tay), hội sang ( vết thương vỡ ra), kim sang ( thương do vũ khí kim loại), chiết sang ( bị thương gẫy đứt) Đoạn phim về khúc Thúy Kiều lấy dao dấu sẵn trong người ra tự cắt cổ khi Tú bà dùng roi da đánh lúc mới đến Lâm Truy chỉ được Nguyễn Du miêu tảsự điều trị cứu thương một cách giản lược:
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men. và: Thuốc thang suốt một ngày thâu, Giấc mê nghe đã dầu dầu vừa tan.
Thanh Tâm tài tử tả chi tiết hơn, nhờ vậy mà chúng ta biết rõ về vết thương và về cách cứu cấp như thế nào:
Còn mụ Tú thì gọi một người nhà đến nâng đầu Thúy Kiều, và hai người nữa đặt nàng lên tấm cánh cửa, khe khẽ đưa vào trong phòng, trải nệm đắp chăn cẩn thận. Bấy giờ mụ mới khẽ sờ bụng nàng, thấy còn hơi nóng, vội vàng sai lấy nước gừng đến rồi nậy hàm răng đổ vào dần dần. May mà cổ dẫu bị thương, nhưng phần cuống họng chưa đứt, nước gừng còn chảy xuống được. Lúc ấy vào quãng giờ Tị (nửa buổi), săn sóc đến quãng nhá nhem, thốt nhiên thấy nàng thở dài một tiếng. Mụ Tú mừng rỡ nói:” Tạ ơn trời đất phù hộ, có cơ sống lại được rồi”. Rồi mụ cho mời một ông lang chuyên môn về mặt đao thương đến. Thầy rắc thuốc Kim sang vào chỗ vết thương, buộc đoạn lụa trắng bên ngoài, hẹn rằng không được dụng chạm vào đó, và đưa cho hai liều thuốc bảo uống ngay một liều, còn một liều đợi đến canh năm, thế nào bệnh nhân cũng hồi tỉnh, bấy giờ hãy cho uống nốt. Nhưng có điều can hệ nhất là trong vòng 130 ngày, chớ nên làm cho bệnh nhân tức giận. Nếu để một phen uất hận nổi lên, thì chỗ vết thương lại nứt toang ra, không còn gì cứu vãn được nữa.
Qua đoạn văn trên, ta thấy một sự ứng chế dùng cánh cửa là cáng tạm thời để khiêng nạn nhân, sự dùng nước gừng để làm hồi tỉnh, và dùng thuốc Kim sang để cầm máu.
* Về sự dùng nước gừng thì người bình dân Trung hoa hay Việt nam ta vẫn quen dùng lúc cấp cứu khi nạn nhân còn khả năng uống nước và nuốt được. Củ gừng tầm thường là vị thuốc quí. Nó đã hiện diện trong Toa thuốc Hồi Dương cứu cấp thang trong Thương hàn lục thư (gồm những phụ tử, can khương, nhục quế, nhân sâm, sao bạch truật, phục linh, trần bì, chích cam thảo, ngũ vị tử, bán hạ) để kích thích cho mạch máu đập lại cho nạn nhân bị xỉu.
* Về thuốc bột Kim sang là nhiều thứ thảo dược nghiền ra để rắc vào vết thương do đao thương để cầm máu và trừ độc. Theo kinh nghiệm lâm sàng, vết cứa cổ của Thúy Kiều cắt vào khá cạn nằm ở phía cuống hầu nên không đụng vào hai cảnh- động mạch ( carotid) nếu không thì nàng đã dứt kiếp đoạn trường rồi, chỉ có giải phẫu mới cứu được thôi. Có những người cắt cổ gà vụng làm gà chỉ bị cắt cuống hầu còn dẫy dụa vùng lên bỏ chay te te! Chúng ta chưa biết thành phần của Kim Sang tán nhưng cũng đoán được nó gồm những thứ có công hiệu cầm máu và trừ độc trong kho thảo dược của Đông Y. Dùng ngoài da, ta thấy có những thứ mà dân quê ta thường có kinh nghiệm rịt để cầm máu ngay như mồ hóng, mạng nhện, bột than đốt của nang mực v.v...
Trong thư tịch của Đông Y, người ta có thể tìm nhiều thứ thảo dược có đặc tính cầm máu mà khoa học hiện đại công nhận là đúng như cây cẩu tích (Cibotium barometz-J. Sm ) ,Cỏ mực ( Cỏ tháp bút, mộc tặc, hạn liên thảo – Equisetum herba Linn), Cây dành dành ( chi tử – Gardenia jasminoides Ellis) ,Cây hòe ( Sophora japonica Linn.), Bạch phàn ( Alum). (1)
[ Chú thích số 1: Vài chi tiết về các thảo dược cầm máu: _ Rễ cây cẩu tích (Cibotium barometz-J. Sm)có nhìều lông màu vàng thường gọi là Lông cu ly hay Kim mao cẩu tích có hiệu lực cầm máu rất mau nên được dân quê vùng Đông Nam Á hay dùng. Đặc tính chỉ huyết là vì trên lông cu ly có nhiều lỗ vi ti ( multitude of pores). _ Cỏ mực ( Cỏ tháp bút, mộc tặc, hạn liên thảo – Equisetum herba Linn), thường dùng trong trường hợp ho hay đái hoặc kiết ỵ ra máu... Thí nghiệm cho biết Cỏ mực có hiệu lực kháng khuẩn trên Cầu khuẩn Staphylococcus aureus và vi trùng kiết lỵ nhóm B; với tính chất thu liễm (astringent) và kháng viêm, cỏ mực có hiệu lực chỉ huyết và chận đứng sự viêm nhiễm. _ Cây dành dành ( chi tử – Gardenia jasminoides Ellis) mà dân ta hay dùng trái giã ra lấy nước nhuộm vàng bánh trái thay vì nghệ thì hoa dành dành là một vị thuốc cầm máu nội tạng khi ho và đái ra máu. _ Cây hòe ( Sophora japonica Linn.) mà hoa chứa nhiều nhiễm sắc vàng dùng làm thuốc nhuộm thì người ta dùng làm thuốc chỉ huyết cho những trường hợp ho, tiểu và đại ra máu, chảy máu cam, chảy máu ruột, trĩ nhờ nó chứa chất rutin mà đặc tính giống sinh tố P rất nổi tiếng trong sự điều trị những trường hợp những huyết mao quản bị dễ vỡ. _ Vài khoáng chất cũng dùng bên ngoài để cầm máu ví dụ như Bạch phàn ( Alum) đắp ngoài da làm co rút những huyết mao quản và làm đông máu; nhờ đặc tính thu liễm ( astringent) và kháng viêm ( anti-inflammatory), nó rút nước từ tế bào nên tế bào teo khô lại, nó cũng làm giảm hoạt động những hạch ngoại tiết và sự rịn ra những viêm tiết chất (inflammatory exudate), nó lại tác dụng trên chất plasma protein để biến thành những chất kết tủa không tan trong nước nên làm khô những vết thương hay mô tế bào bị viêm. ]
Tóm lại, về vấn đề tại sao Kim Sang tán dùng bên ngoài cùng thuốc uống vào trong truyện Kiều lại công hiệu và gồm những thành phần gì thì chúng ta có thể đoán nó là một sự phối hợp của những vị thuốc kể trên vừa cầm máu vừa kháng viêm chăng? Điều này người viết xin nhờ ý kiến của các bậc thẩm quyền cao minh trên về phương diện “ chỉ huyết tễ” trong Đông Y.
2- Những thuốc “hành huyết” trong Kiều
Tra cứu lịch sử, truyện nàng Kiều dựng vào năm Gia Tĩnh nhà Minh ( 1522 – 1567). Nền y dược của Trung quốc đến thời đại nhà Minh đã tiến lên một cao điểm sáng lạn, điều này được minh chứng bằng sự ra đời của cuốn Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân ( 1518 – 1593) vào năm 1596. Cuốn này được công nhận thực sự có giá trị khoa học nổi tiếng vào thế kỷ 16 mà danh tiếng vang dội qua Tây phương. Trở về với chuyện Y học trong Kiều, ta thấy cuốn Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài tử còn hé lộ nhiều chi tiết về sự trị liệu thuốc men. Ta thấy mụ Tú bà một mặt đã độc ác đánh đập Thúy Kiều tàn nhẫn nhưng mặt khác sau đó lại dỗ dành và tinh khôn trong việc lo điều trị cho nàng vì Kiều là một mối lợi, một “cây tiền” mà mụ đã bỏ vốn ra đầu tư. Trước khi mụ giảng giải cho Kiều những mánh lới nhà nghề và công phu chăn gối, mụ đã lo o bế, chiều chuộng phục vụ tẩm bổ cho con mồi đắt giá của mình: Mụ bảo nhà bếp lấy rượu ngon và các vị thuốc hành huyết như hồng hoa, tô mộc, đào nhân, nga truật, tam lăng đem sắc cho Thúy Kiều uống. Nhờ đó mà thân thể mỗi ngày mỗi thấy khỏe mạnh hơn lên.
Ta thấy lần này sau trận đòn roi da, Tú Bà không cho mời thầy lang tới như trường hợp cấp cứu xuất huyết do cứa cổ như lần trước mà chính tự mình điều khiển sự trị liệu cho Kiều. Tại sao? Hai điều đáng nêu ra: a. Một là mụ rất kinh nghiệm trong nghệ thuật quất roi đa dể tra tấn dữ dằn khủng bố nạn nhân nhưng không làm trí mạng như mụ đã từng đánh những kỹ nữ khác để tuyệt đối tránh rắc rối với luật pháp quan nha. Nghệ thuật dùng roi của mụ tuyệt luân, ngó thì kinh khủng “ uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa”, kỳ thực thì không làm rách da sâu để lại thẹo cùng mình và không làm loại gẫy xương làm cho què quặt; cách “dùng dây thừng quàng vào trước ngực, ruồn sang qua nách, bắt tréo về sau lưng, rồi buộc chặt hai đầu ngón tay cái treo lên xà nhà, để cách mặt đất ba tấc, chỉ đủ cho đầu ngón chân chấm tới mặt đất “ là một kỹ thuật đặc biệt, tiếng là buộc chặt hai ngón tay cái nhưng trọng lượng của Kiều không treo vào đó mà chuyền vào sợi thừng quàng qua ngực và ruồn qua nách nếu không thì hai ngón tay cái đã loại hẳn ra! Tra tấn không cẩn thận và sành nghệ thuật thì món hàng Thúy Kiều quí giá “ vàng bốn trăm” của Tú bà sau này đâu có được vương tôn công tử chiếu cố nữa và Thúy kiều mặt mày đầy sẹo lấy tay đâu mà gẩy đàn cho khách nghe nữa!!
b. Hai là mụ Tú bà rất sành sõi trong sự dùng những thảo dược có đặc tính “ hành huyết” trên, vì đã nhiều lần áp dụng cho họ. Vả lại, điều này cũng bắt nguồn từ một truyền thống dùng Đông Y một cách phổ thông trong dâân gian Trung Quốc và Việt Nam để điều trị những chứng bịnh thông thường trong hoàn cảnh điều trị tại gia.
Thuốc hành huyết là gì?
Đây là một quan niệm về y lý trong Đông Y đối với một cơ thể sau khi bị thương tích nặng do máu bầm ứ lại. Ta thấy ở đoạn sau khi Thúy Kiều bị trận đòn nhừ tử tại nhà Hoạn bà thì được giao cho một mụ già quản gia săn sóc, quan niệm trên được nói rõ hơn: Mụ già đỡ nàng vào phòng của mình, rồi bảo nhà bếp hâm rượu nóng pha một chút đường cho nàng uống. Nàng kêu nuốt không chạy cổ, mụ bảo đó là huyết độc hành hạ con tim, nếu không uống rượu hạ huyết thì sẽ bị chết...Nàng nghe mụ nói xuôi tai nên cũng gượng uống mấy chén, hơi rượu thấm xuống khiến nàng ngủ được một giấc ngon say. Cứ thế điều dưỡng mất hai tháng trời, vết thương roi được khỏi hẳn... Muốn hành huyết thì căn bản là uống rượu hâm nóng vì “ tửu năng dẫn huyết”. Ngoài ra nếu nặng thì phải sử dụng nhiều thảo dược hành huyết khác kể trên.
Bây giờ, ta hãy duyệt qua những vị thuốc của Tú bà đó về phương diện dược động học: _ Hồng hoa ( Carthamus tinctorius Linn.) : khí ấm, vị cay, không độc; khử ứ huyết và làm giảm đau, thường dùng trong toa điều kinh, đẻ khó, tích huyết tử cung hậu sản và sắc với rượu uống làm tan máu bầm. _ Tô mộc ( cây gỗ vang – Caesalpinia sappan Linn.), khí bình, vị mặn ngọt, không độc, công dụng như trên trong trường hợp thương tích, sưng bầm máu. Ngoài ra, thí nghiệm khoa học mới cho thấy rằng nước sắc của tô mộc còn có tính kháng khuẩn với Stapylococcus, Salmonella, Shigella dysenteriae. _ Đào Nhân ( Hột đào - Persicae semen ) tính bình, đắng ngọt, không độc; trị huyết bầm ứ do thương tích _ Nga truật ( Ngải tím – Nghệ đen Curcuma zedoaria Rosc.) tính ấm, vị chua ngọt, hơi đắng, không độc, khử ứ huyết và tan độc nên dùng trị kinh nguyệt tích ứ và thương tích bầm tím. _ Tam lăng ( Spargani rhizoma ) tính bình, vị đắng, công hiệu trị liệu như Nga truật.
Những vị thuốc “hành huyết” trong Đông Y khi phối hợp thành bài thuốc thường được gọi là “hoạt huyết tễ”. Hoạt huyết tễ có công dụng làm huyết chạy mạnh lên và trừ khử hiện tượng ứ máu. Có hai trường hợp: Khi máu không vận chuyển điều hòa qua các tạng phủ và kinh mạch mà trở thành lười biếng chậm chạp thì gọi là “ huyết trì” ( xuè zhi), còn vì những nguyên nhân bệnh lý, luồng huyết lưu thông vận chuyển bị tắc lại và ngưng chảy thì gọi là “huyết ứ” ( xuè yù). Đông Y so sánh sự “huyết ứ” như trường hợp một giòng sông bị phù sa đất cát lắng xuống nên hoàn toàn bế tắc. Huyết ứ theo danh từ biện chứng Đông Y có thể phân biệt ra tùy theo tạng phủ âm dương trong cơ thể bị ảnh hưởng, tùy theo những yếu tố bệnh nguyên như hàn, nhiệt, hư, thực; tùy theo trình độ của bệnh tình như cấp tính, mạn tính, khinh chứng, trọng chứng...; tùy theo những biểu lộ ra như sưng tấy, đau nhức ...
Nổi bật trong những yếu tố bệnh nguyên làm về huyết ứ là những trường hợp sau: _ Phần “Khí “ trong cơ thể không điều hòa” như hư khí, ứ khí làm cho ứ huyết vì Khí (qi) là vị chủ soái điều khiển Huyết, nên Khí dẫn Huyết đi. Khi Khí không đủ sức vận chuyển Huyết, thì nó ứ lại trong các đường kinh lạc. Đây là trường hợp của chứng bán thân bất toại sau khi bị trúng phong ( post-stroke hemiplegia) xảy ra khi Khí hư nhược và Huyết thuyên tắc nên kinh lạc không lưu thông vì bị huyết ứ. _ Yếu tố “Hàn” ( lạnh) làm máu không lưu thông thong thả nên dần dà khiến máu ngưng kết lại như trường hợp kinh nguyệt phụ nữ bế tắc, bụng nổi khối u và đau đớn. Sự trị liệu phải nhắm vào chiến thuật ôn kinh (sưởi ấm), trục hàn (đuổi lạnh), hoạt huyết thì giải quyết được sự huyết ứ và kinh nguyệt lại điều hòa. _ Yếu tố “ Nhiệt”sung mãn quá làm huyết khô và đặc lại nên gây ra Huyết ứ. Nhiệt lại khiến cho máu hung hăng chảy vô kỷ luật ra ngoài qui luật kinh lạc nên có hiện tượng chẩy máu cam, khái huyết, thổ huyết, tiểu đại ra máu... _ Những yếu tố bệnh nguyên khác gồm có ngoại thương, sanh đẻ, và giải phẫu. Đứng trước nhiều nguyên nhân bệnh lý khác nhau và phức tạp như vậy, vị lương y phải định bệnh rõ ràng và dùng thuốc một cách thận trọng. Một điều rất hệ trọng là những toa thuốc hành huyết hay hoạt huyết gồm những vị thuốc công phá vào những tình trạng ngưng kết để phá vỡ và thông thoát, nên lương y phải cẩn tắc khi dùng cho những bệnh nhân yếu nhược và lão suy hay cho những người bị hư chứng. Cũng nên lưu ý rằng những toa hoạt huyết mạnh tối kỵ dùng cho những phụ nữ thai nghén vì dễ khiến lưu huyết trục thai. Lại nữa, thuốc hoạt huyết không nên dùng cho những bệnh nhân có tạng thể dễ xuất huyết.
Trong trường hợp Thúy Kiều, Tú bà chắc phải là người có kinh nghiệm nên mới dám bảo nhà bếp sắc những thứ thuốc hành huyết như hồng hoa, đào nhân, tô mộc, nga truật, tam lăng... Mụ quản gia già ở phủ Hoạn bà cũng vậy! Hoặc giả là trường hợp bị đả thương của Kiều chỉ nằm ở da thịt, gân cốt ngoại bộ chứ không làm bầm tím lục phủ ngũ tạng. Hơn nữa, Thúy Kiều là gái mới cập kê, thể lực còn phương cương, khả năng hồi phục rất mau nên dùng vài thứ hành huyết trị tại gia là hiệu nghiệm thôi, chứ chưa đến nỗi mời lương y dùng những liều thuốc chuyên môn như “Trật đả hoàn” gồm những thuốc cao cấp như đương qui, xuyên khung, nhũ hương, một dược...
Vài toa thuốc mỹ phẩm
Một điểm cần nói thêm là Thúy Kiều là “cây tiền” của mụ Tú bà nên sau khi dùng uống những thuốc hành huyết, da thịt của Kiều không những hết bầm tím mà lại trở nên hồng hào đẹp đẽ hơn vì quan niệm đàn ông bổ khí, đàn bà bổ huyết, mà đương qui là một vị bổ huyết cần thiết!. Theo tôi nghĩ trong công cuộc “ chuốt lục tô hồng” cho Kiều, mụ chắc còn có thể dùng thêm mỹ phẩm cho nàng nữa mà trong truyện không kể ra chăng? ( chằng hạn tra cứu sách thuốc tôi thấy vài toa mỹ phẩm sau : Toa Đương qui Thược dược tán dùng cho những phụ nữ thể tạng yếu và xanh hay mệt nhọc cùng là để tẩy vết nám quanh mắt mũi; toa Thanh thượng phòng phong thang để ngừa mụt, da xẩn đỏ và tròng trắng bị tia máu. ) Củ nghệ ( Uất kim _ Curcuma longa Linn ) là thứ bôi làm da mau lành và không gây sẹo. Nước đái con trai ( đồng tiện) chứa nhiều Nam kích thích tố dùng với nghệ là thuốc thoa bóp cho các sản phụ là da bụng săn lại không nhăn nhão
Và đây là kết quả hồi phục của những vị thuốc hành huyết: Một hôm, Thúy Kiều tắm xong, Thúc sinh được dịp nhìn rõ chân tướng, tấm tắc khen rằng: Dong mạo đã tươi như hoa, da dẻ ấm êm như ngọc...nhất là khi thoạt tắm xong, phấn son trôi hết, để lại hình thái thiên nhiên, càng lô ra vẻ hiếm có ở đời . Chàng Thúc sinh nổi hứng bèn làm thơ ca tụng, trong đó có câu đáng tiền nhất là:
Mình băng phách quế hòa trong trẻo, Băng tuyết hồn hoa nửa lấp lô!
|