Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Trần Thị Thùy Mai
Phượng Các
#1 Posted : Friday, November 26, 2004 4:00:00 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)



Trần Thị Thùy Mai



Sinh ngày 09 tháng 8 năm 1954 tại Hội An, Quảng Nam
Chánh quán Thừa Thiên
Tốt nghiệp đại học sư phạm Huế
Hiện sống làm việc tại Huế

Tác phẩm đã xuất bản :

Bài Thơ Về Biển Khơi (truyện ngắn, 1983)
Cỏ Hát (truyện ngắn, 1984)
Thị Trấn Hoa Qùy Vàng (truyện ngắn, 1994)




Phượng Các
#2 Posted : Saturday, November 27, 2004 3:40:07 AM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)

Nhà văn Trần Thùy Mai: Viết văn là một cách thương yêu...


Nhờ viết, cuộc đời tôi được mở rộng. Tôi vượt qua giới hạn chật hẹp của chính mình... Viết văn với tôi là một cách thương yêu với chính mình và những người xung quanh...Tôi chỉ muốn nói với các bạn viết trẻ rằng, văn học không bao giờ dễ dãi, nhà văn Trần Thùy Mai tâm sự.

* Thưa nhà văn Trần Thuỳ Mai, sau gần 30 năm sáng tác, sự thay đổi lớn nhất trong suy nghĩ của chị về nghề viết là gì?

- Tôi bắt đầu viết từ khi còn đi học, lai rai cho vui. Thế nhưng khi bắt đầu được độc giả ưa thích, bỗng dưng cầm bút với một sự hoảng sợ. Sợ không làm hài lòng độc giả, sợ độc giả bỏ mình mà đi. Viết mãi thì cũng nguôi sợ.

Người ta thường hay nói gặp khó khăn khi sáng tác nhưng tôi thì không, tôi chỉ thấy khó khăn khi không viết được. Mà không viết được thì buồn không tả xiết. Không có thay đổi trong suy nghĩ về việc viết lách mà chỉ có sự sâu sắc và chín dần lên về nỗi đau, về sự chia sẻ trong từng trang viết.

Tôi không so sánh nhân vật của tôi với những người khác. Tôi quan niệm tác phẩm văn học bắt đầu từ mâu thuẫn, xung đột trong cuộc đời. Đau khổ có đầy trong cõi sống này. Viết, cảm nhận nỗi buồn của người bên cạnh về gian khó của đời mình để tạo ra mối đồng cảm chung là đường hướng theo đuổi của tôi.

* Hiện thực cuộc sống và hư cấu vào tác phẩm của chị với tỷ lệ nào? Những phiền toái khi lấy hình mẫu ngoài đời thật có bao giờ vướng vào chị không?

- Trước mỗi trang truyện ngắn tôi thấy mình giống như một người nặn tượng. Lấy hết khả năng để làm ra một tác phẩm đẹp, có ích. Nhờ viết, cuộc đời tôi được mở rộng. Tôi vượt qua giới hạn chật hẹp của chính mình. Khi tác phẩm đến được với độc giả, nỗi cô đơn trong tôi nguôi ngoai. Chính vì thế tôi ít chú ý đến dung lượng của thực tế hay hư cấu. Thực ra tôi thuộc típ người rất kiên nhẫn lắng nghe những tâm sự chung quanh.

Tôi như một mảnh nam châm hút về mình những đau khổ. Tùy cơ duyên tôi kết hợp nhiều ý tưởng của mình, của người để thành những truyện ngắn. Nếu chỉ là chuyện thật đưa lên giấy thì chẳng có gì cho độc giả đâu. Hư cấu tạo cho câu chuyện những tầng nghĩa mới, những bề sâu, để câu chuyện vượt qua sự tầm thường. Viết phải có lợi cho nhân loại, tôi viết với phương châm đó.

* Như vậy mục đích khi sáng tác của chị là vì độc giả hay vì chị?

- G. Marquez nói: Tôi viết là vì tôi muốn được người ta yêu thương tôi. Là một nhà văn, lại là nữ, tôi rất cần được yêu thương để chống lại mặc cảm bị bỏ rơi. Theo cách nhìn của tôi, phần lớn người làm nghệ thuật bị trời cho số khổ. Họ lại là người có cá tính nên thường sống cực đoan, sống trong cuộc đời với tâm trạng dị dạng. Khi viết, họ được thừa nhận, được hiểu, đó là hạnh phúc.

Viết văn với tôi là một cách thương yêu với chính mình và những người xung quanh. Điều này nói cụ thể thì không nên nhưng nói mơ hồ thì không rõ. Đành vậy....

* Chị có thể so sánh những vấn đề của thế hệ chị với những cây bút trẻ thế hệ sau này được không?

- Tôi cùng thế hệ với Lý Lan, Minh Ngọc, thế hệ cầm bút đầu tiên sau chiến tranh. Nhìn lại, đây chính là thế hệ dò đường đi tìm những đề tài hậu chiến. Có thể có những sáng tạo, nhưng vẫn không thể không bị ảnh hưởng bởi những lối mòn.

Cho đến bây giờ ngay chính tôi, khi viết vẫn dễ bị cóng tay vì nghĩ tới những người độc giả với lối đọc cũ. Không chấp nhận sự thay đổi, hạn chế cái mới, chỉ thừa nhận một lối đi chính là nguy cơ mà mọi người viết hiện nay vẫn phải đương đầu.

Về những người viết trẻ, đáng quí nhất là sự táo bạo, khát khao đi tìm cái mới mạnh mẽ trong các trang viết của họ. Có thể người đi ngược, kẻ đi xuôi. Nhưng quan trọng là họ đã mới.

* Viết văn gần 30 năm cũng có thể sinh ra những thói quen. Chị có muốn xé bỏ những thói quen đó, để mới mẻ lên không?

- Tôi không dị ứng với cái mới. Tôi chỉ dị ứng với cái mới mà không nhân văn. Ví dụ gần đây có những cây bút gây sốc bằng cách ca ngợi sự dối lừa, sự tàn ác. Đổi mới là làm mới trang viết chứ không phải là diễn những trò ngoài văn học. Tạo cho người ta chú ý bằng những thứ tưởng là mới thì dễ. Nhưng để người ta nhớ tác phẩm thì khó khăn hơn nhiều.

Tôi không băn khoăn về một vài người trẻ làm dáng, làm nổi hiện nay. Năm, mười năm nữa họ là ai chúng ta sẽ biết. Trẻ là vận động. Họ ì ra thì còn buồn hơn. Tôi chỉ muốn nói với các bạn viết trẻ rằng, văn học không bao giờ dễ dãi. Tôi nghĩ nhiều về cái mới trong sáng tác. Nhưng chuyện có tìm ra cái mới hay không lại là vấn đề khác.

Theo Sinh Viên
Thứ Năm, 18/11/2004,
Phượng Các
#3 Posted : Wednesday, March 16, 2005 1:23:33 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thương Nhớ Hoàng Lan

Trần Thuỳ Mai


Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?". Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có có duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ". Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H". Rồi bà cười hả hả: "Đi tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm huơng trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

Cô ruột tôi giận lắm bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói: "Đừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương? Cơ sở làm huơng từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng
hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni".

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...

Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?". Tôi chỉ lắc đầu...

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: "Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm huơng giàu có, cúng dường nhiều
tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong". Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: "Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng". Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước ri ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ".

Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ th. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi".

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?". Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi
mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu: "Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người.
Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong". Thầy cười: "Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phi có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây". Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa".

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan". Tôi
giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ
mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa".

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hong sợ vì mình đã đỏ mặt...

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán. "Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà". "Không phi đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát sau mới bo: "Khó tin". "ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn". Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên tho am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu..." Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn. "Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt "Đi về!". Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?. "Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên
đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi. "Đêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?". Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?. "Thích". Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sách ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư tr lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ưng ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?". Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phi phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu". "Không có lửa, sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?".

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về. "Con ma nữ" đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?". Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ. "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?". Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hong vùng dậy: "Bạch thầy". Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn". Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình". Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi".

Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hưng trong bệ Phật, mùi trầm mới thm thơm trong không gian.

Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến. "Chú Ninh!". Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại...". Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan. "Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thuơng, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...".

Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?.
Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?". Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống. Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
Phượng Các
#4 Posted : Wednesday, March 16, 2005 1:25:19 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Thể Cúc
Trần thị Thùy Mai


Thể Cúc ngồi trên tấm phản gỗ lim, trước mặt là chiếc thố bằng sứ cổ đựng nước trong. Ánh nắng ban mai xuyên qua những đường chạm trổ dưới mái hiên, vẽ thành những chấm sáng trong trẻo trên tóc, trên má nàng. Những chấm nắng trong ngời ấy khi đậu vào má Thể Cúc cứ làm rực lên một mầu hồng tươi tắn từ dưới làn da mỏng và trắng như lụa.




Bà phu nhân Trương Nguyên Cơ đang đứng cạnh đó, trông nom cho hai đứa hầu gái rim mấy thứ mứt trái cây. Thấy Thể Cúc cứ ngồi lắng nghe con hoàng yến đang hót trong lồng, phu nhân quở:

- Thể Cúc! Con gái, làm chi cũng phải chăm chỉ, ý tứ. Cái nết vừa làm vừa chơi, không nên đâu con.

Thể Cúc giật mình cười bẽn lẽn ý như biết lỗi. Nàng lại chăm chú xoi tim những hạt sen trắng, rồi đặt chúng trong thố nước mưa trước mặt. Hạt sen này, phu nhân phải cho người nói trước với quan Ngự Thiện trong cung mới có, bởi đó là giống sen bách diệp ở hồ Tịnh Tâm, vừa thơm vừa bổ, chỉ dùng riêng cho nhà vuạ Nhưng vua Tự Đức thường nghĩ đến anh em chú bác của người, nên với những đặc sản được dâng tiến vào Đại nội, người dặn rằng các phủ đệ ai cần thì cho phép nói trước với Ngự Thiện để dành phần cho.

Tối nay, rằm tháng sáu, Tùng Thiện Công mở tiệc xem hoa thưởng trăng trong Ký Thưởng Viên. Hơn một năm nay, kể từ ngày TùngThiện Công và Tuy Lý Công - hai ông hoàng nổi tiếng thơ hay - cùng nhau lập ra Mặc Vân thi xã, vườn hoa của hai phủ đã thay phiên nhau làm chỗ tao ngộ của giai nhân tài tử chốn kinh thành. Tài tử thì có Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... giai nhân thì hàng đầu phải kể đến ba nàng công chúa em cùng mẹ của Tùng Thiện Công là Mai Am, Nguyệt Đình và Huệ Phố. Tiếp đến là nàng họ Hà, thứ thiếp của Tùng Thiện Công: nàng có vóc người óng ả, lúc nào cũng chỉ mặc đơn sơ chiếc áo tơ tằm mầu nguyệt bạch, khuôn mặt không phấn son, chỉ vẽ qua nét mày thanh tú. Tùng Thiện Công sủng ái nàng, đặt cho nàng cái tên là Uyên Sồ - con chim uyên non. Theo người xưa thì chim uyên ương sống thành đôi tương đắc với nhau, con mái gọi là uyên, con trống gọi là ương. Một giai nhân tài sắc nữa. là Đẩu Nương, một danh cầm. Vốn nguyên Đẩu Nương là con một kép hát ở An Cựu. Xuất thân thấp hèn, nhưng ở đây, Tùng Thiện Công giao kết với bạn thi ca không dựa trên địa vị, mà chỉ căn cứ vào chữ tâm, chữ tài. Vì vậy Đẩu Nương là khách quý của công phủ, không buổi họp nào vắng bóng nàng.

Danh sĩ đến Ký Thưởng Viên vì quý mến Tùng Thiện Công, vì say tiếng hát, câu thơ, vì các giai nhân trong bữa tiệc xem hoa, nhưng còn vì một bóng hình chìm khuất bên trong những lớp cửa bàng khoa dày chắc: nàng Thể Cúc mười bảy tuổi, tiểu thư ngàn vàng của công phủ, nghe đâu vừa đẹp vừa hiền. Nhiều lần Tùng Thiện Công cao hứng lên định gọi con gái ra chào khách, mục đích là để khoe với danh sĩ ở kinh thành cô con gái rượu mà ngài cưng chiều như hoa như ngọc. Nhưng lần nào Tùng Thiện phu nhân cũng khăng khăng không chịu:

- Con gái khuê các, có đâu lại chường mặt ra giữa ba quân thiên hạ như thế!

Tùng Thiện Công cười:

- Phu nhân không biết ý ta đó thôi. Tiệc rượu thưởng trăng này quy tụ bao nhiêu danh sĩ của kinh thành. Ta nhân đây mà kén rể, lo gì chẳng gặp người tài tuấn.

Phu nhân vẫn cương quyết không đổi ý:

- Dù có Trạng Nguyên Bảng Nhãn tới đây đi nữa, cũng phải đủ sáu lễ nạp thái nghênh hôn rồi mới được thấy mặt con gái tôi. Ngày xưa tôi lấy ông, làm lễ tơ hồng mới nhìn rõ mặt. Xưa vậy thì nay cũng vậy, không bỏ phép nhà được đâu.

Tùng Thiện Công đành chiều ý phu nhân. Vì vậy trong khi giai nhân tài tử dập dìu bên tiệc hoa ngoài vườn Mặc Lan, thì Thể Cúc chỉ được quanh quẩn bên mẹ, trông coi cho thị nữ bưng nước, pha trà. Từ chỗ nàng ngồi, Thể Cúc có tò mò nhìn xuyên qua những cây dâu tiên và cây thanh trà xanh mượt trong vườn cũng chỉ thấy thấp thoáng nhưng bóng áo xanh, áo đỏ xa xa bên hồ vọng nguyệt.

*

Tàn tiệc, khách về rồi, Tùng Thiện phu nhân dặn Thể Cúc trông coi kẻ hầu dọn dẹp, rồi quay về phòng riêng nghỉ ngơi. Thể Cúc vâng dạ. Dọn rửa không phải là chuyện đáng lưu tâm, đã có người ăn kẻ ở nhưng Tùng Thiện phu nhân là người chu đáo đến mức nghiêm khắc trong việc nội trợ. Hơn nữa, trong số bát đĩa dùng trong tiệc có hơn bốn mươi chiếc là đồ sứ ký kiểu tận bên Tàu do Đức Thiệu Trị ngày trước ban cho.

Thể Cúc đang trông coi mọi việc thì cha nàng bước vào, trên tay cầm một tờ giấy hoa tiên. Vừa nhìn thấy, Thể Cúc đỏ mặt lên, nàng ngượng ngùng đưa hai bàn tay nhỏ nhắn lên che mặt. Tùng Thiện Công vuốt tóc con:

- Mấy câu này của con có khí vị phong nhã diễm lệ, cha đem cho Đẩu Nương ngâm, quan khách ai cũng khen, kể cả bà cô Mai Am của con vốn rất khó tính!

Thể Cúc càng đỏ mặt, nàng thỏ thẻ: "Ôi! Sao cha... Cha làm thế người ta cười con chết mất thôi. Mẹ con mà biết, thế nào người cũng rầy la con".

Tùng Thiện Công khoát tay: "Ôi, mẹ con cũng là người mê thơ, ngại gì? Mê thơ đến nỗi cách nấu mấy món ăn bà ấy cũng đem soạn thành thơ tứ tuyệt!" "Cha ơi, thơ ngâm hoa vịnh nguyệt, mẹ con không thích! Đêm qua thấy trăng sáng quá, con cảm hứng viết đôi lời, không ngờ cha nhìn thấy".

Tùng Thiện Công nắm tay con dắt lên thư phòng. Thể Cúc khép nép đứng hầu cha bên chiếc trường kỷ, nhưng Tùng Thiện Công nhất định bắt con ngồi xuống cạnh mình.

Ngài lấy mấy tờ giấy hoa tiên khác, đưa cho Thể Cúc:

- Có mấy bài họa lại đây, con hãy xem thử, bài nào con đắc ý nhất.

Thể Cúc thẹn thò: "Ôi, con biết gì đâu, xin cha giảng giải cho con!" Tùng Thiện Công chỉ cười, rồi khoát tay ra hiệu cho con lui. Thể Cúc nhẹ chân rón rén cầm mấy tờ hoa tiên xuống thềm rồi khoan thai đi ngược hành lang về phòng khuê.

Đêm ấy nàng cứ trăn trở không sao yên giấc. Trăng soi qua rèm thưa, chiếu sáng lên chiếc giường phủ lụa thơm. Ánh trăng đủ sáng để Thể Cúc đọc tới đọc lui mấy vần thơ của ai đó. Như có cơ duyên, nàng vừa đọc đã như nhìn thấy người ấy ngay trước mắt...

Tùng Thiện phu nhân là người ít ngủ, đêm nào cũng trở dậy vài lần đi xem xét khắp dinh cợ Nghe tiếng trở mình trong phòng con gái, bà bước vào, vén bức rèm the:

- Thể Cúc, con chưa ngủ sao?

Thể Cúc giật mình giấu vội tờ thơ dưới gối. Nàng nũng nịu:

- Cây hoa mộc ngoài vườn thơm quá, làm con không sao nhắm mắt, mẹ Ơi!

*

Cả công phủ rộn rịp tưng bừng, tiếng đàn tiếng hát véo von đón mừng quan khách. Hôm nay là ngày cưới của Thể Cúc! Hoa đèn kết rực rỡ từ ngoài cổng vào đến thềm tòa nhà Bạch Bí, nơi ở của đàn bà con gái trong phủ. Ai nấy đều hớn hở vui cười, riêng Tùng Thiện phu nhân vẻ mặt rầu rầu suốt từ sáng đến giờ chẳng hé miệng. Tuy không được vui lòng, nhưng vốn là người nghiêm cẩn, bà vẫn gượng giấu vẻ buồn.

Khi Tùng Thiện Công quyết ý gả con cho Đoàn Trưng bà đã vâng lời ngay, không lời ra tiếng vào. Bà nghĩ việc gả bán con là quyền của chồng, đức ngài lại rất yêu con gái, ngài đã chọn ai tất phải là người xứng đáng. Hơn một năm kể từ ngày nạp lễ vấn danh, cứ mỗi lần kỵ giỗ, có mặt đầy đủ phu nhân các vương công đại thần ở điện Phụng Tiên là bà phải nghe những lời thì thầm:

- Lệnh Công và phu nhân nghĩ sao lại gả tiểu thư cho anh chàng thư sinh mặt trắng ấy? Thiếu gì Trạng Nguyên, Bảng Nhãn ước ao mong làm rể quý phủ. Phu nhân mà không vội nhận lời người ta, thì tôi đã đứng ra làm mối tiểu thư cho cậu Cả con quan tam phẩm Trương Cửu Nghi...

Phu nhân Tùng Thiện Công chỉ cười cảm tạ:

- Cảm ơn phu nhân có lòng thương cháu. Nhưng việc này Đức Ngài đã quyết phu xướng phụ tùy, tôi đâu dám bàn ngang.

Trong thâm tâm bà cũng một lòng một dạ nghĩ như chồng: chàng họ Đoàn ấy tuy là con nhà dân dã, nhưng tướng mạo khôi ngô, tài học lại thông tuệ, nhất là chí khí tỏ ra hơn người. Thế còn hơn trao con vào một tay công tử cậy quyền cậy thế, hư đốn rong chơi, hay một cử nhân, tiến sĩ chỉ biết tầm chương trích cú, khiếp nhược cầu danh? Cứ cách ba năm lại có khoa thi, Đoàn Trưng đã có tài thì lo gì tương lai không rộng mở?

Trong khi Tùng Thiện phu nhân yên lòng theo ý chồng thì Uyên Sồ lại lo lắng. Có lần nhân khi chén rượu cuộc cờ, thấy Tùng Thiện Công vui vẻ, nàng khéo gợi chuyện hôn nhân của Thể Cúc rồi thăm dò:

- Kể về trai tài gái sắc thì họ Đoàn với Thể Cúc xứng đôi vừa lứa. Chỉ e là...

- E là sao? Nàng cứ nóiđdi, đừng ngại.

Uyên Sồ mỉm cười. Tùng Thiện Công lúc nào cũng thích nghe giọng nói của nàng, giọng của con uyên non.

- Thiếp chỉ e nhà họ Đoàn ấy thanh bạch quá, Thể Cúc quen an nhàn nơi công phủ về đó e không chịu nổi vất vả...

Tùng Thiện Công đón lấy tách trà bát tửu từ tay người đẹp nhấp một ngụm rồi gật đầu:

- Nàng lo thế là phải. Nhưng ta có ý của tạ Đoàn Trưng rất có tài, chỉ tội nhà không giàu có, lại ở quê xạ Ta dựng nên mối nhân duyên này là cốt để hai anh em họ Đoàn có chỗ dựa mà dùi mài kinh sử, chờ dịp tiến thân với đời. Vì vậy, hắn sẽ ở rể tại nhà ta, chứ đời nào ta để con ta về nhà họ!

Quả thực Tùng Thiện Công không hiểu sao lại có một tình cảm sâu đậm với chàng trẻ tuổi này từ khi mới gặp. Sinh trong cung vua, cả đời sống trong nhung lụa, nhưng ông hoàng tử này lại có tấm lòng gần gũi với những người dân nghèo lam lũ. Một lần trong tiệc thơ, ông đọc bài thơ Tiền trầu của mình:

Thân tuy còn, nhà đã tan
Mình ra khỏi ngục, vợ sang nhà người
Miệng nhai trầu, bế con côi
Cùng chồng ly biệt lệ rơi bên đường!

Cả tiệc thơ ai cũng chau mày thương cảm, xót xa cho cảnh ngộ người đàn bà trong thợ Chỉ riêng chàng trai họ Đoàn nghe xong đã không buồn thương, lại còn cười khanh khách. Uyên Sồ bắt bẻ:

- Chàng trai kia, người có lòng sắt dạ đá hay sao, nghe cảnh thương tâm thế mà còn cười được?

Đoàn Trưng nghe vậy chẳng áy náy, còn cười to thêm. Chàng bảo:

- Lệnh công ngồi trong đền vàng, lâu lâu ra ngoài nghe kể đôi chuyện nên mới chau mày rơi lụy. Còn tại hạ là kẻ thường dân sống nơi thôn dã, chuyện quan lính, hào lý bức hiếp dân xảy ra như cơm bữa, nếu mỗi lần nghe mỗi lần khóc thì e đến nay tại hạ đã tan thành nước rồi! Xin hỏi phu nhân, ta ngồi đây, chung quanh toàn là kỳ hoa dị thảo, chén bát toàn là đồ trân quý, bánh trái, rượu trà toàn thức hảo hạng, ta cứ làm thơ mà giúp dân bớt khổ được sao?

Uyên Sồ không ngờ chàng trai lại nói dõng dạc như thế, chưa biết đối đáp như thế nào để vừa trị cho chàng ta cái tội láo xược, mà vừa khỏi mang tiếng là không quý khách. Những người trong tiệc đều có ý không bằng lòng, chỉ quan Hàn Lâm Nguyễn Hàm Ninh là cả cười, gật gật đầu: "Hắn ta nói cũng có lý đấy chứ?" "Nhưng mà vô lễ quá!" Một người khác chen vào. Giữa lúc mọi người còn xôn xao thì Tùng Thiện Công đã đứng dậy, lại gần... Ông rót một chén rượu, tự tay mời chàng trai, mặt ông phảng phất một nụ cười hiền từ... Ông bảo: "Khổng Tử đã dạy "Hậu sinh khả úy", nên sợ kẻ sinh sau! Này chàng trẻ tuổi, nghe thơ ta hôm nay, chỉ có mình anh là hiểu được lòng ta!"

Ý định gả Thể Cúc bắt đầu nảy sinh trong lòng Tùng Thiện Công từ đó. Về sau này, ông thường xuyên cho lính về An Truyền mời chàng lên phủ chơi. Mỗi lần đến chàng chỉ mặc bộ áo nâu buộc thắt lưng gọn gàng, tay xách theo một cút rượu làng Chuồn, nồng và đượm, từ lâu đã nổi tiếng ngon trong dân gian.

Điều mà Tùng Thiện Công lẫn phu nhân không nghĩ tới là nhà họ Đoàn không chịu gửi rể! Không ngờ Đoàn Trưng ngang tàng phóng khoáng thế mà lại có bà mẹ rất nghiêm khắc. Lần đầu đến công phủ bà chỉ mặc một chiếc áo vải mầu nâu đơn giản, vẻ mặt nghiêm nghị, chẳng tỏ vẻ gì vui mừng quỵ lụy vì được kết thông gia với một nhà quyền quý bậc nhất trong cả nước. Điềm đạm bà bảo:

- Đức ngài và phu nhân có lòng thương mến con trai tôi, muốn kết duyên lành, tôi đâu dám không lãnh ý. Nhưng xưa nay theo đạo thường, gái phải theo chồng mới hợp lẽ. Gia cảnh chúng tôi tuy bần bạc, nhưng quyết không để con trai tôi nương nhờ quý phủ, để mang tiếng với người đời là trai ở nhà vơ...

Đoàn mẫu vì lễ phép mà dừng lời ngang đó, nhưng cũng để người ta nhớ đến câu tục ngữ Trai ở nhà vợ như chó ở gầm chạn. Đoàn mẫu về rồi, cả khu nhà Bạch Bí xôn xao. Bà Tiểu Bạch, vợ thứ của Tùng Thiện Công, vừa nghe câu chuyện đã chau mày, nhả vội miếng trầu đang nhai vào chiếc ống phóng đồng:

- Cha chả, cái bà ấy chẳng biết chi là trời cao đất rộng. Họ đã làm bộ làm tịch thế, chúng ta cần chi mà phải cầu! Cái gã thư sinh ấy thì có đáng kể gì so với nhà ta?

Người buồn nhất chắc chắn là bà Nguyên Cợ Bà không muốn xa con, không muốn con làm dâu vất vả trong nhà người. Giữ đạo vợ nên bà không dám trái ý chồng, nhưng cũng thầm mong đức ngài bãi bỏ chuyện hôn nhân kia. Ai ngờ, Tùng Thiện Công chỉ vuốt râu cười:

- Thế mà người ta thường bảo: "Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu". Ta thấy bà mẹ này thật có khí phách hơn người, ta rất trọng nể! Xuất phủ về nhà họ Đoàn thì đã sao? Lấy chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo. Từ xưa đã thế!

Vậy là đám cưới Thể Cúc vẫn y theo ngày đã định.

Tùng Thiện phu nhân hầu như giao cho bà Tiểu Bạch lo toan mọi việc. Hơn hai tháng trước ngày nghênh hôn, bà bắt Thể Cúc luôn ở bên mình, chăm lo, rèn sửa cho nàng từ nết ăn, nết ở. Phần lớn thời gian còn lại bà ở trong phòng, chẳng biết làm gì mà cứ thui thủi một mình.

Hôm nay thì Thể Cúc sắp đi rồi! Dưới bến sông, chiếc thuyền rước dâu đang chờ sẵn. Tùng Thiện phu nhân vào phòng con. Thể Cúc đội khăn vành, khoác áo gấm xanh, khuôn mặt non tơ lần đầu được trang điểm phấn son. Thấy mẹ vào, nước mắt nàng chảy quanh.

- Đừng khóc con ạ! Gái lớn thì phải xuất giá, ai chẳng thế? Mẹ dặn con, đã đi lấy chồng thì phải trọn đạo vợ. Bổn phận làm dâu thì trước hết phải thờ cha mẹ chồng cho trọn vẹn! Nay mẹ cho con, trong gói này là số vàng hồi môn của con, trên đường đi nhớ giao cho con Hồng cất giữ, tính nó cẩn thận, chu đáo. Còn đây là cuốn Thực phổ bách thiên, gần một trăm món ăn mẹ soạn thành một trăm bài văn vần để con dễ đọc dễ nhớ. Mấy tháng nay mẹ cố hoàn thành cho kịp ngày con vu quỵ Mẹ mong sao đây là cuốn cẩm nang để giúp con sau này lo cho chồng, cho mẹ chồng, rồi truyền dạy cho con cháu mai sau!

Thể Cúc đón lấy cuốn sách từ trong tay mẹ, nàng xúc động khóc ngất đi, hai tỳ nữ phải kèm hai bên dìu ra nhà ngoài làm lễ. Pháo nổ vang, xác pháo hồng rơi rắc khắp khu Tiêu Viên tráng lệ. Xong lễ, đoàn người đưa dâu với đèn lọng rực rỡ đi qua Ký Thưởng Viên rồi xuống thuyền hoa ngược ra sông Hương xuôi về làng An Truyền.

*

Ba năm sau... Nhà họ Đoàn từ ngày có nàng dâu cành vàng lá ngọc cũng vẫn nếp sống như xưa. Tùng Thiện Công và phu nhân đã cho con gái nhiều của hồi môn, ý định cho đôi vợ chồng dùng của ấy mà xây cất lại nhà cửa khang trang, cho Thể Cúc khỏi phải chịu kham khổ vì nơi ăn chốn ở. Nhưng Đoàn mẫu khăng khăng không chịu. Tính bà vốn khí khái đến mức có khi gàn dở. Tuy Thể Cúc không phải con vua, nhưng ở làng An Truyền xa xôi này, người ta xem nàng tôn quý chẳng khác gì bà chúa. Mà cái cảnh ngộ những nhà quan cưới công chúa về làm dâu thì ai cũng biết rồi, dân gian đã đặt câu vè để giễu: Chân giày, chân dép vô ra. Kêu dâu cũng lỡ, kêu bà khó kêu. Đỏng đảnh như tinh đầu đèo... Huống chi, nhà họ Đoàn là nhà bạch đinh! Cũng vì mấy câu vè ấy ám ảnh mà Đoàn mẫu quyết không để cho người trong xóm trong làng cười chế mình là kẻ cầu danh hám lợi.

Thể Cúc cũng chiều ý bà, từ cảnh nhung lụa trong công phủ nàng vui vẻ chấp nhận sống trong căn nhà tranh ba gian hai chái. Những nữ tỳ theo hầu, nàng cũng chiều theo ý mẹ chồng cho về phủ hết, chỉ giữ lại con Hồng để đỡ tay đỡ chân nhất là khi nàng sinh đứa con đầu lòng. Theo lệ con so về nhà mẹ nên Đoàn mẫu vui lòng cho nàng về công phủ để sinh nở. Con đầu lòng của nàng là con trai. Nàng muốn Đức vương đặt tên cho nó, nhưng ngài bảo cha phải đặt tên cho con thế mới đúng. Đoàn Trưng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:

- Ta đặt tên con là Khởi, nghĩa là đứng dậy. Tùng Thiện phu nhân nghe cái tên của cháu ngoại, chẳng hiểu sao chợt hồi hộp, phấp phỏng không yên. Bà bảo:

- Lệ thường khôn lớn mới gọi bằng tên, nay cháu còn nhỏ, ta hãy đặt một cái tên xấu xấu, để cho quỷ thần chê mà không quở đến.

Thế rồi người nhà gọi thằng bé là Ngáo.

Hết ba tháng mười ngày, Thể Cúc thu xếp đưa con về lại nhà chồng. Từ giã cảnh giàu sang về nơi thanh bần đạm bạc, nhưng lần này nàng dường như nóng ruột muốn về... Thấy mẹ cố giấu làn nước mắt rưng rưng sau vẻ mặt trang nghiêm, nàng thương mẹ quá. "Mẹ Ơi! Đừng lo cho con, con sống nơi dân dã đã quen rồi!" Nàng nói như an ủi mẹ. Tự thâm tâm, nàng nghĩ: "Giờ đây ở nơi nào đi nữa, khổ bao nhiêu ta cũng thấy vui sướng, miễn là được sống bên chàng!"

Giờ thì cu Ngáo sắp lên bạ Nàng đưa thằng bé cho con Hồng bế đi chơi trong xóm. Phần nàng đang ở trong bếp, chế biến mấy món ăn mà Đoàn Trưng yêu thích. Thể Cúc bây giờ đã thuộc nằm lòng những câu nói vần trong cuốn sách mà mẹ nàng trao tặng. Canh bầu mùi thích lá hanh hao. Cho biết rau hành bỏ bí đao. Hầm mít lại ưa sân với lốt. Bí ngô thời phải tỏi gia vào. Có lẽ dự đoán trước con gái mình sẽ sống thế nào, Tùng Thiện phu nhân chỉ soạn ra có hơn ba mươi món là thức ăn sang trọng dùng trong ngày lễ tiệc kỵ giỗ, còn lại là tất cả món ăn thường trong dân gian. Hồi chiều, nghe chồng bảo đến tối có anh em bạn bè của chàng đến chơi nên Thể Cúc lo soạn sẵn cơm rượu. Chỉ có mấy món đơn sơ, nhưng nàng nêm nấu thực kỳ công, mong sao chồng được vui lòng.

Bày dọn sẵn, nàng lui vào phòng trong, dỗ con ngủ rồi lên ngồi cạnh mẹ chồng. Đoàn mẫu dạo này đã yếu lắm rồi, mắt nhìn không rõ nữa, nhưng tai vẫn rất thính. Bà sờ soạng cầm tay Thể Cúc, nhướng mắt lên:

- Con à, mẹ thấy có tiếng ai lạ phải không? Tiếng thằng Trưng, thằng Trực, thằng Ái, sư Quý, sư Viên thì ta nhận ra rồi. Còn giọng ai mới tới nữa?

Thể Cúc nhỏ nhẹ:

- Dạ, có hai người lạ. Con không ra phía trước nên không biết là ai. Bữa qua con nghe chồng con nói, mới kết giao được hai người bạn là Tôn Thất Cúc, quan Hữu quân ở điện Càn Thành và Nguyễn Tăng Hựu hình như làm chức Suất đội thì phải.

Đoàn mẫu nghĩ ngợi một lúc rồi bảo:

- Con ta xưa nay rất ghét bon chen kết thân với chỗ quan quyền, sao nay lại quen với người của triều đình? Ta nghe nói lão Hựu này là quan trông coi dân phu xây lăng vua ở Vạn Niên. Bọn quan lại ấy rất tàn độc, người làng ta bị chúng bắt đi, hành hạ đánh đập rất dã man, nhiều người chịu không nổi mà chết oan.

Thể Cúc vừa đấm lưng cho Đoàn mẫu vừa kể: "Nghe chồng con nói, quan Suất đội bảo là lệnh Hoàng Thượng truyền xây lăng trong sáu năm, nhưng vì quan Thống Chế Nguyễn Văn Chất muốn lập công cứ khăng khăng tâu lên vua là chỉ cần ba năm cũng đủ. Vì vậy mà dân phu phải làm đêm làm ngày không nghỉ. Việc này, có lẽ chính Hoàng Thượng cũng không được biết!

Đoàn mẫu thở dài. Một đời làm dân bà đã chứng kiến biết bao nhiêu điều cơ cực. Nhưng chưa bao giờ dân khổ bằng lúc này! Bà bảo:

- Mỗi khi về thăm, con nên bẩm với Đức Ngài đem những nạn ách của dân mà tâu lên Hoàng Thượng, họa chăng Người nhìn thấu mà mở lượng cho dân được nhờ.

Thể Cúc ngập ngừng, không nói. Thực ra từ trước, khi triều đình chưa khởi công xây Vạn Niên Cơ, Tùng Thiện Công đã biết được nhiều nỗi cay đắng của người dân. Không cay đắng sao được, người Pháp đã đánh vào miền nam, ba tỉnh miền đông đã cắt đứt cho chúng. Ba tỉnh miền tây, vựa lúa của cả nước cũng đang trở thành miếng mồi thơm, chẳng biết còn mất lúc nào. Tiền tài vật lực đều dồn cho việc chiến trận, trăm thứ trăm thiếu, giặc giã nổi lên như ong... Chứng kiến bao nhiêu cảnh ngộ nhưng Tùng Thiện Công vốn bản tính hiền hậu, ông chỉ biết đưa tấm lòng mình vào thơ chứ chẳng dám tâu trình với vuạ Mà muốn tâu trình e cũng khó, vì từ thời Đức Minh Mạng lên ngôi, ngài lại muốn hạn chế quyền lực của các hoàng thân nên đã đặt ra lệ các hoàng thân quốc thích tuyệt đối không được giữ binh quyền, làm quan chức, không được tham dự, bàn tán vào việc triều chính. Trải mấy đời lệ ấy đã thành quen, không ai dám trái.

Đêm ấy Đoàn mẫu ngủ yên giấc rồi, Thể Cúc trở về nằm bên con thao thức. Tiếng Đoàn Trưng và các bạn của chàng nói chuyện ở ngoài vườn xa, nàng chẳng nghe được gì. Nhưng nàng cũng nhận ra là hôm nay họ không ngâm thợ Uống rượu mà lại chẳng ngâm thơ, chẳng biết họ nói với nhau những gì mà quá canh ba tiệc vẫn chưa tan?

Xa xa đã có tiếng gà mới thấy Đoàn Trưng trở vào ngả lưng bên nàng. Thể Cúc trở dậy, giặt khăn nước mát lau mặt cho chồng. "Hôm nay chàng uống nhiều quá!" Nàng khẽ trách, giọng nàng dịu dàng, âu yếm. Đoàn Trưng nằm yên, chàng nắm lấy tay vợ, nhìn thẳng vào mắt nàng như muốn nói điều gì quan trọng lắm. Thể Cúc cầm quạt, quạt mát cho chồng, khẽ hỏi:

- Có việc gì sao chàng chẳng nói cho thiếp nghe?

Đoàn Trưng mỉm cười, chàng lắc đầu. Rồi chợt chàng cầm chiếc quạt nan trong tay vợ, kéo nàng nằm xuống bên mình:

- Để anh quạt chọ Em đã vất vả cả ngày rồi. Mấy hôm nay mạ yếu mệt có làm khó cho em lắm không?

Thể Cúc cười sung sướng. "Không, mạ thương em nhiều lắm". Luồng gió từ tay chồng quạt mát cả tâm can nàng, nàng chìm dần vào giấc ngủ.

Nhưng đến gần sáng thức dậy, nàng thấy Đoàn Trưng đang ngồi quay mặt ra vườn, đăm đăm ngó ánh trăng tàn ngoài liếp cửa.

Thì ra suốt đêm, chàng không ngủ! Thấy chồng đăm chiêu, nàng không dám gọi, chỉ len lén bước tới sau lưng chàng. Vừa lúc đó như nghĩ đến một việc gì, chàng nghiến răng buột miệng nói lớn:

- Tàn bạo!

Chàng đập mạnh tay vào án thư bên cạnh làm cái nghiên mực nẩy lên, mấy tờ giấy bay xuống đất.

Thể Cúc sợ quá, nàng run rẩy, cúi xuống nhặt mấy tờ giấy. Trên những dòng chữ thảo đang được viết dở, nàng đọc thấy mấy chữ Trung nghĩa ca.

*

Đoàn mẫu gắt, giọng khàn khàn:

- Đã bảo đưa thằng cu vào đây cho bà!

Thể Cúc bảo:

- Không được đâu mẹ ạ! Nó mà vào nó lại phá không cho mẹ yên đâu! Mà con lại đang bận tay đây này...

- Nhưng nó khóc đòi, bà nóng ruột lắm!

Đoàn mẫu nằm sấp trên giường, áo kéo lên để lộ tấm lưng gầy với làn da khô héo lấm tấm đồi mồi. Thể Cúc ngồi cạnh, cầm bình nước nóng áp lên lưng mẹ chồng. Mấy hôm nay Đoàn mẫu lại bị chứng khớp từ vai xuống lưng đau nhức. Trong người ê ẩm nên bà sinh ra khó tính, gắt gỏng luôn. Thể Cúc thấy con khóc mếu ầm ĩ, vội quay ra bảo:

- Hồng! Bồng em ra vườn mau lên!

Con Hồng dỗ dành cu Ngáo, ôm thốc nó lên đưa đi, nhưng thằng bé không chịu, giãyđdành đạch, oằn mình kêu ầm lên. Thể Cúc vừa lăn bình nước nóng vừa bảo:

- Mặc nó, cứ đi đi, mau lên!

Không ngờ Đoàn mẫu quay lại, hất mạnh tay nàng ra, gắt:

- Ta đã bảo đem nó vào, sao các người chẳng đếm xỉa gì đến ta thế! Các người chẳng coi ta ra gì nữa sao?

Thể Cúc ôn tồn:

- Xin mẹ bớt nóng, mẹ đang yếu trong người, không thể để cháu vào quấy quả được

Đoàn mẫu càng giận:

- Phải rồi! Quyền ở cô! Cô là bà chúa, cô muốn làm gì thì làm!

Lời nói cay chua của mẹ chồng làm Thể Cúc khựng lại, nàng không ngờ lại bị đối xử bất công như thế. Tủi thân quá, nàng òa lên khóc.

Đoàn Tư Trực, em Đoàn Trưng, vừa đi đâu về, nghe thấy tiếng ồn ào liền chạy vào, can mẹ:

- Mẹ khó tính thế? Chị cả có lỗi gì đâu mà mẹ cũng bắt ne bắt nét.

Đoàn mẫu đang giận, thấy con nói ngang, cơn giận càng bốc lên như lửa. Người đang mệt, tinh thần bị tổn thương, thế là giây lát trợn mắt, chân tay run cầm cập, ngất đi.

Thể Cúc và Tư Trực sợ quá xúm vào lay gọi. Con Hồng cuống quýt chạy đi mời Đoàn Trưng về. Cả nhà ra sức xoa bóp chân tay, giật tóc mai. Mãi Đoàn mẫu mới hồi tỉnh dần. Tư Trực bảo:

- Mẹ bệnh, giận vui bất thường, hay là chị tạm lánh mặt một lát.

Thể Cúc gật đầu xuống bếp ngồi sắc thuốc. Nàng cũng xúc động quá, bưng mặt khóc tỉ tệ Thấy chồng bước xuống, Thể Cúc phân trần:

- Thiếp không có ý ngỗ ngược, mẹ trách oan cho thiếp.

- Làm cho mẹ chết đi sống lại mà gọi là oan sao? - Đoàn Trưng gằn giọng.

Thể Cúc không dám tin ở tai mình nữa. Sao có thể thế được? Người chồng hết mực thương yêu nàng sao giờ này lại hồ đồ và lạnh lùng với nàng như thế? Nàng nức nở:

- Tôi ở với chàng bao nhiêu năm nay, tôi ăn ở có phải đạo không lẽ nào chàng chẳng biết? Sao hôm nay lại nói ép cho tôi? Hay là chàng đã thay lòng đổi dạ không còn thương thiếp nữa?

Đoàn Trưng vẫn lạnh lùng không nói. Chàng đến bên giường Đoàn mẫu. Bà đã tỉnh lại, cơn đau khớp vẫn hành hạ bà, cộng thêm cảm giác bực bội sau cơn xô xát. Bà nói dấm dẳn:

- Thôi anh không phải lo cho tôi nữa. Tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa đâu!

Đoàn Trưng an ủi bà:

- Xin mẹ tha thứ, đừng giận con mà thêm mệt mỏi trong người. Vợ con có lỗi bất kính với mẹ, không thể dung được, ngày mai con xin đưa trả về phủ.

Đoàn mẫu tuy khó tính nhưng không phải là người ác tâm, bà chưng hửng nghe con trai nói. Nó nói thật hay là nói để cho bà vui lòng? Bà vội can:

- Thôi con, việc nhỏ trong nhà, sao đến nỗi phải làm to chuyện như thế?

Nhưng Đoàn Trưng đã quyết, chàng khăng khăng không đổi ý. Thể Cúc sững sờ... cả trời đất đảo lộn trước mắt nàng. Nàng quỵ xuống, ôm mặt hồi lâu mới nói được mấy tiếng nghẹn ngào:

- Chàng đã có ý ruồng bỏ, thiếp dù có gắng phân trần cũng chẳng ích gì, chỉ xin chàng cho thiếp đưa con theo về ngoại. Con còn nhỏ quá, để thiếp chăm lọ Đến bao giờ lớn lên thì quyền ở chàng!

Nước mắt nàng ràn rụa ướt má. Cuộc hôn nhân của một thiên kim tiểu thư ở kinh thành, ai ngờ lại kết thúc bẽ bàng như thế! Đoàn Tư Trực động lòng, đưa mắt nhìn anh.

Đoàn Trưng vẫn lạnh lùng không nói.

Mấy hôm sau Thể Cúc ngược thuyền về dinh.

*

Từ hôm về lại phủ, Thể Cúc như người mất hồn, cứ thờ thẫn hết ra lại vào chẳng thiết làm gì mà cũng chẳng muốn nói năng với ai. Đã lấy chồng là thể giá ở nhà chồng, người đàn bà bị chồng bỏ, đem trả về cho cha mẹ, chẳng những không còn mặt mũi nào nhìn ai, mà cả cha mẹ cũng tủi hổ lây... Giá mà cha mẹ nàng cũng hống hách như các nhà quyền thế khác thì họ Đoàn khó mà ăn yên, ở yên cho được! Nhưng Tùng Thiện Công là người phúc hậu, không bao giờ vì hiềm riêng mà sinh thù oán. Ngài chỉ âm thầm buồn! Người đời vẫn thường bảo: "Gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia". Hay là con gái mình cậy thế xuất thân phú quý, xúc phạm đến gia tộc bên chồng? Trong lòng ông thầm trách chàng rể gàn, có gì sao không dạy vợ mà đang tay ruồng rẫy như thế!

Tùng Thiện phu nhân thì tin chắc con mình không bao giờ là người không giữ đạo vợ, bà thầm trách chồng sao không có cặp mắt tinh đời, đem đứa con ngàn vàng gả cho thằng rể gàn dở nhẫn tâm! Tuy bà chẳng nói ra lời, nhưng Tùng Thiện Công vẫn cảm thấy sự trách cứ âm thầm của vợ, lòng ông vì thế cũng không nguôi. Giá cái đêm rằm tháng sáu ấy ông không bỗng dưng nghĩ đến việc chọn Đoàn Trưng làm rể, biết đâu duyên phận của Thể Cúc sẽ khác đi, yên ả hơn, an nhàn hơn!

Hôm nay cũng đêm rằm... Tùng Thiện Công trong lòng miên man buồn, ngài lững thững bước xuống hành lang rộng nối sang khu Bạch Bí. Một bóng ai gầy gầy ngồi dựa cột, lặng thinh nhìn trăng. Ngài nhìn lại: chính là Thể Cúc.

Nàng ngồi bó gối, tóc vẫn dài trùm lưng, trong tay cầm cuốn giấy đầy những chữ thảo. Tùng Thiện Công cầm lên, ánh trăng sáng đủ để ngài nhìn rõ. Ngài nhận ra nét chữ của Đoàn Trưng.

- Trung nghĩa ca - Ngài lẩm bẩm rồi giở tiếp vào trang trong. Tùng Thiện Công đọc một lúc, bụng bảo dạ:

- Chết chưa nó lại dám bình luận về việc của Hoàng thượng sao? Thể Cúc con không nên đưa cho ai đọc bài ca này. Để ta cầm về cất giữ cho con.

Thể Cúc không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn theo cha đang cầm cuốn giấy trở lên nhà, đôi mắt ảo não của nàng đầy vẻ tiếc nuối. Đó là những vần thơ của chồng nàng, khi chia tay nàng đã đem theo làm kỷ niệm. Dù chàng đã xử tệ, thì nàng cũng không thể quên con người chàng trong bao năm qua, con người mà nàng vừa yêu thương vừa kính nể.

Đêm ấy Tùng Thiện Công thắp nến, đọc lui, đọc tới bài cạ Đôi vai gánh đá xương mòn. Mông trôn roi đánh chẳng còn mảnh dạ Thì ra dân các vùng phụ cận kinh thành đang chịu cảnh khổ sở thế này đây! Vốn có lòng nhân hậu, Tùng Thiện Công suốt đêm không sao nhắm mắt.

"Nước nhà còn nghiêng ngửa, dân đói nghèo, thiên tai đeo đẳng, đã thế còn bày cảnh ức hiếp dân... Một khi dân không chịu nổi nữa, họ nổi lên thì liệu cả hoàng thất có yên được mà ngồi trên thiên hạ hay không? Mà sao ta khiếp nhược thế, không dám tâu lên Hoàng Thượng!".

Canh năm chưa rạng, Tùng Thiện Công đã trở dậy, gọi người hầu lấy nước súc miệng, rửa mặt. "Lấy cho ta chiếc áo chầu, ta muốn vào cung xin bệ kiến Hoàng Thượng".

Ngài vừa xỏ tay vào chiếc áo rộng mầu đỏ thêu rồng bốn móng thì chợt nghe tiếng huyên náo ồn ào, rồi Uyên Sồ xô cửa chạy vào. Nàng Uyên Sồ thường bước đi êm như ru, vậy mà giờ đây chân đi lính quýnh, mặt tái ngắt không còn giọt máu:

- Bẩm Tướng Công, nghe nói Đoàn Trưng nổi loạn, đêm qua đã kéo người vào cung xâm phạm Hoàng Thượng!

Tùng Thiện Công kêu lên một tiếng hãi hùng. Trời tối sầm trước mắt. Ông chỉ kêu được một tiếng rồi ngã quỵ. Uyên Sồ chạy đến đỡ, nhưng rồi nàng cũng khuỵu xuống cạnh ông...

*

Đoàn Trưng không phải người nhất thời manh động, chàng đã sắp đặt trước rất chu đáo về việc lật đổ vua Tự Đức để phò Đinh Đạo, con trai của An Phong Công Hồng Bảo lên ngôi (*) Thật ra việc tôn phò Đinh Đạo đã nhiều người nghĩ tới, họ vốn là thủ hạ của An Phong Công ngày trước; Tự Đức lên ngôi đồng nghĩa với phái An Phong Công thất thế, lòng họ tất nhiên không khỏi uất ức. Cái án xử giảo dành cho An Phong Công làm xúc động nhiều quan chức trong triều, vì vậy trước đây những ai có cảm tình với Hồng Bảo thì nay lại có thiện ý với Đinh Đạo - con trai Hồng Bảo, sau khi cha chết đã bị buộc đổi sang họ Đinh là họ mẹ. Đoàn Trưng xuất thân dân dã, không phải thủ hạ của Hồng Bảo, chưa từng chịu ơn ăn lộc của nhà ai, chàng và các anh em đồng chí của chàng tôn phò Đinh Đạo vì đó là cách duy nhất để gạt Tự Đức ra khỏi guồng máy quốc gia. Cũng như phần lớn kẻ sĩ trong nước, chàng đã thất vọng vì thái độ nhu nhơ, khiếp nhược của hoàng đế đương thời trước sự hàm dọa của giặc Pháp. Càng thất vọng hơn khi guồng máy dân chủ ngày càng quan liêu, dân chúng khổ cực trăm đường. Nói gì đến những nơi xa xôi, ngay làng Dương Xuân cách kinh thành chưa đến nửa ngày đường, dân phu ở Vạn Niên ngày ngày tắm mình trong máu và nước mắt mà ở kinh thành vua quan nào ai để mắt đến!

Chỉ có một cách: Thay đổi người cầm đầu đất nước. Mà muốn thực hiện điều đó thì phải dùng bạo lực.

Nghĩ thế nên từ khi giao kết với Tôn Thất Cúc, người trông coi cấm binh trong Hoàng Thành, Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Tư Trực thường xuyên đến gặp Nguyễn Tăng Hựu, Lê Văn Cơ, hai vị quan ở công trường Vạn Niên. Hai người này tuy làm quan nhưng thấy bọn Nguyễn Vân Chất, Nguyễn Văn Xa đày đọa dân phu quá tàn độc, họ rất căm phẫn! Cả hội cùng nhau chích máu ăn thề, quyết tâm làm việc lớn: Cứu nạn cho dân, mà cũng xoay chuyển luôn vận nước!

Nửa đêm mồng tám tháng tám năm Bính Dần, dưới sự chỉ huy của nhóm Đoàn Trưng, Đoàn Trực, toàn bộ dân phu đói khổ ở Vạn Niên Cơ nhất tề nổi dậy, bắt trói Thống Chế Xa rồi mỗi người cầm một cái chày giã vôi, chạy thẳng vào cung cấm, quyết hạ bệ Tự Đức, phò hoàng tôn lên ngôi. Đã bao ngày bị đè đầu cỡi cổ, nay đã vùng lên được họ reo mừng rầm trời, xông thẳng vào cửa Ngọ Môn, khí thế như vũ bão. Hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng, mở cửa Đại Cung Môn, nhờ vậy quân khởi nghĩa nhanh chóng kéo nhau đến điện Càn Thành.

Nghe tiếng hò la vang trời, Tự Đức trở dậy. Cung nữ, thái giám nhớn nhác chạy đến:

- Nguy lắm rồi xin bệ hạ tạm lánh ra phía sau cung rồi tìm đường thoát đi.

Tự Đức lật đật chạy vào sau nội tẩm. Người hầu đóng sập cửa Tả Sương lại, vừa đúng lúc quân nổi dậy ập vào:

- Hôn quân trốn rồi, bỏ chạy rồi!

Có tiếng ai đó nói lớn bên ngoài. Lại có tiếng một người khác:

- Quân ta vây chặt bốn phía y chạy đường nào cho được? Chắc chỉ tạm trốn sau tẩm cung mà thôi!

Đó là tiếng Đoàn Tư Trực đang chỉ huy quân khởi nghĩa.

Tiếp đó là tiếng reo hò, tiếng chân người rầm rập, rồi hai cánh cửa bị xô thật mạnh. Tự Đức vẫn lánh phía sau, chỉ cần cánh cửa bật ra là một vương triều thay chủ. May sao cho Tự Đức, một thị vệ liều thân đứng chắn, hai tay ra sức đè hai cánh cửa, cố cưỡng lại sức xô từ ngoài vào. Hai cánh cửa lúc xô vào, lúc bật ra. Người thị vệ đang chắn cửa vẫn cố hết sức chống đỡ. Bỗng trong một phút cánh cửa hé ra rồi bật vào, một tai của chàng trai bị kẹp vào giữa hai cánh cửa, máu ứa ra ròng ròng nhỏ giọt.

Nhà vua từ chỗ ẩn nấp nhìn ra trông chừng, thấy vậy hô vội mấy tên thái giám chạy ra giúp sức. Người thị vệ ấy thật dũng cảm, vành tai bị hai cánh cửa kẹp đứt lìa, máu tuôn ướt áo, vậy mà vẫn nghiến răng chịu đau đè chặt cửa không buông.

Mấy cung nữ còn lại quanh vua xanh xám cả mặt mày. Bên ngoài đảng nghịch thì đông, chúng cứ nhất định phá cửa thì làm sao số người ít ỏi bên trong chống lại cho nổi? Cái chết đã đến gần trong gang tấc.

Bỗng bên ngoài có tiếng huyên náo, có tiếng đao kiếm va chạm loảng xoảng, hơn nửa canh giờ chưa thôi. Rồi có tiếng ai đó quát lớn:

- Bên trong hãy mở cửa ra! Chúng tôi là lính Kim Ngô đến cứu giá, đã trừ xong đảng giặc!

Nhận được tín hiệu quen thuộc, chàng đội trưởng thị vệ buông tay, ngã lăn xuống đất ngất đi. Lúc này nhà vua mới nhận ra đó là Hồ Oai, Chưởng vệ đội quân Long Vũ trấn giữ Càn Thành.

Trong thời gian hai bên giằng co trong...
Phượng Các
#5 Posted : Wednesday, March 16, 2005 1:27:34 PM(UTC)
Phượng Các

Rank: Advanced Member

Groups: Administrators
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 18,432
Points: 19,233
Woman
Location: Golden State, USA

Was thanked: 646 time(s) in 606 post(s)
Khói Trên Sông Hương

Trần Thị Thùy Mai


"Bảy năm trước, trong cuốn băng video gia đình gửi qua, em là người nói nhiều nhất: Em mong một ngày nào đó anh sẽ về... Em quét dọn giường nằm của anh, để mạ nhìn vào đỡ nhớ anh". Vậy mà bây giờ anh về, hơn mười ngày rồi có thấy mặt em đâu?




Trang vừa lắng nghe Tung nói, vừa cố tình lơ đãng nhìn qua cửa sổ. Nắng chiều. Qua bến nước xưa, lá hoa về chiều... Một câu hát xa xưa đâu đó thoáng về trong tâm tưởng cộ "Em xin lỗi anh... Hồi đó em luôn nghĩ về anh và ân hận. Chính vì em mà anh ra đi".

- Thì bây giờ cũng không hề khác. Em biết, chính vì em mà anh trở về.

- Muộn quá rồi!

- Ít ra cũng phải gặp nhau để nói rằng đã muộn.

- Nhưng ban ngày thì anh đưa bé Xiu Xiu đi lăng. Đêm thì em đi ca Huế. Chẳng có đêm nào em được nghỉ.

Tung thoáng không bằng lòng:

- Anh tưởng chuyện gì, nếu chỉ vì tiền thù lao hai sô ca Huế,em nghỉ chơi, anh bù cho gấp mười.

Trang mỉm cười, không nói cô đã quen với cái giọng "yêng hùng" của cả mấy anh em Tung. Giọng nói của những người đàn ông luôn luôn muốn thể hiện mình. Hình như họ quan niệm tiền đối với đàn ông bây giờ cứng như sức mạnh cơ bắp đối với những chàng dũng sĩ ngày xưa. Có điều thật ra, các bắp thịt đâu đủ để làm nên chàng dũng sĩ.

Trước đây, Hoành, em Tung, cũng từng nói thế. "Anh không muốn em đi hát. Gia đình anh thừa đủ tiền để lo cho cuộc sống. Anh không quan tâm đến những gì xảy ra trước khi anh đến, nhưng không thể chấp nhận những nghi ngờ sau khi cưới". Trang lặng người. "Em chỉ hát, không làm hại ai cả". "Anh nói không là không. Thật ra khi mình cưới nhau, ba mẹ anh đã miễn cưỡng lắm mới chấp nhận cái nghiệp cầm ca của mạ em". Trang tái nhợt mặt mày. "Mạ tôi có gì đáng cho thiên hạ ruồng rẫy". Hoành không nói, đá mạnh một cái. Chiếc kệ gỗ mun đổ sập. Trang bỏ đi ra hiên. Đến ngưỡng cửa, con chích chòe nhốt trong lồng chợt hót vang... Trang mở cửa lồng thả con chim ra, nó bay chập chững sợ hãi. Trong phòng, bé Rôđa đang khóc...

Năm đó, Rôđa lên bốn. Hoành đặt tên con trong lúc đang mê các mốt xe máy đương thời. Đúng là số phận con bé ra đời để đánh dấu hạnh phúc ngắn ngủi của hai người, ngắn ngủi như thời kỳ chạy Rôđa của một chiếc xe.

Trang đổi tên con khi dọn về nhà ngoại. Bây giờ là bé Tỳ Bà. Trang nuôi con một mình trong căn nhà nhỏ, khu vườn rộng, nằm khuất nẻo trong một góc sau đình làng Lại Thế. Mít và đào trải rộng những tán lá xanh. Trước nhà là chiếc bình phong chè tàu. Cây song thọ đào mùa xuân nở hoa lấm tấm hồng trên những cành gầy guộc.

Giờ đây, Tung đã về. Anh đang ngồi trước mặt Trang trong lúc cô nhìn lảng ra hiên, mắt dừng trên những cành đào đã hết hoa.

"Lâu nay mẹ con em sống ra sao?" - Tung hỏi. Trang cười: "Anh thấy đấy, vẫn như xưa... Dù cho nhà rách, nợ đòi, phong lưu vẫn cứ giữ nòi phong lưu". Tung gật đầu. Trên vách, những cây đàn tỳ bà, đàn nguyệt vẫn nằm đó, y như ngày xưa. Giữa bộ phản đã cũ, mầu gỗ đen bóng, một bộ xâm hường đặt trong cái tô sứ vẽ hình bông cúc. Cách đây mười năm, Tung và Hoành cùng nhau đến đây. Mùa xuân hồi đó hình như nhiều hoa đào hơn, còn mùa thu thì tơ trời cứ bay bay có lúc sà xuống vắt trên những ngọn cây trong vườn. Hai anh em ngồi nghe đàn hoặc đổ xâm hường với mẹ con Trang trên chiếc chõng tre trước hiên. Một cô gái và hai chàng trai, giống như trong truyện cổ tích. Nhưng khác với truyện cổ, Trang đã chọn người em. Hoành có vóc người gầy, tóc tai biếng chải, một dáng vẻ thư sinh lơ đãng, dễ gợi nên trong lòng người phụ nữ cảm giác thương thương muốn chở chẹ Mãi sau, khi đã làm vợ Hoành, Trang mới biết người luôn cần che chở nhưng không bao giờ được chính là mình.

- Đêm đầu tiên về làm dâu, khi em đi đến phòng hoa chúc, mạ đi theo em, sát sau lưng đến nỗi em nghe thấy tiếng thở. Em tự nghĩ bổn phận em là con dâu phải nhường mạ đi trước, nhưng không dám dừng lại, không dám quay lui. Về sau em mới biết: Mạ đạp lên bóng em, để sau này em không ngẩng đầu lên, không thể cứng đầu cứng cổ được...

Tung phì cười: "Em chấp làm gì trò mê tín của bà già. Em thấy đấy, cuối cùng thì em cũng đã ngóc dậy, có ai giữ nổi đâu?".

- Anh biết không, đã có những ngày em cảm thấy căm giận anh. Anh biết em đã chọn sai mà không làm gì để giữ em lại.

- Vì anh biết không ai giữ nổi em. Và cũng vì anh hơi kiêu ngạo nữa. Anh biết rồi thời gian qua và tin rằng chính em sẽ nhận ra. Anh bất chấp thời gian.

- Anh nói ngông đúng giọng Huế anh ạ. Thực ra, trong mười năm anh đã có vợ và Xiu Xiu, trước khi trở lại làm người tự do.

- Anh là một người đàn ông, anh không thể đắp chiếu nằm chờ đến lúc định mệnh xoay đúng một vòng rồi trở lại.

Trang lắc đầu, không nói. Một người đàn ông, nghĩa là luôn tìm được cách để giải thích. Và luôn dễ dàng lầm lẫn lòng háo thắng với tình yêu.

*

Mười một giờ đêm. Sô hát thứ hai đã dứt, thuyền đang nhẹ nhàng áp sát bờ, để lại giữa dòng những chiếc đèn hoa đủ mầu chấp chới như những bàn tay vẫy gọi.

Bài Tương tư khúc đang đến câu cuối, mấy tiếng đàn tranh còn âm âm trong tiếng nước sông rào rạt vỗ mạn thuyền. Nghe tiếng mũi thuyền chạm nhẹ vào bến, ông kỹ sư bụng phệ, bạn của Tung, kêu lên: "Trời ơi! Phải về rồi à? Không, không, có trời chứng giám, tôi cứ ở đây". Rồi ông ngâm nga bằng cái giọng đầy mùi rượu: "Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa... ". Trang đặt đàn xuống khỏi hai vế đã phải ngồi xếp quá lâu dưới vạt áo lụa. "Khuya rồi, chúng em xin từ biệt". Tung nãy giờ ngồi im lặng, không cười đùa, không nói năng, vụt đứng dậy đi ra mũi thuyền, giật phắt cây sào, đẩy thuyền ra khỏi bến. Con đò trùng triền rồi cũng quay ra. Cả nhóm đàn ông trong thuyền reo hò: "Hoan hô, tưởng ông cho bọn này lật úp luôn". "Chìm cả vào sông Hương lúc này, với rượu, trăng, tiếng hát và những người đẹp, kể ra cũng sướng". Ông kỹ sư lại gào lên, đầy vẻ phấn chấn.

Bên cạnh Trang, Lài Hoa lục xách lấy mảnh gương con soi lại, tô một chút son nâu lên môi. Trời đêm heo hắt lạnh: "Trang ơi, cái ông kỹ sư này cứ chen chen vô ngồi bên tau. Lúc nãy, tau phải nói nhỏ: "Thưa anh coi bằng mắt chớ bắt bằng tay", vậy mà ổng cứ lì. Cái ông Việt kiều quen với mi coi bộ vừa ngầu vừa sộp. Nếu có một thằng cha như rứa ngồi bên, tau nhất định sẽ nuốt lốn hắn". "Đừng, nuốt vô sẽ bội thực đó". Hai chị em khúc khích. Bây giờ tiếng đàn, tiếng hát đã lặng, tiếng cụng ly, tiếng cười ran trên sông. Một con đò nhỏ áp sát thuyền đưa lên một lô bánh nậm, bánh bèo còn nóng hổi. Con thuyền bây giờ không ai chèo, mặc tình theo con nước bập bềnh trôi về phía cầu Bạch Hổ. Trang bước ra mũi thuyền, thấy Tung đang nhìn đăm đắm xuống nước. Trên mặt sông, những chiếc đèn hoa, sóng lăn tăn và khói.

- Em thấy không, trời lạnh. Thế mà sông nổi sóng và khói làm anh có cảm giác như thể nước sắp sôi.

- Anh lúc nào cũng thường có những ý nghĩ lạ đời, từ xưa vẫn thế.

Tung quay lại: "Em cứ hoài lẩn tránh anh, nhưng đêm nay, anh gặp lại em rồi" - Chàng cười, xưa nay vẫn thế, tiếng cười nghe như tiếng gằn giọng - "Khách hàng là thượng đế, cho nên mới giữ được em ở đây, giờ này, trên sông này".

- Và chỉ có thế thôi - Trang lạnh lẽo đáp.

Con thuyền trôi êm ru trong sương. Mười năm trước, Tung ít nói, lầm lì, đi đâu cũng đứng một mình, tay đút túi. Bây giờ, sau mười năm giang hồ, anh nói cười, cụng ly, đùa tếu cởi mở mỗi khi giữa đám đông. Lúc còn lại một mình, anh lại như cũ. Bây giờ anh đang nói với Trang, mà như đang nói với chính mình: mắt anh nhìn lên bờ sông, nơi có những lùm cây im lìm, có mái đình Phu Văn Lâu đang ngủ yên dưới trăng. "Hồi đó, một lần đi học về ngang qua đây, một sợi tơ trời thật dài sa xuống. Anh đưa tay nắm lấy một vốc, giữ chặt trong bàn tay và cứ thế đạp xe về định tặng cho em, nhưng khi mở tay ra thì chẳng có gì bên trong cả! Hoàn toàn không! Anh đứng trước ngõ nhà em, sững sờ! Bây giờ, ở Huế, còn có tơ trời sa xuống không?".

Trang lắc đầu. "Lâu lắm, em không còn thấy nữa. Cả những dây tơ hồng thường vấn vít trên ngọn chè tàu, cả những bình bát trong vườn, không hiểu chúng đã đi đâu?".

Tung bật cười: "Cùng với El Nino, sẽ còn vô khối thứ đi vào dĩ vãng nữa. Chỉ xin trả lại cho anh một sợi tơ trời. Anh sẽ buộc em lại bằng một sợi hư không, chỉ sợ em sẽ tan biến dù đã nằm ở trong tay".

Trang lặng lẽ. Một giọt nước mắt thập thò trên mị Tung cúi xuống mặt nước, vớt lấy một ngọn đèn hoa mầu hồng ướt sũng. Lúc anh cúi xuống, vai anh chạm phớt vào má Trang. Một cảm giác tràn trề như sóng.

Chợt trong khoang thuyền ai nói gì đấy, tiếng cười, tiếng đùa giỡn lại ran lên. Ông kỹ sư đang lè nhè: "Lài Hoa ơi, cứ vui đi, sao mặt em đẹp vậy mà cứ rầu rầu làm vậy?". "Khuya quá rồi anh ơi, chồng em đang đợi trên bến đón em về". "Chuyện vặt. Cứ vui đi, cứ nhớ đến chồng không ai cấm, đem về cho anh ấy vài ba lon bia là được rồi. Còn bây giờ thì... ". Tiếng Lài Hoa cười như ré lên. Tung đứng thẳng dậy quay đầu nhìn vào khoang. Một lúc, anh cười nửa miệng:

- Người ta bảo sông Hương có thủy quái. Thật ra, sông Hương có thủy quái không?

Trang quay phắt lại. Con thuyền chợt từ mộng đi vào cõi thực. Cô nhìn sững vào Tung. Những giọt trăng trong mắt cô bốc cháy:

- Mọi dòng sông đều có thủy quái và có thần tiên.

Tung biết mình lỡ lời. Anh đã chạm vào sự kiêu hãnh vốn là cố tật của nàng. Những giọt trăng nóng hổi, ứa ra trong mắt, vỡ tan.

*

Bé Tỳ Bà ôm đàn, mắt ríu lại, bắt đầu ngủ gật. Trang dẫn con đi ngủ rồi ra sân ngồi lại dưới gốc đào. Gõ nhẹ nhịp phách, gượng nhẹ tiếng hát: Duyên thắm duyên càng đượm, vì giống đa tình, thêm nhiều ngày, mặn nồng càng xinh... Bà Minh từ trong nhà bước ra hiên, đứng nhìn con. "Mạ không ngủ?". "Trăng sáng quá, mạ ưng thức thêm một chút. Ngày xưa, gặp lúc rằm... ". Bà bắt đầu, "Ngày xưa". Cái điệp khúc vô tận của một người đàn bà đẹp và tài hoa nay đã héo tàn. "Trong lòng con không vui phải không? Mạ nghe giọng con ca cứ não nề. Ngày xưa khi thầy của mẹ dạy bài Cổ Bản này, nhất thiết không cho rời rã giọng hát, kéo nhão những chỗ luyến láy. Đây là bài ca hơi Bắc, giọng phải rõ, tươi, đằm thắm. Tiếng ca là tiếng trong tâm mình, lòng con không vui sao có thể gượng vuỉ!". Trang lặng thầm nắm bàn tay gầy guộc trắng xanh của mẹ. Ngày còn trẻ, mẹ thường hát những bài hơi Nam, âm hưởng Chiêm Thành xót xạ Cánh chim hồng nhạn bay ngang núi Bình San... Cả đời mẹ cứ nhìn bao nhiêu cánh chim bay qua, bay quạ Sao mẹ không bay theo một cánh chim ngang tàng nào đó?". "Vì chẳng có cái tổ nào vừa cho mạ. Cuối cùng mạ nhận ra mình chỉ gắn bó với một điều: những bài cạ Mạ học ca khi mười ba tuổi. Nhà thầy ở cách nhà ông nội đến hai cây số. Biết mạ lén ông đi học nên thầy sợ mang tiếng, đuổi đi không dạy. Mạ quyết năn nỉ học cho được, lại có giọng tốt khác thường, thầy tiếc tài đành phải dạy. Nhiều lần đi bộ xa đau chân, chểnh mảng, hát sai thầy quất cho một roi mây đau trối chết. Thầy không vợ, không con, ông ngoại nghi ngờ con gái bị bỏ bùa. Ông không biết thầy là cha thứ hai của mạ: mê đàn, mê hát, nói thực lòng có lúc mạ mê cả thầy, nhưng nghĩa thầy trò trọng như cha con, không thể loạn luân. Về sau ông ngoại bắt mạ gả đi xạ Mạ trốn khỏi nhà chồng, từ đó không quay về nhà, cũng không gặp thầy nữa. Nhưng mạ không bỏ những bài ca, những bài ca nhận được từ cả tình yêu lẫn roi vọt".

Bây giờ, Trang học với mạ, không bị quất roi, nhưng mạ rất khó tính. Nghệ thuật cũng như tình yêu, phải khó khăn, không chấp nhận sự dễ dãi. Lài Hoa có lần bảo Trang: "Bây giờ người sành đâu có mấy, khách du lịch họ chỉ tới nghe cho biết của lạ xứ Huế ra sao. Tau chỉ cần thuộc hai bài, ca lui ca tới là đủ. Mỗi người khách chỉ đến một lần, dù mình có học tới ngàn bài, họ có biết mô tê gì đâu? Cứ vẽ mắt cho ướt, thoa son cho ấn tượng, nâng ngực cho căng, rồi khăn vành áo thụng vào là xong tuốt!". Mạ dạy Trang hát không thế. "Ca Huế là phải tươi tắn mà chững chạc, trang nhã mà nồng nàn. Đa tình mà không đa dâm... Nếu không được vậy, không mở miệng cất lời". Bên tai Trang vang lên tiếng cười rúc rúc của Lài Hoa: "Sư tỉ ơi, sư tỉ giảng đạo xong chưa? Ông Việt kiều của sư tỉ có biết gì đến những giáo điều cao siêu đó không, hay chỉ là đi dạo chợ mua người? Này người đời ít cơ hội lắm, gặp dịp thì nắm lấy đi, sợ chi mà thụt tới thụt lui... ". Trang bất giác thở dài.

Bà Minh vỗ về lưng con: "Thằng Tung nói chi với con? Năm sáu đêm rồi, đêm mô hắn cũng xuống thuyền".

- Mạ nhớ câu thơ ngày xưa thường ngâm không? Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ. Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa.

- Biết vậy, nhưng lẽ nào thuyền đi hoài không dừng lại?

Sông trôi về biển, là sông mất. Nhưng sông không chảy thì còn gì là sông? Trang bất giác rùng mình.

- Mạ Ơi, hôm qua bà nội Rôđa lại tới đây phải không?

- Ừ.

- Nói chi, mạ?

- Cũng như mấy lần trước.

Trang nhớ tới đêm động phòng năm xưa với những bước chân đạp trên bóng mình. Năm tháng qua, bà đã già đi nhiều nhưng cái miệng vẫn đanh nét khắc nghiệt. "Chị Trang, tôi đã vất vả lắm mới giành lại được thằng Hoành từ tay chị, nay thằng Tung là anh chồng của chị, chị cặp với ai thì cặp, chị chừa nó ra cho tôi". Trang nghẹn lời. Ngoài kia cửa sổ, trời xanh ngắt, một con diều màu tím biếc đang bay, hai dải đuôi mềm mại uốn lượn trong không gian. Trang thèm được bay lên theo cánh diều. Bà ơi! Chính con cũng đã vất vả lắm mới tháo mình ra khỏi thế giới của bà, cái thế giới trong căn nhà vững chãi có mái hiên xây vòm cuốn, những sập gụ tràng kỷ hoa hòe, những tên tây ta lẫn lộn, những lời xầm xì bóng gió xoi móc. Thế giới nhỏ mọn trong đó sự keo bẩn trộn lẫn với phô trương, óc hãnh tiến pha với chất kiêu căng quý tộc nửa mùa. Bà yên tâm đi, con chỉ muốn làm cánh diều bay tự do ngoài kia!

*

Taxi dừng và đứng đợi. Tung đi vào. Trang lúng túng gạt những thỏi son vào hộp trang điểm. Cô đang chuẩn bị cho sô diễn buổi tối. Tung nhìn đồng hồ: mới ba giờ chiều.

"Em chuẩn bị sớm thế sao?"

Trang gật đầu. "Nói dối, em luôn luôn nói dối. Anh không tin một người như em lại coi trọng tiền thù lao đêm hát đến nỗi không dành được cho anh vài giờ trước khi anh đi".

Trang ngẩng lên. Tung đang ở rất gần. Mặt anh sát mặt cô: đôi mắt sâu, có ánh lửa. Cái mũi thô và những sợi ria mép cứng cỏi. Rất gần. Một người đàn ông và những hứa hẹn yêu thương. Gần gũi quá. Như bóng của hạnh phúc. Mắt Trang ẩm ướt, cô nói trong im lặng: Anh lầm. Em không dối anh, em đang tìm cách dối em. Chỉ vì em không vượt nổi một ám ảnh: hình như em sinh ra không phải để hưởng hạnh phúc.

- Anh đi, em không tiễn anh được, cũng chẳng có quà gì cho anh.

- Nếu em đã áy náy thế thì nằm vào cái vali này, anh xách đi luôn.

Tung đùa. "Cái vali của anh bây giờ trống không, tụi em út và mẹ anh đã moi sạch đến cả quần áo. Bây giờ cả nhà đang cùng với Xiu Xiu đứng ở phi trường để tiễn đưa". Tung vừa nói vừa cười, còn Trang thì chới với đưa mắt nhìn một cánh diều nào đó.

"Để rồi xem, em còn kiêu ngạo với anh được bao lâu?". Tung đột ngột nâng cằm Trang lên, nhìn vào mắt cộ "Một ngày kia, em sẽ biết rằng anh cũng kiêu ngạo chẳng thua gì em đâu. Hãy đợi đấy!".

Trang bướng bỉnh:

- Anh sẽ chẳng có đủ kiên trì để bắt em đợi.

- Có, anh có - Tung gằn giọng. Rồi anh quay đi, dứt khoát, không ngoái lại.

Trang vào nhà. Ngả mình xuống giường, hiện nguyên hình: một người đàn bà cô đơn, tủi thân, nức nở òa khóc. Bà Minh bước vào, ngồi bên con. "Con khóc là thương người tạ Đã thương thì phải nhất quyết, bất chấp, liều mạng nữa, mới thành". Trang ôm mạ. Mạ Ơi con rất muốn. Con không sợ đạp bóng lần nữa. Nhưng sao con không thể tin chắc vào bất cứ điều gì, trừ những bài ca.

Trang ơi! Mi sẽ chẳng là gì cả, nếu tách rời dòng sông và tiếng hát.

Đêm xuống, con đò từ từ ra giữa dòng. Tiếng đàn, tiếng sênh phách rộn rã trong khoang. Một câu hò ngân nga chầm chậm, đủng đỉnh lan dài trong đêm sương. Hơ... Ơ... Giữa sông Hương dậy sóng khuynh thành. Nửa đêm một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng... Trang lẳng lặng ra đầu thuyền nhìn sông nước. Tiếng Lài Hoa đỏng đảnh: "Trang ơi! Không đàn, không hát, không ngửa nghiêng, tối nay chị xuống thuyền mà làm gì?".

Trang không trả lời. Trăng và sông không trả lời. Cầm lấy một chiếc đèn, Trang thắp lên rồi thả nhẹ. Gió đang thổi, ngọn lửa lan vào cánh hoa, cháy tận tình trước khi tiêu tan trong gió và nước, để lại những ánh tàn rực rỡ. Cháy tới cùng.

Tung đi rồi, bây giờ tôi âm thầm cháy một mình.

Anh hãy đi.

Số phận tôi là ở đây, để giữ lấy dĩ vãng.

Trời lạnh, nước lạnh, khói bay nhòa trên sông. Trang cúi nhìn đăm đăm, bỗng nhớ lời Tung nói: lạnh thế mà sao mặt nước lại đầy khói.

Chắc hẳn phải có cái gì đấy nóng bỏng dưới lòng sông.
Pearl
#6 Posted : Thursday, August 18, 2005 1:15:50 PM(UTC)
Pearl

Rank: Newbie

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 37
Points: 0

NHÀ VĂN XỨ HUẾ TRẦN THÙY MAI
“Quỷ trong trăng” & “Thập tự hoa“
13:38' 07/08/2004 (GMT+7)



Đến nay nhà văn Trần Thùy Mai ra mắt bạn đọc 6 tập truyện ngắn. Văn của chị để lại dấu ấn trong lòng người đọc một cách thật tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc, giàu cảm xúc. Năm 2002 tập truyện: “Quỷ trong trăng“ của chị đã đoạt giải B của Hội nhà văn Việt Nam (không có giải A). Năm 2003 vừa qua tập truyện “Thập tự hoa” của chị đoạt tiếp giải B của Ủy ban Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.



Tôi đã đọc truyện của Trần Thùy Mai từ cách đây phải đến hơn hai mươi năm. Truyện của chị - một thiếu nữ Huế - luôn lãng mạn, tinh tế, nhẹ nhàng. Đến năm 2003 vừa qua tôi lại cầm trên tay tập truyện ngắn: “Quỷ trong trăng” của Thùy Mai. Phải đến khuya tôi mới đọc truyện của chị với ý nghĩ ru giấc ngủ. Ai dè 10 truyện ngắn của chị lôi kéo tôi một mạch đến sáng. Và tôi thấy nước mắt mình đã rơi theo số phận của các nhân vật . Truyện nào cũng hay. Đặc biệt là các truyện “Thương nhớ hoàng lan“ và “Trăng nơi đáy giếng” để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Truyện “Thương nhớ hoàng lan” nói về chuyện tình duyên của hai con người tu hành. Mỗi người chọn cho mình một con đường. Một người lấy vợ vì muốn cứu vớt một sinh linh. Một người quyết chí giữ mình để đọc kinh Thủy sám cho mẹ. “Trăng nơi đáy giếng” kể về câu chuyện vợ chồng của một nhà giáo. Sự lừa đảo tinh vi của người chồng cùng với vài bộ mặt quen biết đã làm sụp đổ niềm tin trong lòng một người đàn bà chất phác, nhân hậu yêu chồng hết sức mình. Mười truyện ngắn là mười câu chuyện đời khác nhau được ngòi bút Trần Thuỳ Mai mổ xẻ phân tích một cách chí lý, sâu sắc làm người đọc thấm thía đến tận đáy lòng.



Đến năm 2004 Trần Thùy Mai lại ra mắt bạn đọc tập truyện: “Thập tự hoa”. Mười lăm truyện ngắn là 15 câu chuyện tình, chuyện đời – là chủ đề quen thuộc của Trần Thùy Mai. Đến tập truyện này càng thấy rõ sự chín chắn , già dặn, bản lĩnh trong nghệ thuật viết truyện ngắn của tác giả. Cũng viết về chuyện tình nhưng mỗi truyện của chị là một “món ăn lạ”, tạo được sự hấp dẫn hứng thú cho người đọc. “Chuyện ở phố hoa xoan” là truyện ngắn hay kể về một con bé Vi “ngây”. Thèm ăn ốc đến mức sẵn sàng vạch ngực cho người khác xem. Nhưng bi kịch chỉ đến với Vi khi Vi mất đi sự “ngây” để trở lại tỉnh táo như người thường. Truyện “Thể Cúc” lại viết về mối tình bi thương của một thiếu nữ khuê các, con cháu hoàng tộc kết duyên với người anh hùng nông dân Đoàn Trưng xuất thân từ làng Chuồn ngoại thành Huế. Truyện “Chăn Tha” viết về mối tình của một thiếu nữ có một số phận đau thương của đất nước Campuchia trong chiến tranh với một anh lính tình nguyện Việt Nam. Tình yêu và lòng thù hận giằng xé dữ dội trong lòng người thiếu nữ vốn có trái tim nhân hậu, thuần phác. Trần Thùy Mai đã thể hiện rất rõ bản lĩnh của mình khi dẫn dắt người đọc theo mạch chuyện, mạch cảm xúc đến tận cùng ý tưởng của câu chuyện. Kết thúc truyện người đọc luôn cảm nhận một cách thấm thía chất triết lý cuộc sống rút ra từ câu chuyện.

Sự từng trải, tính lãng mạn, chất nhân văn luôn thấm đẫm trên từng trang viết của Trần Thùy Mai. Đó chính là những yếu tố tạo nên tính hấp dẫn trong truyện của tác giả.

Diệu Hiền


nguồn: http://nguoivienxu.vietn...butviet/2004/08/224209/

Users browsing this topic
Guest (3)
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.