Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

NHỚ THƯƠNG IN VẾT
Sonk
#1 Posted : Monday, February 25, 2013 7:07:05 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
CÂY ME
*

Tuổi đời chồng chất theo thời gian với bước chân in dấu khắp cùng đây đó,tuổi đời càng đè nặng tôi càng cảm thấy thấm thía về một bài viết trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư, quyển sách mà ngày còn thơ bé tôi vẫn rất thường đọc dù không phải là sách giáo khoa đang học tại trường, bài “ Không Đâu Đẹp Bằng Quê Hương, …một người đi xa trở về…dù cho người đã chu du khắp đông tây nam bắc, dù cho mắt đã nhìn thấy bao cảnh đẹp mà bước chân từng đi qua thế mà… vẫn không có nơi đâu đẹp bằng quê hương…
Ngày đầu tiên rời khỏi đất nước trên chuyến bay Việt Nam cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất đến phi trường Thái Lan, trong chuyến ra đi trong chương trình tỵ nan H.O, trong lúc ngồi chờ chuyến bay chuyển tiếp trên 30 người Việt thuộc gia đình quân công của chế độ Cộng Hòa ngồi trong nhà chờ đợi, một ngôi nhà tiền chế trống vách, chung quanh là đất trống cỏ dại mọc um tùm, rải rác có một vài cây trứng cá…gợi cho.tôi nhớ tới thời tôi còn học trung học, khoảng thời gian đầu thập niên 60, ở Gò Công nhà nào có sân đất thì hầu như đều có trồng cây trứng cá. Trời chiều dần, những tia nắng yếu ớt buổi hoàng hôn, tạo thành một màu sắc riêng biệt của buổi cuối ngày, muổi đen khá nhiều cắn chích lung tung, tôi ngồi bên cạnh vợ con mà lòng vẩn vơ trăm chuyện, cảnh hoàng hôn ở đây sao nó giống ở quê mình quá, kỳ hôn, cùng ở vùng Đông Nam Á thì chắc là địa dư và thổ nhưởng, khí hậu… đều có phần giống nhau…thì hoàng hôn ở Miên hay ở Việt Nam cũng đều giống nhau thôi.
Khi đến thành phố Houston thuộc bang Texas, lạ người, lạ cảnh, dù khi tôi vào đời với 7 năm lính, tôi ở đơn vị CTCT, lực lượng tổng trừ bị, phải rày đây mai đó, luôn xa gia đình, rồi ngày trời sập, phải vào tù gở hơn 8 cuốn lịch, vậy mà sang tới đây, lạ người lạ cảnh tôi thấy lòng tôi ray rứt nhớ nhung, hình ảnh mẹ, chị anh, rồi bằng hữu, con đường, ngôi trường, ngôi chợ…những hình ảnh thân thương đầy kỷ niệm đó luôn lởn vởn trong trí tôi…tôi nhớ tới cây me, loại cây mà ở đây tôi tìm hoài không thấy…Với tôi cây me rất gần gủi, thận thích, cây me với tôi có nhiều gắn bó trong đời sống thường ngày, nhất là thuở tuổi tôi còn thơ bé…
Ở Gò Công, khu nhà tôi ở thuộc xóm Cầu Huyện, đường xuống Cầu Huyện cặp theo bờ kinh, tới ngả tư cầu Tây Ban Nha, quẹo phải ra Ao Trường Đua là Xóm Me, thời còn Tây, tỉnh Gò Công trong buổi bình minh còn hoang dã, có cả cọp trên khô và sấu dưới nước…Tây cho đào Ao Trường Đua ( Khoảng năm ký hòa ước Giáp Thân 1884 . Lúc tôi được thả về thì khoảng năm 1984, Gò Công có nhận được giấy báo của hảng thầu Effel bên Pháp, cho biết là dinh tỉnh trưởng và một vài công thự khác đã xây dựng cho đến nay đúng 100 năm. Hảng sẽ không còn chịu trách nhiệm gì về các công trình nầy nữa, mà Ao Trường Đua được đào để lấy đất đấp nền các công thự nầy)., trước lấy nước cho dân dùng, sau lấy đất đấp nền xây dinh tỉnh trưởng và nhiều công thự khác, trước tiên sở Trường Tiền( sau nầy là Ty Công Chánh) cho đấp một con lộ thẳng góc với ao hướng ra nhà thờ để làm con lộ vận chuyển đất, hai bên lề đường trồng me… Có lộ thì có nhà… mới đầu cư dân thưa thớt, một bên là ruộng, một bên le hoe mấy nhà gần ngả ba Ao Trường Đua, và xóm nầy được gọi tên là Xóm Me.Khi tôi có chút hiểu biết thì con đường Xóm Me( Đường Phan Châu Trinh) chỉ còn sót lại 1 vài cây, đặc biệt ngay ngả ba( sau nầy là ngả tư) trong khuôn viên nhà ông Hương Thân Bính có một gốc me mà thân me hai người lớn ôm không giáp, Với tôi cây me lúc nào cũng có một dáng dấp bình thản mà vững vàng, tàn lá rậm ri, cây cho bóng mát ngã bên lề đường… Dân buôn bán, học trò đi học thường tụ dưới bóng mát cây me nầy để chơi đánh đáo hay bắn kè, người buôn gánh bán bưng thì nghỉ chân chốc lát,chú lục lộ chăm sóc đường cũng thường núp nắng nơi đây để hút thuốc. Nhà tôi cạnh bên nên cũng thường ra đây nhìn lứa tuổi trang bạn đánh đáo, bắn bi, ba mẹ tôi thường ngăn cấm không cho ra đường, nhất là dưới những tàn cây cao bóng mát vào buổi trưa… “ Sẽ dễ bị ông bà “quở” mà sinh bệnh. Cây me nầy cũng mang nhiều huyền thoại về ma cỏ, Thuở thập niên 50 trên dọc hai bờ kinh, có cất mấy cầu tiêu sông,một cái trước nhà Ông Huyện Đờn, một cái bên kia sông, bên hông nhà ông Đốc Phủ Tường, người đi cầu ban đêm thường thấy có hai bóng trắng leo lên leo xuống cây me… Thời đệ nhất Cộng Hòa, Gò Công thật sự thanh bình, trước phòng thông tin, tuần nào cũng có cất rạp trình diễn văn nghệ do ban nhạc thuộc tiểu đoàn 518 đãm trách… Khuya tan hát dân Cầu Huyện rũ nhau đi về từng tốp, ít dám đi lẻ tẻ vì sợ ma cây me… Rất thường khi nằm ngủ trong nhà, tôi nghe rất rõ tiếng ù té chạy của những người sợ ma…
Ngoài Xóm Me, con đường liên tỉnh Gò Công Mỹ Tho còn có một địa danh, mà vào đầu thập niên 60, người dân trên những chuyến xe đò liên tỉnh nghe nhắc tới không khỏi phập phồng, lo sợ đó là Cây Me Treo Cổ thuộc xã An Thạnh Thủy, Quận Chợ Gạo. Lúc đó” Cách Mạng “ chưa về nên bọn Việt Cộng lộng hành, thường xuyên rình rập chận xe đò, bắt quân nhân công chức dẫn đi, có người được thả có người mất tích luôn nên dân chúng rất e ngại khi xe di chuyển ngang qua đây, vào tang tảng sáng hay lúc hoàng hôn… cho tới Đệ nhị Công Hòa, Sư Đoàn 7 mới bình định được khu vực nầy.
Tôi nhắc sơ về một vài địa danh có cây me nơi quê tôi, Ngày lên Sài Gòn tiếp tục đi học tôi rất thích một vài con đường có bóng mát cây me, con đường Đồn Đất, gần trung tâm Văn Hóa Pháp, vào những ngày đầu mùa mưa, Sài Gòn thường có những cơn giông bất chợt, me lả ngọn rơi rụng lá vàng, những chiếc lá nhỏ xíu bay bay trên áo, trên vành nón nghiêng che của các nữ sinh duyên dáng, tan trường từ Trung tâm Văn Hóa Pháp, trên con đường Gia Long, với bóng mát hàng me thật dễ thương, Cũng thời “ Cách Mạng” chưa về, Việt Cộng, cái quân khủng bố chuyên nghiệp, thường bắn hỏa tiển 122 ly bừa bãi vào thành phố, gây biết bao thảm cảnh cho dân lành, buổi sáng tôi thường đạp xe đi xem , tôi còn nhớ, một cây me trên đường Gia Long bị bứng luôn gốc ngã nằm dài trên đường..
Cây me rất hữu ích cho đời sống con người, từ thân me, lá me trái me đều có công dụng riêng… Người Gò Công thường thích ăn món canh chua, để nấu được nồi canh chua dĩ nhiên phải có trái me hoặc lá me, chất liệu làm ra vị chua, canh chua là món ăn của người dân dã, ăn cơm cũng dễ nuốt mà nhậu cũng rất bắt mồi, buổi chiều trời bảng lảng hoàng hôn, trải đệm dưới gốc me, bốn đệ tử Lưu linh vốn là con của Ngọc Hoàng, ngồi trên đệm quây quần bên chiếc mâm nhôm, một chai ba xị đựng đầy rượu đế, một tô canh chua lá me nấu với cá chốt, một cái nhạo với một cái ly nhỏ, loại mười một ly đong đầy một xị rượu, một dỉa nước mắm trong dầm ớt hiễm, vậy mà khề khà chuyện nọ chuyện kia, trăng lên gần đỉnh đầu mà tiệc rượu cũng chưa chịu tan…
Thân cây me xẽ ra làm thớt, thớt me dùng rất tốt, dao chặt xuống ít lên dăm… lắm người được đi xuất cảnh chánh thức, trong hành trang không quên mang theo tấm thớt me, Tôi vẫn nghe truyền miệng, làm thịt rắn hổ không được dùng thớt me vì khi ăn xong dễ bị ngộ độc.
Thân cây me tôi chỉ thấy công dụng làm thớt, ngoài ra chỉ làm củi chụm, không thấy thợ mộc dùng cây me xẽ gổ cất nhà hay đóng bàn ghế, dân gian thường nói” bần dòn, ổi dẽo, me dai” trèo lên cây me mới thấy câu nói nầy rút tỉa từ kinh nghiệm sống của dân gian, mình có thể đứng trên những cành me chông chênh, cành me qưằn xuống chứ không gãy.
Dưới gốc cây me, thường là sân đất, không có cây gì mọc được, ngay cả cỏ là loại dễ mọc, vì rễ me ăn lang theo mặt đất, làm cho đất chua, các loài thảo mộc khác không phát triển được.
Cạnh nhà tôi là nhà ông Thôn Trưởng, một ngôi nhà cao cẳng bằng gổ ,nhà to lớn, nằm giữa một sân vườn thật rộng, trong vườn trồng đủ loại cây ăn trái như sơ ry, mãn cầu, xoài… dĩ nhiên là có cây me, cây me trồng sát rào, bên nhà Ông Thôn có đám cháu nội trang lứa với tôi, nên những ngày nghỉ học, tôi thường qua đây chơi, mùa me có trái, tụi tôi trèo lên cây như bầy khỉ, thằng Phú thằng Quý, cả con Huỳnh Mai là gái cũng trèo luôn, bởi thường trèo lên trèo xuống hằng ngày, nên thân me vỏ không còn xù xì mà trơn láng
Tôi có khiếu bắn kè từ thuở nhỏ, trưa chúa nhựt của những ngày còn học tiểu học, tôi thường lén nhà ra gốc me gần ngả ba, tụ nhau với lũ bạn trang lứa, từ xóm nhà máy nước đá lên chơi, sau vài giờ là tôi có được cả bụm kè thắng trận
Ở Gò Công gần ngả ba Yên Luông Đông có nhà ông Chín Kỷ, trước nhà có hai cây me ngọt, hình như nguồn gốc hai cây me nầy là do hột giống của bà Nguyễn Thị Hai, trong hội Thông Thiên Học, mang về từ Ấn Độ, tôi là con cháu trong nhà nên mỗi năm vào dịp tảo mộ ông bà đều được ăn me ngọt, ở Gò Công lúc đó me ngọt quý vô cùng, qua xứ Mỹ nầy trong chợ Việt Nam, me ngọt Thái Lan bày bán ê hề; Nhưng cũng hột của cây me ngọt đó gieo trồng , khi cho trái, cây bị lai giống vẫn chua, dù vị chua có nhẹ nhàng hơn mà trái nhỏ hơn, đó là giống me đậu phộng.
Trái me và lá me, người miền Nam không ai là không biết công dụng của nó, tùy theo loại cá tôm, gà, ếch nhái, chuột, rắn… mà người nấu dùng me sống, me chín hay là lá me…Với loại nào, nồi canh chua nêm nếm đúng mức đều rất ngon miệng, miền Nam khí hậu tương đối nóng, buổi cơm sau giờ làm việc, có tô canh chua rất dễ bén cơm…
Ngoài canh chua ra trái me còn ba cách ăn khác, me chín ngào đường, mứt me và me thấu.
Ngày tôi còn học tiểu học, những gánh hàng rong bán xế cổng trường thường có món me ngào đường, tôi còn nhớ, một mâm nhôm trên đó để me ngào đường, món nầy rất dễ làm, me chín bỏ vỏ, bắt chảo ngào với đường tán, nếm thấy dễ ăn, nghĩa là không chua quá mà cũng không ngọt quá, trang đều lên mâm, trên rắt tí mè rang vàng,hay đậu phộng rang vàng đâm nát, thế là quý vị con nít đi ngang nhìn, đố đứa nào không chảy nước miếng, thế là có năm cắc mua năm cắc, có một đồng mua một đồng, người bán hàng dùng miếng lá chuối, rồi dùng muổng múc một hoặc hai muổng gì đó, cho thêm 1 cây tăm, thế là chú em tay cập cặp sách sát nách, tay nâng tấm lá lên miệng, liếm tới liếm lui ngon lành,nhiều khi mê ăn không thấy đường, đụng vào gốc cây dội ngược, mâm me bày bán cạnh lộ, xe cộ qua lại tung bụi đầy trời, vậy mà đám học trò nhỏ vẫn ăn và vẫn mạnh cùi cụi… Thời đó, khoảng cuối thập niên 50, Gò Công có ban quân nhạc, thường xuyên núp dưới bóng mát mấy cây dương gần hồ tắm để dượt kèn trống, mấy anh bán đá nhận đậu đỏ, bánh lọt thường xúi đám tiểu yêu tay cầm chùm me tay cầm gói muối ớt đứng nhìn các anh lính kèn tập,chốc chốc đưa trái me lên miệng chắp chắp rồi hít hà, chỉ độ vài phút là mấy chú lính kèn thổi xì xịt vì miệng chảy đầy nước miếng, nhớ lại thời đó, thời Ngô Tổng Thống mới về nước, Gò Công thực sự sống trong cảnh thanh bình,những trò chọc phá đó bây giờ nhớ lại tôi còn thấy khoái…
Dĩ nhiên, những gánh hàng rong nầy cũng không thiếu món me ngâm thấu, món mầy học trò nhỏ, gái trai gì cũng ưa cả, ngay người lớn ăn còn quên thôi, ăn xong uống nước lạnh… để rồi bị Tào Tháo rượt, xong rồi, khỏe lại, gặp lại cũng ăn nữa…
Lựa loại me già, bỏ vào nồi nước luộc sơ, trong nước có bỏ chút phèn the, vớt me ra ngâm vào thau nước lạnh một đêm, có pha chút phèn chua,lột vỏ, nấu nồi nước đường dằn muối, để nguội, bò cam thảo vào ngâm cho ra màu vàng, thế là ta có món me thấu, trái me trắng ửng vàng, nhai dòn dòn, chua chua, mằn mặn ngòn ngọt, ăn quên thôi, trong mấy chợ Việt Nam ở Houston tôi thấy thỉnh thoảng có bán món nầy…
Món cao cấp của trái me là mứt me, làm món nầy mấy người tánh nóng khó thành công vì chụm lửa hỏa hào me sẽ đen thui… Với 1 kí lô me sống, lựa trái nở nang đều đặn, ướp muối hột độ 4 giờ cho dễ lột vỏ, lột vỏ xong ướp muối bọt khoảng một giờ, dùng dao bén xẽ lấy hột, dùng bàn xâm, xâm đều trái me, ướp me đã xâm với muối bọt giống như muối cá… sau 1 giờ đem ra xã lại nước lạnh. Nấu nồi nước sôi cho vào chút phèn chua, trụn sơ me khoảng 5 phút, vớt ra xả nước lạnh cho sạch. Cho đường và me vào thau, ướp một đêm cho me thấm đường, vớt me ra, đường còn lại, bắc lên bếp chụm lửa than liu riu, dùng vỉ sắt gác lên chảo đường, sắp me lên vỉ sắt, dùng muổng múc nước đường đang sôi rưới lên me cho đến khi nào me thấm đường là được, để me lên dĩa bàn, phơi nắng cho ráo đường, dùng giấy kiếng màu, cắt khéo tay thành sợi, gói từng trái có cả cuống và xơ me… Lọai mứt nầy ăn rất ngon miệng, giá bán cũng không rẻ…bởi làm rất công phu.
Thời còn học tiểu học, những ngày cận tết, tôi thường được giao cho việc chụm lửa mấy chảo mứt…Tuy chuyện “ Xông pha khói lửa” có nóng một chút nhưng bù lại khi mứt tới là tôi có quyền nếm trước…
Đất người, tết nhứt, bánh mứt bày bán đầy chợ… nhưng mứt me cũng khó tìm thấy, với lại tại mình sống lâu chứ không phải già, nên muối đường đều phải bớt ăn, nên ba thứ bánh mứt chỉ ngó qua cho biết, chả bù lại, những năm tháng trong lao tù Cộng Sản, muối cũng như đường, lúc nào trong người cũng thấy thiếu, những ngày tết đến, những ngày mưa gió được nghỉ lao động, chuyện bánh trái, mứt trà luôn được anh em nhắc tới đầy vẻ thèm thuồng….đây cũng là một cách thưởng thức hàm thụ trong những tháng năm đói rét trong lao tù Cộng sản...
Những tháng ngày sống trong trại tù Hà Tây, tôi thuộc đội nuôi cá nên có dịp kéo xe đi nhiều xả gần trại, mùa đông nhiều khi ra tới Thường Tìn để tìm rong, cỏ, các làng Rùa, làng Phượng tôi thường xuyên tới… Nhiều cây trái giống miền Nam nhưng tuyệt nhiên, cây me tôi chưa bao giờ được nhìn thấy tại tỉnh Hà Sơn Bình.
Tháng 7 năm 1983, tôi được giặc thả về, trước năm 1975 tôi vẫn có tên trong tờ khai gia đình nhà chị tôi, cũng như nhà ngọai tôi tại Sài Gòn, nhưng vì còn độc thân chúng đuổi tôi về Gò Công ở với mẹ, thời gian mới về bị quản chế 2 năm, cũng bị nhiều ràng buộc như trong tù chỉ khá hơn là gần gửi với người thân, khỏi phải đi lao động khổ sai, tuy thỉnh thoảng vẫn phải công tác đào kênh, đấp đập, gọi là lao động xã hội chủ nghĩa...,trong ngày sau 6 giờ chiều là không được ra khỏi nhà…Tháng tám, trời mưa to, cây me cạnh nhà trốc gốc, ngã vắt ngang trước nhà, cây me khoảng gần vòng tay, may mắn nếu nó ngã xéo một chút là đè lên mái nhà… Thế là tôi có chuyện làm, với cây búa cùn, tôi nhẩn nha đẻo từng khúc, vừa làm vừa chỉ cho con cháu học mấy chữ Hán, con cháu học sư phạm ban Việt, Buổi trưa tôi đang ngồi chặt chặt đẻo đẻo, thì tôi nghe có tiếng của chị tôi
-Bảy, có thằng Quang đèo đến kìa
Thằng Quang bạn học với tôi thời trung học, nó từ Hòa Đồng xuống tỉnh trọ học gần nhà tôi, trong lớp cùng ngồi bàn nhứt kế tôi, Những năm cuối trung học, cùng làm thơ trong Nhóm thơ 20 Gò Công, đi lính cùng khóa 13 đại đội phó CTCT tại Trường Nguyễn Trãi( Biệt Khu Thủ Đô) Ngày sập tiệm chung trại tù Huyện Tây Gò Công, từ ngày nhập trại nó lần lần biến đổi tánh tình, trở thành tay sai chỉ điểm cho cán bộ trại, nó là tên trưởng nhóm ác độc thứ hai của trại Hòa Đồng, chỉ sau Đại úy Hỉ ( BĐQ), Chính Quang rủ tôi cùng tham gia công tác chỉ điểm với nó. Trong tình bạn cũ tôi có khuyên nó hãy nhìn lại, anh em trong trại là những chiến hữu cũ, lại là đàn anh, đàn em chung trường trung học, có nhiều vị thầy dạy cũ…
Tôi còn nhớ câu tôi kết luận
- Tao nói lỡ lời có gì mầy bỏ qua cho
Sống trong tay Cộng Sản, như cá nằm trên thớt, ai mà không sợ. Lỡ nói rồi tôi đâm ra ngán nó báo cáo...
Tôi tuyệt giao với Quang từ đó, anh em từng ở trại Huyện Tây, ai mà không hận thằng Quang. Nó báo cáo hãm hại biết bao nhiêu người. Nó nhỏ con nên có tên là Quang đèo, chức vu sau cùng của nó là Phân chi khu trưởng xã Vĩnh Bình, tốt nghiệp khóa 4/68 trường bộ binh Thủ Đức
Quang và người bạn chỡ nó, họ Tô Vĩnh tên gì tôi quên, một giòng họ giàu có ở Hòa Đồng, vô nhà được chị tôi mời ngồi ghế giữa. mẹ tôi từ nhà sau cũng lên ngồi bên bộ ván, vì cả nhà biết tôi rất hận thằng nầy, nên sợ có điều gì bất trắc xảy ra, chị ra gọi tôi vào, vẫn quần tà lỏn, ở trần, tôi không cần mặc áo, ngồi vào ghế vấn thuốc rê hút… Tôi hiểu tấm lòng của mẹ và chị dành cho tôi, tôi im lặng, Quang hỏi câu gì tôi trả lời câu đó và trả lời rất đâm họng nên láp dáp mấy câu nó kiếu ra về
Tôi còn nhớ
- Nghe nói tù ngoài Bắc đói khổ lắm phải không?
- Mầy đừng có bôi bác chế độ, mầy không nghe nhiều lần quản giáo và đài phát thanh ra rã… Nước ta tiền rừng biển bạc, Trưởng trại Chín Nhựt của trại Huyện Tây từng nói
- Cửa sông Cửu Long toàn là kim cương và đá quý trầm tích ở đầy, rồi đây nhà nước sẽ khai thác … giàu có mấy hồi
Tụi tù ngoài Bắc tụi tao được ăn ngày 3 bữa, có bàn billard, bàn ping pong, có thư viện, có sân bóng chuyền… nhiều thứ giải trí khác, tù chỉ ăn rồi…chơi.
-Về mấy tháng nay mầy làm gì
-tao làm báo
-mầy viết cho báo nào vậy?
- báo của tao là báo mẹ báo chị, báo đời…chớ báo nào
Thằng Quang ra về… tôi thấy trong lòng ray rứt, tìm được một thằng bạn đã khó mà cắt đứt tình bạn lại càng khó hơn, may mắn trong đời, tôi chỉ cắt tình bạn có 2 lần, cũng sau ngày trời sập.
Ngồi bên thân cây me đang chặt dở dang, tôi hút một hơi thuốc dài, tự dưng cảm khái, ngâm nho nhỏ bốn câu thơ của Nguyễn Bính, dán trước cửa nhà lúc về sống ở miền Tây Nam Bộ
‘Từ dạo về đây sống rất nghèo
“ Bạn bè chỉ có gió trăng theo
“Những thằng bất nghĩa đừng lui tới
“ Hãy để thềm ta xanh sắc rêu…
Mười mấy năm lưu lạc xứ người, mỗi lần ra đường, nhìn thấy những cây có tàng lá giống cây me là lòng tôi như chùng xuống, kỷ niệm thời thơ ấu như hiện rõ trong tôi, những thức ăn chế biến từ lá, trái me… Tôi nhớ mẹ tôi, tôi nhớ anh chị tôi…Tôi nhớ Gò Công, quê hương của tôi mà giờ đây cờ sao bay bay như thách thức… Làm sao tôi về lại, ngày mẹ tôi còn sống, tôi đã nhiều lần gửi bài thơ trong đó có 2 câu
“Con đi dưới lá cờ sao máu
“Rờn rợn lòng con, nhục mẹ ơi! *

THỦY LAN VY
Viết tại Kỳ Đà Động, Lập Xuân 2008
* Thơ T. L. Thảo
Sonk
#2 Posted : Thursday, April 25, 2013 6:00:57 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
CHUYỆN NHỚ TRONG ĐỜI

*
[color=blue][size=6]-Viết để nhớ những ngày trên lộ 7B…
( Con đường di tản quá dài, đầu đã tới sông Ba khúc đưôi còn tại Pleiku, tôi may mắn đi trong khoảng đường tương đối ít gian nguy…)


Đầu năm 75, trung đoàn 45 thuộc sư đoàn 23 bộ binh được lệnh rời Hàm Rồng về lại Ban Mê Thuộc. Đại đội 201 CTCT đang tăng phái cho trung đoàn đóng tại Hội Quán Tây Nguyên cũng được lệnh lên đường tăng phái cho bộ chỉ huy Biệt Động Quân vùng 2 đang trú đóng tại B15,thuộc tỉnh Kontum, đơn vị tăng phái được chỉ định đóng quân tại kho gạo của tỉnh… Thế là anh em từ giã Hàm Rồng, từ giã các buôn làng thân quen vẫn thường ngày đến làm công tác dân sự vụ tâm lý chiến như làng La Sơn, Plei ô Ngo…tại Kon Tum đơn vị vẫn công tác như thường lệ đến các buôn làng thuộc quận Đắc Tô mới, làng Pa-ra-đi…để khám bệnh phát thuốc, hớt tóc … cho dân làng .Sáng đầu năm âm lịch cả đại đội tăng phái đều có mặt tại sân cờ bộ chỉ huy BĐQ để tham dự lễ thượng kỳ đầu năm. Đại Tá Tất chỉ huy trưởng đến tận hàng quân bắt tay từng sĩ quan tăng phái…
Ngày 13-3-75, Anh Cải, đại đội trưởng lên bộ chỉ huy họp về cho biết là bộ chỉ huy BĐQ đã rời Kon Tum… Thế là anh em trong đơn vị tự động thu xếp gọn ghẻ chờ lệnh về Pheiku.. Tôi ngồi ghế trưởng xa trên chiếc Dodge có tất cả 13 người, xe lăn bánh lúc 13 giờ ngày 13-3-75…tôi cũng thấy hồi họp vì con số 13 nầy, đoàn xe gồm 5 chiếc, 4 dodge,một jeep chậm chậm rời kho gạo hướng về cầu Đakpla…. Mấy chiếc loa phóng thanh của ty dân vận chiều hồi liên tục đọc đi đọc lại thông cáo của Đại Tá Hùng, tỉnh trưởng Kontum… Nội dung thông cáo là kể từ giờ phút nầy cấm tất cả các quân nhân ra khỏi tỉnh…
KonTum vẫn rất yên lặng, không nghe một tiếng súng nổ, là đơn vị tăng phái nên quân cảnh gác cầu, chốt đường ra tỉnh không xét hỏi…. Con đường KonTum- Pleiku tuy xuyên núi nhưng tráng nhựa rất phẳng phiu… tuy nhiên khi xe gần tới Chư Pao anh em cũng cảm thấy hồi họp, ghìm tay súng sẳn sàng trong tư thế phản phục kích…Bởi ‘Một chiếc khăn tang một tấc đường” ( Quên tác giả)là đây. Rồi đoàn xe cũng bình an về tới hậu cứ đóng trong quân đoàn 2
Pleiku lúc nầy thường xuyên bị pháo kích, phi trường Cù Hanh ăn đạn liên tục… Đêm 17 tháng 3 đặc công đánh vào quân đoàn nhưng chẳng gây thiệt hại gì đáng kể vì vị trí quân đoàn trên cao, lực lượng phòng thủ tinh nhuệ có M48 yễm trợ, thà đánh nhau ngoài mặt trận còn thấy dễ chịu hơn là ngồi chờ pháo…Đơn vị về đây chỉ tạm thời trực ứng chiến chờ lệnh. Là đơn vị CTCT trừ bị cho quân đoàn II, chúng tôi thường phải rày đây mai đó tăng phái cho các lực lượng trừ bị, hay các sư đoàn, tiểu khu thuộc quân đoàn 2, trung đội di chuyển bằng một chiếc xe dodge có cửa, kéo theo một cái rờ mọt.Trên xe chất chứa đủ vật dụng sinh họat thường ngày…nồi niêu soon chảo, gạo, mắm, muối, dầu lửa, bếp dầu…, nên việc ra đi trong cuộc di tản nầy trung đội chúng tôi không lấy gì làm bở ngở, không phải chịu cảnh thiếu ăn thiếu uống như nhiều đơn vị khác.Tôi nhớ hoài buổi sáng hôm ấy khi hay tin quân đoàn đã rút đi nhiều đơn vị… Ông Tiểu đoàn trưởng xuất thân khóa 14 VB, ra phi trường về Sài Gòn còn không quên phone về đơn vị ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó trông coi việc ứng chiến của đơn vị vì ông đang… bận họp ở quân đoàn, mạng sống ai không quý, ông tiếc mạng của ông mà bỏ cả đàn em bơ vơ, về Sài Gòn ấm cúng bên vợ con..quân mà thiếu cấp chỉ huy..??Ông tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng nên rất khó thích ứng với tình hình, bởi không dám quyết định vì cứ ngỡ xếp đi họp ở quân đoàn.Lúc bấy giờ quân đoàn chỉ còn lại tiểu đoàn 20 CTCT, cạnh bên là Truyền tin, thiết giáp… còn lại các ban phòng đều vắng lặng như tờ. Bởi không có lệnh nên đêm đó quân nhân các cấp trong doanh trại tiểu đoàn đều ra sân nằm cạnh giao thông hào dù không có lệnh, có lẽ vì sợ ngủ trong phòng sẽ ngủ quên khi đơn vị di chuyển bất thình lình, nằm ngoài sân, nhìn trăng sao với giấc ngủ chập chờn trong lo sợ…một đêm yên lành trôi qua… Sau khi hội ý với một số sĩ quan, Tiểu đoàn phó ra lệnh phá kho lương thực, nhờ vậy mà anh em có thêm được một số khẩu phần lương khô lọai C của Mỹ, không tiên liệu được đoạn đường sẽ đi qua nên bỏ lại gạo rất nhiều… Đoàn xe của tiểu đoàn( Gồm bộ chỉ huy, đại đội hành chánh và đại đội 201) trên mười chiếc, xe jeep tiểu đoàn phó dẫn đầu, đến xe các ban và nhóm xe đại đội 201 bọc hậu, cũng nón sắt, súng đạn cầm tay, đoàn xe chầm chậm tiến ra cổng…Điếm canh vẫn còn lính gác. Sáng hôm đó trời có chút sương, chút gió nhẹ lành lạnh trong cảnh trống vắng của quân đoàn,mấy chiếc M48 vẫn yên vị nơi cổng chính ,binh sĩ gác cổng vẫn giữ đúng tư thế, nhưng cảnh vật hình như mất vẽ sinh động, tạo cho anh em một không khí khá căng thẳng. Vẫn không biết đi về đâu, đi ngả nào,xe ngang qua trường Trung Học Pleime, phía sau là trại gia bình của tiểu đoàn, tôi ở trọ trong nhà của trung sĩ Hiếu nằm trong trại gia binh nầy, xe chầm chậm ngang qua mà không dám ngừng lại vào nhà lấy thêm hành trang, vì sợ trể lạc đơn vị, đoàn xe tạm dừng trên con đường có dinh ông tướng… Anh em xuống xe đứng trên lề, dưới tàn những cây thông già cỗi, nhìn trên đường người qua lại tấp nập vội vàng dù trời còn lờ mờ tối…Tôi nhìn thấy một anh trung sĩ BĐQ tay cầm chai rượu Martin đi về hướng tôi, anh nhìn tôi cười cười:
-Trung úy uống 1 nắp cho ấm lòng, rượu nầy lấy ở nhà ông tướng…Tôi cầm chai rót uống liền 2 nắp rượu đầy… thấy ấm lòng .Tuy có hơi lo lắng, vậy là ông tướng đã đi rồi.Tôi cũng mới từ tiểu đòan 50 CTCT thuyên chuyển ra đây gần 4 tháng nên cũng không rõ là dinh của ông tướng nào, có lẽ là dinh của Tư lệnh vùng. Xe cộ vẫn tiếp tục xuôi hướng Hàm Rồng, xe quân đội ngoài quân nhân còn có thêm gia đình binh sĩ, thùng rương chất đầy ắp.
Trời sáng tỏ, anh em trong đơn vị hầu hết đều chưa ăn sáng, tôi thấy một vài anh em lấy phần gạo sấy ngâm nước. Đại Úy Thiện( khóa 18 TĐ, (đã có nghị định thăng cấp thiếu tá nhưng chưa làm lễ gắn lon tân thăng) nhìn thấy một đoàn xe jeep quân cảnh chạy ngang, ông ra hiệu cho anh em lên xe nối đuôi đoàn xe quân cảnh, ngang qua rạp hát Diệp Kính quẹo trái về hướng Hàm Rồng.Với 2 bông mai trên ve áo, tôi không biết một chút gì về lộ trình sẽ đi, chiếc trước chạy, chiếc sau chạy theo, tạo thành một đoàn xe rồng rắn không biết dài tới bao nhiêu cây số, khi bắt đầu nhìn thấy núi Hàm Rồng, tôi thấy đoàn xe rẽ mặt leo lên bờ lề, chạy băng đồng hình như đang chạy dưới chân một ngọn đồi thấp, bên đường có vài chiếc xe quân đội chết máy nằm rải rác, xe bắt đầu vào con lộ đá có dấu vết tráng nhựa loang lỡ, nhưng tương đối dễ chạy hơn lúc băng đồng. Tài xế chiếc dodge là hạ sĩ Đặng Giác, cũng trạc tuổi tôi, sức vóc khỏe mạnh có gia đình nhà cửa ở KonTum, rất vững vàng ôm tay lái, tới thung lủng Hồng, một tấm bảng gắn trên hai trụ có khắc rõ chữ Valey Rose, một vài chiếc GMC bị lật, xác binh sĩ chết nằm rải rác khoảng trên 10 người… Đòan xe vẫn chạy với tốc độ chậm, bụi cát mịt trời, tuyệt không nghe tiếng súng, rải rác nhà dân bên đường, người lớn trẻ em ra sân nhìn đoàn xe chạy, mấy em trong xe tôi gốc miền Nam cười vui như những lần được về phép,Trung sĩ Bùi Ngọc Mỹ thằng em vẫn ăn cơm chung với tôi, với tay chuyển cho tôi một bịt cơm sấy với lon thịt ba lát khui sẳn, tôi không thấy đói nhưng vẫn phải ráng ăn, bởi tôi linh cảm con đường đi sẽ còn nhiều bất trắc lắm…Lòng tôi cũng có chút vui khi được về Nam nhưng cũng ngổn ngang trăm mối, tại sao cả quân đoàn phải bỏ đi trong lúc chưa thấy bóng dáng một tên lính sinh Bắc tử Nam nào, tại sao ra đi mà không có lệnh lạc gì cả, lộ trình để đi cũng hoàn toàn không biết, rồi tin chiến sự từ đài V.O.A, BBC, áp lực Cộng quân nặng nề trên nhiều mặt trận, Đài Quân Đội, đài Sài Gòn vẫn phát thanh những bản tình ca, vẫn ngọt ngào tình em hậu phương với người trai tiền tuyến… Đầu óc tôi rối mù… Thôi thì, mệnh số do trời..Bài học Hán văn thầy Bùi Cận dạy tôi học năm đệ ngũ tôi vẫn còn nhớ….Nhất trác, nhất ẩm, giai do tiền định… hơi đâu mà lo…Với máy C25 bên cạnh tôi mở máy liên tục liên lạc với các bạn cùng chung đơn vị: Thái tăng An, Như ,Chấn,Nguyễn Hữu Cải …
Đến Phú Bổn, trời xế chiều, xe cộ tràn lan, đoàn xe đơn vị tôi dừng sát bên lề đường, tất cả xuống xe ngơ ngác nhìn chung quanh. Đã thấy hầu hết các sắc lính tại quân đoàn… Người ta dừng, mình dừng lại chẳng lệnh lạc gì cả, trời chiều xuống dần, dù cuối tháng ba nhưng sương trời và gió tạo một cảm giác lành lạnh… Tôi thấy có một toán quân nhân , có máy truyền tin đi bộ quanh các con đường… Thì ra là toán lính địa phương, Trung Tá Lò văn Bảo, tình trưởng và một số sĩ quan, tôi còn nhớ Trung tá Bảo dáng cao ráo, to con, gương mặt hiền từ chậm rải nói với anh em di tản:
-Các anh em yên tâm tìm chỗ ngủ , tôi đã cho hai đại đội địa phương quân giữ an ninh… Tôi nghe lệnh mà trong lòng thấy không an, quân đoàn tự dưng bỏ chạy …hai đại đội mà nhầm nhò gì… thôi thì ai sao mình vậy …giày dép còn có số mà…
Tôi cùng họa sĩ Thái Tăng An( Mỹ Thuật Huế)Bạn cùng khóa,khoát thêm áo jacket, hút thuốc vặt nhìn thiên hạ. Anh Nguyễn Hữu Cải( Đại đội trưởng, chết trong tù CS) họp anh em sĩ quan bên vệ đường, anh có được 1 mẫu bản đồ tiện tay xé được trong phòng tiểu đoàn trưởng trước lúc ra đi, Anh chỉ sơ qua về lộ trình sẽ đi…theo như dự đoán của anh… Tôi chẳng buồn quan tâm. Người ta đi đâu mình theo đó, súng bắn trúng ai người đó chết hơi đâu mà lo cho mệt…. Trời tối hẳn, anh em đã cơm nước xong xuôi, Trung đội Chính Huấn của Trung úy Như( khóa 1/69)bắt đầu làm việc, chạy chung đơn vị có vợ chồng ca sĩ Xuân An của sư đoàn 23 tháp tùng theo. Anh em xếp thành vòng tròn, sẵn khẩu phần C với cà phê thuốc lá Mỹ…Tiếng đàn dạo lên, Xuân An cất giọng, đây là giọng ca xuất sắc nhất của quân đoàn 2 lúc bấy giờ…. Giọng ca ngọt ngào, lời ca phù họp với bối cảnh đã thu hút khá đông anh em đơn vị bạn đến nghe… Thái Tăng An và tôi nằm trên bờ đê cỏ:
-Ê chạy giặc mà giống đi picnic quá mậy.
Tôi cười đồng ý. Nằm nhìn sao trời, hút thuốc Lucky, uống cà phê nóng nghe nhạc sống … còn thua ai nữa. Người xe tuy đông, tuy ô họp mà đêm yên lặng lắm… Gịong ca của Anh Xuân An cao vút réo rắt lòng người…”Bỏ làng ra đi mang theo tiếng nói con tim…”… Tuyệt nhiên không nghe một tiếng súng, thỉnh thoảng trên bầu trời có lóe sáng lên, một vài trái hỏa châu hình như từ chi khu bắn lên, các cô bé chính huấn của đại đội như Mỹ Chi, Phương Hòa…cũng lần lượt góp tiếng hát ngọt ngào, trời đầy sương, ngập ngụa không khí núi rừng, những giọng ca ngân vang xa thu hút khán giả càng lúc càng đông, Tan buổi nhạc bất đắc dĩ, giấc ngủ chập chờn đến với mọi người, ngày mai rồi sẽ tới đâu???
Trời chưa sáng mà mọi người cùng thức dậy, nước rửa mặt rất khó tìm, một số quân nhân thuộc một vài ngành tự động tháo bỏ phù hiệu như CSQG, ANQĐ, QC…, tiếng máy xe bắt đầu nổ, âm thanh thật ồn ào, khói xe bay mù mịt, một số xe từ từ lăn bánh về hướng quận Phú Túc, tiểu đoàn tôi cũng bắt đầu lên đường, còn giữ được đội hình lúc đi, nhiều chiếc xe jeep của đơn vị bạn bị bỏ lại vì bị bề kết nước, bởi đoàn xe chạy, ngừng bất thường, thắng không kịp là ủi đít .Nắng dần lên, sương tan và trời bắt đầu nóng, khói xe và âm thanh động cơ, tiếng gọi nhau trong ánh nắng chói chang làm cho con người rất dễ mệt, Nhưng trong bước đường sinh tử mọi người đều cố gắng.Cho tới quá trưa đoàn xe tràn ngập quận Phú Túc, hàng ngũ rối loạn không còn thấy lối đi . Mọi người ngơ ngác nhìn nhau.Trong đoàn quân chẳng có một sĩ quan nào biết được lộ trình cuộc di tản nầy, tôi thấy có vài sĩ quan mang cấp trung tá, dân theo lính cũng rất đông hầu như là nửa dân nửa lính, thương cho dân bám theo lính mà lính nào có được lệnh lạc gì đâu. Một chiếc trực thăng đáp xuống một khoảng đất trống nhỏ vào lúc giữa trưa.Tôi đứng cách xa trực thăng nhưng cũng nghe được tiếng anh em bàn tán
-Tướng Cẩm tới thị sát có mang theo hai hạ sĩ quan quân cảnh với mục đích giải tỏa lộ trình bị nghẻn.Tướng Cẩm hỏi xem ai là người có cấp bậc cao nhất ở đây.Tôi thấy có một vị trung tá lên tiếng.Tôi không nghe rõ được lời đối đáp nhưng cũng được thuật lại đại ý
-Anh Trung Tá mà không chỉ huy được đoàn quân nầy
- Tôi không có khả năng, Thiếu tướng xuống chỉ huy đi.
Trực thăng mang tướng Cẩm bay đi, với rất nhiều cặp mắt ngơ ngác nhìn theo. Tội nghiệp hai anh quân cảnh xé vội phù hiệu rồi lẫn vào trong đám loạn quân….
Rồi đoàn xe cũng bắt đầu di chuyển, đoàn xe quá dài nên người ở khúc nào chỉ biết chuyện ở khúc đó. Tiểu đoàn tôi có lẽ đi vào khúc giữa.Đường bắt đầu xấu dần. xe chạy với tốc độ thật chậm, chiếc nầy ủi đít chiếc kia là sự thường. Một vài xe chết máy vì hết xăng, rất nhiều xe jeep chết máy bị đẩy vào bìa rừng… Số lượng người mất xe càng đông, xe nào còn trống có người quen thì được cho lên, đa số ôm súng mang ba lô đi lếch thếch lẫn lộn với đám dân, giữa cái nắng tháng ba của vùng cao nguyên, hành trang và nắng gió làm cho người mau mệt, khi đã mệt rất dễ sinh quạu quọ.Xe qua những đám rừng thưa, lửa than đốt rừng còn cháy đỏ, Biệt Động Quân biên phòng trong tư thế tác chiến đứng thành hàng hai bên đường bảo vệ cho đoàn quân di tản. Tôi nhìn thấy nhiều em binh sĩ Biệt Động Quân còn quá trẻ, súng cầm tay với lưởi lê tuốt trần hướng mắt nhìn về hướng rừng, quên đi sinh mệnh của mình để giữ an toàn cho đoàn người di tản.Tôi đi chưa biết rồi sẽ tới đâu, riêng các em còn đứng đó không biết đến bao giờ, sự sống còn của anh em lấy gì bảo đãm, lòng tôi rất cảm kích trước những con người biết tuân thủ kỷ luật quân đội.Cũng tại quận nầy, Anh Cải ra lệnh xe nào giữ hồn nấy cố gắng về tới nơi an toàn. Tôi ngơ ngác, nơi nào là nơi an toàn đây.??
Sonk
#3 Posted : Thursday, April 25, 2013 6:02:33 PM(UTC)
NguyenSonK

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 7/9/2012(UTC)
Posts: 172
Points: 516
Location: thơ

Thanks: 10 times
Was thanked: 6 time(s) in 6 post(s)
Một vài người hiểu rõ lối đi cho biết đoàn di tản đang tiến lần tới quận lỵ Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa, người đi bộ vẫn bước nhanh hơn xe đang chạy, trung sĩ Mỹ chỉ tôi
-Ông xem kìa, Ông thiếu tá đang ăn trái bầu sống…
Tôi nhìn theo tay chỉ của Mỹ, mắt tôi nhìn thấy một quân nhân không rõ binh chủng vì người đang mặc áo khoác, tay cầm trái bầu loại bầu có eo cổ giống như trong hình vẽ bầu cua cá cọp, ông bẻ ra từng miếng cạp ăn ngon lành. Đa số người di tản đến ngày thứ ba đã bắt đầu hết lương thực, vì cuộc di tản xãy ra quá vội vàng không ai kịp chuẩn bị, riêng đơn vị tôi vì thường xuyên đi công tác dân sự vụ nên lúc nào trên xe cũng tạm đầy đủ gạo thóc mắm muối…, Nắng bắt đầu ngã chiều mà đoàn xe vẫn đi chưa tới đâu, tôi mở tầng số máy C25,tôi rà đai bất cứ tầng số nào, có lúc liên lạc được với dân con gà( Sư đoàn 23) còn ở Phú Túc, có lúc liên lạc được với toán đã tới phi trường Củng Sơn, xe vẫn chậm rì lăn bánh, toán công binh chiến đấu của quân đoàn vẫn cưa cây, mở đường, mấy chú lính trong toán nấu nước ngâm gạo sấy, tôi ngồi trên nóc xe chân thòng trên nắp đầu xe, vừa ăn cơm gạo sấy với thịt ba lát với chút muối tiêu vừa nhìn trời đang bảng lảng hoàng hôn, chút hơi lạnh của núi rừng phần nào xoa bớt cơn mệt mỏi, trời tối nhanh, muỗi rừng được dịp tunh hoành chit cắn, tiếng ồn ào dịu dần theo với bóng đêm tràn về… Xe tôi cũng vào tới phi trường Củng Sơn. Phi trường khá rộng, phi đạo lót vĩ sắt, tôi chỉ chỗ cho tài xế lái vào một khoảng đất trống, đầu xe hướng về cổng phi trường, khoát lên người chiếc áo jacket, quấn lên cổ chiếc khăn, kéo mủ lưởi trai sụp xuống, tôi vẫn còn thấy lạnh, muỗi bớt cắn vì phần thịt da ít lộ ra ngoài, sương xuống mịt mờ chẳng mấy chốc mà người tôi đã thấy ướt nước, Tôi nằm trên đầu xe tay kẹp cây M16 sát người, thằng Mỹ đệ tử nằm kế bên cũng khư khư ôm cây AR15, trong thùng xe là đàn bà con nít ngủ ngồi, chú tài xế và anh toán phó trong cabin xe, còn lại rải rác trải poncho nằm cạnh xe. Sương nhiều quá không nhìn thấy sao trời, tôi nằm dù thật mệt mỏi nhưng dễ gì dỗ giấc ngủ, bây giờ mới hết tháng giêng âm lịch, mà tháng giêng là tháng ăn chơi, hiện tại tôi cũng ăn và đi lang thang, không chơi là gì…Tôi nhớ Sài Gòn vô cùng, tôi nhớ giảng đường 2, giảng đường 4, tôi nhớ mấy cây phượng bên hông trường, tôi nhớ tới mấy nhỏ bạn thân từ năm nhiệm ý,tôi trở lại giảng đường sau gần 4 tuổi lính, nhỏ Ngọc, nhò Sang, Thơ, Hoàng Cúc,Dung Bải Xàu, Ngọc Hà Gò Vấp, nhỏ mắt nâu , con nhỏ mà khi đi chung có dịp gặp người quen tôi vẫn thường giới thiệu là vị hôn thê, mới hôm Noel, tôi về phép kẹt phi vụ ở lại Sài Gòn cả tháng trời, Tôi ngoan ngoản như con mèo con trở lại lớp Việt Hán, lớp văn Minh Việt Nam, chăm chỉ hơn cả sinh viên thuần túy, tạm quên đi Phước Long đã vào tay Cộng Sản… Thanh An đang ăn đạn pháo tơi bời… Con bé đêm nay ngồi học bài không biết có nhớ đến tôi không, bé có hay biết gì về quân đoàn đang tháo chạy mà sĩ quan cấp úy như anh không biết một chút gì về lý do di tản cũng như lộ trình di tản…Bên tai.tôi tiếng ngái đều đều của thằng Mỹ…, tôi nhớ.tôi chỡ bé vào quán biên thùy, dĩa tôm càng nướng, rau sống bánh hỏi, 33 khui rót vào ly nước vàng sóng sánh, tôi lột vỏ tôm gắp bỏ vào chén em không quên sớt tương xay vào một dĩa nhỏ…Tôi thiếp đi lúc nào không biết…
-Dậy Trung úy có xe chạy rồi. Tiếng hạ sĩ Giác tài xế … Thì ra tôi chưa tròn được giấc mơ tại Phi trường Củng Sơn.Tôi bật dậy gon gàng, khóa an toản súng, móc túi lấy thuốc châm lửa
- Thủng thằng chờ xe đi kha khá rồi mình hãy chạy theo.Anh em lo ăn sáng cho chắc bụng, mấy ngày nay yên tình còn hôm nay chưa biết ra sao, nghe nói rời Củng Sơn là bắt đầu rời cao nguyên về đồng bằng, mình sẽ di chuyển đến Sông Ba rồi vào Tuy Hòa.Tôi nói sơ về lộ trình rồi tạm làm vệ sinh buổi sáng bằng chút nước trong bi don, rất nhiều chú lính cũng như dân làm chuyện đệ tứ khoái ngay bên đít xe…cũng may ăn ít và không có rau rát nên đa số đều bị bón nếu không thì mùi xú uế chịu sao cho thấu…
Đoạn đường bắt đầu rời quận Củng Sơn thật là gay go, vì có nhiều suối và công binh phải phá rừng mới có lối cho xe chạy, có con dốc 45 độ khoảng 30 thước, cuối dốc phải quẹo thẳng góc không thì xuống suối, thình thoảng một vài trái đạn 60 ly rớt ven rừng, có lẽ đề lô giặc chưa điều chỉnh kịp tọa độ…Tin giây thép lạc dừa cho biết là sư đoàn Thép và Sao Vàng ngỡ quân đoàn rút về Quy Nhơn nên đã dàn quân phục kích trên quốc lộ 20, nay biết hướng di tản đã bắt đầu đuổi theo…Theo thì theo vì có muốn chạy mau cũng không thực hiện được.Cũng tin cho biết là sở kỷ thuật vùng 2 hợp với công binh chiến đấu mở đường dưới sự chỉ huy tổng quát của chuẩn tướng Tất tư lệnh Biệt Động Quân vùng 2 vừa tân thăng…Cả giờ chưa di chuyển được trăm thước, cát bụi theo gió bám đầy người …”Nếu chẳng quen nhau lung, đố nhìn ra được”, tôi mỉm cười khi nhìn thấy mặt đầy bụi của anh em mà nhớ thơ của Phan Khôi. Trời tối mịt xe tôi vẫn chưa thấy được bờ sông Ba… Xe tạm dừng trong ánh sáng le lói của từng bếp củi tạm nấu cơm bên đường, thực đơn của toán vẫn u như kỳ, gao sấy thịt ba lát muối tiêu….Trời lạnh, cơm nguội lạnh nuốt muốn ngay cổ….Đọan đường còn dài còn lắm gian nan, phải cố ăn mới có sức mà đi, bìa rừng có vài con suối có nước nên việc “nước’ tạm thời thong thả, rửa mặt rửa soon nồi thoải mái, tôi với Thái tăng An rủ nhau ra suối tắm, khoảng suối nhỏ nhưng nước trong uốn khúc bên gốc cây cổ thụ, cũng có khá đông người đang tắm… đang kỳ cọ tai bỗng nghe tiếng cười nho nhỏ…âm thanh con gái… thì ra bên kia thân cây có 3,4 cô bé có lẽ là học sinh Trường Trung Học Pleime đang tắm, dưới ánh trăng tôi nhìn thấy rõ đường nét thiên nhiên qua áo vải ướt bó sát lấy người. Tuổi trẻ ai mà thấy cảnh nầy mà không say đắm nhìn…!!
-Ê An, về Sài Gòn mày phải vẽ lại cảnh nầy nha An…Tao đặt tên tranh là “Thiếu nữ tắm trăng”. Về lại chỗ nằm,mở đài BBC, phóng viên của đài tường thuật cảnh di tản y hệt như những gì mắt tôi đã thấy, tai tôi đã nghe, tôi có cảm tưởng cha nội phóng viên nầy đang đứng lãng vãng gần tồi, tôi còn nhớ một câu trong bài bình luận: cả quân đoàn di tản trong tình trạng bi đát tuyệt vọng như vậy mà Sài Gòn hình như không muốn biết tới….Từ những bản tin nầy anh em trong đoàn di tản tinh thần có xuống vì không còn niềm tin ở Sài Gòn tìm cách mở đường tiếp viện… Thôi thì thân ai nấy lo. Hầu hết các đơn vị đều phân tán không còn hệ thống chỉ huy nữa… Đơn vị tôi đã được lệnh tan hàng từ Phú Túc, toán nào tự lo cho toán đó, thực ra sống chết do trời, không có Đà lạt, Thủ Đức hay Đồng Đế gì cả …Có Tề Thiên Đại Thánh xuất hiện chưa chắc đã chỉ huy nỗi đoàn quân nầy…Dưới mắt tôi anh em quân nhân vẫn còn giữ được tác phong kỷ luật dù đang ở trong một thế cờ hết sức bi thảm.
Tôi nhìn Trung Tá chỉ huy trưởng trường thiếu sinh quân vùng 2 đang dẫn đoàn quân nhi đồng di tản, đồng phục nghiêm chình di chuyển theo hàng dọc, các em với nét mặt thật bình thản, vững vàng bước trên lộ trình đầy chông gai…. Không biết các em đã đi bộ như thế từ bao giờ….Vị Trung tá quân phục còn tươm tất, thắc lưng mang súng colt, tay cầm gậy bước đi thoăn thoắt dù tuổi cũng đã khá cao…Lòng tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi chỉ cho mấy em trong toán tôi nhìn, hành trang của các em TSQ trông nhẹ nhàng, chỉ một ba lô trên lưng cũng không lấy gì nặng lắm, vũ khí thì em có em không…Các em không nói cũng không cười.Đoàn xe ùn tắc trên khoảng nầy mất mấy ngày, cứ mỗi lần bị pháo, đoàn xe lại rối lọan lên, mạnh xe nào nấy lũi vô rừng, cơm nước đang nấu dỡ dang ngã đổ tùm lum, trẻ con lạc cha mẹ khóc vang rân, tôi và thằng Mỹ ẵm từng em bỏ lên xe chờ yên pháo tìm cha mẹ chúng trả lại, bây giờ tiểu đoàn chỉ còn xe tôi lạc trong đoàn xe bạn, những xe chung đơn vị sau nhiều lần bị pháo đã thất tán…Ban ngày trời nắng, tôi với thằng Mỹ cầm súng vào trú nắng trong rừng, hoa bằng lăng trổ tím rất đẹp mắt, tụ năm tụ ba trên bờ suối nhiều thiếu nữ rất trẻ da rám nắng như mới từ biển Vũng Tàu về.
Một hôm tôi và Mỹ đang lang thang trong rừng,tôi nhìn thấy hai quân nhân đang gối đầu trên rễ cây ngủ say sưa, lại gần mới biết là Thái tăng An, và nhà thơ Kim Tuấn, với bản nhạc nỗi tiếng “Từng bước chân âm thầm”, tôi dùng mũi giày lay An dậy
-Ê, sao lại ngủ bờ ngủ bụi vậy tụi
Thằng An ngáp dài…:
-Đói cả ngày nay mà lười quá ngủ cho đã có chết cũng no con mắt. Thằng Mỹ nhìn 2 ông lười, nó chạy về xe lấy cơm sấy.Hai ông lười ăn xong tỉnh táo xin thuốc hút.Tôi cười cười nhìn Kim Tuấn:
-Chạy giặc phải chạy cho lẹ chứ …Từng bước từng bước thầm hoài thì làm sao tới bến được.
.Rồi đoàn xe lết từng tấc cũng tới dược bờ sông Ba. Buổi sáng đầu tiên trên bờ sông Ba, sương mù dày đặc, mọi người lùm xùm trong áo jacket, có người khoát thêm poncho, có người chơi luôn cái mềm cho đủ ấm, ngồi chùm nhum trên từng xe hút thuốc…mắt mơ màng phần mệt mỏi phần lo lắng, muỗi cắn, sương lạnh, vắt đeo….Đường còn xa mà trước mặt sông lớn chắn ngang , ơi Sài Gòn, Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi, con đường Cường Để, dốc cầu chữ Y, ngả tư Bình Hòa…liệu tôi có còn thấy lại hay không …?!
Bài học chiến thuật của trường bộ binh Thủ Đức, bài cuối cùng tôi còn nhớ rất rõ: Lui Binh Cấp Tiểu Đoàn, thực tế tôi chưa từng tham dự cuộc lui binh cấp tiểu đoàn nào mà nay lại nằm trong trận lui binh tới cấp quân đoàn, sĩ quan cấp úy như tôi đành chịu phó mặc mạng sống do trời…
Mặt trời lên, sương tan, cảnh vật trông rõ, công binh phát quang khoảng trống canh bờ sông, bên trái là cánh rừng thưa, qua bên kia bờ sông đi thêm trên cây số rừng thưa là tới đập Đồng Cam, đi dọc theo con lộ 7B nầy một bên là đập nước, tới một cánh đồng, xa phía trong là rừng, bên trái là triền đất kéo dài khoảng cây số tới rừng và những ngọn đồi, ngày xưa Đại Hàn xây nhiểu lô cốt trên những ngọn đồi nầy, con lộ nầy bỏ hoang từ ngày Mỹ rút, Một anh trung sĩ thuộc chi khu Củng Sơn nói sơ cho tôi biết về lộ trình phía trước…
Tôi lần mò tầng số trên máy C25, gặp một số anh em sư đoàn 23 còn ở Phú Bổn, còn đoạn đầu tôi không biết đã tới đâu, nước sông chỗ sâu nhất tới rún, Thiết giáp vòng dây kéo từng chiếc quân xa, mất khoảng 10 phút mới qua tới bên kia bờ , chuyền xe được kéo phải chi trả ít nhất là 10.000$, giá trung bình thường là 20 ngàn, mười xe qua tới bờ chết máy hơn phân nửa, xe được kéo phải nổ máy đều, nếu máy tắt là nước vào ống bô kể như bỏ xe….
Nơi khúc sông kéo xe là khúc cạn nhất, Công binh sẽ bắt cây cầu dã chiến tại đây, xe tôi đậu cách xa khúc sông nầy khoảng một cây số, cứ thế mà lết dần từng mét một, có đi tắm giặt cũng phải trực người ngồi ôm vô lăng, chứ xe trước nhít tới mà mình dậm chân thì xe sau sẽ hất xe mình ra khỏi hàng
Dưới lòng sông Ba có rất nhiều cồn cát nổi cao lên khỏi mặt nước, cồn tròn khoảng 10 mét vuông, trời càng trưa càng gay gắt nắng, mọi người xuống sông giỡn nước, nước sông Ba trong thấy đáy, mát vô cùng, tầm nghịch xong lên cồn ngồi, đàn bà con gái lúc đầu còn e thẹn, sau vài ngày rồi cũng dạn dĩ ra, cũng tầm nghịch bơi giỡn dưới sông, thỉnh thoảng một vài trái đạn 60 ly rót xuống, một điều hết sức may mắn là xe chen chút sát bờ mà đạn cứ rớt ùm xuống sông, Tôi nhìn thấy nhiều lần trái đạn rớt chui ngay cồn chui xuống sâu mới nổ hất tung những người ngồi trên cồn tung lên rớt xuống nước lũm chũm, hết hồn chút đỉnh chứ chẳng sao cả, mấy trái đầu còn sợ, pháo riết rồi quen, cứ an ủi bằng câu trời kêu ai nấy dạ, ba bốn ngày đầu tôi thấy ông trời vẫn chưa kêu ai…!
Triệu chứng kiết lỵ đã thấy xãy ra cho nhiều người lớn tuổi vì đoàn người quá đông mà phóng uế bừa bải, nước sông dù vẫn lặng lờ chảy nhưng đã bị ô nhiễm nhiều rồi, với lại khó nấu nướng món gì trọn vẹn vì giặc pháo thường xuyên mà mỗi lần pháo là đoàn xe rối lọan, càn bừa chạy tránh đạn. Tôi đã thấy trên nhiều xe lô bồi nhiều người đàn ông tụt luôn quần ngồi chờ tháo dạ.. sau 3 ngày bệnh lỵ xuất hiện tôi thấy bụng tôi ngầm đau… rồi trong phân có lẫn máu. Mấy chú lính hết tình chăm sóc cho tôi, cố gằng rang gạo nấu lấy nước cho tôi uống, với một vài chén nước gạo rang mà tôi đi ngòai khoảng trên 20 lần trong ngày, tôi đã gầy mà bây giờ bị bệnh như vầy, mắt sâu má hóp, nhìn qua mặt nước dáng hình tôi trông thật thảm, đau như cắt ruột sao lại là đệ tứ khoái được đây??… Tôi thấy trong mình tôi rã rời, ngồi không muốn vững, miệng đắng mà lạt nhách…Tôi nghĩ dại… có lẽ bên bờ sông Ba nầy tôi không còn dịp gặp lại người thân nữa. Buổi sáng quá đói và mất ngủ tôi thều thào gọi thằng Mỹ đến, tần mần tháo dây thẻ bài, tay móc bóp trao cho nó. Thằng Mỹ nhìn tôi có vẽ ngạc nhiên - -Nếu mày về được tới Sài Gòn, mang những vật nầy trao cho gia đình tao, nói rõ cho nhà tao biết về cái chết của tao. Thằng Mỹ mắt đỏ hoe:
-Vài bữa là hết ông đừng có lo…Ông nằm nghỉ để tôi bắt lửa nấu cho ông chén cháo.Không biết nhờ ân sủng nào mà trong tình trang suy sụp thể lực như vậy mà bệnh lỵ của tôi lại thuyên giãm và mấy ngày sau là tôi bình phục dù trong người rất yếu, dù chẳng có uống một viên thuốc nào
Thuốc hút bắt đầu khan hiếm, một gói thuốc capstan giá thường là 400$ nay 2.000$ một gói mà tìm đỏ con mắt không ra, phần rỗi rảnh nên buồn miệng cứ hút luôn, xe lô bồi cạnh tôi có lẽ nhìn mặt tôi thấy có cảm tình sao đo.., một cô xẩm độ tuổi đôi mươi vứt qua cho tôi 1 cây thuốc bastos xanh, Tôi cám ơn rối rít, móc tiền ra trả nhưng người thiếu nữ gốc Hoa nầy khoát tay không nhận, còn nở một nụ cười thật tươi, một chút tình quân dân, tình em hậu phương…!
Cứ thêm một ngày thì lượng xe và người càng tăng dần…. Nhít qua nhít lại rồi đoàn xe cũng vào được đội hình hàng tám…Nhìn thấy cảnh chết máy của các xe kéo qua sông, với lại tiền không có nhiều nên đa số đành sắp hàng chờ cầu phao.Si Núc, lọai trực thăng vận tải bắt đầu chỡ vĩ sắt đáp cạnh bờ sông, dân lính ùng ùng tranh nhau lên phi cơ dù phi hành đòan hết sức ngăn cản… Tình trạng nầy lặp đi lăp lại sau mỗi lần phi cơ đáp xuống, người ta tranh nhau lên quá tải, phi công sợ nặng nên cất cánh trước khi đóng bửng, một vài người lính đeo theo càng trực thăng, tôi cũng thấy nhiều lần phi cơ bắt đầu bình phi, bửng sau từ từ khép lại …có vài người sẩy tay rơi xuống trông như chim…Tôi nghe thuật lại rớt như vậy mà không có ai chết chỉ bị sứt tai gãy gọng thôi…Cảnh trông thật kinh hồn hơn trên màn ảnh ci nê, những cảnh thực mà trong đời người khó có dịp trông thấy lại …
-Gạo thóc vẫn là việc nan giải, nhiều bà Sơ đi tìm mua gạo để có cơm cho các em nhỏ, tôi lại trích phần gạo chia sớt với các em. Có một vài chị tới ngày sinh nở… mấy người thân chạy táo tác tìm người đở đẻ, poncho quay tạm che gió… rồi tiếng hài nhi khóc chào đời… chìm lẫn trong tiếng súng đạn ầm vang. Phía bên kia bờ sông tiếng súng vẫn râm rang, phía sau hướng Củng Sơn cũng vang rền tiếng súng…Tình thế …kẹt cứng… lưỡng đầu thọ VC
Những ngày tôi lê lếch trên bờ sông Ba là những ngày đầu tháng hai âm lịch, Đêm mùng 6 tôi nghe đài BBC tả cảnh Sài Gòn, Bà Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đang chủ tọa lễ Hai Bà Trưng, người bình luận :… Sài Gòn hầu như không cần biết đến đoàn quân rã ngũ đang đi trên tử lộ cố tìm ngõ sống về Nam, người bình luận còn nói thêm…. Hầu hết các quân nhân đều tỏ ra bất mãn với vị tổng tư lệnh Nguyễn văn Thiệu họ thề sẽ về tới Sài Gòn tìm hỏi tội ông ta tại sao đã bỏ rơi bao nhiêu sinh mạng đã phục vụ dưới quyền ông.
Trong một vài buổi sáng có những chiếc trực thăng bay thấp trên đầu đoàn quân di tản. trên trực thăng rải xuống nhiều lọai thực phẩm: Cơm vắt đựng trong túi ny lon nhỏ, sữa họp, bánh mì ổ, mì gói, gạo sấy… với những tờ truyền đơn bươm bướm có in hàng chữ: Con đường các bạn đi còn dài, còn nhiều chông gai, chúc các bạn may mắn( tôi nhớ đại ý như vậy) ở dưới có in hàng chữ Cơ Quan Công Giáo Bác Ái, Nhìn cảnh thực phẩm rơi xuống, lòng tôi bi hài trộn lẫn, Người ta dành nhau, những vắt cơm rơi trúng đầu không nói chi, họp sữa , tôi nhìn thấy nhiều lần rất may mắn là rơi trúng vai, người lính nhăn mặt biểu lộ cảm giác đau rồi cười khum xuống nhặt họp sữa. Tôi cũng thấy có nhiều chiếc trực thăng đáp xuống phía cách xa đoàn xe, họ thả vài người lính xuống rồi cất cánh, những người lính không quân nầy đi len lõi vào đoàn xe ra giá kiếm khách, hình như giá tối thiểu cũng phải 10.ngàn đồng( bằng ½ tháng lương chuần úy ). Những người lính nầy kiếm khoảng 10 người rồi cùng đến tọa dộ đã định sẵn, Cũng không thiếu những người thừa dịp ăn theo…Trong bất cứ tình huống nào, con người vẫn nghĩ ra cách làm tiền, dù cho đồng tiền đó có vương mùi máu… Những người còn ở lại đều có ý bất mãn trước tình huynh đệ chi binh… tuy thế mà rất nhiều lần tôi không hề thấy một xạ thủ nào canh bắn trực thăng dù việc làm nầy rất dễ dàng , bắn vô tội vạ, Đồng lương lính quá thiếu thốn chăng? Thiếu thốn thì ai lại không thiếu, sao lại nỡ để mất đi tình huynh đệ. Trước cảnh tình quá bi đát nầy, hơn 10 ngày không có cách gì qua sông, mà giặc phía sau đã gần kề, phía trước chưa mở xong đường máu, tôi nêu ý kiến với anh em trong toán
-Trong hoàn cảnh nầy, tôi không ép anh em theo tôi, anh em cứ tự nhiên canh chừng trực thăng đáp xuống đu theo về trước, Tôi quay qua Mỹ:
- Mỹ, mày ba lô gọn nhẹ đi đi, về ghé nhà tao, nói tao sẽ về sau..Thằng Mỹ sau mấy lần canh me cùng 2 chú lính đi thoát được… lại thêm mấy chú lính cùng tiểu đoàn chạy lạc gặp tôi xin tá túc, có thêm đông càng tốt. Một phụ nữ trạc 25 tuổi tay bế em bé khoảng 10 tháng tuổi, tay dắt 2 con thơ, từ 3 và 5 tuổi đến trước mặt tôi mếu máo xin được đi nhờ xe… Trên xe đa số là đàn bà con nít, vợ con anh em trong toán, thiếu phụ còn cho biết chồng là Trung úy Thiết Giáp bị thất lạc… Tôi ngần ngừ nhìn mấy mẹ con rồi quyết định cho lên ngồi trên cabin xe… Tôi nhìn thấy thái độ bất mãn của mấy chị em ngồi phía sau xe…, họ ganh tỵ với người lạ sao lại được ưu đãi. Tôi làm lơ như không thấy…. Giúp được cho ai điều gì trong khả năng thì cứ giúp. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày nhưng chắc hẵn là không dưới 10 ngày thì cầu phao mới làm xong, giữa cầu hình như là 2 vĩ sắt bắt trên trái nổi vì khi xe chay ngang qua, vĩ sắt chìm xuống mặt nước khoảng 2 tấc.Mỗi lần sang sông chỉ một chiếc xe… Pháo địch tăng nhiều, phía đập Đồng Cam tiếng súng vẫn ầm vang, nhiều trái đạn chỉ cách cầu khoảng 10 mét, lòng sông đầy cát nên khi đạn nổ chỉ có nước và cát văng xa… Có mấy lần tôi chỉ đứng cách trái pháo chừng 5, 6 mét, cát văng lên mặt, tay rát rạt, anh em thảo luận rồi đồng ý lần lượt mỗi hàng xe một chiếc qua cầu, Trong hàng cử một quân nhân có dáng “Ngầu” cầm súng trước trước đầu hàng xe, tám người canh cho xe qua cầu, khi xe của người gác nầy qua cầu thì toán lại cử người khác, cho tới 4 giờ chiều thì tôi được hàng xe đề nghị gác hàng xe với lý do trong hàng toàn lính trẻ, tôi có lon lá dễ ăn nói hơn. Đám đệ tử sửa lại nón sắt cho tôi, một cây AR15 với 2 băng đạn, Trung sĩ Khâm còn màu mè gắn lên dây ba chạc tôi 2 trái mini lựu đạn, Khâm cũng không quên bẻ bâu áo cho lộ 2 bông mai ra ngoài… Nó cười cười :Trông Ông cũng ngầu lắm……Nhịp độ pháo của giặc tăng dần, Délô của tụi nó trong hàng quân nên độ chính xác ngày càng thấy rõ, lòng tôi thấy hồi họp lắm vì xe tôi đã tiến dần lên, thứ 10, rồi thứ9…hạ sĩ Đặng Giác, nón sắt áo giáp, bên cửa xe treo lủnh lẳng cây M16 với 2 băng đạn, miệng ngậm điếu thuốc, tôi đi trước đầu xe hướng dẫn xe qua cầu, nước sông đã bắt đầu lớn, bấy giờ là 5giờ 20 chiều, trời lành lạnh và hoàng hôn đã đến, 2 bánh xe trước chạm vào vĩ sắt, nước ngập gần nửa bánh xe…
Ầm ầm, hai trái đạn nổ cách trung tâm cầu khoảng 5 mét, cát bay mù mịt, tôi mở mắt nhìn qua làn bụi … Nhờ ơn trên không sao …Đề lô đang điều chỉnh gần chính xác cây cầu rồi… Tôi nhìn lên bờ thấy Chấn( khóa 3/68, cùng đơn vị)hàng xe xếp cách tôi khoảng 5 chiếc, đang đứng nhìn tôi hướng dẫn xe, xe lên dốc lên bờ….Tôi khoác vội nước sông rửa mặt, và tự nhiên thấy tối sầm lại, tôi vội ngồi xuống, thằng Khâm nhảy xuống xe xốc nách tôi lên xe… Có lẽ vì ăn uống thất thường,vì sau cơn đau kiết lỵ, vì mất ngủ và vì quá căng thẳng tôi bị suy nhược?
Trời chiều xuống thật nhanh, đường rừng cũng tương đối bằng phẳng, rất nhiều xe tấp vào những gốc cây tạm nghỉ chờ sáng. Xe tôi cũng tìm một vị trí tương đối có nhiều xe chung quanh, tạm dừng chân. Trung sĩ Khâm trong toán chính huấn bắt được một con bọ chắc là của ai sút chuồng, vợ chồng Khâm bận rộn lo nấu nướng, một bao củ hành tây sấy khô , thực phẩm của Mỹ, tôi cũng không hiểu Khâm tìm nó ở đâu, với con dao Khâm khéo léo lột da con bọ, Khâm nhìn tôi cười mỉm:
-Lọai nầy phải làm khô chứ không rửa nước, tôi sẽ xào mặn nó với hành tây, ớt khô và muối.
Trời tối thật nhanh, muổi bắt đầu tấn công dữ dội. Vợ Khâm, cô ca sĩ chính huấn cũng vừa xong nồi cơm, mấy gia đình chung xe cũng đã nấu xong cơm, bên ánh đèn pin, ánh sáng đủ tỏ soi chập chờn mặt mọi người… Mười mấy ngày nay mới được ăn cơm ngồi đàng hoàng, với cơm nóng đúng nghĩa.
Đêm trong rừng lành lạnh, sau một đoạn đường ăn uống thất thường, bệnh họan húp cháo mấy ngày, hôm nay được ăn cơm nóng với thịt bọ xào củ hành, tôi ăn thấy ngon miệng làm sao, làm 4 chén mà miệng còn muốn ăn nữa… Tôi nhớ tới những bữa giổ, ngày tết, tiệc cưới nhà hàng, những tiệc nhậu ở Thanh Hải, Lưởng Nghi, Biên Thùy… Chưa có bữa ăn nào mà tôi cảm thấy ngon như hôm nay.
Đêm nay trăng mười bốn lên sớm… Ánh trăng muôn thuở vẫn ngời sáng tuy có bị chút sương mù, tôi nhìn chung quanh, xe của các bạn đồng hành cũng đều cơm nước xong , mọi người đang chuẩn bị sửa soạn cho chỗ nằm, tôi nằm trong cabin với tài xế để tiện việc luân chuyển lái xe, vì một người ôm vô lăng suốt ngày rất khó chu toàn…Tôi mồi điếu thuốc, nhả từng ngụm khói… Sài Gòn bây giờ ra sao? Tại sao Sài Gòn không có kế họach khả dĩ an toàn cho đoàn quân di tản, hiện tại đài phát thanh Sài Gòn cũng như đài quân đội không có lấy một câu bình luận về việc rút bỏ quân đoàn.Cô bé mắt nâu chắc là lo cho tôi lắm, mẹ tôi và ba tôi có lẽ suốt ngày cầu nguyện cho tôi,người chị thứ năm của tôi đang ở Hàm Rồng, chồng chị phục vụ trong Sư đoàn 23, trung đoàn rời Hàm Rồng lên Ban Mê Thuộc, không biết bây giờ chị tôi và 2 cháu nhỏ ra sau… tàn điếu thuốc, mắt tôi nặng, giấc ngủ tôi biết sẽ đến rất dễ dàng… Tôi đâu có biết sau giấc ngủ nầy, ngày mai tôi và các bạn đồng hành sẽ phải đi trên con đường đầy máu và nước mắt… Gian nan rồi cũng qua, chỉ còn lại là ký ức, vui, buồn, thương, hận… đâu dễ gì trong một sớm chiều mà nhạt phai …
Tôi ngồi đây, viết lại những dòng chữ nầy, trong ký ức, hình ảnh năm xưa hiện rõ trước mắt, cuộc chiến nào mà không tàn khốc, tiếc cho quân đội miền Nam không thiếu anh hùng, không thiếu lòng can đãm….Nhưng cơ trời vận nuớc… Nguyện cầu anh linh quân dân cán chính bỏ mình trên lộ 7 sớm siêu thoát

Viết tại Kỳ Đà Động Tháng 12-2005

THỦY LAN VY[/size][/color]
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.