Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Những Liệt nữ triều Trần
viethoaiphuong
#1 Posted : Monday, May 17, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Những Liệt nữ triều Trần

Nhà Trần tồn tại 182 năm, vắt qua 3 thế kỷ (1225-1413). Trong hơn 60 năm đầu khởi nghiệp, nhà Trần đã 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông. Trần Thái Tông đầu triều Trần đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước, đề cao xã tắc, xem thường phú quý vinh hoa.

Mấy chục năm đầu khởi nghiệp, vua tôi, con cháu nhà Trần noi theo gương sáng của Thái Tông, xoá bỏ hiềm nghi huynh đệ, nội tộc, tạo nên thế nước hùng mạnh, một lòng một dạ phò vua giúp nước, từ những kế hay mưu sâu của Thái sư Trần Thủ Độ, đến võ công thiên tài của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật, của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mới 16 tuổi đã cầm quân ra trận đánh thắng quân thù.

Cũng trong thời kỳ đầu giữ nước khó khăn của Đại Việt, triều Trần không chỉ có các bậc nam nhi phò vua giữ nước mà còn có cả những nữ nhi, công chúa, ái phi trong cung cấm đã noi gương Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyên phi ỷ Lan ngày trước cũng dấn thân vào sự nghiệp củng cố vương triều ngày càng thịnh minh, dẹp giặc phía Bắc, mở đất phương Nam, bảo vệ non sông Đại Việt. Đó là bà Trần Thị Dung, Hoàng hậu nhà Lý (vợ Lý Huệ Tông), thân mẫu Lý Chiêu Hoàng – Nữ vương đầu tiên, duy nhất được truyền ngôi của các triều đại phong kiến Việt Nam, là nhạc mẫu của Trần Thái Tông, rồi trở thành Linh từ Mẫu quốc nhà Trần khi bà kết hôn với Thái sư Trần Thủ Độ – người có công dựng lên một cuộc bàn giao triều chính bằng cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, triều Lý kết thúc, khởi đầu triều Trần.

Trong lần giặc Nguyên - Mông xâm lược Đại Việt lần đầu năm Bính tỵ (1257), bà đã có công lớn chỉ huy Hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng. Trong khi vua Trần Thái Tông (con rể của bà) thân chinh làm tướng cầm quân đi đánh giặc xông pha chốn xa trường, Linh từ Mẫu quốc ở hậu phương đảm nhiệm kêu gọi thần dân thu nhặt sắt thép, khích lệ các hiệp thợ đêm ngày rèn binh khí cho quân sỹ đánh giặc. Trận phản công chiến lược của quân Trần ở Đông Bộ Đầu năm 1258 đuổi quân giặc về nước có một phần đóng góp công lao của Linh từ Mẫu quốc.

Gần 30 năm sau, thời vua Trần Nhân Tông (cháu Trần Thái Tông), đế quốc Nguyên - Mông lại phát động chiến tranh xâm lược Đại Việt năm Giáp thân (1284). Đầu năm sau giặc Nguyên đã tiến đến Gia Lâm vây hãm kinh thành Thăng Long.

Để tạm thời tránh giặc, cả Trần Nhân Tông, Hoàng tộc đã sơ tán ra vùng Tam Trí trên các thuyền thường, bọn giặc đã phát hiện, bao vây, chiến sự buổi đầu bất lợi, tướng Trần Bình Trọng hy sinh, một số tôn thất nhà Trần ươn hèn phản bội, ra hàng giặc, hoà đàm cũng bất thành... Để có thời gian củng cố, tổ chức lại lực lượng chiến đấu, nhà vua mở hội nghị Diên Hồng bàn đánh giặc Nguyên, và để bảo toàn trọn vẹn giang sơn Đại Việt, vua Trần Thánh Tông bất đắc dĩ đã phải dùng kế mỹ nhân, sai đem em gái út của mình là Công chúa An Tư dâng cho tướng giặc Thoát Hoan.

An Tư Công chúa là con gái vua Trần Thái Tông và Hoàng hậu Thuận Thiên đang còn rất trẻ, đẹp, vì nước quên thân, vâng lệnh triều đình, nàng từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình, vĩnh biệt Hoàng tộc, bạn bè để hiến dâng tuổi trẻ đời con gái, tính mạng mình cho tổ quốc, làm giảm tai hoạ cho muôn dân.

An Tư Công chúa đã vào trận chiến chỉ có một mình, liễu yếu đào tơ, không một cung tên, tấc sắt. An Tư sang trại giặc không phải với tư cách đi lấy chồng mà là vật cống nạp, dâng hiến và cũng là một nội gián. Hiểu rõ nạn nước, nỗi khổ của thần dân, thấy rõ hậu hoạ sẽ xẩy ra, nàng chấp nhận tủi nhục, gian khổ, kể cả mạng sống của mình.

Làm vợ Thoát Hoan, sống trong trại giặc, kìm bàn tay tội ác của kẻ thù, phụng sự tổ quốc, đây thật là sự hy sinh cao cả, độc nhất vô nhị trong thời kỳ giữ nước dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Sau chiến thắng giặc Nguyên, vua Trần đã làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, truy phong tướng lĩnh, nhưng không nhắc đến sự hy sinh của Công chúa An Tư, nhưng các thế hệ mai sau vẫn dành cho nàng sự thương cảm và kính phục không bao giờ quên.

Mười tám năm sau chiến thắng quân Nguyên, mùa xuân Bính ngọ (1306) Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã gả con gái là Công chúa Huyền Trân, em gái vua Trần Anh Tông cho vua Chiêm Thành để tăng thêm quan hệ hoà hiếu giữa 2 nước, mặc cho dư luận phản đối do có tư tưởng kỳ thị dân tộc, cuộc hôn nhân này thật tốt đẹp, hợp lệ, môn đăng hộ đối, là cái cầu giao hảo chính trị, xoá bỏ hiềm khích hận thù để 2 quốc gia bình yên thịnh trị.

Qua cuộc hôn nhân này Công chúa Huyền Trân còn góp phần giúp quốc gia Đại Việt mở mang bờ cõi. Chế Mân – Vua Chiêm – phò mã nhà Trần đã tự nguyện đem vùng đất châu Ô, châu Lý làm “vật dẫn cưới”.

Mặc dầu nàng dâu nước Chiêm chưa biết gì về đất nước này và vị vua chồng mình, sau một năm chung sống, nàng đã sinh cho triều đại này một người con trai, nhưng đức lang quân – vị vua trẻ Chiêm Thành lại sớm băng hà, còn nhân dân châu Hoan, châu ái rầm rộ vào lập nghiệp nơi châu Lý, châu Ô - là vùng đất Thuận Hoá sau này. Đến mùa thu Mậu thân (1308), Công chúa Huyền Trân đã trở về đất mẹ từ mưu cao của một thân tộc nhà Trần.

Gần 70 năm sau, thời Trần Huệ Tông trị vì, chính sự rối ren, vua Chiêm Thành lại dấy binh đánh ra đến đất Hoá Châu (Nghệ An). Khi ấy có một phụ nữ trong Hoàng cung hiến kế “an dân, an quốc”, đánh đuổi giặc ngoài cõi. Người phụ nữ ấy không phải con cháu nhà Trần, mà là một ái phi của Trần Huệ Tông – bà Nguyễn Bích Châu đã dâng “Kê minh thập sách” để giúp triều đình ổn định bên trong, thắng giặc bên ngoài.

Rất tiếc vua Trần chỉ nghe, nhưng không chấp thuận, kết cục đã bị gian thần Đỗ Tử Bình giăng bẫy, làm cho Trần Huệ Tông bỏ mạng chốn trận tiền khi cầm quân đi đánh giặc, nếu nghe ái phi họ Nguyễn can ngăn: “Tuyển quân nên tìm sức mạnh hơn vóc người, kén tướng nên chọn thao lược hơn là gia thế, khí giới cần sắc bén chứ đừng chuộng hoa hoè, trận pháp tề chỉnh chứ không cần đẹp mắt” thì đâu đến nỗi “Sai một ly đi một dặm” đã đẩy nhanh quá trình suy vong, suy vị một vương triều nổi tiếng.

Thật đáng khâm phục, kính trọng, tri ân những liệt nữ thời Trần đã dấn thân phò vua, phụng sự đất nước trong khi “sơn hà nguy biến”, hiến dâng công sức, dám hi sinh, không sợ gian khổ, cùng muôn dân giữ nước.


posted by Hà Phương Hoài
TV-VB
viethoaiphuong
#2 Posted : Friday, June 11, 2010 10:44:50 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,342
Points: 11,181

Thanks: 761 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
NHỮNG PHỤ NỮ MỞ NƯỚC

SỬ GIA TRẦN GIA PHỤNG



Người phụ nữ Việt Nam mở nước đầu tiên không ai khác hơn là Hai Bà Trưng. Tiểu sử cũng như sự nghiệp của Hai Ba đã được nói đến nhiều. Có lẽ chỉ cần thêm một ý kiến về Hai Bà hầu như ít được nêu ra. Đó là trong lịch sử thế giới, Hai Bà khởi nghĩa chống ngoại xâm năm 40 sau Công nguyên, là những bậc nữ lưu đầu tiên đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước, trước nữ anh hùng Jeanne d’Arc(1412-1431) của Pháp gần 14 thế kỷ.

Sau Hai Bà Trưng, trong số những phụ nữ mở nước, phải kể đến các Công Chúa Huyền Trân, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa.

1/Công Chúa Huyền Trân.

Vào cuối thế kỷ 13, sau khi cùng liên kết đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ, mối giao hảo giữa Đại Việt và Chiêm Thành (Champa) khá tốt đẹp. Tháng 2 năm Tân Sửu (1301), nước Chiêm Thành gởi sứ giả và phẩm vật sang thăm viếng ngoại giao. Khi đoàn sứ giả Chiêm Thành về nước, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đi theo. Lúc đó, Thượng Hoàng đã xuất gia đi tu, gặp khi rảnh rỗi, ông qua thăm Chiêm Thành, vừa để trả lễ, vừa để du ngoạn, từ tháng 3 đến tháng 11 âm lịch cùng năm.
Vua Chiêm Thành Chế Mân (Jaya Simhavarman IV, trị vì 1287-1307), nguyên là Thái Tử Bổ Đích(Harijit), con đầu của vua Jaya Simhavarman III hay Indravarman XI(trị vì 1257-1287). Thời kháng Nguyên, vua Jaya Simhavarman III đã già, Bổ Đích nắm trọng trách điều khiển việc nước, đã chỉ huy quân Chiêm đẩy lùi lực lượng của Toa Đô(Sogatu)

.

Trong cuộc gặp gỡ với vua Chế Mân, Trần Nhân Tông hứa gả con gái mình là Công Chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Có thể lúc đó Trần Nhân Tông muốn làm cho nền bang giao giữa hai nước Việt Chiêm bền vững qua cuộc hôn nhân này. Lời hứa của Thượng Hoàng Trần Nhân Tông gặp nhiều phản bác về phía triều đình nước ta. Thời đó, quan điểm khắt khe về phân biệt chủng tộc đã khiến cho các quan và cả Trần Anh Tông, vi vua đương triều, ngăn trở cuộc hôn nhân này.

Mãi đến khi Chế Mân quyết định tặng hai châu Ô và Rí (Lý) ở phía Bắc Chiêm Thành làm sính lễ, Trần Anh Tông mới nhận lời và lễ cưới diễn ra năm 1306(Bính Ngọ). Năm 1307 (Đinh Mùi), Trần Anh Tông đổi châu Ô thành Thuận Châu[Thuận=theo, theo lẽ phải], châu Lý thành Hóa Châu[hóa=thay đổi, dạy dỗ]. So với ngày nay, Thuận Châu từ phía nam tỉnh Quảng Trị và phía Bắc tỉnh Thừa Thiên ngày nay; Hóa Châu gồm phần còn lại của tỉnh Thừa Thiên và phía Bắc tỉnh Quảng Nam ngày nay, diện tích tổng cộng vùng đất này khoảng 10,000km2.

Huyền Trân được vua Chế Mân phong tước Hoàng hậu Paramecvari. Đám cưới được hơn một năm, Chế Mân từ trần (1307). Vua Trần Anh Tông thương em, sợ Huyền Trân bị đưa lên giàn hỏa thiêu chết theo chồng trong tục lệ Chiêm Thành(1) nên nhà vua cho tướng Trần Khắc Chung (tức Đỗ Khắc Chung) sang Chiêm lấy cớ viếng tang, rồi lập mưu đưa Huyền Trân và con là Đa Da trở về Đại Việt(2). Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 16 viết về tỉnh Nam Định, sau khi trở về nước, Huyền Trân Công Chúa đã đến tu ở chùa Nộn Sơn, xã Hổ Sơn, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng,tỉnh Nam Định. Sách này không biết chính xác thời điểm công chúa đi tu, nghĩa là công chúa đã đi tu ngay khi về nước hay sau khi đã về già? (3). Số phận Hoàng tử Đa Da không được sử nhắc đến.

Cuộc hôn nhân Huyền Trân và Chế Mân tượng trưng cho sự phát triển một cách hòa thuận về phương nam theo truyền thống sống cùng và để người khác cùng sống của người Việt. Sự hy sinh của Công Chúa Huyền Trân đã được một tác giả vô danh đề cao trong một bài ca Huế theo điệu Nam Bình rất được truyền tụng cho đến ngày nay:

Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi,
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly,
Đắng cay vì, đương độ xuân thì,
Số lao đao hay nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn với chì,
Khúc ly ca cớ sao mà mường tượng Nghê thường!
Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình tha thiết.
Bóng dương hoa quỳ
Nhắn một lời Mân quân, nay chuyện mà như nguyệ,
Đặng vài phân, vì lợi cho dân,
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay trăm phần...(4)

2/Công Chúa Ngọc Vạn.

Vào đầu thế kỷ 17, sau khi Nguyễn Hoàng từ trần năm 1613, con là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên, lúc đó 51 tuổi(tuổi ta), lên kế vị và cầm quyền ở Đàng Trong từ 1613 đến 1635. Theo di mệnh của Nguyễn Hoàng, Sãi Vương quyết xây dựng Đàng Trong thật vững mạnh để chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Do đó, ông giao hảo với các nước Phương Nam để củng cố vị thế của ông.

Phía Nam nước ta là Chiêm Thành và Chân Lạp(tức Cambodia ngày nay). Lúc đó, vua Chân Lạp mới lên ngôi là Chey Chetta(trị vì 1618-1628). Ông này muốn kết thân với Chúa Nguyễn để làm thế đối trọng với vua Xiêm La (Siam tức Thái Lan ngày nay), nên đã cầu hôn với con gái Sãi Vương.

Không có sử sách nào ghi lại diễn tiến đưa đến cuộc hôn nhân này. Có thể vì ngày trước, quan niệm người Chân Lạp là man di, nên các sách sử nhà Nguyễn tránh không ghi lại việc này. Bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, khi ghi chép về các con gái của Sãi Vương, đến mục Ngọc Vạn đã ghi rằng: Khuyết truyện, tức thiếu truyện, nghĩa là không có tiểu sử. Gần đây, bộ gia phả mới ấn hành năm 1995 của gia đình chúa Nguyễn cho biết là vào năm 1620 (Canh Thân) Sãi Vương gả người con gái thứ nhì là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II.(5).

Ba năm sau cuộc hôn nhân của Ngọc Vạn, Sãi Vương cử một sứ bộ sang Chân Lạp xin vua Chey-Chetta II nhượng khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần Bà Rịa ngày nay. Nhờ sự vận động của Hoàng Hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến đó canh tác. Đây là lần đầu tiên người Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long.

Chồng công chúa Ngọc Vạn, vua Chey-Chetta II từ trần năm 1628. Từ đó triều đình Chân Lạp liên tục xảy ra cuộc tranh chấp ngôi báu giữa các hoàng thân. Năm 1658 (Mậu Tuất) hai hoàng thân So và Ang Tan nổi lên đánh vua Chân Lạp lúc bấy giờ là Nặc Ông Chân(trị vì 1642-1659), nhưng thất bại, xin nhờ Thái Hậu Ngọc Vạn giúp đỡ. Thái Hậu Ngọc Vạn chỉ cách cho hai người này cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn lúc bấy giờ là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tân, cháu gọi Thái Hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột, liền cử phó tướng Tôn Thất Yến (hay Nguyễn Phúc Yến), đang đóng ở Phú Yên (dinh Trấn Biên), đem 3,000 quân qua giúp, bắt được Nặc Ông Chân ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay), đưa về giam ở Quảng Bình vì lúc đó nhà chúa đang hành quân ở Quảng Bình. Tại đây, Nặc Ông Chân từ trần năm 1659.(6).

Chúa Nguyễn phong So lên làm vua Chân Lạp tức Ba-tom Reachea (trị vì 1660-1672). Từ đó, nước ta càng ngày càng can thiệp vào công việc của Chân Lạp và đưa người thâm nhập nước này, dần dần tiến đến sinh sống tận mũi Cà Mau như ngày nay.

Như thế, đã hai lần bà Ngọc Vạn đã dẫn đường cho người Việt mở đất về phương Nam. Lần thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620 và lần thứ nhì trong cuộc tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658.

3/Công Chúa Ngọc Khoa

Như đã viết, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên có bốn cô con gái. Hai người lớn nhất và trẻ nhất có chồng Việt. Người thứ nhì là công chúa Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp. Vậy số phận cô công chúa thứ ba tên là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa như thế nào mà trong Đại Nam liệt truyện tiền biên, tiểu truyện của Ngọc Khoa cũng đề là khuyết truyện.
May thay, sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại, đã chép rằng: “Năm Tân Mùi[1631] bà Ngọc Khoa được đức Hy Tông [Sãi Vương] gả cho vua Chiêm Thành là Pôrome. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp.(7)

Vấn đề không đơn giản chỉ là tình giao hảo giữa hai nước, mà lý do cuộc hôn nhân này còn sâu xa hơn nhiều.

Thứ nhất, chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc vừa mới bùng nổ năm Đinh Mão(1627) tại vùng Bố Chính (Quảng Bình ngày nay).

Thứ nhì, năm 1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong (không biết họ) liên kết với người Chiêm Thành nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Sãi Vương liền cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinhm chồng của Công chúa Ngọc Liên, đem quân dẹp yên, và đổi thủ phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.(Sãi Vương rất lo ngại nếu ở phía Nam, Chiêm Thành mở cuộc chiến tranh chống chúa Nguyễn thì ông sẽ lâm vào tình trạng “lưỡng đầu thọ địch”.)

Thứ ba, vào cưới thế kỷ 16, người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao, thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang(9). Do đó, nếu triều đình Chiêm Thành liên kết với người Bồ Đào Nha để chống lại Đại Việt, thì thật là nguy hiểm chẳng những cho chúa Nguyễn và nguy hiểm cho cả nước ta. Điều này làm cho Chúa Nguyễn lo ngại, nhất là khi Porome là một người anh hùng, lên làm vua Chiên Thành(trị vì 1627-1651).(10).

Có thể vì các nguyên nhân trên, Sãi Vương quyết định phải dàn xếp với Chiêm Thành, và đưa đến cuộc hôn nhân hòa hiếu Việt-Chiêm năm 1631 giữa Ngọc Khoa, con của Sãi Vương, với vua Chiêm là Porome, nhằm rút ngòi nổ của phía Chiêm Thành, bảo đảm an ninh mặt Nam.

Các sách Tây Phương ghi nhận rằng không hiểu vì sao, sau năm 1639 thì cuộc giao thương giữa Chiêm Thành và người Bồ Đào Nha không còn được nghe nói đến nữa(11). Phải chăng việc này là hậu quả của chuyện Công Chúa Ngọc Khoa sang làm Hoàng Hậu Chiêm Thành tám năm trước đó(1631)?
Sử sách không ghi lại là bà Ngọc Khoa đã làm những gì ở triều đình Chiêm Thành, chỉ biết rằng truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Poreme trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ.

Trong sách dân tộc Chàm lược sử, hai ông Dohamide và Dorohiem cho biết theo lời của một vị “Pô Thea”, người phụ trách giữ tháp Porome, kể cho tác giả E. Ay-monier câu chuyện rằng vua Porome có ba vợ. Bà vợ đầu là Bia Thanh Chih, con của vị vua tiền nhiệm đã truyền ngôi cho Porome. Bà này không có con. Porome cưới người vợ thứ nhì là một cô gái gốc Ra Đê, tên là Bia Thanh Chanh. Bà này sinh được một công chúa, sau gả cho hoàng thân Phik Chơk. Hoàng Thân Phik Chơk lại “liên kết với vua Yu-ôn[chỉ người Việt] và cho triều đình Huế rõ nhược điểm trong tâm tánh của Porome: sự yếu đuối trước sắc đẹp mỹ nhân. Vua Yuon đã cho một Công chúa thật đẹp giả dạng làm khách thương sang nước Chàm. Do sự sắp xếp khéo léo, tin tức về nữ kháhc thương duyên dáng ngoại bang này đến tai Porome, nên Porome đã cho mời đến và khi vừa thấy mặt thì đã phải lòng ngay. Người Chàm gọi vị công chúa Yuon này là Bia Ut hay Nữ hoàng Ut cũng thế.(12).

Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Porome, khiến ông chặt bỏ cây “kraik”, biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc này sụp đổ(13). Dân chúng Chàm thường truyền tụng câu đố: “Ô hay ngài linh thiêng, rước vợ từ kinh, lim ngài mất ứng”.(Sanak jak po ginroh patrai, tok kamei Ywon mưrai kraik po lihik ginroh). Ngoài ra, người Chàm còn dùng tên bà Bia Ut trong một câu thành ngữ để mỉa mai những phụ nữ béo mập: “Béo như bà Ut” (Limuk you Bia Ut)(14).

Ngoài việc thần linh hóa câu chuyện, truyền thuyết trên đây đã phản ánh một phần sự thật lịch sử, đó là nước Chiêm Thành, một lần nữa suy yếu hẳn đi sau cuộc hôn nhân Việt-Chiêm năm 1631, nhờ đó, người Việt nhanh chóng vượt qua Chiêm Thành, xuống đồng bằng sông Cửu Long.
Như thế, hai công chúa Ngọc Khoa và Ngọc Vạn, tuy không chính thức đem lại đất đai về cho đất nước như công chúa Huyền Trân, nhưng cả hai đều đã mở đường cho cuộc Nam tiến, và quả thật khoảng một thế kỷ sau đó, chúa Nguyễn đã mở rộng biên cương về phía Nam như địa hình nước Việt ngày nay.

Trong lịch sử, những chiến công oanh liệt để bảo vệ đất nước và mở nước ở dạng bùng nổ luôn luôn được ghi nhận đầy đủ, nhưng những cuộc mở nước âm thầm như việc làm của các bậc nữ lưu trên đây ít được chú ý đến. Thi sĩ Pierre Corneille (Pháp, 1606-1684), trong kịch phẩm cổ điển Le Cid, đã viết: “A vaincre sans peril, on triomphe sans gloire” (chiến thắng không gian nguy thì khải hoàn không vinh dự). Tuy nhiên những cuộc mở nước êm đềm, không tốn xương máu của dân tộc, thì chỉ có những bậc nữ lưu can đảm và anh hùng như trên mới có thể thực hiện.

CHÚ THÍCH:

1. Nghi lễ vợ hỏa thiêu theo chồng trong Ấn Giáo gọi là trà tỳ (suttee), còn thịnh hành ở Ấn Độ cho đến khi người Anh cai trị và bãi bỏ vào năm 1829.
2. Đại Việt sử ký toàn thư [chữ nho], Hà Nội: Bản dịch NXB, Khoa Học Xã Hội, 1993, tập 2, tr.91.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất thống chí, bản dịch tập 3 cảu Viện sử học, Huế: NXB Thuận Hóa tái bản, 1997, tr.358.
4. Phạm Văn Sơn, Việt Sử tân biên, Trần Lê Thời đại[Quyển 2] NXB Văn Hữu Á Châu, Sài Gòn, 1959, tt.272-273
5. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc, Nguyễn Phúc tộc thế phả, Huế: NXB Thuận Hóa 1995, tt 113-114, 126.
6. Phan Khoang, “Cuộc tranh giành ảnh hướng ở nước Chân Lạp giữa Tiêm La và các chúa Nguyễn”, đăng trên tập sang Sử Địa, số 14, Sài Gòn: 1969 tr.78. Phan Khoang dựa vào tài liệu của người Pháp viết như trên. Các sách trước đây chép rằng Nặc Ông Chân chịu thần phục nên được Hiền Vương cho đưa về nước tiếp tục cai trị.
7. Thế phả, sđd.tr.126.
8. Trấn Biên: thường được dùng để đặt tên cho những dinh vùng biên giới. Khi biên giới được mở rộng, dinh Trấn Biên xuống đến vùng Biên Hòa ngày nay. Nguyễn Phúc Vinh: tên thật là Mạc Cảnh Vinh, con của Mạc Cảnh Huống, có vợ là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, con gái đầu của Sãi Vương, nên được đổi qua quốc tính là Nguyễn Phúc.
9. Pierre Bernard Lafont ‘On the Relations between Champa and Southeast Asia”, đăng trong sách Proceedings of the Seminar on Champa, gồm những bài thuyết trình trong cuộc hội thảo quốc tế về Chiêm Thành tại đại học Copenhagen (Đan Mạch) ngày 23-5-1987. Sách này nguyên bản bằng Pháp văn, do Hội Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hóa bán Đảo Đông Dương, Paris ấn hành năm 1988, đã được giáo sư Huỳnh Đình Tế dịch sang Anh Văn, ấn hành tại California, NXB. Southeast Asia Community Resource Center (Viết tắt là SACRC) 1994,tr.73
10. Pô Rô Me là một vị vua anh hùng của Chiêm Thành, cai trị khá lâu nước này trong thời gian 24 năm(1627-1651). Với những chiến công hiển hách được tô thêm nhiều chi tiết huyền thoại, Po Ro Me đã được người dân Chàm thần linh hóa…”. (Dohamide và Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn 1965. tr.147)
11. Pierre Bernard Lafont, bđd, sđd, tr.73
12. Dohamide và Doroheim, sđd, tr.149
13. Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa, Sự Thật & Huyền thoại, Hà Nội: NXB Văn Hóa thông tin, 1994, tt.187-196.
14. Inrasara, Văn học dân gian Chàm, tục ngữ-thành ngữ-câu đố, Saigon: NXB Văn Hóa Dân Tộc, 1995, tr.201, 230, [tác giả Insara có tên Việt là Phú Trạm].
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.