Welcome Guest! To enable all features please Login or Register.

Notification

Icon
Error

Huế và Thơ - Ca
viethoaiphuong
#1 Posted : Monday, March 15, 2010 4:00:00 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)


RĂNG TUI THƯƠNG HUẾ

Tui thương Huế là thương ngày mới lớn
Thuở học trò khi tập tễnh làm thơ
Tui nhớ hoài màu kỷ niệm như mơ
Khi giở lại tập ngày xanh lưu bút

Tui nhớ lắm khoảng trời xanh cao vút
Giòng Hương giang phẳng lặng nên thơ
Vài dải mây trời vương nhẹ như tơ
Trong gió thoảng tiếng chuông chiều Thiên Mụ

Tui nhớ mãi buổi chiều nơi Thượng Tứ
Đi bên nhau, hai đứa giữ lặng yên
Ở sân trường O liến thoắng, huyên thuyên
Mà răng hôm nớ cứ dòm xuống đất

Chắc có lẽ tại hương tình ngây ngất
Cho nên tui cũng không nói nên lời
Chừ nhớ về, thương chi lạ O ơi
Rứa nên vẫn quay nhìn về kỷ niệm

Yên Sơn


Huế xưa
http://www.youtube.com/watch?v=cmtW-LDm7gA
viethoaiphuong
#2 Posted : Monday, March 15, 2010 4:19:07 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
Có một xứ Huế trong thơ

Một không gian sông núi hài hoà, một quần thể kiến trúc độc đáo với những cung điện, lâu đài, thành quách, lăng tẩm, chùa chiền đã có hàng trăm năm tồn lại lưu giữ cho hôm nay và muôn sau dấu ấn huy hoàng của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, một vùng đất tao loạn hay thanh bình, tranh chấp hoặc hoà hợp, giao thoa và riêng biệt đều mang những dấu ấn đặc biệt khó quên. Đó là một vùng văn hoá đặc sắc không phải chỉ có những công trình kiến trúc, âm nhạc tiêu biểu đã được công nhận là di sản văn hoá của nhân loại mà còn có cả nền thi ca “rất Huế” nữa



Huế. Dù ở thời nào cũng có nhiều khoảng lặng trầm sâu khơi dậy những cảm hứng và ý tưởng sáng tạo cho các thi nhân. Chỉ mới núi Ngự, sông Hương đã là một niềm thơ vô tận.

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
(Bùi Giáng)


Câu thơ nhẹ và êm như lời thưa của con gái Huế. Đơn sơ như chẳng có gì cả , thế mà sao đọc lên nghe xao xuyến thế. Thi sĩ họ Bùi nói cái điều rất hiển nhiên, cái điều đã tồn tại muôn thuở là 'núi Ngự bên bờ sông Hương' mà ta thấy vẫn hay. Cái hay nhờ hai chữ 'Vẫn còn'; vẫn còn núi Ngự sông Hương là vẫn còn Huế mộng mơ gợi cảm. Hay diễn đạt một cách khác nếu không có núi Ngự sông Hương thì liệu Huế có còn là Huế nữa hay không?

Sông Hương gần gụi và hiện rõ hơn trong thơ Hàn Mặc Tử:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay
(Đây thôn Vỹ Dạ)


Lòng thi sĩ ngổn ngang thương nhớ giai nhân nên cảnh trong thơ cũng hiu hiu buồn. Trên sông Hương gió mây cũng chia rẽ đôi đường, cảnh vật như cứ bị rời ra, sự hội tụ hình như đang còn ở phía trước, đang còn là ước vọng của thi nhân. Cả con thuyền đậu bến sông trăng cũng không cầm chắc có chở được trăng về cho người đợi hay không.

Sông Hương chừ có chờ mong
Răng con thuyền nhỏ ngóng trông bên bờ..?
Rêu phong thành cổ xa mờ
Thinh không bỗng thoảng ơ hờ tiếng chuông
(Xa Huế)


Buồn quá!Tôi đọc thơ về sông Hương, xưa hay nay đều gặp giọng buồn. Hương giang, phận sông là phận gái, đẹp đẽ, mềm mại, dịu dàng mà vẫn đa đoan mỏng manh đầy bất trắc. Cứ như trời đất bắt phải thế, không làm sao thoát được kiếp hồng nhan bạc mệnh.

Áo sánh sóng thương ai
Tà triều Hương tím bãi
Lòng nguồn cơn mưa mãi
Tình động mái buồn đò đẩy sông suông
(Lê Đạt)


dẫu xa cách bóng chim ngàn
lòng xưa sau vẫn nguyện son sắt tình
Huế bây chừ - Huế lặng thinh
em như cánh hạc nội thành sương khuya
(Cánh hạc Nội Thành - Thái Tú Hạp)


Trăng suông. Sông suông. Đều nhạt, lạnh, và buồn cả. Ơ hờ đời sông kiếp nữ. Đến như Tố Hữu, một nhà thơ cách mạng khi viết 'Tiếng hát sông Hương' cũng không thoát khỏi giọng buồn:

Trên dòng Hương giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương giang
Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng


Do vậy chả trách chi Nguyễn Bính khi đến xứ sở núi Ngự sông Hương vào mùa mưa đã phải nao lòng kêu lên:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ?
Mà nhớ mà thương đến thế này!
(Giời mưa ở Huế).


Huế - mưa – buồn, tiếng giọt mưa hay những tiếng tơ lòng thi nhân:

Huế ơi rơi rớt giọt sầu
Chiều ni xa Huế mưa ngâu ngập lòng
(Xa Huế)




Nét buồn của sông Hương, của Huế là nét buồn đẹp. Buồn của tri âm, của nhớ thương, của thế thái nhân tình, của những khát khao và hy vọng. Đó là nỗi lòng sâu thẳm của một vùng đất nhiều biến động thăng trầm, nhiều trầm tích văn hoá mà ta chưa đi đến tận cùng. Buồn. Nỗi buồn bao giờ cũng gần với thơ hơn cả. Nó như là biểu hiện của tâm hồn, của cách sống không nông cạn, nhạt nhẽo và hời hợt. Chính vì thế mà qua sông Hương nhà thơ Thu Bồn đã cảm nhận được một Huế “rất sâu”:

Nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Tạm biệt)


Gắn với sông Hương phẳng lặng là một Huế cổ kính, trầm tư, nhiều u hoài. Phải chăng Huế hay trầm tư, u hoài vì dòng đời luôn chảy trong bóng những luỹ thành của những triều vua đã quá vãng nhưng dấu vết của thời vàng son đó còn hiện hiển giữa bạch nhật thanh thiên. Bây giờ vẫn có cảm giác thế huống hồ là xưa như Vũ Đình Liên đã viết:

Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh
Thuyền đi trong bóng tối luỹ thành xưa
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vẳng tiếng loa mơ
(Lòng ta là những hàng thành quách cũ).


Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống của con - người - Huế bị thụ động, bị khuất chìm trong cái bóng của dĩ vãng, trái lại Huế đẹp sinh động và quyến rũ hơn nhiều nhờ vào những cô gái Huế.

Đây phong vị Thần kinh
Cầu Tràng Tiền mấy nhịp?
Cô gái Huế đa tình
Vành nón nghiêng khép nép
(Thơ Đinh Hùng)


Nón bài thơ, suối tóc thề
Dáng con gái Huế đi về tuổi thơ.
(Áo lụa - Phạm Sỹ Sáu)


Sau này, khi ở xa quê nhà thơ Thanh Tịnh vẫn mang Huế đi theo bằng những hình ảnh kỷ niệm thân thuộc không bao giờ quên được:

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo
(Nhớ Huế quê tôi)


Cũng có nỗi nhớ nhung như vậy, nhà thơ Hải Bằng - một người con của Huế - đã viết:

Thiên Mụ nước ngời rung bóng tháp
Tràng Tiền trắng nhịp trời mai trong
Tịnh Tâm cá móng hồ sen động
Hình ảnh quê hương đã thuộc lòng
(Bức tranh cuối tuần)


Chính cái buồn, cái phẳng lặng, cái sâu lắng đã tạo nên nét riêng cho con người và cảnh vật Huế. Thơ bắt nhịp vào những cái đó của Huế đã tạo ra được nhiều tác phẩm hay khi viết về vùng đất này. Thơ viết về Huế xưa và nay hầu như không có bài nào lên giọng ồn ào mà được người đọc ghi nhớ. Người ta nói về Huế bằng giọng trầm, giọng trung, từ tốn, thong thả mà lắng đọng, diết da kiểu như Nguyễn Trọng Tạo viết trong “Con sông huyền thoại”:

Con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi
đến đây tôi gửi bóng tôi
vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên


Huế là miền thơ. Bởi thế, những gì tôi viết trên đây mới chỉ là chấm phá. Còn nhiều, nhiều bài thơ rất hay cho Huế, của Huế vẫn chưa được nêu ra. Biết làm sao đây, ơi Huế?

Nguyễn Hữu Quý

viethoaiphuong
#3 Posted : Saturday, June 12, 2010 7:06:21 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)

HUẾ của một thời



Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.
Trong giọng nói, có một cái gì đó gọi là rất Huế, đối với Quảng Nam-Ðà Nẵng, cách nhau một ngọn đèo thì có khác, cũng là điều đương nhiên, nhưng với Quảng Trị, cách mấy mươi cây số đường đồng bằng, giọng Huế không lẫn vào đâu được. Dạ, dạ thưa tiếng nói nhỏ nhẹ dịu dàng.

Vì phải sống trong một hoàn cảnh đặc biệt nên phải kềm giữ sự yên tĩnh, nho nhã theo cung cách quý tộc, quan liêu hay bình dân thôn giã cũng phải nhu mì, gia giáo. Theo các nhà nghiên cứu về thổ âm thì cho rằng, “Ở nơi nước trong thì tiếng nhỏ, ở nơi nước đục thì tiếng tho.ạ” Ðiều rất Huế trong giọng nói này, lâu hóa thành thói quen, được xem là một phong thái lịch sự đặc bi t không đâu có. Làm sao người ta quên được cái tiếng dạ lạ kỳ của người con gái Huế, dạ để khỏa lấp, dạ để từ chối, dạ để đồng ý hay dạ có nghĩa là không gì hết. Làm sao anh chàng trong Quảng ra thi có thể hiểu hay chịu đựng nổi một lối trả lời vô thưởng vô phạt, nhưng nhỏ nhẹ, không thể trách vào đâu của một người con gái Huế mà anh ta muốn làm quen.

-Em tên chi? Dạ!
-Nhà em ở đâu? Dạ!
-Tôi có thể làm quen với em được không? Dạ!

Phải chăng ở nhà trước khi đi Mạ đã dặn không ăn trầu người, đừng để người lân la, trước ngoài sân sau lần vô bếp, tốt hơn hết là cứ dạ cho nhỏ nhẹ, cho lễ phép, cho tới khi mô hết dạ nổi thì thôi. E lệ, khép nép là những đặc tính của người con gái Huế mỗi khi nàng gặp khách lạ như thi sĩ Ðinh Hùng đã ghi lại, “Cô gái Huế đa tình, vành nón nghiêng khép nép.”

Người con gái Huế gặp người lạ, tay thì níu vành nón, sẵn sàng làm mạng che, tay thì quấn tà áo, vừa phòng thủ, vừa tránh những làn gió vô duyên quái ác. Cái thời áo trắng quần trắng đã làm cho bao nhiêu chàng trai phải xốn xang r5ng rời trước cái mờ mờ ảo ảo, nửa che mà nửa không của cái sương khói mờ nhân ảnh đó. Bạn cũng biết là nữ sinh Huế không bao giờ mặc quần đen, cái màu không tinh khiết, tội lỗi đó, có gì thì cũng phải che đậy, ngụy trang cho tới cùng.

Tính cách Huế thường là che dấu hay tự chế những cái phàm tục, bao gồm cả trong cách nói năng, ăn mặc, ứng xử. Khách đến nhà, thì gia chủ hay con cái trong nhà, phải quấn lại mái tóc, mặc vội chiếc áo dài, mới dám bước giáp mặt khách, dù thân hay sơ.

Tội nghiệp cho những người con gái Huế phải sinh ra trong những hoàn cảnh bần hàn, với một hai chiếc áo mà phải thay đổi luôn luôn, cứ bước ra khỏi cổng nhà là phải lên áo dài, bất kể đi đâu. Ngày nay phải chăng sự thanh lịch đó còn lại nơi chiếc áo dài, dù là chiếc áo dài cũ, bạc màu, vá víu của người con gái gánh một mớ bông thọ ra chợ, hay nơi bà bán đậu hũ trên vĩa hè, dù chân thì đi đất, miệng còn bập bập điếu thuốc Cẩm Lệ sâu kèn.

Cái ăn, cái ngủ là cái rất riêng tư của người Huế, nhiều khi phải giấu giếm đến mức sợ sệt, chớ có đột nhập nhà người ta vào cái thời điểm ấy. Cái nghèo muốn giấu đã đành, cái sang trọng, người Huế cũng không muốn cho ai biết. Cũng có khi cái nghèo mà nghèo kiểu cách, nghèo cái kiểu mệ chém củ khoai, buổi sáng trên chiếc mâm đồng chỉ có mấy chén cháo trắng thì gọi là “thời” cháo hoa.

Cái ăn không còn là cái khoái trá có thể hả hê trưng bày ra ngoài mà hình như phải giấu kín đi mới gọi là người nho nhã. Cơm đường, cháo chợ, cách đây vài mươi năm, trong xã hội Huế còn được xem là thứ tầm thường, hèn hạ. Bạn có biết là ngồi quán cà phê cụ Phấn là một sự cách mạng lớn trong xã hội Huế vào những thập niên năm mươi không? Ðến như khi cái xe nước mía từ Saigon du nhập ra Huế quả là đã thay đổi nhiều lắm. Ngay cả vào những năm 1950, Huế cũng chưa bao giờ có cái cảnh ăn đứng góc đường như chúng ta thB 0ờng thấy ở khu Pasteur-Lê Lợi Saigon.

Dân Huế ngày xưa thời phong kiến là vua chúa, quan lại, viên chức triều đình, binh lính và thư sinh, một thời sau đó là quân nhân, công chức và học sinh, sinh viên, không thấy có mấy ngành nghề công nghệ hay thương mãi, con buôn hình như không được trọng vọng mấy trong xã hội nho nhỏ này, cái lối xếp hạng sĩ nông công thương. Các ngành tiểu công nghiệp như chằm nón, đóng khăn, đóng giày, dệt lụa có khi được tuyển chọn từ các địa phương trong cả nước về kinh đô để phục vụ cho giới vua quan, sau đó ra cả cho thứ dân, nhưng không thấy có cơ hội phát triển ra rộng lớn.

Một nơi không có kỹ nghệ, không có nhà máy, không vận dụng nhiều đến cơ khí, thì cũng là một nơi yên tĩnh, nhịp sống lặng lẽ, chậm chạp. Thành phố mang một vẻ cổ kính hiền hòa, và không khỏi đượm một vẻ nghèo khó. Cũng như những thành phố cổ xưa, nhỏ bé khác, Huế như trong một chòm xóm nhỏ mà người dân hầu hết đều biết nhau, và vì sự giao thông hạn chế, chỉ có một chiều ngang theo quốc lộ, một mặt thì ngăn bởi biển, một mặt thì chặn bởi núi, ở đó thành kiến còn nặng nề, cố chấp, ít chấp nhận được cái mới lạ, tân thời. Khoảng năm 1948-49, khi mệ Sen (con vua Thành Thái), một người đàn bà Huế, lần đầu tiên dám lái một chiếc xe hơi Simca Aronde, thì cả thành phố coi đó là một hiện tư ợng dị thường.

Ðến với Huế, người ta như đi trở ngược lại dòng thời gian, ở đây, quá khứ bao trùm lên tất cả. Ở đâu cũng thấy những dấu vết nhắc ta nhớ tới những ngày tháng đã qua. Cung đình, bia mộ, lăng miếu thời Thăng Long hiện hữu trong gần tám thế kỷ, nhưng đã cách xa ta chừng hai thế kỷ, một phần đã mai một theo thời gian. Kinh đô Thuận Hóa thì vẫn còn đây với những di tích, đền đài, lăng tẩm, với những ngàn thông reo, với những bờ tre xanh mướt bên dòng sông Hương lặng lẽ. Những người đã khuất mà hình như linh hồn còn ở đâu đây, phảng phất bóng tinh kỳ hay tiếng trống chiêng, bát nhã, sênh phách cầm ca. Nơi đây, những dấu ấn cB Ba lịch sử còn ẩn hiện trên mỗi bờ thành, góc phố, nơi tấm bia mộ hay trên những lăng tẩm. Nơi đây là dĩ vãng, là tháng ngày qua, người ta về đây là để hồi tưởng, để nhớ nhung. Ở đâu cũng đượm một vẻ buồn, mà người ra đi thường ray rứt muốn có một ngày trở lại. Quê hương là cái gì mà người ta nặng lòng với nó như thế tôi thấy ở đây sao buồn quá! (Ðinh Anh Dũng trong Nhớ Huế).

Quá khứ của Huế được ghi nhận nhiều nhất qua những công trình lăng tẩm mà các vua nhà Nguyễn trước khi băng hà đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ kiểu cách và xứng đáng của một bậc đế vương, từ địa thế, khung cảnh tĩnh mịch đến các kiến20trúc lộng lẫy. Nơi nào cũng là núi rừng bao la, có đại thụ, có hồ sen cùng với tiếng chim, tiếng suối, tiếng thông reo đem lại cái cảm giác dịu dàng thơ mộng và yên tĩnh cho tâm hồn con người.

Huế không những là vùng đất của quá khứ, mà Huế còn như bao phủ bởi những linh hồn quá vãng, là của hương trầm, là của chuông mõ luôn luôn nhắc nhở tới sự hiện diện của những linh hồn oan khuất. Ðó là những linh hồn chưa siêu thoát trong một bề dày của Huế tang tóc, chết chóc, tức tưởi, của những ngày thất thủ kinh đô, khi giặc Pháp tấn công Huế năm 1885, lúc voi ngựa cùng người dày xéo lên nhau thoát ra bốn cổng thành, của giặc giã thanh toán hận thù nhau qua thời đại t=E 1 nguyệt tam vương của Tường-Thuyết, của hàng ngàn cái chết oan khuất giữa ngày Tết Mậu Thân mà máu xương rải rác từ đồng bằng Phú Thứ cho đến khe sâu Ðá Mài, của thây chất thây trên bờ biển Thuận An dưới cơn mưa pháo 75, của hàng trăm thân xác cuốn theo dòng nước lũ của mùa Thu năm Kỷ Mão. Có chỗ nào âm u, sầu thảm hơn Huế với những địa danh Ngã Tư Âm Hồn, Miễu Âm Hồn, cồn chém An Hòa, Mả Ông Trạng hay cả đến cái quán cơm có cái tên ma quái không đâu có là quán cơm Âm Phủ.

Ban đêm, Huế có chỗ nào là không có lập lòe nén hương, xuýt xoa khấn vái, cầu nguyện. Sau tang tóc Mậu Thân, hãy về Huế mà nghe, nửa đêm về sáng, láng giềng, hàng x m vang dậy chuông mõ và tiếng tụng kinh cầu nguyện cho những người đã mất sớm được siêu thăng. Huế là nơi đã trải qua nhiều biến cố đau thương, Huế đã than khóc với những tang tóc và oan khuất sẽ không bao giờ phai lạt. Nơi mỗi khu vườn của Huế đều có mỗi am thờ cho những người khuất mặt, với hoa quả, một cành hoa phượng và một ngọn đèo leo lét. Linh hồn những người khuất mặt hình như vẫn còn lẩn khuất đâu đây.

Ngày xưa mỗi năm vào ngày hai mươi ba Tháng Tư Âm lịch, để ghi nhớ ngày thất thủ kinh đô trong lịch sử, khắp nơi, nhất là ở vùng chợ Ðông Ba, người ta đã dựng trai đàn, chẩn tế suốt một tuần lễ theo nghi thức Phật Giáo đ3 cầu siêu cho những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát. Cũng như ngày lễ Vu Lan ở Huế có phần trọng đại hơn với những nghi lễ cúng cô hồn các đảng thập phương, phóng sanh, phóng đăng để hồi hướng công đức cho tất cả những người đã mất. Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.

Nói đến Huế, chúng ta liên tưởng đến những cảnh chùa chiền. Không đâu trên đất nước, trong một vùng đất nhỏ hẹp mươi chục cây số vuông, mà có tới trên một trăm cảnh chùa. Ðược cơ duyên như vậy là do từ gần bốn trăm năm trước. Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Ðế, tên húy Nguy ễn Hoàng trong khi vào Nam tìm Hoành Sơn nhất đái để dung thân, đã hạnh ngộ với một bà tiên (hay bụt) trong giấc mơ, chọn đất Hà Khê (Kim Long) để dựng chùa Thiên Mụ. Cho tới những đời vua sau, chùa chẳng những được trùng tu và xây dựng thêm (tháp Phước Duyên xây năm 1844 dưới thời vua Thiệu Trị) mà khắp đất thần kinh, chùa chiền được xây dựng thêm rất nhiều, khiến bây giờ Huế có những cảnh chùa rất đẹp, xét về mặt nguy nga tráng lệ, không thể so với lăng tẩm, nhưng không thiếu khung cảnh u tịch, nên thơ. Báo Quốc, Từ Ðàm, Diệu Ðế, Thuyền Tôn, Tường Vân và nhất là Linh Mụ, là những ngôi chùa đã ghi nhiều kỷ niệm trong lòng dân đất Thuận Hóa, Phú Xuân. Và trong tuổi ấu thơ của mỗi người Huế, ai không ghi dấu lại kỷ niệm của một=2 0ngày lên chùa?

Nhớ Huế làm sao khỏi nhớ đến những khu vườn. Vườn là khoảng không gian của thời thơ ấu của mỗi chúng ta, là bóng mát thời trẻ dại, là những nỗi hẹn hò, là những thứ trái cây ngọt ngào hay chua chát mà vẫn mang đầy hương vị của thời mới lớn. Những cây mít, những hàng ổi, những gốc thơm, những chùm khế. Nào nhãn lồng, nào vải trạng, nào là dâu. Có khi là bồ quân, có khi là lựu, có khi là đào. Tuổi ấu thơ và nhất là thời mới lớn, tuổi dậy thì, lòng ai không khỏi ngát hương hoa, trong một khu vườn tĩnh mịch nào đó, với nỗi lòng rung động thuở ban đầu còn trong suốt và đơn giản như những giọt sương mai.

Vườn của những vương phủ với giả sơn, hồ sen, thủy tạ, với những bức bình phong, tường ngăn trang trí bởi những mảnh sứ vỡ làm thành hình Long Lân Quy Phụng hay Mai Lan Cúc Trúc.

Những khu vườn đó đây ở Vĩ Dạ, ở Kim Long, ở Gia Hội, ở Ngự Viên, ở An Cựu là những khu vườn đã mang bao nhiêu lời thơ ý nhạc, mang bao nhiêu tình yêu thuở thiếu thời, là nơi của hẹn hò, mong đợi, thương nhớ

Có phải ngày xưa vườn Ngự Uyển
Là đây ho a cỏ giống vườn tiên
Gót sen nhẹ bước lầu Tôn Nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên
(Nguyễn Bính)

Vườn Huế ngày Hè còn rộn tiến ve, nhắc nhở tới mùa thi cũng là mùa chia cách. Giữa những buổi trưa yên lặng mùa Hè, một tiếng ve cất lên khởi đầu, rồi muôn ngàn tiếng ve vùng lên phụ họa, tạo nên một khúc hòa tấu, âm thanh lan ra từng vùng rộng lớn. Cùng với hoa phượng nở trên những con đường xứ HuA, tiếng ve đã mang mùa Hè đến bao nhiêu lần trong quãng đời học trò, ghi lại bao nhiêu mối tình, bao nhiêu sum họp và chia ly.

Nhà ở Huế thường làm sâu vào giữa vườn, từ cổng vào nhà có khi phải qua một hàng rào bông cẩn (dâm bụt) hay chè tàu, thỉnh thoảng rắc bởi những sợi dây tơ hồng màu vàng rực. Cậu học trò mới lớn, còn rụt rè, nhút nhát muốn làm quen với cô bé trong nhà làm sao có đủ cam đảm để vượt qua cái con ngỏ dài hun hút đó, hay những đêm trăng, đành thơ thẩn qua lại nơi ngỏ ấy mà ôm mối tình si. Hương trong vườn Huế, có khi là hương bưởi, có khi là hương dạ lý, có khi là hương sói, hương lài, hương mộc lan, cũng có khi là hương sầu 1ông thơm ngát một khung trời thời trẻ dại. Và đêm vườn Huế làm sao có thể thiếu trăng. Trăng lặng lẽ soi những bóng cây trong vườn, trăng lên trên đọt cau, trăng ướt trên ngọn dừa. Và trăng trên sông Hương, trăng trên màu sáng bạc của cầu Trường Tiền, trăng trên mái thuyền, trăng vỡ dưới mái cheo và ánh trăng rung động theo âm thanh của những tiếng hò đêm trên sông.

Huế với những dòng sông chảy ngang dọc tạo cho Huế một vẻ đẹp tươi mát dịu dàng. Huế có con sông Hương lượn lờ qua Lăng Gia Long, Minh Mạng, qua Ðiện Hòn Chén, qua Văn Thánh, Linh Mụ, Kim Long, về Vỹ Dạ, Cồn Hến, Tây Thượng trước khi tới Thuận An. Huế có con sông đào xinh xắn từ cầu ngói Thanh Toàn, qua An CBu về Bạch Hổ nắng đục mưa trong, với con sông từ Gia Hội, ngang qua chùa Diệu Ðế qua Ðông Ba tạo nên cái cảnh “Ðông Ba, Gia Hội hai cầu, ngó vô Diệu Ðế bốn lầu hai chuông,” với con sông đào từ cầu Bạch Hổ, qua Phú Xuân, tới An Hòa. Tất cả dòng sông đó đã ôm ấp Huế, chảy qua những khu nhà vườn, những bậc tam cấp của những khu vườn ven sông, mang những tiếng cười trong trẻo của ai ngày đó vang qua tới bờ sông bên kia. Với những dòng sông như thế, Huế có những con thuyền bềnh bồng trên bến nước, những ngọn đèn hiu hắt bên sông và cả những câu hò vang vọng, mang mang theo sóng nước đi rất xa, và cả với những mối tình chia cắt của ngày nào khi mà “thuyền về Ðại Lược, duyên ngược Kim Long.”

Nhưng cùng theo với những dòng sông đó, mỗi năm cơn bão lụt đã gieo tai họa thảm khốc xuống Huế. Nghèo đói, tai ương hầu như triền miên trên mảnh đất miền Trung cằn cỗi, nhưng Huế chính là tâm điểm của hiểm họa thiên tai. Có nơi nào chịu nhiều nỗi bất hạnh, thống khổ như Huế. Những xác người trôi ra biển cùng với những mái tranh nghèo theo những cơn nước lũ, cơn đói đổ ập lên cả một vùng đất cằn cỗi trong nhiều ngày tháng. Có nơi nào chịu những cảnh chết chất chồng dày xéo, có nơi nào chịu cảnh chết thảm khốc trong những mồ tập thể như Huế.

Huế như một người con gái tài hoa mà bất hạnh. Huế là “nơi đi để mà nhớ, không phải ở để mà thương.” Người xa Huế như xa một mối tình không trọn vẹn, nhưng xa rồi, thương nhớ xót xa biết bao nhiêu. Huế là nỗi ám ảnh không rời, Huế là nơi gợi cho chúng ta những giấc mơ xưa không bao giờ thành, là nơi chúng ta thường mong ngày trở lại nhưng không bao giờ đúng hẹn. Chúng ta khó tìm lại những gì của Huế trong thời thơ ấu của chúng ta, như không thể “tắm hai lần trong một dòng sông,” như không thể tìm lại mùi vị của một món ăn ngày trước, hương thơm dịu dàng của một đêm trăng sáng trong vườn xưa, và một mối tình xa xôi đã mờ nhạt.

Huy Phương


viethoaiphuong
#4 Posted : Friday, July 23, 2010 8:37:28 PM(UTC)
viethoaiphuong

Rank: Advanced Member

Groups: Registered
Joined: 6/24/2012(UTC)
Posts: 9,291
Points: 11,028

Thanks: 758 times
Was thanked: 136 time(s) in 135 post(s)
LỤC BÁT MÓN HUẾ

CƠM HẾN

Đã nghe ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành...
Mời anh buổi sáng chân thành món quê

BÁNH BÈO

Tôm chấy hồng thắm cánh bèo
Dẻo thơm bột gạo quê nghèo nên thương
Hẹn em ngồi quán ven đường
Bánh bèo kết mối tơ duyên đôi lòng

BÁNH NẬM

Mảnh mai xanh sắc lá dong
Mềm mại bánh nậm ấm trong tay người
Nhụy hồng bột trắng tươi mươi
Xuýt xoa nước mắm ngọt lời tỉ tê

BÁNH BỘT LỌC

Bột trong bọc thịt tôm hồng
Lá xanh em gói ươm nồng hương yêu
Bánh ngon nước mắm cay nhiều
Mời anh bữa lỡ ban chiều cùng em

BÁNH PHU THÊ

Lá dừa ôm bột lọc trong
Ngọt ngào thơm nhụy đậu xanh ửng vàng
Phu thê vui chuyện xóm làng
Mừng nhau tác hợp thiếp chàng hòa duyên

BÁNH RAM ÍT

Này em ăn ngậm mà nghe
Ram vàng ít dẻo càng mê vị tình
Mới hay đặc sản Huế mình
Sắc hương dân dã cung đình tìm nhau

MÈ XỮNG

Thơm tho mềm dẻo ngọt ngào
Mè vàng bột nhuyễn ôi chao! Tuyệt vời!
Món quà xứ Huế em ơi
Kẹo ngon mẽ xững tặng người tình chung

TÔM CHUA

Nguyên là đặc sản Gò Công
Theo bà Từ Dũ ra cùng Hương Giang
Tôm hồng, ớt đỏ, riềng vàng...
Vị chua thấm lưỡi nhớ hàng thịt phay (thịt heo luộc)

NEM HUẾ

Mời em khai vị món nem
Em nem anh chả tình thêm mặn mà
Nem thơm, chua, ngọt đậm đà
Nhờ ai quết nhuyễn thịt thà đêm đêm

CHẢ HUẾ

Mời anh thử miếng chả này
Nâng ly hào sảng hương say tận lòng
Cung đình chả phượng nem công
Đôi ta nem chả vốn dòng dân gian

CHÈ HẠT SEN

Hạt sen vừa bổ vừa thanh
Tan trên đầu lưỡi ngọt lành hương xưa
Chè sen mời gọi người thơ
Mát lòng du khách ngẩn ngơ bạn tình

CHÈ BỘT LỌC BỌC THỊT QUAY

Ngọt ngào bùi béo tìm nhau
Thịt quay nằm giữa trắng phau bột mềm
Quen nhau tình đã nên duyên
Chè ngon xứ Huế ngỡ quên đường về

CHÈ ĐẬU NGỰ

Thức ngon xưa tiến quân vương
Tinh hoa trời đất đượm hương kinh thành
Chè đậu ngự mát và thanh
Đêm, dâng chén ngọc an lành châu thân

S/T trên Net
Users browsing this topic
Guest
Forum Jump  
You cannot post new topics in this forum.
You cannot reply to topics in this forum.
You cannot delete your posts in this forum.
You cannot edit your posts in this forum.
You cannot create polls in this forum.
You cannot vote in polls in this forum.